Giáo lý nền tảng về tình dục và đồng tính luyến ái

Hỏi (Kim Michaels): Thưa thày Giê-su, gần đây người ta chú ý rất nhiều đến vấn đề đồng tính luyến ái, kể cả sự kiện một số tiểu bang tại Hoa kỳ có thể công nhận hôn nhân đồng tính, giáo hội Episcopal có thể bầu lên một vị giám mục đồng tính và Tối cao Pháp viện có thể bác bỏ luật chống dâm loạn của tiểu bang Texas. Gần đây, có một tham dự viên đặt câu hỏi là liệu linh hồn của anh đã được Thượng đế sinh tạo ra như một linh hồn đồng tính hay không. Một số khuôn mặt đồng tính nổi tiếng có tuyên bố rằng Thượng đế đã sinh tạo ra họ như là người đồng tính. Thày có nhận xét gì về điều này?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đón nhận cơ hội được bình luận về một đề tài đã gây rất nhiều bối rối và chia rẽ trong xã hội. Sự chia rẽ và hiềm khích thật là không cần thiết và chỉ có thề xoa dịu được qua sự hiểu biết đúng đắn. Ta có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là Thượng đế không bao giờ tạo ra linh hồn nào là một linh hồn đồng tính luyến ái. Lý do là vì Thượng đế không tạo ra linh hồn.

Để hiểu được điều này, con cần suy ngẫm những giáo lý của ta về mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và cỗ xe 4 lớp hay cỗ xe linh hồn. Một khi con lãnh hội những giáo lý này, con sẽ thấy Hiện diện TA LÀ không chỉ là nam hay là nữ mà mang sẵn cả hai phẩm cách. Cũng vậy, cái Ta Biết không là nam hay nữ bởi vì nó là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không mang một sự phân biệt nào cả – nó đã được tạo ra để làm cánh cửa mở, làm tấm kính trong suốt cho Hiện diện TA LÀ.

Cho nên toàn bộ vấn đề tình dục của con người chỉ hiện diện ở cấp độ của cỗ xe linh hồn gồm có 4 lớp. Và như ta đã giải thích, cỗ xe này không do Thượng đế tạo ra: nó do cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu đạt qua trung gian một thân xác vật lý. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, cỗ xe linh hồn được con người tạo ra do họ đã chọn bước vào tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con chỉ có thể xem mình là một sinh thể tách biệt bằng cách bước vào tấm màn của nhị nguyên – có nghĩa là bây giờ con nhìn mọi thứ như là những đối cực nhị nguyên hay những cặp đối lập với nhau.    

Ở đây con cần bén nhậy mà nhận ra một sự phân biệt vi tế. Chúng tôi đã có giảng rằng hầu tạo ra thế giới hình tướng khác biệt, Đấng Sáng tạo nhất nguyên đã tự biểu hiện thành hai thái cực. Chúng tôi đã gọi đó là lực lan ra và lực co lại, nhưng để mọi người có thể nắm bắt khái niệm này dễ dàng hơn, chúng tôi cũng có gọi đó là nam và nữ. Con cần lưu ý, ngôn từ trên địa cầu không phải lúc nào cũng có khả năng bộc lộ đầy đủ những khái niệm tâm linh như thế, có nghĩa là con không thể chuyển bừa bãi khái niệm tình dục của con người vào hai thái cực cơ bản của Thượng đế. Và đương nhiên, Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm giới tính của con người.       

Con cũng cần lưu ý rằng bản chất của tâm thức nhị nguyên và tự ngã là luôn luôn muốn ép uổng đặc tính của con người vào Thượng đế. Tự ngã sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng một tâm ảnh về thế giới, rồi phóng chiếu tâm ảnh đó lên mọi thứ. Tự ngã tìm kiếm sự minh chứng tối hậu cho tâm ảnh của nó bằng cách phóng chiếu tâm ảnh này lên Thượng đế, và nó bảo rằng chính Thượng đế đã tạo ra tâm ảnh đó, hay rằng tâm ảnh không phải là tâm ảnh mà chính là thực tại của Thượng đế. Đây chính là cơ sở của hầu hết mọi tôn giáo cũng như của mọi xung đột giữa các tôn giáo.

Cho nên quả thực là có hai thái cực, nhưng tự ngã và tâm thức nhị nguyên không thể nhìn ra được hai thái cực đó trong dạng thuần khiết. Tâm thức nhị nguyên chỉ làm được một chuyện là làm tha hóa hai phẩm cách đó, nghĩa là thay vì bổ sung cho nhau thì bây giờ cả hai có vẻ chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Rồi tự ngã phóng chiếu hai đối cực tha hóa này lên nguyên bản mà cứ tưởng đó thật sự là bản chất của Thượng đế.    

Vì vậy, đúng là có hai thái cức thiêng liêng, nhưng cả hai đều vượt khỏi và vượt lên trên mọi ý niệm giới tính của con người. Điều này có nghĩa là con không thể hiểu được trọn vẹn tình dục con người trừ khi con cũng hiểu biến cố sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, và sự sa ngã này đã tác động sâu đậm như thế nào lên mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu.

Như chúng tôi có giảng dạy, ở nguyên thủy, địa cầu do các Elohim tạo ra vốn ở một trạng thái cao hơn, tinh khiết hơn so với bây giờ. Ngay cả vật chất cũng không dày đặc, nghĩa là những thể mà các con gọi là vật thể vật lý cũng không dày đặc như bây giờ. Khái niệm Vườn Eden biểu tượng cho một trạng thái nơi các dòng sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của mình duy qua quyền năng của tâm mình. 

Trong trạng thái nguyên thủy đó, xác thân không có bộ phận sinh dục. Xác thân nguyên thủy được tạo bằng năng lượng cao tần hơn cơ thể vật lý của các con, và xác thân được làm bằng năng lượng tuy là vẫn có thể chất. Vào thời đó không có nhu cầu tạo ra xác thân mới ở cùng một độ rung, bởi vì “vật chất” – hay thể chất – rất thanh nhẹ, và vì vậy chỉ cần vận dụng quyền năng tâm trí là có thể tạo ra xác thân mới. Các dòng sống trong Vườn Eden vẫn khác biệt trong phẩm cách nam và nữ, tuy nhiên điều này vượt ngoài mọi giới tính vật lý.    

Sau khi sa ngã vào nhị nguyên, vật chất đặc lại – theo đúng nghĩa đen như vậy. Cùng lúc, các dòng sống đi vào nhị nguyên cũng đánh mất quyền năng tâm trí đang cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu sinh sống cho mình. Sự kiện này được phác họa qua câu chuyện của Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Địa đàng, và thay vì được tha hồ hái quả trên cây thì bây giờ họ phải “đổ mồ hôi trán” mà tự nuôi lấy thân mình.      

Quá trình sa ngã này khá phức tạp, cho nên để khỏi lạc đề, ta sẽ nói giản dị là chỉ sau khi bị sa ngã vào nhị nguyên, con người mới phải khoác lấy cái xác thân dày đặc mà ngày nay các con gọi là cơ thể vật lý. Xác thân này có bộ phận sinh dục do quá trình tiến hóa, như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày. Nói cách khác, chỉ do sự sa ngã vào tâm thức nhị nguyên mà cơ thể vật lý mới được tạo ra nơi cõi vật lý, và do đó sự sinh sản vật lý mới trở nên cần thiết.

Sự thay đổi này tác động sâu xa đến tình trạng của cái Ta Biết, bởi vì bây giờ nó phải tạo ra một cỗ xe linh hồn thì nó mới hội nhập được với cơ thể vật lý dày đặc đó. Trước khi sa ngã, hoàn toàn không có nhu cầu một cỗ xe linh hồn mang giới tính nam hay nữ. Nhưng sau cuộc sa ngã thì sự phân biệt thành cơ thể nam hay nữ trở thành yếu tố định đoạt cơ thể con người.    

Như ta có giảng dạy, con có bốn tầng của tâm, bốn thể phàm. Thể cao nhất là thể bản sắc nơi con xác định ý niệm cơ bản về cái ta của con trong thế giới vật chất. Cho nên sau khi sa ngã, sự phân biệt giữa nam và nữ đã nằm sẵn ngay nơi tầng bản sắc. Hệ quả là ngay khi dòng sống bước vào hiện thân vật lý, nó bắt đầu tự nhận diện nó thuộc về giới tính nào rồi. Chẳng hạn, một dòng sống có thể sống nhiều kiếp trong một cơ thể nam giới. Có nghĩa là đối với một dòng sống tương đối “mới”, giới tính sẽ trở thành một thành phần chủ yếu trong bản sắc của nó, và nó thường sẽ tự nhận mình là một linh hồn có giới tính nam hay nữ.

