Quyền tự quyết của con mình

Hỏi: Tôi là một người mẹ, và đôi khi tôi không rõ phải đối xử ra sao với quyền tự quyết của con tôi. Tôi phải tôn trọng quyền tự quyết của nó đến độ nào? Thí dụ như khi nó muốn xem truyền hình hay chơi trò chơi trên máy tính quá lâu. Tôi cần kiểm soát thời khóa biểu của nó. Tôi có thể làm điều này chăng mà vẫn tôn trọng quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/4/2024, nhân Khóa học trực tuyến Giải thoát Ki-tô vào dịp Lễ Phục sinh 2024.

Con không thể chỉ nhìn vấn đề dưới góc độ quyền tự quyết của con trai của con. Vì con trai của con sống trong nhà con và các con là một gia đình, nên quyền tự quyết của con trai của con phải quân bằng với quyền tự quyết của các người khác trong gia đình. Do đó, lúc nào cũng có vấn đề quân bằng quyền tự quyết của một cá nhân và quyền tự quyết của bất cứ nhóm nào mà cá nhân đó là một thành viên. Như các thày có nói, không có cá nhân nào là một ốc đảo, do đó ai nấy đều thuộc vào một nhóm.

Do đó, con có quyền định ranh giới cho các con của con, đúng thực là con có bổn phận định ranh giới cho chúng. Chúng có thể có lúc nổi loạn chống lại ranh giới do cha mẹ quy định, nhưng có ranh giới để chúng nổi loạn chống lại vẫn tốt cho chúng hơn là không có ranh giới. Các cha mẹ không chịu định ranh giới cho các con không thực sự tôn trọng quyền tự quyết của chúng, vì một đứa trẻ chưa đủ chín chắn để quyết định mình muốn làm gì. Một đứa trẻ cần liên hệ với một cái gì, và khi nó dần dần khôn lớn thì nó biết rõ hơn nó là ai và nó muốn gì.

Ngoài ra con cũng cần quan tâm là bất cứ người trưởng thành nào cũng cần sinh hoạt như một thành viên của một nhóm, và nếu người đó không học được điều này khi còn thơ ấu thì sẽ khó học hơn khi đã trưởng thành. Do đó, như một phụ huynh con có quyền và bổn phận định ranh giới cho các con của con để chúng biết cách sinh hoạt như một gia đình, và đây sẽ là nền tảng để chúng biết cách sinh hoạt trong xã hội. Nếu không thì chúng sẽ trở nên giống như những người cảm thấy rất khó sinh hoạt trong khung cảnh một nhóm người, và điều này không phục vụ quyền lợi của chúng.

Về sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Mẹ Mary xin Mẹ cho chúng con một cảm nhận về Hiện diện TA LÀ trải nghiệm các diễn biến đương thời như thế nào.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền tại Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 6/11/2023.

Ấy, con phải cẩn thận ở đây. Các thày đã nói, và đây là điều một số các con chưa thực nhận ra hay chưa hoàn toàn nhìn nhận, là Hiện diện TA LÀ không phải là một sinh thể thăng thiên. Thày biết rất rõ nếu nói điều này cho các đệ tử của các đợt truyền giáo trước của chân sư thăng thiên, họ sẽ phản đối, vì trong các đợt truyền giáo đó, họ có quan điểm rằng Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh, do đó Hiện diện TA LÀ toàn hảo, và họ thực sự không có cái nhìn rõ ràng về thăng thiên nghĩa là gì, một phần là vì họ chưa có khái niệm về cái Ta Biết mà các thày đã trao truyền.

Đôi khi họ có khuynh hướng nhìn Hiện diện TA LÀ như một chân sư thăng thiên, nhưng Hiện diện TA LÀ đặc thù của con là một sinh thể chưa thăng thiên cho tới ngày con thăng thiên, và điều này nghĩa là Hiện diện TA LÀ không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên. Một chân sư thăng thiên đã thăng thiên khi khắc phục mọi dính mắc với một số điều kiện trên trái đất, nhưng Hiện diện TA LÀ của con chưa thăng thiên, nó không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên và quả thực nó có thể có một dính mắc nào đó với điều kiện trên trái đất mà cái Ta Biết sẽ giúp Hiện diện TA LÀ khắc phục khi cái Ta Biết tiến gần hơn tầng 144. Hiện diện TA LÀ của con vẫn có thể có một thành kiến nào đó, một hình tư tưởng nào đó về trái đất phải như thế nào. Và một phần lý do Hiện diện gửi cái Ta Biết xuống hiện thân là để nâng cao nhận biết của nó và khắc phục những thành kiến như thế. Ví dụ, các thày có nói là một số avatar tới trái đất vì họ chưa nắm bắt hoàn toàn quyền tự quyết và họ muốn nắm bắt quy luật này.

Đây là Hiện diện TA LÀ muốn trải nghiệm đời sống trên một hành tinh phi tự nhiên để có thể nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa của quyền tự quyết. Lẽ tất nhiên còn có nhiều ví dụ khác. Hiện diện TA LÀ của con không nhất thiết nhìn tình hình thế sự hiện nay với cùng tầm nhìn trung hòa của một chân sư thăng thiên. Các thày là chân sư thăng thiên và đã thăng vượt mọi thành kiến trên trái đất. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất cho các đệ tử chân sư thăng thiên. Nếu con có thể thấy vấn đề này với đợt truyền giáo đương thời, nhưng vấn đề còn hiện rõ hơn nhiều nơi các đợt truyền giáo trước. Để thày đơn cử một ví dụ, con thấy là Phong trào TA LÀ và Ngọn Hải đăng trên Đỉnh núi được bắt đầu ở Hòa kỳ và khi con đọc các bài truyền đọc, con có thể thấy rõ là các bài truyền đọc đặt trọng tâm nhiều hơn vào Hoa kỳ và tầm quan trọng của Hoa kỳ. Và điều này có nghĩa là nhiều đệ tử phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên là các thày nghĩ Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất trên thế giới. Nhưng như các thày đã giải thích qua vị sứ giả này, các thày thực sự không có cái nhìn đó.

Lẽ tất nhiên, các thày xem Hoa kỳ là một quốc gia quan trọng, nhưng khái niệm quốc gia quan trọng “nhất” hoàn toàn vô nghĩa ở tầng thăng thiên. Các thày luôn luôn nhìn xem các thày có thể dùng ai trong các quốc gia khác nhau để giúp nâng cao tâm thức đại chúng và đưa ra ý tưởng mới và phát minh mới. Điều quan trọng không phải là nâng một quốc gia lên cao để nó trở thành cứu tinh cho thế giới. Các thày không nhìn sự việc theo cách đó.

Điều thày muốn nói ở đây là các đệ tử ở Hoa kỳ trong các đợt truyền giáo trước có một thành kiến quốc gia mà họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên. Và một số thậm chí còn chỉ trích vị sứ giả này vì ông không có cùng thành kiến giống họ và do đó họ cảm thấy ông không kết nối với các chân sư thực vì các chân sư thực hiển nhiên coi Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất. Thậm chí có những đệ tử ở Nga nhìn người sứ giả này và xem xét một số điều mà các thày đã nói qua người sứ giả và các đệ tử Nga nói một chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ nói như vậy về nước Nga vì họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên rằng các thày nghĩ nước Nga quan trọng giống như các đệ tử này nghĩ. Đây là một trong những thách đố cho người đệ tử chân sư thăng thiên khi con đạt tới các tầng cao hơn và con cần nhìn vào các thành kiến cá nhân của mình và đừng phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Liên quan tới câu hỏi về Hiện diện TA LÀ, Hiện diện TA LÀ vẫn có thể có một số thành kiến. Hiện diện TA LÀ của một số người có thành kiến quốc gia về Hoa kỳ, về nước Nga hay các quốc gia khác vì cái Ta Biết đã đầu thai nhiều kiếp trong một quốc gia nào đó và sự việc này có thể ảnh hưởng tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Khi con vươn lên cao, khi cái Ta Biết vươn lên về hướng tầng 144, trong tiến trình đó con nhận biết rõ hơn các thành kiến này và con bắt đầu chất vấn chúng. Con sẽ không thăng thiên như một người Hoa kỳ hay một người Nga. Nhiều năm trước đây, khi trang mạng Hỏi Giê-su Thật còn mới mẻ, thày Giê-su đã trả lời một câu hỏi về đồng tính luyến ái và thày trả lời là trên thiên đàng không có người đồng tính luyến ái và con cũng có thể nói là không có người Hoa kỳ trên thiên đàng, không có người Nga trên thiên đàng, không có người Cơ đốc giáo trên thiên đàng, không có người Phật tử trên thiên đàng.

Bởi vì để có thể thăng thiên con phải thăng vượt mọi nhãn hiệu, những thành kiến mà con tìm thấy trên trái đất. Con phải nhìn nhận con là một sinh thể tâm linh hoàn vũ. Con hãy xem bài truyền đọc của Giê-su về tâm thức Ki-tô. Điều chính yếu thày nói là tâm thức Ki-tô có tính hoàn vũ và không thể ép uổng nó vào bất cứ thành kiến nào. Rõ ràng là để có thể thăng thiên, con phải hợp nhất với tâm thức Ki-tô và con chỉ làm được điều này bằng cách trở nên hoàn vũ, không có thành kiến, trung hòa. Đó là lý do tại sao các thày thường xuyên nhấn mạnh nhu cầu vươn tới trạng thái tâm trung hòa.

Giờ đây các thày cũng có thể nói thêm là có một khuynh hướng trong các đệ tử chân sư thăng thiên nói rằng: “Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện, Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và tôi chỉ là một nối dài của nó và tôi quả thực không giúp gì cho Hiện diện TA LÀ.” Ngay cả trong đợt truyền giáo này khi các con có được khái niệm về cái Ta Biết, nhiều người nghĩ cái Ta Biết quả thực không giúp Hiện diện TA LÀ vì Hiện diện đã biết mọi thứ mà nó cần biết.

Nhưng không đúng thế. Nếu Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện thì nó không cần gửi cái Ta Biết xuống hiện thân. Có một sự tương tác giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Có một dòng chảy hình số tám và trước đây các thày có nói là các trải nghiệm của con được gửi lên căn thể của con. Nhưng chuyện gì xảy ra trước khi nó đi lên căn thể? Đó là Hiện diện TA LÀ nhìn vào trải nghiệm của cái Ta Biết và Hiện diện học hỏi từ trải nghiệm này và qua đó nó mở rộng ý niệm bản ngã của nó, nâng cao nhận biết của nó. Điều này có nghĩa là cái Ta Biết có thể giúp Hiện diện TA LÀ nhìn thấy một số điều mà Hiện diện không thể thấy dễ dàng ở tầng thăng thiên nhưng cái Ta Biết có thể thấy vì nó đang ở dưới này đối phó với các điều kiện đó. Có sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ – và cái Ta Biết, đặc biệt là khi con đi vào trạng thái tâm trung hòa, có thể giúp Hiện diện TA LÀ thấy một số điều, học hỏi từ một số trải nghiệm và nhờ đó nâng cao tâm thức của Hiện diện.

Cơn hoảng loạn

Hỏi: Một vài năm trước đây, vợ con bị cơn hoảng loạn đầu tiên. Cơn ấy rất dữ dội. Con ở gần cô ta lúc đó. Cô không đụng đậy được, không giải thích được gì và kiệt sức. Con cảm thấy có cái gì trơn tuột và rất khó chịu chạy dọc xuống lưng con. Nó giống như nỗi kinh hãi mãnh liệt và nỗi sợ hãi thâm nhập.  Con bị cú sốc vì chưa bao giờ bị một cái gì giống như thế trước đây. Chúng con đã cố giải quyết vấn đề này nhiều năm nhưng con e rằng con không giúp được vợ bao nhiêu vì những điều kiện như thế không tự nhiên đối với con và đối với chúng con khó hiểu được nguyên nhân và khó tìm những phương pháp trị liệu hữu hiệu. Nhiều người dân Ukraine có những triệu chứng tương tự từ khi có chiến tranh. Xin các chân sư thăng thiên cho chúng con một cái nhìn bao quát về vấn đề này và phương thức giải quyết.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 3/11/2023.

Tuy các cơn hoảng loạn (panic attack) luôn luôn do tà lực tạo ra, thày không nói là chúng luôn luôn do sa nhân trực tiếp tạo ra cho dù nếu con lần theo tà lực thì con cũng tới sa nhân. Nhưng có nhiều tà lực nơi cõi tình cảm liên tục tìm cách áp đảo tình cảm con người và khiến họ rơi vào trạng thái mà con có thể gọi là hoảng loạn. Với người trong thế gian thì không có cách hữu hiệu nào để giải quyết hoảng loạn. Nếu con mở tâm với con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên, thì chắc chắn con có thể nhận ra đây là tà lực và con cần xem hoảng loạn là sự tấn công của tà lực và con đọc các bài thỉnh Đại thiên thần Michael và Astrea, Shiva và chính thày để kêu gọi các thày bảo vệ, trói buộc tà lực, bảo vệ người bị tấn công, bảo vệ hào quang và thể tình cảm của người đó. Sau đó, dài hạn hơn, con cần giải quyết tâm lý của người đó và hỏi tại sao người đó dễ bị tấn công kiểu đó?

Con có thể nói là tà lực liên tục phóng năng lượng thấp tới tất cả mọi người, nhưng không phải ai ai cũng bị choáng ngợp và bị hoảng loạn. Luôn có một nguyên nhân tâm lý giải thích tại sao một người nào đó dễ bị tà lực áp đảo. Lẽ tất nhiên có một ngã tách biệt được tạo ra trong một kiếp sống trước khi người đó gánh chịu một chấn thương tâm lý (trauma) nặng nề. Và khi con đã bị một chấn thương tâm lý rất nặng như thế thì con luôn lo sợ là một chuyện tương tự có thể xảy ra nữa. Và đấy là nguyên nhân tại sao con dễ bị tà lực dùng nỗi sợ của con để tìm cách khống chế con.

Con cần nhìn vào tâm lý mình để phơi bày tại sao con có ngã tách biệt này, đặc tính của nó là gì, niềm tin đằng sau ngã là gì và sau đó con làm việc để giải quyết ngã này. Ngay cả ngành tâm lý truyền thống cũng có thể giúp con thấy rõ những điều này nhưng quả thực con không thể giải quyết hữu hiệu cơn hoảng loạn trừ khi con dùng những phương tiện tâm linh để bảo vệ con và cắt đứt con khỏi các tà lực nơi cõi trung giới. Lẽ tất nhiên, những điều ở trên áp dụng không những cho người dân Ukraine mà cũng áp dụng cho bất cứ ai đã từng gánh chịu chấn thương tâm lý như thế. Nếu con là người thích tâm linh thì dứt khoát là con nên dùng các dụng cụ tâm linh để bảo vệ trường năng lượng của con khỏi sự tấn công dữ dội của các tà lực này. Nếu người tâm linh có thể chấp nhận những ý trên và chấp nhận giáo lý khá giản dị này, chúng có thể có tác động lớn đến sự tăng triển tâm linh của họ. Bởi vì tuy nhiều, nhiều người tâm linh không bị hoảng loạn hay cảm thấy bị choáng ngợp nhưng sự tăng triển tâm linh của họ vẫn bị trì hoãn bởi ảnh hưởng của tà lực có khả năng khiến họ rơi vào phản ứng mất quân bình. Một phản ứng mất quân bình không nhất thiết có nghĩa là con cảm thấy sợ. Nó có thể có nghĩa là con chối bỏ, con chối bỏ là không có lý do gì cho con sợ hãi bởi vì “Mọi chuyện đều tốt đẹp cả”, như rất nhiều người tâm linh thường nói. Nhưng con nhìn hành tinh đấy và con nhận ra rằng mọi chuyện không tốt đẹp trên trái đất. Và nếu con không có biện pháp gì để ngăn chặn tà lực, thày có thể bảo đảm với con là tà lực sẽ không tự ngăn chặn đâu.

May mắn là gì?

Hỏi: Trong một bài truyền đọc gần đây nhân buổi hội thảo trực tuyến Phục sinh, Mẹ Mary nói rằng chúng ta không thể tiên đoán chắc chắn bất cứ gì xảy ra trên địa cầu. Lý do là vì trong những tình huống can dự đến nhiều người, có một làn sóng nghiệp quả tạo ra nhiều kịch bản khác nhau cho sự tương tác trải bày. Vì vậy tương lai không thể biết được cho đến khi nó xảy đến. Trong những lãnh vực đòi hỏi việc tiên đoán những sự kiện tương lai không thể biết trước, như đầu tư chẳng hạn, liệu kỹ năng chuyên môn có thể đem lại thành công đều đặn không? Hay sự thành công trong các lãnh vực này chủ yếu là sự may mắn? Nói rộng hơn, thế nào là một quan niệm xây dựng về may mắn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 27/7/2023.

Đầu tiên chúng ta hãy nhìn đến sự may mắn. Điều người ta gọi là may mắn chính là sự trải bày của những sự kiện không thể đoán trước. Nghĩa là không thể nào tiên đoán một cách chắc chắn kết quả của một sự việc sẽ ra sao, như đầu tư chẳng hạn. Nhưng tất nhiên, con có thể tăng xác suất sự kiện xảy ra, chẳng hạn khi con nâng cao hiểu biết về lãnh vực đầu tư. Nhưng con cũng có thể bước vào một tâm thái cởi mở đối với một thành quả tích cực.

Trên thế giới có nhiều người giảng dạy là không có chuyện may mắn, mà trái lại con cần phóng chiếu ra kết quả mà con mong muốn. Nhiều người đã cố thử thị hiện đồ vật bằng cách làm theo những lời chỉ dẫn đủ loại về phương pháp thị hiện. Chẳng hạn nhiều người đã dùng bản đồ kho báu hay một số kỹ thuật khác, đôi khi gần giống như ma thuật đen, để gia tăng vận may của mình qua việc cưỡng bách sự việc xảy ra. Hiển nhiên, đây không phải là điều các thày khuyên con làm như một đệ tử của chân sư thăng thiên.

Nhưng chắc chắn con có thể ảnh hưởng đến các sự kiện tích cực trong đời mình bằng cách, trước tiên, làm việc với tâm lý của mình và giải quyết một số vấn đề tâm lý khiến con xua đuổi một số thành quả. Ví dụ, nhiều người tâm linh có một thái độ tiêu cực đối với tiền bạc từ nhiều kiếp trước. Trong tiềm thức, họ đẩy xa tiền bạc vì họ tin rằng tiền bạc là phản tâm linh. Nếu con giải quyết những cái ngã như vậy, con sẽ không còn đẩy nó ra xa nữa, nhưng đồng thời con cũng không cố kéo nó vào đời con. Con có thể bước vào tâm thái cởi mở, tâm thái trung hòa, nhưng con chờ đợi là một điều tích cực sẽ xảy ra. Theo một nghĩa nào đó, đây không phải là chuyện chế tạo một kết quả, mà đúng hơn là thu hút kết quả đến với con. Đây sẽ là một cách khả thi để gia tăng điều mà nhiều người gọi là may mắn. Không phải các thày đặc biệt bảo con phải coi may mắn là nền tảng cho cuộc sống, nhưng con có thể bước vào một tâm thái đón nhận triển vọng một kết quả tích cực sẽ xảy ra thay vì xua đẩy nó đi.

