11 | Hợp nhất là nguồn suối an lạc

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, bây giờ chúng ta đã đến điểm trọng yếu trong loạt bài giảng này từ tim thày đến tim con. Điểm này trọng yếu vì trừ khi con thấm nhuần và chấp nhận trọn vẹn những gì thày sắp sửa nó với con, thì nỗ lực của thày để giúp con đón nhận sự sống dồi dào sẽ thất bại. Thay vì bước theo chân thày vào một cuộc đời sung mãn, con sẽ đi theo – hay tiếp tục đi theo – các đạo sư giả vào một cuộc đời thiếu thốn chật vật.

11.1. Tâm thức nhị nguyên là một mê cung

Cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên và, từng bước một, nó càng ngày càng bị bao trùm trong tâm thái đó cho đến khi con đánh mất sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con và con rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ngay lúc con tuột mất sợi dây liên lạc thì cái ta hữu diệt của con ra đời. Cái ta hữu diệt này hình thành kẻ thù bên trong làm việc đồng hành với kẻ thù bên ngoài, tức các thế lực phản Ki-tô, để cố giam con lại mãi mãi trong tâm thức nhị nguyên. Chúng sẽ làm chuyện này bằng đủ mọi cách, và thày đã phác họa một số chiến lược chúng sử dụng để giữ con trong bẫy. Bây giờ thày sẽ trình bày cho con chiến lược cơ bản, chiến lược chỉ đạo, được các thế lực nhị nguyên sử dụng để giữ con trong cái hộp tư duy đó. Và để hiểu chiển lược này cũng như cách nó được dùng để chống lại con, con cần hiểu đặc tính cốt yếu của cái ta hữu diệt.

Cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con. Cái Ta Biết là người lấy quyết định. Cái Ta Biết có khả năng lấy những quyết định thuận hợp với định luật và ý muốn của Thượng đế, hay những quyết định không thẳng hàng với định luật và ý muốn của Thượng đế. Mọi chuyện trong đời con đều xoay quanh cái Ta Biết và các quyết định con lấy. Bất cứ lúc nào cái Ta Biết cũng là những gì nó thấy nó là. Cái Ta Biết lấy quyết định dựa trên ý niệm bản sắc hiện thời của nó, hiểu biết và hệ thống tin tưởng hiện thời của nó. Cái Ta Biết đã được tạo ra như một nối dài của sự nhận biết thuần khiết của Thượng đế. Nó mang sẵn ý muốn được là một phần của Dòng sông sự Sống, tuôn chày với tạo vật của cái Tất cả của Thượng đế và trở thành hơn nữa. Cái Ta Biết luôn luôn muốn làm việc phải. Nó luôn luôn cố chọn phương án nào phù hợp với mục đích nó đang hiện hữu, nâng cao cuộc sống của nó lẫn tạo vật của cái Tất cả – theo cách nó hiện đang hiểu bản sắc và sự nối kết của nó với cái Tất cả.

Cái Ta Biết luôn luôn chọn phương án mà nó xem là tốt nhất cho nó và tốt nhất cho tổng thể. Vấn đề là nếu nó bắt đầu tự đồng hóa với tâm nhị nguyên, nó không thể thấy được cái gì sau cùng sẽ tốt nhất cho nó và cho Tất cả. Thay vào đó, các chọn lựa duy nhất mà nó nhìn thấy là những chọn lựa dựa trên tâm thức nhị nguyên. Cho dù nó lấy chọn lựa nào đi nữa, nó cũng bị bao trùm nhiều hơn trong tâm thức nhị nguyên. Một khi nó vượt quá điểm tới hạn, đánh mất sợi dây liên lạc với Hiện diện TA LÀ, nó không thể nhìn ra lối thoát được nữa khỏi một tình trạng mà giờ đây có vẻ là một mê cung nơi mọi chọn lựa đều dẫn vào ngõ cụt. Con hãy tưởng tượng một mê cung được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới, làm bằng những hàng cây cao. Tưởng tượng con đứng trên một bục cao nhìn xuống một mê cung như vậy với bao người đang cố tìm đường thoát ra khỏi mê cung. Khi con nhìn từ trên cao, thật quá dễ nhận ra đường nào dẫn vào ngõ cụt, đường nào đưa ra khỏi mê cung. Bây giờ hãy tưởng tượng con đổi nhãn quan, con ở ngay trong mê cung và tất cả những gì con nhìn thấy là những bức tường xanh bao quanh con. Bỗng nhiên, việc biết được đường nào dẫn đến ngõ cụt hay lối ra trở thành chuyện bất khả. Đây chính xác là sự khác biệt giữa việc con còn một chút tâm thức Ki-tô, một nối kết nào đó với Hiện diện TA LÀ của mình, với việc con hoàn toàn kẹt cứng trong tâm thức nhị nguyên.  

Cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian biết là cái Ta Biết không ngu ngốc và muốn làm điều phải. Vậy làm thế nào chúng có thể khiến con làm điều gì khởi lên từ tâm thức nhị nguyên và do đó sẽ gây hại cho con? Chúng chỉ có thể làm được bằng cách khiến cái Ta Biết bị bối rối trong một hệ thống tin tưởng tương đối, nhị nguyên, che mờ thực tế là một số hành động có thể làm hại con. Trong thế giới nhị nguyên, tất cả mọi thứ đều tương đối và cái ta hữu diệt luôn luôn có thể biện minh cho những việc nó muốn làm. Khi con nhìn cuộc sống xuyên qua phin lọc nhị nguyên này, con không thể thấy là bất cứ gì con làm – ngay cả những chuyện có vẻ tốt đi nữa – sẽ chỉ giam con chặt hơn trong tâm thức phản Ki-tô.

11.2. Nhiều hơn dẫn đến ít hơn

Khi cái Ta Biết quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, chính nó đã lấy quyết định này. Chắc chắn nó bị cám dỗ bởi sự có mặt của tâm thức nhị nguyên. Khi đó, cái Ta Biết chưa tạo ra cái ta hữu diệt trong quả cầu cái ta của nó, nhưng nó đã mở cửa ra cho cám dỗ từ kẻ thù bên ngoài, tâm thức rắn. Đây là một quyết định mà cái Ta Biết đã lấy do nó đâm ra nghi ngờ sự chính đáng của vị thày tâm linh của nó cùng sự hướng dẫn của thày. Nó đâm ra hoang mang không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu thay vì làm theo hướng dẫn của thày tâm linh, nó quyết định bước ra ngoài khuôn khổ an toàn của lời hướng dẫn. Tại sao cái Ta Biết lại chọn lựa như vậy? Nó chọn làm vậy chủ yếu là vì ý muốn trở nên hơn nữa, phối hợp với sự thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm về tâm thức nhị nguyên. Cái Ta Biết bắt đầu tự hỏi: “Liệu có gì nhiều hơn để trải nghiệm khi tôi bước ra ngoài khuôn khổ các định luật của Thượng đế và lời hướng dẫn của vị thày? Cảm giác sẽ như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên? Liệu tôi sẽ trở nên hơn nữa, liệu tôi sẽ thu hoạch thêm trải nghiệm mà tôi không có được nếu tôi ở lại trong khuôn khổ lời hướng dẫn của thày?”

Bằng cách thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, cái Ta Biết quả là đã có những trải nghiệm vượt khỏi những gì nó có thể có nếu nó ở lại trong hợp nhất. Từ một nhãn quan nào đó, có thể nói là quả thực đã có cái gì đó nhiều hơn – nghĩa là cái gì đó khác lạ – để trải nghiệm bên ngoài hợp nhất so với bên trong hợp nhất. Vấn đề là khi thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, cái Ta Biết đã không trở nên nhiều hơn cái nó là trước khi dự phần vào trạng thái này. Ngược lại là đằng khác, cái Ta Biết đã trở nên ít hơn cái nó đã được tạo ra để là, ít hơn cái nó từng là trước khi thử nghiệm nhị nguyên. Thay vì tự đồng hóa như một sinh thể tâm linh bất diệt với khả năng sáng tạo vô hạn, cái Ta Biết giờ đây bắt đầu tự đồng hóa như một sinh thể giới hạn mắc kẹt trong các chọn lựa cũ của mình, và do đó bị đóng hộp trong rất nhiều hạn chế.

Con càng bước sâu xuống tâm thức nhị nguyên thì con càng chấp nhận nhiều hạn chế là thực và không thể tránh khỏi. Con ngày càng bị bao trùm trong giới hạn, thiếu thốn và khổ đau. Con trở nên kém hơn sinh thể bất diệt, tự do trong Thượng đế, mà con đã được tạo ra để là. Điền này có thể mang lại một ý nghĩa mới cho câu nói dân gian rằng “ít hơn là nhiều hơn.” Bởi vì thật sự, nếu con đi tìm sự nhiều hơn bằng cách bước ra ngoài hợp nhất với Thượng đế và hạn chế tiềm năng sáng tạo của mình, thì cuối cùng con sẽ là ít hơn.

11.3. Con đường dồi dào của hợp nhất

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Cá nhân con không bắt buộc phải thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Nhưng chuyện gần như không thể tránh được là ít nhất có một số người đồng-sáng tạo sẽ chọn thử nghiệm với trạng thái tâm thức đó. Dòng sống của con đã không được tạo ra với sự nhận biết trọn vẹn của Thượng đế, và do đó con đã không có cái biết tuyệt đối về chuyện gì sẽ xảy ra nếu con bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Con cũng không có kinh nghiệm nào trước đó để mà so sánh. Tất cả những gì con có thể làm là tuân theo hướng dẫn của thày con, nhưng vị thày này lại ở ngoài con. Câu hỏi trở thành: “Liệu con có thể đi theo hướng dẫn của một vị thày bên ngoài và thể nhập các hướng dẫn này cho đến khi chúng thực sự là một phần của bản thể con và con hiểu rõ tại sao chúng đã được ban ra? Hay liệu con cần trải nghiệm cảm giác đi ngược lại hướng dẫn của thày để biết xem chuyện gì sẽ xảy ra? Qua phương pháp thử và sửa sai, con có thể lấy quyết định và hiểu được tại sao lời hướng dẫn của thày đã được ban ra.”

Có hai cách tăng triển. Một cách là đi theo một vị thày tâm linh chân chính cho đến khi con thấm nhuần hoàn toàn lời hướng dẫn của thày, cho đến khi con trở thành một với thày trọn vẹn đến độ con biết tại sao thày đã ban ra hướng dẫn đó. Con không còn xem thày là một sinh thể bên ngoài và con không còn xem lời hướng dẫn của thày là đến từ một nguồn ở ngoài con. Con đã khuếch lớn ý niệm cái ta của con để bao gồm cả thày. Con đã, trên đường trở thành một với cái Tất cả của Thượng đế, trở thành một với thày. Con xem thày như một phần của bản thể rộng lớn của con, và con xem hướng dẫn của thày như xuất phát từ bên trong bản thể rộng lớn này.

Con đường đích thực dẫn đến cứu rỗi là con đường gia tăng cảm nhận hợp nhất của con với Thượng đế cho đến khi con đạt được tâm thức Thượng đế trọn vẹn, sự hợp nhất trọn vẹn với cái Tất cả của Đấng Sáng tạo ra con. Như một bàn đạp đi lên hợp nhất với cái Tất cả của Thượng đế, Đấng Sáng táo đã định ra một con đường để con theo. Con đường này là cho con một vị thày bên ngoài có nhiều kinh nghiệm hơn con. Nếu con chịu đi theo hướng dẫn của thày, và đi theo trong tinh thần kết hợp, con sẽ cuối cùng đạt tới một trạng thái hợp nhất với thày. Đây là một bàn đạp dẫn đến hợp nhất với Đấng Sáng tạo của con. Khi dòng sống của con lần đầu tiên mạo hiểm vào vũ trụ vật chất, có chút quên lãng xảy ra và con đánh mất cảm nhận trực tiếp rằng con là một với Đấng Sáng tạo, là một nối dài của Đấng Sáng tạo. Con biết mình có một Hiện diện TA LÀ, tức là Sinh thể tâm linh ngụ trên một cõi cao hơn, nhưng con không hiểu được trọn vẹn rằng Hiện diện TA LÀ là một nối dài của Đấng Sáng tạo. Để giúp con tăng triển cái hiểu này, Đấng Sáng tạo ban cho con một vị thày tâm linh có mặt ở cùng tầng rung động nơi cái Ta Biết đã đi xuống. Với mức tâm thức lúc đó, con có thể nhìn thấy và thông hiểu vị thày bên ngoài, và do đó con có thể nghe thấy lời hướng dẫn của thày. Đó chính là khu Vườn Eden, tức một biểu tượng cho trạng thái tâm thức mà dòng sống có khi nó lần đầu tiên đi xuống vùng năng lượng dày đặc của vũ trụ vật chất.

Ngược với một số người thường nghĩ hay lời giảng dạy của một số tôn giáo, con không chỉ đơn giản bị ném vào thế giới này mà không có nơi nương tựa, không có mối liên hệ nào với cõi tâm linh. Con được ban cho một môi trường bảo bọc với một vị thày thương yêu có khả năng hướng dẫn con. Tiềm năng cao nhất cho môi trường này là con không chỉ đơn giản làm theo hướng dẫn của thày mà con sẽ nhìn đằng sau lời chỉ dẫn vỏ ngoài để đạt tới một cảm nhận hợp nhất với thày. Và qua đó con sẽ đạt tới cùng tầng nhận biết tâm linh, cùng mức độ chứng đạt như thày. Điều này sẽ đưa con lên cao hơn trong mối hợp nhất với Thượng đế, đến độ con không thể đánh mất cảm nhận hợp nhất này được nữa, bởi vì giờ đây con đã đồng hóa vĩnh viễn với Hiện diện TA LÀ của con. Con đã thể nhập và chấp nhận trọn vẹn con là một nối dài của Thượng đế, và cái Ta Biết có khả năng thấy mình là một với cái Tất cả của Đấng Sáng tạo, thậm chí là một với cái Tất cả của Bản thể thuần khiết của Thượng đế.

Nhiều dòng sống quả thực đã đi theo con đường hợp nhất với vị thày bên ngoài và nhờ vậy đạt tới hợp nhất với phần rộng lớn hơn của bản thể họ. Chúng ta có thể gọi đây là con đường của sự sống dồi dào vì chừng nào con còn duy trì nối kết với cõi tâm linh, con sẽ có một cảm giác dồi dào trong đời mình.

11.4. Con đường thiếu thốn của tách biệt

Một số dòng sống quyết định bỏ qua cơ hội đạt hợp nhất với vị thày bên ngoài như một bàn đạp cho sự hợp nhất với Thượng đế bên trong. Thay vào đó, họ đi theo một thày bên ngoài khác, là thày giả tượng trưng cho tách biệt khỏi Thượng đế, nghịch lại sự hợp nhất với Thượng đế. Thày giả muốn con vâng lời mù quáng thay vì hợp nhất, và đối với một dòng sống bị kẹt trong trạng thái không muốn lấy quyết định, sự vâng lời là chuyện dễ làm hơn. Đơn giản, đây là con đường ít kháng cự nhất.

Con yêu dấu, đây là cách tăng triển thứ nhì, nhưng tiếc thay, đây là con đường đầy rủi ro. Rủi ro chính là dòng sống có thể bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ở lại đó trong một thời gian vô hạn định. Trên lý thuyết thì con có thể tăng triển theo cách này hay cách kia. Nếu một dòng sống đi ngược lại chỉ dẫn của vị thày tâm linh, y sẽ bắt đầu trải nghiệm một cuộc sống đầy vật lộn và thiếu dồi dào. Dòng sống có thể – qua trải nghiệm trực tiếp – học được là việc ở lại trong vòng tròn hợp nhất là điều lợi ích nhất cho y, va giờ đây y có kinh nghiệm thực tế để làm cơ sở cho hiểu biết của mình. Nhưng có rủi ro là y trở nên đồng hóa với tâm thức nhị nguyên đến độ quên mất vị thày tâm linh, y quên mất là có một con đường khác hơn cuộc vật lộn của nhị nguyên. Dòng sống có thể ở lại trong trạng thái quên lãng này một cách vô hạn định, hay ít ra cho đến hết thời hạn được phân bổ cho y và y phải bỏ lại ý niệm bản sắc hữu diệt của mình. Chọn lựa thử nghiệm tâm thức nhị nguyên luôn luôn là một cách học hỏi rủi ro. Đó thật sự là Trường đời Cay đắng.

Dòng sống của con đã có thể tránh được chọn lựa này, nhưng điều không thể tránh là một số người đồng-sáng tạo sẽ chọn lựa như vậy. Họ muốn tìm xem, như thày giả quả quyết, là họ có thể trở nên hơn nữa bằng cách tách mình ra khỏi vị thày do Thượng đế bổ nhiệm hay không. Lúc đầu thì chuyện này có vẻ là một trò chơi ngây thơ vô hại, và quả thực, nó phần nào vô hại lúc đầu. Miễn là cái Ta Biết còn duy trì một sự nối kết nào đó với Hiện diện TA LÀ, thì con có thể thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên mà không bị mắc kẹt trong đó. Vấn đề là tâm thức nhị nguyên vi tế đến độ nhiều người đồng-sáng tạo không nhận ra là họ đang bắt đầu đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Chuyện này diễn ra từ từ đến nỗi họ không hoàn toàn nhận thức chuyện gì đang xảy ra, và nhận thức này chỉ đến vào giây phút sự thật mà thày đã có mô tả.

Sau khi giây phút sự thật xảy ra, cái Ta Biết phản ứng lại tình huống bằng một loại cảm xúc tiêu cực nào đó. Có nhiều cảm xúc như vậy, chẳng hạn như sợ hãi, tức giận hay trách móc. Con có thể tự trách mình, trách móc Thượng đế, trách móc thày giả hay trách móc cả thày thật. Hoặc con có thể có nhiều cảm xúc tiêu cực khác. Đằng sau tất cả những cảm xúc này là sự nhìn nhận mình đã đánh mất sự hồn nhiên – cảm nhận hợp nhất nội tâm với Hiện diện TA LÀ của mình – sự nhìn nhận rằng con bị sa ngã khỏi Ân sủng. Vì cái Ta Biết nhìn mọi chuyện qua phin lọc nhị nguyên, nó cũng nhìn giây phút sự thật đó trong quan điểm nhị nguyên. Vì con nhìn mọi chuyện qua tâm thức tách biệt, con phản ứng lại giây phút sự thật một cách tiêu cực. Con tìm cách chạy trốn khỏi nó thay vỉ dùng nó như một cơ hội để trở về với vị thày. Một khi con bắt đầu chạy trốn khỏi Thượng đế thì chọn lựa duy nhất mà con có thể thấy là cứ chạy trốn tiếp.

11.5. Phó mặc quyết định của mình cho tự ngã

Vào lúc đó, có thày giả đứng ngay đó để thì thầm vào tai con rằng con đã tách rời vĩnh viễn khỏi Thượng đế và con không thể nào quay trở lại được nữa. Đây là thời điểm then chốt. Nếu dòng sống quyết định bất chấp lời cám dỗ này và quay trở lại vị thày thật, y có thể nhanh chóng khắc phục tâm thức nhị nguyên bằng cách quy phục sự chỉ đạo của thày thật. Nhưng nếu dòng sống quyết định nghe theo lời gian dối tối hậu này, giờ đây y sẽ phải đối phó với ảo tưởng rằng mình đã vĩnh viễn tách rời khỏi Thượng đế, tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ. Khi đối mặt với tâm thái này, với cảm nhận mất mát không thể bù đắp này, dòng sống, cái Ta Biết, thường lấy một quyết định định mệnh.

Dòng sống nhận ra là mình sa ngã vì mình đã lấy một số quyết định. Chỉ vì cái Ta Biết có quyền tự quyết mà nó mới có thể thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Một số dòng sống đi đến kết luận là nếu như mình không có quyền tự quyết gì hết, nếu như mình đã không lấy quyết định nào hết, thì mình đã không sa ngã. Họ suy luận là vấn đề nằm ở chỗ họ có quyền tự quyết, vấn đề nằm ở chỗ họ đã lấy quyết định. Họ chỉ quyết định sai lầm là vì họ có khả năng quyết định.

Một lần nữa, thày giả lại đứng ngay đó để cám dỗ, cụ thể là nếu như cái Ta Biết ngừng lấy quyết định thì nó sẽ không quyết định sai nữa. Nó sẽ được cứu chuộc, nó sẽ trở về thiên đàng đã mất bằng cách đi theo một vị thày bên ngoài và vị thày này sẽ quyết định giùm nó. Đây là lời dối bảo rằng một cách nào đó con có thể đền bù những quyết định sai lầm trong quá khứ bằng cách không quyết định sai lầm trong tương lai. Nghĩa là cách duy nhất để tránh quyết định sai lầm là ngừng lấy bất kỳ quyết định nào, bằng cách cho phép một thẩm quyền bên ngoài bảo mình phải cư xử thế nào và phải tin những gì. Con yêu dấu, khi một dòng sống chấp nhận lời dối này và quyết định mình không còn muốn quyết định nữa, mình không còn muốn lấy quyết định nữa, thì ngay lúc đó cái ta hữu diệt chào đời.

Cho đến giờ thày đã giải thích sự xuất hiện của cái ta hữu diệt bằng cách nói rằng các quyết định nhị nguyên của con cùng năng lượng tha hóa do chúng tạo ra đã dần dần tích tụ cho đến khi một khối lượng tới hạn hình thành. Tuy điều này đúng, nhưng cơ chế bên dưới là điều thày đang giải thích cho con ở đây. Cơ chế cơ bản là cái Ta Biết quyết định là nó không còn muốn lấy quyết định nữa. Từ quyết định này, một sinh thể tự nhận biết được sinh ra với khả năng và ý muốn lấy quyết định giùm con. Sinh thể tự nhận biết này là cái thày đã gọi là cái ta hữu diệt và nhiều nhà tâm lý học gọi là tự ngã.

11.6. Tự ngã không bao giờ nhận là nó sai lầm

Vấn đề với diễn biến này là bản chất cuộc sống chính là việc lấy quyết định. Con không có cách chi tránh khỏi lấy quyết định. Đơn giản là con không thể sống, dù trong thế giới này hay trong cõi tâm linh, mà không lấy quyết định. Nếu cái Ta Biết không lấy quyết định thì ai sẽ lấy quyết định trong đời con đây? Nếu cái Ta Biết từ chối thực thi đặc quyền mà Thượng đế đã cho con là lấy quyết định cho dòng sống của con, thì giờ đây cái ta hữu diệt sẽ tiếp quản và quyết định giùm con.

Cái ta hữu diệt ra đời vỉ cái Ta Biết từ chối lấy quyết định. Cái ta hữu diệt được thiết kế để là thế lực thống trị sẽ lấy quyết định cho con. Nó tin là nó đã được tạo ra để quyết định và nó quyết định giỏi hơn cái Ta Biết. Ngay trong bản chất, cái ta hữu diệt là một thế lực hung hãn và nó tin là nó biết cách điều hành cuộc sống của con giỏi hơn cái Ta Biết. Niềm tin này, tất nhiên, được củng cố triệt để bởi ông hoàng của thế gian, là các thế lực bên ngoài sử dụng cái ta hữu diệt để điều khiển đời con. Các thế lực này tin là chúng biết cách vận hành vũ trụ giỏi hơn Thượng đế. Cái ta hữu diệt hoàn toàn tin chắc là nó đúng và bất cứ gì trái với quan điểm và ý muốn của nó đều sai – chẳng hạn một vị thày hay một giáo lý tâm linh. Tất nhiên vấn đề là cái ta hữu diệt, do bản chất của nó, không thể nhìn thấy bất cứ gì vượt khỏi tâm thức nhị nguyên. Nó chỉ có thể suy nghĩ và lý luận trong cõi nhị nguyên, và bất cứ quyết định nào nó lấy giùm con sẽ chỉ giam con chặt hơn vào cõi nhị nguyên. Khi con nhìn xuyên qua phin lọc này, cuộc sống sẽ giống như một mê cung không lối thoát.

Vì cái ta hữu diệt sống trong thế giới nhị nguyên, nó luôn luôn có thể nghĩ ra một luận cứ biện hộ cho những gì nó muốn làm. Nó luôn luôn hoàn toàn tin chắc là nó đúng và tất cả mọi ai khác – kể cả cái Ta Biết, một vị thày tâm linh hay ngay cả Thượng đế – đều sai. Nó tin chắc là nó đang điều hành đời con tốt nhất và nó đang giữ con trên con đường độc nhất dẫn đến cứu rỗi. Con đường này chính là con đường dựa trên lời dối bảo rằng con có thể được cứu chuộc bằng cách không bao giờ quyết định sai lầm. Vì cái ta hữu diệt dùng lý luận nhị nguyên, nó luôn luôn có thể nghĩ ra một lập luận khiến nó có vẻ như chưa bao giờ quyết định sai lầm. Kỳ thực, tất cả mọi quyết định của nó đều sai lầm theo nghĩa là chúng sẽ không đưa con đến gần hơn sự sống dồi dào.

Con hãy nhìn hành tinh này xem làm thế nào một số người có thể lấy những quyết định khủng khiếp nhất mà vẫn tin chắc là mình đúng. Con hãy nhìn – để đơn cử một ví dụ mà ai ai cũng công nhận – làm thế nào một người như Adolph Hitler có thể gây ra cái chết của biết bao triệu người mà vẫn tin chắc là mình làm đúng. Đây là điều các nhà tâm lý học gọi là tư duy phủ nhận, xuất phát từ sự kiện cái ta hữu diệt có một phương thức hoạt động cơ bản, đó là nó không bao giờ có thể sai lầm. Nó sẽ mãi mãi tiếp tục sử dụng lý luận nhị nguyên để “chứng minh” là nó không sai, bất kể những gì xảy ra trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Từ nhãn quan Thượng đế, việc con phạm lỗi không phải là một thảm họa. Ngài không lên án con mà ngài chỉ muốn con được giải thoát khỏi lỗi lầm và tiếp tục bước tới. Khi con sa ngã vào lời cám dỗ của cái ta hữu diệt và từ chối nhìn nhận mình đã lầm lỗi, con không thể thoát ra khỏi lỗi lầm đó. Thay vào đó, con sẽ tiếp tục lấy những quyết định dựa trên lỗi lầm cũ, và như vậy con chồng chất hết sai lầm này đến sai lầm khác trong một vòng xoáy hướng hạ có thể tiếp diễn gần như mãi mãi. Phạm lỗi không cứ là một quyết định tồi tệ, nhưng từ chối nhìn nhận và sửa chữa lỗi lầm là một quyết định thật tồi tệ vì chắc chắn nó sẽ biến thành một cái bẫy. Cách duy nhất để thoát khỏi bẫy là con thoát khỏi cám dỗ muốn biện minh cho hành động quá khứ của mình qua trí suy luận nhị nguyên của cái ta hữu diệt. Con phải công khai nhìn nhận là mình đã lấy một quyết định tồi tệ và sau đó con thay thế nó bằng một quyết định tốt hơn.

11.7. Nhận lãnh trách nhiện đời mình

Điểm cốt yếu mà thày muốn truyền đạt trong chương này là chỉ có một con đường đích thực đến cứu rỗi, đến sự sống bất diệt mà thôi. Đó là con đường khi cái Ta Biết thức tỉnh với thực tế nó là ai, thực tế là nó đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết. Một khi tỉnh ngộ, cái Ta Biết phải quyết định nắm lại quyền lấy quyết định trong đời mình. Đơn giản không có con đường cứu rỗi nào khác.

Có con đường có vẻ đúng cho con người, và con đường này có vẻ đúng cho con người vì nó có vẻ đúng cho cái ta hữu diệt của bất cứ người nào. Đó là con đường bảo rằng con không cần giành lại quyền lấy quyết định. Đó là con đường bảo rằng con có thể tiếp tục cho phép một ai khác quyết định giùm con và nếu con cứ đi theo đường này thì cuối cùng con sẽ được cứu rỗi. Đó là con đường đã được các thày giả của thế gian thiết lập. Nó có vô số biến thể, nó được ngụy trang bằng nhiều cách. Một số những cách này mang tính tôn giáo công khai, một số khác có vẻ là những kỹ thuật tự cứu (self-help) hay phương pháp vô hại tạo sự dồi dào trong cuộc sống. Cho dù dáng vẻ bề ngoài là gì, chúng đều hứa hẹn cùng một thứ, cụ thể là bằng cách đi theo một triết lý nào đó, thực hành một kỹ thuật hay gia nhập một tổ chức vỏ ngoài, thì bằng cách nào đó con sẽ đạt được mục tiêu được đề ra như trong phép lạ.

Các tôn giáo củng cố thần tượng một Thượng đế bên ngoài cũng cổ võ cho con đường giả này. Có một câu trong Kinh thánh thường bị các tín đồ Cơ đốc chính mạch bỏ qua. Đó là câu chuyện Giê-su quở mắng các thày thông giáo và người Pha-ri-si khi Giê-su khẳng định không một chút nghi ngờ rằng nếu sự công chính của con không trội hơn sự công chính của thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con sẽ không vào được Nước Trời (Matthew 5:20). Quá nhiều người đạo Cơ đốc gạt qua bên câu nói này, cho rằng câu nói chỉ áp dụng cho các thày thông giáo và người Pha-ri-si. Họ hoàn toàn quên mất không nhìn vào cái xà trong mắt họ. Họ hoàn toàn không nhận ra là Giê-su không nói đến một nhóm người nhất định, mà Giê-su đang nói đến con đường giả mà thày đây đang mô tả, là con đường tin rằng bằng cách đi theo những giáo điều vỏ ngoài, tuân thủ những quy luật vỏ ngoài hay tham gia những nghi lễ hay pháp tu vỏ ngoài, con sẽ được cứu rỗi một cách tự động và chắc chắn.

Đạo Cơ đốc chính mạch thật ra đang đề cao con đường giả này khi bảo rằng Giê-su, trong tư cách một vị cứu tinh bên ngoài, là chìa khóa cho sự cứu rỗi của con và sẽ làm mọi việc cho con. Chìa khóa đích thực cho sự cứu rỗi của con không phải là Ki-tô bên ngoài mà Ki-tô bên trong, xuyên qua đó con đạt cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế sẽ hồi phục sự hồn nhiên của con, hồi phục chính con trong Ân sủng và đưa con trở vào Nước Trời ở trong con.

Các thày thông giáo và người Pha-ri-si tưởng họ là người công chính, và họ suy luận như vậy dựa trên sự kiện họ thuộc tôn giáo chân chính độc nhất theo định nghĩa của họ. Họ một mực tin vào tất cả các giáo điều vỏ ngoài của tôn giáo này và cách diễn giải từng chữ theo nghĩa đen. Họ cũng tuân thủ mọi quy luật vỏ ngoài mà tôn giáo họ định ra, như họ phải nói năng thế nào, ăn uống những gì, mặc quần áo gì và cư xử làm sao trong mọi khía cạnh cuộc sống. Họ tham gia mọi nghi lễ, và họ nghĩ bởi vì mình làm rất đúng tất cả những chuyện vỏ ngoài như thế thì nhất định Thượng đế sẽ phải cứu mình. Họ đã tạo ra một hình ảnh về sự cứu rỗi dựa trên ý tưởng Thượng đế ở bên ngoài, và một cách nào đó, họ có thể mua bán với ngài. Chỉ cần họ tuân theo mọi quy luật vỏ ngoài thì đương nhiên Thượng đế sẽ phải giao hàng và cho phép họ vào Nước Trời.

11.8. Lật ngược từng quyết định nhị nguyên đã lấy

Nước Trời đích thực ở trong chính con vì đó là một cảm nhận hợp nhất với Thượng đế. Chỉ cảm nhận hợp nhất này mới là chìa khoá cho sự cứu rỗi. Làm sao con có thể đạt được cảm nhận hợp nhất với Thượng đế bằng cách máy móc tuân theo quy luật vỏ ngoài và mù quáng tin vào giáo điều vỏ ngoài? Con đường đến cứu rỗi không phải là một chuyến xe lửa mà con mua vé, bước lên toa và ngồi xuống ghế, và bây giờ con có thể nhắm mắt ngủ vì người lái sẽ đưa xe đến đích. Con đường đích thực đến cứu rỗi là một con đường mà con phải đi từng bước một, và với mỗi bực leo lên cầu thang xoắn ốc đó, con phải lấy một quyết định để lật ngược quyết định nhị nguyên đã khiến con đi xuống cùng bực này trên cầu thang.

Không có cách nào con có thể trở về Nước Trời mà không lấy những quyết định hoàn toàn ý thức. Tuyệt đối không có cách nào con có thể trở về cảm nhận hợp nhất với Thượng đế bằng cách cho phép một ai khác quyết định giùm con. Cái ta hữu diệt của con chỉ có thể lấy những quyết định kéo con xa khỏi hợp nhất với Thượng đế, và bất kỳ thẩm quyền nào bên ngoài cũng vậy. Khác biệt giữa một thày thật và một thày giả là vị thày thật sẽ cho con những sáng ngộ mà con cần có để lấy những quyết định tốt nhất cho con. Thày thật sẽ không bao giờ quyết định giùm con. Thày thật sẽ cho con những thông tin con cần, xong để yên cho con lấy quyết định riêng của mình. Thày thật biết rõ là chỉ bằng cách lấy quyết định riêng của mình thì con mới tăng triển. Thày giả sẽ không cung cấp cho con tất cả thông tin con cần. Y sẽ cố tình giấu giếm thông tin khỏi con và chỉ cung cấp những kiến thức sẽ khiến con ngả theo những gì y muốn con làm. Thày giả cũng sẽ vui mừng lấy quyết định giùm con, và y làm vậy xuyên qua cái ta hữu diệt đã được thiết kế ngay từ đầu để lấy quyết định giùm con.

Có một đường có vẻ đúng cho con người nhưng cuối cùng là con đường của sự chết. Con đường giả này là khi con cho phép người khác bảo con phải làm gì, dù đó là thày bên ngoài, giới chức tôn giáo, đạo sư tự xưng là tâm linh, hay chuyên gia đời sống dồi dào. Thậm chí đó còn là con đường cho phép cái ta hữu diệt tiếp tục lấy quyết định giùm con, là những quyết định chắc chắn phải dựa trên tâm thức nhị nguyên. Chỉ có một con đường chân chính duy nhất. Như Giê-su nói: “Cánh cửa hẹp và đường đi chật chính là con đường dẫn đến sự sống, và chỉ có ít người tìm thấy” (Matthew 7:14). Đó là con đường mà con phải giành lại quyền tự quyết của mình, khả năng quyết định của mình, và con phải lấy những quyết định này ở mỗi bực đưa con trở lên cầu thang xoắn ốc cho đến khi cuối cùng con bước qua ngưỡng cửa ở trên cùng và tắm trong mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con. Không có đường nào khác dẫn đến cứu rỗi, và đây chính là điều Giê-su đã nói mọi người, đây là điều Phật đã nói mọi người, đây là điều các hiền giả Vệ đà đã nói mọi người, và đây là điều mọi vị thày tâm linh chân chính đã đến hành tinh này từ hàng ngàn và hàng ngàn năm qua đã nói mọi người. Không hề có con đường bên ngoài nào dẫn đến cứu rỗi. Đường tu là một con đường nội tâm qua đó con lấy những quyết định đưa con gần hơn tới điểm con chấp nhận mình chưa bao giờ thực sự tách biệt khỏi Thượng đế của mình.

11.9. Đấng An ủi

Điểm trung tâm của cuộc sống con người là làm cách nào có những quyết định đúng đắn. Tuyệt đối không có cách chi con lấy quyết định đúng đắn nếu các quyết định này dựa trên suy luận của tâm nhị nguyên, tâm phản Ki-tô. Cách duy nhất để quyết định đúng đắn – là những quyết định sẽ giúp con đến gần hơn hợp nhất với Thượng đế – là đặt chúng trên nền tảng của tâm thức Ki-tô. Làm thế nào một người đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên có được những quyết định dựa trên tâm thức Ki-tô đây? Con có thể có được vì Thượng đế đã không bỏ con một mình. Như Giê-su nói: “Và ta sẽ cầu Cha để Cha cho con một đấng An ủi khác sẽ ở với con đời đời” (John 14:16).

Luật cân bằng làm việc rất thuận lợi cho con. Quả cầu cái ta của con đúng lý không được nhận bất cứ ảnh hưởng ngoại lai nào. Nó được dành riêng cho cái Ta Biết cư ngụ, và cái Ta Biết sẽ lần hồi đổ đầy ánh sáng vào đó cho đến khi không còn chỗ nào cho bóng tối. Cả thày giả lẫn thày thật đều không có quyền xâm phạm quả cầu cái ta của con, và không bên nào có thể làm vậy mà không có sự ưng thuận của con. Khi con tạo ra cái ta hữu diệt, con đã cho phép một chất liệu ngoại lai, thậm chí một sinh thể ngoại lai, xâm nhập quả cầu cái ta. Sinh thể này trở thành tiêu điểm cho tâm thức phản Ki-tô. Theo luật cân bằng, con không thể tồn tại nếu quả cầu cái ta của con chứa đựng một tiêu điểm cho thế lực phản Ki-tô mà không có gì để cân bằng lại. Hầu duy trì sự cân bằng, luật này đòi hỏi là nếu con cho phép tiêu điểm của tâm thức phản Ki-tô đi vào quả cầu cái ta, thì các thế lực của ánh sáng, các vị thày tâm linh chân truyền, cũng có thẩm quyền tái lập cân bằng qua việc đặt vào đó một tiêu điểm cho tâm thức Ki-tô.

Chừng nào con còn có sự kết nối nội tâm trực tiếp với Hiện diện TA LÀ và một vị thày bên ngoài đại diện cho Ki-tô, con không cần đến tiêu điểm này trong quả cầu cái ta. Nhưng khi con rơi xuống tâm thức nhị nguyên và bắt đầu đồng hóa với cái ta hữu diệt, con đánh mất sự nối kết trực tiếp với Hiện diện TA LÀ và sự ý thức về vị thày bên ngoài. Giờ đây các thày tâm linh của con cần phải cho con một cái gì để con có thể nối lại liên lạc với cõi tâm linh. Cái đó chính là điều Giê-su gọi là đấng An ủi, và Giê-su nói: “Đấng ấy sẽ dạy con mọi điều, nhắc cho con nhớ lại mọi điều ta đã nói với con” (John 14:26). Đấng An ủi này, mà thày muốn gọi là cái ta Ki-tô của con, là một vị thày nội tâm có khả năng cho con sự thật Ki-tô. Khi con lắng nghe vị thày bên trong này, vị cứu tinh bên trong này, con luôn luôn có thể đạt được những sáng ngộ mà con cần để lấy những quyết định dựa trên sự thật Ki-tô, tảng đá Ki-tô, thay vì cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Con không có cách chi quyết định đúng đắn bằng cách lắng nghe cái ta hữu diệt và các thày giả bên ngoài con. Thượng đế đã không bỏ con bơ vơ không an ủi, mặc dù con đã quay lưng lại vị thày bên ngoài mà ngài đã gửi con và đánh mất kết nối với cái ta bất tử của con. Ngài đã vẫn gửi cho con một đấng An ủi dưới dạng cái ta Ki-tô ngụ ngay quả cầu cái ta của con. Cái ta Ki-tô này là vị thày nội tâm có khả năng lẫn ý muốn dạy con mọi điều, nhắc lại cho con mọi điều, để con có nền tảng tốt nhất mà lấy những quyết định sẽ cho phép con thăng lên cầu thang xoắn ốc và đến gần hơn mục đích tối thượng là hợp nhất với Thượng đế.

Đây cũng là điều Giê-su gọi là “chìa khóa của hiểu biết.” Giê-su đã quở mắng các thày luật đã tước mất chìa khóa của hiểu biết (Luke 11:52). Đa số người Cơ đốc không hiểu được câu nói này và tầm quan trọng cốt yếu của nó. Ý nghĩa thật đơn giản. Những ai đi theo con đường vỏ ngoài, con đường do các thày phản Ki-tô vạch ra, đã xem thường chìa khóa của hiểu biết. Chìa khóa của hiểu biết là con có khả năng ngay bên trong mình để biết sự thật, để có sự phân biện Ki-tô sẽ cho con uy lực lấy quyết định đúng đắn. Con làm vậy bằng cách lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của cái ta Ki-tô của con.

Các thày luật quyết định là họ không muốn đi theo con đường nội tâm qua việc lấy quyết định cho riêng mình. Họ quyết định là họ muốn đi theo con đường vỏ ngoài, tức là giấc mơ được cứu rỗi tự động. Để củng cố niềm tin là mình đúng, họ cố ngăn cản mọi người khác khám phá và đi theo con đường nội tâm. Họ muốn mọi người đi theo con đường vỏ ngoài vì họ nghĩ nếu ai ai cũng làm cùng một chuyện thì họ sẽ đúng và Thượng đế sẽ phải chấp nhận họ. Tất nhiên, thực tế là mọi người có thể làm cùng một chuyện mà vẫn sai – nếu ai ai cũng bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Đây là điều Giê-su đã chỉ ra cho họ khi thách thức các thày luật.

11.10. Hãy thỉnh thì sẽ được

Vấn đề trung tâm của cuộc sống con người là con phải lấy quyết định. Bài toán trung tâm là làm cách nào con lấy những quyết định đúng đắn. Nếu con có đầy đủ thông tin cần thiết, nếu con có một cái hiểu xác thực, con có thể lấy quyết định đúng đắn trong mọi hoàn cảnh. Quyết định đúng đắn luôn luôn là quyết định kéo con xa khỏi tâm thức nhị nguyên và đưa con lại gần sự hợp nhất với Thượng đế. Kết quả thực tế của một tình huống nào đó thật không quan trọng chút nào. Điều thực sự quan trọng là tình huống giúp con đến gần hơn sự hợp nhất với Thượng đế, giúp con tách mình ra khỏi các lời dối nhị nguyên. Nếu con tách mình được khỏi lời dối nhị nguyên, thì bất cứ hoàn cảnh nào cũng là một chiến thắng đưa con lại gần hơn mục đích hợp nhất. Bất cứ quyết định nào đưa con gần hơn với hợp nhất là một quyết định đúng đắn. Thật ra con có thể lấy một quyết định trong một tình huống nào đó có vẻ là một quyết định sai lầm từ nhãn quan người đời vỉ kết quả không đúng như thế gian hay cái ta hữu diệt của con mong muốn. Nhưng nếu quyết định đó đưa con lại gần sự hợp nhất với Thượng đế thì – từ nhãn quan Thượng đế – đó vẫn là một quyết định đúng đắn.

Con luôn luôn có nền tảng cần thiết để quyết định đúng đắn. Con không bao giờ bơ vơ. Nhưng tiếc thay, rất có thể cái Ta Biết sẽ làm ngơ hay ngay cả quên mất sự hiện hữu của đấng An ủi. Cái Ta Biết là con người mà nó nghĩ nó là, và nếu nó tự đồng hóa như một người tội lỗi phàm phu, hữu diệt, bị cắt đứt khỏi Thượng đế và không thể quyết định đúng đắn, thì đây sẽ là “thực tại” tạm thời của nó. Sự thật là con chưa bao giờ bị cắt đứt khỏi Thượng đế, con chưa bao giờ tách biệt, con chưa bao giờ thiếu thốn niềm an ủi và sự hướng dẫn, mà ngược lại con luôn luôn có khả năng đi theo lời gọi của Giê-su: “Hãy thỉnh thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ được mở cửa” (Matthew 7:7).

Con yêu dấu, con có nghĩ Giê-su đang hứa suông ở đây không? Con có nghĩ Giê-su nói lời này mà không có sự thật nào đằng sau? Đa số người đạo Cơ đốc không hiểu được tầm quan trọng của lời dạy này, nhưng con thật sự chỉ có hai chọn lựa. Hoặc Giê-su là thày giả, hoặc đằng sau lời nói của Giê-su có một ý nghĩa sâu xa hơn. Nếu con sẵn lòng đi tìm ý nghĩa sâu xa, con sẽ thấy được thực tế là không bao giờ có tình trạng con hoàn toàn bị cắt đứt khòi mọi sự hướng dẫn từ trên. Cho dù hoàn cảnh con là gì, con luôn luôn có chọn lựa xin được giúp đỡ. Nếu con xin, con sẽ nhận được hồi đáp. Hãy cho thày nhắc lại một lần nữa: “Nếu con yêu cầu sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô, con sẽ luôn luôn nhận được một câu trả lời.”