Con hãy ghi nhận một điểm sâu sắc ở đây. Sự kiện cơ thể có sự khác biệt giữa nam và nữ có thể là một điểm gợi ý cho con về tâm thức nhị nguyên. Như ta đã nói, tâm thức nhi nguyên đã làm tha hóa hai thái cực thiêng liêng nguyên thủy, tạo ra sự mất cân bằng. Sự tha hóa này được thể hiện trong cơ thể qua bộ phận sinh dục nam và nữ, và sự sống mới chỉ có thể ra đời khi cả hai cơ thể nam lẫn nữ kết hợp với nhau. Ý nghĩa sâu kín là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con trở thành một sinh thể không trọn vẹn. Trong nhị nguyên, con sẽ không bao giờ được trọn vẹn, và đó là lý do người ta luôn luôn cảm thấy lẻ loi, thiếu sót. Sự kiện con phải kết hợp với một cơ thể khác phái để tạo ra sự sống mới là biểu tượng cho con thấy con phải tìm được một sự cân bằng thiêng liêng giữa hai phẩm cách nam và nữ hầu đạt đến trạng thái viên mãn tạo sinh ra sự sống mới trong tâm thức Ki-tô. Con cần kết hợp lại hai thứ mà con hiện xem là đối cực và giải quyết sự xung đột giữa cả hai. Cho tới khi nào con còn thiếu cân bằng thì con sẽ không thể thăng vượt đươc cõi vật lý, là nơi con phải làm lụng “đổ mồ hôi trán”.

Mục đích cuộc sống là tăng trưởng tâm thức, dẫn đến những tầng ngày càng cao hơn trong tâm thức Ki-tô, cho đến khi con sẽ thượng thăng vĩnh viễn khỏi địa cầu. Một khía cạnh của tiến trình tăng trưởng này là con phải thăng vượt ý niệm bản sắc thế phàm, tất nhiên kể cả tình dục con người. Ta cũng biết chúng tôi thường hay hiện ra là chân sư thăng thiên nam hay nữ, và nói chung chúng tôi hay chọn biểu hiện những đặc tính chủ yếu là nam hay nữ. Tuy nhiên những đặc tính này của chúng tôi vượt khỏi mọi giới tính nơi trần thế, và điều này có nghĩa là con phải thăng vượt tình dục nhị nguyên của con người thì con mới thăng thiên được.

Nói cách khác, con có thể khoác một cơ thể nam trong kiếp chót của con trước khi thăng thiên, nhưng con sẽ không thăng thiên được nếu con tự xem mình là một linh hồn phái nam. Con sẽ chỉ thăng thiên khi nào con đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa hai phẩm cách thiêng liêng nam và nữ hầu con không đồng hóa với một phẩm cách nào. Vậy thì làm thế nào con sẽ đạt được sự cân bằng này? Phải rồi, bằng cách con thăng vượt mọi khái niệm nhị nguyên thế phàm của nam lẫn nữ.

Khi dòng sống trưởng thành hơn, y sẽ phải tu thân để khắc phục sự đồng hóa nguyên thủy của y với một giới tính. Có nghĩa là một dòng sống đang trưởng thành sẽ sống qua một giai đoạn khi y sẽ luân phiên đầu thai trong cơ thể nam và nữ. Một số dòng sống sẽ thay đổi giới tính mỗi kiếp đầu thai, trong khi đó thì một số khác sẽ đầu thai ba kiếp liền trong một giới tính rồi mới thay đổi. Nhưng con nắm được vấn đề chứ, phải không? Mục đích là để giúp con vượt qua sự tự đồng hóa với tình dục con người hầu con không định nghĩa bản sắc của mình dựa trên giới tính nữa, mà con xem mình là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi giới tính con người – mặc dù con vẫn tự biểu đạt qua trung gian một cơ thể nam hay nữ.  

Vấn đề là đối với một số dòng sống, việc vượt qua giới tính của mình tương đối dễ dàng, trong khi đối với một số khác, việc này khó hơn nhiều. Thật ra đối với một số dòng sống, đó sẽ là việc cuối cùng họ sẽ phải vượt qua trước khi thăng thiên. Có nghĩa là, chẳng hạn, sẽ có khả năng một dòng sống khoác lấy một cơ thể nam trong khi chưa buông bỏ được sự đồng hóa với một linh hồn nữ. Nói cách khác, họ mang cơ thể nam nhưng vẫn duy trì sự hấp dẫn tình dục đối với cơ thể nam mà họ đem theo từ tiền kiếp. Điều này dẫn đến một số vấn đề mà họ gặp phải trong tình dục, từ lưỡng tính (bisexuality), đổi giới tính (transsexuality) cho đến đồng tính (homosexuality).    

Điều khiến cho toàn bộ cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái trở nên rắc rối là vì trong một thời gian rất dài, những người theo tôn giáo đã định nghĩa đồng tính là một tội lỗi. Điều này khiến cho một số dòng sống phải cố bênh vực sự đồng tính của mình, một phần vì họ nhận ra là họ đã sinh ra với khuynh hướng đó, và phần khác là do lòng tự ái không muốn buông bỏ tình trạng này. Nhưng điều ta muốn nói ở đây là để tăng trưởng tâm linh và thăng thiên, con phải vượt lên trên TẤT CẢ mọi loại tình dục của con người. Cho dù con đồng tính hay dị tính (heterosexual), thì con vẫn phải bỏ lại đằng sau cái xu hướng tự nhận diện mình theo giới tính của cơ thể vật lý. Và khi nào con còn tìm cách biện hộ cho tình dục của con trong một cuộc tranh cãi nhị nguyên chống lại người khác – và những người này thì cũng bị kẹt trong nhị nguyên y như con – con sẽ không thể bỏ nó lại đằng sau.  

Con không thể thăng vượt một cái gì mà con cố bênh vực. Con chỉ có thể thăng vượt được một cách mà thôi, là buông bỏ tất cả mọi sự đồng hóa với một điều kiện nào đó. 

Kim Michaels: Đây là một lời giải thích vô cùng thâm sâu về một vấn đế đã khiến cho rất nhiều người đạo Cơ đốc bị bối rối. Vì họ nghĩ rằng linh hồn là do Thượng đế tạo ra, cho nên họ không thể hiểu được tại sao họ lại đồng tính nếu quả thật ngài đã không tạo ra người đồng tính? Điều này cũng giải thích tại sao nhiều người tin rằng họ có thể sinh ra là người đồng tính.

Giê-su: Sự lầm lẫn này bắt nguồn từ sự kiện giáo hội Cơ đốc chính thống cách đây 1500 năm đã quyết định nghiêm cấm và xem là tà giáo ý tưởng bảo rằng linh hồn đã tồn tại từ trước. Cho nên suốt 1500 năm trời, nền văn hóa phương Tây đã bị chi phối bởi một hệ tư tưởng, một hệ tín ngưỡng, bác bỏ luân hồi và đầu thai. Như ta có giải thích ở nhiều nơi trên trang mạng này, đây là một quyết định chính trị sai lầm đã gây ra biết bao nhầm lẫn trong thế giới phương Tây. Sự thật giản dị là nếu con không chấp nhận linh hồn đã tồn tại rất lâu trước khi nó hiển thị trong kiếp đầu thai này, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi mà con không thể tìm được lời giải đáp ổn thỏa. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong vô số những câu hỏi như thế.

Có một sự hiểu lầm rất phổ biến về đồng tính cũng như về rất nhiều điều kiện khác của con người, cho rằng – trong một nghĩa nào đó – con người là nạn nhân của các điều kiện đó. Quá nhiều người tin rằng điều kiện đó là kết quả của một số yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, là điều kiện bị áp đặt từ bên ngoài, và bây giờ mình không có chọn lựa nào khác hơn là phải chung sống với nó.

Đây là một lời ngụy biện. Đây là một lời gian dối. Đây là một trong những lời gian dối hiểm độc nhất có thể tìm thấy trên địa cầu – là lời gian dối rằng con người là nạn nhân của một số thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thay vì chính mình là tác giả của số phận của mình.   