Khi con hiểu những gì các thày đã trao cho con về đường tu tâm linh, con có khả năng bước vào một tâm thái không dính mắc với một kết quả đặc thù. Con làm điều con cảm thấy là một điều xây dựng trong một tình cảnh đặc thù, nhưng thay vì bị cuốn hút vào một kết quả nhất định như trường hợp những kẻ ra sức thị hiện, con mở tâm ra đón nhận môt kết quả tốt đẹp, kết quả tốt nhất có thể, nhưng con cho phép các chi tiết được quyền mơ hồ. Con cởi mở với mọi khả năng, và con đi vào một tâm thái biết ơn đối với bất cứ gì xảy ra, luôn luôn cố gắng sử dụng nó tốt nhất.

À, nhiều người thông thạo các kỹ thuật thị hiện sẽ bảo rằng làm theo cách này là sai trật vì con phải càng rõ ràng càng tốt. Con cần phải rõ ràng trong những gì con muốn vũ trụ đem lại cho con, nhưng đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Và lý do, như ta vừa giải thích, là vì mọi tình huống trong thế gian đều vô cùng phức tạp. Có những sóng xác suất ảnh hưởng đến kết quả của một tình huống nhất định và con không thể tiên đoán các sóng này một cách chắc chắn. Cho nên nếu con phóng chiếu: “Tôi muốn kết quả chính xác là như thế này,” thì thường thường con sẽ bị thất vọng vì đơn giản kết quả đó không thực tế dựa trên các điều kiện nghiệp quả của tình huống.

Điều đáng tiếc xảy ra đối với nhiều người toan cưỡng ép thị hiện là họ thường bị thất vọng, và sau một thời gian nhiều người bị chán nản rồi lý luận rằng tất cả chỉ là chuyện hồ đồ, là chuyện không tưởng, là chuyện “úm ba la” của giới Thời Mới hay bất cứ gì khác. Các thày muốn cho con một con đường dài hạn khả thi hơn mà qua đó con có thể cải thiện hoàn cảnh đời con. Và nếu con dùng các giáo lý, đặc biệt về ngã tách biệt, con sẽ có thể đạt được những cải thiện đáng kể trong đời mình. Nhưng luôn luôn, điều khôn ngoan là con nên có một thái độ đón nhận triển vọng trong sự biết ơn thay vì đòi hỏi một kết quả nhất định.

Bài học đằng sau đại dịch COVID

Hỏi: Đâu là những bài học quan trọng mà đại dịch COVID đã dạy cho thế giới? Là học trò của chân sư thăng thiên, làm thế nào chúng con có thể tiếp tục nâng cao ý thức về đại dịch này?

Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.


À, thày đề nghị là chúng ta đổi lại câu hỏi: “Đâu là những bài học quan trọng mà đại dịch COVID đã có thể dạy cho thế giới?” Vì sự thật là đối với nhiều người trên thế giới, COVID đã không dạy cho họ bất cứ điều gì, và một trong những lý do lớn nhất là quá nhiều người đã trở thành nạn nhân của các thuyết âm mưu (conspiracy theory) cho nên họ đã chọn cách tiếp cận ý thức hệ thay vì cách tiếp cận trực giác. Ta không bảo là mọi người phải được chủng ngừa, mà ta sẽ nói là không ai nên từ chối chủng ngừa dựa trên cách tiếp cận ý thức hệ xuất phát từ một thuyết âm mưu hoàn toàn không có cơ sở.

Sẽ tốt hơn nhiều nếu mọi người hòa điệu với trực giác của mình, và như các thày đã có giảng, chỉ khi nào con ở trong một tâm thái trung hòa thì con mới có thể có được trực giác chính xác, và nếu mọi người đã làm vậy thì rất nhiều sinh mạng đã có thể được cứu sống.

Nhưng một trong những bài học quan trọng đã được rút tỉa, ít ra bởi một số người cả trong giới chính quyền lẫn tư nhân, là một tình thế như vậy thực sự đòi hỏi một ý thức cộng đồng và một ý thức trách nhiệm xã hội, qua đó mỗi cá nhân đóng góp phần mình để cải thiện tình thế bằng cách lấy những biện pháp thiết thực do chính quyền đề xướng, vì mặc dù các biện pháp này không hiệu quả 100%, chúng vẫn còn tốt hơn là không làm gì. Có những nước đã tăng cường ý thức trách nhiệm xã hội của mình, và có những nước chỉ có một số người làm được vậy, trong khi có những nước khác nơi ý thức trách nhiệm xã hội đã bị giảm sút. Đặc biệt đây là trường hợp ở Hoa Kỳ nơi quá nhiều người đã tin theo các thuyết âm mưu về bệnh này.

Nhưng nhiều nước cũng đã học được sự cần thiết phải hợp tác, và điều nhiều nước đã bắt đầu học được là trong những tình thế như thế này, họ cần phải có – và họ phải đòi hỏi – sự lương thiện, trung thực và trong sáng. Rõ ràng là nếu Trung quốc đã cởi mở hơn khi trận đại dịch bắt đầu bùng nổ thì rất nhiều đau khổ và chết chóc đã có thể tránh khỏi. Và có một nhu cầu hiện nay chưa biểu hiện là nhu cầu tạo thêm áp lực trên Trung quốc để chính quyền nước này thừa nhận là họ không thể cho phép một chuyện như vậy tái diễn.

Tất nhiên, Trung quốc cũng đang ở trong giai đoạn sơ khởi nhận ra là cách tiếp cận ý thức hệ dẫn tới chính sách zero-COVID là sai lầm và mất quân bình. Kỳ thực, chính sách này đã không cứu được mạng sống nhưng lại gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế. Có một tiềm năng là dần dần Trung quốc sẽ rốt cuộc nhận ra là mình cần phải chất vấn cách tiếp cận độc đoán này, và nhờ vậy tránh rơi ngày càng sâu hơn vào chủ nghĩa độc đoán do giới lãnh đạo hiện tại chủ trương.

Điều các học trò của chân sư thăng thiên có thể làm là, tất nhiên, thỉnh gọi qua các bài thỉnh, bài chú để thế giới học được các bài học và hòa điệu với các chân sư thăng thiên, nhưng hiện nay có quá nhiều ưu tiên khác cho nên mỗi các con cần lấy quyết định riêng của mình trong chuyện này.

Sợ biểu lộ chính mình

Hỏi: Khi con nói chuyện với người khác, con cảm thấy khó mở lòng ra và nói về bản thân mình. Con không chắc chắn vấn đề này là do lòng sợ hãi và xấu hổ, sự thiếu tự tin do thiếu tình thương vào tuổi thơ ấu, những chấn thương trong khi lớn lên và trong tiền kiếp, hay là một sự đồng hóa sâu xa với ngã gốc của mình. Khi đụng tới chuyện phải bộc lộ và tự bày tỏ, con cảm thấy như thể giác quan của con bị tê liệt. Con xin hỏi Mẹ Mary làm thế nào con có thể giải quyết vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Một triệu chứng nghiêm trọng như thế bắt nguồn từ chấn thương nhập đời vũ trụ, chủ yếu là ngã gốc của con vì con đã bị tổn thương khi con biểu lộ bản thân mình. Ngã gốc suy luận là nếu con không bao giờ tự biểu lộ một cách tự do nữa thì con sẽ không bị tổn thương như vậy nữa.

Điều con cần làm là dùng giáo lý các thày đã trao truyền trong quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh cùng những quyển tiếp theo sau. Con dùng các giáo lý này để phơi bày các ngã đó mà con đang mang trong tiềm thức, và con làm việc ngược trở lại cho đến chấn thương nhập đời là điểm con có thể nhận ra, như các thày đã trình bày, là con sẽ không bao giờ bị tổn thương như con đã từng bị tổn thương trong chấn thương nhập đời. Kể từ thuở đó con đã có nâng cao tâm thức, cho nên con có khả năng đương đầu với các năng lượng đó, vượt qua chấn thương và tự đặt mình trên một con đường hướng thượng tích cực.

Điều ngự trọn vẹn cả bảy tia sáng

Hỏi: Paul người Venice trong quyển sách của thày “Những khai ngộ thần bí về tình thương” có nói: “Con yêu dấu, nếu con quan niệm tình thương là cái gì mềm mại, màu hồng và thụ động, thì câu nói ‘tình thương là tất cả những gì con cần’ không đúng. Nhưng nếu con nắm vững tất cả mọi khía cạnh của tình thương, thì con có thể nói là tình thương là tất cả những gì con cần, vì lúc đó tình thương bao gồm tất cả bảy tia sáng với các đặc tính của chúng. Tất cả những gì con cần trong thế giới vật chất là bảy tia sáng. Con có thể thăng thiên khi con điều ngự cả bảy tia sáng. Nếu con điều ngự Tia thứ Tám của Tổng hợp và một số các tia bí mật thì còn tốt hơn nữa, nhưng con có thể thăng thiên khi con đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Bảy tia sáng là tất cả những gì con cần.”

Câu hỏi của con là về câu trích vừa rồi, có vẻ như Paul người Venice nói rằng việc điều ngự bảy tia sáng là đủ để thăng thiên. Vậy có nghĩa chăng là việc đạt đến tầng tâm thức thứ 96 là đủ để thăng thiên? Con không hiểu chúng con phải diễn giải câu này như thế nào, vì theo đó, có vẻ như tia sáng thứ tám cùng các tia bí mật tùy ý và không cần thiết.


Trả lời của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Mặc dù ta hiểu cách diễn giải cũng như nỗi băn khoăn của con, ta sẽ nói là câu hỏi xuất phát từ tâm đường thẳng đang quá đường thẳng. Nếu con đọc thật kỹ, thật ra các thày không nói là khi con học hết khóa tự điều ngự và đạt đến tầng 96 thì con đã hoàn toàn điều ngự được bảy tia sáng. Con đạt được một mức độ điều ngự nào đó và việc này đã giúp con vượt lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng tầng 96 mới là điểm con khởi sự bước vào các tầng quả vị Ki-tô cá nhân. Thực sự là chỉ thông qua sự hợp nhất với tâm thức Ki-tô mà con sẽ điều ngự được bảy tia sáng cùng các tia cao hơn một cách trọn vẹn.    

Đối với một số người, họ chỉ cần phải tập trung vào bảy tia sáng mà thôi, nhưng đối với một số người khác, Sứ vụ Thiêng liêng của họ bao gồm cả việc tập trung vào một hay nhiều tia sáng bí mật. Điều này cho họ một cảm nhận điều ngự cao hơn. Các thày đã có giải thích là thật ra không phải tự thân cái Ta Biết đạt được điều ngự. Cái Ta Biết đạt được trạng thái thuần khiết mà nó đã đi xuống thế gian, nó hợp nhất với tâm Ki-tô, nó hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, nhưng sự điều ngự mà con xây dựng khi con bước chân trên đường tu tâm linh được neo trụ trong Hiện diện TA LÀ cùng căn thể của con.

Con càng kinh qua nhiều trải nghiệm khác nhau trong khi đầu thai thì con càng điều ngự được tất cả các tia sáng, kể cả các tia bí mật, con càng điều ngự được các kỹ năng vật lý, con càng xây đắp nhiều ngộ đạt trong căn thể cùng Hiện diện TA LÀ của con, và trình độ điều ngự của con càng cao hơn sau khi con thăng thiên. Ta cũng biết là có vẻ như tất cả mọi người đều thăng thiên ở cùng một trình độ và do đó có cùng một mức độ điều ngự khi họ thăng thiên, nhưng thật sự không phải như vậy. Một người có thể thăng thiên bằng cách hội đủ một số yêu cầu cơ bản – và không ai có thể thăng thiên nếu chưa hội đủ các yêu cầu này – nhưng nhiều người vượt quá các yêu cầu cơ bản và chứng đạt một sự điều ngự cao hơn yêu cầu tối thiểu. Và điều này, tất nhiên, sẽ tác động đến những gì họ có thể làm sau khi thăng thiên cũng như những nơi họ có thể đi đến.

Tại sao con lại chọn sinh con với nhu cầu đặc biệt?

Hỏi: Con trai của con năm nay 15 tuổi, nó mắc chứng tự kỷ (autism) và các chứng chậm phát triển liên quan đến tự kỷ. Điều này có nghĩa là nó hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình, chủ yếu là chính con để đáp ứng mọi nhu cầu của nó. Con cũng ở trong một cuộc hôn nhân độc hại, và suốt 17 năm chung sống, tình trạng của con với chồng con đã rất khó khăn. Con bị xâu xé giữa ý tưởng là con có thể trợ giúp con mình tốt nhất bằng cách ở lại trong hôn nhân và giữ cho gia đình bền chặt, và ý tưởng là con sẽ ra đi. Nhưng con lo sợ việc bỏ chồng sẽ khiến con trai con buồn khổ do gia đình đổ vỡ. Con cũng cảm thấy có lẽ đây là ngã gốc hay những ngã khác đang phóng chiếu là con phải thoát ra khỏi cuộc hôn nhân vì đôi khi có vẻ như con không thể chịu đựng được nữa.

Con đã cố tìm cách giải quyết tình trạng khó xử này từ khá lâu nay nhưng con đã không thành công, vì những điều con muốn cứ không ngừng chao đảo, và nỗi hoài nghi cứ khiến con day dứt vì con không chắc chắn sự hướng dẫn nội tâm mà con nhận được đến từ thày. Con muốn các thày cho con biết là con cần xem xét và tập trung vào đâu để con biết cách giải quyết tốt nhất cho hoàn cảnh của con.

Xin các thày cũng giải thích là chuyện này nói lên điều gì về quyền tự quyết. Con có thể học hỏi được gì về quyền tự quyết khi con chọn có một đứa con với nhu cầu đặc biệt? Có khía cạnh nào về quyền tự quyết mà con chưa xem xét đã khiến con bị bứt rứt quá đỗi và không biết làm sao bước đi tiếp trong đời?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Bất cứ khi nào con cảm thấy cắn rứt, xâu xé và không chắc chắn về hướng đi của mình, thì đó là do một số ngã trong tiềm thức của con đang xung đột với nhau và cố kéo con về những hướng khác nhau. Lời khuyên hay nhất mà ta có thể cho con trong tư cách một đệ tử của chân sư thăng thiên là con hãy sử dụng sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh cùng các quyển khác trong cùng bộ. Mục đích là để phơi bày các ngã đó ra, làm việc xuyên thấu qua chúng cho đến khi con chạm được chấn thương nhập đời của con.

Trên thế giới có những người đã thảo trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình việc mang gánh nặng một người khuyết tật trong gia đình, và có nhiều lý do khiến họ đã quyết định như vậy. Trong một số trường hợp, đó là vì trong những kiếp trước họ đã có một quá trình từ chối lấy quyết định cho bản thân họ, luôn luôn mong mỏi có một thế lực nào đó từ ngoài sẽ bảo mình phải làm gì. Cho nên họ đã cố tình đặt mình vào một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn để khiến họ đến chỗ phải tự quyết định lấy, rồi phải giữ vững quyết định này cho dù đó là gì.

Cũng có những người chọn bước vào hoàn cảnh này vì hoàn cảnh sẽ dạy họ phân biệt được tự do vỏ ngoài với tự do nội tâm. Đã có ví dụ những người sống nhiều năm trong tù khám mà vẫn đạt được một trạng thái nội tâm tự do về mặt tâm lý hơn cả những người sống bên ngoài, và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con đang sống trong một hình thức tù ngục. Con có thể xét xem con cần làm gì để đạt tới điểm con cảm thấy tự do hơn trong nội tâm, bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài có là gì.

Dĩ nhiên, sự bất đồng trong hôn nhân cũng liên quan đến một số ngã mà con đang mang trong tiềm thức – và hiển nhiên chồng con cũng có một số ngã tiềm thức của anh ấy – nhưng đối với con, tất nhiên việc dễ làm hơn là con làm việc với chính tâm lý mình, rồi con nhìn xem làm như vậy có thay đổi cách cư xử trong quan hệ hay trong gia đình hay không.

Như một nhận xét tổng quát, con cũng có thể tìm xem ở nước con có những cơ quan nào có thể giúp con trong vấn đề này, hầu con không phải hứng chịu tất cả gánh nặng một mình. Chắc chắn ta có lòng từ bi đối với hoàn cảnh của con, nhưng để cho con một điều gì khả dĩ thay đổi được phương trình, gần như luôn luôn con sẽ cần tìm cách phơi bày các ngã tách biệt đang tạo ra phản ứng của con, đang khiến con hoài nghi, thì sau đó con sẽ nhìn thấy rõ hơn.  

Những vấn đề chưa giải quyết trong thuyết tiến hóa

Hỏi: Xin thày có thể dùng dịp này để nhìn vào tâm thức tập thể và nhận xét về thuyết tiến hóa và cho chúng con một số điều mà thày chưa chỉ ra trong các bài truyền đọc, để con có thể chia sẻ với người khác hầu giúp họ suy ngẫm, chất vấn thuyết tiến hóa, hay họ có thể truy cứu thêm và đặt thêm nhiều câu hỏi? Con cũng xin thày dùng cơ hội này để chuyển đạt vào tâm thức tập thể.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Điều đầu tiên ta có thể chỉ ra là thuyết tiến hóa là một lý thuyết. Đối với nhiều người, nó đã dần dần được xem là một sự thật khoa học, và như vậy con cũng có thể chỉ ra là mới cách đây không lâu – nếu con xem một thế kỷ không là một thời gian dài lắm – thế giới quan dựa trên thuyết, hay luật, chuyển động của Newton đã được coi là một sự thật không thể nào chối cãi. Nhưng kể từ đó, thuyết này đã được thay thế bởi những thuyết khoa học tinh vi hơn như các thuyết của Einstein và vật lý lượng tử.

Trong khoa học không ngừng có sự chuyển đổi. Tất nhiên con cũng có thể tìm đọc những quyển sách đã được xuất bản về đề tài này như quyển The Science Delusion [Khi Khoa học Hoang tưởng] của Rupert Sheldrake, trong đó ông đề cập đến sự kiện là nhiều nhà sinh vật học đang bắt đầu nhìn vượt khỏi thuyết tiến hóa vì trong thuyết này có quá nhiều sự kiện không có lời giải đáp.

Một trong câu hỏi mà thuyết tiến hóa không thể trả lời, hiển nhiên, là làm thế nào sự sống đã khởi sự? Làm thế nào những chất vô cơ (inorganic), vô thức (unconscious) lại đột nhiên nẩy sinh ra các dạng sống?

Và con cũng có thể thấy nhiều lỗ hổng to lớn trong quá trình tiến hóa, ngay cả trong các di tích hóa thạch, chẳng hạn sự bùng nổ của sự sống vào thời kỳ Cambrian nơi một số lớn giống loài đã xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, và điều này rất khó giải thích dựa theo thuyết tiến hóa hiện thời.

Con cũng có thể chỉ ra là mặc dù sự sống hữu cơ đã nẩy sinh dưới dạng các sinh vật đơn bào (single-celled), nhưng làm thế nào các sinh vật này đã bắt đầu tự tổ chức thành sinh vật đa bào? Làm thế nào chúng đã nhảy vọt từ một sinh vật với tế bào vô cùng đơn giản thành một dạng sống phức tạp hơn có khả năng di chuyển đây đó? Làm thế nào chúng đã nhảy vọt từ các sinh vật đơn giản đó để biến thành cá, côn trùng, chim, động vật có vú và nhiều hơn nữa? Làm thế nào sự sống đã di dời từ đại dương lên đất liền? Có quá nhiều câu hỏi mà thuyết tiến hóa không thể trả lời đến độ, nếu các nhà duy vật không vướng mắc với nó đến như vậy, thì thuyết này đã không được xem là một thuyết khoa học – chắc chắn không phải là một thuyết hoàn chỉnh, vì làm sao một thuyết có thể hoàn chỉnh đượv nếu nó không thể giải đáp quá nhiều vấn đề như vậy?