Điều này sẽ khó chấp nhận cho nhiều người. Thực tế là câu trả lời luôn luôn ở đó. Vấn đề là liệu tâm ý thức của con có sẵn lòng ghi nhận câu trả lời, lưu ý câu trả lời và dựa theo đó mà hành động hay không. Con hãy xem câu nói dân gian này: “Ấn tượng đầu tiên luôn luôn chính xác.” Thử nghĩ đến một hoàn cảnh con gặp một ai đó lần đầu và con có ấn tượng là họ không thể tin được. Lập tức tâm vỏ ngoài bắt đầu tìm lý do tại sao người này thật ra cũng đáng tin cậy đấy, thường thường dựa trên lai lịch hay địa vị của họ trong xã hội. Tâm vỏ ngoài của con đã dùng lý luận để bác bỏ ấn tường đầu. Con có bao giờ gặp một trường hợp như vậy rồi sau đó vỡ lẽ là ấn tượng đầu của mình hoàn toàn chính xác? Hay con có gặp hoàn cảnh tương tự khi con có một ấn tượng đầu và tâm vỏ ngoài dùng lý luận khôn khéo để gạt nó sang bên, xong con khám phá là ấn tượng đầu chính xác? Những tình huống như vậy là ví dụ về điều thày đang nói tới, cụ thể là con luôn luôn nhận được một câu trả lời nhưng tâm vỏ ngoài thường không ghi nhận hay không chú ý đến nó. Hay tâm vỏ ngoài dùng giải thích nhị nguyên để bác bỏ câu trả lời, một điều mà như thày đã đề cập nhiều lần, nó luôn luôn có thể làm vì tâm thức nhị nguyên không bao giờ có thể được chứng minh là sai.

11.11. Hai điều kiện để nhận được trả lời

Hãy để thày diễn đạt câu “Hãy thỉnh thì sẽ được” một cách khác để cho rõ hơn. “Hãy hỏi với tim cởi mở và tâm không phán xét thì con sẽ luôn luôn nhận được câu trả lời.” Để thật sự nhận được câu trả lời từ cái ta Ki-tô, con phải nỗ lực đáp ứng hai điều kiện. Điều kiện đầu là con phải sẵn lòng muốn biết sự thật. Con phải quyết định là con muốn biết một cái hiểu cao hơn những gì con đang hiểu, thay vì muốn một câu trả lời xác nhận những gì cái ta hữu diệt muốn con tin.

Chuyện này không giản dị như nó có vẻ. Thày liên tục được nghe nhiều người Cơ đốc rất sùng đạo và chân thành cầu nguyện xin thày giúp đỡ và can thiệp trong đời họ. Nhiều người trong số này cầu nguyện như thể thày là một ông thần trong lọ sẽ đến giải quyết tất cả mọi vấn đề giùm họ. Thày sẽ vui lòng giúp họ giải quyết vấn đề của họ, nhưng chìa khóa là thày muốn giúp họ tự giải quyết vấn đề của họ bằng cách trao cho họ những sáng ngộ mà họ cần để lấy những quyết định đúng đắn. Nhiều người không cởi mở với cái hiểu cao hơn, với sự thật cao hơn mà họ cần để lấy những quyết định giống như Ki-tô. Họ chỉ muốn một câu trả lời từ thày sẽ xác nhận các tin tưởng Cơ đốc chính thống, không vượt ra ngoài giáo điều của họ. Có sự giới hạn rất gắt gao trong những cách thày có thể giúp họ vì đơn giản là tâm vỏ ngoài của họ không chịu lắng nghe những câu trả lời thày gửi cho họ. Điều kiện đầu tiên là con phải hỏi với một con tim cởi mở và sự sẵn lòng học hỏi một điều gì vượt khỏi cái hiểu hiện thời của con. Con cần sẵn lòng để cho Thượng đế cho con câu trả lời mà con cần nghe, chứ không phải câu trả lời mà cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian muốn con nghe. Con cần mở cửa ra cho một câu trả lời sẽ giúp con nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên.

Điều kiện thứ hai là con tìm cách lật mặt nạ và vô hiệu hóa cái ta hữu diệt cùng xu hướng của nó là phân tích từng câu trả lời nhận được, rồi cố nhét vào khuôn khổ hệ thống tin tưởng nhị nguyên của nó. Nếu câu trả lời không phù hợp với hộp tư duy này – và tất nhiên bất kỳ câu trả lời nào từ tâm Ki-tô cũng sẽ không nhét vừa một hệ thống tin tưởng nhị nguyên – cái ta hữu diệt sẽ dùng lối suy luận nhị nguyên khôn khéo cố hữu để lập luận rằng câu trả lời không thể nào đúng và tại sao con không nên để ý đến nó. Cái ta hữu diệt luôn luôn đánh giá mỗi ý tưởng mới, và bất cứ gì không nhét vào được hộp tư duy của nó sẽ tự động bị gạt bỏ.

Con luôn luôn có cơ hội tiếp cận sự thật của Ki-tô, nhưng để nhận và nhìn nhận sự thật này, con cần sẵn lòng với ra ngoài hộp tư duy, nhà tù tư duy, được tạo nên bởi cái ta hữu diệt và các tin tưởng nhị nguyên của nó. Nếu con sẵn lòng với ra ngoài thì luôn luôn con sẽ nhận được câu trả lời. Tất nhiên có rất nhiều điều con có thể làm để gia tăng khả năng nhận câu trả lời bằng cách khuếch lớn sự nhận biết và sự nối kết với cái ta Ki-tô cùng tâm Ki-tô rộng lớn, Tâm Ki-tô Hoàn vũ, mà cái ta Ki-tô là một tiêu điểm. Các bài thỉnh của thày là dụng cụ để đạt mục tiêu này.

11.12. Thay thế quyết định dở bằng quyết định tốt

Khi cái Ta Biết bắt đầu tự đồng hóa như một sinh thể hữu diệt, con cũng bắt đầu lắng nghe các thày nhị nguyên, các thày giả. Đây là một khuôn nếp, một thói quen có thể đã kéo dài rất nhiều tiền kiếp. Hầu lật ngược khuôn nếp hướng hạ này, con cần một nỗ lực ý thức để phá vỡ sợi dây đồng phụ thuộc mà con có với những thày vỏ ngoài bảo con phải làm gì. Thay vào đó, con cần tái khám phá và tăng cường sự nối kết bên trong với vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô và các vị thày chân chính là chân sư thăng thiên. Những vị này sẽ không bảo con làm gì mà sẽ cho con những thông tin giúp con có uy lực lấy quyết định đúng đắn. Tất nhiên để cất bước trên con đường này, con phải trước tiên đạt tới điểm cái Ta Biết quyết định là nó muốn lấy quyết định trở lại. Và để đến được điểm này, con sẽ phải khắc phục một trong những chướng ngại lớn nhất trên đường tu tâm linh, đó là nỗi sợ phạm lỗi.

Sau khi con có giây phút sự thật và ngộ ra mình đã quyết định sai lầm, con sợ lấy quyết định. Đây là nỗi sợ bảo rằng bởi vì quyết định sai lầm là một chuyện quá khủng khiếp, cho nên tốt hơn con không nên lấy bất cứ quyết định nào. Lối suy luận này thật sự là sản phẩm của tâm rắn và nó hoàn toàn phi lôgíc. Nó bảo nếu con không lấy quyết định nào hết, con sẽ không thể quyết định sai lầm. Nhưng đây là một ảo tưởng toàn diện, một lời dối toàn diện.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Con có quyền làm bất cứ gì con muốn với quyền này, nhưng con không thể tránh lấy quyết định. Con không thể cho đi khả năng chọn lựa cùa mình. Con không thể cho đi trách nhiệm chọn lựa của mình. Con có thể tìm cách giao nó cho người khác, con có thể tìm cách để người khác quyết định giùm con, nhưng để làm vậy, con vẫn phải lấy một quyết định. Nếu con cho phép cái ta hữu diệt hay một thày giả quyết định giùm con, con vẫn đang lấy quyết định làm vậy. Mỗi khi con cho phép chúng quyết định giùm con thì con đang lấy quyết định tiếp tục tình trạng này. Không có lối thoát nào để khỏi lấy quyết địmh. Bất cứ lúc nào trong đời, con cũng đang lấy quyết định, và không có cách chi con thoát khỏi chuyện này.

Tại sao con lại muốn trốn tránh việc lấy quyết định? Lấy quyết định, có quyền tự quyết, là cơ hội lớn nhất từ Thượng đế, cơ hội lớn nhất để tự thăng vượt và trở nên hơn nữa, nhờ vậy con mới đồng-sáng tạo sự sống dồi dào. Đúng là việc quyết định sai lầm có thể đem đến những hệ quả không mong muốn mà con sẽ phải đối mặt, nhưng cũng đúng không kém là con có thể gỡ bỏ mọi quyết định sai lầm của quá khứ bằng cách quyết định đúng đắn trong giây phút hiện tại. Thật là đúng – mặc dù đây là bí mật mà các thày giả không muốn con biết – là con luôn luôn có một nền tảng đế lấy quyết định đúng đắn nếu con chịu đi tìm công khai câu trả lời từ cái ta Ki-tô của con.

Thật đây chỉ là chuyện xoay tâm thức lên một chút bằng cách nhận ra là việc phạm lỗi không có gì khủng khiếp như các thế lực của thế gian muốn con tin. Chiến lược cơ bản của tà lực là khiến con tin rằng con đã mắc vào một sai lầm khủng khiếp đến độ không bao giờ có thể xóa sạch được. Bất kỳ lỗi lầm nào con đã phạm cũng dựa trên một quyết định con lấy, một quyết định dựa trên cách lý luận sai lạc của tâm nhị nguyên. Điều tuyệt vời là bất cứ quyết định nào cũng có thể được thay thế lập tức bởi một quyết định khác. Bất cứ quyết định dở nào cũng có thể được thay thế lập tức bằng cách lấy một quyết định tốt. Bất cứ một quyết định nào dựa trên tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô, cũng có thể được thay thế lập tức bằng cách lấy một quyết định dựa trên tâm thức Một, tâm thức Ki-tô.

Điều này có vẻ như không quan trọng, nó có vẻ đương nhiên. Nhưng nó không đương nhiên chút nào, vì nếu con đã thấm nhuần sự thật mà thày đang nói với con ở đây thì con đã không đang ngồi trên trái đất mà đọc khóa học này, mà con đã ngồi trên kia nơi thiên đàng như một sinh thể tâm linh bất diệt. Và con cũng đã không cần một quyển sách để thày truyền đạt ý tưởng của thày cho con. Sự kiện con đang ngồi đây trên trái đất và đọc khóa học này chứng tỏ cho con thấy là con chưa hoàn toàn tiếp thu sự thật mà thày đang cho con.

Bất cứ quyết định sai lầm nào cũng có thể được thay thế bởi một quyết định dựa trên sự thật của Ki-tô. Nếu con chịu cam kết là con sẽ công khai thỉnh cầu sự thật Ki-tô – bằng cách hấp thu sự thật này vào tâm thức con, thể nhập nó, rồi dùng nó để lấy quyết định đúng đắn – con có khả năng xoay chuyển đời con rất nhanh chóng, nhanh hơn nhiều so với bao nhiêu tiền kiếp con đã bỏ ra để đặt mình vào hoàn cảnh hiện tại. Con có khả năng chặn đứng vòng xoáy hướng hạ và khởi sự một vòng xoáy tích cực, hướng thượng, sẽ dần dần dẫn con xa khỏi cảm giác vật lộn và đưa con vào sự sống dồi dào.

11.13. Thị hiện sự sống dồi dào

Quá nhiều người mong mỏi sự sống dồi dào nhưng lại có một hình ảnh hoàn toàn sai trật về thế nào là dồi dào. Quá nhiều người nghĩ dồi dào đúng nghĩa là một nguồn tiếp tế tiền bạc vô hạn mà họ nhận được từ một nguồn bên ngoài, cho dù đó là trúng số độc đắc hay một trò lừa thần diệu nào đó do thày giả hứa hẹn. Đây là điều các thày giả về thịnh vượng hứa hẹn người ta, cụ thể là có một kỹ thuật thần thông để chế tạo thịnh vượng, và một khi người ta có đủ tiền thì mọi khó khăn sẽ biến mất.

Việc có tiền, dù có bao nhiêu tiền, cũng không giống như sự sống dồi dào. Sống dồi dào là nhiều hơn hẳn chuyện tiền bạc, và đó là tại sao con không thể phục vụ hai chủ, con không thể vừa phục vụ Thượng đế vừa phục vụ Ma-môn (Matthew 6:24). Nếu con nghĩ chỉa khóa của dồi dào là có tiền, con sẽ không bao giờ đạt được dồi dào đích thực của Thượng đế, vì nó hơn tiền bạc rất nhiều.

Dồi dào đích thực là biết mình hợp lẽ Thượng đế, biết mình đang trở về nhà, biết mỗi quyết định của mình đang đưa mình gần hơn tới mục đích tối thượng là sự hợp nhất với Thượng đế. Sự sống dồi dào đích thực là biết mình là một sinh thể tâm linh bất diệt đang ở đây trên trái đất để biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình. Con cảm thấy con đang biểu đạt cá thể thiêng liêng này vào mỗi lúc. Con cũng biết con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, con ở đây không chỉ để thực hiện mong muốn riêng của mình mà để đồng-sáng tạo vương quốc của ngài trên trái đất. Con biết là mỗi quyết định con lấy đang đem vương quốc này một bước nhỏ gần hơn đến sự thị hiện vật lý trên hành tinh này. Con biết con là một phần của Dòng sông sự Sống của Thượng đế, con là một phần của phong trào toàn cầu gồm những người đang nỗ lực đến gần với Thượng đế và đem vương quốc của ngài gần hơn ngày thị hiện trên trái đất.

Đây là dồi dào đích thực, là niềm vui biết rằng con là một phần của Dòng sông sự Sống, dòng chảy liên tục của tạo vật tráng lệ của Thượng đế. Điều này vượt xa bất cứ gì hầu hết mọi người có thể hinh dung hay tưởng tượng, vượt xa bất cứ gì người ta có thể mua được bằng tiền bạc dù nhiều biết mấy. Điều này chỉ có thể đem lại từ bên trong, cụ thể là khi con quyết định tách mình khỏi tâm thức vật lộn, tâm thức thiếu thốn. Thay vào đó, con phải lao mình vào Dòng sông sự Sống, vào tâm thức Một, và giờ đây con trôi theo dòng sông đó. Con đang ở trong dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế, và sự dồi dào của Thượng đế đang tuôn chảy qua con vì con ngộ ra con chính là sự dồi dào của Thượng đế đang biểu hiện, con chính là Thượng đế trong biểu hiện.

Trái tim yêu dấu của thày, đây là sự sống dồi dào đích thực mà thày đã đến để cho con chứ không phải một con đường tắt dẫn đến của cải tạm bợ. Thày đã đến để cho con của cải của Tánh linh, vì như Giê-su có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con” (Matthew 6:33). Nếu con đi theo con đường thày đang phác họa, rất có thể con cũng sẽ nhận được tiền bạc hay những hình thức dồi dào vật chất khác. Để nhận được tiền bạc này, con phải trước hết tìm cầu sự dồi dào đích thực của tâm thức Ki-tô, sự công chính đích thực khi biết rằng con hợp lẽ với Thượng đế vì giờ đây con sẵn lòng là con người mà con thực là, tức một người đồng-sáng tạo đang ở đây để thị hiện Nước Trời qua những quyết định đúng đắn dựa trên tảng đá Ki-tô. Đây là nền tảng của dồi dào đích thực – con là con người mà con là, sẵn lòng thực thi uy lực mà Thượng đế đã ban cho con để cai trị, trước hết quả cầu cái ta của mình và sau đó vũ trụ vật chất.

A con yêu dấu, có lẽ con đang thoáng thấy sự sống dồi dào là nhiều hơn hẳn chuyện tiền của? Nếu con thấy được như vậy, con hãy cho phép thày trải bày cho con lý do thực sự tại sao con đã đến trái đất, và con ở đây để mang đến món quà độc đáo gì cho thế gian này. Đây mới là sự sống dồi dào, sự phong phú của việc trao tặng món quà vô hạn cho một thế giới hữu hạn, và nhờ vậy đưa thế giới hữu hạn này gần hơn với vương quốc vô hạn của Thượng đế.

Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn, phần 2

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, mà là buông bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tìm được một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, và sau đó họ lấy vào một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân cần cù thực tập, và họ tin chắc họ tiến bộ và một ngày kia Phật sẽ hiện ra ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là họ tin rằng một giáo lý thần diệu nào đó sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ. Con nhận ra đây là một ảo tưởng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã đang cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian mà nó nghĩ sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Những tiêu chuẩn này dựa trên tách biệt. Con biết là chúng không dẫn tới cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự thật là cái một, sự không thật là tách biệt và phân chia. Xin thày giúp con thấy là tự ngã nghĩ là nó có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt nó có thể trở về cái một. Nhưng điều này không bao giờ làm được. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tin rằng bước chân trên đường tâm linh là một cuộc phiêu lưu vinh quang dẫn họ tới những trạng thái tinh tiến hơn và đem lại cho họ chức vị và sự công nhận của thế gian.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày cho con thấy con đường tâm linh thật sự không vinh quang. Nó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, nhìn vào phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình, vạch trần các ngã tách biệt và cho chúng chết đi.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều đệ tử cho rằng khi họ đi theo vị đạo sư hoàn hảo thì vị đạo sư này có quyền năng thần diệu chuyển hóa họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ. Con nhận ra đấy là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn hiện thân trong thân thể vật lý thì con có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Con sẽ khiêm cung, thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một trạng thái hoàn hảo nào đó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy mọi sự đều là Phật Tánh và mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật Tánh. Xin thày giúp con nhận ra là trên cơ bản không có sinh thể nào có thể đặc biệt hơn, hoàn hảo hơn sinh thể khác.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con tiến cao hơn, con bắt đầu thấy cái tổng thể và do đó mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, thay vì nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt có khả năng nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, đi vào cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào cái một.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con học một giáo lý, con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng lý trí, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng bản sắc.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con không nắm bắt giáo lý ở tầng tình cảm, thì con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con hiểu giáo lý qua trí năng, thì con dùng sự hiểu biết trí năng để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra đấy không phải là nắm bắt giáo lý.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con cần dùng giáo lý như tấm gương để nhìn chính mình, nhìn phản ứng của chính mình, nhìn chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý, con thể nhập giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra là con đã đưa giáo lý vào hành động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra mục đích nội tại thật của một giáo lý là kết nối con với tâm một bên trong con để con ngưng phóng chiếu là tâm một ở ngoài con. Xin thày giúp con nhận ra là con có Phật tánh trong con, và con tìm thấy Phật tánh bằng cách nhìn bên trong con. Xin thày giúp con thấy là tâm tách biệt, tự ngã không thể nắm bắt điều này, nó tìm Phật ở ngoài nó.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con khám phá Phật tánh trong chính con, không qua sự hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp.  

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Xin thày giúp con thấy là nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài, nó tạo ra nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc nhưng nó không trở thành các nội dung đó.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Xin thày giúp con nhận ra là con chỉ chui vào tự ngã như con mặc vào một áo giáp, và con không mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con trau dồi khả năng bước ra ngoài tự ngã, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ tới điểm con tự nhiên trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi cái Ta Biết bước ra ngoài tự ngã thì con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Xin thày giúp con nhận ra đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực trên đường tâm linh phải nhắm tới trải nghiệm cái một, trải nghiệm nối kết. Xin thày giúp con nhận ra là tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Xin thày giúp con nhận ra con cần ngưng cố gắng, con cần ngưng các nỗ lực của ngã tách biệt muốn tạo sự tiến bộ tâm linh.   

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng nhưng không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Xin thày giúp con nhận ra con thật sự cần cho tâm con yên lặng, nhưng chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được để an tâm mình.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi tập thiền định, con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì con càng thật sự dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng bị kẹt trong tâm mình hơn. Xin thày giúp con thấy dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ khiến con rơi vào một cái bẫy mới.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con sẵn lòng tiến bước trên đường tu, khắc phục những ngã tách biệt. Xin thày giúp con nhận ra là sẽ có lúc con tới điểm trải nghiệm một cách tự phát mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên tâm mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một không phải là điều mà con có thể tạo ra, mà con chỉ có thể nhận được như một món quà, một ân huệ, nhưng không có một lực bên ngoài nào ban nó cho con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Xin thày giúp con nhận ra là con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước trên đường tu và chờ nó xảy ra. Con không dính mắc nó xảy ra hay không xảy ra.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con muốn trải nghiệm cái một xảy ra thì con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này đẩy nó xa ra khỏi con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là sẽ có một tầng trên đường tu khi con cần vượt lên trên nỗ lực, con cần vun trồng khả năng không nỗ lực.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con có thể trải nghiệm sự kết nối ngay lúc này nhưng con chỉ trải nghiệm được khi con từ bỏ nỗ lực.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là thay vì muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm, con có trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, con tiếp tục bước trên đường tu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng buông bỏ, phó thác, xả bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống. Con không nỗ lực. Con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn, phần 1

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhận ra nỗ lực cao là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã, tái lập hay mở rộng sự kết nối với cái ta cao của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả vì chúng chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí phần nào trong các tế bào vật lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là một thực tập tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng thực tập tâm linh không thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, ảo tưởng của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn nghĩ ảo tưởng là thật, chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con bị giam hãm trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi các ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng và buông bỏ chúng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là có thể có một sinh thể thấp hay tâm thức tập thể đã phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Nhưng con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con hay ra khỏi tâm con. Cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã đi vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép rất nhiều ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh và tất cả mọi thứ khác cũng là một biểu hiện của Phật tánh bất kể hình tướng vỏ ngoài như thế nào.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó vào trong tâm mình, thì cái Ta Biết bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra con giống như đang ở trong một căn nhà và căn nhà đó là các thể vật lý, bản sắc, lý trí và tình cảm của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước cửa sổ. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và qua phin lọc của ảo tưởng thì nó bị pha màu bởi rung động dựa trên sợ hãi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả, thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng đó được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể bản sắc, lý trí và tình cảm của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi năng lượng tích tụ thì nó tạo lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ, tỷ dụ, nổi giận hơn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, con quả thực đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung vào bất cứ gì, thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có có ba yếu tố. Con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Đây là điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà các thày gọi là “ngã” theo cách diễn đạt hiện đại hơn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có sự tự nhận biết của cái Ta Biết nên không tạo tác chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo tác một ngã nhưng ngã không thể tạo ra chính nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Ngã không thể thay đổi chính nó. Nó không thể cho phép nó chết đi. Nhưng nó có thể có thêm cường độ và lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngã có bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng dễ nóng giận hơn, nhưng nó không thể bớt nóng giận qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm điều này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là qua nhiều kiếp hiện thân, con đã dần dà tạo ra một tập đoàn các ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng tạo lực hút trên cái Ta Biết của con khiến nó bị hút vào tấm màn ảo tưởng. Con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng và quên khuấy con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng.  Con quên mình có sự nối kết với cái ta cao hơn của con, có Phật tính và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là người phàm, hoặc một kẻ tội đồ, hoặc một kẻ mang nghiệp quả lớn, hoặc một con vượn tiến hóa.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó, thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực cao là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra tự ngã và nó có một sự hiện hữu tạm bợ. Nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, nhưng ngày nào nó còn ở trong tâm con thì năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó và nó ảnh hưởng tâm con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một ngã tách biệt không thể chối bỏ mọi thứ đều liên thông, chối bỏ cái một. Đây là một giấc mơ bất khả thi của ngã tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con mong muốn bù đắp mất mát này. Xin thày giúp con nhận ra là con người có thể tạm thời phủ lấp khao khát kết nối bằng cách chìm đắm trong các sinh hoạt thế gian, nhưng sẽ tới điểm nỗi khao khát cái gì ở ngoài tâm sẽ trồi lên và con không thể chối bỏ nó nữa.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nâng cao nhận biết thì tự ngã sẽ nói: “Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên tới trạng thái cao này. Tôi có thể trở nên toàn hảo, bất tử.” Xin thày giúp con nhận ra đây là lời nói dối hoàn toàn và tự ngã sẽ không bao giờ đi vào được thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Xin thày giúp con nhận ra là con cần khắc phục từng ngã một bằng cách nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một số hoàn cảnh kích hoạt ngã hoạt động và khi đó nó làm chủ phản ứng của con. Xin thày giúp con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn sau khuôn nếp phản ứng. Xin thày giúp con đi sâu vào nó, đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng và dùng trực giác để thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con tới điểm bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt, nhìn nó từ bên ngoài và thấy ngã dựa trên ảo tưởng gì.   

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong cuộc sống của tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Xin thày giúp con nhận ra là một khi con thấy ảo tưởng, con sẽ giản dị tiến sang việc buông bỏ ngã, cho nó chết đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt mà con cần cho nó chết đi. Xin thày giúp con thấy ngã tách biệt là một dính mắc và con khắc phục dính mắc bằng cách buông bỏ ảo tưởng và ham muốn đằng sau sự dính mắc.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con nghĩ con phải thành tựu điều gì đó trên thế gian này để khỏa lấp cảm giác không trọn vẹn. Xin thày giúp con nhận ra là con không cần thành tựu bất cứ điều gì trên thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn. Con chỉ buông bỏ ý tưởng này và sau đó một cách tự nhiên con sẽ cảm thấy mình trọn vẹn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trạng thái mặc định là con cảm nhận sự kết nối với cái ta cao của con. Khi con buông bỏ ảo tưởng tách biệt thì con sẽ tự nhiên trở về cảm nhận kết nối. Xin thày giúp con thấy là con có thể mở rộng cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cái ta cao của con luôn có đó, nó luôn luôn gửi năng lượng tới con. Xin thày giúp con buông bỏ ý tưởng cho rằng con cần hoàn thiện cái ngã tách biệt đang ngăn cản con trải nghiệm sự kết nối. Xin thày giúp con nhận ra là con chỉ cần buông bỏ ngã là sẽ trở về trạng thái tự nhiên của sự kết nối.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cố gắng củng cố cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con đi xa hơn trên con đường tu. Xin thày giúp con nhận ra cố gắng giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối và đây là cố gắng cao.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Xin thày giúp con thấy là giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm giúp con thấy ảo tưởng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con sẵn lòng ngưng nhìn ra bên ngoài con, mà nhìn vào bên trong con. Con sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn các ảo tưởng của chính mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng. Con buông bỏ ý nghĩ cho rằng có cái gì thần diệu ở bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là một vị đạo sư không có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, đạt giác ngộ, nhập niết bàn. Vị đạo sư có thể phơi bày, kích hoạt một khuôn nếp phản ứng mà con có nhưng vị ấy không thể lấy quyết định bỏ ảo tưởng hộ con vì quyết định được làm ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con sẵn lòng nhìn một cách ý thức quyết định chấp nhận ảo tưởng và tạo ngã tách biệt mà con đã lấy trong quá khứ, và con lấy quyết định một cách ý thức cho ngã tách biệt này chết đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con nhận ra là tinh túy của con đường tu chân chính là khắc phục các ngã tách biệt, phơi bày chúng hiện lên trong tâm ý thức và sau đó con thải bỏ các ngã này một cách ý thức. Con sẽ không học và thực hành giáo lý tâm linh để chứng tỏ mình là một học trò tâm linh cao trội.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

6 | Con thỉnh cầu ý định cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhìn ra ý định cao hơn của con, đó là không ngừng nâng cao mức nhận biết của mình, hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình và biểu hiện bản thể cao của mình, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người này, con nhìn thế giới, bản thân và cuộc đời theo một cách nào đó. Con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thực hiện, một số vật mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Nhưng khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra ý định mà con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất. Con có hai loại ý định, một ý định sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất. Và con cũng có một ý định vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua thử thách muôn đời là quân bình cả hai ý định đó. Hãy giúp con dung hòa sự kiện con đang ở đây với ý định là con sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn. Hãy giúp con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng mong muốn của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con không nhìn Chánh tư duy theo cách vỏ ngoài là phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. Hãy giúp con không dán nhãn ý định này là sai, cần kìm nén, và ý định kia là đúng, cần thực hiện.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã bước vào đường tu với một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ đường tu. Nhưng một khi con đã nâng cao mức nhận biết, xin thày giúp con tái xét lại các ý định này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã tự đặt mình vào tâm thức nhị nguyên khi con quy định ý định nào là đúng, ý định nào là sai. Hãy giúp con thấy khi làm vậy, con cũng tự đặt mình vào tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực trên chính mình, sẵn lòng vận dụng ý chí, chú ý và tập trung để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có cưỡng ép tâm con để nó không suy nghĩ, để nó không có ý tưởng, và điều này đã tạo ra nỗi căng thẳng to lớn cho con. Có thể con đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Xin thày giúp con nhận ra con không cần dùng đến sức mạnh.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trước khi đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào? Đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để nâng cao mức nhận biết đó? Và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai sắp tới?”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Kế hoạch Trọn đời là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Con đã quyết định tự đặt mình vào những tình huống bắt buộc con phải nhìn thấy và giải quyết một số khía cạnh cụ thể trong tâm lý của con. Theo một nghĩa nào đó, con tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng khi con bước vào đầu thai thì con quên mất mình đã lập ra kế hoạch như vậy.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nối kết lại với Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Cho nên khi con bước vào kiếp đầu thai và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn hay người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình, con muốn trấn áp các cảm xúc và các tin tưởng, con muốn kềm chế tình huống để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con tự hỏi: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi? Tại sao tôi có khuôn nếp phản ứng này đối với một số loại người?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy chính câu hỏi đó sẽ giúp con hình thành một ý định cao hơn. Khi con sẵn lòng nhìn thấy và khắc phục các khuôn nếp, thì con cũng đang nối kết với ý định đằng sau Kế hoạch Trọn đời của con. Đây là ý định của chính con. Không còn yếu tố vũ lực nào ép buộc con nữa.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Một là tự ngã có ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Nó khiến con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Nhưng đó không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Đây mới là ý định của con, và con nối kết lại với ý định này.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhờ đó mà trả lời câu hỏi: “Tôi là ai? Ai đang thu nhận lời dạy này, và ai đang cưỡng lại lời dạy này? Ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn đóng tâm lại? Ai là cái ta nhận biết mình đang ngồi trên ghế này, và ai là cái ta có khả năng lùi lại trong tư tưởng để nhìn cơ thể đang ngồi trên ghế này?”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm con có thể bước ra khỏi cơ thể bằng tư tưởng, rằng con không phải là cơ thể vật lý. Con cũng không là các tình cảm của con, không là các ý nghĩ của con, thậm chí không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con cũng có thể bước ra ngoài cảm xúc, ý nghĩ cùng ý niệm bản sắc của con. Con giống như một diễn viên khoác vào một bộ trang phục, một lớp phấn son, thậm chí một giọng nói và một nhân cách đặc thù, và diễn viên này bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái ta của con. Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi, nó là nhiều hơn bốn thể phàm của con. Cho nên nó không thể được mô tả bằng ngôn từ hay những tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt khỏi mức nhận biết của tâm vỏ ngoài chỉ có thể nắm bắt, phân loại, gắn nhãn và mô tả. Hãy giúp con buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của con để con có được một trải nghiệm gọi là thần bí.  

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra trải nghiệm thần bí này thật chẳng thần bí gì cả. Đó là trải nghiệm về cái ta ý thức, cái Ta Biết, là cái ta đã chế tạo ra cơ thể vật lý cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, và sử dụng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường trên trái đất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là vì cái ta đã bước vào tâm con, cho nên nó cũng có khả năng bước ra ngoài tâm con. Nó có thể nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng nó cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể để ý thức chính nó vượt hơn bốn thể, nó vượt hơn tâm. Con thấy đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái ta đang bước lên các bực thang tâm thức chính là cái Ta Biết. Cái ta mà con là luôn luôn có tiềm năng thay đổi các khuôn nếp một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng mới trong lần kế tiếp.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Trong khi đó, ngã vỏ ngoài bị buộc chặt vào bực thang tâm thức hiện tại. Nó phản ứng theo một chương trình tiềm thức nơi nó thực sự không có chọn lựa, vì chương trình này đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của con mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là phản ứng, con không là cảm xúc, con không là ý nghĩ, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài trái đất.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến đây là để có một số trải nghiệm có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có trải nghiệm, cái ta đã phải tạo ra những nội dung trong tâm, để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê và mong muốn một cái gì hơn nữa. 

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Khi con chán chê và muốn hơn nữa thì con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh. Con ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào tâm, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày càng có ít hơn. Con càng ngày càng tự do hơn. Giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Khi đó, con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Nhưng con không trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của mình mà bây giờ con có thể biểu đạt trên trái đất. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con trả lời câu hỏi: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ? Liệu tôi có mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó không? Liệu tôi đã tự đặt mình vào một tình huống nơi tôi có thể có trải nghiệm này trong một thời gian để tôi có thể chán chê chuyện này?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con bước vào trải nghiệm cho đến khi con không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó nữa. Con đạt tới điểm khắc phục sự dính mắc, khắc phục sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn. Con có thể hoặc chọn ngừng hẳn hoạt động này, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc, và trong cả hai trường hợp, con tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Con thấy là nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con quân bình được cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện con là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh. Hãy giúp con ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào cũng đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Con bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Trung đạo là thăng vượt cả hai. Con không phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mọi thứ đều là Phật tánh. Con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng đang che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Không còn nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh.” Khi con tiếp cận mọi hoạt động với ý định tăng triển nhận biết của mình, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình, thì mọi hoạt động đều trở nên tâm linh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con nhận ra lũ quỷ của Mara đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến con bác bỏ lời dạy này của thày để con lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi. Xin thày giúp con biến lời dạy này thành con thuyền Bát nhã để con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với bây giờ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Con thỉnh cầu lời nói cao hơn (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thực hiện lời nói cao hơn, bằng cách dùng lời nói để phú cho năng lượng những đặc tính dựa trên tình thương, để con nâng cao tâm thức của con lẫn của mọi người, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cách dịch từ “Chánh ngữ” có thể khiến con tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Nhưng đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Để thấu triệt lời nói cao là gì, con muốn thấu hiểu năng lượng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Thế giới được cấu tạo bằng năng lượng. Tất cả mọi thứ con làm, kể cả lời nói, đều được làm với năng lượng. Nhưng năng lượng không chỉ có khía cạnh vật lý, mà năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có nhiều rung động năng lượng vượt ngoài phạm vi phổ tần số vật lý, ở các phổ cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và vượt lên nữa là cõi tâm linh với những rung động cao hơn, vượt ngoài khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thế giới không qua ý thức hệ duy vật. Sở dĩ xã hội hiện đại phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn, là vì các nhà duy vật khi họ chiếm lãnh khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thế giời không bằng tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc, chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh và phân tích. Tâm này tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con trải nghiệm cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, đây là một trải nghiệm khách quan đáng tin cậy. Trực giác là một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con tra vấn sự nhận biết của con, tra vấn tâm con. Hãy giúp con thoát khỏi thói quen muốn diễn giải trải nghiệm của mình cho ăn khớp với cách khoa học diễn giải, khi chính khoa học cũng không trung lập hay khách quan.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để trải nghiệm sự thật rằng vũ trụ đã không khởi đầu ở một điểm dị biệt độc nhất trong cõi vật lý, mà đã có một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số cao hơn để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Nhưng năng lượng từ cao không tuôn xuống qua một lỗ nhỏ độc nhất. Trái lại, một khối năng lượng rất lớn đã được giảm độ rung từ phổ tần số cao xuống phổ tần số vật chất trong một cuộc thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra khái niệm lưỡng tính hạt-sóng của khoa học duy vật cũng chỉ là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô không thể phát hiện bằng giác quan. Nhưng kỳ thực, vật chất là năng lượng và năng lượng thì là sóng, cho nên ở mức hạ nguyên tử, không có hạt nào có thể được nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm rằng cách con hình thành các khái niệm tác động đến cách con nhìn thế giới. Xin thày giúp con nhận ra dụng cụ cơ bản mà con sử dụng chính là tâm con. Giúp con nhận ra hạn chế của dụng cụ này, không những khi con dùng tâm để quan sát, mà cả khi con dùng tâm để diễn giải quan sát.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp con thay đổi hoàn cảnh vật lý của con. Liệu con có tìm một loại đũa thần trong giáo lý có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý hay không?

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế sẽ tưởng thưởng con nếu con làm theo những gì ngài bảo là đúng. Liệu con có hy vọng là bằng cách làm những gì được tôn giáo con quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn?

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra niềm tin đó là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng. Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng nỗ lực dụ dỗ của con thì con sẽ chẳng làm gì được. Con sẽ bị kẹt cứng, con bị tước mất quyền năng.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng. Xin thày giúp con chiêm nghiệm rằng sở dĩ tâm con có sự ý thức là do có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con, trước tiên nó đi vào tâm bản sắc nơi nó được phú cho đặc tính, nó khoác lấy hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Giống như một chiếc kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu sẽ tô màu ánh sáng chiếu xuyên qua nó, năng lượng từ cao cũng đi qua tâm bản sắc, đi xuống tâm lý trí nơi nó lại khoác vào một số tin tưởng gây giới hạn. Xong nó đi xuống tâm cảm xúc, khoác vào một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi hay nghi ngờ. Rồi năng lượng đi vào tâm ý thức, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tâm con tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm thế giới vật chất trên địa cầu cũng được cấu tạo bằng bốn tầng này: vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm con là một sinh thể đồng sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con đồng sáng tạo bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm con khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và con phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, vào năng lượng cấu tạo bốn tầng của vũ trụ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi. Con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn đưa năng lượng vào phổ vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Năng lượng này đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó kết tụ thành những hạt vật lý, ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng giờ đây đến lượt con cũng đồng sáng tạo theo cùng một cách, nhưng từ bên trong, khi con cho phép năng lượng chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt trong trường năng lượng rộng lớn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, lý trí, bản sắc, nhưng tất cả những tâm con người cá biệt đều nối kết, hình thành tâm tập thể.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Đây là một giáo lý trao quyền năng cho con, bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu của chính con, phối hợp với tác động liên kết của tâm tập thể và cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Với cách hiểu trao quyền năng này, con nói: “Có thể tôi không thể thay đổi từng khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số, bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống tôi không thể thay đổi, chắc chắn tôi vẫn có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là con khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng để con phú đặc tính cho năng lượng. Giọng nói chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Để biểu hiện lời nói cao hơn, con ý thức giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính, phóng chiếu năng lượng đó ra ngoài. Con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Năng lượng cũng có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có mang một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc của con, cho nên nếu có ai tức giận với con thì các khuôn nếp này sẽ bị khuấy động.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con cảm nhận điều này bằng cách trụ vào tim và tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi không? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Điều này cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Con chiêm nghiệm là bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ, vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ trở về với con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp chiêm nghiệm nghiệp quả là gì. Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi qua thể lý trí, cảm xúc, vật lý rồi được phóng ra ngoài vũ trụ. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi tấm gương vũ trụ, và nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi lý trí, cảm xúc, vật lý. Nghiệp là sự phản hồi về chính con của năng lượng con đã gửi ra.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Nhưng nếu con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương, thì nó đi vào bốn tầng của vũ trụ và khi đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu về con. Nó vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Giờ đây con nhận được nhiều năng lượng hơn với rung động cao từ cái ta cao, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Phật Gautama, con hiểu ra tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ, tại sao có Biển Luân hồi. Là vì trái đất là một hệ thống năng lượng. Khi phần lớn năng lượng trong hệ thống bị tha hóa bởi rung động thấp dựa trên sợ hãi, tâm con người bị quá tải, con người bị đau khổ, buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận… Những cảm xúc thấp này làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm phương thức để thoát khỏi khổ đau là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Con chiêm nghiệm là khi con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó được gửi trả về cho con, khiến trong năng trường của con có sự phản ứng, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp đang có mặt. Con căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Phật Gautama, xin thày giúp con loại bỏ các khuôn nếp phản ứng mà con đang có, để trong năng trường của con không có gì tương tác với năng lượng gửi đến.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Con chiêm nghiệm là khi con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một mô thức giao thoa giữa hai sóng – một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên. Kết quả là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng giọng nói của con như một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy con chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực kéo trên tâm con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Con thỉnh năng lượng có tần số cao để tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Con dùng các bài chú, bài thỉnh. Đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói cao hơn, là con dùng quyền năng của giọng nói để biến hóa năng lượng sợ hãi thành năng lượng tình thương.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra là thay vì trấn áp bằng sức mạnh một số hình thức phát biểu – như tránh nói giận dữ, tránh nói to, cố ăn nói nhỏ nhẹ trong tư cách một người tâm linh – thì con dùng giọng nói để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Con thấy đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Con xem mọi chuyện xảy ra trong đời mình như một cơ hội để nhìn ra một điều gì trong tâm thức, và con khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

12 | Con thỉnh cầu sinh kế cao hơn (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thực hiện sinh kế cao hơn bằng cách phụng sự và nâng cao cả tổng thể trong lãnh vực của con, và nhờ vậy con đạt được sự giàu có đích thực là một nội tâm trọn vẹn, viên mãn, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con tập trung vào từ “chánh” trong Chánh mạng, con sẽ định ra những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Làm vậy sẽ không chỉ hạn chế chọn lựa của con trong việc tìm kế sinh nhai, mà cả trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của con.  