Một trong những điểm chủ yếu mà ta cố gắng trình bày trên trang mạng này là chính con người do sự chọn lựa của mình đã tạo ra những điều kiện hiện tại. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết, đơn giản là ngài sẽ không thể thay đổi được tình trạng khốn khổ hiện nay trên địa cầu. Nổi khốn khổ này chỉ có thể được xóa bỏ một khi con người, một cách ý thức và cố tình, khởi sự có được những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ.

Rõ ràng, hầu hết mọi người đều không ý thức được những chọn lựa mà mình đã có trong quá khứ, và do đó họ không thấy được là họ đã tạo ra hoàn cảnh hiện thời của họ. Ta vô cùng thương cảm loài người và ta hiểu rõ tại sao con người lại cảm thấy mình là nạn nhân. Tuy nhiên mục đích của trang web này – cũng như của mọi giáo lý tâm linh chân truyền khác – là để giúp con người bước lên cao hơn trong tâm thức. Sự thật tàn bạo là con không thể tăng triển tâm linh khi nào con vẫn còn xem con là nạn nhân.    

Con chỉ có thể tăng triển bằng cách nhận ra rằng con có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Nhưng sự công nhận này chỉ đến được khi nào con chấp nhận rằng hoàn cảnh của con là kết quả những lựa chọn đã qua bởi cái Ta Biết của con. Chỉ khi nào con chấp nhận điều này thì con mới có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Con có thể làm được chuyện này bằng cách lựa chọn tốt hơn, và chìa khóa để chọn lựa tốt hơn là giải quyết những tin tưởng lầm lạc cùng những vết thương tâm lý đã khiến con có những chọn lựa gây giới hạn trong quá khứ.  

Kim Michaels: Như vậy có phải chăng là thày nói rằng nếu không chấp nhận luân hồi và đầu thai thì sẽ không thể giải thích được nguyên nhân của đồng tính?

Giê-su: Đồng tính luyến ái phát xuất từ một lựa chọn của cái Ta Biết. Lựa chọn này đã không xảy ra trong bụng mẹ hay ngay cả trong kiếp này, mà đã xảy ra cách đây rất lâu, và đối với hầu hết mọi dòng sống, lựa chọn đó đã xảy ra ngay sau khi dòng sống nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn luôn luôn là một tiến trình lần hồi. Nó lần hồi đến độ đa số dòng sống không nhận thức được là nó đang diễn ra. Thực tế là một số dòng sống hiện vẫn chưa nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên, nhiều dòng sống sẽ trải qua một giây phút sáng ngộ khi họ nhận ra rằng họ đã đánh mất một cái gì đó mà trước kia họ vốn có. Họ có một “kinh nghiệm chấn động” khi họ nhận ra là họ đã bị rớt khỏi trạng thái ân sủng, và vấn đề giờ đây là họ phải cần làm gì để đáp ứng lại trải nghiệm đó.     

Khi một dòng sống nhận ra làm mình đã sa ngã, y có thể phản ứng nhiều cách. Một số dòng sống sẽ nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và họ cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn họ tới một trạng thái tâm thức cao hơn nơi họ bắt được liên lạc ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đây chính là con đường tâm linh mà ta mô tả suốt trang mạng này.

Một số dòng sống khác sẽ từ chối nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình, khiến họ phản ứng lại bằng hai cách, và cả hai cách đều có thể dẫn đến đồng tính luyến ái. Trong cách thứ nhất, một số đổ lỗi cho khía cạnh nữ trong bản chất của mình đã khiến cho mình sa ngã. Một trong những đặc tính của khía cạnh nữ là giúp con thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, thế nhưng khi con thích nghi quá trớn, con có thể làm tổn hại đến cá thể thiêng liêng của con, và đây chính là lý do khiến cho nhiều dòng sống rơi vào nhị nguyên. Sự thể này phát triển thành sự thù ghét khía cạnh nữ của Thượng đế, thù ghét Mẹ, và được trình chiếu ra thành sự thù ghét phụ nữ nói chung, hay một hình thức nhẹ hơn là sự cảm nhận tiêu cực về phụ nữ.

Sự thù ghét khía cạnh nữ này khiến cho cỗ xe linh hồn bị vỡ đôi. Linh hồn không thể viên mãn và quân bình được nếu không có sự phân cực đúng đắn giữa hai yếu tố nam và nữ trong bản chất của nó.   

Một số dòng sống dần dần cảm thấy ghê tởm nữ giới và họ thường chọn đầu thai làm người nam giới đồng tính. Một số khác nảy sinh mong muốn trừng phạt hay khuất phục nữ giới, và họ thường đầu thai làm những người nam dị tính có khuynh hướng săn lùng tình dục hoặc đề cao phái nam quá đáng. Trong những trường hợp cùng cực, họ có thể trở thành kẻ hiếp dâm hay thậm chí kẻ giết người hàng loạt. Hoặc đỡ hơn một chút, họ trở thành những kẻ săn lùng tình dục, sử dụng phụ nữ làm nô lệ cho mình – không cứ là để thoả mãn tình dục tức thì mà để trừng phạt phụ nữ. Xuyên qua các thời đại, tệ trạng này đã gây ra không biết bao nhiêu sự lạm đụng đối với phụ nữ.    

Trong cách thứ nhì, một số dòng sống cũng nhận ra rằng chính khía cạnh nữ của họ đã sa ngã, nhưng họ lại đổ lỗi cho khía cạnh nam của họ. Họ cho rằng khía cạnh nam này đáng lý đã phải ngăn chặn được khía cạnh nữ chạy theo thế gian. Và họ trở nên căm thù Cha, hay khía cạnh nam củaThượng đế. Họ đeo đuổi mong muốn trừng phạt khía cạnh nam, và điều này thường biểu hiện qua ý muốn trừng phạt phái nam hay bắt đàn ông phải nhận lỗi.

Một số những dòng sống này chọn đầu thai trong một cơ thể nữ và trở thành đồng tính nữ. Họ biểu lộ lòng căm thù đối với phái nam bằng cách quan hệ tình dục với phái nữ. Nhưng cũng có một số khác chọn đầu thai làm người nữ dị tính, và họ bỏ ra cả đời tìm cách trừng phạt hoặc khuất phục đàn ông. Họ thường sử dụng tình dục hay một số phương thức tâm lý nào khác để khiến cho đàn ông cảm thấy mình thấp kém hơn, hay mình có lỗi. Suốt dòng lịch sử, tệ trạng này đã gây ra rất nhiều thù nghịch giữa hai phái cũng như rất nhiều lạm dụng, chủ yếu là sự lạm dụng tâm lý đối với phái nam.     

Con cần lưu ý là nhiều dòng sống đã cư ngụ trên địa cầu này từ rất lâu đời, cho nên họ đã cơ hội phát triển những nét tâm lý vô cùng phức tạp, qua đó họ đã chôn vùi phản ứng của họ đối với biến cố sa ngã dưới nhiều lớp tin tưởng và vết thương tâm lý. Cho nên khi một người tự xem mình là đồng tính thì điều này cũng có thể mang nhiều yếu tố khác nữa. Và như ta giải thích ở trên, yếu tố thông thường nhất là sự bối rối, lầm lạc của dòng sống đối với bản sắc giới tính của mình, phát xuất từ một bản sắc đã bị đông cứng lại từ nhiều tiền kiếp.   

Nguyên nhân của đồng tính phức tạp hơn mọi điều có thể được trình bày trừ khi viết ra thành nguyên một bộ sách. Cho nên mục đích chính của ta ở đây là chỉ ra cho con thấy rằng cái tiến trình khiến cho một dòng sống tự xem mình là đồng tính đã khởi đầu từ rất lâu trước kia khi y lần đầu tiên phản ứng lại sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.   

Kim Michaels: Vậy có vẻ như đồng tính luyến ái đã không do Thượng đế sinh tạo và do đó không phải là một điều tự nhiên. Thày nghĩ gì khi nhiều người theo Cơ đốc giáo chính thống gán cho đó là một tội lỗi, một chuyện ghê tởm, và họ còn cố khiến cho người đồng tính cảm thấy mình có tội?

Giê-su: Một trong những diễn biến đáng buồn nhất trong 2000 năm qua là sự kiện có quá nhiều giáo hội Cơ đốc đã quên mất – và rời bỏ – một trong những tinh túy trong giáo lý tâm linh của ta, đó là tình thương vô điều kiện. Ta đã chẳng bảo mọi người đạo Ki-tô phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình hay sao? Ta đã chẳng khuyên họ hãy đừng phán xét? Vậy thì tại sao nhiều tín hữu Cơ đốc lại phán xét anh chị em của mình và gán cho họ một tội nặng hơn cả mọi tội khác?    

Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, Giáo hội Công giáo sơ khai đã không đi đúng chủ ý cùng giáo lý nguyên thủy của ta. Vì lý do chính trị, rất nhiều điểm đã bị loại bỏ khỏi giáo lý nguyên thủy của ta, và vì thế Giáo hội không còn khả năng giải đáp rất nhiều câu hỏi mà các tín hữu đặt ra về cuộc sống tâm linh. Các giáo điều chính thống, tự nhận là không thể sai sót, thật sự đã không đem lại được nhiều câu trả lời cho người tầm đạo. Vì lý đo đó, Giáo hội đã rời xa viễn kiến ban đầu của ta về một giáo hội sẽ đem lại những lời giải xác thực và chân chính cho mọi người. Thay vào đó, Giáo hội chỉ đưa ra được một số giáo điều, rồi lại tìm cách doạ nạt để không ai còn dám đặt ra những câu hỏi mà giáo điều chính thức không có khả năng giải thích.

Dần dà, tình trạng này dẫn đến một không khí sợ hãi đầy mặc cảm tội lỗi trong giáo hội. Hiển nhiên điều này đã có nhiều tác dụng tiêu cực, và trong bối cảnh đó, hậu quả là các giáo hội Cơ đốc đã không có phương cách hữu hiệu nào để giúp đỡ người đồng tính. Thay vào đó, giáo hội chỉ còn cách gắn một cái nhãn tội lỗi tày trời cho họ, rồi tìm cách dùng sợ hãi và mặc cảm tội lỗi để khiến họ phải bỏ đi những hành vì đồng tính vỏ ngoài của mình. Tất nhiên, cách trấn áp như vậy không làm gì để giúp cho người đồng tính giải quyết sự mất cân bằng nội tâm đã gây ra đồng tính.

Như ta trình bày ở trên, vấn đề chủ yếu với đồng tính luyến ái là dòng sống không đạt được sự quân bình đúng đắn, sự phân cực đúng đắn, giữa hai khía cạnh nam và nữ, và như vậy, y tự nhận diện mình dựa trên giới tính của cơ thể vật lý. Đúng là đồng tính là một tình trạng bất thường không được Thượng đế tạo ra, và do đó, việc lợi ích nhất cho dòng sống là cố gắng chữa lành. Tuy nhiên sự chữa lành đích thực chỉ có thể xảy ra một khi có sự hiểu biết, tức là khi dòng sống khởi sự tìm hiểu quá trình đã dẫn đến trạng thái tâm thức hiện tại rồi lấy một quyết định ý thức rằng mình sẽ nhận trách nhiệm về tình trạng đó và có những chọn lựa để mà cải thiện tình trạng.   

Ngược lại với chủ ý nguyên thủy của ta, hầu hết mọi giáo hội Cơ đốc đã không có khả năng đem lại được một sự hiểu biết cao hơn về cuộc sống tâm linh, do đó đã không làm sao giúp chữa lành tín hữu của mình, cho dù là trong vấn đề đồng tính hay bất cứ một vấn đề mất cân bằng nào khác gây đau khổ cho con người – kể cả những khổ đau nơi những người bị mất cân bằng trong tình dục dị tính. Thay vào đó, các giáo hội Cơ đốc đã tung đòn sợ hãi pha trộn với mặc cảm tội lỗi, khiến cho con người phải kìm nén sự mất cân bằng của mình, hay thậm chí phủ nhận cả sự mất cân bằng đó.    

Hãy cho phép ta nói thật rõ như ta vẫn làm suốt trang mạng này: con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi là dòng sống phải đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Để đạt được tâm thức này, y phải vượt qua những vết thương tâm lý cùng những tin tưởng sai lầm đã tạo ra vết thương đó ở ban đầu. Công việc này chỉ có thể hoàn thành qua sự hiểu biết ý thức, mà nhờ đó y có thể có những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ. Sự hiểu biết ý thức này, tiến trình chữa lành ý thức này, không có hy vọng nào xảy ra khi nào y vẫn còn làm ngơ hay phủ nhận những mất cân bằng của mình.

Hàng triệu tín đồ đạo Cơ đốc đã khiến mình tin rằng họ sẽ tự động được cứu rỗi bằng cách gia nhập một hội thánh vỏ ngoài, tin tưởng vào một giáo lý vỏ ngoài và tuân thủ các lề lối của giáo hội. Đây là một lời gian dối. Như ta đã giải thích nhiều lần, không hề có sự cứu rỗi nào xảy ra một cách tự động.  

Thực tế đáng buồn là hàng triệu tín đồ Cơ đốc cũng mang cùng những mất cân bằng giữa khía cạnh nam và nữ y hệt như những người công khai đồng tính luyến ái. Rất nhiều những tín đồ này đã chỉ đơn giản dồn nén hay phủ nhận những mất cân bằng đó. Ta đã nhìn thấy quá nhiều nam tín hữu đạo Cơ đốc lên án kịch liệt sự đồng tính nơi người khác, nhưng chính họ lại không nhận ra sự căm ghét phụ nữ ở nơi họ khiến họ đã lấn át hay thậm chí ngược đãi vợ mình. Họ cho rằng bởi vì họ có một đời sống ngoan đạo bề ngoài thì họ không hề mang tội lỗi. Nhưng sự thật là chính họ cũng mang cùng sự mất quân bình như những người mà họ lên án.   

Ta thấy nhiều phụ nữ đạo Cơ đốc cũng công khai lên án người đồng tính, thế nhưng họ cũng bị mất quân bình khi họ khuynh đảo chồng mình qua mặc cảm tội lỗi hay sự từ chối chiếu cố tình dục. Quả thật đây là một ví dụ của những kẻ không thấy được cái xà trong mắt mình.

Kim Michaels: Còn phe bên kia cuộc tranh luận thì thế nào, chẳng hạn như phong trào đòi quyền cho người đồng tính, hay người tranh đấu để xã hội công nhận đồng tính luyến ái là bình thường, hợp pháp?

Giê-su: Ta đã nỗ lực giảng giải qua sự hiểu biết cao hơn và không sử dụng sợ hãi hay mặc cảm tội lỗi, rằng đồng tính không phải là do Thượng đế tạo ra. Vì vậy, đồng tính không là chuyện tự nhiên, và sẽ thật là đáng tiếc nếu đồng tính trở thành một chuyện bình thường trong xã hội, hay xã hội xem đó là chuyện bình thường.

Sự thật đơn giản, một sự thật mà không một luận lý nào của con người có thể thay đổi được, là dòng sống sẽ được lợi ích nhất nếu y chữa lành sự mất cân bằng đã tạo ra tình trạng đồng tính (cũng như mọi sự mất cân bằng khác).

Việc tranh đấu cho đồng tính luyến ái được công nhận là một lối sống bình thường hay tự nhiên, sẽ không giúp cho dòng sống chữa lành. Nó sẽ chỉ khiến cho y càng trở nên cố định trong lối sống của mình và đi giật lùi trên con đường tâm linh. Ta là một vị thày tâm linh, và ta không tán thành bất kỳ biện pháp nào sẽ ngăn trở bước tiến tâm linh của con người.

Kim Nichaels: Thày nghĩ gì về lời tuyên bố của một số tín hữu Cơ đốc cho rằng đồng tính là một cái tội sẽ bị Thượng đế trừng phạt?

Giê-su: Nếu con đọc kinh Cựu ước, con sẽ tìm thấy trong đó có những nhóm người đã đánh mất sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về các Quy luật của Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, Thượng đế đã phải phái xuống một vị tiên tri để đánh thức họ dậy hầu họ nhìn thấy cách cư xử điên rồ của họ, nhưng bởi vì trạng thái tâm thức của con người thời Cựu ước không cao lắm, cho nên vị tiên tri thường phải bảo rằng nếu họ không thay đổi cách sống thì họ sẽ bị Thượng đế trừng phạt.

Như ta có giải thích ở nơi khác, đời sống tâm linh trên hành tinh này đã có tiến bộ, và con người thời nay lẽ ra phải hiểu biết rành mạch hơn về các quy luật tâm linh cũng như vật chất mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo vũ trụ. Nếu con người phát triển được hiểu biết này thì họ cũng sẽ nhận ra rằng Thượng đế không hề trừng phạt con người. Chính con người tự trừng phạt mình do đã vi phạm luật của ngài. Và con người vi phạm các quy luật này vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi họ không còn nhận rõ được các quy luật này nữa. Họ không thấy được là lợi ích lớn nhất cho họ – là chính tư lợi của họ nếu họ sáng suốt – là họ cần tuân thủ các quy luật đó.