Vấn đề to lớn kia, hiển nhiên, là thuyết tiến hóa không thể giải thích sự nẩy sinh của tâm thức tinh xảo mà con thấy nơi con người. Thuyết tiến hóa dựa trên một số quan sát có giá trị, và như các thày đã có giảng, trên thế giới có một quá trình tuần tự. Hình ảnh mà Kinh thánh đưa ra về một sự sáng tạo chớp nhoáng tức thời thật không đúng lắm nếu chúng ta nhìn đến các giống loài cùng nhiều khiá cạnh khác của sáng thế. Nhưng mặt khác, quả là có một sự sáng tạo tức thời nào đó đã xảy ra, và nếu con không xem Big Bang là sáng tạo tức thời thì cái gì mới là tức thời?

Con rất có thể thay đổi thuyết tiến hóa và nói rằng đã có một số trường hợp sáng tạo tức thời khởi sinh ra một trạng thái mới trên địa cầu, rồi tiếp theo sau là một giai đọan tiến hóa lần hồi, rồi lại có thêm một bước nhảy vọt được tiếp nối bởi thêm một giai đoạn tiến hóa lần hồi. Nói như vậy sẽ hoàn toàn phù hợp với vũ trụ học lẫn các di tích hóa thạch, và như vậy nó sẽ dẫn đến câu hỏi: Vậy chứ cái gì đã đem lại những bước nhảy vọt như thế?

Xong con có thể truy cứu sự kiện là hiện đã có một số nhà khoa học, chẳng hạn như Donald Hoffman, bắt đầu xem xét đến vai trò của tâm thức, rằng phải có một tâm thức nào đó nhúng tay vào quá trình tiến hóa. Ông có đưa ra một định lý đặt nền tảng trên sự hiện hữu của những “tác nhân” có ý thức (conscious agent). Và điều này có thể dẫn đến việc công nhận – một sự công nhận mà một số nhà vật lý học cũng đã ngộ được – rằng một thuyết hoàn chỉnh không thể bỏ qua tâm thức, không thể xem tâm thức như một hiện tượng phụ thuộc (epiphenomenon) của bộ não vật lý, mà trái lại phải bao gồm tâm thức như một yếu tố cốt yếu trong việc sáng thế.

Và điều này có thể dẫn tới sáng ngộ là đã có những tác nhân ý thức không ngụ trong cơ thể con người, không ở trong cõi vật lý, là những sinh thể đã làm thị hiện các bước nhảy vọt thình lình kia trong nguyên tiến trình. Nói cách khác, có những tác nhân có ý thức với một khả năng đồng sáng tạo rộng lớn hơn, một tâm thức rộng lớn hơn con người, đã kích hoạt một trong những bước nhảy vọt đó rồi sau đó đã để yên cho một số định luật tự nhiên đảm trách phần tiến hóa tiệm tiến trong một thời gian, cho đến khi các tác nhân này kích hoạt bước nhảy vọt kế tiếp. Cách nhìn này có thể dẫn đến một thuyết phong phú và lợi lạc hơn rất nhiều, có khả năng thực sự giải đáp nhiều câu hỏi hơn, nhiều câu hỏi mà thuyết tiến hóa hiện thời không có lời giải thích.

Tất nhiên, điều này sẽ khiến cho nhiều nhà duy vật lồng lộn lên trong mộ – hay bất kỳ nơi nào họ đang ở – và nó cũng sẽ đòi hỏi con người phải sẵn lòng nhìn vượt quá thế giới quan duy vật hiện tại. Nhưng càng ngày càng có nhiều nhà vật lý đang nhận thức được rằng không-thời-gian như Einstein quan niệm không thể đứng vững được nữa. Đơn giản đó không phải là một mô hình cho phép chúng ta tiến xa hơn. Và nếu thuyết không-thời-gian không thể sống còn thì việc duy trì một lý thuyết thuần duy vật về nguồn gốc sự sống cũng không sao hợp lý được. Bởi vì phải có gì đó vượt khỏi không-thời-gian, và để hiểu được cái đó, chúng ta phải bao gồm cả tâm thức.

Trên đây chỉ là một vài ý tưởng sơ sài, nhưng ta có thể cam đoan với con là hiện nay đang có nhiều nhà khoa học trong đủ mọi lãnh vực đã cởi mở với những ý tưởng ta truyền rải. Trong thập niên sắp tới hay xa hơn một chút, con sẽ thấy một thay đổi lớn lao trong lãnh vực này, đơn giản là vì có nhiều nhà khoa học thấy được các giới hạn của ý thức hệ duy vật trong đó có thuyết tiến hóa, nhưng cũng vì có nhiều nhà khoa học trẻ tuổi nhận ra là không có khám phá mới nào được phát hiện trong khuôn khổ ý thức hệ hiện thời. Và họ nhận ra là có rất nhiều câu hỏi không thể tìm được câu trả lời, cho nên nếu con không thể trả lời với ý thức hệ hiện tại thì bước lô-gíc là con phải tìm ở bên ngoài ý thức hệ hiện tại.

Về linh hồn của tổ tiên và phong thủy mồ mả

Hỏi: Ở Hàn quốc có một niềm tin là linh hồn của tổ tiên nơi cõi trung giới có thể gây bệnh tật cho con cháu hay có thể ảnh hưởng đến vận may của con cháu tùy theo địa thế phong thủy của ngôi mộ. Những hiện tượng này có đến từ các tổ tiên thực sự hay từ ma quỷ trá hình hay từ một loại thần linh nào đó? Các chân sư khuyên chúng con nên dùng các bài chú, bài thỉnh nào để cắt đứt những rung động hay sự can thiệp không cần thiết của tổ tiên? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 8/7/2023.

Một lần nữa, điều này tùy thuộc vào cách con sử dụng và định nghĩa các từ. Con định nghĩa “tổ tiên thực sự” như thế nào? Điều chúng ta có thể nói là nói chung khi một người qua đời, họ sẽ đi về một tầng cõi nơi họ có khả năng đi tới dựa trên mức tâm thức của họ. Ở nơi đó, họ sẽ kiểm điểm lại kiếp hiện thân đã qua, rồi họ bắt đầu chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp. Trong nhiều trường hợp, kiếp đầu thai kế tiếp sẽ diễn ra trong một môi trường khác chứ không trong cùng một gia đình, thậm chí có thể không cùng một quốc gia.

Nói chung thì tổ tiên đều bước đi tiếp con đường riêng của họ. Và một khi họ đã rời khỏi xác thân, hầu hết mọi dòng sống không còn cùng sự gắn bó với gia đình như các thành viên của gia đình có thể cảm thấy đối với người quá cố. Hiển nhiên là có một số nền văn hóa duy trì sự gắn bó như vậy, hay có truyền thống thờ cúng tổ tiên đến mức nó có thể ngăn cản một số dòng sống bước đi tiếp. Họ trở thành cái được gọi là những hồn không xác, thường khi bị vướng kẹt nơi cõi trung giới và họ không thể bước đi tiếp. Những hồn không xác như vậy có thể ảnh hưởng đến thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc của những người đang hiện thân, nhưng họ không có khả năng ảnh hường cơ thể vật lý hay mang lại điều xui xẻo hay bệnh tật. Đây chỉ đơn giản là mê tín dị đoan.        

Một lần nữa, vấn đề là khi có chuyện gì xảy ra cho ai đó thì người ta muốn giải thích là chuyện này không phải là do lỗi mình, cho nên một số nền văn hóa phóng chiếu vấn đề vào tổ tiên. Nhưng điều này không thực tế.

Tuy nhiên có một số người có thể bị ảnh hưởng bởi một người thân quá cố đã trở thành một hồn không xác không thể bước đi tiếp, đặc biệt là – tất nhiên – nếu họ có sự dính mắc. Nếu con có dính mắc với bà ngoại của con và dính mắc này ngăn cản bà bước đi tiếp, thì bà ngoại con – như một hồn không xác – có thể tìm cách ảnh hưởng con để khiến con buông bỏ dính mắc hầu linh hồn có thể bước tiếp.

Các loại bài thỉnh, bài chú tốt nhất mà con có thể đọc là các bài cho Astrea để thày cắt đứt cho con được tự do, hay cắt đứt để tổ tiên con được tự do bước đi tiếp. Và tất nhiên, chính con cũng cần xét xem con có sự gắn bó, dính mắc nào đối với người thân trong gia đình hay không, xong con buông nó ra và cho phép họ bước tới.

Lạm dụng tình dục trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích cho chúng con cơ chế năng lượng của ấu dâm cùng những hành vi che giấu trong Giáo hội Công giáo. Việc sa nhân xâm hại tình dục không phải là chuyện lầm lỗi vì sa nhân rất lành nghề trong các kỹ thuật bòn rút năng lượng. Nhưng điều khiến con hoang mang là những vụ lạm dụng tình dục đã xảy ra với một số vị sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và những vụ này đã được che đậy trong nội bộ hay có khi bị truyền thông phơi bày.

Đã có rất nhiều bản tin về hành vi xâm phạm tình dục các nữ đệ tử bởi những nhà sư rất được kính trọng. Liệu việc tà dâm sẽ chẳng cản trở sự phát triển tâm linh cùng việc thăng thiên của các vị đó hay sao? Liệu chúng con có nên xem việc lạm dụng tình dục của các nhà sư Tây Tạng là hệ quả của một truyền thống tôn giáo trọng nam một cách độc đoán chăng? Hay chúng con nên giả sử là trong số các vị Rinpoche của Tây Tạng có thể có sa nhân? Con không nghĩ là một người đã đạt được một mức tâm thức cao cần đến chuyện đánh cắp năng lượng qua việc xâm hại tình dục, cho nên con hoàn toàn không hiểu nổi tại sao họ lại cư xử như vậy trong việc thể hiện tình dục của họ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 7/7/2023.

Vấn đề thực sự trong tất cả những trường hợp đó là cho dù con có theo một truyền thống tâm linh nào – có thể là truyền thống đạo Phật, truyền thống đạo Cơ đốc, truyền thống đạo Ấn – con sẽ thiết lập một loại tổ chức nào đó, một giáo hội nào đó, một truyền thống tu viện nào đó. Con thiết lập một cấu trúc thứ bậc nhất định và luôn luôn sẽ có sự phóng chiếu là những ai đã đạt được một vị trí cao hơn trong tổ chức vỏ ngoài cũng phải đạt đến một mức tâm thức cao hơn. Đây là cạm bẫy tàn hại cho tất cả mọi người tâm linh trong mọi truyền thống tâm linh. Có lẽ sự lầm lẫn này là một cách phản ứng có thể thông cảm được – ít ra là thông cảm được trong quá khứ, nhưng không thể thông cảm hay bào chữa được trong thời đại hôm nay.

Thực tế là bất cứ khi nào con tạo ra một tổ chức có cấu trúc thứ bậc nơi người càng ở trên cao càng có nhiều quyền hành, thì tổ chức này sẽ thu hút những ai mong muốn quyền lực, hay địa vị, hay uy tín. Nhưng có thật khó lắm hay chăng để nhìn ra là những ai chạy theo quyền lực, địa vị và uy tín không thể là người có tâm thức cao? Bởi vì tại sao một người có tâm thức cao, một trạng thái tâm thức tâm linh, lại muốn quyền lực, địa vị và danh vọng trên trái đất chứ? Thật không khó lắm để con xoay chuyển và nhìn ra là không một truyền thống hay tổ chức tâm linh nào có thể thoát khỏi cơ chế này. Con tạo ra một số địa vị và các địa vị này sẽ hấp dẫn những ai muốn hưởng một điều gì đó từ địa vị. Và những người này có thể là sa nhân, nhưng họ cũng có thể là những người chưa sa ngã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, thậm chí bị chi phối bởi lời gian dối cho rằng nếu họ đạt được một chức vụ trong tổ chức tâm linh chân chính độc nhất này thì nhất định họ sẽ phải được nhận vào thiên đàng.

Quả thật là trong truyền thống Tây Tạng và các truyền thống Phật giáo khác có những sa nhân đã đạt đến các chức vụ cao cấp, và do đó họ đã lạm dụng những người thấp hơn họ, như sa nhân vẫn thường làm. Có một số người đã đạt được các chức vụ đó và mở ra cho các thế lực bóng tối từ cõi cảm xúc, và các thế lực này đã khiến họ xâm hại tình dục người khác để các sinh thể ở cõi cảm xúc có thế rút lấy năng lượng từ họ.

Hiển nhiên là con hoàn toàn chính xác khi con nói một người với trình độ tâm linh cao hơn sẽ không cần lấy năng lượng từ người khác, cho dù là qua sinh hoạt tình dục hay qua việc người khác kính trọng, thờ phượng hay đưa họ lên làm thần tượng. Cho nên khi con thấy người nào cần những thứ này thì con biết họ không ở trong một trạng thái tâm thức cao. Nhưng một lần nữa, vấn đề là các tổ chức tâm linh phóng chiếu ra là những ai ở các chức vụ lãnh đạo nhất định phải là người có tâm thức cao – và sự thật thường thường không là như vậy, bởi vì trong một truyền thống tâm linh hay một giáo hội được thành lập lâu đời với một guồng máy tổ chức to lớn, những ai bị thu hút vào các chức vụ lãnh đạo chính là những kẻ mong muốn một cái gì đó của thế gian mà họ nghĩ chức vụ sẽ cung cấp cho họ.

Đơn giản là con cần điều chỉnh lại cái nhìn của con. Nếu con biết Giáo hội Công giáo đã bị nạn ấu dâm và xâm hại tình dục lũng đoạn, tại sao con lại nghĩ là Phật giáo Tây Tạng hay bất kỳ truyềng thống tâm linh nào khác sẽ không bị lũng đoạn như vậy? Điều này cho thấy là con có một xu hướng thần tượng hóa nào đó đối với một truyền thống tâm linh đặc thù, vì một cách nào đó, con nghĩ là mặc dù truyền thống này do người phàm điều hành, nhưng những người phàm này sẽ không làm giống như những người phàm kia. Nhưng niềm tin này không thực tế đâu con.

Ta hoàn toàn không dung túng hay bào chữa sự lạm dụng tình dục cho dù trong một truyền thống Phật giáo hay bất kỳ truyền thống nào khác. Đương nhiên những người làm vậy sẽ tạo nghiệp cho chính họ, và sẽ không có cách nào họ thăng thiên được sau kiếp này hay có lẽ sau nhiều kiếp, hay có thể là không bao giờ.

Nhưng câu hỏi cũng cần được đặt ra trong bối cảnh này là liệu trong thế giới hiện đại có cần tiếp tục truyền thống độc thân cho những người tâm linh trong một tổ chức tâm linh không? Rõ ràng nạn ấu dâm và xâm phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo liên hệ chặt chẽ với sự đòi hỏi là các linh mục phải sống độc thân, nhưng điều này cũng không khác gì bất kỳ truyền thống tâm linh nào khác nơi sự độc thân cũng là một yêu cầu. Nhưng liệu nó có còn cần thiết hay không? Trong quá khứ đã có lý do để đòi hỏi như vậy, nhưng liệu có cần thiết hay không trong thời đại hôm nay? Ta không cho con một câu trả lời dứt khoát là có hay không, mà ta chỉ nói rằng nếu con thực sự mong muốn khắc phục nạn lạm dụng tình dục thì con cần giải quyết vấn đề này. Việc sống độc thân có cần thiết trong thời hiện đại hay không, và nó có cần thiết hay không trong một truyền thống tâm linh?

Điều gì là cần thiết trong một truyền thống tâm linh? Đó là sự điều ngự các ham muốn tình dục. Nhưng mục tiêu này có nhất thiết đạt được một cách tự động qua việc phủ nhận các ham muốn tình dục? Hay thật ra mục tiêu sẽ đạt được hiệu quả hơn qua sinh hoạt tình dục trách nhiệm? Không có câu trả lời rõ rệt là có hay không cho những câu hỏi trên, nhưng đây là những câu hỏi cần được đặt ra để có thể khắc phục vấn đề.

Và tất nhiên, ta biết rất rõ là trong nhiều truyền thống đạo Phật sẽ có nhiều sự chống đối không muốn nhìn vào điểm này. Nhưng nếu thế thì vấn đề xâm phạm tình dục sẽ chỉ càng ngày càng trở nên tệ hơn để buộc mọi người phải xem xét vấn đề.

Không dính mắc nhưng không thờ ơ

Hỏi: Câu này con xin hỏi Phật Gautama hay một vị chân sư nào khác. Xin thày vui lòng giải thích khác biệt giữa sự không dính mắc, sự vô cảm thờ ơ và trạng thái tâm thức trung hòa? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Không dính mắc chỉ là một từ khác cho trạng thái tâm thức trung hòa. Trung hòa có nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì có thể kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể chọn lựa đặt chú ý của mình về một hướng nào đó nhưng không có gì có thể lôi kéo được con. Tại sao không có gì lôi kéo được con? Vì con không có dính mắc. Tại sao con không có dính mắc? Vì con không có một ngã tách biệt, một ngã tiềm thức nào mong cầu một kết quả đặc thù hay tránh né một điều gì trên trái đất. Còn sự thờ ơ, tất nhiên, là khi con thụ động, tâm con thụ động.

Có lẽ chúng ta nên bước lui lại một chút và nhìn xem ta đã nói gì cách đây 2500 năm, Giê-su đã nói gì cách đây 2000 năm và các thày nói gì ngày hôm nay. Đúng thật là khi con nhìn vào, đặc biệt là những lời dạy ta đã trao truyền 2500 năm về trước trong kiếp hiện thân Phật Gautama, thì một số Phật tử đã diễn giải là nếu con đạt được trạng thái không dính mắc đó, cực lạc đó, tam muội đó (samadhi), niết bàn đó (nirvana) cho dù người ta gọi đó là gì, thì nói chung con trở nên vô cảm thờ ơ. Con không quan tâm đến bất cứ gì trên địa cầu. Không có chuyện gì con muốn làm, cho nên con rút ra khỏi xã hội, con ngồi trong tu viện hay hang đá và con thiền quán về Thượng đế bởi vì con không quan tâm bất cứ chuyện gì trong thế gian. Đây là một diễn giải sai lạc về những gì ta đã dạy, những gì Giê-su đã dạy, những gì các thày ngày nay giảng dạy.

Nói chung con có thể nói, con là một sinh thể tâm linh, Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con ở cõi thăng thiên, hay đúng hơn, nó không là một chân sư thăng thiên nhưng chắc chắn nó ở cõi tâm linh, cho nên Hiện diện TA LÀ của con có khả năng trải nghiệm cõi tâm linh. Tại sao nó lại muốn gửi một phần của nó – cái Ta Biết – xuống một thế giới hình tướng và đặc biệt một hành tinh như trái đất? Tại sao chứ?

À, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống thế gian để con có một trải nghiệm tâm linh vì nó có thể có trải nghiệm này ở ngay cõi tâm linh rồi, cho nên nó gửi con xuống thế gian để trải nghiệm thế gian. Nhưng làm thế nào con trải nghiệm được thế gian nếu con ngồi trong hang núi Himalaya, thiền quán về Thượng đế và bỏ mặc thế gian? Đó không phải là lý do con tồn tại, lý do con đang ở trong thế gian. Con ở trong thế gian là để có những trải nghiệm, và những trải nghiệm này bao gồm cả những công việc con làm, và chắc chắn con năng hoạt trong thế gian. Nếu Hiện diện TA LÀ không muốn trải nghiệm thế gian thì việc gì nó phải mất công đem một phần của nó vào một xác thân vật lý? Nó đã có thể rút lại phần này và tập trung vào việc tăng triển ở cõi tâm linh, và tất nhiên đây là điều con sẽ làm sau khi con thăng thiên, nhưng dù sao thì con cũng hiểu ý ta muốn nói.

Mục đích con hiện thân trong cõi vật lý là để tham gia vào lý duyên khởi, và thế gian chính là lý duyên khởi này. Con nếm nhiều trải nghiệm, con làm nhiều công việc, con nêu gương cho người khác thấy là mình có khả năng khắc phục sự dính mắc với thế gian, cho nên mình có thể ở trong thế gian mà vẫn an bình. Làm thế nào con ở trong thế gian mà vẫn an bình? Bằng cách vượt qua các dính mắc của mình và bước vào tâm thái trung hòa.

Nhưng trung hòa không có nghĩa là con không làm gì. Con vẫn có thể tham gia vào một hoạt động vỏ ngoài và đồng thời ở trong một tâm thái trung hòa. Chỉ có nghĩa là trải nghiệm của con sẽ khác hơn mà thôi. Kỳ thực con có thể vui hưởng hoạt động đó, bởi vì khi con ở trong một tâm thái dính mắc thì con không thể tận hưởng việc tham gia vào hoạt động vì con luôn luôn chú tâm vào thành quả của hoạt động – cho đến khi con biết rõ thành quả là gì thì con không thể thực sự vui hưởng hoạt động. Đây chính là câu ngạn ngữ quen thuộc khi người ta bảo rằng điểm đến không quan trọng mà là hành trình, kết quả không quan trọng mà là tiến trình.

Khi con bước vào tâm thái trung hòa, con có thể vui hưởng tiến trình sống trong kiếp hiện thân cho dù con có đạt được hay không đạt được thành quả vỏ ngoài. Con không có vai trong tấn tuồng muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra, con không ở trong tấn tuồng cuồng đại muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra trong thế gian. Nhưng con không thờ ơ vô cảm, con không thụ động, con không chỉ ngồi đó mà không làm gì hết.

Làm thế nào khiến thời gian đi nhanh hơn hay chậm hơn 

Hỏi: Xin thày vui lòng giải thích làm thế nào khiến cho thời gian gia tốc hay đi chậm lại? Điều này có khả thi không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

À, thời gian là gì? Tùy theo con định nghĩa thời gian.

Đây là một đề tài rộng lớn hơn những gì ta muốn đào sâu ở đây, nhưng thực tế là thời gian là một cấu trúc của tâm. Phần nào nó dựa trên ảo tưởng tách biệt, phần nào trên tâm đường thẳng.

Con có thể nói giống như nhiều người vẫn nghĩ – nhiều người tâm linh vẫn nghĩ – là khi con sinh ra đời, con có một tuổi thọ nhất định mà các thày đã gọi là tuổi thọ tự nhiên của con. Có nghĩa là con có thể sống đến 70 tuổi chẳng hạn xong con qua đời. Nhưng các thày cũng có giải thích là nếu con lạm dụng quyền tự quyết của người khác, làm một số hành vi nào đó, thì con có thể gia tốc thời gian theo nghĩa là con sẽ qua đời sớm hơn. Nhưng nếu con chân thành nỗ lực tự thăng vượt và khắc phục các khuôn nếp của mình, con có thể khiến thời gian chậm lại cho nên con sẽ sống lâu hơn.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là như một đệ tử tâm linh, con có phần nào khả năng làm cho thời gian chậm lại, theo nghĩa là con có thể ở lại kiếp hiện thân lâu hơn so với tuổi thọ tự nhiên của cơ thể con. Nhưng đồng thời con cũng gia tốc thời gian, theo nghĩa là con sẽ đạt đến các tầng tâm thức cao nhanh chóng hơn là con có thể nếu con không bước trên đường tu tâm linh.

Về đề tài làm chậm thời gian, con có thể nghĩ là ta đã không trả lời câu hỏi của con, nhưng đó là vì tâm thức tách biệt lẫn tâm đường thẳng phóng chiếu ra rằng thời gian là một thực tại khách quan – thời gian có một sự tồn tại khách quan nào đó. Nhưng không phải vậy đâu, đó là một trải nghiệm chủ quan do tâm chế tạo. Điều xảy ra trên hành tinh địa cầu là tuyệt đại đa số mọi người đang hiện thân ở đây đã chấp nhận cùng một cái nhìn về thời gian: Họ nghĩ đó là một sự vật bên ngoài, họ nghĩ nó đường thẳng – nó chỉ có thể đi về một hướng mà thôi và nó phải không ngừng đi tới.

Nhưng nếu con ở trong một trạng thái thiền định sâu, nếu cái Ta Biết của con bước ra ngoài tâm vỏ ngoài và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết, thì kỳ thực đối với con, thời gian ngừng lại.

Con cũng biết là đôi khi con có cảm tưởng thời gian như trôi chậm lại: “Đến khi nào mới hết ngày làm việc đây?” Lần khác, con nhìn ngược lại một ngày trôi qua và con nghĩ: “Chà, làm sao xảy ra quá nhiều chuyện chỉ trong một ngày?” Trên đường tu tâm linh, thông thường con nhìn lại 10, 20, 30 năm trước – là thời điểm con bắt đầu cất bước trên đường tu – và con cảm thấy mình đã kinh qua biết bao thay đổi, biết bao tiến bộ, đến độ con tưởng như thể mấy kiếp sống đã trôi qua. Bước chân trên đường tu là cách hay nhất để con khiến cho thời gian chậm lại hay nhanh lên.

Nhưng dĩ nhiên nếu con thấy vấn đề này quan trọng, con có thể suy nghiệm về bí ẩn của thời gian. Con có thể xem các lời dạy mà các thày đã trao truyền về điều này, và con có thể tự giải thoát, ít ra bắt đầu tự giải thoát khỏi tâm đường thẳng. Nếu con nhìn xem khoa học nói gì, thì khoa học bảo là không gian hiện hữu. Khoa học bảo là trái đất quay quanh chính nó và nó cũng quay quanh mặt trời. Đó là điều hầu hết mọi người đều nghĩ đến. Con biết là khi con đứng trên mặt trái đất thì con đang di chuyển nhanh kinh hồn trong không gian, vì khi trái đất quay thì cơ thể con quay theo trong không gian, và vì trái đất cũng quay quanh mặt trời cho nên con cũng quay theo một cách khác nữa. Thật sự nếu con nhìn cơ thể con trong không gian tuyệt đối, con đang di chuyển theo một hình xoắn ốc.

Nhưng điều mà ít người nghĩ đến là chính Thái dương hệ cũng di chuyển trong không gian. Và vì Thái dương hệ di chuyển một cách tương đối so với các hệ mặt trời khác, và các mặt trời di chuyển tương đối so với toàn bộ dải thiên hà, và thiên hà thì di chuyển tương đối so với các thiên hà khác trong vũ điệu toàn vũ vĩ đại này, cho nên nếu con bảo: “À đây là không gian tuyệt đối, tôi đang theo dõi quỹ đạo của cơ thể tôi bay ngang qua khoảng không gian này,” thì con sẽ thấy đây là một hình dạng vòng xoắn ốc vô cùng phức tạp. Quỹ đạo này có thể được mô tả bằng toán học, vì các nhà toán học đã khám phá ra phương trình cơ bản cần thiết, chỉ có điều là họ chưa đem ra áp dụng.

Ý ta muốn nói ở đây là thời gian là một hàm số của không gian và sự chuyển động. Sự chuyển động trong không gian là điều tạo ra ảo tưởng thời gian. Và con có thể suy nghiệm điều này. Con có thể suy ngẫm làm thế nào giải thoát tâm con khỏi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế của tâm đường thẳng muốn nhìn tất cả mọi thứ trong sự chuyển động đường thẳng: Thời gian chỉ có thể đi theo một hướng, thời gian phải không ngừng đi tới, rồi có vấn đề nhân và quả, vân vân. Và từ đó con có thể nhận ra là trái đất hay chính con đang chuyển động qua không gian, nhưng sự chuyển động này vô cùng phức tạp, nó không đường thẳng, nó không thẳng tắp theo một đường.

Con đang chuyển động trong vũ điệu vũ trụ vô cùng phức tạp này mà ta đã gọi là lý duyên khởi, và các thày thì gọi là Dòng sông sự Sống. Và khi con suy nghiệm sự thể này, con có thể đạt tới điểm con bắt đầu trải nghiệm nó. Khi đó, con sẽ trải nghiệm là thời gian hết quan trọng. Không có thời gian.

Ý nghĩa của trinh tiết

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, xin thày vui lòng tiết lộ bí mật về mục đích của trinh tiết nơi các thiếu nữ trong đạo Cơ đốc. Người ta rất coi trọng trinh tiết và áp đặt nhiều cấm đoán, luật lệ đối với các cô gái ngay từ tuổi thơ ấu. Tại sao thiếu nữ bị phái nam dụ dỗ, bị thúc ép để có quan hệ tình dục trước hôn nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Tùy vào tiền kiếp của mỗi người, nhưng hầu hết trẻ em đều sinh ra với một ân sủng trong sáng, ngây thơ nào đó. Nói cách khác, con có thể bảo là ở tuổi thơ ấu, có một phần nào đó của quá khứ, của nghiệp chướng, của năng lượng tha hóa, của động lượng mà con đem theo từ tiền kiếp sẽ được giữ lại, để trong tuổi thơ ấu con có cơ hội tạo ra một cách tiếp cận mới cho cuộc sống trong kiếp này. Nhìn từ nhãn quan này, con có thể nói là nhiều đứa trẻ khởi sự cuộc sống với một nét hồn nhiên, một năng lượng thuần khiết nào đó.

Không phải tất cả mọi trẻ em đều như vậy, tùy vào tiền kiếp và tùy vào tâm lý em bị thương tổn và phức tạp đến chừng nào, nhưng hầu hết các em đều như vậy. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là em có một năng lượng nào đó, một ánh sáng tâm linh nào đó, và khi em lớn lên, có nhiều yếu tố có thể khiến em đánh mất năng lượng này, đánh mất sự hồn nhiên này. Trong số đó có quan hệ tình dục. Không có nghĩa là em phải mất sự hồn nhiên trong một quan hệ tình dục, nhưng đây là một trong những yếu tố sẽ lấy đi sự hồn nhiên của em. Một yếu tố khác là rượu, ma túy, thuốc lá, bạo hành cùng nhiều thứ nữa.

Trong số các sa nhân đầu thai và suốt một thời gian rất dài, người ta đã đề ra một khái niệm là việc quan hệ tình dục với trẻ em hay với thanh thiếu niên còn trinh trắng có thể đem lại nhiều ánh sáng hơn. Và tất nhiên, các sa nhân bị cắt đứt khỏi nguồn ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của chúng, sẽ phải đoạt ánh sáng theo chiều ngang từ một ai khác trong thế gian. Chúng tìm kiếm điều này qua quan hệ tình dục với trẻ em, và ngay cả trong số các trẻ em đó thì chúng tìm kiếm trẻ em còn trinh trắng vì ở lần đầu tiên sa nhân có thể cướp được nhiều ánh sáng hơn. À, ta không bảo là con sẽ tự động đánh mất tất cả hồn nhiên tuổi thơ của mình lần đầu tiên con quan hệ tình dục, nhưng nếu con quan hệ lần đầu với sa nhân thì xác suất rất cao là con sẽ mất đi phần lớn. Nếu con quan hệ với một người không phải là sa nhân thì sự thể không đến nỗi như vậy. Nhưng sa nhân rất lão luyện trong việc rút năng lượng của người khác, cho nên nếu đứa trẻ có quan hệ đầu tiên với một sa nhân thì em sẽ đánh mất hầu hết, nếu không nói là tất cả, sự ngây thơ và năng lượng của em.

Điều sa nhân đã làm suốt các thời đại là chúng xây dựng đủ loại chủ nghĩa kín đáo – nếu có thể gọi như vậy – nhằm mục đích tạo cơ hội cho chúng đoạt ánh sáng này qua quan hệ tình dục với trẻ em hay thanh thiếu niên, đặc biệt những em còn trinh trắng. Và chúng cũng đã cố dùng đủ mọi cách để truyền bá, biện minh cho cách hành xử này. Con có thể tự hỏi tại sao một số linh mục Công giáo đã mắc vào vòng xoáy lạm dụng tình dục trẻ em như vậy, và câu trả lời là cách hành xử này bắt nguồn từ sa nhân cùng cách rút năng lượng của chúng. Không có nghĩa là tất cả các linh mục Công giáo đã lạm dụng trẻ em đều là sa nhân, nhưng chắc chắn họ đã phần nào bị chiếm hữu bởi những sa nhân đang đánh cắp năng lượng của linh mục ngay trong khi chúng cũng đánh cắp năng lượng của trẻ em.

Trong nhiều tôn giáo suốt chiều dài lịch sử đã có khái niệm xem trinh tiết là hệ trọng. Con có thể nói là một đằng, có mong muốn bảo vệ trẻ em khỏi bị quan hệ tình dục quá sớm hay thậm chí có quan hệ với sa nhân. Có một khía cạnh nhân từ trong đó mà nhiều nước dân chủ thế tục hiện đại đã bỏ quên khi các nước này cho rằng việc cho trẻ em ở mọi lứa tuổi quyền tự do quan hệ tình dục nếu các em muốn, có thể đem ra bàn cãi– vì tất nhiên, đây là một điều mọi kẻ ấu dâm đều mơ ước.

Con thấy một phần trọng điểm của cái nhìn truyền thống là để bảo vệ trẻ em, nhưng đồng thời lại có một yếu tố khác xen vào ở đây là người ta đặt thêm trọng điểm vào việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn hầu sa nhân có cơ hội đoạt lấy. Và ở đây có sự phối hợp của cái lành mạnh lẫn cái không lành mạnh.

Điều chúng ta có thể nói là việc quan hệ tình dục quá sớm có thể tai hại cho đứa trẻ. Điều này cũng tùy thuộc phần nào vào người đối tác. Nếu có hai em quan hệ với nhau ở tuổi vị thành niên thì sự mất mát sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu cả hai đều ở trong một trạng thái tâm thức tốt lành. Tuy nhiên, việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn vẫn có giá trị, chẳng hạn nếu em trao trinh tiết cho một người yêu chân thành trong một mối quan hệ dài hạn nghiêm túc thay vì xem tình dục là một chuyện hời hợt như nhiều người thường làm. Và chắc chắn ta sẽ nói là tình dục trước tuổi vị thành niên thật không lành mạnh cho bất cứ ai.

Sa nhân tinh vi vô cùng. Trong một vài tôn giáo cổ xưa như đạo Cơ đốc, đạo Do Thái, đạo Hồi, xã hội do nam giới thống trị – một xã hội dựa trên người cha làm trưởng tộc. Như các thày đã giải thích nhiều lần, sa nhân tận dụng sự kiện này vì đối với sa nhân đàn ông dễ kiểm soát hơn phụ nữ. Và người ta tạo ra ý niệm: “Phái nữ có mặt là để phục vụ cho phái nam thỏa mãn tình dục, và người vợ luôn luôn phải quan hệ tình dục với chồng bất cứ khi nào chồng muốn, vân vân.” Một lần nữa điều này bắt nguồn từ sa nhân vì trong bất kỳ loại xã hội nào, các sa nhân đầu thai đều muốn chiếm lấy địa vị có quyền làm bất cứ gì chúng muốn, và sự thể này được xã hội chấp nhận và bào chữa. Đây là điểm mà con cần nhìn thấu suốt trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong xã hội, cho dù đó là chuyện tôn giáo hay chuyện gì khác như một chế độ chính trị, bất kể.    

Con có thể nói là trong nhiều hoàn cảnh đã có một ý muốn tốt lành là bảo vệ con người, nhưng sa nhân sẽ luôn luôn tìm cách khuynh đảo ý muốn đó để phục vụ quyền lợi của chúng. Mục đích là để chúng có thể lạm dụng và trốn tránh hậu quả trong khi quần chúng nói chung thì không thể.

Thắp nến

Hỏi: Xin thày nhận xét về việc thắp nến ở nơi thờ phượng. Theo lời dạy của một chân sư thăng thiên, có nhiều biểu hiện tâm thức phản Ki-tô trong các nhà thờ. Vậy trong trường hợp này, việc thắp nến có thể hiệu quả không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 13/5/2023.

Thắp nến trong nhà thờ có thể hiệu quả trong việc thắp sáng một chỗ tối để con không bị vấp ngã khi con đi trong nhà thờ. Bảo rằng việc thắp nến có thể có bất kỳ tác dụng thần thánh nào, hay có thể làm gì đó cho một vị thánh hay cho Thượng đế, tất nhiên là chuyện hư cấu. Làm sao ta, trong tư cách một chân sư thăng thiên, lại cần đến một ai đó thắp nến cho ta trong bất kỳ nhà thờ nào trên trái đất? Làm sao ta lại có thể có nhu cầu này? Làm sao Mẹ Mary có nhu cầu người ta thắp nến cho thày trong bất kỳ nhà thờ Công giáo nào? Đó là chuyện hư cấu, nhưng một lần nữa, bất cứ gì cũng đều có thể mang lại một hiệu ứng giả dược (placebo).

Đối với những người tin đạo nói chung, thật không quan trọng nếu họ thắp nên hay không. Điều quan trọng hơn nhiều là nếu họ có thể nâng cao tâm thức cùng sự nhận biết của họ, nhưng có thể họ không có khả năng làm được như vậy. Nếu họ tin vào những chuyện vỏ ngoài thế kia – cho dù là nến hay nước thánh hay nghi lễ này nghi lễ nọ – thì điều này cho thấy là họ đang ở một tầng tâm thức chưa sẵn sàng tiếp nhận các giáo lý nội tâm mà ta đã giảng dạy cho đệ tử của ta. Họ vẫn bị vướng kẹt ở một mức cần đến những chuyện ngụ ngôn và những thứ vỏ ngoài, và do đó các chân sư thăng thiên không thể chạm được họ. Các thày thực sự không quan tâm gì đến những điều đó, nhưng tất nhiên khi con đặt câu hỏi như một học trò của chân sư thăng thiên thì thày phải nói: Đó là chuyện hư cấu. Nó không có tác dụng gì hết.

Các thày không bảo là con không nên thắp nến nếu con thích thú làm vậy. Nhưng con đừng bước vào tư duy cho rằng thắp nến sẽ khiến các thày ban cho con một loại hồng ân hay ân sủng nào đó. Nó không liên quan gì đến chuyện này. Các thày muốn con xoay chuyển tâm thức của con, và chính việc xoay chuyển tâm thức sẽ có tác dụng trên đời sống của con.