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Con thấy có rất nhiều hỗn loạn trên thế giới nhưng đồng thời cũng có một hướng tiến triển, nhưng do đâu đã có tiến triển như vậy? Là vì đã có những người hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi nhận biết bình thường của con người. Mức nhận biết cao này là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh bên trong và mỗi người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Một khía cạnh trong Phật tánh là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài cho rằng con là một sinh thể tách biệt khỏi người khác và thế giới. Con vươn đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con chứng tâm thức Phật.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Khía cạnh thứ hai là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Nhờ vậy con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì trên trái đất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cải tiến đó xảy ra khi con tham gia vào một lãnh vực của cuộc sống, đồng thời con cũng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm con, để nhận được một ý tưởng từ mức nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sinh kế thực sự của con là khi con cải thiện và nâng cao một khía cạnh của cuộc sống. Hãy giúp con không nhìn vào đủ loại nghề kiếm sống rồi bảo: “Ồ các loại nghề này, một người tâm linh sẽ không nên làm.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, hãy giúp con tìm được thế cân bằng tế nhị ở đây. Một mặt có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần, vì chúng sẽ được bỏ lại khi tâm thức loài người tiến bộ hơn, khi càng ngày càng có nhiều người giải quyết được tâm lý cá nhân của mình, và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Mặt khác, có những hoạt động mang tiềm năng xây dựng, như kinh doanh chẳng hạn. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh để nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này và đẩy nó tiến tới. Con muốn hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái này. Con không phân chia hoạt động nào là đúng hay sai.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đây chính là ý nghĩa thâm sâu của câu “Mọi thứ đều là Phật tánh.” Con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Tất cả đều có tiềm năng là việc tâm linh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Lúc ban đầu, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, nhưng con người đã kéo trái đất xuống, khiến cho đau khổ trở thành trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống. Chính con người đã tạo ra đau khổ bằng cách hình thành những tâm ảnh trong thể bản sắc, lý trí và càm xúc của mình, rồi phóng chiếu lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Nhưng đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra khổ đau và điên đảo trên trái đất được tạo ra không từ nhận biết về tổng thể, mà từ nhận biết rằng con người là sinh thể tách biệt. Nhận biết tách biệt là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Con nhìn lại một số hoạt động và con nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Những hoạt động hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả mà chúng đem lại. Chúng cũng không đếm xỉa gì tới chính những người mang tâm thái đó, họ bị chi phối như thế nào, họ gây ra những nghiệp gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao – ngay cả khi họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con áp dụng sự lượng định này cho mọi hoạt động của con, kể cả cho kế sinh nhai của con: “Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt?”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mà con đã lập ra trước khi đầu thai. Con nói: “Đâu là nơi tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Con làm vậy không những trong lãnh vực kinh doanh mà có thể trong chính trị, hành chánh, giáo dục hay rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Những khía cạnh này không hoàn toàn nguy hại, chúng có chỗ cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi con dấn thân vào trong đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Đối với người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu. Quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con để tìm xem trong đó có ghi những gì.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Con không còn nghĩ đến việc sinh kế như là chuyện kiếm tiền, rằng con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Con từ bỏ mọi giấc mơ làm giàu chớp nhoáng, hy vọng rằng con sẽ tìm ra cách kiếm được số tiền kếch sù để con đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng chuyện tiền bạc hầu có thể tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Con từ bỏ mọi giấc mơ tìm một con đường tắt, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Thay vào đó, khi con làm việc bình thường và từ từ kiếm đủ tiền, con ngộ ra là sự tham gia vào xã hội vẫn nằm trọn trong việc đeo đuổi tâm linh của con. Tất cả mọi thứ đều trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con có việc tham gia vào một lãnh vực nào đó để đem lại một số cải thiện. Thậm chí, chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo mọi người trong lãnh vực này đi lên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra tài nguyên thực trên trái đất không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng tài nguyên thực không chỉ là năng lượng, đó là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Xin thày giúp con biến tâm con thành một cửa vào cho năng lượng này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tiền bạc sẽ không bao giờ đủ để đem lại an bình cho con. Điều khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này, năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Nhờ vậy, không những con có năng lượng sáng tạo để thị hiện, mà con còn cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con, con cảm thấy mình bị bỏ rơi. Nhưng sự bỏ rơi chỉ diễn ra trong tâm con, chứ thực sự không có bỏ rơi. Kỳ thực con nối kết với cái ta cao, con là một biểu hiện của cái ta cao. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian để trải nghiệm thế giới từ bên trong.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra là con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết với cái ta cao, nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh của tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Đó là tại sao con cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn, thiếu sót, không trọn vẹn, tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng bên trong.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Tự ngã có một lỗ hổng bên trong mà nó không thể nào lấp đầy. Nó được tạo ra trong thế gian, nên nó chỉ biết cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải, thiếu hụt, là đạt được gì đó từ thế gian, kể cả tiền bạc. Tự ngã không ngừng đuổi theo thế gian vì nó tưởng nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng nó sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con là cái ta mà con là. Hãy giúp con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn trong thế gian khi con loại bỏ các ảo tưởng của Maya một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Con thiết lập sự nối kết ý thức ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, hãy giúp con có được cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn trong bản thân mình. Con không cần bất cứ gì từ thế gian để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể muốn có, muốn trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con bước ra ngoài tự ngã để con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng Phật Gautama, xin thày giúp con lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao của con và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, gọi là trải nghiệm thần bí. Hãy giúp con ngày càng nối kết nhiều hơn, để những lần bị ngã vỏ ngoài áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn, và con hiểu đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Con hiểu ra Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao. Con nối kết rộng mở hơn, nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng sai lầm hầu con làm sạch các thể đó. Con tạo ra nhiều khoảng trống hơn để năng lượng chảy xuống nhiều hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Con thỉnh năng lượng chảy xuống. Con thỉnh các chân sư thăng thiên cùng những năng lượng đặc thù mà các thày biểu tượng. Con thỉnh cả bảy tia sáng tâm linh và con gia tăng dòng chảy của năng lượng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thực hiện ngụ ngôn về các ta-lăng. Khi con dùng năng lượng nhận được từ cõi cao để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại cải tiến, khi con gửi ra ngoài một xung lực năng lượng dựa trên tình thương sẽ luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì nó vượt quá vũ trụ vật chất và được nhân lên. Và con được nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng. Con dùng năng lượng với một nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh của tổng thể, và kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Con bỏ hẳn việc dùng giáo lý tâm linh để tạo lợi thế cho ngã tách biệt, để cảm thấy an toàn yên ổn hay tốt thiện hơn người. Và đây là mục đích của Bát chánh đạo: Con ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con nối kết với mọi người, với môi trường, với mọi sự sống. Con hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể. Đây chính là Phật tánh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Đây là kế mưu sinh tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào việc đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý, gia đình, cùng những trách nhiệm khác của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

32 | Thỉnh cầu kết nối với Phật Gautama (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Phật Gautama hãy giúp con thấy liệu con đã cho phép một giáo lý vỏ ngoài hay một cách diễn giải giáo lý ngăn cản con trải nghiệm trực tiếp sự Hiện diện của thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con thấy có sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau ngôn từ giáo lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con thực sự muốn sử dụng giáo lý, và con thấy là con cần vượt lên trên diễn giải ngôn từ. Con không chỉ đi tìm cái hiểu, không chỉ đơn giản nắm bắt, mà con đi tìm trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau chữ nghĩa.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con thấy là lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và con sẵn lòng chỉ sử dụng giáo lý vỏ ngoài như một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà nơi tâm vị này lời dạy đã phát xuất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố gắng hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng giáo lý cao nhất. Con thật không đang dùng giáo lý, vì mục đích của một giáo lý là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con thấy được là khi con cố hiểu và diễn giải giáo lý với mức tâm thức hiện tại của mình, thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con nhìn ra là Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng giữa hai đối cực trên một thang điểm đường thẳng, mà Trung đạo là sự thăng vượt thang điểm nhị nguyên, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, có nghĩa là thăng vượt chính tâm đường thẳng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, con thấy là con không thể dùng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết – ở đó không có gì hết.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con thấy thày đã nói là không có một cái ngã trường cửu bất biến, mà có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt, và cái ta này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con thấy được ý định của thày là nâng cao tâm thức con vượt lên trên tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con thấy con có thể lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi cao có những sinh thể tâm linh, các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Con cũng có thể lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con thấy được giá trị thực của khái niệm trống không là không có một ngã trường cửu bất biến. Con là một cái ngã, một cái ta. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết là sự trống không, theo nghĩa cái Ta Biết không phải là bản sắc, ý tưởng và cảm xúc của con, bởi vì những thứ này ngụ trong tâm hay được sản xuất bởi tâm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì con có thể tập trung vào chính tâm thức. Tâm thức có thể trống rỗng mọi nội dung, và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con thấy là con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con hành động, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con thấy là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết thì có vẻ như con bước vào hình thức tối hậu của sự trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết bây giờ trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy là điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà trái lại có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ khi con thăng thiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không có nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, tức sự trống không tối hậu. Không hề có một trạng thái trống không tối hậu được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy là mặc dù khoảng trống (void) của đấng Sáng tạo có thể được quan niệm như là trống không, nhưng con không thể trải nghiệm khoảng trống đó, vì trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm được?

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con thấy một số người tuyên bố là họ đã trải nghiệm thực tại cao nhất, nhận biết thuần khiết, trạng thái nhận biết tối hậu, nhưng họ đã trải nghiệm một trạng thái do các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con buông bỏ xu hướng phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Con buông bỏ con quái vật đó, khuôn đúc đó, cái ngã đó trong tâm thức tập thể có vẻ như trống rỗng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con thấy đã có sự phóng chiếu một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không thể là một trạng thái tâm thức tối hậu. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Nó có một mục đích, đó là tăng triển đến những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con thấy được là con không tăng triển đến những tầng tâm thức cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con thấy là con đã được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con và vươn đến những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Đó là nơi con tìm được ý nghĩa càng ngày càng sâu sắc trong việc biểu đạt chính mình như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con sẵn lòng thăng vượt tâm thức nhị nguyên, là tâm thức tùy thuộc vào định luật thứ nhì của nhiệt động học, hầu con không cần dùng đến sức mạnh để lên thiên đàng. Con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con thấy được thiên đàng không phải là một địa điểm vật lý. Đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác. Cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy có một cái Ta ở cõi tâm linh và con đã đi ra từ cái Ta này. Con đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con. Chúng đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thấy là bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con thấy ở cõi cao có một cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó. Nói cho cùng, đó là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo, sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên, xuống tận đến dưới này là bầu cõi chưa thăng thiên ở đây.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con thấy các chân sư thăng thiên cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ của con đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con thấy là cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con thấy đó là chức năng của cái Ta Biết, đó chính là tiến trình thăng thiên. Khi con hoàn tất tiến trình này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình có thể dẫn con đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con sẵn lòng hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Một khi con thăng thiên, con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con thấy một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh, vì con luôn luôn có thể dùng nó để kết nối với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con thấy được là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày sẽ có thể cho con một điều gì đó vượt khỏi lời dạy thành văn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng kết nối và nhận được điều gì đó từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có thể thày với con sẽ hòa điệu theo một cách vượt trên ngôn từ. Con sẵn lòng có cuộc gặp gỡ đó trong tâm, và gặp gỡ đó không trống không vì con thấy được trống không là một khái niệm rỗng tuếch.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

30 | Thỉnh cầu sự giao tiếp vượt trên lời nói (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi PadmaSambhava hãy giúp con nhìn thấy làm thế nào con đã có thể dùng lời nói để ngăn cản chính mình chấp nhận mình là Hiện diện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. PadmaSambhava, con thấy cản trở lớn nhất, chướng ngại lớn nhất cho tiến bộ tâm linh là ngôn từ.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.2. PadmaSambhava, con thấy tài nguyên lớn nhất cho các vị thày tâm linh của nhân loại, cơ hội lớn nhất cho tiến bộ của người tâm linh, cũng là ngôn từ.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.3. PadmaSambhava, con thấy trên một hành tinh như địa cầu, với sự dày đặc của vật chất lẫn của tâm thức đại chúng, việc thần giao cách cảm thật không thực tế. Do đó giáo lý tâm linh phải được chuyển tải qua ngôn từ.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.4. PadmaSambhava, con thấy là con người có xu hướng trở nên dính mắc với một cách diễn đạt bằng lời đặc thù, và họ muốn lời này truyền đạt hay quy định một chân lý tối hậu nào đó.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.5. PadmaSambhava, con thấy là trí năng con người có thể làm nhiều trò ảo thuật với ngôn từ. Nó có thể diễn giải theo cách của nó. Nó có thể chẻ nhỏ thật chi li. Nó có thể suy diễn bất tận.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.6. PadmaSambhava, con thấy là nhiều người khi tìm ra một giáo lý tâm linh dù là mới hay cũ, thì họ sẽ tranh luận bất tận về ý nghĩa ngôn từ, họ diễn giải bất tận để cố làm sao đạt đến một cách diễn giải tối hậu nào đó.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.7. PadmaSambhava, con thấy là nhiều người tâm linh hay nhìn ngược về phía sau. Họ nhìn ngược dòng thời gian, như thể họ cho rằng thuở trước là một thời thuần khiết hơn, và vì vậy lời tiết lộ nhận được cũng là lời tiết lộ cao nhất có thể được trao truyền.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.8. PadmaSambhava, con nhìn nhận là mức sống con người đã có tiến bộ, và con thấy tiến bộ này đạt được là do tâm thức tập thể ngày nay cao hơn thời quá khứ.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.9. PadmaSambhava, con thấy lời tiết lộ ở những thời trước được trao truyền cho một mức tâm thức thấp hơn. Điều này có nghĩa là nó không chính xác bằng những gì có thể được trao truyền ngày hôm nay. Có nhiều khoảng rộng hơn để người ta diễn giải.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 2

2.1. PadmaSambhava, con thấy là càng có nhiều khoảng rộng để diễn giải thì tâm đường thẳng càng dễ giở trò phù phép của nó, và những ai mắc bẫy tâm đường thẳng càng có thể dùng trí năng “cao trội” của họ để tự ban cho mình một địa vị đặc quyền.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.2. PadmaSambhava, con thấy là các lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong thế kỷ vừa qua cho thấy một chiều hướng tiến triển rõ ràng. Con thấy được khía cạnh Omega của tiết lộ tuần tự là để khiến cho lời giảng bình dị, hầu càng ngày càng có nhiều người nắm bắt được.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.3. PadmaSambhava, con thấy một lời dạy rõ ràng hơn cũng có nghĩa là những ai ở một mức tâm thức cao hơn không còn nghi ngờ về những điều được bày tỏ, không còn nhiều khoảng rộng như trước để mà diễn giải.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.4. PadmaSambhava, con thấy là một lời dạy được trao truyền bằng lời nói luôn luôn sẽ bị suy diễn vì con người sẽ suy diễn dựa theo mức tâm thức hiện tại của họ. Nhưng ít ra các thày làm những gì mình có thể làm từ cõi thăng thiên để giúp cho giáo lý càng khó tranh cãi, càng chính xác càng tốt.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.5. PadmaSambhava, con thấy lời dạy mà các thày đang ban truyền không phải là giáo lý tối thượng. Nó có thể sẽ chính xác hơn nữa trong tương lai khi tâm thức tập thể vươn lên cao hơn.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.6. PadmaSambhava, con nhìn ra là việc quay lại cái cũ không thực sự hiệu quả, đặc biệt khi chúng ta đang ở một thời kỳ chuyển tiếp giữa hai chu kỳ tâm linh, từ thời Song ngư chuyển sang thời Bảo bình.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.7. PadmaSambhava, con thấy là các lời dạy trong thời Song ngư đã được đưa ra cho mức tâm thức của chu kỳ đó, và giờ đây các thày đang giảng dạy cho thời Bảo bình.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.8. PadmaSambhava, con thấy là khi con nghe nói lần đầu tiên về Hiện diện TA LÀ, con thỉnh gọi, con cầu nguyện, con đặt câu hỏi bằng ngôn từ.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.9. PadmaSambhava, con thấy là ở một tầng nào đó trên đường tu tâm linh, con có thể nhận được sự hướng dẫn bằng lời nói hay câu trả lời từ Hiện diện TA LÀ của con – không phải một giọng nói ầm ầm từ thiên đàng vọng xuống mà lời nói đến với con từ bên trong tâm con.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 3

3.1. PadmaSambhava, con nhìn ra là khi con lên đến tầng cao hơn nơi con cần bắt đầu trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, thì con không thể đạt được hợp nhất bằng cách tiếp tục giao tiếp bằng lời nói với Hiện diện TA LÀ của con.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.2. PadmaSambhava, con thấy là chỉ khi con nói chuyện với một sinh thể bên ngoài tâm con, một sinh thể tách biệt với con, thì con mới cần giao tiếp bằng lời nói. Sẽ tới một điểm sự giao tiếp bằng lời nói sẽ trở thành một trở ngại ngăn con đạt được Hợp nhất rộng lớn hơn với Hiện diện.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.3. PadmaSambhava, con lấy quyết định ý thức ở đây là con sẽ ngừng tiếp cận Hiện diện TA LÀ của con qua ngôn từ.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.4. PadmaSambhava, con ngừng chờ đợi là con sẽ nhận được hồi đáp bằng ngôn từ. Con vẫn có thể nhận được xung lực hồi đáp từ Hiện diện, nhưng xung lực này sẽ không mang hình dạng lời nói, mà sẽ là một cảm giác hay một hình ảnh.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.5. PadmaSambhava, con thấy là cuối cùng ngay cả cách đó cũng phai nhạt đi. Con không còn tìm cách nhận được điều gì từ Hiện diện hay giao tiếp với Hiện diện của con, bởi vì sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô tan biến mất.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.6. PadmaSambhava, con không còn hướng bất cứ gì về Hiện diện, con không chờ nhận được gì từ Hiện diện của con. Con là một với đại dương của Hiện diện và tâm con chảy với Hiện diện, khi lên khi xuống.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.7. PadmaSambhava, con không phân tích, con không lý giải, con không suy diễn, con không cố cắt nghĩa hay đặt chuyện này chuyện nọ vào một khuôn khổ vũ trụ hay một tầm quan trọng vũ trụ. Con chỉ – con là Hiện diện và Hiện diện cũng chính là con. Đâu còn nhu cầu giao tiếp bằng lời nữa?

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.8. PadmaSambhava, con sẵn lòng đọc câu thần chú của thày, vì thần chú không phải là ngôn từ. Đó là những âm thanh không mang ý nghĩa nào mà tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.9. PadmaSambhava, con sẵn lòng trải nghiệm âm thanh câu thần chú của thày đang làm cho tâm vỏ ngoài yên tĩnh, để con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày cũng như Hiện diện của con.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 4

4.1. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.2. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.3. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.4. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.5. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.6. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.7. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.8. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.9. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

28 | Thỉnh cầu Hiện diện của con (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Maitreya hãy giúp con nhìn ra những gì con cần buông bỏ để trải nghiệm mình là Hiện diện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thực sự con không chia cách khỏi cõi tâm linh, theo nghĩa là cõi tâm linh thâm nhập vào cõi vật lý.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.2. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang bao quanh con, nó ở trong con, nó ở với con cho dù con ở đâu.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.3. Maitreya, con sẵn lòng xoay chuyển và nhận ra là con sẽ không thực sự nối kết với Hiện diện TA LÀ bằng cách phóng chiếu ra hình ảnh đã được bao nhiêu tôn giáo truyền tải, rằng Hiện diện TA LÀ của con giống như một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ không phải là một thượng đế, vì Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể thăng thiên. Nó sẽ trở thành một sinh thể thăng thiên khi con, cái Ta Biết, thăng lên nhập lại với Hiện diện.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.5. Maitreya, con nhìn nhận có sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và một chân sư thăng thiên. Chân sư thăng thiên đã thăng thiên. Còn Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa là một chân sư thăng thiên mặc dù nó cư ngụ nơi những tầng thấp của cõi tâm linh.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.6. Maitreya, con sẵn lòng xoay chuyển tâm mình và thách thức hình ảnh về một khoảng cách giữa con và Hiện diện. Con thách thức mọi hình ảnh con đã hình thành trong tâm khi bước chân trên đường tu, ngay cả những hình ảnh con đã hình thành dựa trên lời dạy của các chân sư.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.7. Maitreya, con sẵn lòng xem lại đường tu của mình và nhìn ra là khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, con đã hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ dựa trên mức tâm thức của con lúc đó, cho nên tâm ảnh này không chính xác, nó không thể giúp con nối kết với Hiện diện.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.8. Maitreya, con buông bỏ tiền đề cho rằng bởi vì con đã có thể tìm thấy giáo lý cao siêu này của chân sư thăng thiên, thì con phải ở một mức tâm thức rất cao siêu. Con nhận ra là vị thày xuất hiện do con cần đến giáo lý, có nghĩa là con không ở mức tâm thức cao nhất.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.9. Maitreya, con nhận ra là cách con nhìn các chân sư thăng thiên khi con mới tìm thấy giáo lý không phải là cách nhìn cao nhất về các chân sư. Cách con nhìn Hiện diện TA LÀ khi con mới tìm thấy giáo lý cũng không là cách nhìn cao nhất về Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 2

2.1. Maitreya, con nhận ra là con đã tìm thấy giáo lý ở một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con đã dùng giáo lý để hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ của con. Con buông bỏ niềm tin rằng tâm ảnh này chính xác, cao nhất có thể.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.2. Maitreya, con nhìn nhận là tâm ảnh đã được hình thành về Hiện diện TA LÀ ở các tầng thấp hơn thật không thoả đáng, vì con cần bước lên một mức quan hệ cao hơn với Hiện diện của con. Con sẵn lòng thay đổi tâm ảnh của mình về các thày cũng như về Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.3. Maitreya, con nhìn nhận là khi con hình thành tâm ảnh đó với tâm đường thẳng thì con đang đứng nhìn từ xa: “Tôi đang ở đây, tôi là chủ thể. Hiện diện TA LÀ của tôi ở trên kia, đó là một đối tượng mà tôi đang tìm hiểu, đang tiếp cận, đang cầu nguyện.”

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là chừng nào con còn nhìn mình như một chủ thể và Hiện diện TA LÀ như một khách thể, thì con đang xác nhận có một khoảng cách giữa con và Hiện diện TA LÀ. Con không thể nào nối kết hay nhập một với Hiện diện TA LÀ nếu con cứ phóng chiếu một khoảng cách.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.5. Maitreya, con buông bỏ niềm tin là con phải cố đẩy tới để nối kết với Hiện diện của con, và nếu con không đạt mục tiêu thì con phải đẩy mạnh hơn. Con nhìn ra là con sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu nếu con cứ đẩy nó về phía trước.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.6. Maitreya, con nhận ra sự vận hành đơn giản của điều đang ngăn con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, đó là các ngã tiềm thức con mang. Khi con khắc phục được chúng, càng ngày cái Ta Biết sẽ càng dễ rút khỏi tâm vỏ ngoài và bước ra ngoài các ngã còn lại.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con, không từ một khoảng cách, mà nó đang bao quanh con. Con sẵn lòng trải nghiệm con là một phần của Hiện diện, con ở bên trong Hiện diện.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thay vì thấy Hiện diện ở trên cao, con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện ở quanh con. Con là một ngọn sóng dâng lên từ đại dương của Hiện diện TA LÀ của con.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là con đang trầm mình ngày càng sâu hơn vào ngọn sóng, và con cảm được chính đại dương. Con có thể xuôi theo sự chuyển động của đại dương. Con trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 3

3.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm con chính là Hiện diện TA LÀ. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Hiện diện của con không khác gì con, cho dù nó có vẻ khác ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con thách thức ảo tưởng này.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.2. Maitreya, con thách thức ảo tưởng Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tách rời khỏi con. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Con là một ngọn sóng trên đại dương của Hiện diện.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.3. Maitreya, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng con tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, rằng con là một cái gì khác với Hiện diện TA LÀ. Con chấp nhận: “Tôi chính là Hiện diện.”

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con là một sự hiện diện. Nó có cá thể của nó nhưng nó là một sự hiện diện. Cho nên con biết: “Tôi là Hiện diện.”

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết đang bước ra khỏi nhân cách vỏ ngoài, đang trải nghiệm Hiện diện, đang trải nghiệm chính con như là Hiện diện.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.6. Maitreya, con buông bỏ tâm ảnh của mình và từ chối phóng chiếu nó lên trải nghiệm Hiện diện. Con buông bỏ hình ảnh về một thần linh toại nguyện mọi mong ước và chấp nhận Hiện diện TA LÀ của con chưa phải là một sinh thể thăng thiên. Con sẽ không chờ đợi Hiện diện TA LÀ của con biết được mọi chuyện.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.7. Maitreya, con buông bỏ hình ảnh cho rằng Hiện diện TA LÀ giống như một vị thần linh, giống như một chân sư thăng thiên, hiểu biết tất cả, có những khả năng siêu nhân siêu phàm, có thể ban cho con đủ loại ân huệ và bảo vệ con khỏi nghiệp chướng.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.8. Maitreya, con chấp nhận Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên. Nó có nhãn quan rộng lớn hơn con, nhưng nó vẫn còn một số mong muốn về những gì nó muốn trải nghiệm trên trái đất. Hiện diện TA Là của con không có một cái hiểu trọn vẹn về tất cả mọi thứ mà một chân sư thăng thiên có thể hiểu.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.9. Maitreya, con chấp nhận Hiện diện TA LÀ vẫn tập trung vào chính nó như nó đang thấy chính nó. Con sẽ không xem Hiện diện TA LÀ như một sinh thể có khả năng trả lời mọi câu hỏi của con.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 4

4.1. Maitreya, con sẽ không xem Hiện diện TA LÀ như một sinh thể sẽ làm việc gì đó cho con. Con thấy được là chính qua việc duy trì hình ảnh này mà con đang củng cố cho cảm nhận khoảng cách.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.2. Maitreya, con nhìn nhận là khi con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, đây là một giai đoạn hơi phân liệt một chút (schizophrenic). Con vẫn có cuộc sống bình thường hàng ngày, tuy nhiên con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, nó có một tầm nhìn khác hơn về cuộc sống.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.3. Maitreya, con buông bỏ mong muốn Hiện diện TA LÀ sẽ giúp con trong một tình thế khó khăn, hay sẽ bảo con phải làm gì trong một số hoàn cảnh cụ thể.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.4. Maitreya, con thấy được là nếu con yêu cầu Hiện diện TA LÀ khuyên nhủ hay hướng dẫn con, và nếu nó trả lời thì điều này sẽ xác nhận hình ảnh rằng con tách biệt với nó, rằng Hiện diện giống như một ông thần trong chai có khả năng ban cho con mọi điều mong ước.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.5. Maitreya, con thấy được là nếu con cho phép mình duy trì tâm ảnh tách biệt này thì đến một giai đoạn Hiện diện TA LÀ sẽ phải rút lui khỏi con và không trả lời câu hỏi của con.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.6. Maitreya, con sẵn lòng bước lên cao hơn, buông bỏ tâm ảnh dựa trên cảm nhận khoảng cách. Con sẵn lòng giải quyết nó trong tâm, khắc phục cảm giác xa cách và thách thức nó.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.7. Maitreya, con buông bỏ mong muốn yêu cầu Hiện diện TA LÀ trả lời những câu hỏi đặc thù, hướng dẫn con phải làm gì hay không được làm gì trong một số tình huống. Con nhận chân con chính là Hiện diện ngay đây trong thế gian. Không phải “Tôi là Hiện diện TA LÀ” mà “Tôi là Hiện diện” vì Hiện diện đang ở ngay đây với con.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện có thể được biểu đạt xuyên qua con người phàm của con. Đây chính là ý nghĩa của việc con ở trong giai đoạn này của quả vị Ki-tô cá nhân. Hiện diện TA LÀ của con không tách rời với tâm Ki-tô.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con bước lên những tầng này của quả vị Ki-tô, con không biến thành một con múa rối. Con phải quyết định mình sẽ biểu đạt quả vị Ki-tô của mình như thế nào. Tuy nhiên cái Ta Biết không phải quyết định một mình hay trong tư cách một sinh thể tách biệt. Khi con đạt đến sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện như thế này, ai là người quyết định, cái Ta Biết hay là Hiện diện?

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 5

5.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là không có khác biệt nào giữa Hiện diện và cái Ta Biết. Đâu là khác biệt giữa Hiện diện và chính con?

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.2. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm: “Thật không có nghĩa lý gì mà đặt câu hỏi đó vì không còn sự khác biệt nào nữa.”

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.3. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết chính là Hiện diện. Con là Hiện diện trong bát cung vật lý, trong cõi cảm xúc, trong cõi lý trí, trong cõi bản sắc.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm con là Hiện diện, khía cạnh “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” của Hiện diện. “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” đó là omega, khía cạnh nữ hay khía cạnh biểu đạt của Hiện diện.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là có “TA LÀ CÁI TA LÀ” nằm ở cõi tâm linh và sẽ tiếp tục ở cõi tâm linh. Nhưng “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là khía cạnh đang biểu đạt chính nó trong bầu cõi chưa thăng thiên.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.6. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm Ki-tô cho con một năng lượng và một động lượng đang chuyển động. Nhưng chính khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện chỉ đạo cho chuyển động này hướng vào những hoàn cảnh cụ thể, hiển thị thành những tình huống cụ thể hay có những trải nghiệm cụ thể.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là sự phân biệt sẽ tan biến mất. Đâu là sự khác biệt giữa tâm Ki-tô, Hiện diện TA LÀ với cái Ta Biết?

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là đối với cái Ta Biết, sự phân biệt sẽ tan biến mất. Con không quan tâm chuyện này nữa. Con không quan tâm mình đang ở tầng nào trong số 144 tầng tâm thức. Con tập trung vào việc biểu đạt chính mình trong thế gian này, vào những gì con muốn thể hiện trong thế giới.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là cảm thể của con an bình hơn rất nhiều, vì con đã khắc phục tất cả những dính mắc đó với hoàn cảnh vỏ ngoài. Nếu cảm xúc của con bị khuấy động, chỉ một thời gian ngắn chúng lại chìm xuống. Con không nhân chúng lên, con không góp mặt với chúng.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 6

6.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm lý trí của con cũng tĩnh lặng hơn nhiều. Con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức tâm thức cao hơn khi cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể yên tĩnh hơn rất nhiều.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.2. Maitreya, con nhìn ra cái gì đang cảm thấy những cảm xúc tích cực này, đang có những ý tưởng tích cực này, đang khoác vào ý niệm bản sắc tích cực này, đang làm những hành động tích cực này. Đó là cái Ta Biết lẫn Hiện diện. Đó là sự hợp nhất của cả hai.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.3. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm: “Hiện diện của tôi làm việc cho tới giờ, và tôi cũng làm việc.” Sự phân biệt giữa cả hai trở nên vô nghĩa.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là rất nhiều ý tưởng của con đến từ Hiện diện. Đó là Hiện diện đang suy nghĩ xuyên qua con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là ý niệm bản sắc của con đến từ Hiện diện. Ý tưởng của con trong trí thể đến từ Hiện diện. Cảm xúc của con đến từ Hiện diện. Và do đó hành động của con cũng tuôn chảy từ Hiện diện.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.6. Maitreya, con sẵn lòng làm việc với bản thân mình một cách ý thức để xem xét những tâm ảnh mà con có và lần lượt thách thức chúng. Con nhận ra là chúng đã phục vụ cho con, đã đưa con đến một điểm nào đó trên đường tu, nhưng bây giờ đã đến lúc con buông chúng ra.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thực sự con sẽ không bao giờ nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Hoặc con có thể là Hiện diện, hoặc con không là Hiện diện. Là hay không là.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là không còn một mối quan hệ nữa, vì quan hệ ngụ ý là có hai sinh thể trong mối quan hệ đang liên hệ với nhau. Nhưng khi không có phân biệt nào cả thì thật không thể nói là có quan hệ.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.9. Maitreya, con nói: “Ở trên như thế nào trong Hiện diện TA LÀ thì ở dưới cũng như vậy trong cái Ta Biết.” Nhưng Hiện diện TA LÀ không ở trên và cái Ta Biết cũng không ở dưới. Con đã hoà nhập. Cái Ta Biết ngộ ra nó là Hiện diện. Và đây là nơi con muốn trụ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

26 | Thỉnh cầu biểu hiện quả vị Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con thấy mọi thái độ vi tế đang ngăn chặn bước tiến của con quá tầng tâm thức thứ 96, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Saint Germain, con thấy là để hòa điệu với Tia thứ Bảy con cần được tự do khỏi tâm đường thẳng đang phóng chiếu là con không thể tự do vì con đang bị đàn áp bởi điều kiện này điều kiện kia.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Saint Germain, con thấy là tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng dẫn con tới điểm con có những gì con cần để được tự do.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Saint Germain, con thấy là trên con đường tâm linh, con tiến từ tầng 48 đến tầng 96 bằng cách theo phương pháp đường thẳng. Con lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Saint Germain, con thấy là phương pháp đường thẳng chỉ hữu dụng ở các tầng thấp của con đường tâm linh. Vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do là khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng thì con đặt mình vào một loại nhà tù.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Saint Germain, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm vì chúng sẽ đưa tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn và tâm thức Ki-tô.”

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Saint Germain, con sẵn lòng nhìn nhận là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Con sẽ không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Saint Germain, con quyết định: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách đi vào trạng thái tâm trung hòa, trạng thái lắng nghe trong hồng ân.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Saint Germain, con xin thày neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con không xin giải đáp, hướng dẫn, hay đáp số cho những vấn đề đặc thù. Con chỉ giữ tâm trung hòa và lắng nghe giai đoạn kế tiếp của con đường tu của con là gì.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Saint Germain, con thấy là con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Saint Germain, con sẵn lòng bước lui lại và nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện thách thức thứ nhì của Ki-tô.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Saint Germain, con thấy là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì những khai ngộ không trở nên dễ dàng hơn. Con nhìn nhận là bất kể con đang ở tầng tâm thức nào thì lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Saint Germain, con nhìn nhận là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Saint Germain, con nhìn nhận là cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Saint Germain, con nhìn nhận là con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Con sẽ không cho phép mình bị mắc kẹt ở tầng hiện tại của con.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là để kết nối với Tia thứ Bảy con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là ở trên tầng 96 con đường tu theo hình quả cầu hơn. Con nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Saint Germain, con nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Sống Ki-tô không có nghĩa là Thượng đế, các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ cho con biết con phải làm gì.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Saint Germain, con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ. Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con sẵn lòng lấy những quyết định đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Saint Germain, con sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Con sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?”

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Saint Germain, con sẵn lòng tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Con buông bỏ mọi ý tưởng con phải làm gì.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Saint Germain, con sẵn lòng trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, nhưng con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Saint Germain, con nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Saint Germain, con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng. Con xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu và nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Saint Germain, con nhận ra là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất, và khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Saint Germain, con nhận ra là trong quả vị Ki-tô con không trở nên một con rối, con có tự do, tự do lấy quyết định của mình, và con sẵn lòng lấy những quyết định đó.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Saint Germain, con buông bỏ tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.”

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Saint Germain, con sẵn lòng tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Saint Germain, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thì con biểu lộ mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Saint Germain, con nhận ra là chỉ khi con biểu lộ xuyên qua ảo tưởng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Saint Germain, con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày, và hiện diện này vượt quá ngôn từ.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương mà thày dành cho riêng con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm lòng tri ơn của thày vì con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm viễn quan của thày về cách đem lại thời hoàng kim trên trái đất. Con sẵn lòng chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

24 |Thỉnh cầu Hiện diện của thày Nada (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Nada hãy giúp con thấy những dính mắc đang chắn lối không cho con an bình nội tâm và kết nối với thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Nada, con buông bỏ tâm đường thẳng lúc nào cũng nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất và tìm cách thiết lập một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng và kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.2. Nada, con thấy là các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Con người không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.3. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra và thấy các nguyên tắc mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra trái đất.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.4. Nada, con buông bỏ tư duy muốn dùng những gì ta quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.5. Nada, con buông bỏ tư duy cho rằng phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau trên trái đất, và tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại để tìm ra nguyên do trong cõi tâm linh.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.6. Nada, con buông bỏ những cố gắng của khoa học muốn tìm nguyên do trong cõi vật chất. Con cũng buông bỏ ý muốn tìm những nguyên do phi vật lý.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.7. Nada, con thấy tâm đường thẳng là một dụng cụ thực dụng trong đời sống hàng ngày, nhưng nếu ta dùng nó để suy luận về cõi tâm linh, thì ta không thể có bình an và cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.8. Nada, con thấy giáo lý của đức Phật không nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.9. Nada, con buông bỏ tâm đường thẳng đang khiến con nhìn vào giáo lý chân sư thăng thiên và nói: “Đây là một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 2

2.1. Nada, con thấy là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Con chấp nhận là các thày đang nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?”

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2. Nada, con buông bỏ tư duy cho rằng phải có một chân lý tuyệt đối nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con chấp nhận là các thày đã thích nghi giáo lý với trình độ tâm thức tập thể.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Nada, con buông bỏ khuynh hướng sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Nada, con buông bỏ các hình tư tưởng mà con thu thập khi con lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác. Con sẽ không dùng giáo lý chân sư thăng thiên để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Nada, con thấy thày là một chân sư thăng thiên và con không kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là các ngã tách biệt đã tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết chỉ có thể bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã khi nó nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Con nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là một hình tư tưởng.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Nada, con muốn có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên và con buông bỏ mọi dính mắc vào các hình tư tưởng của con.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 3

3.1. Nada, con thấy là khi con phóng chiếu một hình tư tưởng thì con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con thì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.”

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.2. Nada, con thấy là nếu thày làm vậy thì thày sẽ xác chứng hình tư tưởng của con, và tự ngã của con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.”

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.3. Nada, con thấy là như vậy sẽ không giúp con tăng trưởng tâm linh. Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.4. Nada, con muốn kết nối với thày, chứ không phải với một hình tư tưởng của thày. Con sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của Chân sư Thăng thiên Nada.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.5. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là thày không tìm cách trốn tránh con, nhưng chính con tìm cách trốn tránh thày. Và nếu con muốn trốn tránh thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, thì thày phải để con làm chuyện này.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.6. Nada, con không muốn kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.7. Nada, con thấy là thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.8. Nada, con thấy là nếu con không trải nghiệm hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.9. Nada, con thực sự muốn kết nối với thày, và con phải sẵn lòng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 4

4.1. Nada, con thấy là khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này cho phép con có một trải nghiệm và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Nada, con sẵn lòng theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với thày là chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm kết nối với thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với Hiện diện của thày.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Nada, con thấy kết nối trực tiếp với thày là trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Đây là điều con muốn.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Nada, con thấy nguyên do khổ đau là do con thiết lập trong tâm hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Đây chính là căn bản của khổ đau.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm tâm Ki-tô và dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của con, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc và các hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Nada, con sẵn lòng nhìn nhận là điều kiện vật lý không tạo khổ đau mà khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là con không phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng. Con không cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện. Con không cần diễn giải mọi chuyện. Mọi chuyện không cần phải có một ý nghĩa nào đó. Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 5

5.1. Nada, con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, kéo con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.2. Nada, con sẵn lòng thấy quyết định của con trong quá khứ đã tạo ra một ngã tách biệt nói: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.3. Nada, con thực sự muốn được an bình, và con thay thế quyết định cho rằng hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và con nhìn nhận là thày đã đạt được an bình, và con cũng có thể đạt được trạng thái an bình.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.4. Nada, con thực sự muốn an bình, con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình. Con sẵn lòng nhìn vào ngã đó và để nó chết đi. Con chấp nhận là con thực sự có thể an bình trên một hành tinh như trái đất.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.5. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là thày có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý và con sẵn lòng nhận nó.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.6. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con trải nghiệm âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.7. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và con lên thể tư tưởng, và một lần nữa âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.8. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và con lên thể bản sắc. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.9. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và từ thể bản sắc con đi xuống thể vật lý. Thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, một số phần thân thể, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

22 | Thỉnh cầu sự thực sẽ nâng con cao hơn (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Hilarion hãy giúp con thực sự chấp nhận là không có chân lý tối hậu, và con cần luôn luôn tìm chân lý sẽ nâng con lên tầng tâm thức kế tiếp, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Hilarion, con buông bỏ tâm đường thẳng nghĩ rằng sự thật ngược lại với không thực, rằng sự thật là một cái gì mà ta có thể hiểu và đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là cái gì mang con ra xa cái một.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.3. Hilarion, con buông bỏ ý tưởng cho rằng nhất định phải có một chân lý tối hậu. Con chấp nhận là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của đấng Sáng tạo, cũng có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết tâm Ki-tô đó là tâm của cái Một.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.5. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm mọi sự là một, nhưng cũng có một cấp bậc, một tiến trình đường thẳng các tầng tâm thức, dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm cái một, là nơi con không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.7. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng là Dòng sông sự Sống. Tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm con đang tiếp cận Dòng sông sự Sống và con có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng con sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Có nhiều chân lý tuyệt đối, vì chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 2

2.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Con không thể đặt điều dẫn con tới cái một lên thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia. Sự thật Hằng sống không đối ngược với giả dối.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.3. Hilarion, con sẵn lòng nhìn ra các ngã tách biệt mà con còn sót lại, và thấy liệu con đã thăng vượt tầng tâm thức cho rằng phải có một chân lý tuyệt đối. Con buông bỏ ý tưởng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.4. Hilarion, con sẵn lòng thấy một ngã tách biệt được hình thành khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.”

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.5. Hilarion, con nhìn nhận rằng nếu con còn ở trên trái đất thì con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và con vươn lên được tầng đó khi con với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.6. Hilarion, con thấy tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó sẽ tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Con mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.7. Hilarion, con xin thày chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con sẽ đọc bài chú của thày, tìm trong bài chú hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và nhận được hướng dẫn của thày.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.8. Hilarion, con hình dung hai mắt của con di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.9. Hilarion, con theo hai đường thẳng đó nhìn về quãng xa cho tới khi chúng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con rút sự chú ý của con trở về con mắt thứ ba của con và con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 3

3.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.2. Hilarion, con buông bỏ ý tưởng cho rằng chân lý là sự vun bồi hiểu biết, và nếu con tích lũy hiểu biết lâu đủ thì con sẽ đạt được chân lý.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.3. Hilarion, con buông bỏ phương pháp giản hóa cho rằng nếu con nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ thì rốt cuộc con sẽ tới được các thành phần cơ bản và hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm phương pháp giản hóa hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.5. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức là thực tại nền bên dưới mọi sự. Nhưng tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tầng tâm thức cao hơn là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa cách con đáp ứng với môi trường một cách có ý thức và cố ý.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.7. Hilarion, con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, tiếp nối nhau lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của con, con đang đi đâu, con muốn tới đâu.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 4

4.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm điều con muốn đồng-sáng tạo, điều con muốn trải nghiệm, cách con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì con có thể làm ở tầng hiện tại.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm thấy mình là một phần của đại đoàn chưởng giáo, tiếp nối nhau lên đến tận đấng Sáng tạo.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.3. Hilarion, con sẵn lòng kết nối với các Thượng sư và có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo để con thăng vượt cảm giác bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, đồng hóa mình với chúng, bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.5. Hilarion, con sẵn lòng xoay chuyển hoàn toàn tầm nhìn của mình và khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.7. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày muốn con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn và các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con hoàn thành việc này.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày muốn con vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

20 | Thỉnh cầu cách nhìn tinh khiết về sự tinh khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Serapis Bey hãy giúp con nhìn thấy tiêu chuẩn mà con có về thế nào là tinh khiết và không tinh khiết, và vì sao nó ngăn trở con trải nghiệm Hiện diện của thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm Tia của Tinh khiết gia tốc độ rung của năng lượng thấp để nó trở thành năng lượng cao chảy về phía trên.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.2. Serapis Bey, con sẵn lòng học cách đọc sự rung động để không cần dùng đến diễn giải trí năng.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm rút sự chú ý vào trung tâm bản thể của con, vào một điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm có một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.5. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm ánh sáng trắng, trắng hơn bất cứ gì con thấy trong bát cung vật lý, và thấy nó tỏa rạng vào bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể của con.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.6. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.7. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng vì nó phải tạo ra vấn đề để nó có gì nó có thể giải quyết bằng cách phân tích. Con buông bỏ tâm đường thẳng đang nghĩ nó có thể dẫn con vào thiên đàng.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.8. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nghĩ có một giải pháp đường thẳng cho “vấn đề tăng triển tâm linh.” Con thấy chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển là một vấn đề.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm giải pháp không phải là một trong hai đối cực cực đoan nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, trạng thái tâm thức thấy các đối cực cực đoan.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Con rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài thì con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm hai mắt con kéo về trung tâm, và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm một cảm giác yên tĩnh, một sự im lặng trong tâm, và con chú tâm vào sự yên tĩnh đó, mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt, kéo giãn nó ra xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.5. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nói: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.6. Serapis Bey, con thấy là tâm đường thẳng không đi đâu cả. Con cũng không đi đâu cả, nhưng con sẵn lòng trải nghiệm sự an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức, hay dồn nén các ngã tiềm thức. Tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.9. Serapis Bey, con sẵn lòng xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh và nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì. Điều quan trọng là buông bỏ và trải nghiệm là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng. Con không thể dùng vũ lực để cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.5. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con gia tốc, gia tốc vào tinh khiết. Con trải nghiệm tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Con thấy là con ép mình rời khỏi tinh khiết, và do đó con không thể ép mình trở về tinh khiết.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.6. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đường thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con buông bỏ lý tưởng mà con có về thế nào là người tâm linh. Con thấy là Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên. Tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên muốn làm gì xuyên qua con.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày?

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.4. Serapis Bey, con sẵn lòng là cánh cửa mở để các thày tuôn chảy xuyên qua con, và con thấy cánh cửa mở có nghĩa là trung hòa, và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Con có ý định tinh khiết, và con sẵn lòng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.5. Serapis Bey, con có ý định kết nối với thày, nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và con phải cư xử ra sao.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.6. Serapis Bey, con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Con có ý định tinh khiết trải nghiệm Hiện diện của thày.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là không có gì thày giữ lại mà không cho con. Thày luôn luôn bên con vì Tia thứ Tư ở khắp mọi nơi.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

18 | Thỉnh cầu trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Paul người Venice hãy giúp con thấy những gì đang ngăn cản con trải nghiệm và chấp nhận tình thương vô điều kiện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Paul người Venice, con buông bỏ khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng. Con sẵn lòng thấy những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, của phản-tình thương, đã ảnh hưởng con trong kiếp này và thậm chí từ những kiếp trước.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.2. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn, và do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới con và đi vào con.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.3. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm cho tình thương một cách tự do, cho từ trạng thái tâm trung hòa, khi con không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.4. Paul người Venice, con muốn tình thương Thiêng liêng, không muốn tình thương nhân gian. Con sẵn lòng nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả những ai muốn nhận nó, và con muốn nhận được nó.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.5. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Con buông bỏ cái ngã nói rằng con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.6. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã khác phóng chiếu rằng tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt, và vì nó đặc biệt như vậy nên con cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Con thấy là tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.7. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay bởi sa nhân trong tư duy nhị nguyên.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.8. Paul người Venice, con thấy là bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định đều là một điều kiện tương đối, trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.9. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy những ngã mà con đã tạo ra trong kiếp này hay các kiếp trước để phản ứng lại những hình ảnh do con người tạo ra về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Con thấy là các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 2

2.1. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm “tình thương là”, và con buông bỏ cái ngã nói rằng: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích.” Con buông bỏ cái ngã đó.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.2. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã nói rằng: “Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.” Con buông bỏ cái ngã đó.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.3. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy tâm của con nói tình thương phải là gì. Con buông bỏ tất cả các ngã nói rằng tình thương phải là cái này, phải là cái nọ, cho tới khi con có thể lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.4. Paul người Venice, con cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta sẽ Là cái Ta sẽ Là.” Con sẵn lòng trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.5. Paul người Venice, con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt tình thương vô điều kiện, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài. Các ngã tách biệt chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.6. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã muốn gán những khái niệm thật và giả lên tình thương Thiêng liêng, để cảm thấy nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác và vượt qua cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.7. Paul người Venice, con thấy tách biệt dẫn tới thiếu thốn vì nó khiến con không nhận được các đặc tính thiêng liêng, là điều duy nhất có thể khiến con thực sự mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Cái Ta Biết nhận ra và chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.8. Paul người Venice, con thấy là con nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.9. Paul người Venice, con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã tách biệt và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được. Con nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 3

3.1. Paul người Venice, con chấp nhận tình thương. Con buông bỏ cái ngã nói rằng con không thể giản dị chấp nhận tình thương, và quy định những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương. Con buông bỏ các điều kiện này.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.2. Paul người Venice, con thấy là con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Vì khi trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.3. Paul người Venice, con thấy là con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Con mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.4. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm là con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm, tâm không thể trải nghiệm nó.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.5. Paul người Venice, con thấy con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nơi luân xa trái tim. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.6. Paul người Venice, con sẵn lòng tìm ra hai câu trong bài chú của thày và dùng hai câu này trong thiền quán để vô hiệu hóa tâm và hòa điệu với Hiện diện của thày.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.7. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm là con không thể tách biệt khỏi tình thương Thiêng liêng. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.8. Paul người Venice, con thấy là con không thể quy định một nơi nào đó trên trái đất có sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.9. Paul người Venice, con sẵn lòng mở tâm ra đón nhận tình thương Thiêng liêng và để nó tuôn chảy xuyên qua con. Tình thương là một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 4

4.1. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.2. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.3. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.4. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.5. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.6. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.7. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.8. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.9. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

16 | Thỉnh cầu tâm thức Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, con kêu gọi Giê-su Ki-tô hãy giúp con khắc phục các ngã tách biệt đang ngăn cản con chấp nhận và trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày là vị thày dễ kết nối nhất, vì thày là đại diện của tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, con sẵn lòng trải ngiệm tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, tâm thức một, thống nhất, hợp nhất mà từ đó mọi thứ được tạo thành.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Bất cứ con ở đâu trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương nơi con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày luôn luôn ở sát bên con, thày ở bên con khắp mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở. Con muốn nhập một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ để con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả, vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt?