Nhưng vì họ đã bước xuống nhị nguyên, họ cứ tưởng rằng họ có thể định đoạt mọi thứ theo cách nhìn tương đối của họ. Họ mất hẳn liên lạc với các quy luật thiêng liêng mà cứ đinh ninh rằng mình sẽ không bị hề hần gì khi mình vi phạm luật của Thượng đế. Khi con người chìm sâu hơn vào trạng thái tâm thức này, họ thường bắt đầu dựng lên một hệ tư tưởng đi ngược lại quy luật Thượng đế, và họ cảm thấy hệ tư tưởng này cũng hữu lý lắm chứ. Nhưng hệ quả cùng cực là khi họ khiến cho xã hội phải chính thức công nhận một hệ tư tưởng không phù hợp với quy luật Thượng đế.   

Con cần lưu ý, chuyện này có thể xảy ra cho bất kỳ nhóm người nào. Chẳng hạn, một quy luật của Thượng đế là luật yêu thương. Như ta trình bày ở trên, nhiều tín hữu Cơ đốc đã quên mất và đi lạc khỏi quy luật này, và vì vậy họ đã dựng lên một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, mặc cảm và xét đoán. Nhưng ở phía bên kia cũng có một nhóm người tuy hiểu được quy luật yêu thương, nhưng lại không hiểu rõ một số quy luật khác, để rồi nhân danh tình thương, họ bắt đầu tin rằng xã hội phải dung thứ hầu hết mọi loại hành vi cư xử.  

Điểm ta muốn nói là đồng tính luyến ái không phải là tự nhiên, và do đó nó không phù hợp với các quy luật củaThượng đế. Hiển nhiên, một xã hội có thể đi ra ngoài quy luật Thượng đế để mà ban hành những đạo luật dân sự vi phạm trực tiếp luật của Thượng đế. Phải, điều này đã từng xảy ra với rất nhiều xã hội trong quá khứ, tuy nhiên ta cần nói rõ với con rằng tất cả mọi xã hội làm như vậy đã đều tự hủy diệt. Con không thể xây dựng một xã hội ổn định và lâu dài trừ khi xã hội đó hòa hợp với quy luật của Thượng đế. Nếu con đi ngược lại thì chắc chắn có ngày con sẽ phải thức tỉnh để đối mặt với một sự thật phũ phàng, và xã hội của con sẽ bắt đầu tự hủy – hoặc từ bên trong, hoặc từ bên ngoài do kẻ ngoại xâm. Đây chính là lý do mà nhiều xã hội chẳng hạn như Đế quốc La Mã, đã phải sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi nó lạm dụng quy luật và năng lượng của Thượng đế.   

Tuy nhiên con cũng cần lưu ý quy luật cơ bản nhất của Thượng đế, là quyền tự quyết. Mọi dòng sống đều bước đi trên con đường trở về với Thượng đế. Họ bước đi bằng cách thực hiện quyền tự quyết của mình, và đối với một số dòng sống, họ đã dùng quyền tự quyết để tự nhận mình là người đồng tính. Như ta đã giải thích, đây là một tình trạng mất quân bình, nhưng hầu hết mọi người khác cũng đều ở trong một tình trạng mất quân bình nào đó. Cho nên ta sẽ không như hầu hết người đạo Cơ đốc định nghĩa đồng tính luyến ái là một tội lỗi – chứ chưa nói đến một tội tày trời.

Một lần nữa, mọi người đều có toàn quyền đi những bước mà họ cần đi để vượt thăng một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu một dòng sống cần xem mình là người đồng tính trong một hay vài ba kiếp, thì điều này không có gì tệ hơn hay tốt hơn rất nhiều những sự mất cân bằng khác của con người. Tự ngã luôn luôn định nghĩa những ai khác mình đều là xấu cả, và cho tới khi mình nhìn thấu được và vượt qua xu hướng này thì con người không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là tại sao ta bảo mọi người đừng nên xét đoán dựa trên vẻ ngoài. Đồng tính luyến ái chỉ đơn giản là một vẻ ngoài mà cái Ta Biết đã chọn khoác lên, và rốt cuột thì hầu hết mọi dòng sống cũng sẽ có ngày chọn cởi nó ra.   

Kim Michaels: Vậy thì hình như thày đang nói rằng cả hai bên đều không nắm được sự thật trọn vẹn trong vấn đề này?

Giê-su: Như ta có giải thích trong bài giảng về sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, gần như bất kỳ cuộc tranh luận nào cũng bị phân ra làm hai đối cực. Trong nhiều trường hợp, cả hai đối cực đều do các thế lực muốn thao túng xã hội định đoạt. Vấn đề là rất nhiều người tốt lành lại bị rơi vào bẫy của một trong hai đối cực, và điều quan trọng là con cần hiểu tại sao.

Ta muốn nói thật rõ là ta không hề lên án hay xét đoán một ai cho dù cách cư xử bề ngoài hay những tin tưởng của họ có là gì đi nữa. Do đó ta không lên án hay phán xét những ai tham gia vào cuộc tranh luận này, bất kể họ đứng bên phe nào. Nhưng ta cũng thấy rất rõ rằng cả hai bên đều tiếp cận vấn đề này một cách mất quân bình. Sự thể này xảy ra là vì có quá nhiều người không đạt được sự quân bình đúng đắn giữa ba phẩm cách cơ bản của Thượng đế, là quyền năng, minh triết và tình thương.

Ta đã có nói về sự kiện nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đi trệch ra ngoài quy luật của tình thương. Điều xảy ra cho nhiều người là họ đã phát triển một sự hiểu biết và một lòng tôn sùng khía cạnh quyền năng của Thượng đế. Họ tôn sùng các quy luật của Thượng đế và họ mong muốn xã hội phải tuân thủ các quy luật này y như cách của họ nhìn xuyên qua giáo lý hiện thời của đạo Cơ đốc. Nhưng tiếc thay, họ không nhận ra là giáo lý này thật thiếu sót, và trong nhiều trường hợp lại còn không phù hợp cả với quy luật của Thượng đế, mà rõ ràng nhất là tình yêu của Thượng đế. Những tín hữu này thấy rõ đồng tính vi phạm luật Thượng đế – một quan điểm đúng đắn – nhưng bởi vì họ không đủ tôn sùng tình yêu Thượng đế, cho nên họ biến quan điểm của họ thành một thái độ phán xét đối với những ai công khai nhìn nhận xu hướng đồng tính của mình.

Ở bên kia cuộc tranh luận, con cũng tìm thấy nhiều người tốt lành đã phát triển một sự hiểu biết sâu xa và sự tôn sùng khía cạnh tình yêu Thượng đế. Họ thực sự hiểu được nhu cầu phải yêu thương người lận cận như chính mình. Thế nhưng vì không đủ lãnh hội khía cạnh quyền năng của Thượng đế, cho nên họ cũng rơi vào cái bẫy là cứ đinh ninh rằng tình thương vô điều kiện có nghĩa là sự chấp nhận bừa bãi mọi cách hành xử trong đời. Họ nghĩ rằng họ phải dung thứ mọi người cho dù người đó đang rõ ràng vi phạm quy luật Thượng đế.

Cách duy nhất có tiềm năng kéo cuộc tranh luận ra khỏi hai đối cực nói trên và đưa trở về điểm thăng bằng là phải có nhiều người hơn phát triển được sự tôn sùng đối với khía cạnh minh triết của Thượng đế. Chính qua khía cạnh này mà con người mới có khả năng phát triển một sự hiểu biết cho phép họ đứng ngoài cả hai cực đoan. Vì thế mới có câu vô cùng quan trọng: “Hãy sử dụng mọi thứ mà con có để được sự hiểu biết” (Proverbs 4:7).

Một cách tiếp cận cân bằng cho vấn đề này là nhìn nhận đồng tính luyến ái là một điều không tự nhiên. Đó là một tình trạng gây ra bởi sự mất quân bình nơi dòng sống. Không một dòng sống nào có thể đạt được hạnh phúc tối hậu và sự viên mãn tâm linh khi còn duy trì sự mất quân bình đó. Vì vậy, một dòng sống chân thành nỗ lực phát triển tâm linh cần phải nhìn nhận là mình có nhu cầu chữa lành sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ của mình. Một khi đã nhìn nhận và chấp nhận, con cũng sẽ nhận ra cùng sự mất quân bình đó nơi nhiều dòng sống khác chứ không cứ chỉ nơi những người đồng tính công khai. Thật ra, nhiều dòng sống không có khuynh hướng đồng tính cũng bị mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ.   