Ngay cả khi có người uống nước mà họ nghĩ là nước thánh rồi họ được chữa bệnh, không phải là nước đã chữa lành họ đâu. Lý do là vì họ đã xoay chuyển tâm thức, ít ra là nhất thời. Nhiều khi con sẽ thấy là loại chữa lành này không kéo dài và căn bệnh lại tái xuất hiện sau một thời gian. Điều các thày muốn nhìn thấy là một sự nâng cao tâm thức thường tồn, và đây chính là mục đích của tất cả mọi lời dạy của các thày.

Thông minh nhân tạo và công nghệ ChatGPT

Hỏi: Xin các chân sư vui lòng trình bày về những phát triển gần đây trong ngành thông minh nhân tạo phát sinh (generative artificial intelligence) hay AI, chẳng hạn như ChatGPT, và nói đến tiềm năng cao nhất của công nghệ này. Có những mối lo ngại hay mối nguy tiềm ẩn nào mà chúng con cần biết đến không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 11/5/2023.

Chúng ta hãy bước lui lại một chút và nhìn vào công nghệ nói chung. Đâu là mục đích cao hơn của công nghệ? Như ta đã có nói, ngay cả trong hai kiếp đầu thai chót của ta, ta đã thấy rõ là chừng nào con người còn dành ra từng nấy thời gian, từng nấy chú ý và từng nấy năng lực chỉ để kiếm sống và giữ cho cơ thể vật lý tồn tại, thì họ sẽ không còn gì sót lại để bước chân trên đường tâm linh và nâng cao tâm thức. Ta đã thấy rõ là mặc dù có nhiều cách để thực hiện điều này trong dài hạn, nhưng trong ngắn hạn, cách duy nhất là qua trung gian công nghệ, và công nghệ thì tất nhiên phải thông qua khoa học.

Khi con nhìn lại cách sống của con người chỉ 100 năm về trước hay chắc chắn là 200 năm về trước, con sẽ thấy gần như ai ai cũng sống trong một cộng đồng nông nghiệp. Họ phải thức dậy thật sớm buổi sáng để nuôi gia súc, họ phải làm lụng ngoài đồng ruộng, và buổi tối khi cuối cùng họ đặt lưng lên giường thì họ đã quá mệt mỏi để làm bất cứ gì khác. Ngay cả việc đọc sách cũng là quá sức nếu như họ biết đọc – và tất nhiên, nhiều người không biết đọc. Kể từ thời đó, điều đã xảy ra là công nghệ đã được sử dụng để mang lại cho họ một ngày làm việc càng ngày càng ngắn hơn, thời gian di chuyển cũng ngắn hơn, họ có thể nấu ăn nhanh hơn và làm nhiều việc khác cũng nhanh hơn, và họ tiết kiệm được thời gian. Chính điều này đã giải phóng thời gian của mọi người để họ thoát khỏi các công việc sinh tồn cơ bản đó.

Tất nhiên, con vẫn có thể nói là trong thế giới ngày nay, nhiều người vẫn bận rộn hơn bao giờ hết, vì khi họ có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn thì cũng có nhiều chuyện hơn sẽ lôi kéo sự chú ý của họ. Và hiển nhiên, đa số những chuyện lôi kéo chú ý của họ lại phát xuất từ nền công nghệ, chẳng hạn như internet, truyền hình, radio, sách đọc, vân vân. Dẫu sao con vẫn thấy được là mọi người, ít ra ở các nước giàu có hơn, có sự chọn lựa sử dụng thì giờ rảnh rỗi của mình để phát triển cá nhân, để tăng triển cá nhân, thậm chí để bước theo một đường tu tâm linh.

Và ở nhiều nước tiền tiến, con thấy ngày càng có nhiều người hơn bắt đầu đặt trọng tâm vào việc tăng triển cá nhân, luyện tập, thiền tập hay chánh niệm, hay nhiều việc khác nhằm tăng triển tâm linh. Rất có thể họ không gọi đó là tâm linh nhưng họ phát triển cá nhân, họ mở rộng tâm thức. Đó chính là mục đích của công nghệ từ một tầm nhìn cao hơn, và trong tầm nhìn này, công nghệ AI, công nghệ thông minh nhân tạo, có thể được xem vỏn vẹn là một bước tiến xa hơn, bởi vì khi con có càng nhiều công nghệ AI, khi nền công nghệ càng hiệu năng, thì nó sẽ càng có khả năng đảm nhận một số công việc lặp đi lặp lại mà người ta phải làm. Và điều này sẽ một lần nữa cho con người nhiều thời gian hơn để tập trung vào những việc khác.

Ta cũng biết là con luôn luôn có thể tranh luận là AI có thể tước mất việc làm của một số người, nhưng về lâu về dài, nói chung là nền công nghệ – hay công nghệ AI nói riêng – sẽ không khiến cho con người trở nên vô dụng. Luôn luôn sẽ có nhu cầu cần đến con người vì sẽ có giới hạn trong việc tận dụng công nghệ AI.

Bây giờ chúng ta có thể nhìn vào mặt trái của đồng tiền, trong khía cạnh cùng cực nhất của công nghệ là vũ khí hạt nhân. Tại sao các thày lại truyền rải kiến thức về cách làm vỡ hạt nguyên tử và chế tạo bom hạt nhân? À, một phần là vì các thày thấy được loài người không thăng vượt tâm thức nhị nguyên đủ nhanh, và trên thế giới có sự phân cực rõ rệt giữa Liên Xô và khối cộng sản một bên, và các quốc gia tự do hơn ở bên kia. Cho nên thật sự có hiểm họa xảy ra hết cuộc chiến này đến cuộc chiến nọ, và vì vậy việc phóng thích công nghệ hạt nhân sẽ khiến cho những nước nghĩ đến việc giao chiến phải cân nhắc: “Nếu chúng ta khai chiến với một nước có vũ khí hạt nhân thì cuộc chiến có tiềm năng leo thang đến mức nào? Không những nó có thể dẫn đến sự tàn phá đất nước mình mà liệu nó sẽ tàn phá cả hành tinh?” Ở Liên Xô, thật đã có những người thấy được là nếu mục đích của họ là bành trướng chủ nghĩa cộng sản đến toàn hành tinh thì họ không thể đạt mục đích này bằng cách tàn phá hành tinh trong một cuộc chiến hạt nhân.

Ta có thể nói với con là sau Thế chiến thứ Hai đã có thể có mấy cuộc chiến vô cùng tàn khốc rồi nếu nền công nghệ hạt nhân không được phóng thích. Có thể nói là công nghệ có một khía cạnh không mấy xây dựng là đẩy tình hình tới mức cùng cực đến độ, do tiềm năng của công nghệ, con người bị buộc phái xét lại và qua đó họ học được một vài bài học mà họ đã không sẵn lòng học hỏi một cách tự nguyện. Có thể nói là một khía cạnh của công nghệ là nó khiến cho những cú giáng của Trường đời Cay đắng càng đắng cay hơn để bắt buộc con người phải xuy xét trước khi hành động.

Và cũng thế trong chiều hướng này, công nghệ AI có thể giữ một vai trò, là trên thế giới có những người đang đầu tư tất cả tài nguyên, sự chú ý lẫn nguồn lực của họ vào công nghệ AI vì họ nghĩ họ có thể tạo ra một thực thể có sự ý thức– họ có thể chế ra một bộ máy có khả năng tự nhận biết. Đây là một giấc mơ, và cũng chính là giấc mơ của sa nhân từ ngàn đời. Sa nhân đã đeo đuổi chuyện này qua đủ mọi cách. Một trong những cách này là cái mà các thày, đặc biệt trong một đợt truyền pháp trước, gọi là quan niệm “con người maý móc” qua đó chúng tìm cách thu nhỏ con người xuống một trạng thái quên mất mình có tiềm năng quả vị Ki-tô, mình không còn chút phân biện Ki-tô nào nữa. Một con người như vậy chỉ biết nhắm mắt làm theo những kẻ lãnh đạo mình. Đó là điều Giê-su gọi là kẻ mù dẫn dắt người mù.

Như con có thể thấy ở một số quốc gia, chúng đã phần nào thành công trong chuyện này khi người dân không chịu chất vấn giới lãnh đạo của họ mà trái lại họ thỏa thuận với lãnh đạo: “Các ông bà mà không xen vào cuộc sống thường nhật của chúng tôi thì chúng tôi sẽ không xen vào chuyện chính trị của các ông bà.” Và con cũng thấy nhiều ví dụ của cách hành xử này suốt lịch sử ở những nước có một thiểu số thượng tôn quyền lực cai trị phần lớn dân chúng gần như đã trở thành nô lệ cho thiểu số thượng tôn – mặc dù trước đó họ đã không luôn luôn xem mình là nô lệ, nhưng bây giờ họ bị lừa gạt, chẳng hạn bởi một tôn giáo, để nghĩ rằng họ đang làm một công việc thật quan trọng nhưng họ chỉ đang thực hiện tham vọng của kẻ lãnh đạo. Việc xây cất các kim tự tháp ở Ai Cập phần lớn là do mong muốn của một số lãnh tụ nhằm tạo ra một tượng đài cho chính mình cho dù là, ban đầu, kim tự tháp đã không được xây dựng để làm lăng mộ. Và nhiều người dân cứ thế làm theo, họ làm theo vì họ tưởng là họ đang phục vụ một công cuộc gì hệ trọng lắm. Suốt lịch sử, con có thể thấy nhiều ví dụ khác như vậy.

Tất nhiên, một khía cạnh khác của giấc mơ nói trên của sa nhân nhằm tạo ra những kẻ nô lệ ngoan ngoãn vâng lời sẽ không bao giờ chất vấn chúng, là họ muốn có một bộ máy không mang đặc tính “phiền phức” cố hữu của con người là khả năng bước lui lại, nhìn vào tình thế trước mặt từ bên ngoài và tự hỏi: “Tại sao tôi lại làm chuyện này nhỉ?”

Để trích dẫn bài truyền đọc của Giê-su “TA LÀ cánh cửa mở mà không ai có thể khép lại” – con người có thể bị vướng kẹt rất sâu trong tâm thức chết hay tâm thức máy móc, nhưng con người không bao giờ có thể đánh mất khả năng nhận diện Ki-tô. Sa nhân đã nỗ lực tạo ra giống người không biết nhận diện Ki-tô đó, và mặc dù chúng đã tạo được những nhóm người đông đảo nhận ra Ki-tô một cách khó khăn, nhưng chúng đã không bao giờ thành công hoàn toàn. Điều này được chứng minh qua sứ mạng của Giê-su thời đó, vì tuy nhiều người đạo Cơ đốc tin rằng Giê-su xuất hiện tại Israel vì ở đó là Đất Thánh, nhưng kỳ thực thày đã xuất hiện ở Israel vì đó là nơi trên địa cầu con người có ít khả năng nhất nhận diện được Ki-tô. Con người ở đó bị chìm đắm, bị mắc kẹt trong tâm thức chết đến độ họ là kẻ khó lòng nhất nhận ra Ki-tô. Vì vậy thày đã muốn nêu tấm gương của thày ở đó, vì nếu thày có khả năng chạm được những người mù quáng nhất thì có hy vọng người khác cũng có thể được chạm. Và điều này chứng tỏ là sa nhân không thể thành công theo cách đó.

Một cách khác mà sa nhân đã đeo đuổi giấc mơ nói trên là chế tạo những máy móc không có sự suy tư cân nhắc đạo đức như con người và do đó sẽ nhắm mắt tuân theo mọi mệnh lệnh. Đây là giấc mơ về một siêu chiến binh, một người máy có khả năng bắn hạ bất cứ ai nó được lệnh bắn hạ vì nó không giống như con người. Tất nhiên đây là giấc mơ mà sa nhân đã đeo đuổi từ rất lâu trên các hành tinh khác, và từng có những ví dụ ở các hành tinh nơi chúng có khả năng tạo ra một cái gì giống như những con người clone trong phim Star Wars chẳng hạn – là cuộc chiến giữa những bản sao sinh sản một cách vô tính không có chút suy tư gì về đạo đức. Ở đây tuy không phải là sự sinh sản vô tính mà là sự chế tạo qua trung gian công nghệ, nhưng dẫu sao vẫn là cùng một ý tưởng.

Có những người không phải là sa nhân nhưng vẫn bị mê hoặc bởi nền công nghệ chế tạo ra giấc mơ đó. Trong phim Star Trek có một người tên là Data dường như là một rô-bốt, và tất nhiên trong khoa học viễn tưởng đầy rẫy những ví dụ tương tự. Rất nhiều người bị mắc bẫy trong giấc mơ này, và nếu con suy nghĩ những gì ta vừa nói, con sẽ thấy được sự mâu thuẫn. Con sẽ thấy nhược điểm của toàn bộ quan niệm là con có thể tạo ra một bộ máy có khả năng tự nhận biết. Ta vừa nói gì về ý muốn của sa nhân? Chúng muốn tạo ra một bộ máy có trí thông minh của con người mà không có khả năng cân nhắc những chuyện đạo đức “phiền phức” kia. Có điều là cái cho con người trí thông minh – ít ra thông minh vỏ ngoài – là bộ não cùng sự phức tạp của bộ não lẫn cách vận hành của bộ não, nhưng cái cho con minh triết cùng khả năng suy tư về đạo đức là cái ta cao hơn của con, tức là linh hồn theo cách gọi truyền thống nhưng là cái Ta Biết theo cách các thày gọi.

Con mang cái mà sa nhân gọi là khiá cạnh “phiền phức” của con người vì con có tự nhận biết. Người ta hoàn toàn có thể chế tạo một bộ máy có vẻ ngoài thông minh – mà hiện nay con thấy nơi các rô-bốt trò chuyện hay các loại máy tính khác – nhưng con sẽ không bao giờ tạo ra được một bộ máy tự nhận biết, và cái này thì tất nhiên sa nhân không muốn, và chúng biết rõ như vậy, nhưng chúng lại lừa gạt nhiều người khiến họ nghĩ rằng một bộ máy tự nhận biết là một chuyện khả thi. Và chính điều này đã thôi thúc nhiều người hứng thú lãnh vực này cho dù họ không phải là sa nhân.

Con thấy rõ giấc mơ đằng sau công nghệ AI chỉ là đúng vậy thôi – một ảo tưởng, một ảo tưởng hoàn toàn. Nhưng có một số nhà khoa học ngày nay trong các ngành thần kinh học hay vật lý học đã bắt đầu tuyên bố công khai là con người sẽ không bao giờ có thể tạo ra một cỗ máy như vậy. Có những nhà khoa học đã công khai đưa ra một cách giải thích mới về thế giới, rằng thế giới không phải là kết quả của một quá trình máy móc vô thức mà là kết quả hành động do những tác nhân có ý thức. Các nhà khoa học này còn nói rằng có những tác nhân ý thức ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, nhiều tầng nhận biết khác nhau. Có một số tác nhân vượt khỏi tầng mức con người, ảnh hưởng đến các nguyên nhân đã khiến cho thế giới hiện hữu và vận hành như nó hiện đang vận hành.

Đây là một hướng phát triển mới khởi lên vì một số nhà khoa học đã thử nghiệm với trí thông minh nhân tạo hay với thần kinh học, và họ không tìm thấy bất kỳ bằng chứng khoa học nào đằng sau những khẳng định duy vật nói trên. Và do đó họ đã mở tâm ra đón nhận ý tưởng: “À, nếu chúng ta không thể giải thích những gì chúng ta quan sát trong khuôn khổ hệ tư tưởng duy vật thì chúng ta cần nhìn xa hơn duy vật.”

Đây là một trong số những tiềm năng của công nghệ này. Con có thể lấy các rô-bốt trò chuyện trên internet và con có thể thấy những gì đang xảy ra ngay bây giờ: Người ta nhận thức được là những chuyện được đưa lên internet chỉ vỏn vẹn là tạo vật của một cái máy, một thuật toán (algorithm). Và thuật toán này đã được lập trình để thu thập thông tin theo một cách nhất định – nó có thể hữu ích trong một số công việc thực tiễn nào đó, và như ta nói, nó có thể hữu dụng, nhưng điều này không có nghĩa là con có thể trông cậy đó là cái nhìn đầy đủ về một vấn đề, hay ngay cả một cái nhìn cao hơn về một vấn đề. Bởi vì người ta bắt đầu nhận thức là những thuật toán đó chỉ có khả năng thu thập thông tin về những gì đã có sẵn. Chúng không thể nghĩ ra một cái gì độc đáo. Chúng không thể suy nghĩ một cách sáng tạo. Chúng có thể thu thập thông tin, chúng có thể đưa ra kết luận dựa theo thông tin có sẵn, nhưng nếu không có thông tin về một vấn đề thì chúng sẽ làm gì đây? Chúng hoạt động dựa trên thông tin của dữ liệu, chúng không thể hoạt động khi không có thông tin, hay chúng không thể làm cho thông tin hiện ra như một trò ảo thuật.

Sự kiện này cũng dẫn đến nhận thức rõ hơn là con không thể tin vào mọi chuyện trên internet. Nhận thức này thật cần thiết vì con cũng biết là có những trại nuôi troll (troll farm) – là khi một số nước thiết lập những sở máy tính có nhân viên chuyên chỉ ngồi đó đăng bài lên các trang mạng truyền thông xã hội nhằm phát tán quan điểm tuyên truyền của chế độ. Càng ngày càng nhiều người nhận thức được hiện tượng này, và công nghệ AI cùng các rô-bốt trò chuyện sẽ càng nâng cao sự nhận thức này lên. Khi con ở trên internet, con cần cân nhắc xem là con đang nói chuyện với ai? Con đang tương tác với ai? Con đang lấy thông tin từ đâu? Đằng sau đó là cái gì? Những người đó đang muốn làm gì?          

Trong tương lai người ta sẽ đặt vấn đề nhiều hơn về sự kiện con có thể tạo ra một rô-bốt trò chuyện hay một thuật toán có khả năng đưa ra những nguồn thông tin khá tinh xảo. Nhưng đâu là các tiêu chuẩn được cài đặt và lập trình trong các thuật toán sẽ định đoạt cách chọn thông tin và trình bày thông tin? Và điều này dẫn đến sự nhận thức là khi một tiêu chuẩn hay một hằng số được cài đặt vào lập trình, thì chính người lập trình có khả năng làm vậy với một hậu ý – người đó có thể mang một hậu ý hay một thâm ý đặc thù muốn trình bày thông tin theo một cách rất chọn lọc nào đó. Chẳng hạn, con có thể dễ dàng tạo ra một rô-bốt trò chuyện trình bày thông tin về cuộc chiến ở Ukraine hoàn toàn từ nhãn quan của nước Nga. Và con có thể ngụy trang nó theo nhiều cách, trình bày như thể ý định của Nga tấn công Ukraine là chân chính nhân từ, và hành động của Nga cũng nhân từ, và sự kiện có nhiều người bị sát hại chỉ do người Ukraine đã cưỡng chống lại. Con có thể dễ dàng tạo ra một rô-bốt như vậy. Và tất nhiên, có rất nhiều đại nghĩa khác mà con có thể ủng hộ và quảng bá theo cách này, và ở một mức độ nào đó, chuyện này đã có xảy ra rồi, tuy rằng cho đến nay phần lớn việc tuyên truyền chỉ mới xảy ra thông qua các trại nuôi troll nơi có người ngồi đó trên máy tính phụ trách đưa quan điểm lên mạng truyền thông xã hội.