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, con buông bỏ ảo tưởng là con đặc biệt, con đứng trên luật lệ của con người, đứng trên luật của Thượng đế, và con có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì con muốn mà không phải chịu hậu quả.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là thày ở đây để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, đúng thực là trạng thái tâm thức khi con trải nghiệm Ki-tô bên trong mình, và con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, con buông bỏ các hình ảnh mà Cơ đốc giáo đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh, vì con thấy các hình ảnh này ngăn cản không cho con kết nối với thày. Xin thày giúp con thấy các ngã tách biệt đang duy trì hình ảnh thày là người con duy nhất của Thượng đế và con là một tội đồ.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, để con có thể khắc phục các ngã tách biệt và chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, con có khả năng kết nối với thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nếu không có tâm thức Ki-tô, thì không có cá nhân nào được tạo thành, hay nói đúng hơn, được sinh ra. Người Con duy nhất được sinh ra từ đức Cha là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con được sinh ra từ Thượng đế, con xuất phát từ tâm thức Ki-tô. Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không thì làm sao con có thể có tự nhận biết?

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô, con là một với tâm Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà con thấy trong thế giới hình tướng, thì đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, con sẵn lòng nhận ra là cái Ta Biết của con không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là tâm thức Ki-tô vì không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Con có thể chưa là Ki-tô, nhưng con là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, con sẵn lòng tiến tới chỗ con có thể chấp nhận con là Ki-tô, con là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và con ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong cái một, con không mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, con sẵn lòng trở nên trung hòa để con không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà con muốn dòng chảy qua con phải tạo ra.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vui hưởng Thánh linh tuôn chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì cả”.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết của con không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên Cao và nó chỉ chảy xuyên qua con mà thôi.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nó chảy xuyên qua con vì con là tâm thức Ki-tô, và con là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con không trở thành một cái gì mà con không đang là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự?

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm nhận biết rằng điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có. Tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm có một phin lọc che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Con sẵn lòng đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con, và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, con sẵn lòng chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, con buông bỏ mọi ảo tưởng do sa nhân tạo ra với mục đích khiến con chối bỏ con xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ con đã là Ki-tô rồi và con xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con buông bỏ ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh này.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống. Con sẵn lòng chứng minh điều này để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là Ki-tô, và đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày. Vì con trải nghiệm Ki-tô trong Vương quốc Thượng đế bên trong con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm niềm vui mà thày LÀ, niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược. Vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược?

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

14 | Thỉnh cầu Minh triết Thiêng liêng vượt quá tâm đường thẳng (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Lanto hãy giúp con thực sự thấy những giới hạn của tâm đường thẳng và trải nghiệm thực tại vượt quá tâm đường thẳng, kể cả sự hợp nhất với thày và …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng coi minh triết như một loại kiến thức hữu hạn, một cái gì có thể được diễn tả bằng ngôn từ, hay bằng ngôn ngữ khoa học tỷ dụ như toán học.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là không có minh triết tối thượng ngoại trừ cái một, chính là tâm thức của đấng Sáng tạo. Con thấy là minh triết không thể bị giam hãm trong ngôn từ hay những cách biểu hiện khác được dùng trên trái đất.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.3. Lanto, con buông bỏ cố gắng khám phá, tạo sinh hay quy định một hình thức kiến thức tối thượng, hiểu biết tối thượng, minh triết tối thượng. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của một giáo lý tâm linh là đem lại cho con một hình thức minh triết tối thượng.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.4. Lanto, con buông bỏ tư duy nghĩ rằng vị đạo sư của con, tổ chức tâm linh của con, giáo lý tâm linh của con có minh triết cao nhất, hiểu biết cao nhất, sự diễn tả cao nhất về sự vận hành của thế giới và cõi tâm linh.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.5. Lanto, con thấy mục đích của các chân sư thăng thiên không phải là cho con người một kiến thức tối thượng có thể trả lời mọi câu hỏi của họ. Mục đích là cho con người một con đường tu giản dị giúp họ từng bước một nâng cao tâm thức của họ.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.6. Lanto, con nhận ra là có những câu hỏi mà tâm đường thẳng lý luận không thể trả lời, bởi vì tâm này có thể đưa ra lập luận bênh vực hay phản bác bất cứ điểm gì. Con thấy là trong tư duy nhị nguyên mọi lập luận đều tương đối, do đó không có một lập luận chung cuộc.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.7. Lanto, thay vì tranh cãi ở tầng mức của tâm đường thẳng, phàm phu, lý luận, con sẽ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức của con. Sau đó con sẽ có thể  bắt đầu có được minh triết thật sự, và trả lời những câu hỏi mà tâm đường thẳng không giải quyết được.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.8. Lanto, con nhận ra là không có gì tối thượng trên trái đất, cho dù đó là giáo lý của Phật hay giáo lý của Giê-su hay giáo lý của Vệ đà hay bất kỳ giáo lý tâm linh nào khác. Bởi vì tâm đường thẳng có thể lấy bất kỳ giáo lý tâm linh nào và đưa ra nhiều cách diễn giải và lập luận khác nhau.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.9. Lanto, con nhận ra là một giáo lý tâm linh chân chính không có mục đích xác chứng những diễn giải của con người ở tầng tâm thức nào đó, mà là nâng tâm thức của họ lên cao hơn và vượt quá tầng tâm thức hiện tại của họ.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 2

2.1. Lanto, con nhận ra là giáo lý tối thượng cho trái đất là giáo lý chỉ dạy cách vượt thăng những tầng tâm thức có mặt trên trái đất, để giúp con vươn lên những tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.2. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng có một giáo lý tối thượng sẽ đem lại kết quả một cách máy móc. Con buông bỏ ý nghĩ là nếu con có giáo lý tối thượng, thì khi con học hỏi giáo lý này chắc chắn con phải đạt được tầng tâm thức tối thượng và sẽ giác ngộ, thăng thiên.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.3. Lanto, con chấp nhận mục đích của giáo lý là xoay chuyển tâm thức con lên cao, không phải là xoay chuyển hiểu biết của con lên cao. Con thấy là hiểu biết không tương đương với tầng mức nhận biết.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.4. Lanto, con thấy sự khác biệt giữa việc hiểu một giáo lý bên ngoài với việc thể nhập giáo lý qua đó con nâng cao tâm thức của mình. Hiểu một giáo lý khác với nâng cao tâm thức vì hiểu có nghĩa là quan sát từ bên ngoài.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.5. Lanto, con ngưng tìm cách hiểu một chân sư thăng thiên như thế nào, nghĩ rằng nếu con hiểu thày Lanto thì con sẽ nối kết với thày. Con chấp nhận điều này không thể làm được.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.6. Lanto, con thấy là con không thể nối kết với thày Lanto và Minh triết của Tia thứ Hai nếu con nghĩ đây là điều con có thể nắm bắt bằng trí năng, điều con thấy bên ngoài con, một hiểu biết mà con phải đạt được.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.7. Lanto, con chấp nhận là con rốt cuộc sẽ nối kết được khi con tới điểm nhận ra là không có khoảng cách. Con sẵn lòng trải nghiệm là không có khoảng cách.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.8. Lanto, con sẽ không cố gắng hiểu thày, vì dù con hiểu thày rõ tới đâu bằng trí năng, con sẽ vẫn không nối kết được với thày.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.9. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng thày càng ở xa, con càng cần nhiều nỗ lực để hiểu thày, thì con càng cao trội hơn nếu con có thể hiểu vị thày ở xa tít đó.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 3

3.1. Lanto, con buông bỏ ý nghĩ thày đang lẩn trốn trong một quyển sách hay kinh điển nào đó. Con buông bỏ trò chơi tìm cầu cái ưu việt của trí năng. Thay vào đó, con tìm cầu sự giản dị của trải nghiệm.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm minh triết là một Hiện diện. Con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện TA LÀ của con, con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.3. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con truy tìm nguồn gốc của mình, thì đầu tiên hết con tìm thấy cái Ta Biết của con vượt quá cái ta vỏ ngoài, sau đó con tới Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của các chân sư thăng thiên, nối kết trở lên tới tận đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.4. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng là mục đích của Bát chánh đạo là đạt tới một trạng thái vô ngã bằng cách buông bỏ tất cả mọi ngã. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của con đường tâm linh là trừ tiệt cái ta.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.5. Lanto, con buông bỏ ngã tách biệt, cái tự ngã sinh ra từ tâm thức nhị nguyên. Con sẵn lòng trải nghiệm con là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện TA LÀ của con có một cá tính. Con được sinh ra để mở rộng cái ta đó và trở nên hơn nữa.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.6. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của con đường tâm linh là đạt trạng thái vô ngã nơi con thật sự không hiện hữu. Thay vào đó, con sẵn lòng tách mình ra khỏi ngã vỏ ngoài và khám phá Hiện diện TA LÀ của con và cá tính của nó.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.7. Lanto, con buông bỏ mọi dây trói con vào quái vật tập thể của trạng thái trống không, trạng thái vô ngã. Con buông bỏ ý muốn nâng cao bản ngã của con lên một địa vị tối thượng. Con buông bỏ trạng thái vô ngã, khuynh hướng chối bỏ có một cái ngã và đi vào chốn vô ngã khi nghĩ rằng mình không có ngã.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.8. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm con là một người đồng-sáng tạo. Con không được tạo ra để hiện thân trên một hành tinh như trái đất và trải qua nhiều ngàn kiếp đầu thai để rồi một ngày kia tan biến vào cái hư không mà từ đó con đi ra.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.9. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là mục đích của sự sáng tạo là tự thăng vượt, thăng vượt vô hạn định, mãi mãi, liên tục. Con sẵn lòng tiếp tục vượt thăng, để thày có thể đưa con vượt quá tầng tâm thức của trái đất và con có thể trải nghiệm một dạng minh triết vô vàn cao hơn, không thể trao truyền trên trái đất.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 4

4.1. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng chỉ có Brahman là thực và do đó, con như là một cái ta, con không thực. Con thấy là cái ta tách biệt không thực và do đó để đạt được bất nhị, con phải khắc phục cái ta vì cái ta tách biệt chỉ có thể là nhị nguyên.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là thế gian không phải là một ảo tưởng vì nó đến từ đấng Sáng tạo. Thế gian là Brahman biểu hiện chính mình như thế gian. Làm sao khi Brahman biểu hiện chính mình như hình tướng lại tạo ra ảo tưởng, khi chỉ có Brahman là thực? Thế gian cũng là Brahman, vậy ảo tưởng ở đâu?

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.3. Lanto, con thấy ảo tưởng cho rằng thế gian tách biệt khỏi Brahman. Thế gian được tạo ra từ các sinh thể thăng thiên biết và trải nghiệm họ là những nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.4. Lanto, con thấy là không có ảo tưởng trong tâm đấng Sáng tạo. Ảo tưởng chỉ có trong tâm tách biệt khỏi nguồn cội của nó. Con thấy là sự phân chia không phải là nhị nguyên. Nhị nguyên không ở trong thế giới hình tướng. Nhị nguyên chỉ có ở trong tâm, tâm tách biệt, tâm thấy mình tách biệt.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.5. Lanto, con thấy là con không khắc phục tâm tách biệt bằng cách đi vào trạng thái vô ngã. Con khắc phục nó bằng cách khắc phục ảo tưởng rằng con có thể là một ngã tách biệt, tách biệt khỏi tâm một.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.6. Lanto, con thấy là khi con khắc phục sự đồng hóa với ngã tách biệt, thì con không tan biến mất, con không đi vào vô ngã. Con khám phá Hiện diện TA LÀ của con và chuỗi cấp bậc đi lần tới đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.7. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm con không trở về đấng Sáng tạo bằng cách tan biến và trở thành số không. Con trở về đấng Sáng tạo bằng cách trở thành tất cả những gì đấng Sáng tạo là, đạt được tâm thức của đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.8. Lanto, con sẵn lòng tham gia hành trình trở về nguồn cội của con. Con thấy nguồn cội của con không phải là hư không. Nguồn cội của con là đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo muốn con đi trên hành trình trở về này một cách ý thức, đạt được những tầng nhận biết và ý niệm bản ngã càng ngày càng cao hơn. Con nhận chân mọi tầng cấp của tạo vật của đấng Sáng tạo và góp phần đồng-sáng tạo nó.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.9. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày. Con sẵn lòng nhìn với tâm không thành kiến, nhìn với sơ tâm, nhìn với tâm trẻ thơ. Con muốn trải nghiệm Hiện diện của Minh triết, và con biết thày đang ở ngay đây.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

12 | Thỉnh cầu kết nối với Tâm Một (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Chân sư MORE hãy giúp con thấy những gì đang ngăn cản con quy thuận theo đại dương của Ý chí Thiêng liêng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, con muốn hơn nữa. Con thấy là con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư MORE, con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE? Vì thày không hơn và cũng không kém.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, con thấy là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Con buông bỏ ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái sự an toàn hay một địa vị nào đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, con buông bỏ ảo tưởng của tự ngã cho rằng có một giai đoạn tối hậu đòi hỏi ý chí tối hậu. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng để xứng đáng kết nối với thày, con phải là tia sáng xanh và phải nhất quyết và rất chú tâm.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, con buông bỏ cả phản-ý chí lẫn ý chí quá mạnh. Con nhận ra uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập như một sinh thể đang đầu thai.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, con buông bỏ cái ngã tập trung vào uy lực ý chí và nhìn uy lực ý chí xuyên qua ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Con buông bỏ ảo tưởng có một rào cản mà con phải đẩy qua để có được đức tính Thiêng liêng của uy lực ý chí của Tia thứ Nhất.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con cố làm nhiều hơn thì con lại đạt được ít hơn. Con thấy là khi con tạo ra ngã phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối, và con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, cho tới khi con rốt cuộc bị suy sụp.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con không làm, nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng, và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng tuôn chảy cùng Ý chí Thiêng liêng về hướng cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, con buông bỏ mục đích vỏ ngoài dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn. Con buông bỏ ý muốn dùng nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó đi ngược Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con tạo sự chống đối lại chính mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, con sẵn lòng giải quyết các ngã tách biệt của con, nhận diện các ngã tách biệt đang muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh, nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi. Con có nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm ý chí Thiêng liêng không phải là ý chí của tự ngã mà cũng không phải là ý chí bên ngoài của một Thượng đế xa cách. Con thấy thày không phải là một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì đó.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, con thấy là thậm chí thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, con buông bỏ mọi ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích của con. Con buông bỏ ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, con sẵn lòng hòa điệu với uy lực ý chí giống như đại dương dâng lên lắng xuống, với sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trầm mình vào ý chí đó, giống như con trầm mình vào đại dương. Con trầm mình vào lòng đại dương, và con nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương, di động theo ý chí cao đó. Con không làm gì cả nhưng con không thụ động

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, con trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Con chấp nhận là những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, con chấp nhận là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Nhưng tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, con thấy là khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào? Con có thể mang theo trình độ tâm thức của con.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi Tâm Một tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng. Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, con buông bỏ ước mong của tự ngã muốn đạt một mục đích tột cùng nào đó, vì con nhận ra bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa. Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng, và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu, và con nhận được Hiện diện của thày.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, con sẵn lòng nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng thấy các ảo tưởng của con, vì con nhận ra con không thể thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa. Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, con lấy thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm thực tại đằng sau quan niệm quy thuận theo ý chí.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con quy thuận theo ý chí.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng tất cả mọi dân tộc lên.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày, và trải nghiệm là Hiện diện của thày vượt quá tâm đường thẳng. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng vượt thăng chính mình tất nhiên phải dẫn tới một trạng thái tối hậu. Con sẵn lòng trải nghiệm là lúc nào cũng có Hơn Nữa.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

10 | Thỉnh cầu sự gần gũi với cái ta cao

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Chỉ đạo Thiêng liêng hãy giúp con nhìn ra các yếu tố trong thể bản sắc của con đang ngăn con nối kết với thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn thấy những gì trong thể bản sắc đang ngăn chặn sự hòa điệu của con với các chân sư thăng thiên và cái ta cao của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

1.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con nhìn ra sự kết nối với cõi tâm linh có nghĩa là nhập một với cõi tâm linh. Con buông bỏ bản sắc cho rằng con là một sinh thể vật chất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ mọi hình ảnh nhân tạo về thế nào là một con người. Con buông bỏ mọi hình ảnh do sa nhân ảnh hưởng, đặc biệt do Chúa tể Bóng tối ở cõi bản sắc.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn ra và buông bỏ mọi ý niệm bản sắc đến từ nền văn hóa nơi con đã lớn lên, cũng như cách con người nhận diện mình là gì trong tâm thức đại chúng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ảo tưởng cơ bản trên trái đất, một ảo tưởng có tính cách tự tăng cường, rằng cõi vật lý bị chia cách khỏi cõi tâm linh bởi một hàng rào.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ bản sắc mình là một con người, mình là một xác thân vật lý hoặc một sản phẩm của xác thân vật lý. Con buông bỏ ảo tưởng con đang sống trên một hành tinh vật lý, rằng con lẫn hành tinh đều tách biệt khỏi tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy tâm con có khả năng chứng thực và bác bỏ bất kỳ quan điểm nào. Con muốn vượt qua sự phủ nhận hợp lý (plausible deniability) lẫn sự hợp lý hợp lý (plausible plausibility). Con buông bỏ xu hướng loại trừ mọi chứng cớ trái ngược để có vẻ như tin tưởng của con là chính đáng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng buông bỏ niềm tin là có một khoảng cách to lớn giữa trái đất và thiên đàng, rằng con người trên trái đất bị chia cách với tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng phải vượt qua một khoảng cách to lớn để nối kết với thày. Con buông bỏ ảo tưởng có một sự chia cách, một hố sâu giữa cõi tâm linh với con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 2

2.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận ra là bất kỳ hình ảnh nào từ cõi thăng thiên cũng có thể bị tâm sử dụng để ngăn chặn nối kết. Con chấp nhận vấn đề không phải là chuyện nối kết, mà là ngộ ra rằng khoảng cách không có, tách biệt không có.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

2.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng rằng các thày ngụ trên kia nơi cõi tâm linh, và con cần tạo sự nối kết với các thày ở xa tuốt trên đó, vượt khỏi tầm với bình thường của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy các ngã tách biệt của con được tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trong cõi vật lý. Đây là những cái ngã hướng ra ngoài. Chúng liên quan đến một thế giới mà con trải nghiệm bên ngoài cơ thể vật lý, thậm chí bên ngoài cả tâm con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy những ngã đó được tạo ra để nhìn ra bên ngoài. Chúng được tạo ra dựa trên cảm nhận con là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới vật lý.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn ra các ngã đó không xấu ác hay tiêu cực, nhưng chúng không có tự nhận biết. Chúng chỉ có thể làm những gì chúng đã được thiết kế để làm, tức là nhìn ra bên ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ xu hướng tiếp cận đường tu tâm linh dựa trên tất cả những ngã đó. Con buông bỏ cách tiếp cận đường tu tâm linh xuyên qua những cái ngã đã được tạo ra để phản ứng lại thế giới vật chất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ xu hướng phóng chiếu những hình ảnh từ các ngã đó lên đường tu tâm linh, lên cõi tâm linh cùng các thày tâm linh của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con thấy con không là cơ thể vật lý của con, con không là tâm cảm xúc hay tâm lý trí của con. Thậm chí con không là tâm bản sắc của con. Con là nhiều hơn tất cả những tâm đó và tất cả những ngã đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con bước vào cốt lõi bản thể của con thì có cái Ta Biết. Cái Ta Biết không phải là ngã vỏ ngoài. Nó là nhiều hơn ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 3

3.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết đã tạo ra các ngã vỏ ngoài, nhưng con đã không biến thành ngã vỏ ngoài. Con thấy con không thể nối kết với các chân sư thăng thiên qua ngã vỏ ngoài. Con chỉ có thể nối kết khi cái Ta Biết bước ra khỏi ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

3.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng buông bỏ cái ngã tâm linh mà con đã xây dựng để vươn cao hơn tâm thức đại chúng. Con buông bỏ bản sắc mình là một người tâm linh do mình đã tuân thủ những điều kiện được quy định bởi giáo lý tâm linh của mình.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con thấy là việc phóng chiếu một hình ảnh ra thế giới, phóng chiếu một hình ảnh lên chính con về thế nào là người tâm linh, không còn hữu ích cho con nữa. Con muốn tránh cạm bẫy xây dựng một ý niệm bản sắc tâm linh, rồi tìm cách làm cho nó tinh xảo hơn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng là khi cuối cùng con tạo được cái ngã tâm linh đủ tinh xảo theo giáo lý của con, thì ngã này sẽ đưa con lên thiên đàng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận cái Ta Biết là một cái ta không ngừng thay đổi, vì nó chuyển đổi liên tục tùy theo nó đặt chú ý vào đâu. Cái Ta Biết trải nghiệm chính nó xuyên qua tất cả những ngã đó, và nó không ngừng chuyển từ cái này sang cái khác.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận cái Ta Biết luôn luôn là nhận biết thuần khiết, nhưng nó được tạo ra như một cái ta thay đổi liên tục. Con nhận ra con KHÔNG phải là các ngã vỏ ngoài đó; con là nhiều hơn ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận rằng vấn đề không phải là tinh lọc cái ngã tâm linh con đã xây dựng, mà là tháo gỡ nó, thoát ra khỏi sự đồng hóa với nó, để cho các ngã riêng biệt đó chết đi từng cái một, cho đến khi con có thể lại đứng đây như sự nhận biết thuần khiết đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận là cái Ta Biết không thể kết nối với các chân sư thăng thiên hay với Hiện diện TA LÀ – bởi vì cái Ta Biết không hề chia cách khỏi các chân sư thăng thiên và Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con nhìn nhận Hiện diện TA LÀ của con ngụ ở cõi tâm linh, và con thì tập trung vào bầu cõi chưa thăng thiên. Dẫu vậy, con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, giống như một ngọn sóng là sự nối dài của đại dương. Con không bao giờ có thể chia cách khỏi Hiện diện TA LÀ của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 4

4.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng xoay chuyển, nghĩa là thay vì nhìn thấy một khoảng cách và nhu cầu nối kết xuyên qua khoảng cách này, con khắc phục ảo tưởng khoảng cách.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

4.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng xoay chuyển và trải nghiệm cái Ta Biết như phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Con không tách rời khỏi đại dương, con là một phần của đại dương.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm mình là một ngọn sóng trên đại dương và đại dương đang chuyển động. Như một ngọn sóng, thay vì chỉ chú tâm vào mặt nước, con có thể cảm nhận sự chuyển động sâu xa bên dưới. Con có thể dự phần vào chuyển động sâu xa này.  

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận biết đại dương cùng sự chuyển động của đại dương. Thay vì cố cưỡng lại động tác của đại dương, con sẽ xuôi chảy với nó. Con là một ngọn sóng trên đại dương, nhưng con có thể chuyển động cùng với đại dương, chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm các chân sư cũng chính là đại dương, và con có thể chuyển động cùng với các thày khi con chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ. Đây là cách con khắc phục cảm giác xa cách.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết bước ra ngoài các ngã tách biệt để tự trải nghiệm là nhận biết thuần khiết. Nó tự trải nghiệm là một phần của đại dương, đang chuyển động với đại dương của Hiện diện TA LÀ, chuyển động với đại dương của các chân sư thăng thiên.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận đây là một đường tu tuần tự, đây phải là một đường tu tuần tự. Con bỏ xu hướng mong muốn một thay đổi ấn tượng, một đột phá ấn tượng, một thành quả ấn tượng mà qua đó con đột nhiên biến đổi và đạt tới một trạng thái cao siêu.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng từng bước tiến tới điểm con không còn những cái ngã phản ứng lại thế gian. Con là một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên, nhưng con vẫn không đánh mất cảm nhận mình là ai và mình đang đứng ở đâu trên đường tu.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con từ bỏ kỳ vọng đạt được một sự đột phá ấn tượng khi bỗng chốc con có sự kết nối hoàn toàn rộng mở với thày. Việc kết nối với các chân sư không phải là một trải nghiệm thần sầu quỷ khốc nào đó. Con chấp nhận đây là một con đường tuần tự ngày càng mở rộng sự kết nối của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

8 | Thỉnh cầu tự do khỏi tâm đường thẳng (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Shiva hãy giúp khắc phục sự mù quáng do tâm đường thẳng gây ra, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Shiva, con khẩn cầu thày để thày giúp con khắc phục các nỗi sợ của con. Con kêu gọi Shiva và Đại thiên thần Michael hãy thiêu rụi các nỗi sợ trong cảm thể của con.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.2. Shiva, con thấy là trong thế giới hiện đại, tâm lý trí là chướng ngại lớn nhất cho người tâm linh. Con sẵn lòng khắc phục mọi dính mắc của con vào tâm đường thẳng, tâm lý trí, tâm lô gíc, tâm phân tích.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.3. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn đặt mọi sự trên một dòng thời gian, hoặc trên một loại đường thẳng có thể chia thành nhiều phần nhỏ hơn.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.4. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn đặt mọi sự trên một dòng thẳng nơi có một nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Có một sự đều đặn, một quy luật tự nhiên quy định rằng một nguyên nhân đặc trưng sẽ luôn luôn dẫn tới một hậu quả đặc trưng.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.5. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Con thấy khi con đếm tới số cao hơn và cao hơn nữa, cuối cùng con sẽ tạo một vòng tròn khép kín.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.6. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ rằng phải có cái vô tận trong thế giới hình tướng. Con chấp nhận là mọi hình tướng đều được quy định bởi một giới hạn.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.7. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nói là khi kết nối với một chân sư thăng thiên, thì có một khoảng cách giữa nơi con đang ở và nơi vị chân sư ở và con cần phải vượt qua khoảng cách đó.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.8. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thằng muốn thiết lập một chương trình hợp lý, lô-gíc, tuần tự từng bước đọc chú và đọc thỉnh, và nó quyết định là một lúc nào đó vị chân sư sẽ phải xuất hiện.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.9. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là chắc hẳn các chân sư thăng thiên phải tuân theo một quy luật nào đó. Con chấp nhận là các thày tuân theo Luật Tự quyết, nhưng Luật Tự quyết không đi theo đường thẳng.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 2

2.1. Shiva, con chấp nhận là Luật Tự quyết có nghĩa là con lúc nào cũng có thể đổi hướng. Con buông bỏ ý nghĩ là con có thể thiếp lập một chương trình định rằng một ngày kia chân sư phải xuất hiện và kết nối với con.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.2. Shiva, con chấp nhận là mục đích duy nhất của thế giới hình tướng là để giúp con tăng triển nhận biết. Những gì con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.3. Shiva, con chấp nhận là tự nhận biết có nghĩa: “Tôi muốn thể hiện một cái gì mà tôi đang không hiện có. Tôi là một người đồng-sáng tạo. Tôi sẵn sàng đồng-sáng tạo.”

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.4. Shiva, con chấp nhận là con không thể hiện theo cách đường thẳng máy móc. Con thể hiện một cách sáng tạo bằng cách nắm giữ hình ảnh trong tâm bản sắc, tư tưởng và cảm xúc và phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.5. Shiva, con chấp nhận là con có thể thay đổi các hình ảnh đó bất cứ lúc nào, và không có một bộ máy vĩ đại với những kết quả đã được định sẵn hay có thể tiên đoán. Không có gì có thể tiên đoán vì chỉ có những xác suất.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.6. Shiva, con buông bỏ lời gian dối của sa nhân cho rằng một khi con đã lấy một chọn lựa thì con giới hạn khả năng lấy chọn lựa trong tương lai. Đây là điều tâm đường thẳng muốn vì lúc đó nó nghĩ nó làm chủ tình hình và có thể tiên đoán kết quả.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.7. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là con có thể kết nối với một chân sư thăng thiên bằng một quá trình máy móc. Con thấy là điều này tạo ra một hình ảnh trong tâm con và phóng chiếu hình ảnh đó lên vị chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.8. Shiva, con thấy là nếu các thày cư xử đúng theo hình ảnh đó thì các thày sẽ coi như chứng thực là hình ảnh của con đúng. Điều này sẽ giam con vào tâm đường thẳng là nơi sa nhân có thể kiểm soát con vì họ có thể tiên đoán bước tới của con là gì.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.9. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là con không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa khởi sự chuỗi dây chuyền, và sau đó thì kết quả được định sẵn. Shiva, xin thày phá tan ảo tưởng và giúp con thấy là con không bị trói buộc bởi bất cứ gì. Bất cứ chọn lựa nào mà con đã lấy đều có thể bị một chọn lựa khác chế ngự.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 3

3.1. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư, lên chính con, và lên sự kết nối, và hình ảnh này đang giam con vào tâm đường thẳng.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.2. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng phóng chiếu một hình ảnh về cách kết nối với các Chân sư dựa trên một số giáo lý cũ mà các thày đã trao truyền trong thời Song ngư.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.3. Shiva, hãy giúp con đọc rung động của các hiện tượng kết nối đồng bóng với các sinh thể trong cõi tư tưởng. Hãy giúp con phân biện các câu trả lời và thấy là chúng nhằm thu hút tâm đường thẳng, tâm lý trí.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.4. Shiva, hãy giải thoát con khỏi mọi kết nối với những kẻ mạo danh trên cõi tư tưởng có khi dùng tên các thày hay có khi dùng tên khác không liên quan đến các chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.5. Shiva, con muốn được thày giúp vì con muốn thoát khỏi bất cứ hình thức nô lệ nào, cho dù đó là trong chính tâm con, hay là một dính mắc vào người khác, hay vào các sinh thể trong cõi tư tưởng, cảm xúc hay bản sắc, hay vào sa nhân.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.6. Shiva, con muốn được thày giúp con buông bỏ các ảo tưởng của tâm lý trí. Con buông bỏ những ảo tưởng đang tách con ra khỏi thày hay một chân sư thăng thiên khác gần tim con.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.7. Shiva, hãy chỉ cho con thấy làm sao tâm lý trí của con ngăn chặn sự kết nối của con với vị chân sư thăng thiên gần với con nhất.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.8. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng tâm có thể phân nhỏ các chân sư thăng thiên thành các thành phần cơ khí, và nếu con làm vậy, thì các thày sẽ phải xuất hiện.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.9. Shiva, con sẵn lòng xoay chuyển tâm mình để thay vì đẩy sự kết nối ra xa như con đang làm, thì con ngừng gắng sức và để cho sự kết nối xảy ra.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 4

4.1. Shiva, con chấp nhận là bất cứ con đang thấy mình ở đâu, thì thày ở đó. Con không cần với ra xa để kết nối với thày. Sự thực là con không cần kết nối. Con chỉ cần xoay chuyển tâm và nhận ra là thày đang ở đây.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.2. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng thày bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Thày ở bất cứ đâu con đang ở, nhưng tâm lý trí muốn tạo ra diễn tiến từ cái này sang cái tới. Đây chính là quan niệm tách biệt.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.3. Shiva, con buông bỏ ảo tưởng của tâm lý trí cho rằng muốn kết nối với một chân sư thăng thiên thì con phải vượt qua một khoảng cách. Con chấp nhận là khoảng cách đó không có.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.4. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng luôn luôn chờ đợi giáo lý kế tiếp, giáo lý tối hậu hay một giáo lý cao siêu hơn. Con thấy là sự tìm cầu này đang đẩy các thày ra xa, hay đúng hơn đang đẩy con ra khỏi các thày.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.5. Shiva, con sẵn lòng tới điểm trong tâm khi con nói: “Tại sao tôi cần nghĩ là tôi phải làm chuyện gì khác để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tại sao tôi không kết nối ngay bây giờ?”

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.6. Shiva, con chấp nhận là vấn đề không phải là suy nghĩ bằng tâm đường thẳng. Vấn đề là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và con sẵn lòng để thày giúp con làm chuyện này.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.7. Shiva, con chấp nhận là thày ở đây vì con, vì nếu không thì các thày đã không ở lại địa cầu. Con thấy rằng hành tinh này không là gì khác hơn một tấn tuồng để con người trên sân khấu có một môi trường trải bày những gì họ phản-sáng tạo hay đồng-sáng tạo.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.8. Shiva, con buông bỏ tất cả các ngã đang nghĩ rằng chúng có khả năng đồng-sáng tạo mà không cần kết nối với các đấng sáng tạo ở tầng cao hơn con, tức là các chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.9. Shiva, con buông bỏ tất cả các ngã được sinh ra từ sự tách biệt. Con để cho chúng chết đi để con không còn trong Trường đời Cay đắng, là nơi con phải phản-sáng tạo cho tới khi định luật sẽ rốt cuộc phản-sáng tạo những gì con phản-sáng tạo.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

OM Shiva OM (9 lần)

TA LÀ xác thân này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ các cảm xúc này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ các tư tưởng này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ bản sắc này, Shiva TA LÀ (9 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

6 | Thỉnh cầu tự do khỏi sợ hãi

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Đại thiên thần Michael hãy giúp con thấy những nỗi sợ và những ngã tách biệt đang khiến con sợ kết nối với một chân sư thăng thiên, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là cảm xúc cơ bản khiến con không chú tâm được vào nội tâm là sợ hãi. Sợ hãi lúc nào cũng là cảm nhận có chuyện gì có thể xảy ra mà ta không có sự che chở nào, không thể trốn chạy.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.2. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ khuynh hướng đối phó với nỗi sợ bằng cách muốn kiểm soát mọi chuyện.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.3. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ khuynh hướng đối phó với nỗi sợ bằng cách đi theo một tôn giáo hay triết lý tâm linh cho con cảm tưởng là có một đấng trên trời sẽ che chở con khỏi mọi điều kiện trên trái đất.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.4. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ tư duy thần thông là niềm tin rằng, tuy mọi chuyện xảy ra theo cách của cõi vật lý, nhưng có một lực thần thánh được phép can thiệp để đình chỉ các luật thiên nhiên cho con.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.5. Đại thiên thần Michael, con thấy là Luật Tự quyết là luật tuyệt đối trên trái đất. Thày có thể che chở con người khỏi bất cứ gì, nhưng khả năng của thày không đủ vì thày còn cần có thẩm quyền chiếu theo Luật Tự quyết.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.6. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mọi tín ngưỡng, học thuyết và nền văn hóa trong các tôn giáo khiến con tin rằng tai ương không thể xảy ra cho con vì con thuộc một nhóm người chọn lọc.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mọi cảm giác sợ hãi, hay bị bất công, hay tức giận Thượng đế. Con buông bỏ mọi cảm giác bị bội ước vì sa nhân đã làm chuyện gì đó tới con.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.8. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ tư duy thần thông. Con thấy là tư duy thần thông đã xua đẩy sự kết nối nội tâm của con với cái ta cao của con và với các chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.9. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ niềm tin rằng có một sinh thể xa xăm trên thiên đàng bình thường không có mặt, nhưng sẽ can thiệp khi con cần đến. Con buông bỏ ý niệm “Thượng đế có mặt theo yêu cầu” này, vì khi con phóng chiếu là có khoảng cách giữa con và thày, thì làm sao con có thể kết nối với thày là một chân sư thăng thiên?

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 2

2.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là Luật Tự quyết không cho phép thày làm một số chuyện để giúp con. Con chấp nhận là có một số chuyện mà con không thể được bảo vệ, tùy theo cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là có sự khác biệt giữa điều kiện mà con sợ và chính nỗi sợ. Con có thể thăng vượt nỗi sợ vì nỗi sợ là một điều kiện trong tâm con.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.3. Đại thiên thần Michael, con thấy là nỗi sợ tối hậu trên trái đất là nỗi sợ chết. Vì con đã tìm được cách để sống với nỗi sợ chết, thì con cũng có thể đối phó với những nỗi sợ khác.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.4. Đại thiên thần Michael, con thấy là khi con cảm thấy bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hay con cảm thấy không có cách chi thoát được điều kiện, thì con chối bỏ hay phớt lờ nỗi sợ. Đó là vì mọi nỗi sợ đều bắt nguồn từ một ngã tách biệt, và ngã không thể nhìn quá nỗi sợ.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.5. Đại thiên thần Michael, con thấy là phương pháp tối hậu để khắc phục nỗi sợ là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã. Con thấy là nỗi sợ có mặt trong tâm con, nhưng điều kiện mà con sợ không có mặt trong tâm con. Điều kiện ở bên ngoài tâm con.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.6. Đại thiên thần Michael, con thấy là nỗi sợ trong tâm con không phải là một điều kiện vật lý, mà là một điều kiện năng lượng. Nỗi sợ là một lốc xoáy rung động và cuộn xoáy trong thể cảm xúc của con.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.7. Đại thiên thần Michael, con thấy là không có gì trong đó ngoài năng lượng cuộn xoáy. Không có điều kiện nào bên trong năng lượng và con thấy nỗi sợ giống như một bão xoáy. Bên trong bão xoáy có mắt bão là nơi yên tĩnh.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.8. Đại thiên thần Michael, con không sợ nhìn vào nỗi sợ của con. Con sẵn sàng đi thẳng vào nỗi sợ cho tới khi con đi xuyên qua lớp năng lượng đang cuộn xoáy và đi vào nơi yên tĩnh ở chính giữa.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.9. Đại thiên thần Michael, con chấp nhận sự trợ giúp của thày. Xin thày hãy đặt Hiện diện của thày lên trên con để con và thày chúng ta cùng nhau đi vào cơn bão xoáy đầy năng lượng sợ hãi đang cuộn xoáy cho tới khi chúng ta tới trung tâm điểm.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 3

3.1. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ nỗi sợ để thày có thể dùng uy lực của thày để dập tắt cơn bão xoáy năng lượng sợ hãi trong thể cảm xúc của con.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là các ngã tách biệt của con không muốn loại bỏ nỗi sợ. Nỗi sợ đó quy định những điều mà nó không thể và không nên làm. Một khi con chấp nhận nỗi sợ, thì nó cho con một cái cớ để không làm một số chuyện.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.3. Đại thiên thần Michael, con muốn loại trừ các nỗi sợ của con, vì con không cần một cái cớ để không suy nghĩ hay kết nối với một chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.4. Đại thiên thần Michael, con sẵn sàng thấy điều con nghĩ sẽ xảy ra nếu con kết nối với một chân sư thăng thiên. Con muốn thấy liệu con có sẽ phải thay đổi gì chăng trong lối sống, hay trạng thái tâm của con.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn sàng thấy liệu con có một thói quen nào đó mà con biết không có tính chất tâm linh, nhưng con đã xây dựng một cái cớ vì sao con có thể tiếp tục có thói quen đó mà vẫn học giáo lý tâm linh.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.6. Đại thiên thần Michael, con quả thực muốn buông bỏ các nỗi sợ của con. Con muốn thấy cái ngã tiềm thức là nơi nỗi sợ tập trung. Con sẵn sàng để cho nó chết đi. Đại thiên thần Michael thày có mặt, ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mong muốn không bị Thượng đế trông thấy. Con buông bỏ ảo tưởng là có khoảng cách giữa con người và Thượng đế. Con buông bỏ ảo tưởng là những gì con che giấu người khác cũng khuất mắt Thượng đế, và do đó con có thể làm một số chuyện mà không chịu hậu quả vì Thượng đế không trông thấy.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.8. Đại thiên thần Michael, con thấy đây là một trong những ảo tưởng vĩ đại nhất trên trái đất và nó dựa trên việc con người mất sự nối kết với cái ta cao của họ.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.9. Đại thiên thần Michael, con thấy là con có chút nối kết với cái ta cao của con, con biết con là phần nối dài của cái ta cao đó, do đó làm sao con có thể tách biệt khỏi nó được? Cũng giống như ý nghĩ ngọn sóng có thể tách biệt khỏi đại đương.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 4

4.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là tâm của con không thể tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ, và do đó một điều kiện vật lý không thể thật sự ảnh hưởng con. Nó có thể ảnh hưởng xác thân vật lý của con, nhưng nó không thể ảnh hưởng con người thực của con.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là không có điều gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng được Hiện diện TA LÀ của con. Cốt lõi con người con là cái Ta Biết, cũng là nhận biết thuần khiết và do đó không thể bị bất cứ gì trong cõi vật lý ảnh hưởng.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.3. Đại thiên thần Michael, con thấy là cái Ta Biết không phải sợ bất cứ điều kiện nào trong cõi vật lý. Chỉ các ngã tách biệt mới có thể sợ các điều kiện vật lý, vì chúng không thể trốn chạy các điều kiện đó. Cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã tách biệt và để chúng chết đi.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.4. Đại thiên thần Michael, con thấy là khi con nhìn vào một ngã tách biệt đang sợ một điều kiện và để cho nó chết đi, thì tại sao con lại phải trải nghiệm điều kiện đó? Con chỉ cần trải nghiệm điều kiện để nhìn vào ngã tách biệt. Đây là Trường đời Cay đắng.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt, để con không cần trải nghiệm điều kiện. Con không cần sợ nó khi con biết có cách để tránh nó.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.6. Đại thiên thần Michael, con thấy chính một ngã tách biệt đang sợ điều kiện, và nếu con là cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn vào ngã tách biệt, thì con không thể để ngã chết đi. Do đó vẫn còn một vũng xoáy đang trì kéo thể cảm xúc của con. Nó cũng trì kéo toàn thể cõi vật chất và thu hút về con những gì con sợ.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng nếu con phớt lờ nỗi sợ thì con xua đẩy điều kiện đi. Con thấy là nỗi sợ thu hút điều kiện để rốt cuộc con được giải thoát khỏi nỗi sợ.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.8. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ. Con xin thày giúp con khắc phục nỗi sợ một hoàn cảnh trong thế gian, lẫn nỗi sợ gặp gỡ các chân sư thăng thiên vì như vậy các ngã tách biệt của con sẽ bị phơi bày. Con sẵn lòng thay đổi.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.9. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng muốn thấy cuộc đời của mình sẽ ra sao nếu con không còn nỗi sợ. Ngay đây con quyết định: “Cuộc đời của tôi sẽ khá hơn nếu tôi không còn nỗi sợ. Do đó tôi sẵn lòng yêu cầu Đại thiên thần Michael giúp tôi thấy nó.”