Một khi con hiểu ra điều này, con cũng sẽ hiểu là việc kiến tạo một xã hội nơi đồng tính luyến ái được công nhận hay hợp pháp hóa, không phải là việc đúng đắn. Tuy nhiên con cũng nhận ra rằng một xã hội phán xét, lên án hay phân biệt đối xử đối với các xu hướng tình dục của con người, cũng không đúng đắn. Nói cách khác, một xã hội lý tưởng sẽ không hợp pháp hóa và cũng không phân biệt đối xử người đồng tính.  

Ta thừa biết việc kiến tạo một xã hội như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng nó khó khăn chỉ vì còn quá nhiều người bị mắc kẹt trong cái nhìn tương đối của tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, là một vị thày tâm linh, ta phải chỉ ra cho con thấy rằng giải pháp đích thực duy nhất cho các vấn đề mà nhân loại đang phải đối diện là phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự sống cũng như về bản chất tâm linh của mỗi con người. Sự hiểu biết cao hơn này là hy vọng duy nhất để xây dựng một thời đại tốt đẹp hơn, và đồng thời cũng ngăn cản nhân loại hủy diệt chính mình.

Kim Michaels: Con hiểu được quan tâm của thày là nhiều người bị rơi kẹt vào hai cực đoan. Tuy nhiên đối với con, dường như vấn đề trong cuộc tranh luận này không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết. Hình như có những người trong cả hai phe đều không sẵn lòng muốn đạt được hiểu biết cao hơn.

Giê-su: Đúng là như vậy. Quả thực là có những người không muốn thay đổi quan điểm cũng như lối sống của mình. Một số người sùng đạo không sẵn lòng thay đổi ý muốn phán xét mọi người theo tiêu chuẩn mà họ đã định ra. Họ tin như đinh đóng cột rằng tiêu chuẩn của họ là tiêu chuẩn của Thượng đế, vì thế cho nên họ hoàn toàn có lý khi phán xét mọi người theo tiêu chuẩn đó. Đây là cùng những người đã đóng đinh ta 2000 năm trước đây. Họ là những kẻ đặt luật không chịu bước vào con đường trung đạo của tâm thức Ki-tô, đồng thời lại muốn ngăn cản người khác bước vào.

Ta có thể nói cho con là có một số dòng sống đã từng giữ những chức vụ quyền lực trong đạo Do thái cách đây 2000 năm và đã sử dụng quyền lực nảy để đóng đinh ta. Ngày nay, cùng những dòng sống đó đang giữ chức vụ quyền lực trong các giáo hội Cơ đốc, và bây giờ họ sử dụng cách diễn giải của họ về giáo lý của ta để biện luận cho thái độ phán xét của họ.

Còn ở phe bên kia cuộc tranh luận, con sẽ tìm thấy những người biết rõ rằng đồng tính vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng họ không hề có ý muốn thay đổi lối sống hay đạt được sự hiểu biết cao hơn. Ngược lại là đằng khác, họ chọn lối sống đống tính như một hành vi thách thức Thượng đế, và họ muốn tiếp tục lối sống đó. Họ còn tuyển mộ thêm người mới vào làm miếng mồi ngon cho cuộc săn lùng tình dục của họ. Rồi họ muốn xã hội phải công nhận là họ được quyền sống công khai như vậy và trưng bày sự đồi trụy tình dục của họ.

Ta dư biết có những người như vậy, và ta dư biết tâm lý cùng phương thức hoạt động của họ. Ta cũng biết rõ ta không có nhiều hy vọng chạm được những người đó qua trang mạng này. Cho nên quan tâm lớn nhất của ta qua trang mạng này là cố chạm được những dòng sống có thể chạm được, là những dòng sống sẵn lòng đi tìm một sự hiểu biết cao hơn.  

Kim Michaels: Luật Tự quyết liên quan thế nào đến điều đó? Ý con muốn nói là, liệu một linh hồn có được quyền do Thượng đế ban cho để chọn lối sống đồng tính luyến ái?

Giê-su: Ta có nói suốt trang mạng này rằng Luật Tự quyết là định luật tối thượng cho vũ trụ vật chất. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho mọi người, và do đó họ có quyền làm bất cứ gì họ muốn, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con chỉ có quyền tự quyết nếu con có thể hoàn toàn tự do chọn lựa bất cứ điều gì mà con có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, Luật Tự quyết không đứng một mình. Luật Tự quyết được ban ra trong thế thái cực với một định luật khác, là Luật Nhân quả. Đây là quy luật mà trong Kinh thánh có nói đến qua câu “người nào gieo gì thì sẽ gặt nấy”. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả.  

Theo Luật Tự quyết, một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Theo Luật Nhân quả, không một người nào có thể thoát khỏi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Như ta vẫn cố giải thích trên trang mạng này, mọi hành vi con làm đều được làm với năng lượng của Thượng đế. Mỗi khi con bước vào một ý tưởng, một cảm xúc hay một hành động, thì con cũng đang thay đổi phẩm chất, con đang tô màu năng lượng thuần khiết đó, con đang thay đổi độ rung của năng lượng Thượng đế.

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình” (Save Yourself), ta có giảng dạy sâu sắc hơn về ý nghĩa thực sự của tội lỗi. Ta khuyên con nên tìm hiểu lời dạy đó. Ở đây, ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ “tội lỗi” là “bắn hụt đích, thiếu tiêu chuẩn” (missing the mark). Có nghĩa là nếu con thay đổi năng lượng Thượng đế khiến cho độ rung xuống thấp hơn một mức nào đó, thì năng lượng sẽ “bắn hụt”, sẽ không đủ tiêu chuẩn, và không thể thăng vượt để trở về Thượng đế. Bất kỳ một năng lượng nào đi xuống thấp hơn một độ rung nhất định đều là một “tội lỗi”, cho dù năng lượng đó được tạo ra do đồng tính luyến ái hay bất kỳ loại hành vi nào khác của con người.

Cho nên một dòng sống được quyền – là quyền do Thượng đế ban cho – để thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên điều không thể tránh được là y sẽ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và sẽ gặt hái hậu quả, tức là nghiệp quả của hành động của y. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng đồng tính là một việc đúng đắn hay có thể chấp nhận. Đồng tính là một vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng bởi vì dòng sống có quyền tự quyết, y vẫn có quyền vi phạm luật Thượng đế và trải nghiệm hậu quả của chọn lựa đó.

Kim Michaels: Vậy xã hội có nên công nhận quyền thực hành đồng tính luyến ái hay không?

Giê-su: Đây là một câu hỏi phức tạp. Trong một xã hội lý tưởng, đồng tính luyến ái sẽ được nhìn nhận là một tình trạng mất cân bằng. Tuy nhiên xã hội đó cũng sẽ có một nền văn hóa cho phép người ta công khai nhìn nhận khuynh hướng đồng tính của mình mà không bị lên án. Song song, những người này cũng sẽ được giúp đỡ để đạt sự hiểu biết và giải quyết khuynh hướng của mình hầu tiến bước trên con đường phát triển tâm linh cá nhân. Họ cũng sẽ nhận được giúp đỡ để hiểu rõ hậu quả của sự chọn lựa lối sống đồng tính, trên phương diện nghiệp quả cũng như tác động tâm lý và tâm linh. Nếu họ từ chối được giúp đỡ thì họ vẫn được phép thực hành đồng tính trong nhà riêng của họ, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.   

Một xã hội lý tưởng sẽ không công nhận trong luật pháp quyền thực hành đồng tính. Đó sẽ chỉ là một điều mà người ta có thể làm nơi nhà riêng của mình, và xã hội sẽ không can thiệp vào đời sống riêng tư đó miễn là nó diễn ra trong sự đồng ý của những người trưởng thành. Miễn là nó được giữ trong phạm vi nhà riêng, xã hội sẽ cho phép lối sống đồng tính mà sẽ không lên án cũng như không công nhận trong luật pháp.   

Nhưng tất nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới hiện là một xã hội lý tưởng, cho nên không thể có giải đáp dứt khoát nào cho từng quốc gia trong từng thời điểm để giải quyết vấn đề đồng tính. Giải pháp này sẽ được định đoạt trong khuôn khổ nền văn hóa của xã hội đó, bởi vì không một xã hội nào có khả năng nhìn ra ngoài nền văn hóa hiện tại của mình.   