Một lần nữa, khi công nghệ được đưa tới cùng cực, nó có thể khiến mọi người suy nghĩ lại và tái nhận định. Rốt cuộc, rất có thể nó sẽ dẫn đến chỗ là mọi người đều bắt đầu nhận ra là họ cần vô cùng cảnh giác, vô cùng sáng suốt về nguồn gốc thông tin mà họ nhận được, không chỉ trong các quyết định quan trọng cho đời mình mà cả những gì sẽ tạo ra thế giới quan của mình. Và điều này cuối cùng sẽ dẫn đến chỗ là mọi người bắt đầu suy nghĩ: “Làm thế nào tôi có thể tìm được một căn bản thực sự đáng tin cậy để hình thành thế giới quan của tôi?” Và nó có thể dẫn họ đến việc ngộ ra là, cuối cùng, căn bản này chỉ có thể đến từ những sinh thể vượt khỏi tầng cấp con người, những sinh thể không mang chút hậu ý nào và không có tự ngã. Nhưng căn bản này chỉ đến được nếu họ nâng cao tâm thức của họ mà thôi.

Nói cách khác trên cơ bản, công nghệ AI chỉ là việc thu thập thông tin có sẵn, nhưng thông tin này thì do con người tạo ra. Nó được tạo ra bởi những người ở một tầng tâm thức nào đó với một hậu ý nào đó. Và sẽ tới một điểm khi mọi người – nhiều người hơn là những người tâm linh hiện nay – bắt đầu lượng định: “Làm thế nào tôi tìm được thông tin không bị pha màu bởi những thâm ý phàm phu đó, những quan điểm và tin tưởng phàm phu đó? Làm thế nào tôi tìm được một điều gì đến từ một nguồn gốc trung hòa?”

Trên đây ít nhất là một vài tiềm năng cho nền công nghệ AI. Ta có thể nói nhiều hơn vì đây là một vấn đề rộng lớn phức tạp, nhưng ít ra con đã có một nền tảng để tái lượng định toàn bộ động lực của công nghệ này.

Nguyên nhân thực của sự cô đơn

Hỏi: Nhiều người trong xã hội ngày nay cảm thấy cô đơn và con là một trong những người đó. Mặc dù con có biết về ngã tách biệt và thỉnh thoảng con cũng nhận được sáng ngộ, nhưng con không thể không cảm thấy cô đơn. Đâu là cách hay nhất để cảm thấy gần gũi hơn với một chân sư khi giao tiếp với thế giới bên ngoài? Con muốn có một quan hệ chặt chẽ hơn với một vị chân sư.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 11/5/2023.

Câu hỏi của con cụ thể là về sự cô đơn, nhưng tại sao người ta lại cảm thấy cô đơn? Theo sự khôn ngoan thông thường – nếu có thể gọi như vậy – con cảm thấy cô đơn là vì hoặc con không có ai ở bên cạnh, hoặc con không có những người thích hợp mà con có thể cảm thấy gần gũi và do đó có thể giúp con tránh cảm giác cô đơn. Nhiều người có sự trợ giúp như vậy, và tất nhiên, có nguyên cả một ngành công nghiệp chuyên việc giúp người ta tìm được người thích hợp để không cảm thấy cô đơn.

Nhưng hiển nhiên, đó không phải là cách hiệu quả để vượt qua sự cô đơn vì sự thật, sự thật phũ phàng, là con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua trung gian một người khác. Con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua bất kỳ người nào hay bất cứ vật gì bên ngoài chính con.

Thêm vào đó – và điều này nghe cũng phũ phàng không kém – câu nói trên cũng áp dụng với một chân sư thăng thiên. Con có thể có chút kết nối với một chân sư thăng thiên, một sáng ngộ hay hướng dẫn trực giác nào đó từ một chân sư thăng thiên, nhưng điều này sẽ không giúp con khắc phục cô đơn của con. Nó có thể đánh lạc hướng mối bận tâm của con nhưng nó sẽ không giúp con khắc phục cô đơn.

Bởi vì, đâu là nền tảng của cô đơn? Đó là con, cái ta ý thức, cái Ta Biết, con không có một cảm giác kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Đây là nguyên nhân thực sự của cô đơn. Con không thể khắc phục cô đơn thông qua một người khác hay ngay cả một chân sư thăng thiên. Con chỉ khắc phục được bằng cách thiết lập một sự kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con. Tất nhiên đây là điều các thày sẽ trình bày nhiều hơn ở Hàn quốc vì đây sẽ là đề tài của hội nghị. Cách duy nhất để vượt qua sự cô đơn là sử dụng các lời dạy về ngã tách biệt và kiên trì làm việc với ngã tách biệt cho đến khi cái Ta Biết bắt đầu trải nghiệm Hiện diện TA LÀ một cách trực tiếp hơn. Đây là cách sẽ giúp con không còn cô đơn nữa.

Chắc chắn có những người đã bước chân trên đường tu được một thời gian, đã đạt được một cảm nhận kết nối hay hợp nhất sâu xa hơn và họ không cảm thấy cô đơn. Cho nên họ không cần ai khác đến khỏa lấp một lỗ hổng trong tâm lý họ, và chính lỗ hổng này còn khiến cho việc quan hệ với người khác trở nên khó khăn hơn vì con mang một số chờ đợi và đòi hỏi thiếu thực tế về những gì người khác phải làm cho con.

Rời xa gia đình

Hỏi: Con có câu hỏi này cho các chân sư. Con sống ở Trung Đông, và lý do con sống ở đây một phần là để luôn luôn có liên lạc và một số quan hệ với gia đình con. Sau khi đọc bài truyền đọc của Mẹ Mary “Cắt đứt quan hệ với thành viên gia đình,” con cảm thấy có đủ tự do để cuối cùng con có thể – hy vọng như vậy và ít ra trong tâm con – thoát khỏi gia đình hoàn toàn.

Đôi khi con cảm thấy kẹt cứng vì chồng con không tăng triển, và cha mẹ cùng anh chị em con cũng vậy. Chỉ có con gái con là tăng triển tâm linh và hai chúng con chia sẻ với nhau hành trình này. Cuộc sống ở bên họ có khi đem lại cảm giác nghẹt thở. Họ không cởi mở muốn thay đổi, và chính con cũng đã buông mọi dính mắc muốn thay đổi họ. Họ luôn luôn phóng chiếu ra những chờ đợi về con, và vấn đề là con luôn luôn phải tìm ra sự cân bằng để tiếp tục sống chung.

Thỉnh thoảng con cảm thấy mình muốn tự do để sau này dọn đi thật xa hầu con có thể là chính mình một cách tự do hơn, không những chỉ trong nội tâm mà cả ngoài đời. Con biết đây không nên là một quyết định dựa trên sợ hãi, nhưng việc ở lại có lẽ cũng là một quyết định dựa trên sợ hãi. Con biết có nhiều cách quyết định đúng đắn nhưng con xin cảm tạ bất kỳ ý kiến đóng góp nào về hoàn cảnh này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. Đăng ngày 27/1/2023.

Hiển nhiên điều này cần là một quyết định cá nhân của con. Và tất nhiên, có rất nhiều người ở trong hoàn cảnh tương tự như con, không chỉ tại Trung Đông mà thôi. Một trong những thử thách con phải đối mặt trên đường tâm linh, như chúng tôi đã có giảng, là nâng cao tâm thức con vượt lên trên tâm thức tập thể, và rõ ràng tâm thức này đang thể hiện trong mối quan hệ của con với gia đình. Gia đình con không ngừng nỗ lực níu kéo để con ở lại mức tâm thức của họ vì họ không muốn thay đổi. Con sẽ đối phó với sự thể này như thế nào?

Một lần nữa, đây phải là một quyết định cá nhân, và hoàn toàn đúng là quyết định này không nên xuất phát từ lòng sợ hãi. Cũng đúng là việc ở lại cũng rất có thể là một quyết định dựa trên sợ hãi, do con sợ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con dọn đi, gia đình con sẽ phản ứng ra sao, và con sẽ cảm thấy thế nào nếu con không còn gần gũi với gia đình, nếu bỗng nhiên con sống một mình hay chỉ có một vài người chung quanh, không họ hàng trong một hoàn cảnh xa lạ.

Điều hay nhất mà con có thể làm là sử dụng các dụng cụ tâm linh và lời dạy của các chân sư về ngã tách biệt. Con có thể dùng các dụng cụ đó để nhận diện con đang có những ngã tách biệt nào liên quan đến gia đình con, hay ngay cả đi ngược trở về chấn thương nhập đời của con và nhận ra là nhiều người sau chấn thương nhập đời của họ đã cảm thấy cô đơn trong một thế giới hăm dọa. Và trong nhiều kiếp sống liên tiếp, con đã vun bồi ý muốn luôn luôn thuộc về một nhóm người nào đó để con không phải đứng một mình. Và thường khi, chính điều này là nền móng cho những dây nhợ gia đình khiến con cảm thấy gắn chặt với một gia đình – có lẽ không cùng những thành viên hiện tại – nhưng con mang một cái ngã cảm thấy con chỉ có thể an toàn trong một nhóm người.

Khi con đem những ngã đó vào nhận biết ý thức của con, con hãy nhìn chúng và để cho chúng chết đi, rồi sau đó con sẽ tự do hơn để lấy một quyết định không dựa trên sợ hãi. Chắc chắn có rất nhiều người có trù liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình việc dọn đến một môi trường khác hơn, không nhất thiết ở một nước khác nhưng chắc chắn dọn xa khỏi gia đình để họ có cơ hội làm lại một khởi đầu mới. Đức Phật cũng từng nói rằng những ai rời xa quê hương đã hoàn thành một nửa Dharma của mình rồi, và mặc dù câu này không là trường hợp của mọi người nhưng nó cũng chứa đựng chân lý trong đó.

Sứ giả này khi ông rời xa gia đình để sinh sống ở một nước khác nơi ông không có thân bằng quyến thuộc, đã chợt nhận ra là không có ai quen biết mình, không có ai chờ đợi gì ở mình. Và do đó, ông tự do tái tạo lại bản thân dựa trên con người mà ông muốn là.

Chắc chắn đó có thể là một cơ hội để con khởi đầu một giai đoạn mới trong đời con, một giai đoạn mới trên đường tu tâm linh của con. Đây là một điều con có thể cân nhắc, nhưng một lần nữa, con sẽ có khả năng lấy quyết định tốt nhất một khi con xem xét các ngã tách biệt và loại bỏ chúng, và thường thường khi đó, con sẽ không phải lấy quyết định nào bằng tâm vỏ ngoài. Bước kế tiếp của con sẽ chỉ hiện ra như là chuyện hiển nhiên.

Khác biệt giữa tỏa rạng vào tâm thức tập thể và phóng chiếu tâm lý  

Hỏi: Các chân sư có thể vui lòng nhận xét về sự khác biệt giữa việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể và việc phóng chiếu tâm lý.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. Đăng ngày 27/1/2023.

Có nhiều cách để mô tả sự việc này. Một sự phóng chiếu tâm lý có thể được xem là một phóng chiếu nhằm can thiệp vào tâm người khác hầu ảnh hưởng đến quyền tự quyết của họ. Có thể có những người – chẳng hạn thành viên trong gia đình con – phóng ra một số cảm xúc, một số ý tưởng hay ngay cả một ý niệm bản sắc vào tâm con, hầu khiến con tự đồng hóa với một nhóm người hay khiến con ở lại trong nhóm đó. Nếu vậy thì đó là một sự phóng chiếu tâm lý vì ý định là để ảnh hưởng tâm con, hạn chế quyền tự quyết của con và giữ con trong một tâm thái nhất định.

Khi các chân sư nói đến việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể, chúng tôi không muốn nói đến việc ảnh hưởng đến những chọn lựa mà người khác có thể có. Chúng tôi muốn nói đến việc trao cho họ một chọn lựa, giải thoát họ để họ tự do lấy một chọn lựa mà hiện thời họ không thể lấy vì có những điều họ không thể nhìn thấy.

Khi chúng tôi toả rạng một ý tưởng, hay khi con đọc bài chú bài thỉnh, hay khi con lắng nghe một bài truyền đọc, thì chúng tôi không đang tìm cách ép buộc con người phải lấy một chọn lựa được định sẵn. Chúng tôi cố gắng toả rạng một ý tưởng khiến cho người đó nhìn ra là kỳ thực họ có một số tùy chọn mà họ không thể nhìn thấy trước đó.

Điều này không có nghĩa là chúng tôi đang ảnh hưởng những gì họ chọn lựa mà chỉ mở rộng các chọn lựa mà họ có thể nhìn thấy, và như vậy chúng tôi trao cho họ một sự chọn lựa tự do hơn. Đây là cách giản dị và cơ bản nhất để giải thích điều này.

Dự báo kinh tế 2023

Hỏi: Đâu là xác suất nền kinh tế Hoa Kỳ và toàn cầu có thể chứng kiến một sự sụp đổ khác nữa, như đã được các thày nói đến trong các bài truyền đọc gần đây? Ngay bây giờ, chúng ta có vẻ đang ở trong một thời kỳ suy thoái do các ngân hàng trung ương và lạm phát gây ra. Liệu có khả năng là chúng ta sẽ chứng kiến một sự chuyển đổi từ từ của nền kinh tế thay vì một sự sụp đổ toàn bộ hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn độn. Đăng ngày 26/1/2023.

Chắc chắn là có tiềm năng một sự sụp đổ. Cũng có tiềm năng cho một sự thay đổi lần hồi. Tất nhiên, không phải là các chân sư thăng thiên đã không suy nghĩ khi đề nghị các con hãy tập trung vào nền kinh tế trong Canh thức 500 của Mẹ Mary từ bấy lâu nay, và các thày sẽ tiếp tục làm như vậy.

Hiện nay có khoảng 30% xác suất một sự sụp đổ kinh tế rộng lớn sẽ xảy ra, hay ít nhất một cuộc khủng hoảng cũng trầm trọng như khủng hoảng năm 2008. Cũng có khoảng 30% xác suất một sự chuyển tiếp lần hồi sẽ xảy ra, qua đó người ta sẽ tránh được một cuộc khủng hoảng quy mô. Và phần xác suất còn lại là nhiều kịch bản khác nhau giữa những thay đổi tiệm tiến và một số biến động nghiêm trọng hơn.

Điều ta vừa nói không nhất thiết sẽ giúp con nhiều lắm, nhưng ít ra nó sẽ mang lại cho con ấn tượng rằng việc tham gia vào các chương trình canh thức nói trên về đề tài kinh tế sẽ rất hữu ích, vì không những chúng đã có tác dụng tích cực rồi mà trong tương lai chúng còn có thể đóng góp nhiều hơn nữa.

Lẽ tự nhiên, chiến tranh sẽ là một chủ đề to lớn trong năm 2023, nhưng dẫu vậy, y như các thày đã có nói cho năm 2022, vấn đề cơ bản trên thế giới là lãnh vực kinh tế cùng những gì xảy ra cho nền kinh tế.  

Làm thế nào thoát khỏi một quan hệ đồng phụ thuộc

Hỏi: Con xin các chân sư thăng thiên giúp con hiểu rộng hơn về vấn đề như sau. Mẹ con là một người hà hiếp, và suốt đời con, con đã phải chịu đựng bà xâm hại con cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. Tất cả các thành viên khác trong gia đình đều đứng hẳn về phía bà và không ai ngờ được nỗi khổ của con, vì nói chung, kẻ bạo hành thường được mọi người chung quanh tin họ do họ hành xử khác nhau với từng người.

Nguyên do khiến bà ấy căm ghét con là vì cha con. Bà cho rằng cha con đã hà hiếp bà và làm tan nát đời bà. Vì một lý do nào đó, con biến thành một loại kẻ thù truyền kiếp của bà. Mặc dù mẹ con cũng biết đến giáo lý của chân sư thăng thiên, bà vẫn tìm được những luận cứ của riêng bà để kết án con là người đã khiến đời bà tan nát. Bà không chia tài sản thừa kế cho con để con có thể mua nhà riêng hầu con có thể dọn đi thật xa khỏi bà. Con đang rất đau khổ về mặt tâm lý do tất cả những chuyện xáo trộn trong gia đình. Xin các thày nói cho con biết làm cách nào con có thể thoát ra khỏi tình cảnh này. Xin giúp con thấy những gì con chưa thể thấy.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Trước hết, hãy để ta nói với con là đã có những ví dụ người ta sử dụng lời dạy của chân sư thăng thiên để biện minh cho việc tiếp tục lối sống từ chối trách nhiệm về bản thân mình. Nếu mẹ con đổ lỗi cho con về việc bà bị cha con hành hạ, thì hiển nhiển bà chưa nhận lãnh trách nhiệm về bản thân bà, và điều này có nghĩa là bà không thực sự là môt học trò nghiêm túc của chân sư thăng thiên, vì nếu có thì bà đã không hành xử như vậy.

Điều con có thể làm là nhận ra chìa khóa để thoát khỏi mẹ con không phải là chuyện nhận được gia tài hầu con có thể mua nhà riêng và dọn xa mẹ con. Chìa khóa nằm trong tâm lý của con. Con cần giải quyết cái gì ở trong tâm lý con đang khiến con nghĩ là con không thể rời đi xa. Những gì con mô tả là một mối quan hệ đồng phụ thuộc (co-dependent) điển hình, qua đó con đã trở nên lệ thuộc vào mẹ con và vì vậy con không thể tự giải thoát khỏi bà ấy cũng như sự hành hạ của bà ấy. Con có thể tìm đọc sách tâm lý học về các mối quan hệ đồng phụ thuộc, hay con có thể tìm đến các chuyên gia tâm lý có thể giúp được con, và ta khuyến khích con làm vậy. Nhưng con cũng có thể dùng các dụng cụ của các thày để chữa lành chấn thương tâm linh của con, để giải quyết các ngã tách biệt hầu con tự giải phóng ra khỏi tình trạng này.  

Đây không phải là vấn đề dọn đi xa về mặt vật lý, mà là việc rời xa về mặt tâm lý, với mục đích là cho dù mẹ con có tiếp tục cách hành xử đó thì nó không còn ảnh hưởng gì con nữa. Các thày đã cho con những dụng cụ để thực hiện công việc này, nhưng con phải sẵn lòng, con phải có quyết tâm vững mạnh muốn thoát ra – và điều này ta cũng biết là không dễ gì khi con đang ở trong một mối quan hệ đồng phụ thuộc.

Nhưng một cách nào đó, con có thể thấy được – nếu con chịu nhìn – là mẹ con đang phóng chiếu tới con là bà không thể thay đổi đời bà bởi vì con. Nhưng đồng thời, chính con cũng đang phóng chiếu tới bà là con không thể thay đổi đời con bởi vì bà. Đây là cơ chế tâm lý đồng phụ thuộc điển hình. Con cần quyết định liệu con có muốn thoát ra khỏi nó hay không, rồi sau đó con cần làm những việc cần thiết để thoát khỏi nó. Nhưng trước nhất, con cần nhận ra là không phải mẹ con đang ngăn cản con thoát ra, mà là một cơ chế trong chính tâm lý của con, những cái ngã tách biệt, đang ngăn cản con.