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 5

5.1. Đại thiên thần Michael, con xin thày thực sự tung ra một bom nổ ánh sáng vào vũng xoáy trong thể cảm xúc của con để dập tắt nó và không cho nó cuộn xoáy nữa.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.2. Đại thiên thần Michael, con cần sẵn lòng làm công việc dọn dẹp, dùng ngọn lửa tím và các bài chú bài thỉnh khác để chuyển hóa năng lượng.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.3. Đại thiên thần Michael, con xin thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì mà con chưa thấy.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.4. Đại thiên thần Michael, con không nghĩ con đã vượt quá điều này rồi và không sợ gì cả. Con sẵn lòng mời thày vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì ẩn giấu chăng.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng thấy liệu có sự e dè không muốn nhìn chăng. Con muốn thấy liệu có điều gì trong thể cảm xúc mà con e ngại không muốn thấy chăng.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.6. Đại thiên thần Michael, con thấy là để thiết lập một nối kết mạnh hơn với các chân sư thăng thiên, thì sợ hãi là một chướng ngại mà con phải khắc phục. Con thấy đây là một việc mà con có thể làm được với sự giúp đỡ mà thày cống hiến.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.7. Đại thiên thần Michael, con thấy sợ hãi là một cảm xúc. Tối hậu, cái gì khởi sự lốc xoáy sợ hãi là một quyết định, một ý muốn. Khi đã xem xét kỹ thì cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là lấy một quyết định khác, quyết định buông bỏ nó.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.8. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ nỗi sợ, bất kể điều kiện mà con sợ có còn đó hay không. Con muốn được giải thoát khỏi sợ hãi.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.9. Đại thiên thần Michael, con cung cấp ý chí, và con biết là lúc đó thày sẽ cung cấp uy lực và tiêu trừ vũng xoáy sợ hãi. Con có ý chí và con biết thày có uy lực.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

4 | Thỉnh cầu nhận biết tâm linh về thân thể

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Mẹ Mary hãy giúp con nhìn ra những gì đang ngăn con chấp nhận rằng con là cơ thể vật lý của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, con thấy được khía cạnh Mẹ của Thượng đế là khía cạnh nuôi dưỡng. Con buông bỏ mọi cảm nhận thiếu thốn và chấp nhận là con xứng đáng được nuôi dưỡng, con dám chờ đợi được nuôi dưỡng.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.2. Mẹ Mary, con chấp nhận là con xứng đáng nhận được sự nuôi dưỡng cơ thể vật lý. Con thấy cơ thể của con được tạo bằng Thân thể của Mẹ Thiêng liêng, và đó là Ánh sáng của Mẹ Thiêng liêng, là Ánh sáng Mẫu-Vật.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.3. Mẹ Mary, con thấy một trong những điều cơ bản có thể kéo con ra khỏi cảm giác kết nối với thày chính là cơ thể vật lý đang không ngừng lôi kéo sự chú ý của con.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.4. Mẹ Mary, con buông ảo tưởng cho rằng cơ thể vật lý là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con, rằng đó là cái gì phải được chinh phục, phải bị làm ngơ, phải bị kiểm soát hay bị trấn áp.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.5. Mẹ Mary, con buông ảo tưởng cho rằng toàn bộ bát cung vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.6. Mẹ Mary, con nhìn ra cách người tâm linh đã tiếp cận cơ thể vật lý của mình suốt hàng ngàn năm qua không phải là cách xây dựng nhất. Cơ thể của con chỉ là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh nếu con nghĩ như vậy mà thôi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.7. Mẹ Mary, con buông ý muốn trốn thoát khỏi cơ thể trong khi mình vẫn ở trong cơ thể, ý muốn khuất phục cơ thể, kiềm chế cơ thể, xem thường cơ thể, trấn áp cơ thể, vì đây là hình ảnh sẽ biến cơ thể thành kẻ thù.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.8. Mẹ Mary, con nhìn ra là con không đang hiện thân để có những trải nghiệm tâm linh. Con đang hiện thân để làm việc gì đó trong cõi vật lý, để trải nghiệm cõi vật lý, để thay đổi cõi vật lý.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.9. Mẹ Mary, con buông ý tưởng cho rằng cơ thể vật lý là kẻ thù cho việc kết nối với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên. Con chấp nhận cơ thể vật lý là một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm cõi vật lý từ bên trong và góp phần vào tiến trình đồng sáng tạo.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, con buông bỏ mọi sự than vãn. Con xem cơ thể là một cơ hội. Con xem đầu thai là một cơ hội.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.2. Mẹ Mary, con nhìn ra sự đau khổ trên trái đất đã trở thành một vòng xoáy trong tâm thức tập thể ngày càng tự tăng cường. Con sẵn lòng đập vỡ vòng xoáy này đã khiến con than phiền về thân thể hay tìm cách kiểm soát nó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.3. Mẹ Mary, con sẵn lòng góp sức kéo tập thể vươn tới một cách tiếp cận cao hơn để xem cơ thể là một cơ hội. Khi con ở trong cơ thể, con sẽ không chối bỏ cơ thể hay tìm cách lánh xa cơ thể.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.4. Mẹ Mary, con thấy là chính con đã chọn hiện thân vật lý vì nếu không thì con đã không ở đây. Con đã chọn đầu thai vào thời điểm này để giúp Saint Germain đem lại Thời Hoàng kim và tạo điều kiện thuận lợi cho địa cầu xoay chuyển.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.5. Mẹ Mary, con thấy là trong Thời Hoàng kim của Saint Germain, con người sẽ có một mối quan hệ với thân thể của mình cao hơn hầu hết mọi người ngày hôm nay. Con ở đây để giúp đem lại một xoay chuyển trong cách tiếp cận cơ thể. Làm sao con sẽ giúp tập thể xoay chuyển được trừ khi con xoay chuyển tâm mình trước tiên?

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.6. Mẹ Mary, con buông ý muốn chối bỏ cơ thể. Con chọn cách tiếp cận cao hơn và con đón nhận cơ thể. Con đón nhận việc mình đang đầu thai và con nói: “Tôi là thân thể này.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.7. Mẹ Mary, con buông tất cả mọi ngã tiềm thức được tạo ra trong tiền kiếp, từ thuở chấn thương nhập đời khi con bị sa nhân tấn công, khi chúng tìm cách dùng cơ thể vật lý của con để tiêu diệt con về mặt tâm lý lẫn tâm linh.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.8. Mẹ Mary, con buông những cái ngã được tạo ra trong tiền kiếp liên hệ đến cơ thể vật lý, đến việc con ở trong cơ thể vật lý. Con chấp nhận là không những con ở trong cơ thể mà con còn chấp nhận cơ thể. Thay vì chấp nhận hay thấy mình ở trong cơ thể, con chấp nhận mình là cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.9. Mẹ Mary, con chấp nhận con là cơ thể. Con chấp nhận rằng bản mẫu của cơ thể con – được cầm giữ bởi Hiện diện TA LÀ trong tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con – hoàn toàn trở nên vật lý. Con chấp nhận sự chữa lành mà con cần để tập trung vào việc tăng triển tâm linh của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, con thấy quá nhiều người tâm linh suốt các thời đại đã chối bỏ cơ thể, đã cố tránh né nó, đẩy nó ra xa. Con sẵn lòng thử một cách khác hơn. Con đón nhận cơ thể, con chấp nhận cơ thể, con đồng hóa mình là cơ thể đang biểu hiện khuôn đúc cao nhất cho cơ thể.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.2. Mẹ Mary, con thấy là phải có một khuôn đúc tư tưởng được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì nó mới khoác vào hình tướng. Khuôn đúc đó được phóng chiếu xuyên qua tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con lên Ánh sáng Mẫu-Vật, hình thành cơ thể vật lý.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.3. Mẹ Mary, con chấp nhận cơ thể vật lý của con không dày đặc chút nào. Nó mềm lỏng. Nó tựa như loại nhựa dẻo có thể được uốn nắn, như đất sét có thể được nhào nặn, nhưng nó được nhào nặn bởi tư tưởng, bởi bản sắc, bởi cảm xúc. Và vì vậy nó có tiềm năng chuyển đổi chớp nhoáng.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.4. Mẹ Mary, con chấp nhận là tế bào của con hòa điệu với trạng thái tâm con. Tế bào là những chiếc máy radio nhận tín hiệu từ tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của con.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.5. Mẹ Mary, con chấp nhận là âm thoa trong mỗi tế bào của con giờ đây đã hòa điệu với chuông của Mẹ. Tế bào giống như những chiếc âm thoa, và thay vì điều chỉnh theo tần số của thế gian, giờ đây chúng hòa điệu với viễn quan của Mẹ Thiêng liêng cho cơ thể vật lý của con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.6. Mẹ Mary, con chấp nhận viễn quan của Mẹ Thiêng liêng là một âm thanh, một rung động, một tiếng chuông. Cho nên con nói: “Ngay mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.7. Mẹ Mary, con hòa nhập vào Hiện diện của thày, con hòa điệu với cơ thể cùng bất kỳ điều kiện nào trong cơ thể, và con cho phép mình thâm nhập vào đó. Con nói: “Ngay mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.”

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.8. Mẹ Mary, con đọc câu chú: “Tôi là thân thể này” và con cảm thấy an bình với câu đó. Con chấp nhận mình là cơ thể, và cơ thể là một cơ hội trong thời gian con ở trong cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.9. Mẹ Mary, con chấp nhận: “Tôi là thân thể của Mẹ Thiêng liêng. Tôi là thân thể của Mẹ Trái đất.”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, con chấp nhận rằng bệnh tật trong cơ thể vật lý không phải là chuyện tự nhiên. Thật không tự nhiên khi cơ thể bị bệnh. Thật không cần thiết cho cơ thể phải mắc bệnh.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.2. Mẹ Mary, con chấp nhận chính con là cơ thể, và con chấp nhận việc tạo thay đổi trong cơ thể là chuyện khả dĩ, ngay cả khi bác sĩ hay tâm thức tập thể bảo rằng chuyện này không thể xảy ra.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.3. Mẹ Mary, con chấp nhận con đang ở trong cõi vật chất. Đây là cõi của Mẹ Thiêng liêng. Thày là cõi vật chất. Con chấp nhận là đối với Mẹ Thiêng liêng, không có gì trong vật chất là bất khả thi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.4. Mẹ Mary, con ngộ ra là chỉ sự chấp nhận hay không chấp nhận của con mới có thể ngăn cản một điều mà nhiều người sẽ gọi là phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ gì cả, chỉ có sự biểu hiện tự nhiên của Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trình chiếu ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.5. Mẹ Mary, con chấp nhận là khi con thay đổi sự trình chiếu, con cũng thay đổi điều kiện vật chất. Con chấp nhận thân thể, và con thấy là có thể con phải hoàn toàn chấp nhận một điều kiện trong thân thể trước khi con thăng vượt được điều kiện đó.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.6. Mẹ Mary, con chấp nhận là chừng nào con còn đẩy xa – không những đẩy xa điều kiện mà cả cơ thể đã buộc con phải đối mặt với điều kiện đó – thì con không thể chấp nhận thay đổi. Con chính là sự thay đổi mà con muốn thấy xảy ra trong cơ thể.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.7. Mẹ Mary, con chấp nhận là con không thể là sự thay đổi trong cơ thể trừ khi con chính là cơ thể. Và con chỉ có thể là cơ thể nếu con ngừng chối bỏ nó, ngừng đẩy nó ra xa và cho rằng nó phản tâm linh hay nó là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.8. Mẹ Mary, con chấp nhận mục đích làm người tâm linh trong thời đại này, mục đích con đã hiện thân vật lý, là để chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.9. Mẹ Mary, con chấp nhận con là một người tâm linh trong cơ thể. Hiện thân chính là mục đích của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Ngay mỗi tế bào là một âm thoa,
Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
(9 hay 33 lần)

Ngay mỗi tế bào là một âm thoa,
Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
Âm thanh phá tan bùa mê đáy vực
Đến từ cõi chết và cõi địa ngục.

TA LÀ cơ thể này! (9 hay 33 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

2 | Thỉnh cầu một trải nghiệm vượt hình tướng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Quan Âm hãy giúp con nhìn vượt ra khỏi cái tâm muốn con đồng hóa với hình tướng và tập trung tất cả chú ý của con vào hình tướng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Quan Âm, con thấy được cái tâm quá ghiền nghiện sự kích động, đã quen thói nhận được kích động liên tục và không ngừng phản ứng lại những gì từ bên ngoài chính nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Quan Âm, con thấy được thày, như một chân sư thăng thiên, không phải là một nguồn từ ngoài. Con muốn sự kết nối của con với thày không chỉ là thêm một kích động từ ngoài. Con muốn nó là nhiều hơn vậy.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Quan Âm, con thấy được thông điệp từ một chân sư thăng thiên không đến từ một nguồn bên ngoài giống như mọi thứ khác đang lôi kéo tâm con. Thày ở bên trong con, và thày ở khắp mọi nơi chung quanh con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Quan Âm, con muốn nghe được thày như giọng nói nhỏ nhẹ yên ắng bên trong, và con không để ý đến những giọng nói từ ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Quan Âm, con thấy được ông hoàng của thế gian, bọn quỷ của Mara, đang cố hết sức lôi kéo chú ý của con ra ngoài, để con liên tục hướng chú ý về bất cứ chuyện gì bên ngoài chính con.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Quan Âm, con thấy được là chúng không cần biết sự chú ý của con tập trung vào đâu, miễn là nó tập trung ở ngoài con. Nhưng bên trong là cái ta cao của con, là các chân sư thăng thiên, và con muốn chú tâm vào đây.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Quan Âm, con muốn trải nghiệm chính mình không như tâm vỏ ngoài mà như sự nhận biết thuần khiết, là cái Ta Biết đang tự trải nghiệm như sự nhận biết thuần khiết.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Quan Âm, con muốn có khả năng phân biện và nhìn ra những kẻ mạo danh là thày tâm linh, nhưng họ lại ở cõi lý trí, ở cõi bản sắc thấp hay cõi cảm xúc, thậm chí cả những thày giả đang hiện thân trong cõi vật lý.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Quan Âm, con thấy được là con sẽ không nối kết với các thày qua trung gian cái tâm bận rộn luôn bị kéo ra ngoài. Đây là tâm vỏ ngoài có thể nối kết với những sinh thể ở cõi lý trí sẽ kích động con với đủ loại hào nhoáng. Thay vào đó, con muốn nối kết với Đại đoàn chưởng giáo vũ trụ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 2

2.1. Quan Âm, con thấy đường tu tâm linh không phức tạp lắm đâu. Đường tu không huy hoàng vẻ vang theo các tiêu chuẩn phán xét của nhiều người trong thế gian. Đường tu là bước vào bên trong, là tìm thấy một cái gì ở bên trong mà con không thể tìm được ngoài thế gian.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Quan Âm, con nhìn ra là con sẽ không tìm được những gì mình tìm kiếm bằng cách nhìn ra ngoài chính mình. Con sẽ chỉ tìm được những gì con tìm kiếm khi con bắt đầu hướng chú ý vào trong.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Quan Âm, con thấy được là nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai trên trái đất, và các thày đã khắc phục sự dày đặc của trái đất. Cho nên con biết đường tu này hiệu quả, và chính con cũng có khả năng khắc phục.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Quan Âm, con thấy được là con không thể khắc phục bằng riêng quyền năng của mình. Con cần các thày trợ giúp và con sẵn sàng nhận sự trợ giúp này.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Quan Âm, con thấy là do con có thể nhận ra các chân sư thăng thiên, nên con đã có chút kết nối với các thày rồi. Con sẵn lòng mở rộng sự kết nối của mình bằng cách xem xét những kỳ vọng đang ngăn con đạt đến sự kết nối chặt chẽ hơn với các thày.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Quan Âm, con buông bỏ mọi ham muốn gặp gỡ các chân sư một cách ấn tượng. Con thấy các thày là những vị thày tâm linh đích thực, và các thày muốn con giải thoát khỏi tự ngã cùng những ngã tiềm thức của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Quan Âm, con sẵn lòng nhìn ra bất cứ kỳ vọng nào dựa trên tự ngã muốn cảm thấy đặc biệt. Con thấy được là nếu các thày thỏa mãn kỳ vọng của con, con sẽ bị yếu tố này của tự ngã đánh bẫy, có lẽ cho đến hết kiếp này.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Quan Âm, con thấy được là nếu con mang kỳ vọng như vậy thì các thày sẽ phải bước lùi lại, vì thày không thể nhận rủi ro đẩy con về hướng ngược lại sự tăng triển.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Quan Âm, con thấy được là nếu con mang kỳ vọng một cuộc gặp gỡ ấn tượng, thì đây chính là tâm con đang phóng chiếu ra ngoài. Nhưng con sẽ không nối kết được với các thày ở bên ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 3

3.1. Quan Âm, con thấy được là nếu tâm con phóng chiếu hình ảnh sự nối kết phải như thế nào, thì con đang đẩy xa sự nối kết qua kỳ vọng này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Quan Âm, con thấy được là các chân sư thăng thiên không giới hạn sự nối kết mà con có thể có với các thày. Các thày sẵn lòng kết nối với bất cứ ai trên địa cầu ở mức tâm thức hiện thời của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Quan Âm, con thấy được tâm Ki-tô là tâm có khả năng gặp con ở bất kỳ mức tâm thức nào của con, và cống hiến một khung tham chiếu sẽ giúp con bước lên bước tâm thức kế tiếp.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Quan Âm, con thấy được là các thày sẵn lòng nối kết với con. Con mong muốn thiết lập một sợi dây nối kết trực tiếp với các thày để con có thể nhận được những sáng ngộ cá nhân, những xoay chuyển tâm thức, cùng sự giúp đỡ từ các thày chứ không từ nguồn nào bên ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Quan Âm, con sẵn lòng nhìn thấy những gì trong tâm có thể ngăn chặn sự nối kết trực tiếp của con. Con sẵn lòng rút lui khỏi việc chú tâm vào thế giới, và con nắm bắt khái niệm: “Không làm việc gì nhưng không sót việc gì không làm.”

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Quan Âm, con thấy được bằng cách rút khỏi việc chú tâm bình thường vào thế giới và thay đổi thế giới, con có thể đem lại một thay đổi lớn hơn trong thế giới qua việc kết nối trực tiếp với các thày.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Quan Âm, con thấy được là nếu con đã có thể kết nối với các thày qua tâm vỏ ngoài cứ luôn phóng chiếu ra ngoài, thì chắc chắn con đã kết nối được rồi, vì tâm này hoạt động rất ráo riết. Con sẽ làm điều gì khác hơn hay sẽ không làm gì cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Quan Âm, con thấy được là để thiết lập sự nối kết với cái ta cao của con, với các thày tâm linh của con, con cần vươn mình lên khỏi tâm thức đại chúng.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Quan Âm, con thấy được là con cần cái gì khác để mở rộng sự nối kết của mình. Vì vậy con sẽ bỏ qua bên các kỳ vọng của con, bỏ qua bên pháp tu bình thường của con, thậm chí cả tư duy muốn làm.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 4

4.1. Quan Âm, con sẵn lòng tìm kiếm vị chân sư mà con có sự nối kết. Mục đích của con là trải nghiệm sự nối kết, chứ không phải đẩy nó về phía trước như con lừa đẩy củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Quan Âm, con thấy được Hiện diện của thày là điều con có thể nối kết vượt quá ngôn từ, vượt quá lời bài truyền đọc và lời những câu chú. Nhưng dẫu vậy, lời nói là chén thánh sẽ neo trụ sự Hiện diện.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Quan Âm, con thấy được là thày không thể bị bắt giữ trong bất kỳ hình tướng nào. Con sẵn lòng thăng vượt sự dính mắc vào hình tướng, sự đồng hóa với hình tướng. Con sẵn lòng nối kết với một cái gì không có hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Quan Âm, con sẵn lòng buông bỏ hình ảnh một vị thượng đế toại nguyện ước muốn. Con thấy được các chân sư thăng thiên không phải là những vị thần nam hay thần nữ để toại nguyện ước muốn của con. Các thày không chủ yếu ở đây để làm chuyện gì cho con trong hình tướng. Các thày ở đây để chứng tỏ cho con thấy là có gì đó vượt khỏi thế giới hình tướng!

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Quan Âm, con muốn các thày cho con một khung tham chiếu rằng có gì đó nhiều hơn hình tướng. Rằng chính con là nhiều hơn hình tướng!

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Quan Âm, con sẵn lòng nối kết và trải nghiệm một điều gì vượt khỏi hình tướng. Con muốn nối kết với các thày ngoài hình tướng, cái hình tướng bao quanh con, lôi kéo chú ý của con tập trung vào hình tướng. Con thấy được là các thày ở đây để giúp con ngừng đồng hóa với hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Quan Âm, con sẵn lòng nối kết và trải nghiệm những gì vượt khỏi hình tướng nhưng lại vô cùng thực. Nói cho cùng, chỉ có cái vượt hình tướng mới là thực. Con buông bỏ trò chơi muôn thuở bảo rằng hình tướng này là thực và hình tướng kia không thực.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Quan Âm, con buông bỏ mọi ham muốn sẽ có gì đó ấn tượng xảy ra cho mình. Con thấy điều ấn tượng nhất có thể xảy ra là không có gì mang hình tướng xảy ra.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Quan Âm, con thấy được là nếu không có gì xảy ra thì điều có thể đang xảy ra là con đang chứng nghiệm thực tại vô hình tướng mà thày là. Quan Âm, thày là HƠN NỮA. Thày vượt khỏi hình tướng. Con sẵn lòng trải nghiệm chính con đây cũng vượt khỏi hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

OM (3 lần)
OM Mani Padme Hum (9 lần)
OM Quan Âm OM (9 lần)
OM (3 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

25 | Tự do quyết định cách con biểu hiện quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain, và thầy rất vui, nếu con có thể dùng chữ vui cho một chân sư thăng thiên lúc nào cũng ở trong tâm thái trung hòa, có mặt ở đây với các con. Thày muốn có vài nhận xét về tình hình Hàn Quốc, thày không muốn nói tình hình vật lý nhưng hoàn cảnh được thể hiện bởi sự việc có rất nhiều các con đã đến với giáo lý này, đã làm rất nhiều công việc như dịch thuật, đọc thỉnh, tham gia canh thức, lập nhóm, học giáo lý.

25.1. Công việc tuyệt vời của các đệ tử Chân sư Thăng thiên tại Hàn Quốc

Các con có thể nhìn vào cõi vật lý và nói: “Kết quả của nỗ lực của chúng tôi là gì, chúng tôi đã đem lại khác biệt gì nơi cõi vật lý?” Thày không mấy quan tâm đến kết quả vật lý vì cõi vật lý lúc nào cũng sẽ phản ánh những gì xảy ra trên ba cõi cao. Chỉ là vấn đề thời gian để các thay đổi trên ba cõi cao đột phá xuống tầng vật lý. Qua các công việc mà các con đã hoàn thành tại đây ở Hàn Quốc, các con quả thực đã tạo ra một xoay chuyển địa chấn nơi các thể xúc cảm, tư tưởng và bản sắc của tâm thức tập thể.

Các con đã đặc biệt tạo ra thay đổi ở các tầng bản sắc và tư tưởng. Thể cảm xúc lúc nào cũng náo loạn vì quá nhiều người có một số nỗi sợ, nghi ngờ, ác cảm và giận dữ khó có thể an tịnh. Tuy nhiên, thay đổi thực lúc nào cũng bắt đầu ở các tầng bản sắc và tư tưởng, và điều mà các con đã đem lại là tải xuống một số ý tưởng từ thày vào thể bản sắc và tư tưởng, không những của tâm thức tập thể, mà còn của nhiều người dân Hàn Quốc sẵn sàng tiếp nhận các ý tưởng đó. (Thày bao gồm những người sống ở Bắc Hàn, vì Bắc Hàn cũng thuộc Hàn Quốc). Các người đó hoàn toàn không biết gì về chân sư thăng thiên và không cần biết đến chân sư thăng thiên, nhưng họ ở trong vị thế có thể hiện thực một số ý tưởng đó, và do đó trong những năm tới các con sẽ thấy thay đổi ngay cả nơi tầng vật lý.

Khi nào chuyện đó xảy ra, chúng xảy ra chính xác như thế nào, là điều không thể tiên đoán vì như các thày có giảng, có những nhân duyên liên khởi với nhiều yếu tố rất phức tạp liên quan đến con người ở cả miền Bắc và miền Nam Hàn Quốc. Ta có thể nói, điểm quan trọng là khi có đủ túc số người đứng thẳng hàng với một ý tưởng, thì ý tưởng đó có thể đột phá xuống cõi vật lý. Khi nào chuyện đó xảy ra lẽ tất nhiên tùy thuộc luật tự quyết. Điều ta có thể nói là các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã làm phần công việc của mình. Các con đã làm nhiều hơn là phần việc của mình. Các con đã làm công việc tuyệt vời và thày thành thật hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện với công việc đã hoàn thành, và đón tiếp công việc tới mà các con muốn làm, các con sẵn lòng làm, với lòng hân hoan, mãn nguyện, an bình và thành tựu.

25.2. Phương pháp đường thẳng cần thiết khi tiếp cận đường tu

Tia thứ Bảy, Tia của Tự do, con phải làm gì để hòa điệu với Tia thứ Bảy? Lẽ đương nhiên, con cần tự do nhưng tự do khỏi cái gì? Như các Thượng sư khác đã giảng, tự do khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng phóng chiếu gì liên quan đến tự do? Nó nhìn vào các điều kiện đương thời và nói: “Tôi không thể tự do vì tôi đang bị đàn áp bởi nhà độc tài này. Tôi không thể tự do vì tôi không có đủ tiền. Tôi không thể tự do vì tôi không có cái này cái kia.” Sau đó tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một lối đi đường thẳng, một tiến trình đường thẳng, nói rằng: “Tôi không có tự do vì tôi thiếu cái này hay tôi dư cái kia. Do đó, tôi cần phóng chiếu một kế hoạch từng bước dẫn tôi tới điểm tôi có những gì tôi cần để được tự do.” Con bắt đầu đi về hướng đó, con bắt đầu nỗ lực về hướng đó, con dùng tâm đường thẳng để đặt kỷ luật cho chính con và các hành động, cảm xúc và tư tưởng của con, và con nỗ lực, nỗ lực, nỗ lực.

Các thày có nói là trên con đường tâm linh con tiến từ tầng 48 lên tầng 96 bằng cách tự nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể. Con cần sử dụng phương pháp đường thẳng: “Tôi cần làm gì? Tôi cần đọc bao nhiêu bài chú? Tôi cần đọc các bài thỉnh nào? Tôi cần học hỏi những gì? Tôi cần làm gì? Tôi cần loại trị liệu nào?” Con cần tất cả những chuyện đó, và con có thể lên kế hoạch. Trên căn bản, con có thể lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước. Đây là điều hoàn toàn phải phép. Như thày Nada có nói, con dùng tâm đường thẳng để đối phó với những thực tại thực tiễn trong bát cung vật lý, trong đó có tâm thức tập thể. Con có thể định ra một lối đi, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm khi họ khám phá giáo lý chân sư thăng thiên (trong đợt truyền giáo này hay một đợt truyền giáo khác), và nói: “Tôi cần học hỏi, tôi cần tham gia các sinh hoạt này, tôi cần đọc bao nhiêu bài chú mỗi ngày.” Họ đã làm chuyện này một cách kiên định trong một thời gian, có người trong một thời gian dài. 

Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng. Điều nhiều đệ tử đã làm là họ lập ra kế hoạch với những việc họ sẽ làm, và nói: “Tôi cần tiếp tục làm theo kế hoạch này cho tới khi tôi được tự do” hoặc họ nói: “Tôi cần làm theo kế họach này cho đến hết đời.” Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do. Con làm gì khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng? Con đang, nói một cách thẳng thắn, giam mình vào nhà tù. Con đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm, và đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm cho tới khi tôi được tự do.” Con thấy chăng, con đang giam mình vào một cấu trúc: “Đây là những chuyện tôi phải làm.” Phải chăng con đã tạo trong tâm mình một loại nhà tù? 

25.3. Xoay chuyển cần thiết ở tầng 96

Con có thể nói là khi con bị tâm thức tập thể thống trị, thì con đang ở trong một loại nhà tù vì con có ít khả năng lấy chọn lựa cá nhân. Sau đó con tìm ra một giáo lý tâm linh (và nhiều người tâm linh không tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên mà một giáo lý khác cũng đã làm vậy) và con lập một kế hoạch và con nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm” để đạt bất kể mục tiêu nào đã được định ra bởi giáo lý tâm linh, có thể là giác ngộ, thức tỉnh, thăng thiên, hay bất cứ gì khác.

Như các thày có giảng, giữa tầng 48 và 96 điều thích đáng là con lập kế hoạch dùng giáo lý và dụng cụ tâm linh để nâng con lên khỏi tâm thức tập thể, tiêu trừ các ngã và theo con đường tự điều ngự. Đây là điều con cần làm để nâng mình ra khỏi nhà tù của tâm thức tập thể. Để làm việc này, con cần chú tâm, nhưng hậu quả là con đặt tâm mình vào một cấu trúc và đây lại là một nhà tù cho tâm.

Đây không phải là một vấn đề nếu con vẫn nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng như thày Nada đã giảng một cách rất hùng hồn, nó sẽ trở thành một vấn đề khi con dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu quá những thực tại thực tiễn của thế giới vật chất, kể cả bốn tầng của cõi vật chất. Điều mà rất rất nhiều người tâm linh (kể cả đệ tử chân sư thăng thiên) đã làm là họ dấn thân vào con đường tâm linh và họ dùng giáo lý để phóng chiếu kế hoạch cần theo đuổi dựa trên hiểu biết mà họ có khi bắt đầu con đường tâm linh: “Đây là điều tôi cần tiếp tục làm, nó sẽ dẫn tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn hay tâm thức Ki-tô (bất kể con gọi là gì)”.

Như các thày đã giảng, ở tầng 96 con đối diện một khai ngộ, một khai ngộ then chốt và khai ngộ này có thể được mô tả bằng nhiều cách như các thày đã làm. Một cách để mô tả là nói con phải nhận ra là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con thấy chăng, con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Các thày đã nhiều lần cố giảng điều gì? Con hãy xem lại giáo lý của các thày. Con hãy xem lại và học hỏi những điều mà các thày đã nói về quả vị Ki-tô, trở ngược mãi tận năm 2002. Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Thách thức thứ nhì của Ki-tô là gì? Đó là sau khi con đã nhận ra Ki-tô, thì con không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra. Con không thể tiến vào quả vị Ki-tô bằng tâm đường thẳng, tâm đường thẳng sẽ không thể dẫn con tới đó. Bất kể hình ảnh nào con đã phóng chiếu lên chính mình và con đường tu dựa trên tâm đường thẳng ở dưới tầng 96, chúng không thể dẫn con đến các tầng quả vị Ki-tô – áp dụng chúng không hiệu quả. Thày không nói ở đây là con cần ngưng đọc chú hay học hỏi giáo lý. Con cần một xoay chuyển tâm thức vi tế hơn nhiều.

25.4. Trạng thái lắng nghe trong hồng ân

Điều lợi ích cho nhiều người trong các con là con lấy một quyết định và nói: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách hay nhất mà tôi có thể làm để đi vào trạng thái tâm trung hòa. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói: “Trừ phi con trở thành giống như trẻ thơ, thì con không có minh triết để vào được vương quốc.” Đây là điều mà các Phật tử ám chỉ khi nói đến “sơ tâm”. Con hãy thỉnh thoảng tìm cách đi vào trạng thái lắng nghe – lắng nghe trong hồng ân.

Nếu con cảm thấy mình hòa điệu đặc biệt với một vị chân sư nào đó, thì con hãy xin vị chân sư đó neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con hãy chỉ giữ tâm trung hòa. Con hãy đừng xin giải đáp, đừng xin hướng dẫn, đừng xin đáp số cho những vấn đề hay hoàn cảnh đặc thù mà con đang phải đối diện. Các chuyện này con có thể làm lúc khác. Con hãy chỉ xin vị chân sư giúp con giữ tâm trung hòa và lắng nghe vì khi con tiến lên trên tầng 96 (và quả thực cũng vậy khi con tới gần tầng 96) thì con cần cảm nhận hướng kế tiếp mà con cần theo là gì, giai đoạn kế tiếp của con đường tâm linh của con là gì. Điều này sẽ khác cho mỗi người trong các con, do đó không có câu trả lời mẫu.

25.5. Cố gắng sống đúng theo hình ảnh đệ tử gương mẫu

Một lần nữa đây là lý do vì sao tâm đường thẳng tạo nhiều vấn đề vì điều mà ta thấy trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử lấy giáo lý của các thày và tạo ra một hình tư tưởng thế nào là một đệ tử gương mẫu. Từ đó một nền văn hóa tổ chức đuợc tạo ra với một hình tư tưởng – thế nào là đệ tử gương mẫu – và hình ảnh này rất khó noi theo. Quả thật đây giống như điều các thày đã nói về sa nhân phóng chiếu hình ảnh toàn hảo nhưng không ai có thể thực sự xác định nó là gì, do đó không thể noi theo được. Hình ảnh người đệ tử gương mẫu cũng vậy. Con có thể quy định một số yêu cầu vỏ ngoài, nhưng không có gì được quy định rõ ràng, do đó rất khó noi theo. Sống theo đúng hình ảnh đó cần một lượng thời gian và tận tụy vĩ đại vì những yêu cầu vỏ ngoài rất, rất phức tạp. Con phải đọc tất cả các bài chú này. Con phải sống một cách nào đó, ăn một cách nào đó, đi đứng một cách nào đó, nói một cách nào đó, nghĩ một cách nào đó, cảm nhận một cách nào đó và kết quả là sống theo đó rất mệt và rất khó.

Những người cố gắng sống theo đúng mẫu đó phải cố gắng quá nhiều để chu toàn hình ảnh đó nên họ bị căng thẳng tâm thần. Họ đặt họ vào tình trạng thường trực bị căng thẳng tâm thần gần như tới điểm suy sụp thần kinh. Họ giống như một sợi dây thun bị kéo dãn đến mức tối đa và gần tới điểm bị đứt. Khi con người đi vào trạng thái tâm đó thì họ có khuynh hướng rất phán xét người khác. Quả thật là họ phán xét chính họ vì họ lúc nào cũng phán xét: “Tôi có sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu hay tôi đang không làm tròn điểm gì?” Họ cũng có khuynh hướng rất phán xét người khác và đó là lý do vì sao các tổ chức đó đã tạo ra trạng thái tâm thức rất phán xét thể hiện qua việc các thành viên luôn luôn phán xét lẫn nhau.

Thày có thể bảo đảm với con là đã có người tiếp cận một trong những tổ chức chân sư thăng thiên đó và cảm nhận nền văn hóa phán xét, và họ nói: “Không thích hợp cho tôi!” Nhiều người này có tâm thức cao hơn những người trong tổ chức, và đây là điều những người trong tổ chức không thể tin là có thật. Họ nghĩ họ đang ở trong trạng thái tâm thức cao nhất vì họ đang cố gắng sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu. Khi họ thấy có người đến rồi bỏ đi, thì họ nói: “Những người này không có căn cơ đệ tử”, nhưng những người đó thực sự có căn cơ đệ tử. Họ thật sự ở tầng cao hơn những người trong tổ chức. Họ ở cao hơn tầng văn hóa phán xét. 

25.6. Các ngã nhị nguyên rất vi tế trên tầng 96

Thày chỉ muốn nói là các thày không muốn con lặp lại khuôn nếp này. Các thày muốn các đệ tử trong đợt truyền giáo này vượt thăng những khuôn nếp đó để con có thể tới điểm đạt được tự do. Đạt được tự do nghĩa là gì? Từ tầng 48 đến tầng 96, đó là đạt được tự do khỏi tâm thức tập thể, tự do khỏi các ngã nhị nguyên. Thày tin con nhận ra là con cần một hiểu biết sâu sắc về các ngã đó. Các thày có giảng là khi con đi xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 thì con đi vào tách biệt và con sử dụng tâm thức nhị nguyên để tạo ra các ngã đó, do đó chúng là các ngã nhị nguyên. Sau đó, con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thứ 48 và đi về hướng tầng 96. Vì độ dày đặc của hành tinh, con vẫn còn mang theo mình một số các ngã nhị nguyên mà con chưa khắc phục. Nói cách khác, không phải là khi con tới tầng 48 là con đã khắc phục tất cả các ngã được tạo ra trong nhị nguyên.

Con cần suy ngẫm điều này vì có lẽ các thày đã quá dùng lý đường thẳng trong những lời giải thích trước của các thày. Con hãy nhìn như thế này. Có tất cả là 144 tầng tâm thức mà con người có thể có trên trái đất. Nếu con bắt đầu từ trên cùng (là nơi con bắt đầu với Hiện diện TA LÀ) và đi về hướng tầng 144, thì để xuống tầng 144 con cần mang vào một ảo tưởng. Đây không phải là một ảo tưởng nhị nguyên. Nó chỉ là một ảo tưởng liên quan đến bát cung vật lý trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất. Con cần gì để giúp con cảm thấy con có thể đầu thai, thậm chí có thể hòa nhập vào một thân thể vật lý? Con mang vào một ảo tưởng ở tầng 144, con mang vào ảo tưởng kế tiếp, con đi xuống tầng 143, và con tiếp tục làm vậy cho tới tầng 96.

Đây là những ảo tưởng trên căn bản, ở tầng này, giúp con hòa nhập vào thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc để con có thể bắt đầu tạo những ngã trong các thể đó để giúp con trải nghiệm trong bát cung vật lý. Sau đó, ở tầng 96 con tạo ra thêm các ngã liên quan đến việc hòa nhập với thể cảm xúc nhưng cũng với thể vật lý. Khi con đầu thai lần đầu ở tầng 48, bản thể của con, cái ta ý thức của con hòa nhập với thân thể vật lý. Con có những cấu trúc trong tâm bản sắc, tâm tư tưởng, tâm cảm xúc và ngay cả tâm kết nối với thân thể cho phép con sinh hoạt và hành động trên trái đất.

Những ngã này không phải là ngã nhị nguyên. Sau đó, con đi xuống dưới tầng 48, xuống tầng 47, con mang vào thêm một ảo tưởng nữa, tạo thêm một ngã nữa và con tiếp tục như vậy cho tới tầng thấp nhất. Điều thày muốn nói là ở mỗi tầng trong số 144 tầng, có một ngã đặc thù cho phép con ở tầng tâm thức đó. Tuy nhiên, có rất nhiều hơn 144 loại ngã mà con người đã tạo ra trên trái đất. Bởi vì khi con ở một tầng tâm thức nào đó, có một ảo tưởng đặc thù lôi kéo con xuống tầng đó, và một ngã đặc thù giữ con ở tầng đó. Con vẫn có thể tạo ngã khác theo chiều ngang ở tầng đó. Điểm này có tầm quan trọng khi con đi xuống dưới tầng tâm thức 48, đi vào nhị nguyên, thì có một số rất lớn các ngã nhị nguyên mà con người đã tạo ra trong suốt dòng lịch sử và một số các ngã này đã trở nên ngã tập thể ở trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của tập thể. 

Có rất nhiều hơn 144 ngã đã được tạo ra trên trái đất, và con không thể tránh mang vào một số các ngã đó, hay đúng hơn là con tạo ra phiên bản riêng của con của các ngã đó. Điều thày muốn nói là khi con tới tầng 48 và bắt đầu con đường tâm linh thì không có nghĩa là con đã khắc phục tất cả các ngã nhị nguyên. Con vẫn còn mang theo một số với con và thậm chí con còn có thể mang theo một số các ngã nhị nguyên vi tế hơn ở trên tầng 96. Lẽ tất nhiên, các ngã này không thể gọi là hung hãn muốn hại người khác nhưng chúng vẫn là ngã liên quan đến ảo tưởng nhị nguyên, một cái nhìn nhị nguyên về thế giới.

Thày Nada đã nói là các người Bà la Môn Ấn giáo đã làm gì? Nhiều người trong họ đã sử dụng tâm thức nhị nguyên để phóng chiếu vào cõi tâm linh. Thày Lanto đã giảng một cách rất hùng hồn sự hình thành của khái niệm Vô ngã. Có khái niệm Brahman, có khái niệm hư vô, nhưng cả hai là khái niệm nhị nguyên. Con có thể mang theo những loại ngã này trên tầng 96 vì con người rất khó giải quyết chúng. Quả thật con có thể thấy có các vị thày tâm linh trong thế gian đã lên trên tầng 96 nhưng họ vẫn còn mang theo một số các ngã nhị nguyên đó vì họ chưa giải quyết ảo tưởng. Họ chưa nhìn xuyên thấu ảo tưởng.

25.7. Thách thức thứ nhì của Ki-tô ở mỗi tầng của đường tâm linh

Điều thày muốn nói là có một điểm khi con tới gần tầng 96 và vượt lên trên, thì con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144. Thày biết là con có thể có quan niệm là con chỉ tiếp tục sự tăng triển mà con đã trải qua từ tầng 48 đến tầng 96. Vì ở tầng 96, thách thức tựu chung là gì? Là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 97. Ở tầng này thách thức là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 98, vân vân. Con thấy chăng, tiến trình này không thể thực hiện với tâm đường thẳng. Thậm chí con cũng có thể nói tiến trình từ tầng 48 lên tầng 96 cũng không thể thực hiện bằng tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không giúp con nhìn xuyên thấu các ảo tưởng.

Thực sự là chỉ có tâm Ki-tô mới giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng. Đặc biệt là ở trên tầng 96, con cần bước lui lại và thực sự nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và thực sự nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện ở mỗi tầng thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng tâm thức Ki-tô để thăng vượt tầng hiện tại của con, hay con sẽ tìm cách kéo tâm Ki-tô để nó tuân theo ảo tưởng, thế giới quan mà con có ở tầng đó? Ở tầng 96 và trên nữa con cần luôn luôn nhận biết thách thức này vì con có thể trên lý thuyết ngừng ở tầng 143 và không đi lên cao hơn vì con nghĩ Ki-tô đã xác chứng thế giới quan của con ở tầng đó. Như các thày đã nói nhiều lần, không có chân lý tối hậu, thế giới quan tối hậu trên trái đất và con chỉ nâng mình lên, con chỉ thăng thiên, bằng cách vượt thăng thế giới quan mà con đang hiện có.

25.8. Nguy cơ bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào

Một lần nữa, một số đệ tử từ những đợt truyền giáo trước sẽ kịch liệt phản đối điều thày vừa nói ở trên. Họ sẽ nói đây là một giáo lý hoàn toàn sai, nó đi ngược lại tất cả những gì đã được dạy trong các đợt truyền giáo trước, nhưng thực sự là nó không đi ngược lại những điều đã được nói trước kia, nó chỉ vượt lên trên những điều đó. Con yêu dấu, nếu tiết lộ tuần tự không đi quá những gì đã được trao truyền trước kia, thì làm sao nó lại là một tiến bộ? Con hãy để ý tưởng này bắt rễ trong tâm con vì nó là chìa khóa để tiếp cận các khai ngộ rất vi tế bên trên tầng 96.

Có một chuyện khó xử, một loại phân đôi, sẽ luôn luôn có mặt trên một hành tinh như trái đất vì độ dày đặc của vật chất và tâm thức tập thể. Có thể nói là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì con đạt những tầng tâm thức cao hơn, chắc chắn là như vậy. Nhưng – và đây là một cái “nhưng” quan trọng – điều này không có nghĩa là các khai ngộ trở nên dễ dàng hơn. Khuynh hướng mà nhiều người có khi họ lên tới những tầng tâm thức cao (và ở đây thày không chỉ nói đến đệ tử chân sư thăng thiên mà các người tâm linh nói chung) là họ nhìn con đường mà họ đã đi qua, họ nhìn đoạn đường dài mà họ đã trải qua và nói: “Tôi đã có tiến bộ vĩ đại so sánh với điểm tôi khởi đầu 30, 40 năm hay không biết bao nhiêu năm trước đây.” Các người đó cũng có khuynh hướng nhìn người khác và nói: “Tôi rõ ràng ở tầng tâm thức cao hơn những người này, tôi biết về con đường tâm linh nhiều hơn họ rất nhiều, tôi đã khắc phục nhiều ảo tưởng và dính mắc.” 

Thày không hề nói là điều này sai. Có nhiều người đã đạt những tầng tâm thức cao so với người trung bình trên trái đất. Có nhiều người suốt chiều dài lịch sử đã đạt được một tầng nào đó và tự coi mình là đạo sư hay thày tâm linh. Có nhiều người hiện nay đã thực sự đạt được một tầng tâm thức cao, cao hơn tầng 96, cao hơn quần chúng. Họ đã tự coi họ là thày tâm linh và họ từ tầng tâm thức cao của họ nhìn xuống và thấy rõ: “Tôi ở một tầng cao hơn.” Điều họ có khi không nhận ra là khi con nhìn xuống những khai ngộ mà người khác đang trải qua thì con rất dễ thấy những ảo tưởng mà họ vẫn còn đang bám víu, do đó con nghĩ con đã đạt được khả năng nhìn xuyên thấu mọi ảo tưởng.   

25.9. Lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp

Con còn có thể nghĩ con đã giác ngộ hay con đã thức tỉnh hay con không còn tự ngã hay đã đạt trạng thái vô ngã hay bất kỳ nhãn hiệu nào mà con người gán cho trạng thái đó. Điều mà nhiều người không nhận ra là con chưa tới tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất, vì nếu như vậy thì con đã thăng thiên. Khi con nhìn lên những khai ngộ mà con chưa vượt qua, những ảo tưởng mà con chưa thấy, thì mặc dù con đã có nhiều thành đạt con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng kế tiếp.

Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp. Ảo tưởng mà con chưa thấy ở tầng 143 cũng khó như ảo tưởng ở tầng 48. Tại sao vậy? Vì đó là ảo tưởng đã mang con xuống tầng đó và nó khó thấy ở tầng 143 y như ở các tầng thấp hơn. Con đã tạo ra động lượng, con đã mở rộng nhận biết, con đã nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở các tầng thấp, nhưng ở tầng tâm thức hiện tại của con, con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng hiện thời của con. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng. Cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

25.10. Con không thể bảo đảm thành công cho tới khi con thăng thiên

Con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Đó là lý do vì sao con có thể bị mắc kẹt ở bất cứ tầng nào, và nhiều người suốt dòng thời gian đã rơi vào cạm bẫy này. Có nhiều người đã coi mình là đạo sư, đã được tôn sùng như đạo sư, đã được tôn vinh “vị đạo sư này chắc chắn đã giác ngộ”. Vị đạo sư có thể đã đạt được một tầng tâm thức cao, tỷ dụ như tầng 140 (là một tầng rất cao so với người trung bình), do đó ta có thể hiểu tại sao con người nhìn vào vị đạo sư đó và nói: “Ồ, vị ấy chắc chắn là đã giác ngộ, chắc chắn là vị ấy hiểu biết nhiều hơn rất nhiều.” Quả thực là vị ấy hiểu biết hơn, và vị ấy có thể có khả năng giúp đỡ con người, nhưng vị ấy có quả thực đã giác ngộ khi vị ấy ngưng ở tầng 140 và không nhìn nhận là có điều mà vị ấy chưa nhìn ra, có ảo tưởng mà vị ấy chưa thấy?

