2| Giới thiệu Hilarion

Hilarion hiện thân là Saul thành Tarsus sau này được biết đến là Saint Paul. Con hãy xét đến khía cạnh tâm lý của kiếp hiện thân đó. Con thấy là Saul tin chắc là Giê-su là giả và Saul tích cực bắt bớ các tín đồ Cơ đốc. Điều gì đưa đến tình trạng này? Đó là tâm con người có khả năng tạo ra hình ảnh của sự thật mang tính sùng bái và kết quả là nó tạo một phin lọc bao chung quanh tâm của nó. Khi con nhìn đời hay nhìn một vấn đề đặc thù xuyên qua phin lọc, tất cả mọi thứ con thấy đều bị phin lọc pha màu. Con tin chắc là phiên bản sự thật do chính con tạo ra là chân lý duy nhất  và chân lý duy nhất đúng. Con đã dựng mình thành một “thượng đế” nghĩ rằng mình biết cái tốt và xấu vì “thượng đế” đó nghĩ tốt xấu chắc chắn được quy định bởi phin lọc nhận thức của chính nó.

Con xét tiếp tới truyện Saul đi trên con đường dẫn tới Damascus và ông gặp Ki-tô Hằng Sống làm mắt Saul lòa vì ánh sáng nhưng cũng làm “vẩy” trên mắt ông rơi xuống. Chữ “vẩy” (scales) có thể là lớp phủ ngoài thân như vẩy cá nhưng từ này trong anh ngữ cũng có thể là biểu tượng cho hai mâm của cái cân dùng để cân đo mọi thứ theo một tiêu chuẩn nhị nguyên. Khi Saul nhìn nhận là ánh sáng của Ki-tô đến từ một nguồn vượt lên trên phin lọc nhận thức của ông, ông bị mù một thời gian. Cuối cùng ông phục hồi được tầm nhìn không còn bị phân rẽ bởi đối cực nhị nguyên. Sau khi dành một thời gian dài thanh tẩy chính mình ở sa mạc, ông có thể ra ngoài đời và giảng dạy chân lý không phân chia của Ki-tô.

Ý nghĩa ở đây tất nhiên là vì Hilarion đã trải qua quá trình này, ông là người đặc biệt thích hợp để giúp người khác đi qua sự chuyển hóa là yếu tố chính của các sáng ngộ của Tia thứ Năm, là sáng ngộ thấy vượt quá thế giới quan nhị nguyên và nắm bất, trải nghiệm chân lý không thể phân chia của tâm Ki-tô. Các chân lý nhị nguyên thì rất nhiều nhưng chỉ có một chân lý của Ki-tô. Chỉ khi nào con trải nghiệm trực tiếp chân lý một này, sẵn lòng bị lòa mắt bởi ánh sáng của nó, con mới có được một khung tham chiếu để gỡ mình ra khỏi phin lọc nhị nguyên mà con đã tạo ra. Phin lọc này trông thật tuyệt đối khi nhìn từ bên trong, nghĩa là tính không thực của nó chỉ phơi bày ra được khi con đứng ở ngoài để nhìn vào phin lọc đó.

Khi con nhìn vào thế giới ngày nay, con thấy nhiều người đã từ bỏ tôn giáo và theo thuyết bất khả tri (agnostic) hay trở nên vô thần. Nhều người trong họ thật sự đã trải qua một giai đoạn rất cần thiết trên con đường tâm linh. Các tôn giáo vỏ ngoài cho con một sự “chắc chắn” là con đúng và con sẽ được cứu rỗi vì tôn giáo cho con một sự thật tuyệt đối. Giờ đây con có thể tăng triển vượt quá giai đoạn đó chỉ khi nào con sẵn sàng trải qua một giai đoạn nghi ngờ tất cả mọi thứ cho tới khi con nhận ra rằng trong thế gian này không có chân lý tuyệt đối. Chân lý có thể tìm thấy vượt quá thế gian này trong một trải nghiệm trực tiếp vượt quá ngôn từ và trí năng.

Khi con tới giai đoạn sẵn sàng nhìn nhận con không biết thì con có thể có lợi lạc khi tham dự các khóa của Hilarion nơi Đền Chân lý tại Crete. Lúc đầu, con sẽ tham dự những buổi hội họp và thấy thày xuất hiện trên sân khấu với những dòng sống là đệ tử của thày hay những thày khác với những khả năng nào đó. Họ thảo luận hay đóng kịch theo nhiều kịch bản để giúp cử tọa tìm hiểu những khía cạnh khác nhau của tâm thức nhị nguyên, gần giống như những bi kịch hay hài kịch Hy lạp.

Khi con bắt đầu tiến lên để nhận những sáng ngộ do Hilarion dạy, con sẽ bắt đầu tham dự những buổi họp ít người hơn và con sẽ có cơ hội thảo luận trực tiếp với thày. Hilarion lão luyện trong việc làm cho trí con người và tâm thuần lý bị bối rối. Nếu con sẵn lòng, thày sẽ dẫn dắt con từ từ để thấy ra giới hạn của trí năng và tâm thuần lý cho tới khi con nhận ra một chân lý sâu sắc.

Phin lọc nhận thức của con được tạo ra bởi trí năng và tâm thuần lý. Các học viên tâm linh trải qua một giai đoạn nghĩ rằng đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn chỉ là vấn đề dùng tâm thuần lý để hiểu những ý tưởng tâm linh và giải quyết một vấn đề, một câu đố hay một bí ẩn. Khi con tới gần mức ra trường tại khóa nhập thất của Tia thứ Năm, con cần nhận ra là những vấn đề do trí năng quy định không có giải đáp từ tâm con người hay từ tâm Ki-tô.

Đối với những học viên chưa hoàn toàn từ bỏ giấc mơ được sự chắc chắn, đây có thể là một thất vọng lớn và họ còn có thể chối bỏ điều đó nữa. Thực tế là tâm Ki-tô không có câu trả lời cho những câu hỏi nhị nguyên, không có giải pháp cho các vấn đề nhị nguyên. Không có câu trả lời và không có giải pháp cho những vấn đề không có thực chất. Điều mà tâm Ki-tô cho con là một khung tham chiếu đem lại cho con sức mạnh để gia tốc chính mình, để gia tốc viễn kiến của con vượt quá phin lọc nhị nguyên. Một khi con thấy qua viễn kiến rõ ràng, con thấy là các vấn đề không cần phải giải quyết, đơn giản là chúng cần bị bỏ lại đằng sau trong khi con tiếp tục thăng vượt chính mình trên con đường thẳng và hẹp, con đường không thể phân chia của Ki-tô.

Hilarion tìm được niềm vui lớn khi thấy một học viên đạt tới mức buông bỏ mọi cố gắng muốn giải quyết những vấn đề không có thực chất và thay vào đó hướng tới Hilarion để xin thày giúp học viên thấy được thực tại của Ki-tô, ngược lại với cái mà tâm nhị nguyên định nghĩa là “thực tại” của Ki-tô. Con sẽ không bao giờ thấy một cái nhìn chấp nhận con vui hơn, thành thật hơn khi Hilarion nhìn con với viễn kiến tinh khôi của thày và với một cử chỉ ưu ái, thày cho con biết là thày khen ngợi sự phát triển của con và thày vui vẻ gửi con tới Tia thứ Sáu và nữ Chân sư Nada.