Vật lý học của việc đọc chú

Hỏi: Trong thế giới ngày nay, nhiều người với đầu óc kỹ thuật không coi trọng những pháp tu dùng lời nói được phát âm. Đó là vì họ không thấy được làm thế nào việc phát âm một lời nói có thể thu hút ánh sáng tâm linh, tạo dễ dàng cho sự kết nối với những sinh thể ở cõi tâm linh. Các thày có thể nào mô tả tác động của pháp tu này về mặt vật lý học? Chúng con biết là các bài thỉnh bài chú không hoạt động một cách máy móc, nhưng các câu thần chú ở phương Đông tác dụng như thế nào? Các giáo lý phương Đông nhấn mạnh là việc phát âm thần chú phải đúng cách, và điều này tạo ra cảm giác là việc vận dụng câu thần chú một cách máy móc là quá đủ. Trong khi đó thì các đệ tử của chân sư thăng thiên lại đọc chú mà không chú trọng đặc biệt đến cách phát âm. Xin các thày vui lòng bình luận.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Như con nói, những ai có đầu óc kỹ thuật nên mở tâm ra và nhìn nhận là từ năm 1905 khi Einstein công bố thuyết tương đối, người ta đã biết mọi thứ đều là năng lượng. Con sống trong một thế giới nơi tất cả đều là năng lượng. Con phải có thể nhận ra là có những năng lượng thấp cũng như những năng lượng cao, rằng những thứ đồng điệu với nhau sẽ thu hút lẫn nhau, rằng năng lượng có thể tích tụ lại. Những ai không mang đầu óc quá máy móc phải có thể cảm được là họ bị những loại năng lượng thấp kém xuất phát từ sợ hãi đè nặng lên mình, thậm chí họ phải có thể thấy được là năng lượng dựa trên sợ hãi có khả năng lan tỏa ra khắp quần chúng khiến cho ai nấy hành xử một cách phi lý chỉ vì sợ hãi.

Họ cũng phải có thể nhận ra là nếu họ thực sự muốn cải thiện hoàn cảnh cá nhân và cách họ cảm nhận mọi chuyện, thì họ cần nhận thức năng lượng. Họ cần nhận ra là họ có một trường năng lượng bao quanh cơ thể vật lý của họ, và năng lượng dựa trên sợ hãi có thể tích tụ ở đó khiến cho họ, chẳng hạn, bị lôi kéo vào vòng nghiện ngập để rồi khó lòng thoát ra. Và do đó họ cần làm một cái gì đó để khắc phục năng lượng thấp kém này, và họ làm vậy bằng cách thỉnh gọi và tiếp cận năng lượng có độ rung cao hơn.

Nói cách khác, các định luật của ngành cơ học mô tả cách thức hai làn sóng năng lượng tạo ra một mô thức giao thoa. Con có thể lấy một sóng năng lượng ở một tần số thấp, rồi phóng vào nó một sóng năng lượng ở tần số cao, và kết quả là một sóng năng lượng mới cao hơn cái sóng thấp nhất. Đây chính là cách thức con có thể biến hóa năng lượng và chuyện này chỉ đơn giản là vật lý học. Không có gì phản khoa học trong đó, mà là một tiến trình khá máy móc.

Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào con tiếp cận được nguồn năng lượng có tần số cao? Tất nhiên, những ai mang đầu óc kỹ thuật sẽ muốn dùng công nghệ để thực hiện điều này, nhưng câu hỏi là liệu cách này sẽ có khả thi hay không. Có lẽ điều con có thể giúp mọi người nhìn ra là theo truyền thống từ hàng ngàn năm qua, con người đã sử dụng những câu thần chú, những bài thỉnh, những bài chú, để thỉnh cầu năng lượng có tần số cao. Con không cần gọi đó là năng lượng tâm linh, mà chỉ đơn giản là một năng lượng cao tần phát xuất từ tình thương, và nó có khả năng tác động đời con một cách tích cực.

Và cách mà các thày cống hiến cho con là các thày chính là những sinh thể có nhiệm vụ giúp con người tự giải thoát khỏi năng lượng tiêu cực, cho nên khi con thỉnh gọi sự hiện diện của các thày, các thày sẽ cho con năng lượng để con tự giải thoát. Nhưng đây không phải là một tiến trình máy móc. Nó đòi hỏi một sự hòa điệu nào đó nơi tim con, một sự trực nhận nào đó. Sẽ có những người bị chìm đắm trong tư duy khoa học máy móc đến độ họ phủ nhận trực giác của họ, và những người này thì có lẽ con sẽ không thể giúp được họ nhìn ra bất cứ gì. Nhưng những ai có một chút trực giác, con sẽ có thể giúp họ nhìn ra, và con nói với họ: “Làm cách nào khoa học đã tiến bộ chứ? Bằng cách các nhà khoa học sẵn lòng thử nghiệm. Vậy bạn có sẵn lòng thử nghiệm hay không? Bạn có chịu làm thử cái này và nghiệm xem nó có hiệu quả gì không cho bạn? Bởi vì nó đã đem lại kết quả cho tôi. Tôi đã được hưởng lợi lạc khi làm vậy và bạn cũng có thể được hưởng giống như tôi.”    

Bây giờ đến câu hỏi về các câu thần chú ở phương Đông. Có một xu hướng rõ rệt với các thần chú phương Đông là người ta sử dụng một cách máy móc. Người ta nghĩ là tự thân câu thần chú đã quá quyền năng đến độ, nếu nó được đọc lên và đọc lên đúng cách, thì một cách máy móc nó sẽ đem xuống năng lượng. Các thày đã giải thích cho con là điều này không phải như thế, vì luôn luôn có một chân sư thăng thiên lượng định động cơ của người đọc. Nếu chuyện này máy móc thì trên lý thuyết, con đã có thể dùng thần chú để thỉnh cầu một năng lượng sẽ làm hại một ai đó, và hiển nhiên đây không phải là ý định.

Giờ đây các thày nói cho con là cách phát âm không quan trọng bằng sự hòa điệu trong tim con – cảm nhận hòa điệu với nguồn gốc của năng lượng cũng như sự hiện hữu của một dòng chảy đi xuyên qua con, như vị sứ giả này vừa trình bày hồi nãy. Con có thể đọc chú đọc thỉnh một cách máy móc. Nó sẽ có một chút tác động, nhưng thật là ít ỏi so với khi con đọc trong sự hòa điệu và con cảm thấy dòng chảy từ chân sư xuyên qua luân xa của con. 

Tâm thức quả cầu

Hỏi: Các chân sư yêu dấu, chúng con biết là các thày có tâm thức quả cầu (spherical consciousness) và con muốn hiểu tâm thức này biểu hiện thế nào trong hành động. Các thày nhìn trật tự thế giới như thế nào qua tâm thức quả cầu? Con cũng biết một tâm thức đường thẳng thật khó lòng nắm bắt được điều này. Có lẽ cũng giống như cố giải thích mạng internet là gì cho một người thời Trung cổ. Làm thế nào phát triển tâm thức quả cầu? Có thể nào so sánh nó với thần giao cách cảm, khả năng thấu thị, khả năng thông suốt mọi sự hay không? Có phải là khả năng cảm được người khác đang cảm thấy gì? Sự đồng cảm? Khả năng sáng tạo bằng tư tưởng để thay đổi diễn biến ngoại cảnh? Có thể nào phát triển tâm thức quả cầu trên trái đất một khi đạt đủ tâm thức Ki-tô hay tâm thức Phật?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Tất cả những thứ con nói đến – những cái gọi là khả năng siêu nhiên – không thuộc về trạng thái tâm thức quả cầu. Như con cũng đoán, thực tế là con không thể nắm bắt tâm thức quả cầu với một tâm thái đường thẳng. Ngay cả con cũng không thể hiểu bằng tâm thái đường thẳng. Khi nói đến tâm thức quả cầu, hoặc con trải nghiệm được, hoặc con không trải nghiệm được. Nhưng nếu con cố hiểu nó là gì bằng tâm đường thẳng thì con sẽ không đến gần hơn với trải nghiệm đó. Kỳ thực trong nhiều trường hợp, làm như vậy đã cản trở nhiều người có được trải nghiệm, vì họ quá chú tâm vào việc cố hiểu nó với tâm đường thẳng phân tích, quá chú tâm vào việc dán nhãn và mô tả, đến độ họ không thể có được trải nghiệm. Và tất nhiên, chỉ sự trải nghiệm trực tiếp mới xoay chuyển được tâm thức của con.

Nói vậy rồi, thật ra nhiều người trên thế giới và nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã bắt đầu phát triển được tâm thức quả cầu. Có thể nói tâm thức quả cầu là một tiến trình lâu dài, và khởi đầu của tâm thức quả cầu thực sự là khi con nhìn nhận là có điều gì đó để hiểu hay nắm bắt vượt khỏi tầm hiểu hiện thời lẫn tầng tâm thức hiện thời của con. Nói cách khác, các thày đã có nói về tâm trở thành một hệ thống khép kín, tự củng cố, tự chứng thực. Và cách giản dị nhất để diễn tả là bảo rằng cái tâm đó hiển nhiên không phải là tâm thức quả cầu. Khi tâm con đóng chặt nhưng con tưởng là con biết mọi chuyện, con không mở tâm ra để nắm bắt nhiều hơn những gì con biết, thì con không đang trải nghiệm tâm thức quả cầu.

Nhưng một khi con xoay chuyển và nhận ra có gì đó vượt khỏi mức tâm hiện thời của con, vượt khỏi thế giới quan hiện thời của con, thì con đang bắt đầu tiến vào tâm thức quả cầu. Con đang khuếch lớn tâm thức của con để nhận biết có gì đó nằm ngoài tâm con. Ngay cả việc lượng định là con không được làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con, cũng là một phần trong các giai đoạn đầu của tâm thức quả cầu. Con có lòng trắc ẩn với người khác. Con công nhận quyền hạn của người khác. Có một số giai đọan khác nhau qua đó con nhận biết càng ngày càng rõ hơn là có gì đó vượt khỏi tâm con, và tất nhiên con có thể nhận biết như vậy khi con đang đầu thai.

Con không thể trải nghiệm hoàn toàn những gì một chân sư thăng thiên trải nghiệm, nhưng con có thể ngày càng đến gần hơn với sự nhận biết rộng lớn là có gì đó vượt khỏi bốn thể phàm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài của con. Con nhận biết là có nhiều hơn để hiểu, và trên hết, con không ngừng mở rộng thêm ra, mở rộng nhận biết một cách lần hồi, từng bước một. Có thể nói là tất cả khởi sự với nhận biết đó, rằng có gì đó vượt khỏi mức hiện thời của con. Và sau đó, vấn đề chỉ còn là con sẵn lòng vươn lên cao đến đâu và mở rộng đến đâu để nhận biết những gì vượt khỏi tâm thức đường thẳng của con.  

Các thày có giảng là khi con hiện thân hay ngay cả khi con khởi sự như một dòng sống mới, con có một ý niệm nhận biết hạn hẹp, cục bộ, nhỏ như cái chấm. Con chỉ chú trọng đến chính mình và môi trường lân cận xung quanh con. Tâm thức quả cầu vượt quá sự tập trung vào bản thân, nó mở rộng ý niệm bản ngã của con, nhưng nó cũng nhận ra là luôn luôn sẽ có điều gì đó vượt khỏi ý niệm bản ngã mà con có khi chưa thăng thiên.

Tâm thức quả cầu không phải là một khả năng siêu nhiên nào đó, mà là một sự nhận biết rộng lớn hơn vượt khỏi bản ngã. Có nhiều người bước vào giáo lý tâm linh nghĩ rằng: “Ồ, tôi muốn có khả năng đó. Tôi muốn mình có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn, mình có thể thay đổi thế giới, mình có thể hiểu biết mọi chuyện.” Nhưng đây không phải là tâm thức quả cầu, và việc gắng sức đạt được khả năng này thường sẽ chặn đứng người đệ tử, bởi vì tại sao họ lại muốn vậy chứ? Là vì họ vẫn tự xem mình là một sinh thể tách biệt, họ vẫn muốn sự nhận biết hay khả năng làm những chuyện siêu nhiên đó trong tư cách một sinh thể tách biệt, để họ có thể nâng bản thân họ lên như một sinh thể tách biệt trong tâm họ hay trong tâm người khác.

Nhưng chừng nào con còn cố đạt những khả năng đó như một sinh thể tách biệt thì thật vậy, đó không phải là quả vị Ki-tô. Đây là con đường tay trái khi con cố trở thành một pháp sư ma thuật đen với một vài kỹ năng thao tác sự vật. Nhưng đây không là quả vị Ki-tô và chắc chắn cũng không phải là nhận biết quả cầu. Con chỉ càng ngày càng bị kẹt hơn vào ý niệm bản ngã tách biệt cục bộ.

Điều gì sẽ quyết định kiếp sống tới?

Hỏi: Phật giáo Tây Tạng dạy rằng ý nghĩ cuối cùng trước khi qua đời sẽ quyết định kiếp đầu thai sắp tới của mình. Điều này có vẻ hơi không thỏa đáng đối với con. Chẳng hạn, nếu một người đã tu tập trên con đường tâm linh nhiều năm trời nhưng trước khi rời thân xác họ lại cảm thấy một nỗi sợ chết mãnh liệt, thì điều này sẽ ảnh hưởng kiếp đầu thai tới của họ như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Phật giáo Tây Tạng mang mốt số yếu tố điển hình của cái mà các thày đã gọi là con đường vỏ ngoài, con đường máy móc. Con có thể nhìn vào sự kiện họ có những chiếc bánh xe cầu nguyện có ghi những lời cầu nguyện. Thay vì trì tụng lời kinh trên bánh xe, họ lại quay bánh xe và cho rằng làm như vậy sẽ cân bằng nghiệp quả của họ. Họ cũng tạo nên ý tưởng là họ cần bỏ ra cả đời chuẩn bị tâm trí cho giây phút lâm chung vật lý, để họ có thể có những ý nghĩ sẽ đảm bảo một kiếp hiện thân tối hảo cho kiếp sau.

Tất nhiên con nói đúng hoàn toàn khi con bảo rằng điều sẽ quyết định kiếp sống tới của con không phải là ý nghĩ cuối cùng trước khi xác thân qua đời, mà là tổng thể trạng thái tâm thức của con. Tất cả những tiến bộ mà con đã đạt được trong kiếp này là điều sẽ định đoạt nơi con sẽ đi đến bằng từ trường sau khi con rời xác thân, và những tiến bộ con đạt được giữa hai kiếp hiện thân sẽ định đoạt hoàn cảnh mà con sẽ sinh trưởng trong kiếp sống tới – nếu có.

Như các thày đã giải thích rất nhiều lần, vấn đề chủ yếu là con giải quyết tâm lý của con. Trong Phật giáo Tây Tạng không đề cập nhiều đến việc giải quyết tâm lý – và cũng tương tự như vậy trong đạo Cơ đốc chính mạch cùng hầu hết các tôn giáo chính mạch khác. Đây là một chỉ dấu cho thấy là Phật giáo Tây Tạng, mặc dù những lời khẳng định được đưa ra, hoàn toàn xa rời giáo lý nguyên thủy của ta trên nhiều mặt, cũng như xa rời các giáo lý mà các chân sư thăng thiên trao truyền ngày hôm nay.

Xác suất một cuộc chiến hạt nhân

Hỏi: Liệu một cuộc chiến hạt nhân có khả năng xảy ra hay chăng, và địa cầu không đạt đến được thời đại hoàng kim? Liệu vòng xoáy hướng thượng có đủ mạnh để một cuộc xoay chuyển rốt cuộc sẽ xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân rộng lớn là vô cùng thấp. Có thể có một số đụng độ địa phương bằng vũ khí hạt nhân, nhưng ngay cả khả năng này cũng thấp.

Xác suất địa cầu sẽ đạt đến thời hoàng kim là bao nhiêu? 100%. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi một số sự việc thị hiện.

Các cuộc biểu tình tại Iran

Hỏi: Thưa thày có điều gì muốn nói về Iran và cuộc nổi dậy tại Iran hay chăng? Liệu thày có thấy là trong tương lai gần, dân chúng Iran sẽ đột phá để giành tự do hay chăng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Tình hình tại Iran đáng khích lệ, theo nghĩa là người dân đang khởi sự đứng lên bảo vệ cho bản thân mình và quyền tự do của mình theo một cách mà họ đã không làm trước đây. Nó đáng khích lệ theo nghĩa là, phần lớn, nó do giới phụ nữ điều động. Nó cũng đáng khích lệ theo nghĩa đây là phản ứng tự phát của quần chúng, chứ không do một nhóm lãnh đạo tập trung nào điều khiển.

Hiện có một số nhà bình luận trên thế giới nhìn vào tình hình này và bảo rằng phong trào này không có hy vọng thành công, không có khả năng lật đổ chính quyền vì nó thiếu sự lãnh đạo – không có một nhóm lãnh đạo rõ rệt nào có thể tiếp quản nếu tầng lớp giáo sĩ phải rút lui. Nhưng nhìn từ góc cạnh của một chân sư thăng thiên, điều ta thấy là phong trào này không phải do một thiểu số thượng lưu quyền lực đối địch đang tìm cách lật đổ thiểu số thượng lưu quyền lực nắm quyền, mà đúng hơn đó là một phong trào quần chúng. Và điều này rất đáng khích lệ.

Con hỏi liệu ta có thấy một sự đột phá nào gần kề hay không? Tùy theo con định nghĩa “đột phá” là như thế nào. Liệu ta có thấy chính quyền hiện hữu tại Iran bị lật đổ và được thay thế bởi một chính quyền dân chủ hơn, thì điều này không nhất thiết là kịch bản có xác suất cao nhất. Nó có khả năng xảy ra, nhưng không phải là kịch bản có nhiều khả năng nhất – chắc chắn không trong ngắn hạn. Nhưng rõ ràng là khi càng ngày càng có nhiều người đứng lên với lập trường này thì chính quyền đương nhiệm rốt cuộc hoặc sẽ phải sụp đổ, hoặc sẽ phải nhượng bộ và trao nhiều tự do hơn cho dân chúng.

Một lần nữa, đây là một điều khó tránh khỏi khi tuyệt đại đa số dân chúng Iran đều biết là họ đang bị thành phần lãnh đại tôn giáo áp bức. Họ biết rõ cả đất nước họ đang bị kìm hãm, bị cầm giữ ở một mức nghèo giả tạo do chế độ kềm kẹp, lạc hậu này. Phần lớn quần chúng đều muốn sự thay đổi, nhưng họ chưa thực sự đạt tới điểm sẵn lòng đứng lên đòi sự thay đổi, tự ý đứng lên và tuyên bố: “Chúng tôi không thể chấp nhận chuyện này được nữa.” Và đây chính là những gì mà các chị em phụ nữ đó đang bắt đầu làm.

Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều thứ mà họ có thể học hỏi – rất nhiều bước đột phá mà họ cần thực hiện như: Chúng ta thực sự phản đối cái gì? Chúng ta thực sự muốn gì? Chúng ta muốn một quốc gia như thế nào? Câu hỏi to lớn không chỉ cho Iran mà còn cho nhiều quốc gia Hồi giáo khác là: Chúng ta có muốn một nền dân chủ thế tục hay không? Hay chúng ta cứ tiếp tục một hình thức thần quyền bị đạo Hồi chế ngự?

Con không thể nào có một nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà lại bị chế ngự bởi một tôn giáo độc nhất như Hồi giáo đang chế ngự quốc gia Iran ngày nay. Điều này không thể làm được. Con cần quyết định, liệu con đã sẵn sàng đoạn tuyệt với đạo Hồi trong các khía cạnh bảo thủ, áp chế nhất của nó hay không? Điều này không có nghĩa là con phải từ bỏ đạo Hồi, nhưng con phải từ bỏ cái phiên bản bảo thủ, lạc hậu của nó. Con có sẵn sàng làm điều đó không? Con có muốn nhiều thịnh vượng hơn, nhiều tự do dân chủ hơn, và con có muốn nó đủ để sẵn lòng từ bỏ các khía cạnh lạc hậu của đạo Hồi không?