Phải chăng có nguy cơ là vị đạo sư sẽ, dù vị ấy có thể không nhận ra một cách có ý thức, truyền cho các đệ tử quan niệm đây là tầng cao nhất mà họ cần đạt tới và sau đó thì con bảo đảm thành công? Con sẽ không bảo đảm thành công khi con ở tầng 140. Con không thể thăng thiên từ tầng 140, và quả thực cũng không từ tầng 143. Nếu một đạo sư ngưng ở một tầng nào đó, thì chuyện gì xảy ra? Vị ấy trở thành một đạo sư giả. Tất cả những gì vị ấy nói vẫn có thể có đôi phần chân lý, và vị ấy vẫn có thể chỉ ra một con đường tu dẫn con người lên cao hơn. Nhưng vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy nói là không có gì cao hơn tầng đó. Hoặc vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy dạy rằng mục đích của con đường tu là đạt trạng thái vô ngã thay vì trạng thái cái ta luôn luôn tự thăng vượt.

25.11. Tâm Ki-tô hình quả cầu, không đường thẳng

Đây là một số nhận xét mà thày muốn phát biểu để mang chúng ra công chúng như một phần của giáo lý mà các thày liên tục trao truyền. Liên quan đến chủ đề của hội nghị này, chủ đề hòa điệu, kết nối với các vị thày tâm linh, thì đâu là cách tốt nhất để kết nối với Tia thứ Bảy? Ta có thể nói là giáo lý mà thày vừa trao truyền có thể giúp con kết nối vì nó giúp con nhận ra là để kết nối thực sự thì con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra. 

Như thày có nói, có một giai đoạn trong đó con phải theo đường thẳng. Trên tầng 96 hay ở tầng 96, con cần nhận ra là con đường tu theo hình quả cầu hơn. Thay vì bước theo tiến trình đường thẳng thì trên tầng 96 con quả thực có thể nhảy vọt. Con có thể đang ở tầng 97 và bỗng nhiên con nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 108. Sau đó con nhảy vọt lên tầng 120, và nhảy ngược về tầng 98, và sau đó lên tầng 104. Nói cách khác, các ảo tưởng lúc đó không hoàn toàn theo đường thẳng. Con không cần nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở tầng 97, sau đó tới tầng 98, và sau đó tới tầng 99. Con có nhiều khả năng nhảy vọt từ tầng này sang tầng khác. 

Lẽ tất nhiên đây lại là một điểm vi tế vì con có thể nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 120 và do đó tôi đã ở trên ảo tưởng ở tầng 97.” Nếu con bỏ qua ảo tưởng ở tầng 97 thì, ấy, con không sẵn sàng thăng thiên. Tuy nhiên, điều con cần làm với tâm ý thức là nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng.

Thày biết đây là một điều cần hiểu một cách vi tế vì các thày có nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô ở mỗi tầng tâm thức để khi con ở tầng thấp nhất con vẫn có khả năng nhìn xuyên thấu ảo tưởng ở tầng đó. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tại sao vậy? Bởi vì tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

25.12. Giải thoát khỏi và tự do để

Con có thể nói là khi các thày trao truyền quan niệm 144 tầng tâm thức thì có nguy cơ tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về tâm thức Ki-tô và việc cái Ta Biết bước ra ngoài ảo tưởng hiện tại. Khi con sẵn lòng làm việc này, khi con khóa chặt vào tiến trình này, thì con sẽ vượt lên trên tâm đường thẳng. Điều mà các thày cũng có thể nói là giữa tầng 48 và 96, con nỗ lực để giải thoát mình khỏi. Rốt cuộc đây là giải thoát khỏi tâm thức tập thể, nhưng cũng là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Sự chuyển vọt mà con cần làm ở tầng 96 là thay vì tìm cách giải thoát khỏi, con đi tìm tự do để.

Tự do để gì? Tự do khỏi rất dễ hiểu. Con có một giới hạn mà con muốn vượt thoát. Con có thể nói: “À, tôi đang ở trong một nhà tù, nhưng bây giờ tôi có chìa khóa và tôi sẽ bước ra ngoài khung cửa, giờ đây tôi sẽ thoát khỏi nhà tù.” Con để ý là nhiều người ở trong tù lâu năm, khi được trả tự do thì họ đứng đó và nói: “Bây giờ tôi làm gì?” Họ không biết phải làm gì với cuộc đời của họ khi họ được tự do khỏi nhà tù, và đây là một khai ngộ khó mà con đối diện ở trên tầng 96. Con đã thoát khỏi tâm thức tập thể. Con đã giải thoát khỏi nhiều ảo tưởng trong tâm mình: “Tôi bây giờ làm gì đây? Tôi phải làm gì đây với tầng tâm thức hiện tại của tôi?”

25.13. “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”

Đây là điểm con cần bước lên cao hơn và nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Bởi vì nhiều người đã dùng tâm đường thẳng để tạo hình ảnh là khi con đạt tâm thức Ki-tô, thì Hiện diện TA LÀ của con hay các chân sư thăng thiên sẽ cho con biết con phải làm gì. Trên căn bản, các người đó nghĩ là con từ bỏ quyền tự quyết, con trở thành một con rối, thậm chí một số người còn lấy giáo lý của Giê-su và nói: “Tự tôi không làm được việc gì, chính là đức Cha trong tôi đang làm việc.” Họ nghĩ: “Khi tôi đạt tới tầng này, tôi có thể thở phào nhẹ nhõm và nói công việc đã làm xong, giờ đây Hiện diện TA LÀ có thể lấy quyền điều khiển, tôi không cần suy nghĩ nữa, tôi không cần lấy quyết định nữa, tôi sẽ chỉ để Hiện diện làm mọi chuyện.” Sống Ki-tô không có nghĩa như vậy, vì Giê-su đã nói gì: “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”.

Với cương vị Ki-tô, con nhận ra một điều mà con không thể nhận ra với tâm đường thẳng. Với tâm đường thẳng con nghĩ: “Tôi là một sinh thể tách biệt, tôi có một số quyền năng, tôi có một số khả năng, tôi có thể làm một số chuyện.” Con quả thật có thể. Ngay cả trong tâm thức nhị nguyên con vẫn có thể làm một số chuyện. Mọi chuyện đều có một giá phải trả, mọi chuyện đều tạo nghiệp, nhưng con có thể làm một số chuyện. Thậm chí có những người cảm thấy là chỉ khi họ đi vào nhị nguyên thì họ mới có trọn vẹn quyền tự quyết vì lúc đó họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không bị gò bó bởi nghiệp quả phi lý và hậu quả và phải quan tâm đến người khác và chìa má bên kia và những chuyện tương tự.

Có người nghĩ rằng khi con đạt tâm thức Ki-tô thì Thượng đế hay các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ nói con biết con phải làm gì. Các thày đã nói gì? Con được sinh tạo như một người đồng-sáng tạo và như một người đồng-sáng tạo con không nghĩ con là một sinh thể tách biệt có những khả năng tách biệt. Con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, do đó đấng cha, Hiện diện TA LÀ, đang làm bằng cách cho con năng lượng. Hiện diện TA LÀ cũng có thể cho con chỉ thị vì nó mong muốn trải nghiệm một số chuyện trên trái đất.

Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con muốn làm gì trên trái đất? Con muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào? Con muốn có trải nghiệm gì trên trái đất? Đây có thể là một thách thức rối rắm cho nhiều người, nhất là khi họ rất chuyên cần theo một con đường đầy kỷ luật: “Vậy bây giờ tôi làm gì?”

25.14. Nhìn quá hình ảnh của con về con đường tu

Nhiều người trong các người đó đã từ chối suy ngẫm câu hỏi này và đi vào tâm thái: “Tôi sẽ chỉ cần tiếp tục đọc thỉnh Ánh sáng Tím ba tiếng mỗi ngày cho đến hết đời và sau đó tôi sẽ được bảo đảm thăng thiên.” Họ làm như vậy (như một số đệ tử các đợt truyền giáo trước đã làm) và khi họ rời xác thân vật lý họ vui mừng nghĩ: “Tôi sẵn sàng thăng thiên.” Lúc đó có chân sư thăng thiên xuất hiện với nhiệm vụ cho họ biết: “Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Con phải trở lại và vượt qua các khai ngộ mà con chưa vượt qua.” Một số đệ tử cảm thấy tức giận và nghĩ: “Các chân sư thăng thiên đã lừa tôi.” Chuyện này đã xảy ra.

Điều con cần làm ở đây, nếu con muốn kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do là đi vào tâm thái sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Để thấy nó, con cần sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?” Con cần sẵn lòng lấy một quyết định, nhưng con không thể lấy một quyết định tự do khi con chưa giải thoát mình khỏi cách con nhìn đường tu ở các tầng thấp, do đó con cần thời gian.

25.15. Dụng cụ của Saint Germain

Như thày đã nói, con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi xuống, và thư thả. Con có thể tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Nhiều người trong các con sẽ khám phá là cả cuộc đời mình con có một ý niệm mình phải làm gì. Với nhiều người trong các con, tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên có nghĩa là con đã chuyển nó thành một phiên bản mới của những gì con phải làm. “Tôi là một đệ tử chân sư thăng thiên. Tôi phải đọc bằng này bài chú bài thỉnh mỗi ngày. Tôi phải học hỏi giáo lý. Tôi phải làm điều này điều kia.”

Điều này không có nghĩa là con phải ngưng đọc chú đọc thỉnh, nhưng con cần tự hỏi chính mình: “Nếu không có gì phải làm, nếu không có ràng buộc nào về những chuyện tôi phải làm, thì tôi muốn làm gì?” Với nhiều người trong các con, điều này có nghĩa là con có thể trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, vì đây là những trải nghiệm mà con muốn có trên trái đất và con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

25.16. Trải nghiệm hoàn tất chu kỳ

Có những người đã theo con đường tu rất thẳng để đạt một tầng tâm thức cao. Họ có một hình ảnh thế nào là một người tâm linh và sau đó họ tới điểm có cái gì đổ vỡ. Họ không thể duy trì hình ảnh đó. Họ cảm thấy như họ đã mất nền móng và họ lao mình vào một số sinh hoạt mà họ đã nghĩ họ sẽ không bao giờ làm vì những sinh hoạt đó không có tính chất tâm linh. Với nhiều người, đây là một thay đổi chấn thương, một xoay chuyển chấn thương trong đó họ lên án họ vì đã làm như vậy, vì đó là sinh hoạt không tâm linh. Nhiều người đã vật vã với tình trạng này trong nhiều năm.

Thậm chí một số người đã rời bỏ hẳn con đường tâm linh vì họ không thể quân bằng hai sinh hoạt. Các thày đã thấy cựu đệ tử chân sư thăng thiên rất chuyên cần trong 30 năm hay hơn nữa và sau đó, tỷ dụ như khi một đợt truyền giáo chấm dứt và không còn tiết lộ tuần tự qua tổ chức đó nữa, thì họ rơi vào trạng thái trầm cảm, rối loạn, không biết phải làm gì, và rời bỏ con đường tâm linh. Con có thể xoay chuyển thái độ của con trước chuyện này và nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.  

Có một số chuyện mà Thánh kinh không ghi lại, vì Thánh kinh chỉ chú trọng vào giai đoạn ba năm cuối của đời Giê-su, nhưng khi Giê-su ở tuổi từ 12 đến 30 thì thày trải qua một giai đoạn có một số trải nghiệm mà thày cần có để chán ngán chúng. Một số những trải nghiệm này được mô tả trong quyển Các kiếp sống của tôi, nhưng quyển sách này không nói đến tất cả, vì như Thánh kinh có nói, nếu tất cả những gì Giê-su nói và làm đều được ghi lại, thì cả thế giới cũng không chứa được những quyển sách cần được viết ra.

Con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng, như con thường thấy ở dưới tầng 96. Nếu con có thể xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu theo hướng đó, thì con nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con. Thày biết đây luôn luôn là một điều vi tế vì tự ngã sẽ có thể dùng nó để biện minh mọi chuyện, nhưng thày không muốn nói đến chuyện biện minh, và ở tầng này con có thể thấy sự khác biệt giữa một biện minh của tự ngã và đơn giản là nhu cầu có một trải nghiệm để hoàn tất trải nghiệm, hoàn tất chu kỳ.

25.17. Con chỉ thấy một ảo tưởng khi biểu lộ nó

Một lần nữa thày đã trao truyền nhiều hơn những gì đa số các con có thể tiếp nhận trong một bài giảng, nhưng các thày không truyền giáo lý cho riêng một người, do đó thày hy vọng là mỗi người trong các con đã tìm thấy trong bài giảng này một điểm gì có âm vang với con mà con có thể trụ vào và sử dụng để tăng triển khả năng kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do. Các thày đã nói là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất. Khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô. Điều này không có nghĩa là con bắt đầu hành hạ hay khuynh loát người khác, lẽ dĩ nhiên đây không phải là quả vị Ki-tô, nhưng con tự do hơn trong cách con muốn biểu lộ chính mình.

Con không trở nên một con rối, con có tự do, con tự do là, và con tự do khỏi tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.” Toàn bộ tâm thức này phai nhạt đi, ngay cả khi người khác nói vậy về con, nó phai nhạt đi và con chỉ tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Trên căn bản, khi con đạt những tầng tâm thức cao, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thí dụ ở tầng tâm thức 120, thì con biểu lộ chính mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại. Chỉ khi con biểu lộ chúng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp. Con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao. Có thể nói đây cũng là cách con tăng trưởng ở các tầng thấp, nhưng con chỉ không ý thức điều này.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, nhưng điều thày thực sự muốn trao không phải là ngôn từ. Thày muốn trao cho các con Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày. Thày mong rằng vượt quá lời nói, con cảm nhận được Hiện diện đó, vì thày, Saint Germain, thương yêu tất cả các con, mỗi người trong các con và tất cả các con. Thày thương yêu các con.

Con có tình thương sâu xa nhất của thày, lòng tri ơn sâu xa nhất của thày vì các con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này. Có thể có người sẽ nói: “Ồ, vị Chân sư Saint Germain này lạc quan một cách vô vọng khi ông nghĩ ông có thể đem lại thời hoàng kim trên trái đất.” Con yêu dấu, các con đang chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực. Vì vậy thày tri ân và thương yêu các con.

23 | Vượt quá hình tư tưởng để trực tiếp trải nghiệm Hiện diện

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Con có thể thấy điều trớ trêu là các thày nói về tâm đường thẳng, vậy mà các thày, các Thượng sư, lại nối tiếp nhau xuất hiện một cách đường thẳng.

Tuy nhiên, như các thày có nói, lẽ tất nhiên có một tiến trình đường thẳng đi từ đấng Sáng tạo xuyên qua các tầng của sự sáng tạo, các bầu cõi trước, cho tới bầu cõi này. Con không thể nói là mọi chuyện theo một tiến trình đều nhất thiết giống như những gì thày nói về tâm đường thẳng. Đó là vì tâm đường thẳng là một hiện tượng đặc thù có mặt nơi một bầu cõi chưa thăng thiên. Như các thày có nói, tâm đường thẳng không thực sự là một vấn đề khi ta thấy nó như nó là, tức là một dụng cụ để lo liệu các khía cạnh thực tiễn của đời sống.

23.1. Một tiến trình đường thẳng trong đời sống thực tiễn

Con biết rõ là trong cuộc đời của mình con có một thời biểu nào đó, một số bổn phận nào đó. Có thể là con phải đi học, có thể là con phải dẫn con đến trường, có thể là con phải đi làm, vì vậy con cần ở một số nơi vào một số lúc. Do đó, con cần một tiến trình đường thẳng, một thời biểu đường thẳng trong cuộc sống thường nhật để mọi chuyện vận hành suôn sẻ.

Đây là một chuyện rất thực tiễn. Tỷ dụ, con biết là nếu con muốn xây một căn nhà thì con cần thiết lập một tiến trình đường thẳng. Con mua mảnh đất, con nhờ người vẽ sơ đồ, con tổ chức các người thợ cần thiết để hoàn thành công việc, và mọi chuyện cần diễn ra theo một tiến trình đường thẳng, một thời khóa biểu đường thẳng. Trong xã hội cũng vậy, khi có việc cần làm, khi cần hoàn thành một công trình xây dựng lớn, hay chỉ để đời sống thường nhật vận hành trong xã hội, xe buýt phải chạy đúng giờ, xe lửa chạy phải đúng giờ và những việc tương tự, thì tâm đường thẳng là một dụng cụ rất hữu dụng.

23.2. Dùng tâm đường thẳng để lý luận về cõi tâm linh

Vấn đề khởi lên khi con người bắt đầu dùng tâm đường thẳng để giải quyết những đề tài ngoài đời sống thực tiễn trong bát cung vật lý. Đây là một vấn đề đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử. Như các thày có giảng, vào thời đức Phật, các vị Bà la môn Ấn giáo dùng tâm đường thẳng để lý luận về các đề tài không dính dáng gì đến đời sống thường nhật thực tiễn, tỷ dụ liên quan đến sự vận hành của vũ trụ, kể cả cõi tâm linh như thế nào.

Đức Phật thấy các cố gắng này đã tạo ra đủ loại ngộ nhận, vì điều mà tâm đường thẳng làm là nó nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất. Nó tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng, một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng mà nó phát hiện trong thế giới vật lý, sau đó nó muốn kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh. Do đó, nó dùng những điều kiện trong thế giới vật chất và lý luận ngược trở lại về sự vận hành của thế giới tâm linh.

Con có nắm bắt vì sao phương pháp này nguy hiểm? Các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Các thày có giảng là có một loại tiến trình đường thẳng từ đấng Sáng tạo tới tầng cao nhất của thế giới tạo vật, là bầu cõi thứ nhất. Đấng Sáng tạo đề ra một khuôn đúc. Các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất sinh hoạt trong khuôn khổ khuôn đúc đó. Họ tạo ra bầu cõi thứ hai, và sau đó cũng như vậy với bầu cõi thứ ba, vân vân. Tất cả những gì được tạo ra ban đầu trong bầu cõi của con là một biểu hiện của các tầng lớp bên trên.

Do đó, con có thể nói là có một tiến trình, nhưng trước nhất, tiến trình này đi từ tầng cao nhất tới những tầng càng ngày càng có hình tướng biểu hiện hơn. Đó không phải là một chuỗi nhân-quả đường thẳng. Đó không phải là kết quả của các định luật máy móc. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo không hoàn toàn đường thẳng. Điều thày muốn nói là con không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn. Con không thể hiểu được khi con còn đầu thai trên trái đất. Do đó, tìm cách lý luận dựa trên những gì con thấy trên trái đất để suy diễn ra cõi tâm linh là một tìm cầu vô bổ.

23.3. Phóng chiếu những điều kiện không trong sạch của trái đất lên cõi tâm linh

Sau đó lại có một tầng khó khăn khác. Các thày có giảng là lúc ban đầu bảy vị Elohim tạo ra trái đất. Các vị này tất nhiên là các sinh thể thăng thiên. Lẽ tất nhiên họ là một với toàn thể đại đoàn chưởng giáo dẫn đến tận đấng Sáng tạo. Họ tạo ra trái đất trong khuôn khổ khung sườn của những bầu cõi trước. Tuy nhiên, những gì các Elohim tạo ra không phải là những điều kiện con thấy trên trái đất ngày nay. Con có thể nói là nếu con thấy được những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra, thì con có thể thấy một số nguyên tắc, điều mà các khoa học gia gọi là luật thiên nhiên, tuy các luật này có tính chất tâm linh hơn là thiên nhiên. Con có thể nói: “Nếu ta hiểu những luật này, ta có thể suy luận lý do vì sao các sinh thể đó đã định là các luật đó như vậy. Do đó, chúng ta có thể suy luận để tìm ra ý tưởng của các sinh thể đó, tâm thức của họ. Ta có thể nhìn các điều kiện nguyên thủy của trái đất và dùng tâm đường thẳng để suy luận các đặc tính của tầng các Elohim.”  

Con có thể đạt kết quả với tâm đường thẳng, nhưng con không thể đi quá tầng các Elohim với tâm đường thẳng, vì tiến trình từ bầu cõi thứ sáu lên bầu cõi thứ năm không theo đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đi quá xa trở ngược lên cõi tâm linh. Thêm nữa, các thày cũng đã giảng là những điều kiện con thấy trên trái đất hiện nay không phải là những gì các Elohim tạo ra lúc ban đầu. Lý do là, như các thày đã giảng nhiều lần, nhân loại đã đi vào tâm thức tách biệt và đã bắt đầu sử dụng tâm thức nhị nguyên, và điều này đã đưa đến nhiều biến đổi sâu đậm trên trái đất. Độ dày đặc của vật chất, sự thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, và toàn thể tâm thức tập thể đã bị hạ xuống một tầng thấp hơn rất nhiều so với khi địa cầu được tạo ra lúc ban đầu.

Điều kiện hiện nay của trái đất không tự nhiên, không là một nối dài trong sáng của những gì các Elohim tạo ra. Các thày Bà la môn Ấn giáo đã làm gì? Họ nhìn các điều kiện hiện hành trên trái đất, họ cố tìm ra những mô thức, những gì xảy ra đều đặn, và sau đó họ dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu: các điều xảy ra đều đặn, các mô thức mà ta thấy trong cõi vật lý, có thể được phóng rộng lên trên tới cõi bên trên cõi vật lý. Chúng có thể cho ta biết về các thần linh, vì sao các thần linh lại là như họ là, và vì sao họ lại tạo thế giới như họ đã tạo ra.

Con có thấy chăng là phương pháp này sẽ không bao giờ cho con một hình ảnh chính xác về cõi tâm linh? Con lấy những điều kiện không thuần túy tâm linh và phóng chiếu chúng lên cái có tính chất tâm linh. Lẽ tất nhiên, không phải chỉ có các vị Bà la môn Ấn giáo đã làm việc này. Như các thày đã giảng, trong truyền thống Thiên chúa-Do thái giáo, vị Thượng đế giận dữ ở trên trời là một hình ảnh phóng chiếu bởi con người dựa trên tâm lý sa ngã và tâm thức nhị nguyên. Con thấy suốt dòng lịch sử, ở khắp nơi trên thế giới, con người đã lấy những điều kiện mà họ quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh, cõi thiên đường, hay bất cứ tên gì mà họ gọi. 

23.4. Cố gắng phù phiếm thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả

Trên căn bản, tại sao họ lại làm vậy? Đó là vì họ bị xáo trộn bởi những điều kiện hiện tại trên trái đất. Họ đang đau khổ, như Phật có giảng, vì khi con đi vào tâm thức nhị nguyên thì cuộc đời là đau khổ. Con bị xô đẩy từ bên này sang bên kia trong Biển Luân hồi. Con người muốn thoát khổ đau, và họ trực giác cảm nhận là phải có một lý do cho sự đau khổ của họ. Đây là một trực giác chân chính. Sự đau khổ của con có lý do.  

Sau đó họ quan sát là dường như trong bát cung vật lý một số chuyện, một số hậu quả có nguyên do. Đôi khi đó là một nguyên do sâu kín. Nếu con cầm một hòn đá trong tay và buông tay ra, thì hòn đá sẽ rơi xuống đất. Phải có một nguyên do sâu kín khiến hòn đá rơi xuống đất. Đây là một quan sát căn bản mà con người đã làm từ rất lâu. Họ cảm nhận bằng trực giác là phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau của họ, của các điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó họ tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại từ những điều kiện hiện hành trên trái đất để tìm ra nguyên do của các điều kiện này, nguyên do khổ đau của họ. Họ trực nhận là nếu họ khám phá ra nguyên do, và thay đổi nguyên do, thì họ cũng có thể thay đổi hậu quả.

Một lần nữa, đây là một trực giác chân chính. Nếu con có thể thay đổi nguyên do thì con có thể thay đổi hậu quả. Sự thật là thay đổi nguyên do là cách hữu hiệu duy nhất để thay đổi hậu quả. Lẽ tất nhiên, con người cũng đã tìm cách thay đổi nguyên do ở tầng hậu quả. Họ đã tìm cách thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả. Con thấy đây là điều mà khoa học đã làm từ mấy thế kỷ bằng cách nhìn vào bát cung vật lý và tìm cách hiểu điều kiện vật lý dựa trên nguyên do vật lý.

Có hai phương pháp mà con người áp dụng khi dùng tâm đường thẳng. Hay ta cũng có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con nhìn vào điều kiện hiện hành, con coi chúng là hậu quả, và con tìm cách dùng tâm đường thẳng để suy luận trở ngược cho tới khi con tìm ra nguyên do của hậu quả, và sau đó con tìm cách thay đổi nguyên do. Điều mà khoa học cố làm là tìm ra nguyên do trong thế giới vật lý, vật chất, và dùng hiểu biết này để thay đổi các điều kiện vật lý. Điều mà các tôn giáo đã làm từ nhiều ngàn năm là đi xa hơn các nguyên do vật lý và tìm các nguyên do phi vật lý. Do đó, họ tìm một thần linh có trách nhiệm về địa hạt mà họ đang bị đau khổ, và sau đó tìm cách cầu xin thần linh này để thần linh thay đổi điều kiện đang gây đau khổ cho họ.

23.5. Suy luận trí năng là ngõ cụt

Ta có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh thì vấn đề thực sự được tìm thấy nơi truyền thống tôn giáo. Họ không những muốn tìm một nguyên do của khổ đau hiện tại của mình, nhưng họ còn muốn tạo những hình ảnh tinh vi mô tả cõi tâm linh. Đây là điều khiến các vị Bà la môn Ấn giáo đi vào nhiều ngõ cụt khi họ dùng lý luận trí năng, đường thẳng, phân tích để phóng chiếu rằng: Thượng đế như thế này, các điều kiện như thế kia, đây là nguyên do tâm linh thật đằng sau hậu quả này, vân vân. Điều xảy ra vào thời đó là họ phân chia thành rất nhiều chi nhánh và giáo phái, họ có quá nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người đều tất nhiên khẳng định họ có hiểu biết tối hậu. 

Điều con thấy là hiện tượng rất ư phức tạp với rất nhiều người khẳng định họ có chân lý tối hậu, nhưng không có ai trong đó có chân lý tối hậu vì họ đều lý luận bằng tâm đường thẳng dựa trên những quan sát điều kiện hiện tại. Con có thể tiếp nối hiện tượng này tới thời nay và nói rằng một số những người đã đầu thai là người Bà la môn Ấn giáo mấy ngàn năm trước nay lại đầu thai là khoa học gia duy vật, họ trên căn bản lý luận giống như xưa, chỉ khác là nay họ quyết định rằng: “Chúng tôi không đi ra ngoài thế giới vật lý, chúng tôi tìm những nguyên do càng ngày càng sâu thẳm trong thế giới vật chất của các hiện tượng vật chất.” Họ vẫn phân chia thành nhiều trường phái, nhiều nhóm, họ có rất nhiều lý thuyết về sự phức tạp này hay phức tạp khác, như các thuyết đa vũ trụ, lỗ đen, năng lượng tối, vật chất tối, hay các đề tài phức tạp khác.

Những chuyện này ngăn con người làm việc gì? Chúng ngăn con người đạt tâm bình an. Con thấy gì ngày hôm nay, con thấy gì thời đức Phật? Con có thấy chăng các xung đột giữa con người, và các xung đột này dựa trên gì? Chúng dựa trên lý luận trí năng trên các điểm vi tế. Một nhóm Bà la môn diễn giải kinh Vệ đà theo lối này, một nhóm Bà la môn khác diễn giải cùng kinh đó theo cách khác. Mỗi nhóm đều tin chắc họ đúng, mỗi nhóm cảm thấy nhất định phải thuyết phục nhóm khác hay con người là các nhóm khác sai, và như vậy luôn luôn có đấu đá không ngừng.

23.6. Một triết lý mới chú trọng vào nâng cao tâm thức

Phật khi xưa đã thấy chuyện đó. Phật thấy các người đó làm chuyện phù phiếm vì họ sử dụng tâm đường thẳng. Các con nhớ là khoảng cùng thời với Phật có một triết gia Hy Lạp tên Plato có đưa ra câu truyện ẩn dụ về hang động. Câu truyện kể là có một nhóm người bị xiềng trong một hang động và không nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng bên ngoài có ánh sáng chiếu vào hang và có người đi lại giữa ánh sáng và hang động nên bóng họ chiếu lên thành hang. Nhóm người bên trong hang động chỉ thấy những bóng đó, họ quan sát các bóng và tìm cách lý luận ngược để tìm ra chuyện gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng họ chỉ thấy các bóng. Đức Phật nhận ra đây là điều các Bà la môn Ấn giáo thấy, chỉ là các bóng, và làm sao bóng của một vật lại có thể cho con biết mọi chuyện về vật đó?

Tỷ dụ, làm sao bóng của một vật có thể cho con biết vật đó màu gì? Bóng là một phóng chiếu lên một mặt hai chiều kích, làm sao nó có thể cho con biết hình dáng ba chiều kích của vật? Con thấy đấy những giới hạn. Đức Phật thấy các giới hạn đó, và đó là lý do vì sao thày nói: “Chúng ta hãy sáng tạo một triết lý mới, một phong trào mới, không tìm cách lý luận ngược để tìm ra điều kiện trên cõi tâm linh như thế nào. Chúng ta hãy chú tâm vào công việc thiết thực là nâng cao tâm thức, giúp con người khắc phục khổ đau, và khi họ đã nâng tâm thức đủ thì họ có thể nắm bắt một số chân lý vượt lên trên thế giới vật lý.”

Vì sao thày lại trao các con bài giảng dài dòng này? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu là Tia của Bình an, và điều tước đi bình an chính là lý luận với tâm đường thẳng, dùng tâm đường thẳng (là một dụng cụ thực tiễn dùng trong đời sống thường nhật trong thế giới vật chất) và tìm cách mở rộng nó ra ngoài thế giới vật chất để suy diễn điều gì vượt lên trên thế giới vật chất. Khi con còn làm điều này thì con không thể có bình an, và con cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Nếu con muốn thực sự hiểu giáo lý của Phật thì con cần nhận ra một điều giản dị, nhưng đối với tâm đường thẳng thì điều này không giản dị. Giáo lý của Phật không – KHÔNG – nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi. Đây là một điều mà đại đa số những người hiện nay tự coi là Phật tử sẽ phản đối hung hãn, hay ít ra là phản đối kịch liệt. Họ sẽ nói vì Phật là bậc giác ngộ nên điều Phật dạy là chân lý cao trội, thậm chí là chân lý tuyệt đối – nhưng điều này đơn giản không phải là sự thực.

Phật không muốn đưa ra một chân lý tối hậu vì thày thấy đây là điều các vị Bà la môn muốn làm. Vì sao các vị Bà la môn lại muốn làm vậy? Như các thày đã giảng, tâm đường thẳng muốn làm gì? Nó muốn xếp mọi chuyện vào một đường thẳng, một tiến trình, rồi nói: phải có một điểm kết tối hậu của đường đó, phải có một tầng cao nhất. Nếu ta có thể đặt chân lý lên một đường thẳng, thì sẽ có nhiều tầng của chân lý, nhiều tầng hiểu biết, và ta có thể càng ngày càng hiểu hơn về thế giới, như khoa học đã làm từ lâu nay. Nếu ta tiếp tục sự tăng trưởng hiểu biết đó thì sẽ phải đến một chân lý tối hậu. Như thày Hilarion có nói, chân lý tối hậu sẽ chỉ đến khi con tới tầng đấng Sáng tạo, và có một khoảng cách rất xa giữa tầng của trái đất và tầng của đấng Sáng tạo.

23.7. Đường lối thực tiễn của các chân sư thăng thiên

Đức Phật nhận ra điều trên nên thày chỉ chú tâm vào những gì có khả năng nâng con lên, nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy nhìn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ thời Phật tới ngày nay. Khoa học đã chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại, và khoa học cũng đặt căn bản trên tâm đường thẳng. Khoa học cho rằng ta phải bắt đầu bằng những quan sát nơi thế giới vĩ mô, sau đó khám phá các tầng vi tế, sâu thẳm hơn cho tới khi ta tới tầng tối hậu là hạt Thượng đế, hay bất cứ gì họ gọi nó.

Tại sao điều này lại quan trọng cho người tâm linh? Đó là vì con đã lớn lên trong xã hội hiện đại, con không thể tránh bị ảnh hưởng bởi tư duy đó. Con nay ở đây, con đã lớn lên với tư duy đó và sau đó con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Lúc đó con nói: “À, rốt cuộc tôi đã tìm thấy một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây là một giáo lý đến từ cõi thăng thiên, đến từ các chân sư thăng thiên là những người bên trên thế gian này. Giáo lý này phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”  

Các thày đã nhiều lần giải thích từ nhiều góc độ khác nhau là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Các thày đang làm gì ngày hôm nay? Các thày đang làm y như Phật cách đây 2500 năm, tức là nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?” Các thày không tìm cách trao cho các con chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước sẽ kịch liệt phản đối câu nói trên, nhưng vì sao họ phản đối? Đó là vì họ bị kẹt trong tâm đường thẳng: Phải có một chân lý tối hậu, và nếu ta không thể tìm thấy nó nơi các tôn giáo trên thế giới hay nơi khoa học duy vật, thì chắc hẳn ta phải tìm được nó nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày không nói là giáo lý của các thày sai, là ảo tưởng hay sự lừa gạt, nhưng chúng thích nghi với tầng tâm thức, không những của các đệ tử chân sư thăng thiên, mà thậm chí của tâm thức tập thể. Không thể có cách nào khác trên một hành tinh như trái đất.

Chuyện đã xảy ra trong các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử đã sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên. Đây là điều tâm đường thẳng vẫn làm. Nó nhìn vào điều kiện trên trái đất, tạo ra hình tư tưởng dựa trên các điều kiện này, tỷ dụ như những nguyên do của điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó, nó mở rộng hình ảnh đó ra và phóng chiếu hình ảnh đó lên cõi tâm linh.

23.8. Phóng chiếu hình tư tưởng lên các chân sư thăng thiên

Khi các đệ tử tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, thì việc đầu tiên họ làm là sử dụng những hình tư tưởng mà họ thu thập khi họ lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác mà họ đã học. Sau đó, họ lấy giáo lý chân sư thăng thiên và dùng nó để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Tại sao điều này lại dính dáng đến chủ đề của khóa nhập thất này, là kết nối với các vị thày tâm linh? Ấy, con yêu dấu, thày là một chân sư thăng thiên. Làm sao con kết nối với thày? Con có nghĩ là con có thể kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất, trong tâm con? Bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng. Thày nhìn nhận là trong các đợt truyền giáo trước, các đệ tử không dễ nắm bắt điều này vì một số giáo lý chưa được trao truyền. Họ không có được các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong đợt truyền giáo này về các ngã tách biệt, các ngã này tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã. Làm sao cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã? Chỉ bằng cách duy nhất là nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là con phải nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là thế đó: một hình tư tưởng.

Lẽ tất nhiên con có thể nói là trong khuôn khổ Luật Tự quyết, không có gì sai trái khi con người tạo hình tư tưởng của các chân sư thăng thiên vì điều này cho họ một trải nghiệm. Con có thể nhìn các đệ tử của các đợt truyền giáo trước và con có thể thấy là nhiều người có những hình tư tưởng rất cầu kỳ về các chân sư thăng thiên và họ phải tương tác thế nào với các chân sư thăng thiên. Thậm chí nhiều người trong số các đệ tử đó còn cảm thấy là họ đã kết nối với các chân sư thăng thiên, họ đã có trải nghiệm các chân sư thăng thiên. Giờ đây thì thày không nói là các đệ tử từ các đợt truyền giáo trước đó đã có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên. Có những đệ tử nghĩ họ có một trải nghiệm thực sự nhưng họ đã kết nối với những sinh thể trong cõi tư tưởng vì họ quá dính mắc vào các hình tư tưởng của họ. 

Những đệ tử có trải nghiệm thực sự là những đệ tử không quá dính mắc với hình tư tưởng của họ. Bởi vì con làm gì khi con phóng chiếu một hình tư tưởng? Con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con vì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.” Như các thày khác đã nói, nếu thày làm vậy thì kết quả là gì? Kết quả là thày xác chứng hình tư tưởng của con, và con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.” Làm sao kết quả này có thể giúp con tăng trưởng tâm linh? Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Câu hỏi luôn luôn là: nếu con muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, thì con muốn kết nối với vị chân sư hay với một hình tư tưởng của vị chân sư? Con có sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của vị chân sư thăng thiên? Đó chính là câu hỏi. Các thày không muốn trốn tránh con, nhưng nhiều đệ tử đang tìm cách trốn tránh các thày. Nếu con muốn trốn tránh các thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên các thày, thì các thày phải để con làm chuyện này. Các thày phải cho phép con có trải nghiệm đó, thậm chí các thày còn phải cho phép con kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo hình ảnh của con. Họ sẽ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con. Thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.  

Nếu nói một cách rất thẳng thắn, thì trên căn bản nếu con không trải nghiệm, nếu con chưa bao giờ trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con. Một lần nữa, các thày không chê trách con vì con có quyền tự quyết, các thày hiểu là con sống trên một hành tinh rất khó khăn, các thày hiểu là con có nhiều tiền kiếp đã tạo ra biết bao ngã trong bốn tầng của tâm con. Các thày không chê trách con. Các thày chỉ nói là nếu con thực sự muốn kết nối với các thày, thì con phải sẵn sàng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

23.9. Hình tư tưởng về El Morya như một người áp dụng kỷ luật nghiêm khắc

Chuyện gì xảy ra khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này có tác dụng gì? Nó cho phép con có một quan điểm nào đó, một trải nghiệm nào đó, và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư. Để cho con một thí dụ, trong một đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, các đệ tử đã tạo ra một hình ảnh rất đặc biệt về El Morya, bây giờ là Chân sư MORE. Đó là một lý do khiến thày quyết định đổi tên, vì các đệ tử đó vẫn còn hình ảnh này về thày, hình ảnh một vị thày nóng nảy chiếu ánh sáng xanh, một vị thày áp dụng kỷ luật rất nghiêm khắc sẵn sàng thách thức đệ tử và phơi bày tự ngã của họ không chút thương hại. Họ đã tạo khái niệm là những đệ tử chân chính của El Morya có những đặc tính đó và có quyền đi khắp nơi và chiếu áng sáng xanh vào người khác bằng cách thách thức họ, nói cho họ biết những điểm sai trái của họ. Có nhiều người trong tổ chức đó hãnh diện là đã chiếu ánh sáng xanh vào những người họ cho là kém họ.

Những đệ tử đó đã làm gì? Con có thể nói là tự ngã của họ muốn có trải nghiệm cao trội hơn người khác, có quyền kỷ luật người khác và nói họ phải làm gì. Họ dùng hình tư tưởng mà họ đã tạo ra về El Morya như một cái cớ để biện minh cho cách cư xử của họ, cách cư xử dựa trên tự ngã, dù họ sẽ kịch liệt phản đối là cư xử của họ không dựa trên tự ngã – nhưng nó quả thật như vậy.

Một lần nữa, những đệ tử đó có quyền tự quyết và họ có quyền lấy một giáo lý chân sư thăng thiên, tạo hình tư tưởng về El Morya, và xác chứng trải nghiệm mà họ muốn có cho tới một ngày hy vọng họ chán chê trải nghiệm đó. Một số đệ tử đã chán chê và không còn cư xử như vậy nữa, nhưng một số chưa chán. Điều thày muốn nói là tuy một số các đệ tử đó tưởng họ có trải nghiệm thực sự về El Morya, nhưng không phải vậy. Tại sao El Morya lại xác chứng hình ảnh đó về thày khi thày thấy rõ là làm vậy sẽ chỉ giam cầm các đệ tử đó và ngăn họ thực sự kết nối với thày?

Thày chỉ giản dị muốn nói là trong đợt truyền giáo này con đã nhận được giáo lý thâm sâu hơn về các ngã, các ngã tiềm thức và tách biệt, hình tư tưởng, phin lọc nhận thức. Do đó, con có thể theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với các thày là chân sư thăng thiên. Kết nối với các thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với các thày như trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Điều này có nghĩa là thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Nếu đây là điều con muốn, thì con có các dụng cụ để hoàn thành.

23.10. Một dụng cụ thực tiễn từ Nada

Thày trao cho con một dụng cụ thực tiễn sẽ giúp con trên Tia thứ Sáu. Thày bắt đầu bài giảng này bằng cách nói về tâm đường thẳng muốn phóng chiếu hình ảnh một chân lý tuyệt đối và vì sao như vậy lại lấy đi an bình nội tâm của con. Điều con có thể làm là dùng giáo lý của các thày để nhận ra mục đích thực của con đường tâm linh không phải là biết chân lý tuyệt đối mà là nâng tâm thức từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp. Như các thày có giảng, con sẽ tới một điểm bắt đầu đi vào những tầng của quả vị Ki-tô cá nhân. Ta có thể nói quả vị Ki-tô cá nhân chính là chìa khóa của an bình, đó là lý do vì sao Giê-su đã được gọi là Hoàng tử An bình vì Giê-su đại diện Tâm thức Ki-tô cho nhân loại. Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô liên hệ ra sao với an bình?

Chính qua tâm Ki-tô mà con kết nối và trải nghiệm có thực tại vượt quá thế giới vật chất. Chỉ khi nào con trực tiếp trải nghiệm điều này thì con mới làm được điều mà đức Phật dạy con người: khắc phục những dính mắc vào thế gian. Khi con trải nghiệm Tâm thức Ki-tô thì con khắc phục dính mắc. Dính mắc của con trụ ở đâu? Chúng trụ nơi các ngã tách biệt, đúng vậy, nhưng cũng trụ nơi tâm đường thẳng và các hình tư tưởng do tâm đường thẳng phóng chiếu. Con muốn thế giới phải như thế nào đó. Con muốn cuộc đời mình phải như thế nào đó.

Nếu con xem xét hiểu biết cơ bản về đau khổ, thì cái gì tạo đau khổ? Đó là do con thiết lập trong tâm, trong tâm đường thẳng, hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào đó. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của mình chính là căn bản của khổ đau, nguyên do của khổ đau. Khi con bắt đầu trải nghiệm tâm Ki-tô thì con nhận ra có cái gì vượt quá hình tư tưởng của mình, con trải nghiệm có cái gì vượt lên trên. Nhưng sau đó con giáp mặt thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của mình, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc? Hay con sẽ làm giống như Peter khi xưa và tìm cách kéo trải nghiệm Ki-tô vào hình tư tưởng của mình để con có thể tưởng rằng Ki-tô đã chứng thực những hình tư tưởng này? Đây là điều nhiều đệ tử đã làm trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, như thí dụ về El Morya mà thày có đề cập. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể làm như vậy ngay cả trong đợt truyền giáo này – nếu con không áp dụng giáo lý. Nhưng con cũng có dụng cụ giúp con tránh làm như vậy.

Làm sao con đạt được an bình nội tâm hơn? Bằng cách lúc nào cũng với lên tâm Ki-tô, dùng tâm Ki-tô như khung tham chiếu để nhìn vào cuộc đời mình, nhìn vào những điều kiện mà con gặp phải trong đời. Các thày hiểu là một số các con gặp những điều kiện rất khó khăn. Các thày không muốn các con nghĩ là các thày không hiểu điều này. Tuy nhiên, lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc, khắc phục hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Thày biết đây là một khái niệm mà những người đang sống với các điều kiện khó khăn khó nắm bắt. Các người đang không sống với điều kiện khó khăn thì dễ nắm bắt hơn. Thày hiểu điều này, nhưng đây vẫn là chân lý muôn thuở. Điều kiện, điều kiện vật lý, không tạo khổ đau, khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng. Đây là lời hứa của Ki-tô, là Ki-tô có thể cho con tầm nhìn khác, và điều này sẽ cho con an bình nội tâm.

23.11. Hãy để Dòng sông sự Sống đưa con đi tới

Nếu con muốn có một hình ảnh thì con hãy hình dung mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, như một chiếc xuồng, và con đang chèo theo dòng nước. Khi con đang ngồi trong chiếc thuyền nhỏ và ra sức chèo, thì có thể con chú tâm vào việc mình đang làm. Con muốn đi tới một điểm đến. Có thể có những tảng đá trong dòng sông, dòng sông có thể uốn khúc, con cần điều khiển, lèo lái con thuyền, có chỗ con cần chèo nhanh hơn để vượt qua khúc quanh hay tránh thác ghềnh. Con luôn luôn tập trung vào động tác chèo thuyền để thuyền đi về phía trước. Nếu con đang trên một dòng sông an toàn, không có tảng đá hay thác ghềnh, thì con có thể hành xử khác. Con có thể buông chèo, ngồi thoải mái trong xuồng, và chỉ để xuồng trôi theo dòng nước, chỉ để dòng nước đưa xuồng đi. Hành trình có thể lâu hơn, hay không lâu hơn, nhưng con sẽ tới điểm đến.    