Nhưng quan tâm hàng đầu của ta không phải là định ra cho xã hội phải giải quyết vấn đề đồng tính như thế nào. Quan tâm hàng đầu của ta là giúp cho mọi xã hội đạt đến một nền văn hóa tâm linh, mà qua đó xã hội sẽ dễ dàng giải quyết được mọi vấn đề trong sự hài hòa với quy luật của Thượng đế. Điều mà ta mong muốn được thấy là mọi xã hội đều tiến tới một sự hiểu biết sân sắc hơn về bình diện tâm linh của cuộc sống, rồi sử dụng sự hiểu biết này để ảnh hưởng cách giải quyết bất kỳ vấn đề nào gặp phải.     

Kim Michaels: Xin thày giải thích đồng tính luyến ái làm tha hóa năng lượng như thế nào?

Giê-su: Thượng đế đã tạo ra hai thái cực cơ bản, là hai yếu tố lan ra và co lại, nam và nữ, dương và âm. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hoà, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh này của Thượng đế. Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự biểu đạt của một nguyên lý tâm linh.

Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của chúng ta đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.   

Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ. Ta cũng biết là một số cặp đồng tính có cảm giác là họ đạt được kết hợp như thế, và ta cũng biết là một số cặp đồng tính yêu thương nhau thanh khiết. Nhưng ta phải nói với con rằng tình dục đồng tính không bao giờ có thể tạo được kết hợp tâm linh đích thực. Cho nên điều không thể tránh được là tình dục đồng tính sẽ bắt buộc làm tha hóa năng lượng Thượng đế.

Đương nhiên, nếu hai người đồng tính thương yêu nhau thanh khiết, độ tha hóa sẽ không đến nỗi nghiêm trọng như trong một quan hệ với lý do thấp kém. Tuy vậy, nếu hai người đồng tính thực sự yêu nhau thì có thật là họ cần đến quan hệ tình dục vật lý để biểu lộ tình yêu đó hay không? Quan hệ khác giới có khả năng sử dụng đúng đắn năng lượng của Thượng đế, nhưng quan hệ đồng tính sẽ đơn giản không có tiềm năng đó, tương tự như hai cơ thể cùng phái không thể nào sinh tạo một đứa bé. Sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra trong kết hợp hài hoà giữa hai thái cực nam và nữ. Điều này cũng giải thích tại sao một dòng sống không thể đạt được phát triển tâm linh tối đa cho đến khi y cân bằng được hai yếu tố nam và nữ.

Kim Michaels: Một số người cho rằng người đồng tính thường là người tâm linh hơn. Một số cũng nói rằng chỉ khi nào họ nhìn nhận sự đồng tính thì họ mới có thể tinh tấn tâm linh. Một số còn cho rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại nhất khắp các thời đại đều là người đồng tính. Thậm chí một số vị thày tâm linh còn bảo rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn, và là một chặng đường cần thiết trên hành trình tâm linh của linh hồn. Xin thày có bình luận gì không?

Giê-su: Nếu con lãnh hội những gì ta đã giải thích ở đầu lời giải đáp này, thì rõ ràng đồng tính không phải là một giai đoạn phải có trên hành trình phát triển tâm linh. Ta cũng biết là có những giáo lý tâm linh tìm cách tôn vinh hay biện minh cho đồng tính. Nhưng đó chỉ là một sự hiểu lầm vô tình họăc là một âm mưu cốt ý để đánh lừa mọi người.

Như ta giải thích ở trên, một dòng sống tân lập thường hiện thân trong những cơ thể cùng giới tính suốt nhiều kiếp sống, và điều này có nghĩa là y sẽ lần hồi tự nhận diện là một dòng sống nam hay nữ. Khi dòng sống già dặn hơn, y có nhu cầu phải vượt qua sự đồng hoá đó, có nghĩa là y sẽ bắt đầu hiện thân trong cả hai loại cơ thể nam và nữ. Cho nên nếu chỉ dựa trên nhận xét này thì quả thực cũng đúng là nhiều người đồng tính là những dòng sống già dặn hơn người bình thường.

Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém là một dòng sống không cần phải trở thành đồng tính để thăng vượt sự đồng hóa với giới tính của cơ thể. Thật ra, hầu hết dòng sống đều có thể thực hiện việc này mà không cần trở thành đồng tính. Ta cũng biết là có một số vị thày tâm linh dạy rằng đồng tính luyến ái là điều tự nhiên, hoặc là một giai đoạn cần thiết trên đường phát triển của dòng sống, tuy nhiên đây đơn giản là một lời dạy sai lầm.

Mặc dù thật là không sai khi nói rằng nhiều người đồng tính trưởng thành hơn những kẻ lên án đồng tính, tuy nhiên họ không thật sự trưởng thành trong ý nghĩa là họ vẫn còn mang một sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ. Thật ra, nếu một người đồng tính thật sự trưởng thành tâm linh, thì người đó sẽ cố gắng thăng vượt mọi tình dục thay vì bênh vực đồng tính. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng người ta không nên cố giúp xã hội vượt qua nạn kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên, một dòng sống già dặn tâm linh sẽ nỗ lực đem lại sự khoan dung đối với người đồng tính chứ sẽ không cố tâng bốc đồng tính lên địa vị cao thượng.       

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình”, chúng tôi có giảng rất chi tiết về lý do một dòng sống thường chọn đầu thai trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lý do chính là vì những tình huống như vậy có thể bắt buộc y phải đương đầu với một số bế tắc tâm lý. Chỉ bằng cách giải quyết các bế tắc này mà y mới có thể tinh tấn tâm linh. Ta có giải thích là đồng tính luyến ái là một sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống. Một số dòng sống đã đạt đến một điểm khi họ không thể tiến thêm cho tới khi họ giải quyết được sự mất cân bằng này. Do đó, đúng là một số dòng sống sẽ chọn đầu thai làm người đồng tính để tự buộc mình phải giải quyết vấn đề tình dục và sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ. Tuy nhiên, họ làm điều này không phải vì họ tin rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn hay tâm linh hơn. Họ làm như vậy giản dị như là một phương cách để giúp mình giải quyết các mối mất cân bằng và nhờ vậy vượt qua mọi ý niệm tình dục con người.

Ta có thể nói thật rõ ràng là trên thiên đàng không có người đồng tính nào cả – mặc dù một số người có vẻ tin như vậy. Con không thể bước lên thiên đàng khi con vẫn còn sự mất cân bằng giữa hai khiá cạnh nam và nữ trong dòng sống của con. Khi nào còn đạt được sự cân bằng đúng đắn, con sẽ vượt thăng mọi ý niệm tình dục phàm thế.

Cho nên cũng đúng là một số người đồng tính là người tâm linh hơn bình thường. Tuy nhiên, họ không là người tâm linh bởi vì họ đồng tính. Họ đã chọn đầu thai làm người đồng tính vì ý chí mãnh liệt muốn tiến bước trên đường tu tâm linh, và họ nhìn ra điều đang ngăn chặn bước tiến của họ là sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ.

Điều này cũng đúng cho những nhà thần bí đã bước vào đời như người đồng tính. Con sẽ thấy đa số những nhà thần bí này rốt cuộc đã tiến vượt khỏi mọi vấn đề tình dục. Đơn giản, nhu cầu biểu hiện tình dục vật lý dần dần tan biến và họ khởi sự tập trung toàn bộ sự chú ý vào phương diện tâm linh của cuộc sống.

Và cũng đúng là nếu dòng sống đã đầu thai làm người đồng tính với mục đích dứt khoát chữa lành, thì y sẽ không thể chữa lành bằng cách làm ngơ hay phủ nhận khuynh hướng đồng tính của mình. Chỉ khi nào mình nhìn nhận vấn đề một cách ý thức thì mình mới có hy vọng giải quyết được. Tuy nhiên ta cũng phải đưa ra một lời cảnh báo về điểm này.

Trong thế giới ngày nay, con tìm thấy một số địa hạt, lãnh vực hay nền văn hóa xem đồng tính là một chuyện bình thường hay tự nhiên. Có những thế lực rất hùng hậu đang tìm cách đưa đẩy xã hội công nhận đồng tính là chuyện bình thường, và cho tới nay họ đã xâm nhập sâu rộng vào giới truyền thông. Vấn đề với hoạt động này là những dòng sống đã đầu thai với ý định chữa lành có thể bị lôi kéo vào văn hóa đó. Và họ có thể cho rằng khuynh hướng đồng tính của họ là bình thường và do đó họ nên thực hành đồng tính thay vì cố giải quyết.

Nói cách khác, một nền văn hóa chấp nhận đồng tính một cách thiếu phân biện và thiếu sự hiểu biết về nguyên nhân tâm linh của đồng tính, có rủi ro làm thui chột cơ may của dòng sống đạt được mục tiêu tăng trưởng tâm linh. Y có thể bắt đầu tự nhận mình là một linh hồn đồng tính, rồi từ chối đương đầu với sự mất cân bằng của mình. Nói cách khác, thay vì tăng trưởng tâm linh, dòng sống ngày càng chai cứng hơn trong sự mất cân bằng. Và dưới góc nhìn của một vị thày tâm linh, điều này là điều đáng tiếc hơn cả.

Mặc dù cũng đúng là một số dòng sống sẽ tăng triển tâm linh khi nào đã nhìn nhận một cách ý thức khuynh hướng đồng tính của mình, nhưng thật là không đúng khi bảo rằng y nhất thiết phải hành sự đồng tính. Con hoàn toàn có khả năng giải quyết sự mất cân bằng đã gây ra đồng tính mà không cần đeo đuổi lối sống đồng tính.   

Thật ra, nếu con thật muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con tránh hẳn bước vào một quan hệ đồng tính. Nếu con có quan hệ đồng tính, con sẽ khiến cho năng lượng Thượng đế bị tha hóa, và nó sẽ tạo ra một từ lực – trong nghĩa đen – lôi con ra khỏi sự tăng trưởng tâm linh của con. Việc bước vào một mối quan hệ đồng tính cũng khiến con càng mong muốn bênh vực cách hành xử cuả mình rồi càng lún sâu vào một trạng trái tâm thức mất quân bình.  

Cho nên lời khuyên của ta là nếu con có những khuynh hướng đồng tính, con nên nhìn nhận khuynh hướng này. Tuy nhiên, thay vì tìm cách tự biện minh hay tham gia vào một quan hệ đồng tính, con nên tìm cách giải quyết qua những phương tiện tâm lý và tâm linh.

Có nhiều kỹ thuật tâm lý có thể giúp con giải quyết sự mất cân bằng trong cỗ xe linh hồn. Trong những thập niên qua, nhiều kỹ thuật mới đã được trao truyền nhưng chưa được giới chức năng trong ngành tâm lý chính thống công nhận. Thế nhưng bất cứ ai với tâm mở rộng cũng sẽ tìm được những kỹ thuật sáng giá có khả năng thực sự chữa trị sự mất quân bình tâm linh. Đối với những người thiên về tâm linh, có nhiều kỹ thuật tâm linh có thể trợ giúp họ, chẳng hạn cụ thể là kỹ thuật hoà điệu nội tâm với cái ta Ki-tô của mình.  

Có một nguyên tắc giá trị rộng khắp là nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con phải thăng vượt khuynh hướng của tâm phàm là biện hộ cho những điều bất toàn, mà ngược lại con hãy nương theo chân tâm để nâng mình lên sự toàn vẹn.   

Kim Michaels: Con chắc chắn sẽ có một số người đặt vấn đề là làm thế nào thày có thể dạy về tình thương vô điều kiện mà đồng thời lại có lập trường kiên quyết như vậy chống lại đồng tính luyến ái. Họ sẽ cảm thấy rằng nếu thày yêu thương người đồng tính một cách vô điều kiện thì thày cũng nên thể hiện sự khoan dung đối với hoạt động tình dục của họ.

Giê-su: Tất nhiên là sẽ có những người nghĩ như vậy, và lý do là bởi vì họ bị kẹt trong sự tương đối và những điều kiện của tâm thức nhị nguyên. Kết quả là họ không lãnh hội, không thể nhập được tình thương vô điều kiện.  

Yêu thương vô điều kiện không có nghĩa là chấp nhận mọi điều kiện một cách mù quáng. Ta yêu thương mọi dòng sống trên địa cầu với một tình yêu vô điều kiện. Bởi vì tình yêu của ta vô điều kiện cho nên ta muốn thấy mọi dòng sống đều trở về nhà cùng Thượng đế. Tuy nhiên, bởi vì ta không mắc kẹt trong sự tương đối của tâm nhị nguyên, ta thấy rõ vô số những điều kiện đang ngăn cản dòng sống trở về nhà Thượng đế. Hơn vậy nữa kìa, ta thấy rõ những điều kiện này là mối đe doạ đem lại cái chết cho rất nhiều dòng sống trên trái đất.  

Liệu đó có phải là tình thương vô điều kiện nếu ta cứ đứng dõi nhìn một dòng sống bước tới hủy diệt mà không tìm cách báo động? Ta không nghĩ vậy. Làm thế nào ta có thể báo động dòng sống đó mà không chỉ rõ cho y thấy được những điều kiện sẽ dẫn đến hủy diệt? Làm thế nào ta có thể yêu thương vô điều kiện mà đồng thời lại dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống?

Tình thương vô điều kiện hoàn toàn không nhân nhượng khi tận tụy lo cho sự tăng triển và cứu rỗi của dòng sống. Chỉ có tình thương có điều kiện mới rơi vào một trong hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là định ra một loạt những lề lối vỏ ngoài rồi bảo rằng bất cứ ai không làm đúng lề lối đó không xứng đáng được yêu thương. Và cực đoan thứ hai là dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống mà lại gọi sự thông đồng đó là tình yêu đích thực. Cả hai cực đoan này chính là tình thương có điều kiện, và nó khởi lên từ sự tương đối của trạng thái tâm thức thấp kém. Chỉ một tình thương dựa trên nền tảng của phân biện Ki-tô mới có thể vô điều kiện.

Tình yêu vô điều kiện có nghĩa là ta yêu thương dòng sống cho dù y đã có làm gì hay đang có trạng thái tâm thức như thế nào. Nhưng chính vì yêu thương mà ta không muốn nhìn thấy dòng sống cứ mắc kẹt hoài trong trạng thái tâm thức đó. Ta muốn thấy dòng sống tiến bước về phía tâm thức Ki-tô bởi vì đó là cách duy nhất để dòng sống đạt đến cứu rỗi.

Bởi vì ta yêu thương vô điều kiện cho nên ta mới tận tụy một cách không nhân nhượng đối với sự tăng trưởng của dòng sống. Và do đó ta cũng không nhân nhượng đối với bất kỳ điều kiện nào sẽ khiến cho sự phát triển của dòng sống bị thui chột.

Thượng đế không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta hoàn toàn không muốn thấy dòng sống nào xem mình là người có tội, hay có mặc cảm tội lỗi về một số chọn lựa mà y đã có trong quá khứ. Chúng tôi chỉ có một mong muốn là nhìn thấy dòng sống rời khỏi tình trạng tâm thức hiện tại và tiến bước về một thế cân bằng, toàn vẹn.

Chúng tôi không lên án người đồng tính. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ chấp nhận đồng tính là bình thường hay tự nhiên. Chúng tôi nhìn thấy đó là một trong rất nhiều sự mất cân bằng đang ngăn cản dòng sống trở về nhà. Chúng tôi mong muốn mọi dòng sống giải quyết được những điều mất cân bằng đang ngăn cản họ trở về căn nhà nơi họ sẽ ôm chầm lấy vòng tay yêu thương của Thượng đế Cha/Mẹ.

Chính vì yêu thương vô điều kiện mà ta mới phân biện rõ ràng giữa dòng sống và hiện trạng tình dục nhất thời của dòng sống. Cho nên ta sẽ không bao giờ rơi vào lỗi lầm đồng hóa dòng sống với hiện trạng tình dục của y – cho dù là đồng tính hay dị tính. Yếu tố đã khiến cho dòng sống tự đồng hóa với tình dục của mình là vì y đã đánh mất tình yêu vô điều kiện. Và trong tình yêu có điều kiện của y, dòng sống thường sẽ phóng chiếu ra là tình yêu của ta đang đặt ra một số điều kiện bởi vì tình yêu của ta không ăn khớp với hình ảnh nhị nguyên mà y có về tình yêu. Thế nhưng là một vì thày tâm linh, ta không thể giúp cho mọi người giải thoát bằng cách chiều theo tâm ảnh của họ – ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thách thức tâm ảnh của họ.

[Đọc thêm về bài giảng về cách thức thăng hoa năng lượng tình dục]