Con có thể tới điểm trong tâm con, con như đang ngồi trong chiếc xuồng, thư giãn, nhìn hai bên bờ lướt nhẹ vì dòng nước đang đẩy xuồng đi về hạ nguồn. Đây là trạng thái không dính mắc. Con đang ngồi trong xuồng, con đang di chuyển về hạ nguồn, và dòng nước, Dòng sông sự Sống, đang kéo con đi. Tại sao con cần chèo và vật lộn mãi? Tại sao con cần dính mắc vào những gì xảy ra trên bờ sông? Có thể có một con gấu đang đứng trên bờ gầm gừ với con, có thể có người đang la hét con. Con biết là nếu con ngồi đó không dính mắc, thì dòng nước sẽ mang con đến hạ lưu bất kể những gì xảy ra hai bên bờ sông. Con hãy chỉ hòa điệu với Dòng sông sự Sống, và để dòng nước kéo con đi tới. Tại sao con lại phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng? Tại sao con cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện? Tại sao con cần diễn giải mọi chuyện? Tại sao mọi chuyện cần phải có một ý nghĩa tối hậu, một ý nghĩa hoàn vũ, một ý nghĩa tâm linh nào đó? Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Con hãy xem xét vì sao con người tin chiêm tinh. Có chuyện gì đó xảy ra cho họ, họ đi gặp một chiêm tinh gia, họ muốn biết cấu hình chiêm tinh nào trên bầu trời đã gây ra điều kiện mà họ đang gặp phải. Các điều kiện trên trời không biểu hiện tất cả mọi chuyện trên trái đất. Điều tạo ra mọi chuyện trên trái đất là sự điên rồ của con người và sự tương tác giữa con người, là điều mà Phật đã gọi là các nhân duyên liên khởi. Không có một nguyên do hoàn vũ cho rất nhiều hoàn cảnh mà con đối mặt trong đời. Con hãy giản dị vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con hãy chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, dẫn con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc. 

Khi con dính mắc thì con làm gì? Con nắm một cành cây trên bờ sông và con vật vã cố sức ghìm xuồng ở một vị trí. Dòng nước đang kéo xuồng về phía hạ lưu. Con cần càng lúc càng thêm nỗ lực kềm giữ cho tới khi con không chịu nổi hay cành cây bị gãy. Con hãy chỉ buông tay … buông tay … buông tay. Thày biết nói dễ hơn làm, nhưng cái gì đang kềm giữ vậy? Đó là con hay là một ngã tách biệt? Con hãy nhìn vào ngã, con có dụng cụ – con hãy buông bỏ đi. Con sẽ không bao giờ đạt được an bình trên trái đất bằng tâm đường thẳng, bằng những hình tư tưởng mà tâm đó phóng chiếu phải xảy ra hay không được xảy ra.

Vì sao con nghĩ Giê-su lại để cho mình bị đóng đinh trên thập tự? Giê-su là một người đã đạt được một tầng tâm thức Ki-tô rất cao. Tại sao Giê-su lại cho phép mình bị đóng đinh? Con có nghĩ Giê-su muốn bị đóng đinh chăng? Không đâu, nhưng Giê-su thấy là các nhân duyên liên khởi của hoàn cảnh đó đang tuôn chảy và Giê-su cho phép chúng xảy ra. Giê-su buông bỏ ý niệm chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khai ngộ cuối cùng của Giê-su là gì? Giê-su bị treo trên thập tự và nghĩ rằng Thượng đế sẽ gửi thiên thần tới cứu, nhưng sau đó thày nhận ra là chuyện đó sẽ không xảy ra và thày buông bỏ ý muốn đó, buông bỏ hồn ma cuối cùng đó, hình tư tưởng cuối cùng về điều phải xảy ra và không được xảy ra trên trái đất.   

Nhiều người trong các con là avatar. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ và ngã gốc. Nhiều người trong các con tới địa cầu với một hình tư tưởng về lý do con xuống đây, con tới đây để làm gì, con tới đây để hoàn thành việc gì, thay đổi tích cực mà con nghĩ con có thể đem tới hành tinh này. Con tới đây, con chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng con phản ứng ra sao? Con đã phản ứng bằng cách tạo hình tư tưởng dựa trên tâm đường thẳng. Con lấy hoàn cảnh đã xảy ra cho con, chấn thương nhập đời đó, bất kể nó là gì, và con phân tích, con tìm nguyên do. Tại sao chuyện này lại xảy ra, tại sao những người đó đã làm vậy với tôi, tôi đã làm gì để xứng đáng bị hoàn cảnh đó? Con tạo ra hình tư tưởng và con tạo ra hình tư tưởng về những gì phải và không được xảy ra trên trái đất, và về những gì phải và không được xảy ra cho con trong phần thời gian còn lại của con trên trái đất.   

23.12. “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”

Đằng sau tất cả các hình tư tưởng đó thì con làm gì? Hầu hết các avatar đã làm gì sau khi đến trái đất? Họ đã lấy một quyết định. Con đã lấy quyết định và quyết định này đã tạo ra một ngã tách biệt, và quyết định này là: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Con hãy nghĩ về câu này: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất, phải không con? Bởi vì con không thực sự muốn được an bình. Con đã quyết định là hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và những câu chuyện kể là đức Phật an bình, thày đã đạt được an bình và con không thực sự muốn công nhận điều này, bởi vì nếu con công nhận là đức Phật có thể đạt được trạng thái an bình, thì tại sao con lại không đạt được trạng thái an bình? Con thấy chăng, con không thể đạt được trạng thái an bình nếu con không làm điều mà Phật đã làm: nhìn vào ngã mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời khiến thày quyết định “Tôi không thể an bình trên trái đất”. Tất cả các avatar đều đã làm như vậy.

Con yêu dấu, nếu con thực sự muốn an bình, nếu con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình, thì con hãy nhìn vào ngã đó. Có quả thực là con không thể an bình trên một hành tinh như trái đất chăng? Thày đồng ý với con là khó có thể an bình trên một hành tinh như trái đất vì những điều kiện ở đây quá khác những gì con đã quen thuộc trên một hành tinh tự nhiên. Có thực sự khó an bình hơn trên trái đất chăng? Hay chỉ vì tâm cảm thấy khó hơn?

23.13. Không dính mắc vào mọi điều kiện bên ngoài

Vì sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì trên hành tinh tự nhiên con không có những hình tư tưởng về những gì phải hay không được xảy ra cho con – con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. Đúng thật là trên một hành tinh tự nhiên con không tìm thấy những điều kiện như trên trái đất, tỷ dụ như sa nhân sẵn sàng giết hay tra tấn con. Tuy nhiên, tại sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì con không dính mắc. Điều mà đức Phật đã chứng minh là con cũng có thể không dính mắc trên trái đất, vì sự không dính mắc đến từ một trạng thái tâm, không phải từ điều kiện bên ngoài. Không dính mắc có nghĩa là không dính mắc vào điều kiện bên ngoài, bất kể các điều kiện này là gì.  Con có thể an bình trên trái đất nếu con không dính mắc các điều kiện bên ngoài trên trái đất. Các thày đã trao cho các con dụng cụ để đạt được trạng thái này bằng cách xem xét các ngã đang dính mắc, luôn luôn phóng chiếu: điều này phải xảy ra, điều kia không được xảy ra.

Con có thể giữ chặt trong tâm hình ảnh này chăng? Con đang ngồi trong chiếc xuồng, hay phải chăng đó chính là con thuyền Bát nhã? Con nhìn hai bên bờ sông, nhưng nếu con chỉ thư giãn thì con biết là dòng sông sẽ dẫn con đi qua bất cứ gì xảy ra hai bên bờ. Vậy tại sao dính mắc, tại sao kềm giữ? Con hãy chỉ nhìn mọi chuyện mà không có hình tư tưởng chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy chỉ nhìn một cách trung hòa. Con hãy nhìn sự việc như chuyện gì đang xảy ra, đang trải bày trên trái đất, vì một số người cần một trải nghiệm nào đó. Con không cần trải nghiệm mà các người kia đang cần. Do đó, con không cần dính mắc vào những gì họ đang làm. Con hãy để họ làm chuyện của họ, nhưng không dính mắc vào chuyện đó. Con đừng tham dự vào bi kịch của họ và trở nên một phần của bi kịch, dù họ đang tìm cách kéo con nhập cuộc bằng cách ảnh hưởng con.

Con hãy chỉ giản dị buông bỏ. Con hãy buông bỏ ý tưởng họ phải làm gì hay không được làm gì. Con hãy chỉ chú tâm vào việc không kháng cự dòng chảy đang mang con về hạ nguồn Dòng sông sự Sống. Con có thể nhìn bất cứ điểm nào hai bên bờ và cảm thấy chiếc thuyền đang di chuyển và con nói: “Chuyện này rồi cũng sẽ qua đi.” Thày biết là làm vậy có khi không giúp con khuây khỏa, vì có vẻ như con sẽ phải trải nghiệm một điều kiện cho tới cuối đời, nhưng không phải là chỉ khi con qua đời thì điều kiện kia mới sẽ qua đi. Nó có thể qua đi bất cứ lúc nào, nếu con có thể buông bỏ dính mắc trong tâm đang khiến con đau khổ vì điều kiện đó. Một lần nữa, một số người cảm thấy những lời này nghe khó khăn quá, nhưng đó vẫn là sự thực. Đau khổ là một điều kiện của tâm. Liều thuốc tối hậu chữa đau khổ là an bình nội tâm. Đau khổ do dính mắc tạo ra. An bình chỉ có thể đạt được bằng không dính mắc. 

23.14. Dụng cụ đặc biệt mà Nada trao truyền

Một dụng cụ cuối mà thày muốn trao cho con như sau. Con đã có khái niệm: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.” Thày, Nada, có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý. Mỗi người trong các con sẽ tiếp thu nó một cách hơi khác. Thày trao cho con đặc miễn là nếu con hòa điệu với âm điệu đó, âm thanh đó, âm thanh an bình đó, thì thày sẽ củng cố sự hình dung của con. Âm thanh an bình là một rung động và các con đều đã thấy hình ảnh một số âm thanh có thể làm cho nước rung động hay tạo mô thức trên mặt cát. Mọi chuyện đều là năng lượng, mọi chuyện đều là mô thức. Biển Luân hồi chỉ là năng lượng hỗn loạn. Con có thể sử dụng âm thanh an bình trong tâm con hay ngay cả trong một số hoàn cảnh bên ngoài, nhưng mục đích chính yếu của nó là dùng trong tâm.

Một lần nữa, con đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi tư thế thoải mái, khép mắt và hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con hình dung là âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Sau đó, con lên thể tư tưởng và một lần nữa, âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn luôn luôn bị tâm vượn kéo đi khắp hướng mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh. Sau đó con đi lên thể bản sắc và cùng chuyện lại xảy ra. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Sau đó, con từ thể bản sắc đi xuống thể vật lý, và con hình dung là thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, các phần thân thể có vấn đề, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh. Con có thể ngồi bao lâu cũng được trong sự yên tĩnh của đại dương này.

Con có thể lặp lại bài tập này nếu con thấy có gì xao động, và con có thể thiền quán về điều này. Ban đầu thì con không nên thiền lâu quá, nhưng dần dần thì con có thể duy trì trạng thái thiền này lâu hơn. Dần dần con cũng có thể cảm nhận Hiện diện của thày bao bọc con khi con thiền quán. Đây là món quà mà thày trao cho con để giúp các con nào cảm thấy gần gũi Tia thứ Sáu hòa điệu với Hiện diện của thày.

Tới đây thì thày niêm con trong niềm vui của sự An bình của thày, vì thày đã có niềm vui lớn chia xẻ với các con Hiện diện của thày trong khoảng thời gian này.

15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

17| Hãy mở tâm để trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư thăng thiên Paul người Venice. Con có thể nghĩ rằng kết nối với các thày tâm linh là một việc khó khăn. Đối với nhiều người quả thật đấy là một điều khó làm, do đó các thày là các Thượng sư đã quyết định là nhiều người sẽ thấy dễ kết nối hơn với vị thày tâm linh qua một trong bảy tia và đặc tính Thiêng liêng của các tia.

Lẽ tự nhiên, Giê-su biết rõ là bài giảng của thày nhắm vào những người ở một tầng tâm thức nào đó, vì đa số không thể chuyển đổi và chấp nhận Ki-tô bên trong họ. Nhiều người sẽ thấy dễ hơn nếu họ tập trung vào một trong bảy tia và các đặc tính của tia này. Do đó, khi họ suy ngẫm, hòa điệu vào đặc tính của tia, đọc các bài chú và thỉnh của tia đó, có thể dùng cuốn sách của tia trong bộ Khóa học Tự điều ngự, thì họ sẽ dễ hòa điệu hơn, trước tiên là với đặc tính của tia và từ đó nhận ra là những đặc tính này được thể hiện và đại diện bởi một vị thày đặc thù, một vị chân sư đặc thù, là một trong các vị Thượng sư.

Nhằm mục đích này, các thày đã quyết định trao truyền một số bài giảng, lẽ tất nhiên không có mục đích thay thế các bài trong Khóa học Tự điều ngự hay các bài khác mà các thày đã giảng về một số tia đặc trưng. Các bài này được thảo ra đặc biệt để giúp các con hòa điệu với một tia sáng và đặc tính của nó. Lẽ dĩ nhiên, thày là chân sư đại diện cho đặc tính của Tia thứ Ba, thường được gọi và được xem là đặc tính của tình thương.

17.1. Tình thương Thiêng liêng khác tình thương nhân gian

Như thày Giê-su đã nói, nhìn theo một khía cạnh nào đó, thày Giê-su là vị chân sư dễ kết nối nhất, nhưng nhìn theo một khía cạnh khác, thày Giê-su là vị chân sư khó kết nối nhất vì những hình ảnh được phóng chiếu bởi Cơ đốc giáo. Giống như vậy, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính của Thượng đế dễ kết nối nhất vì có ai trên trái đất mà không có ít nhất khái niệm về tình thương? Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính khó kết nối nhất vì hầu hết con người có thể có khái niệm về tình thương, nhưng đó không phải là tình thương Thiêng liêng. Họ có khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng.

Lẽ tất nhiên, nếu con bị bao trùm trong hình ảnh của tình thương dựa trên tình thương nhân gian, thì làm sao con hòa điệu và kết nối được với tình thương Thiêng liêng? Điều này không thể làm được. Một lần nữa, nếu quả thực con muốn hòa điệu với tình thương, trước hết con phải xem xét con đã bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, mà thậm chí ta có thể gọi là phản-tình thương, khi con lớn lên trong kiếp này hay có thể ngay cả từ những kiếp trước.

Nhiều người có hình ảnh về tình thương mà đáng lẽ phải gọi là làm chủ hay sở hữu thay vì là thương yêu. Họ nghĩ rằng thương yêu một người là một bổn phận cho nên khi con nói con thương ai đó, thì người kia phải có bổn phận với con. Nếu con có một quan hệ thương yêu với một người, cho dù đó là người phối ngẫu, hay cha mẹ hay con cái, thì con có bổn phận với người đó.

Con thấy là biết bao nhiêu người ở trong một quan hệ được gọi là thương yêu nhưng thực sự họ bị giam trong một loại trò chơi quyền lực trong đó cả hai bên tìm cách làm cho bên kia cảm thấy có bổn phận với mình. Chính họ cũng cảm thấy mình có bổn phận, cho nên họ tìm cách khiến người kia cảm thấy có bổn phận cho mình điều gì đó hay làm điều gì đó đáp ứng nhu cầu của mình. Tình thương này, lẽ tất nhiên, không phải là tình thương Thiêng liêng, vì tình thương Thiêng liêng không tìm cách làm chủ, không tìm cách sở hữu.

Tại sao con cần làm chủ một cái gì nếu con không cảm thấy thiếu thốn? Mọi mong muốn làm chủ phát xuất từ ảo tưởng thiếu thốn, và lẽ tất nhiên tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn. Do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới cái được sáng tạo và đi vào cái được sáng tạo. Thày là đại diện cho tình thương Thiêng liêng nên làm sao thày có thể cảm thấy thiếu thốn? Thày cảm nhận dòng chảy liên tục của tình thương xuyên qua thày, biểu lộ tới mọi người và thày trải nghiệm dòng chảy này vô tận. Nó không bao giờ cạn kiệt.

Dù thày có cho con người trên trái đất bao nhiêu tình thương chăng nữa, thày vẫn không bao giờ cạn kiệt vì thày càng cho nhiều hơn thì thày càng nhận thêm nhiều hơn. Đó là tình thương. Lẽ tất nhiên, khi thày cho tình thương thì thày cho một cách tự do. Thày cho trong trạng thái tâm trung hòa mà các thày đã đề cập, thày không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương, thày không chờ đợi mọi người phải đáp ứng thế nào, họ phải làm gì hay không được làm gì với tình thương đó. Thày không có những ý muốn đó cho nên khi thày nhận được tình thương từ cao trong tự do, thày cũng cho tình thương trong tự do cho tất cả mọi người ở dưới. Thày không tạo ra trong tâm cấu trúc muốn làm chủ, muốn sở hữu, muốn kiểm soát cách người nhận làm gì với món quà của thày. Thày không thực sự cho một món quà, thày chỉ cho phép tình thương chảy xuyên qua thày.

17.2. Con có mở tâm đón nhận tình thương chăng?

Con có thể quán sát điều này. Con có thể quán sát xem con muốn tình thương nhân gian hay tình thương Thiêng liêng. Nếu con muốn tình thương Thiêng liêng thì việc đầu tiên con cần nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả ai muốn nhận nó. Đối với riêng cá nhân con, vấn đề không phải là tình thương Thiêng liêng có được trao cho con không? Câu hỏi duy nhất là con có nhận nó hay không nhận nó? Tình thương Thiêng liêng luôn được trao tặng – đây là một sự thật nhất định. Nhưng nhận tình thương không là một điều nhất định vì hầu hết, ngay cả những người tâm linh, từ chối tình thương vì nhiều lý do.

Việc đầu tiên luôn luôn là nhìn vào các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Một trong những ngã tiềm thức thông thường nhất là ngã nói rằng con không xứng đáng được thương yêu, con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng. Có những ngã khác phóng chiếu rằng: “Ồ, tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt.” Vì nó rất đặc biệt, nên tôi cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu. Nó chẳng đặc biệt mà cũng chẳng không đặc biệt. Không thể gán nhãn hiệu cho nó.

17.3. Tình thương vượt lên trên điều kiện

Một từ mà các thày thường dùng với tình thương Thiêng liêng là “vô điều kiện”. Đây chỉ là một từ khác mà tâm có thể bóp méo và phân tích và nói: Điều này nghĩa là gì? Các sa nhân sẽ luôn luôn phản đối: “Không có cái gọi là tình thương vô điều kiện, ngay cả tình thương của Thượng đế cũng có điều kiện, vì chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức trên hành tinh này và các bầu cõi trước để tạo ra Thượng đế giả, vị Thượng đế giận dữ có điều kiện ở trên trời? Chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để phóng chiếu đấy là vị Thượng đế duy nhất, vị Thượng đế thật duy nhất?” Đây là điều sa nhân sẽ luôn luôn khẳng định và do đó họ sẽ khẳng định là Thượng đế giận dữ có điều kiện ấy, tình thương của ông chỉ có thể có điều kiện và chỉ những ai hội đủ một số điều kiện nào đó (do sa nhân quy định) mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế.

Tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay có thể được quy định bởi các sa nhân trong tư duy nhị nguyên. Bởi chưng, bất kỳ điều gì, bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định, đều là một điều kiện tương đối trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng. Đây là bí ẩn, thách đố cho các con chiêm nghiệm: sự khác biệt giữa tình thương nhân gian có điều kiện và tình thương Thiêng liêng, vượt lên trên các điều kiện.

Vì ảnh hưởng của người khác, con đã quá quen với khái niệm cho rằng để nhận được tình thương từ người khác, thì con phải hội đủ một số điều kiện. Đa số các con đã nhận được hình ảnh này từ cha mẹ, tuy không nhất thiết là họ phóng chiếu một cách ý thức hình ảnh này lên con. Họ chỉ giản dị có hình ảnh về tình thương có điều kiện này từ cha mẹ họ phóng chiếu và họ làm được gì khác ngoài việc truyền lại hình ảnh đó cho con? Họ không biết là có một cách thương yêu khác.

17.4. Thượng đế có điều kiện của tôn giáo có tổ chức

Con tìm được một tình thương khác với tình thương có điều kiện ở đâu trên thế giới? Chắc chắn con không tìm thấy nó nơi các tôn giáo coi mình phát xuất từ Abraham hay đa số các tôn giáo khác. Tôn giáo là gì? Tất cả những tôn giáo lớn, có tổ chức, được chính thức hóa, hệ thống hóa đều là dụng cụ của sa nhân để kiểm soát dân chúng. Làm sao một tôn giáo như thế có thể dạy về tình thương vô điều kiện hay cho tình thương này cho con người?

Con chỉ có thể có một tổ chức lớn có quyền lực trên con người nếu những người này nghĩ rằng giới lãnh đạo tổ chức rất đặc biệt và ở tầng mức cao hơn họ. Do đó, mọi người phải tuân theo một số điều kiện thì mới được các nhà lãnh đạo chấp nhận. Hình ảnh này được phóng chiếu tiếp tục lên tới vị Thượng đế giận dữ ở trên trời cho nên nhiều người ngày nay tin rằng tình thương của Thượng đế có điều kiện. Điều này tất nhiên là sự ngạo mạn, sự kiêu căng tâm linh của sa nhân tin rằng họ có thể quy định một Thượng đế và phóng chiếu hình ảnh đó. Sau đó, thậm chí họ còn ngạo mạn tin rằng Thượng đế tuân theo hình ảnh của họ, hình ảnh khô chết, hình ảnh có điều kiện. Rất ít người chịu suy nghĩ về hình ảnh vị Thượng đế có điều kiện và suy ngẫm xem nó thật sự có lý không. Nếu Thượng đế vượt quá thế gian, nếu Thượng đế đã sinh tạo thế gian, thì tại sao Thượng đế phải tuân thủ một hình ảnh được tạo ra trong thế gian?

17.5. Thượng đế vượt lên trên các hình ảnh nhân gian

Một hình ảnh có hình tướng. Con sống trong thế giới hình tướng. Con người nhìn các hình tướng thấy được trên trái đất, họ nhìn thấy các hình tướng của chính tâm lý của họ, tâm lý nhị nguyên, tâm tách biệt và họ dùng những hình tướng này để tạo dựng những hình ảnh và sau đó phóng chiếu những hình ảnh này ra ngoài. Họ phóng chiếu hình ảnh lên Thượng đế, nhưng nếu Thượng đế vượt lên trên hình tướng thì làm sao Thượng đế lại có thể tuân theo hay bị gò bó trong bất kỳ hình ảnh nào được tạo ra trong thế giới hình tướng?

Nếu Thượng đế là nguồn gốc của hình tướng thì há chẳng hợp lý sao là Thượng đế vượt quá hình tướng? Chúng ta không hoàn toàn chính xác khi nói Thượng đế vô hình tướng vì đấng Sáng tạo có cá tính, nhưng chắc chắn cá tính này vượt lên trên mọi hình tướng tìm thấy trong thế giới hình tướng. Làm sao hợp lý được khi con người trên hành tinh này, một hành tinh rõ ràng là lạc hậu, lại có thể tạo ra một hình ảnh về Thượng đế và Thượng đế sẽ tuân theo hình ảnh này? Lẽ tự nhiên, sa nhân sẽ nói đây không phải là một hình ảnh về Thượng đế vì Thượng đế chính là như vậy. Một lần nữa, con hãy nhìn vào hầu hết các thượng đế do các tôn giáo trên thế gian miêu tả và sẽ thấy vị Thượng đế này có hình tướng, Thượng đế này có điều kiện và tình thương của Thượng đế đó có điều kiện.

Khoa học cho con biết là mọi sự đều được tạo ra từ năng lượng. Năng lượng đã khoác vào hình tướng của những vật mà con thấy trong thế giới vật chất, mà con thấy được bằng giác quan hay bằng tâm. Các vật này đều có một hình tướng khác biệt phân biệt vật này với vật kia, nhưng năng lượng đã tạo mọi hình tướng từ đâu đến? Nó đến từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Có lý chăng khi cho rằng năng lượng tạo hình tướng cũng có cùng hình tướng?

Chẳng phải có lý hơn là năng lượng vượt lên trên hình tướng? Nó hơn bất kỳ hình tướng nào mà con có thể thấy trong thế giới này. Do đó, một trong những năng lượng được dùng để tạo ra thế giới hình tướng là tình thương, tình thương Thiêng liêng, nhưng tình thương này vượt lên trên mọi hình tướng trong thế giới này. Ánh sáng trắng trong máy chiếu phim vượt lên trên những màu sắc trên màn ảnh. Ánh sáng này khoác vào màu sắc khi nó đi xuyên qua cuộn phim, nhưng ánh sáng trắng vượt lên trên những hình ảnh trên cuộn phim.

17.6. Con không nhận được tình thương qua ngã phản ứng

Nếu con muốn kết nối với tình thương Thiêng liêng, con phải bắt đầu bằng cách nhận ra là nó không tuân theo những điều kiện do con người quy định. Con phải sẵn sàng nhận chân rằng chuyện không thể tránh được là trong kiếp này và các kiếp trước, con đã tạo ra những ngã phản ứng lại những hình ảnh về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Một cái ngã không thể hiểu thấu khái niệm tình thương vô điều kiện. Nó không thể xử lý khái niệm này. Con không thể trải nghiệm tình thương Thiêng liêng xuyên qua một ngã như thế. Đó là lý do tại sao con cần phơi bày ngã, thấy ảo tưởng, buông bỏ nó. Lẽ tất nhiên đây là mục đích chính của giáo lý của các thày, đặc biệt là cuốn sách do thày trao truyền trong khóa học tự điều ngự. Con có thể tiến triển trong công việc này bằng cách làm một bài thiền tập có vẻ giản dị, thậm chí có vẻ thô sơ vì nó không cần lý luận trí năng phức tạp nào.

17.7. Bài thiền tập về Tình thương

Bài thiền tập mà thày đề nghị giản dị như sau. Con ngồi trong tư thế thoải mái trong một căn phòng yên tịnh, con khép mắt lại và con nhắc nhẹ nhàng trong tâm câu thần chú:

Tình thương là, Tình thương là.

Con sẽ nhận thấy là trong con có thể khởi lên một phản ứng với câu đó. Có một cái tâm, một cái ngã muốn nói: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích. Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.”

Nếu con chịu xem xét phản ứng này, thì nó có thể giúp con phơi bày một số những ngã tiềm thức đó. Vì lúc đó con có thể nói, à tâm của tôi nói tình thương phải là gì? Con hãy cho phép tâm con nói hết câu tình thương là và cho phép tâm con gán cho tình thương những đặc tính. Giờ đây con đã đưa tâm con vào tình trạng khó xử, vì khi tâm nói tình thương là thế này, thế nọ, thì con đã phơi bày một trong những ngã tiềm thức đang cầm giữ một hình ảnh do con người tạo ra về Thượng đế, về tình thương.

Lúc đó con có thể làm việc với ngã này cho tới khi con thấy nó và con có thể buông bỏ nó. Nếu tâm làm những gì nó được lập trình để làm, nếu nó nói hết câu, thì nó phơi bày ngã ra. Điều khôn ngoan nhất tâm có thể làm là lặng thinh nhưng tâm có thể lặng thinh chăng? Thường thì không đâu. Con thấy đây là một bài tập rất, rất giản dị, một bài thiền tập rất, rất giản dị, nhưng nó có thể vô cùng hữu hiệu. Nếu con muốn, con có thể dùng bài tập này để trải qua một giai đoạn trong đó con làm việc với những ngã đang cầm giữ những hình ảnh về tình thương có điều kiện, một điều kiện nào đó. Con có thể tới điểm mà con chỉ ngồi và lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Con không cần thêm phần cuối vào câu nói. Con không cần gán đặc tính lên tình thương. Con có thể cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Đây là lúc con có thể kết nối và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức. Con không thể hiểu nó, không thể nắm bắt nó với tâm. Khi con bắt đầu trải nghiệm nó, thì con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt nó, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài.

Tâm có thể khiến con chia trí và không tập trung vào tình thương Thiêng liêng nhưng nó không thể gạt tình thương Thiêng liêng ra ngoài vì các ngã tách biệt, các ngã tiềm thức chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt. Phin lọc nhận thức của con, như các thày đã gọi nó, chỉ có thể lọc ra những gì có đặc tính, chỉ có thể ngăn chận cái gì có đặc tính. Cái không có đặc tính mà tâm nhị nguyên có thể nắm bắt, cái đó sẽ đi xuyên qua rào cản của phin lọc nhận thức. Lúc ấy con có thể một lần nữa dùng bài thiền tập giản dị để vô hiệu hóa tâm đường thẳng muốn đặt tình thương vào một tiến trình đường thẳng, một thước đo đường thẳng với hai đối cực nhị nguyên, như tình thương chân thật. 

17.8. Chỉ có tình thương Thiêng liêng mới có thể khiến con mãn nguyện

Con hãy xem xét khái niệm đã thấm vào tâm thức tập thể: tình thương thật đối ngược với tình thương giả. Làm sao tình thương có thể thật hay giả? Tình thương có điều kiện có thể thật hay giả, nhưng tình thương Thiêng liêng làm sao có thể thật hay giả? Làm sao con có thể gán những khái niệm thật và giả lên một đặc tính thiêng liêng? Đây là điều mà tâm muốn làm, vì qua đó nó cảm thấy nó đang nắm quyền kiểm soát. Tâm cảm thấy vì nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác, có được điều nó muốn và vượt qua được cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Một khi con bước vào tách biệt, con sẽ cảm thấy thiếu thốn vì con không nhận được các đặc tính thiêng liêng là điều duy nhất có thể thực sự khiến con mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Ngã tách biệt không thể hiểu và nắm bắt điều này, nhưng cái Ta Biết lẽ dĩ nhiên hiểu được. Con có thể tới điểm con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Nếu con muốn tình thương, con có nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt. Không gì có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt, nhưng cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã đó và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được.

Con có nhận bao nhiêu tình thương nhân gian chăng nữa, nó vẫn không thể thỏa mãn con. Tình yêu nhân gian có thể khiến con xao lãng một thời gian ngắn khi con đang yêu ai đó, nhưng sớm muộn thì tuần trăng mật cũng chấm dứt. Cái Ta Biết có thể tới điểm nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

17.9. Bài thiền tập chấp nhận Tình thương

Một khi con đã làm xong bài thiền tập “Tình thương là,” thì thày đề nghị bước kế tiếp. Một lần nữa, con vào một phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và trong tâm con lặp lại câu thần chú, “Tôi chấp nhận tình thương.”

Một lần nữa, con có thể khám phá một phản ứng. Tâm có thể có nhiều phản ứng hay lý do vì sao con không thể giản dị chấp nhận tình thương. Một lần nữa, có thể có những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương, và lúc đó con có thể làm việc với các ngã này. Con có thể tới điểm có thể lặp lại câu thần chú này, “Tôi chấp nhận tình thương”, và tiếp tục lặp lại cho tới khi con trải nghiệm nó.

Tâm con vẫn sẽ tìm cách xen vào vì nó sẽ nói: “À, ông thày nói nghe có vẻ hay, ông nói về tình thương, ông nói về tình thương vô điều kiện, nhưng tình thương vô điều kiện như thế nào? Cảm giác khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện như thế nào? Nói cho tôi biết đi, bởi vì làm sao bạn có thể biết bạn đang nhận được tình thương vô điều kiện nếu bạn không thể mô tả nó, và ông ấy thì nói là tình thương này vượt quá các đặc tính, vượt quá hình tướng. Làm sao bạn có thể biết được bạn đã trải nghiệm nó?”

17.10. Tâm không thể nào trải nghiệm tình thương Thiêng liêng

Đây là điều tâm sẽ làm, đây là thủ thuật mà tâm dùng để khuynh loát con. Giải pháp cho điều có vẻ bí ẩn này rất ư giản dị. Con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Thày có thể bảo đảm với con là khi con trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Như các thày đã nói, tâm quan sát mọi vật từ một khoảng cách. Nó tạo ra một tâm ảnh và sau đó nó phóng chiếu rằng tâm ảnh chính là vật. Tâm muốn tạo ra một hình ảnh về trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nghĩa là gì, cảm thấy nó như thế nào.

Con hãy bảo tâm con mô tả cảm giác khi ăn một trái táo và con sẽ thấy là tâm bị kẹt. Con có cần ai mô tả cảm giác khi ăn một trái táo chăng? Hay con có thể giản dị vào cửa hàng thực phẩm mua một trái táo và cắn một miếng? Tại sao con cần mô tả khi con có trải nghiệm trực tiếp? Cũng thế thôi với tình thương Thiêng liêng. Tại sao con cần mô tả cảm giác như thế nào? Con hãy mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và thày có thể bảo đảm với con trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được. Con không hề nghi ngờ con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm. Tâm không thể trải nghiệm nó.

Các thày muốn ngụ ý gì khi nói về tâm, tâm đường thẳng, tâm phân tích? Nếu thày hỏi con, tâm con ở nơi nào trong thân thể con? Chắc hẳn hầu hết các con sẽ chỉ vào đầu, vào bộ óc và nói chính bộ óc là cái đang suy nghĩ. Tâm nằm trong bộ óc và đây là một hình ảnh tiện dụng.

Lẽ đương nhiên, con không thể hiểu nó theo nghĩa đen vì tâm nhiều hơn bộ não, nhiều hơn sinh hoạt của bộ não. Tâm đường thẳng, lý luận, phân tích quá ăn khớp với não bộ và các chức năng của não bộ nên, khi con xem xét thân vật lý và năng trường của con, thì nói rằng tâm nằm trong đầu, trong não bộ là chuyện hợp lý.

Con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng ở đâu? Không phải trong đầu mà nơi luân xa trái tim và nó không ở trong đầu. Tại sao con cần tâm đường thẳng suy nghĩ để trải nghiệm tình thương Thiêng liêng chứ? Con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm tình thương Thiêng liêng, giống như con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm hương vị trái táo. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì đứng đó và suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo?

Ấy, tâm sẽ phản đối: “Nhưng giả dụ tôi không thể đơn giản cắn nếm tình thương? Cắn một miếng táo thì dễ, nhưng làm thế nào để cắn một miếng tình thương Thiêng liêng? Trái táo thì có hình tướng tôi nắm bắt được. Thày nói tình thương Thiêng liêng không có hình tướng. Vậy thì làm sao tôi cắn một miếng được?” Lại thêm một lần nữa và một lần nữa, con thấy tâm làm điều duy nhất nó có thể làm, đó là nắm bắt một hình tướng: “Hãy cho tôi cái gì tôi có thể cầm giữ.”

17.11. Vô hiệu hóa tâm

Một lần nữa, cái Ta Biết có thể nhận biết tâm và cách vận hành của tâm, và có thể quyết định tìm cách vô hiệu hóa tâm, bước ra ngoài tâm và đây chính là công dụng của câu thần chú: “Tình thương là.” Ta có thể coi nó như một công án, và như mọi công án mục đích của nó là làm cho tâm bị rối loạn, mờ tối và vô hiệu hóa. Con không thể suy nghĩ để tìm ra lời giải cho một công án vì lời giải cho một công án là một trải nghiệm vượt quá tâm suy nghĩ.

Khi con đã dùng câu thần chú “Tình thương là,” và “Tôi chấp nhận tình thương,” thì một số người có thể lợi lạc nếu gán ghép tình thương Thiêng liêng với một hình tướng con người (nếu con không thể nắm bắt và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng như một đặc tính hoàn vũ). Lẽ tất nhiên, điều dễ nhất là con tập trung vào thày là Thượng sư của tia thứ ba.

17.12. Dùng bài chú như một thần chú

Con có thể đọc bài chú của thày, con có thể tìm hiểu sách của thày. Nếu con cảm thấy dễ kết nối hơn với một Đại thiên thần hay một Elohim thì con hãy làm thế, nhưng hầu hết mọi người sẽ cảm thấy dễ kết nối với vị Thượng sư hơn vì các thày gần người đang hiện thân trong cõi vật lý hơn. Các thày đang làm việc trực tiếp hơn với các con. Con cứ dùng bất cứ cách nào giúp con hòa điệu với thày. Một lần nữa, tâm sẽ nói: “Vâng, vậy hãy cho tôi một hình ảnh, cho tôi một chân dung. Chân dung của chân sư đó đâu?”

Con sẽ thấy là với các đợt truyền giáo trước có chân dung các chân sư và nhiều người dùng các chân dung này để hòa điệu với vị chân sư, ít nhất là hòa điệu phần nào. Dùng một tấm hình không nhất thiết là sai nhưng với các con trong đợt truyền giáo này, các con không cần hình ảnh vì đôi khi hình ảnh có thể ngăn chặn trải nghiệm vì con tập trung vào hình ảnh và do đó con cho tâm một cái gì đó để nắm giữ.

Thay vào đó, thày đề nghị con lấy bài chú của thày, con đọc hết bài chú và con tìm hai câu nào đặc biệt thu hút con và con dùng hai câu này như câu thần chú. Con chỉ lặp lại hai câu này trong tâm, con thiền quán về hai câu này, chiêm nghiệm chúng hay chỉ lặp lại mà không nghĩ về chúng. Khi con có ý tưởng khởi lên và con nhận biết mình đang suy nghĩ, thì con chỉ trở về với hai câu đó, bất kỳ hai câu nào mà cá nhân con đã chọn.

Thày sẽ không cho con một ví dụ vì thày không muốn bỏ bất cứ gì vào tâm con. Con đọc bài chú chậm rãi, quán chiếu nó và coi xem có hai câu nào nổi bật, rồi con dùng hai câu đó như câu thần chú để hòa điệu với thày. Thày là một vị chân sư dễ hòa điệu với vì tình thương ở khắp mọi nơi. Làm sao con tìm thấy được nơi nào không có tình thương? Thày đại diện tình thương Thiêng liêng trên địa cầu giống như Giê-su đại diện tâm Ki-tô.

Như Giê-su đã nói, con không thể tách biệt khỏi tâm Ki-tô vì làm sao con có thể tách biệt khỏi cái ở khắp nơi? Tình thương Thiêng liêng cũng vậy. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù. Đây là một hình ảnh khác mà con cần vượt qua vì các sa nhân đã phóng chiếu điều gì từ rất lâu nay? Trên trái đất có những nơi linh thiêng. Có một số nơi đặc biệt và ở đó con có thể có một ngôi đền, một ngôi đền tình thương Thiêng liêng và nếu con tới đó, con sẽ trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Đây lại là một ảo tưởng vì khi tình thương Thiêng liêng có khắp nơi, tại sao con cần tới một nơi đặc biệt? Người Cơ đốc giáo đã phóng chiếu vì Giê-su xuất hiện ở Israel, đấy phải là đất thánh, nhưng như Giê-su đã giải thích, đó là nơi con người bị mắc kẹt nhiều nhất trong tâm thức sa ngã. Con không thể quy định là một nơi nào đó trên trái đất có một sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao. Các dụng cụ này trông có vẻ giản dị nhưng chúng hiệu quả vô cùng, nếu con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm bằng cách khắc phục những ngã tách biệt luôn phóng chiếu ra ngoài

Tình thương bị tha hóa muốn kiểm soát. Tình thương Thiêng liêng không thể bị kiểm soát. Nếu con tìm cách kiểm soát nó bằng cách ép nó vào một hình tướng nào đó, nó sẽ lướt qua con, con sẽ không nhận thấy nó, con sẽ không trải nghiệm nó. Khi con có thể mở tâm ra đón nhận nó, nó sẽ tuôn chảy xuyên qua con. Không cần phải thắc mắc điều này vì đây là điều tình thương làm, đây là điều tình thương là: Một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất, để nhắc nhở thế giới vật chất, để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương và đây có thể là một câu thần chú khác mà con có thể sử dụng nếu con cảm thấy nó giúp ích con.

Trong tình thương lớn, trong lòng biết ơn lớn, thày niêm con trong Tia sáng Thứ ba của Tình thương Thiêng liêng mà THÀY LÀ cho địa cầu. TA LÀ Paul người Venice.

19 | Tự gia tốc vượt lên trên tiêu chuẩn nhị nguyên về sự tinh khiết

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Tia sáng thứ Tư có thể giúp gì cho các con để các con hòa điệu được với các thày? Sẽ không có nhiều người có thể hòa điệu được với Tia thứ Tư, nhưng lẽ tất nhiên luôn luôn có một số sẽ hiểu, sẽ nắm bắt, sẽ hòa điệu, sẽ cộng hưởng được với Tia thứ Tư.

Tia thứ Tư gần như nằm ở điểm kết nối giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng kế tiếp, do đó nó đòi hỏi các con phải bước lên cao hơn. Trước đây thày gọi nó là Tia của Gia tốc, dù rằng theo truyền thống nó được xem là Tia của Tinh khiết. Thật ra cả hai là một bởi vì con đạt được tinh khiết bằng cách nào? Chỉ bằng cách gia tốc sự rung động của cái có rung động thấp hơn, và lẽ dĩ nhiên một rung động thấp hơn là định nghĩa của bợn nhơ. Thật ra không có gì hoàn toàn ô trược theo nghĩa nhị nguyên, nhưng có rung động cao hơn và rung động thấp hơn, và những rung động thấp hơn một mức nào đó là cái mà chúng ta coi là bợn nhơ. Bởi vì dù sao chăng nữa thì tất cả đều là năng lượng, nên năng lượng thấp luôn luôn có tiềm năng gia tốc và trở nên tinh khiết, trở thành năng lượng cao chảy về phía trên. Năng lượng thấp chảy về phía dưới, năng lượng cao chảy về phía trên.

Sẽ có một số người có sự đồng cảm với Tia thứ Tư. Có thể họ thích cái gì tinh khiết, cái thường giản dị, không phức tạp, không bị quấy nhiễu bởi nhiều cách diễn giải hay nhiều khía cạnh khác nhau. Quả thật, khi con nhìn vào rung động, khi con có thể đọc sự rung động, thì diễn giải trí năng đâu còn chỗ đứng nữa? Ta có thể coi đây là một điều mà khoa học đã đem vào thế gian, rằng con có thể đo lường chính xác, được gọi là khách quan, và không cần bàn cãi gì nhiều nữa. Nhiệt độ hoặc là 20 độ hay 40 độ, nhưng con có con số chính xác và lẽ tất nhiên, rung động cũng vậy.

19.1. Dụng cụ để hòa điệu với Tia thứ Tư

Làm sao con hòa điệu với Tia thứ Tư? Lẽ tất nhiên con có thể làm bằng nhiều cách. Các bài chú và bài thỉnh trong quyển Những Khai ngộ thần bí về Ý định, sách của thày trong bộ Con đường dẫn tới Tự điều ngự, đều có thể giúp con hòa điệu, nhưng như các thày khác đã giải thích, các thày đã quyết định cho các con những dụng cụ trông có vẻ giản dị hơn.

Dụng cụ đầu tiên thày muốn trao cho con như sau: Con ngồi yên, khép mắt và rút sự chú ý vào bên trong. Có một trung tâm trong bản thể con. Con có thể thấy trung tâm đó ở bất kỳ đâu, không nhất thiết là luân xa gốc hay luân xa trái tim hay một luân xa đặc thù nào khác. Con rút sự chú ý vào trung tâm đó cho tới khi nó đi vào một điểm mà khoa học gọi là điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi. Con không hình dung điều gì sẽ xảy ra, con chỉ đơn giản cho phép nó xảy ra. Cái xảy ra giống như một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con. Đây là một bài hình dung và thiền tập rất giản dị. Con rút sự chú ý của con vào điểm dị biệt nơi trung tâm và sau đó cho phép ánh sáng nổ bùng ra ngoài.

Thày không khuyên con làm bài tập này suốt ba tiếng đồng hồ mỗi lần. Có thể con chỉ nên làm bài tập này ba lần khi con bắt đầu để không bị quá tải. Bài tập này có nhiều sức mạnh giúp con cảm nhận sự chiếu tỏa của Tia thứ Tư của Tinh khiết, là ánh sáng trắng đến độ nó trắng hơn bất cứ thứ gì con thấy trong bát cung vật lý. Nếu con có bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể, thì con có thể làm bài tập này và chú tâm vào nơi đau trong cơ thể và cho phép ánh sáng tỏa rạng ra. Con không ép ánh sáng hay đẩy ánh sáng ra, con chỉ đơn giản rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

19.2. Tâm đường thẳng muốn khiến mọi chuyện phức tạp

Một lần nữa, đây là một bài tập giản dị, nhưng sự giản dị thường là chìa khóa của thay đổi. Thay đổi, vượt thăng không phức tạp. Con không thể vượt thăng bằng cái tâm muốn khiến mọi chuyện thêm phức tạp vì như vậy nó cảm thấy cao trội hay tinh vi và cảm thấy nó đã tìm ra cách dùng sức mạnh để xông vào thiên đường. Đó là điều tâm muốn làm, không cứ là tự ngã nhưng tâm đường thẳng cũng vậy. Dù các thày nói về tâm đường thẳng, nhưng các thày không muốn tố cáo tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng có chỗ đứng của nó, có chức năng của nó. Nó có thể giúp con làm nhiều, nhiều chuyện trong thế giới vật chất.

Khoa học, như con được biết đến, phần lớn dựa trên tâm đường thẳng. Lẽ tất nhiên đó cũng là lý do vì sao khoa học ngày nay đã tạo ra những vấn đề có thể trở nên mối đe dọa lớn cho tương lai của hành tinh này, cho dù đó là chiến tranh nguyên tử hạch nhân, nạn ô nhiễm hay bất kỳ vấn đề nào khác. Tâm đường thẳng có một chức năng. Nó có một chỗ đứng, nhưng nếu cho phép nó cai quản thì nó phải tạo ra vấn đề. Nó sẽ gây vấn đề. Do đó tâm đường thẳng sẽ không dẫn con vào thiên đàng. Một khi con tìm ra con đường tâm linh và bắt đầu học một giáo lý tâm linh, thì tâm đường thẳng có thể bắt đầu tin rằng nó có thể đưa con lên thiên đàng vì tâm đường thẳng nhìn mọi chuyện theo một cách nào đó.

Có thể con đã có nghe câu ngạn ngữ tiếng Anh: nếu dụng cụ duy nhất mà con có là cái búa thì con sẽ nghĩ tất cả mọi vấn đề đều là cái đinh. Tâm đường thẳng chỉ có dụng cụ duy nhất là sự phân tích, lý luận. Cho nên nó nghĩ mọi vấn đề đều có thể giải quyết được bằng phân tích, lý luận, tìm hiểu vấn đề. Tâm đường thẳng nghĩ rằng một khi nó hiểu vấn đề, thì nó có thể giải quyết vấn đề bởi vì nếu con có hiểu biết đường thẳng thì con sẽ thấy một giải pháp đường thẳng. 

Lẽ tất nhiên, “vấn đề” tăng triển tâm linh không có giải pháp đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển tâm linh là một vấn đề. Nó nói: “Tôi đang ở đây. Đáng lẽ tôi không được ở đây. Đáng lẽ tôi phải ở trong một trạng thái tâm linh cao hơn. Thế nào cũng có một trình tự đường thẳng tới trạng thái đó, và nếu tôi hiểu ra cơ chế đưa tới trình tự đó thì lúc ấy tôi sẽ có thể vào thiên đàng.” Lẽ tất nhiên, các thày đã cho các con khái niệm về con đường tâm linh và 144 tầng tâm thức, đây là điều mà tâm đường thẳng rất thích. Các thày cũng đã nói rất nhiều lần là các con không tiến bộ được trên con đường tâm linh bằng cách hiểu. Điều quan trọng là xoay chuyển tâm thức và điều này không thể thực hiện bằng hiểu biết trí năng. Điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48. Họ đã đi vào tách biệt. Họ đã bị choáng ngợp và mù quáng bởi trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi đó có một thước đo với hai đối cực cực đoan. Khi con theo lối suy luận nhị nguyên này thì con nghĩ một đối cực là vấn đề, là điều kiện cần khắc phục, và đối cực kia là giải pháp, là điều kiện cần đạt tới. Tâm đường thẳng sẽ suy nghĩ: “Làm sao chúng ta có thể tiêu trừ vấn đề? Làm sao chúng ta có thể đem lại giải pháp?”

19.3. Tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó

Như Phật khi xưa tìm cách dạy con người khái niệm Trung đạo, giải pháp không phải là một trong hai đối cực nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, thăng vượt tầng mức tâm thức thấy có hai đối cực. Tâm đường thẳng không làm sự thăng vượt này vì chính nó đã quy định các đối cực, quy định thước đo và tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó. Nó có thể lý luận trên một số đề tài nhưng nó không thể thăng vượt chính nó. Cái Ta Biết có thể thăng vượt chính nó vì nó có tự nhận biết, trong khi tâm đường thẳng giống như một máy tính nhưng nó là một máy tính tinh vi có thông minh nhân tạo và do đó có thể thích ứng.

Tâm đường thẳng có thể học thêm và thêm nữa. Nó có thể thích nghi với một số điều kiện. Con gần như có thể coi tâm đường thẳng giống như một trong những rô-bốt mà con người đã chế tạo và có vẻ như có khả năng suy nghĩ như con người. Con có thể nói là con rô-bốt suy nghĩ giống cách hầu hết con người nghĩ vì họ nghĩ với tâm đường thẳng. Dẫu thế, một máy tính không thể vượt quá lập trình của nó, nó không thể vượt thăng lập trình của nó, và tâm đường thẳng cũng vậy. Cái Ta Biết có thể vượt thăng chính nó, vì nó không có lập trình khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết.

Điều gì giúp con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Như các thày đã nói, điều cốt yếu là tinh lọc các thứ trong bốn thể phàm của con đang lôi kéo sự chú ý của cái Ta Biết vào ngã tách biệt, vào phin lọc nhận thức, vào ý niệm bản ngã đó. Khi con đã trong lọc đúng mức, thì cái Ta Biết có thể rút ra khỏi ngã tách biệt dễ dàng hơn.

19.4. Bài tập để làm rối tâm đường thẳng

Thày cho con một bài tập khác có thể giúp con với chuyện này. Một lần nữa, con hãy ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, và bây giờ con tưởng tượng, con hình dung con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, một mặt phẳng hoàn toàn bằng phẳng, tuyệt đối bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Bây giờ con hãy rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con. Con không tỏa rạng ánh sáng mà để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài, con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng. Có thể là tập trung nơi hai mắt sẽ giúp con dễ hình dung nhất. Hai mắt con kéo về trung tâm và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Con cứ thong thả làm bài tập này. Con không cần làm nhanh. Lúc mới đầu, con có thể cảm thấy rất bị rối, mất phương hướng, thậm chí rất khó thực hiện, nhưng sau khi tập một lúc, con sẽ thấy là sự chuyển động đi vào bên trong đi ra bên ngoài khiến tâm đường thẳng bị rối và con có thể tới được điểm cảm thấy một sự yên tĩnh nào đó, một sự im lặng nào đó trong tâm. Lúc ấy, con thôi không chú tâm đi vào bên trong đi ra bên ngoài nữa. Con chỉ chú tâm vào sự yên tĩnh đó, con mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt. Con đơn giản để chú ý của con đi ra ngoài và tiếp tục ra ngoài, kéo giãn nó ra xa thật xa và xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại. Con có thể lặp lại nhiều lần. Hoặc con có thể đơn giản cho phép sự chú ý của con nghỉ ngơi khi con đã kéo nó ra xa tối đa, nếu con cảm thấy làm vậy tự nhiên hơn.

Một lần nữa, đây là một bài tập rất giản dị, hay ít nhất nó có vẻ giản dị. Tâm sẽ không thể nắm được mục tiêu của bài tập. Nó sẽ nói: “Mục đích là gì vậy? Bài tập này dẫn tới đâu? Bài tập này đem lại gì cho tôi?” Con thấy chăng, ý chính của bài tập là không có ý gì, bài tập không có mục đích, không có chỉ tiêu mà con phải đạt. Con chỉ trải qua tiến trình và cho phép nó trải bày. Khi thày nói không có mục đích gì, lẽ tất nhiên, thày muốn nói là không có mục đích mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt được.

Con sẽ thấy là ngoài thế gian có nhiều kỹ thuật thiền định luôn luôn hứa hẹn là con sẽ đạt được một thành quả nếu con tập theo đúng kỹ thuật. Thày sẽ không hứa hẹn thành quả, thày sẽ nói là nếu con cảm thấy bài tập thu hút con, thì con cứ tập. Nếu nó không thu hút con, thì con quên nó đi. Nếu con quyết định tập, thì con hãy dành chút thời giờ và xem chuyện gì xảy ra. Thay vì bắt đầu với một mục đích và tiến tới mục đích, con hãy coi mục đích của bài tập chỉ là thử nghiệm, tham gia tiến trình và xem nó trải bày ra sao. Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ phản đối: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Con thấy chăng, tâm đường thẳng không đi đâu cả. Đấy chính là ý nghĩa bài tập và cũng có thể nói là con cũng không đi đâu cả. Cũng có thể là con sẽ đi, khi an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa, khi con trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

19.5. Cốt lõi của con đường tâm linh ở các tầng cao

Có nhiều đệ tử, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, đã nghĩ rằng Tia thứ Tư rất nghiêm khắc, rằng thày là người rất trọng kỷ luật. Thật vậy không, tại sao họ lại nghĩ thế? Họ nghĩ thế vì họ chưa nhận được giáo lý về các ngã tách biệt, cho nên họ không thật sự hiểu cơ chế vận hành mà các thày đã trao truyền – rằng cốt lõi của tăng triển tâm linh là tới chỗ nhận ra các ngã tách biệt và buông bỏ chúng. Do đó, họ nghĩ họ phải ép mình vào kỷ luật, cố gắng kiểm soát tâm, áp chế tâm, đi theo một con đường tu được xác định rõ ràng. Họ nhìn con đường tâm linh khác với các con nhìn. Một lần nữa, các thày không chỉ trích, các thày không tìm lỗi, các thày chỉ giản dị cho thấy là với tiến trình tiết lộ tuần tự, các thày có thể trao truyền một hiểu biết càng ngày càng cao hơn về con đường tu.

Như các thày đã nói, từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con cần có kỷ luật, chú tâm để nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng. Khi con đã thoát đủ sức hút xuống của tâm thức đại chúng, thì con có thể lợi lạc hơn nếu con xét lại cách con nhìn con đường tu. Con hiểu là ở đây thày không bác bỏ những gì được dạy trong các đợt truyền giáo trước. Rõ ràng là con không thể tiến lên khỏi tâm thức đại chúng nếu con lười biếng, không tập trung hay thiếu miên mật. Con không thể tà tà trong việc tăng triển tâm linh vì tâm thức đại chúng sẽ liên tục kéo con xuống. Con cần có đủ chú tâm và quyết tâm để vun bồi một động lực kéo con lên khỏi trọng lực hút xuống của tâm thức đại chúng.

Một khi con đã làm được phần nào, thì con có thể áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền về cái Ta Biết và các ngã tách biệt. Con nhận ra là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức hay dồn nén các ngã tiềm thức. Việc dồn nén và ép tâm tiềm thức vào kỷ luật có thể là một việc thích đáng lúc ban đầu, vì nếu không nó sẽ lôi kéo con theo quá nhiều hướng. Nhưng một khi con vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng, thì con sẽ được lợi lạc nhiều nếu con xoay chuyển cách tu và nhận ra rằng cốt yếu của tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Con tới điểm thấy được một ngã tách biệt. Con thấy nó có tác dụng gì khi nó khiến con bị kẹt trong việc liên tục lặp lại không ngừng một khuôn nếp phản ứng. Con thấy ảo tưởng khiến con nghĩ con phải tiếp tục phản ứng như thế, đây là cách phản ứng duy nhất, thậm chí có thể đây là cách duy nhất để là một đệ tử tâm linh. Con thấy đây là một ảo tưởng. Con thấy ảo tưởng cho rằng có một vấn đề con phải giải quyết. Sau đó, con giản dị buông bỏ, con để cho ngã chết đi. Khi con để cho ngã chết đi, giả dụ ở tầng 96, thì con tức khắc lên tầng 97. Con không phải nỗ lực để lên tầng 97. Vì khi ngã đó chết, khi năng lượng được chuyển hóa, thì con sẽ lên tầng trên một cách tự nhiên. Do đó, sẽ có một điểm, và điểm này có thể xảy ra trước tầng 96, khi con xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh, khi con nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì.

19.6. Cái Ta Biết đến từ tâm thức Ki-tô

Điều quan trọng là buông bỏ và bắt đầu quán chiếu, như các thày đã nói, là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra. Tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn. Ở tầng 64, con gần cái một hơn khi con ở tầng 63. Cho nên khi con giải quyết một ngã ở tầng 63, thì cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Con hãy cẩn thận xem xét điều thày đang nói. Có lúc con cần dùng khả năng của tâm để kỷ luật chính nó. Đúng vậy, con lúc đó có dùng sức mạnh. Con dùng vũ lực để trấn áp những ngã tách biệt đang kéo con xuống, kéo con vào những thói quen cũ, những khuôn nếp phản ứng cũ. Con nói: “Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống thế gian này. Tôi muốn một cuộc sống tâm linh hơn.” Sau đó con triệt hạ những điều đang kéo con vào đời sống thế phàm và làm vậy có ích lợi trong một thời gian. Điều con đang làm là dùng tâm để trấn áp tâm, để ép tâm vào kỷ luật, áp chế tâm. Con có thể đạt đôi chút tiến bộ, nhưng con không thể đi xa hơn một mức nào đó. Con chắc chắn không thể đi quá tầng 96 bằng vũ lực.

“Con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng,” như Giê-su đã nói. Thày Giê-su cũng nói: “Kẻ hung bạo muốn cưỡng chiếm vương quốc thiên đàng bằng vũ lực, dùng vũ lực cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.” Điều này không thể làm được. Nếu con tới tầng 96 mà vẫn còn tìm cách dùng vũ lực thì con sẽ không đạt được sáng ngộ ở tầng này và do đó con sẽ bắt đầu đi xuống, đẩy mình đi xuống bằng vũ lực. Con có thể nghĩ con đang tiến triển vì con cảm thấy mình càng lúc càng giỏi hơn trong việc áp chế mình, nhưng con không đang vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Con chỉ đang bồi đắp cái ngã tâm linh mà con đã tạo ra từ tầng 48 tới tầng 96. Thậm chí con còn có thể rơi vào tâm thức sa ngã khi con nghĩ mục tiêu tối hậu là xây dựng một ngã tâm linh tinh vi nhất chưa ai làm được và sau đó chắc chắn Thượng đế phải cho phép con vào thiên đàng.

19.7. Gia tốc lên tinh khiết

Điều quan trọng con cần quán chiếu là con sẽ tới điểm con cần thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức không nhất thiết lúc nào cũng đường thẳng. Trong một số trường hợp, chúng chỉ hỗn loạn và thiếu tập trung, chuyển từ ngã này sang ngã kia. Đây là một sự xoay chuyển quan trọng khi con rời bỏ cách tiếp cận dựa trên vũ lực. Đây là lúc con có thể thực sự gia tốc, gia tốc vào tinh khiết.

Con ngẫm nghĩ lý luận rất giản dị này: Tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Làm sao con bước ra ngoài tinh khiết? Con ép mình rời tinh khiết.  Có lý chăng nếu con phải ép mình trở về tinh khiết? Không đâu, bởi vì một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Như thày đã nói, tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên. Đây là điều nhiều, nhiều người tâm linh khắp mọi nơi trải qua các thời đại không nắm bắt. Lẽ tất nhiên có một số người hiểu. Một số người nắm bắt được. Cũng đã có các giáo lý mô tả phương pháp không cố gắng, không dựa trên vũ lực. Tiếc thay, nhiều giáo lý trong số này không có khái niệm về các ngã tách biệt và khái niệm cái Ta Biết có thể đứng ra ngoài các ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Do đó, nhiều giáo lý trong số các giáo lý đó khó thực hành đối với một số người, đặc biệt là các người có tư duy Tây phương đường thẳng, vì họ gần như không thể khắc phục khuynh hướng nghĩ rằng họ phải làm chuyện này với cái tâm.

Như các Thượng sư khác đã nói, một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đuờng thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược. Thực ra trong tâm thức nhị nguyên, có một cực ô trược và một cực được quy định là tinh khiết, nhưng ngay cả cái mà con người định nghĩa là tinh khiết cũng không phải là tinh khiết Thiêng liêng.

19.8. Tiêu chuẩn nhị nguyên về tinh khiết và ô trược

Một lần nữa, như các thày đã nói, đây là vấn đề với nhiều tôn giáo. Họ nghĩ rằng một tôn giáo vỏ ngoài trên trái đất có thể, trong kinh điển giáo điều và văn hóa của họ, quy định một mục tiêu cuối cùng, có thể quy định những cư xử ô trược và những cư xử tinh khiết. Sau đó, họ nghĩ rằng khi đi theo con đường vỏ ngoài đó, con đường phần nào máy móc đó, một ngày kia họ sẽ tinh khiết.

Con sẽ không tinh khiết khi cố gắng đạt một trạng thái tinh khiết nhị nguyên tương đối. Chắc chắn nó có thể khá hơn trạng thái nhị nguyên ô trược khiến con có khuynh hướng tạo nghiệp nặng hơn. Có rất nhiều, rất nhiều người trên trái đất đã theo một tôn giáo, có thể là trong nhiều kiếp sống và đã cố gắng đạt được một trạng thái do tôn giáo đó quy định. Họ đi vào trạng thái tâm cảm thấy vì họ đã làm tất cả những điều mà giáo điều và kinh điển quy định, và vì họ đã không làm tất cả những điều không được làm, do đó họ là người tốt. Họ là tín đồ tôn giáo. Họ là người tâm linh. Họ cũng có thể cảm thấy họ là người tinh khiết và là bậc thánh. Đáng tiếc thay, các chân sư thăng thiên khó tiếp cận những người này nhất, vì họ quá dính mắc vào ý niệm họ là người tốt nên các thày rất khó chỉ cho họ thấy họ không tốt theo một sự lượng định bất nhị. Họ “tốt” đối ngược với “xấu” nhưng đấy là theo thang đo nhị nguyên.

19.9. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống

Trong những đợt truyền giáo trước, các thày đã thấy có các đệ tử bỏ ra nhiều thập niên tìm cách sống theo một lý tưởng, nhưng họ không sẵn sàng bước lên tầng mức cao hơn và nhận ra rằng có một điểm khi cả lý tưởng cũng phải buông bỏ, vì Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống. Bởi chưng Ki-tô Hằng sống là gì? Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho gì? Là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên.

Tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên của con muốn làm gì xuyên qua con, muốn đem lại gì xuyên qua con. Tâm đường thẳng muốn lượng định mọi thứ dựa trên một tiêu chuẩn mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt, có nghĩa đấy là một tiêu chuẩn thế gian có hai cực với những đặc tính có thể xác định được. Các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày? Con sẽ có lượng định vi tế như sau: “Điều này phải được biểu hiện, điều này không được biểu hiện.” Lúc ấy, các thày phải tôn trọng quyền tự quyết và bước lùi lại.

Chỉ khi nào con là cánh cửa mở thì các thày mới tuôn chảy xuyên qua con được, và cánh cửa mở có nghĩa trung hòa và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Khi con có ý định tinh khiết, khi con sẵn sàng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con, thì lúc ấy con là cánh cửa mở. Nếu con có ý định là có một số điều phải được biểu lộ và một số điều không được biểu lộ, hoặc con muốn được biết trước và con muốn lượng định dựa theo tiêu chuẩn của tâm vỏ ngoài thì con không tinh khiết, ý định của con không tinh khiết. Khi con tới những tầng cao hơn của con đường tu, con sẽ được lợi lạc khi quán chiếu chuyện này. Các thày đã nói điều này bằng nhiều cách trước đây, nhưng các thày cố gắng lặp lại, lần này đặt trọng tâm đặc biệt vào chủ đề làm sao kết nối với các thày. 

19.10. Làm sao kết nối với Serapis Bey

Làm sao con kết nối được với thày là Serapis Bey? Con phải có một ý định trung hòa, nghĩa là con có ý định kết nối với thày nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và ngay cả con phải cư xử ra sao. Con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Đây là ý định tinh khiết và khi con tới được ý định tinh khiết này bằng cách loại bỏ các ngã tách biệt, thì con thấy rằng nếu con có mối liên hệ với Tia thứ Tư, thì con sẽ kết nối được. Con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày.

Như các Thượng sư khác đã nói, không có gì mà thày giữ lại không cho con. Thày luôn luôn bên con vì như Giê-su đã nói: “Tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi.” Tia thứ Tư và tất cả các tia khác cũng thế. Lúc ban đầu có Ngôi Lời hay Logos và Ngôi Lời ở bên Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế. Nếu không có tâm thức Ki-tô hoàn vũ này, không gì được làm ra đã được làm ra. Khi sự phân biệt thành hình tướng bắt đầu, nó bắt đầu với sự phân biệt thành bảy tia sáng. Từ bảy tia sáng này tất cả mọi hình tướng được tạo thành. Cho nên như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Thày luôn luôn ở nơi con đang ở, con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Lẽ dĩ nhiên thày hy vọng và thày biết là một số các con đã trải nghiệm Hiện diện của thày trong khi nghe bài truyền đọc này. Một số các con có thể nghe lại và trải nghiệm Hiện diện của thày. Một số có thể làm các bài tập mà thày mô tả và trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt. Tới đây, thày niêm con trong sự tinh khiết mãi mãi thăng vượt của Tia thứ Tư mà THÀY LÀ.

21 | Với tới sự thật sẽ giúp con tiến lên cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Sự thật là gì? À, đây là một câu hỏi mà tâm đường thẳng ưa thích, vì nó nghĩ nó có thể định nghĩa một cách rất rõ ràng: Sự thật ngược lại với Không thực. Sự thật là một cái gì ta có thể hiểu, có thể nắm bắt, có thể đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Quả thật, tâm đường thẳng có thể làm chuyện này với tất cả mọi đức tính của Thượng đế, nhưng nó cảm thấy là nó thật sự kiểm soát được sự thật. Sa nhân đã từ rất lâu, từ lúc họ sa ngã, cảm thấy là họ kiểm soát được sự thật. Họ tin rằng họ có thể quy định sự thật. Lẽ đương nhiên, họ đã không loan báo cho mọi người, tỷ dụ như trên địa cầu, là họ đã quy định sự thật. Thay vào đó, họ loan báo là sự thật được trao truyền bởi một thẩm quyền tối hậu. Do đó, đó là sự thật, chân lý cao nhất có thể có.

21.1. Định nghĩa giản dị nhất của sự thật

Sự thật quả thực là gì? Sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là gì? Không thực là cái gì mang con ra xa cái một. Đây là định nghĩa giản dị nhất của sự thật mà ta có thể đưa ra, ít nhất là trên trái đất.

Lẽ đương nhiên, tâm đường thẳng sẽ rất bất mãn với định nghĩa này, vì làm sao từ đó có thể định nghĩa sự thật là gì? Nhất định phải có một sự thật tối hậu. Nói nó dẫn con tới gần hơn không đủ. Nhất định phải có một chân lý tối hậu, và lúc đó con ở trong cái một. Sự thực là chỉ có đấng Sáng tạo là chân lý tối hậu, như vậy có nghĩa là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của Ngài, ở bất cứ tầng nào của thế giới hình tướng, có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Lẽ đương nhiên, địa cầu ở thấp hơn tầng của đấng Sáng tạo rất nhiều, và đó là lý do vì sao các thày đã rất nhiều lần nói là không thể trao truyền một chân lý tuyệt đối trên trái đất, nhưng ta quả thật có thể nói là chân lý tuyệt đối không có ở đâu ngoại trừ nơi đấng Sáng tạo. Bất kỳ con đang ở tầng nào trên bước đường tiến tới hợp nhất với đấng Sáng tạo, nếu con chưa là một với đấng Sáng tạo, đó là vì con vẫn còn thấy một khoảng cách. Do đó có một chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Cho nên, mục đích của đường tu không bao giờ là hiểu chân lý tối hậu, nhưng là thấy chân lý sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

21.2. Các tầng thể hiện tiềm năng của cái ta

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ bất mãn vì nó sẽ nói: “Ồ, như vậy phải có nghĩa là có điều gì sai ở bất cứ tầng nào cho đến khi tới tầng đấng Sáng tạo. Ngay cả các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất đã thăng thiên từ rất lâu, đã có rất nhiều thời gian để tăng triển và vượt thăng chính họ, họ vẫn sống trong ảo tưởng.” Một lần nữa, đây lại là tâm đường thẳng, nó phải nghĩ theo kiểu tâm đường thẳng. Nó hoạt động với thang điểm nhị nguyên, và trên một thang điểm nhị nguyên có cực đoan này và cực đoan ngược lại, cả hai đều tối hậu, ta hoặc có sự thật tối hậu hoặc giả dối tối hậu. Con có thể nói là khi con chưa tới sự thật tối hậu thì con vẫn bị ảnh hưởng bởi một sự giả dối, nhưng không phải vậy. Một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết và trải nghiệm tâm Ki-tô đó, và đó là tâm của cái Một. Con biết là mọi sự là một, nhưng con cũng thấy và trải nghiệm các tầng tâm thức có cấp bậc và con tiến lên theo một tiến trình đường thẳng dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo. Đây không phải là một ảo tưởng.  

Một khi con đã thăng thiên từ trái đất thì con không còn ở trong ảo tưởng nữa vì con biết thực tại bên dưới mọi sự là cái một. Con chỉ giản dị ở một tầng nào đó trong tiến trình thể hiện cái ta, và con biết con đang trên con đường dẫn tới những tầng thể hiện cái ta cao hơn cho tới khi con đạt tới trạng thái tối hậu của thể hiện cái ta mà các thày đã gọi là tâm thức đấng Sáng tạo. Đúng ra phải nói đây là trạng thái tối hậu trong thế giới hình tướng này. Con không ở trong ảo tưởng vì con trải nghiệm cái một, và con thậm chí không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Thày Serapis Bey có nói tới sự gia tốc không ngừng, và đây là một khái niệm quan trọng mà con cần xem xét. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ gặp khó khăn khi nó xem xét sự tự thăng vượt bất tận, liên tục, gia tốc này. Nó lúc nào cũng đi tìm cái tối hậu, nhưng nó cũng sẽ hỏi tại sao nó cần tự thăng vượt nếu nó đã đạt được một tầng cao? Tại sao con cần tự thăng vượt khi con đã tới tầng 96 và đã trải nghiệm tâm Ki-tô, tại sao con cần tiếp tục tự thăng vượt?

21.3. Dòng sông sự Sống luôn luôn tự thăng vượt

Sự thực là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng, là cái mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống. Một dòng sông là gì? Nó là nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu dòng sông ngừng chảy thì nó không còn là một dòng sông nữa. Nó là một hồ nước. Không sớm thì muộn phẩm chất, độ trong sạch của nước trong hồ nước sẽ suy giảm. Nước có thể bốc hơi, nhiều chất cặn và bợn nhơ sẽ có thể xâm nhập nước hồ, và dần dần nước sẽ bắt đầu nhiễm độc. Vì sao nước không nhiễm độc khi ở trong dòng sông? Bởi vì nước di động. Các phân tử nước di dộng và phủi đi những bợn nhơ. Chúng hòa lẫn với khí oxy, cũng giúp trong lọc nước.

Con thấy là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con, như một cá nhân, không thể nói: “Tôi đã đạt một tầng nào đó. Tôi muốn vui hưởng tầng này trong một thời gian.” Con có quyền làm như vậy, nhưng nếu con ở một tầng nào đó quá lâu, thì tâm con sẽ bắt đầu trở nên cũ kỹ. Do đó con sẽ không theo kịp hướng đi lên của Dòng sông sự Sống. Con sẽ ở dưới tầng mà con có thể tới nếu con chịu thăng vượt.

Những người sáng suốt vẫn đang tiếp cận Dòng sông sự Sống thì biết rằng họ có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng họ sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước. Nhiều người trong các con là những người tâm linh đã có cảm nhận đến lúc bước vào một chu kỳ mới. Đã đến lúc cất bước và làm chuyện gì khác. Chân lý chuyển động không ngừng. Có một chân lý ở tầng 48 giúp con khắc phục ngã tách biệt, ảo tưởng ở tầng 48 và vươn lên tầng 49. Có một chân lý khác ở tầng 49, và một chân lý khác ở tầng 50, vân vân. Không phải chỉ có một chân lý. Lẽ tất nhiên, đó là điều tâm đường thẳng muốn: “Hãy cho tôi chân lý, chân lý cao nhất, chân lý tuyệt đối.” Nếu vậy thì đây nhé: Chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Hay ta cũng có thể nói là có nhiều chân lý tuyệt đối. Chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó. Lẽ tất nhiên, chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Ta không thể đặt cái dẫn con tới cái một lên một thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia.

21.4. Khái niệm nhị nguyên về sự thật tối hậu

Sự thật Hằng sống không phải là đối ngược của một sự giả dối. Chỉ những gì do tâm thức nhị nguyên quy định mới có một đối ngược. Tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói: “Nhưng phải chăng sự thật dẫn con lên tầng kế tiếp cũng tương đối với tầng đó?” Phải, nhưng không trên một thang điểm nhị nguyên. Khi con ở trên một thang điểm nhị nguyên, con có thể nói: “Đây là một sự không thực” và con có thể bắt đầu tiến về phía đối cực kia trên thang điểm. Con có thể nghĩ con đã đi một hành trình dài từ sự không thực tương đối đến sự thật tương đối, nhưng con đã không tới gần cái một hơn. Con vẫn ở trong nhị nguyên, và đó là lý do vì sao khi con nghĩ con là một người tốt đang nắm giữ chân lý thì con không đến gần cái một hơn. Ý nghĩ này chỉ tiếp tục giam con trong nhị nguyên.

Thày có thể bảo đảm với con là những người tin rằng họ có chân lý tối hậu là những người mà thày khó tiếp cận nhất. Vì sao họ lại cần đến Thượng sư của Tia thứ Năm khi họ đã có chân lý tuyệt đối rồi? Thày có thể cống hiến gì cho những người đã có chân lý tuyệt đối được quy định ở đây trên trái đất? Con có thể nói: Nhưng, thày, Hilarion, là một chân sư thăng thiên! Thày ở một tầng tâm thức cao hơn, do đó lẽ dĩ nhiên thày có thể cống hiến cái gì đó cho những người chưa thăng thiên. Nhưng những người kia không thấy vậy đâu. Con hãy nhìn sự kiện trang mạng Hỏi Giê-su Thật (https://askrealjesus.com/) đã xuất hiện trên mạng được hơn 20 năm. Con có thực sự nghĩ là các vị Hồng y của Giáo hội Công giáo chưa nghe tới hay chưa xem trang mạng này? Họ có thay đổi gì chăng dựa trên các điều được công bố trên đó? Họ có mở lòng xem xét là Chân sư Thăng thiên Giê-su có thể hiện đang hướng dẫn con người tu tập? Lẽ dĩ nhiên là không. Tại sao họ lại cần Chân sư Thăng thiên Giê-su khi họ đã có chân lý tuyệt đối trong giáo điều của họ?

Con thấy là nhiều người khác, tỷ dụ như người cộng sản, duy vật, tranh đấu môi sinh, triết gia thuộc trường phái này hay trường phái nọ, lãnh đạo tôn giáo này tôn giáo kia, họ đều không cần đến các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các đức tính thiêng liêng, vì họ muốn trải nghiệm ý niệm cao trội hơn người mà họ có khi họ tin là họ có chân lý tuyệt đối. Nếu con tin rằng con có chân lý tuyệt đối, thì có thể nào có chân lý nào cao hơn? Bất cứ ai, ngay cả các chân sư thăng thiên, có gì để cống hiến cho con? Lẽ tất nhiên, các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã thăng vượt tầng tâm thức này, nhưng con cần nhận ra là các ngã tách biệt của con, các ngã tách biệt còn sót lại, chưa thăng vượt tầng tâm thức đó. Cái Ta Biết của con đã thoát khỏi sự đồng hóa hoàn toàn với các ngã đó, nhưng con vẫn còn các ngã đang pha màu tầm nhìn của con, và khiến con tin rằng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

21.5. Mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn

Đây là điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh qua các thời đại, nhưng điều đó cũng đã xảy ra cho các đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, khi họ nghĩ là họ đã có giáo lý cao nhất hay sự tiết lộ sau cùng mà các chân sư thăng thiên ban ra, và do đó tại sao họ lại cần gì khác? Tại sao họ lại cần tiết lộ tuần tự?

Con luôn luôn cần xem chừng khuynh hướng này nơi một ngã tách biệt hay thậm chí sự hình thành một ngã tách biệt khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn là tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.” Con quả thật có. Con đã tiến bộ, con đã đạt một tầng nào đó, nhưng chưa phải là tầng tối hậu. Nếu con đã đạt tầng cao nhất có thể đạt được trên địa cầu thì con đã thăng thiên. Khi con đã đạt được tầng tối hậu có thể đạt được trên trái đất thì con sẽ không còn trên trái đất nữa. Nếu con còn ở trên trái đất thì, ấy, con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và làm sao con vươn lên tầng đó? Bằng cách với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Trong đợt truyền giáo này, con không dễ bị kẹt vào trạng thái tâm thức đó nếu con nghiên cứu và cố gắng thể nhập giáo lý. Các thày đã nói rõ về nhu cầu tiến bộ liên tục hơn là trong các đợt truyền giáo trước. Tuy nhiên, tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó lúc nào cũng làm những gì tự ngã vẫn làm: nó tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con cần mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Đó là một phần vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý tuần tự cao hơn, nhưng cá nhân con cần mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

21.6. Tặng phẩm và bài hình dung của thày Hilarion

Con nhận được khai ngộ này từ đâu? Con sẽ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ nhận nó từ các chân sư thăng thiên của con, nhưng con cần phải yêu cầu, con cần phải mở tâm ra đón nhận. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Con chắc chắn có thể yêu cầu thày, Hilarion, chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con có thể đọc bài chú Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con có thể dùng quyển sách Những Khai ngộ Thần bí về Viễn kiến để hòa điệu với thày. Con có thể tìm trong bài chú của thày hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và con sẽ thấy con nhận được hướng dẫn của thày nếu con gần Tia thứ Năm. Con có thể dùng nhiều dụng cụ, nhưng thày sẽ cho con ở đây một dụng cụ đơn giản như các Thượng sư khác đã làm.

Đây là dụng cụ giản dị đó: con đi vào một căn phòng yên tĩnh, con ngồi tư thế thoải mái, nhắm mắt lại và con hình dung con có hai con mắt. Nếu con nghĩ về chuyện này thì con biết là con có hai mắt để thấy được chiều sâu. Con có thể lượng định khoảng cách giữa con và một vật một cách chính xác hơn vì con có cái nhìn song đôi đó. Có hai mắt không phải là nhị nguyên. Các thày không bao giờ nói rằng khi con thoát khỏi nhị nguyên thì hai mắt của con sẽ bắt đầu di chuyển gần nhau hơn cho tới khi chúng hợp thành một con mắt ở giữa trán của con.

Lẽ tất nhiên, con có một mắt thứ ba, đó là luân xa mắt thứ ba, nhưng bài hình dung này dựa trên con có hai mắt, và con hình dung hai mắt di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng. Con theo đường thẳng đó nhìn về quãng xa. Nếu con có chút hiểu biết về hình học, thì con biết là phối cảnh sẽ khiến con thấy giống như hai đường thẳng sẽ càng ngày càng gần nhau hơn khi con càng đi ra quãng xa.

Con cũng có thể biết thuyết không gian-thời gian cho rằng tất cả các đường song song sẽ rốt cuộc nhập một, gặp nhau. Con chỉ cần phóng chiếu về khoảng xa, thật xa để hai đường thẳng từ hai mắt con càng ngày càng gần nhau hơn cho tới khi tới một điểm, bất kể điểm này xa tới đâu, hai đường thẳng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con tiếp tục hình dung con theo đường thẳng đó xa nhất mà con có thể hình dung. Khi con đã hình dung đường thẳng duy nhất đó thì con rút sự chú ý của con trở về trán, trở về mắt thứ ba của con. Sau đó, con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó. 

Một lần nữa, đây là một bài thực tập giản dị mà nhiều người sẽ cho là quá thô sơ, nhưng nếu con cảm thấy gần Tia thứ Năm thì con hãy thực tập bài này và sẽ thấy là kinh nghiệm không thô sơ chút nào và có thể sâu sắc hơn những gì con tưởng tượng lúc này. Sự thật rất giản dị. Chỉ có trong nhị nguyên thì sự thật mới có vẻ phức tạp bởi vì sa nhân muốn sự thật phức tạp. Họ muốn biến mọi chuyện thành phức tạp để họ có vẻ cao trội hơn người khác vì họ có thể nắm bắt, hiểu hay quy định hệ thống tư duy tinh vi, trí thức và đường thẳng đó. Họ là những người quá ư thiện xảo trong khi con người không hiểu được do đó họ phải tuân theo các lãnh đạo.

Con hãy nhìn xem cách Giáo hội Công giáo đã phóng chiếu trong suốt 17 thế kỷ là con người không thể hiểu thực tại tâm linh và phải được giảng dạy với từ ngữ thật đơn giản. Con hãy thấy là họ đã suốt bao năm đốt sách, từ chối không chịu dịch Thánh kinh để con người không thể tự mình đọc Thánh kinh mà phải trông cậy vào sự diễn giải của các linh mục Công giáo. Sa nhân lúc nào cũng nghĩ rằng con người không thể biết sự thật. Chỉ có họ mới biết được sự thật. Lẽ dĩ nhiên, một sa nhân sẽ không bao giờ biết được sự thật cho tới khi y bắt đầu với tới sự thật Ki-tô duy nhất mà y có thể hiểu ở tầng tâm thức hiện tại của mình và sau đó tiếp tục với lên sự thật kế tiếp cho tới khi y không còn là sa nhân nữa.

21.7. Sự thật như là kết quả của vun bồi hiểu biết

Như Giê-su có nói, tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi. Ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm thức Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Có một chân lý ở mỗi tầng tâm thức, nhưng đó không phải là chân lý tối hậu. Đó là chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Tiến trình này sẽ tiếp diễn từ tâm thức hiện tại của con cho tới tiềm năng cao nhất của con là tâm thức của đấng Sáng tạo.

Do đó, chân lý không thể bị gò bó vào bất cứ tầng nào, và vì vậy không ai trên cõi thăng thiên tuyên bố hay tin rằng vị ấy đã đạt được chân lý tối hậu. Các thày đều trải nghiệm chân lý là Dòng sông sự Sống đang hằng sống, tuôn chảy, mà con có thể lần theo về cội nguồn. Và cũng có chân lý cao nhất mà con có thể đạt được trong thế giới hình tướng. Lẽ đương nhiên, vượt quá nơi đó là cái mà các thày đã gọi là cái Tất cả, nhưng các thày không muốn mô tả bằng lời vì nó quá xa vời các hình tướng và khái niệm mà con có trong thế giới hình tướng này.

Một số các con sẽ được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã lớn lên với một quan niệm rất sai lệch về chân lý, đặc biệt là nếu con đã theo học bất cứ học viện cao đẳng nào, tỷ dụ như một viện đại học. Nhiều người coi những viện giáo dục cao đẳng này như các nơi vun bồi hiểu biết và minh triết, và họ nghĩ là nếu họ tích lũy hiểu biết lâu đủ thì họ sẽ đạt được chân lý. Một số còn nghĩ là họ đã đạt được chân lý rồi, ít nhất là trong một số lãnh vực của đời sống. Nhiều người trong các viện giáo dục cao đẳng tin rằng viễn quan duy vật và thuyết tiến hóa của Darwin biểu hiện chân lý tối hậu mà không có hiểu biết nào có thể vượt qua. Lẽ tất nhiên, đây là một ảo tưởng, như lịch sử đã chứng minh. Đã có nhiều giai đoạn trong lịch sử khoa học khi các khoa học gia, ít nhất là các khoa học gia duy vật, đã nghĩ rằng họ đã đạt được hiểu biết tối hậu, tỷ dụ như của các định luật vật lý học. Lúc nào cũng đã có một hiểu biết cao hơn xuất hiện và thay thế hiểu biết cũ. 

Như các thày có nói, các định luật của Newton đã không trở nên vô hiệu lực, nhưng niềm tin các định luật của Newton mô tả sự vận hành cơ bản của bộ máy hoàn vũ đã được thay thế bởi một hiểu biết cao hơn dưới dạng thuyết tương đối (relativity) và vật lý lượng tử (quantum physics). Nhiều khoa học gia đương thời biết rằng thuyết tương đối và vật lý lượng tử là hai thuyết không tương hợp. Lẽ tự nhiên, hiện trạng này không thể là hiểu biết cao nhất. Rốt cuộc sẽ có một lý thuyết về mọi thứ (theory of everything), tuy rằng nó cũng sẽ không bao giờ đầy đủ. Ít nhất sẽ tới một điểm có một lý thuyết bao trùm những yếu tố cơ bản về sự vận hành của thế giới.

Tuy nhiên, thuyết này nhất định phải bao gồm tâm thức. Lẽ tất nhiên các thày cảm thấy khích lệ là một số khoa học gia đã bắt đầu nhìn nhận chuyện này và thăm dò ý nghĩa là gì và một lý thuyết khoa học bao gồm tâm thức sẽ như thế nào, khi lý thuyết này không coi tâm thức như một hiện tượng nằm trên sự vận hành của não bộ mà là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Các khoa học gia này đã bắt đầu công nhận là vũ trụ không thể xuất hiện nếu không có một hình thức nhận thức nào đó, mà một số đã gọi là “tác nhân có nhận biết”.

Nếu con đã tiếp thu bất cứ giáo dục cao đẳng nào thì một việc xây dựng mà con có thể làm là xem xét các ngã tách biệt mà con đã có thể tạo ra khi con đáp ứng với môi trường tư duy đó. Nó phóng chiếu đến con là mục đích của nếp sống hàn lâm là tích lũy hiểu biết và dữ liệu cho tới khi đạt được một hiểu biết tối hậu nào đó.

21.8. Tổng thể hơn các thành phần cộng lại

Con cũng có thể được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã bị lập trình, nói theo nghĩa bóng, bởi nền giáo dục cao đẳng để theo phương pháp giản hóa (reductionist), đã có từ thời Aristotle. Ông này đưa ra quan điểm nếu ta nên nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo thế giới vật chất thì rốt cuộc ta sẽ tới được các thành phần cơ bản của vật chất. Khi ta hiểu được cách các thành phần này vận hành thì ta hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành. Đây là phương pháp đã hướng dẫn khoa học từ rất lâu nay, nhưng phương pháp này hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Con không thể xem xét một tổng thể, tỷ dụ như thân thể con người, và hiểu được cách nó vận hành bằng cách xem xét các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo nên nó, như các tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản. Chắc chắn là cơ thể được cấu tạo bởi hạt cơ bản, nhưng con có thực sự tin rằng – và đúng là các nhà duy vật tin điều này, nhưng có phải vậy mà tin tưởng này có giá trị? – nếu con hiểu tất cả mọi chuyện có thể hiểu về các tỷ tỷ hạt cơ bản cấu tạo thân thể vật lý, thì một ngày kia con sẽ giải thích được vì sao con thích sôcôla hơn các loại kẹo khác? Làm sao mà thông tin này có thể được ghi mã vào các hạt cơ bản? Nhưng đó là một phần của đời sống của một con người, vì theo câu ngạn ngữ nhân gian, tổng thể hơn các thành phần cộng lại. Do đó, nếu con muốn hiểu tổng thể thì con cần nhìn vào, nghiên cứu tổng thể, thay vì chỉ nghiên cứu các thành phần. Lẽ dĩ nhiên, nếu con muốn hiểu con người vận hành ra sao thì con phải nghiên cứu tâm con người. Con phải nghiên cứu tâm thức.

Khoa học gia đã quy định cái mà họ gọi là bài toán khó khi nghiên cứu tâm thức, đó là: Làm sao các thành phần không có nhận thức cấu tạo não bộ vật lý lại có thể tạo ra trải nghiệm có nhận thức? Đây chỉ là một bài toán khó khi họ tiếp cận vấn đề với tầm nhìn duy vật. Tâm thức không do các thành phần của não bộ tạo ra. Tâm thức là một cái gì độc lập với não bộ có thể tương tác với não bộ, và phần nào nhập chung vào não bộ, nhưng não bộ không tạo ra tâm thức. Chính tâm thức đem lại sinh hoạt và sự sống cho não bộ và thân thể vật lý. Con sẽ không bao giờ hiểu được con người bằng cách xem xét não bộ.

21.9. Tâm thức là gì?

Con cần xem xét tâm thức, là lẽ tất nhiên câu hỏi đặt ra là: Tâm thức là gì? Tâm thức có thể được xem là thực tại nền bên dưới mọi sự, nhưng con không thể hiểu tâm thức nếu con chỉ nhìn nó như thực tại nền. Tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng. Ở một tầng, ta có thể nói tâm thức là cái có tiềm năng mang hình tướng và duy trì hình tướng trong một khoảng thời gian, và đây là loại tâm thức đưa đến sự hiện diện của các vật vô tri giác.

Sau đó có một tầng tâm thức cao hơn biểu lộ như các hình tướng sống, các sinh thể, có sự sống, có khả năng thay đổi, thích nghi với môi trường, sinh sản. Tầng tâm thức này kích động tiến trình mà khoa học gia gọi là tiến trình tiến hóa, một tiến trình mà họ cho là vô thức. Tiến trình này không thực sự vô thức, vì làm sao một sinh vật có thể thích nghi với môi trường khi nó không có một dạng tâm thức cho nó khả năng nhận tín hiệu từ môi trường và điều chỉnh cách cư xử của nó theo tín hiệu? Thậm chí tiến trình tiến hóa cũng không là một ti