Một câu hỏi tương tự cũng được đặt ra cho hầu hết các quốc gia Hồi giáo khác. Không có cách nào xây dựng một quốc gia tân tiến và trù phú mà vẫn bị hạn chế bởi giới luật Sharia cùng các yếu tố lạc hậu khác của đạo Hồi.

Về ngã tách biệt

Hỏi: Câu hỏi của con liên quan đến việc xử lý các ngã tách biệt khi con nhận diện chúng và làm cho chúng tan biến. Điều gì xảy ra cho năng lượng của ngã tách biệt khi con để cho nó chết đi hay con biến hóa nó đi? Năng lượng đó đi đâu? Khi con đến với ngã tách biệt với ý định để cho nó chết, có phải là con đã đến với nó với một cảm nhận là nó sai trái và cần phải thay đổi? Liệu nó sẽ tìm cách lẩn trốn nếu nó biết là con muốn nó chết? Và nếu vậy, làm thế nào con đến với nó trong tình thương trong khi con không ưa thích nó và muốn nó thay đổi? Con có phải làm bất cứ gì không, hay là con chỉ nhìn ngã tách biệt và nói: “Tôi không cần cái này nữa”? Con cũng biết thày đã giảng rất nhiều về đề tài này nhưng con vẫn chưa nắm được. Cảm ơn thày.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Trước hết, con cho ta bình luận về khía cạnh năng lượng của vấn đề này. Ngã cũng giống như một tạo dựng trong tâm vậy. Đó là một khuôn đúc trong tâm. Và khi năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con, hay ngay cả từ cõi vật chất, chảy xuyên qua ngã, thì năng lượng được ngã pha màu, phú cho một số đặc tính – hay chúng ta có thể nói, năng lượng bị ngã tha hóa, làm cho ô nhiễm.

Sau đó ngã này được lưu trữ trong cảm thể, trí thể, bản sắc thể của con. Và năng lượng này cũng được lưu trữ trong cảm thể, trí thể, bản sắc thể của con, và ở một mức độ nào đó, ngay cả trong cơ thể vật lý. Đó là tại sao chúng tôi đề nghị các con đọc các bài chú, bài thỉnh. Tác dụng của việc này là chuyển hóa năng lượng, khiến cho nó được nâng lên một rung động cao hơn, và nhờ vậy nó được đưa lên cõi tâm linh trong một chu kỳ nơi nó biến thành các ta-lăng, rồi ta-lăng được nhân thêm để con nhận được nó quay trở xuống dưới dạng năng lượng mới. Năng lượng từng bị tha hóa biến mất khi nó được chuyển hóa như vậy – nó được tái chế để trở về với dạng nguyên thủy, cao hơn của nó.

Bây giờ, về thái độ của con khi con đến với những cái ngã. Điều này tùy thuộc vào sự kiện con đã làm việc này được bao lâu. Ở khởi đầu, điều bình thường là con sẽ cảm nhận rằng ngã tách biệt đang hạn chế con, rằng con không muốn có chúng và con muốn chúng biến đi. Nhưng một khi con đã thực hành nhiều hơn và trở nên chín chắn hơn trong tiến trình, con sẽ chỉ bước vào một tâm thái trung hòa. Con không kháng cự lại việc xem xét chúng, con không mang bất kỳ cảm giác tiêu cực nào đối với việc xem xét. Con chỉ thỉnh cầu sự giúp đỡ của các chân sư, con làm các bài thực tập để nhận diện ngã, và khi con nhìn ra nó thì con để cho nó chết.  

Chúng tôi đã cho con công thức để con nhìn thấy: “Mi là một cái ngã. Mi không phải là ta, và ta không phải là mi. Ta không muốn có mi trong đời ta nữa, cho nên ta để cho mi chết đi.” Chắc chắn ngã sẽ chống cự lại để không bị phơi bày. Nhưng mặt khác, rất nhiều những cái ngã tách biệt đặc thù như vậy không thật sự có một tiến trình lý luận tinh xảo lắm đâu. Chúng tựa như những chương trình trong máy tính vậy. Bất cứ khi nào có một tình huống kích hoạt ngã thì nó thật sự không thể nào lẩn trốn.

Tự ngã thì tinh vi hơn một chút. Tự ngã có thể tìm cách lẩn trốn, hóa trang, vân vân.

Trực giác và trí thông minh

Hỏi: Xin các thày vui lòng giải thích tại sao con là một học trò của chân sư thăng thiên ở một mức tâm thức hay nhận biết tương đối, trong khi rất nhiều người khác trên thế giới không đặc biệt gì là người tâm linh nhưng trí thông minh cùng khả năng của họ lại cao hơn con nhiều? Làm thế nào một người có thể có mức nhận thức và nhận biết cao nhưng không nhất thiết một trí thông minh rộng lớn? Đâu là mối quan hệ giữa trí thông minh và tâm thức hay sự nhận biết? Và điều gì quy định trình độ thông minh của một người trong một kiếp sống nào đó? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có trình bày là không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa cái mà người đời gọi là trí thông minh và cái mà chúng tôi gọi là sự nhận biết tâm linh, hay chứng đạt tâm linh. Sự phát triển mức chứng đạt tâm linh vượt ra khỏi thế gian này. Quả ví Ki-tô vượt ra khỏi thế gian này. Và việc tăng trưởng các khả năng thế phàm không giống như việc bước chân trên đường tu tâm linh.      

Con sẽ thấy rất nhiều người trên thế giới có khả năng vượt bực, trí thông minh cao trội, hay có khả năng lãnh đạo quần chúng hay nắm giữ quyền bính trong tay, đều là sa nhân. Lý do là những người đó không có khả năng bước trên đường quả vị Ki-tô, cho nên thay vào đó, họ chú tâm vào việc phát triển các khả năng nhân phàm của họ, và họ sử dụng mọi phương tiện để đạt được điều này, kể cả cái mà chúng ta gọi là tà thuật.

Điều mà thế giới hiện nay – hay ít ra thế giới Tây phương – gọi là trí thông minh là việc sử dụng tâm trí thức, tâm phân tích đường thẳng có khả năng biện luận thuận hay chống bất kỳ vấn đề nào, như chúng tôi đã có nói. Hiển nhiên, nó cũng cho con một khả năng nào đó để hiểu biết một số lãnh vực như toán học hay các chủ đề khoa học nào khác. Nhưng đó là một khả năng thế phàm. Đó không phải là cái mà con cần thực sự để bước chân trên đường quả vị Ki-tô và hội đủ tư cách thăng thiên. Đây là lý do tại sao đối với hầu hết những người tâm linh, con đã không trở thành một người tâm linh chỉ trong kiếp này mà thôi, mà rất có thể con đã là một người tâm linh từ nhiều tiền kiếp rồi, cho nên con đã không thực sự cảm được từ trực giác sự thôi thúc để tập trung vào việc phát triển các loại khả năng thế phàm kia. Tại sao con lại phải làm vậy khi mục đích của con nằm vượt ngoài thế gian?

Con cần nhìn nhận khi con là một người tâm linh, việc phát triển các khả năng hay kỹ năng thế phàm không là chính yếu. Không có nghĩa là con không thể có những khả năng đó, và rất có thể con đã từng phát triển chúng trong các kiếp trước, nhưng đó không phải là mục tiêu chủ yếu của con. Mục tiêu chủ yếu của con như một người tâm linh trên đường quả vị Ki-tô là hòa điệu với tâm thức Ki-tô, với cõi tâm linh, với Hiện diện TA LÀ, và đây không phải là một khả năng phân tích trí thức. Đó là tại sao con chú tâm phát triển trực giác của con. Trong nhiều trường hợp, con càng có nhiều trực giác thì tư duy của con sẽ càng bớt phân tích trí thức đi. Và rất có thể con sẽ cảm thấy khó khăn khi phải nắm bắt các đề tài phân tích đường thẳng kia.

Điều có thể xảy ra là khi con còn trẻ, con đã khá thành thạo hiểu được các khái niệm khoa học, các khái niệm phân tích đường thẳng đó. Nhưng khi con càng tiến bước trên đường tu tâm linh thì con càng mất đi khả năng vận dụng trí năng để bao trùm các khái niệm đó – nếu có thể nói như vậy – vì con không thể thực sự tập trung tâm trí vào cấp độ tư duy đó nữa. Cách suy nghĩ của con, hay tâm con, không còn chú tâm hay không còn bị mắc kẹt trong cõi lý trí nữa. Con đang bước vào cõi bản sắc nơi con có một tầm nhìn trực giác hơn hẳn.

Những nguyên nhân của vô sinh

Hỏi: Xin thày giúp chúng con có tầm hiểu cao hơn về vô sinh (không có khả năng sinh sản) ở cả nam lẫn nữ? Xin thày chia sẻ một số lời khuyên thiết thực để đem lại quân bình cho bốn thể phàm, và làm cách nào hỗ trợ việc đồng sáng tạo một đứa bé cho cả nam lẫn nữ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Hồi phục nền Dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Vô sinh có những nguyên nhân vật lý cũng như những nguyên nhân phi vật lý. Tất nhiên là có thể có những yếu tố di truyền gây ra vô sinh, có thể có những sự mất quân bình hóa học trong cơ thể, có thể có điều mà con gọi là bệnh tật trong cơ thể có thể gây ra vô sinh.

Ở mức sâu xa hơn, có thể có những lý do tâm linh mà chúng ta có thể gọi là lý do tâm lý cho vô sinh. Trong một vài trường hợp, lý do chỉ giản dị là vì việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của người muốn làm cha mẹ. Họ bị ngăn chặn trong việc thụ thai một đứa bé trong thể vật lý. Trong một số trường hợp – rất ít – họ có thể mong muốn có con trong tâm ý thức nhưng bị tâm tiềm thức ngăn chặn. Nhưng có rất nhiều trường hợp vô sinh đi ngược trở về những kiếp trước và một tâm lý chưa giải quyết.

Có những gia đình đã từng tái đầu thai cùng với nhau rất nhiều lần – cùng những linh hồn, cùng những dòng sống – nhưng họ lại không tăng trưởng khi đầu thai với nhau. Cho nên có thể có trường hợp càng ngày càng có tình trạng vô sinh trong các thế hệ mới để khiến họ không thể tiếp tục đầu thai trong cùng gia đình.

Cũng có trường hợp những người đã từng xâm hại trẻ em trong kiếp trước, và vì vậy họ bị nghiệp lực ngăn chặn không cho có con. Có những trường hợp cha mẹ không muốn có con vì đủ loại lý do khác nhau, cho nên ở tầng tiềm thức có một điểm nghẽn ảnh hưởng đến cơ thể vật lý cùng khả năng thụ thai.

Nếu con là một người tâm linh, tất nhiên con có thể sử dụng các dụng cụ của chân sư thăng thiên để chữa lành bất kỳ ngã tách biệt nào, bất kỳ tâm lý nào chưa được giải quyết từ tiền kiếp, và điều này sẽ hiệu quả trong một số trường hợp – nhưng không phải trong mọi trường hợp. Bởi vì như ta vừa nói, nếu việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con thật sự không thể làm được gì nhiều để tạo ra khả năng sinh sản vật lý.

Còn đối với những ai không tâm linh, họ không thể làm được gì nhiều, và ta cũng không thể khuyên nhủ được gì nhiều vì họ không cởi mở với một giải pháp tâm linh.

Các bộ kinh và khả năng thần thông

Hỏi: Gần đây con đã tham gia một khóa học video với một nhà chữa bệnh nổi tiếng sử dụng năng lượng. Bà ấy từng tổ chức rất nhiều khóa đào tạo tại Ấn Độ. Trong khóa học này, bà đã cho chúng con 20 bài kinh để tụng niệm và sử dụng cùng với thiền định. Bà tuyên bố là việc sử dụng như vậy sẽ giúp chúng con mở khả năng đặc biệt và dẫn đến sự thăng tiến tâm linh. Bà giảng rất nhiều về việc mở cửa cho 12 luân xa bên trên đầu chúng con và về các cuộc điểm đạo. Mặc dù con không tin các lời tuyên bố của bà rằng bộ kinh này sẽ đem lại khả năng đặc biệt, con đã cảm nhận được một năng lượng nào đó bên trên đầu con khi con sử dụng. Con tự hỏi không biết các chân sư có thể giải thích lịch sử của pháp môn này và liệu nó có hữu ích hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Có rất nhiều kỹ thuật và dụng cụ có giá trị, theo nghĩa là chúng có thể đem lại tác động tích cực. Tất nhiên là có nhiều cách để thỉnh năng lượng, những năng lượng cao hơn là các bài thỉnh, bài chú mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban cho con. Con có các truyền thống của Ấn độ giáo và Phật giáo cùng các truyền thống khác ở phương Đông với nhiều kỹ thuật có giá trị. Chính con cũng đang đọc một số những bài kinh này khi con đọc câu Om Mani Padme Hum, câu Om Ah Hum, Vajra Guru Padme Siddhi Hum cùng những câu tụng và thần chú khác, cho nên việc này có thể có giá trị.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý rằng mục đích của một kỹ thuật tâm linh chính đáng không thực sự là để sản xuất ra những khả năng siêu nhiên hay khả năng thần thông. Bởi vì không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ khuyến khích học trò mình làm như vậy, và không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ tìm cách thu hút những học trò mong muốn như vậy.

Ngược lại là đằng khác, hầu hết mọi vị thày tâm linh chân chính sẽ cố tránh những loại học trò như thế vì các vị ấy biết rằng họ chỉ đến học do lòng mong cầu một số hiện tượng vỏ ngoài sẽ nâng cao tự ngã, sẽ khiến họ cảm thấy cao trội hơn người khác, và thường khi họ sẵn sàng cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực.

Nhiều vị thày tâm linh già dặn, tiến hóa hơn sẽ lánh xa các loại học trò đó bằng cách không đưa ra những lời lẽ bảo rằng con sẽ tự động hay hầu như bảo đảm đạt được một số khả năng đặc biệt nếu con tập tành một số kỹ thuật. Rất ít người có thể phát triển những khả năng thần thông chân chính, và rất ít người đã đặt công việc này vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đối với hầu hết mọi người, đây là một sự xao lãng trên con đường dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn.

Họa sĩ Van Gogh có nhận cảm hứng từ các chân sư?

Hỏi: Phải chăng họa sĩ Van Gogh đã nhận được cảm hứng trực tiếp từ các chân sư thăng thiên để cho chúng ta thấy là toàn bộ thế giới hình tướng là sự tương tác quay cuồng giữa các sóng ánh sáng? Phải chăng cách vẽ này là cách các thày muốn nói lên là chúng con cần rèn luyện giác quan của mình nhận thức ánh sáng vật chất như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Phải, chúng ta có thể nói là Van Gogh đã nhận được cảm hứng từ các chân sư thăng thiên. Câu hỏi đặt ra là cảm hứng này trực tiếp đến chừng nào vì tâm ông phần nào thiếu cân bằng. Nhưng rất đúng là các bức họa của ông có khả năng tạo cảm hứng cho con luyện tập cách nhìn ánh sáng vật chất để thấy nó được cấu tạo bởi năng lượng không ngừng chuyển động. Không nhất thiết là năng lượng chuyển động theo như con thấy trên các bức họa của ông, nhưng đó là những gì Van Gogh đã có thể nắm bắt. Chắc chắn ông cảm nhận được là thế giới được tạo bằng năng lượng. Và mặc dù ông không thể thực sự diễn tả bằng lời nói, thay vào đó ông đã minh họa qua hình vẽ.

Con cần nhìn nhận là rất nhiều người khắp thế giới có tầm nhìn, có viễn quan cao hơn bình thường, họ phần nào bị mất cân bằng về mặt tâm lý. Đây là một khuôn mẫu quen thuộc con có thể nhận thấy suốt chiều dài lịch sử, là những người mở ra một cách nhìn khác biệt về thực tại thường quá rộng mở. Và do đó họ bị choáng ngợp bởi các ấn tượng mà họ nhận được. Trong một số trường hợp, các ấn tượng này có thể đến từ cõi trung giới, như con thấy một số bức tranh vô cùng đen tối vào thời Trung cổ hay những truyện kể vô cùng đen tối được viết ra. Nhưng ấn tượng cũng có thể đến từ cõi cảm xúc cao, từ cõi lý trí, ngay cả từ cõi bản sắc, và trong một vài trường hợp từ cõi tâm linh. Nhiều người như vậy thấy được một khải tượng đích thực, họ có cảm nhận nối kết với một cái gì vượt khỏi cõi vật chất, chắc chắn là vượt khỏi tâm thức tập thể vào thời của họ. Nhưng họ lại không có khả năng sống một cuộc đời cân bằng.

Đây là một điều con cần suy ngẫm khi con là một đệ tử của chân sư thăng thiên, nghĩa là mặc dù việc nỗ lực đạt được một viễn quan nào đó là một điều tốt, nhưng con vẫn cần phải có một sự quân bình trong cuộc sống. Lý do duy nhất vị sứ giả này đã sống sót sau gần 20 năm trong cương vị của ông là vì hầu như từ tuổi niên thiếu, ông đã nhận biết là ông cần giữ một sự quân bình nào đó. Và mặc dù một số người sẽ nói đời ông đã không quân bình theo một tiêu chuẩn bình thường, ít ra ông đã đủ quân bình trong tâm lý để có thể tiếp tục công việc ông đang làm. Và đây là điều tất cả các con cần cố gắng làm.

Con cần tránh rơi vào hai đối cực. Con cần tránh có những nhu cầu ám ảnh cưỡng chế, như: “Có một chuyện cần phải xảy ra, một sự cố quan trọng cần phải xảy ra trong đời tôi, và nó phải xảy ra ngay tức khắc.” Và vì thế con trở nên mất cân bằng – con tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực như nhiều người đã từng làm.

Cân bằng thực sự là bí quyết để bền vững – sự bền vững trong nỗ lực của con. Và điều này có nghĩa là con có thể tiếp tục làm cánh cửa mở, tiếp tục có được tầm viễn quan rộng lớn trong một thời gian dài hơn, thay vì rơi vào hội chứng sụp đổ toàn diện mà chúng ta hay thấy xảy ra với nhiều người cấp tiến đi tiên phong. Các thày không muốn nhìn thấy điều này nơi đệ tử của mình. Đó là vì sao các thày đã trao cho con một con đường cân bằng hơn nhiều, với những dụng cụ và kỹ thuật cân bằng mà con có thể dùng để giải quyết cái tâm lý khiến con mất cần bằng.

Vì tất nhiên, tại sao Van Gogh lại mất cân bằng? Là vì ông mang tất cả những cái ngã tách biệt được tạo ra trong tiền kiếp đi ngược trở về thuở lần đầu tiên ông đến địa cầu như một avatar và phải hứng chịu chấn thương nhập đời. Và như vậy, sự mất cân bằng của ông cứ ngày càng tồi tệ hơn trong mấy kiếp đầu thai, cho đến khi nó lên đến cực điểm như con thấy trong kiếp vừa rồi của ông.

Pháp tu quan sát khách quan

Hỏi: Xin thày Giê-su cho biết ý kiến về các lời dạy của ông Michael Singer. Ông nói rằng một cách hiệu quả để phát triển tâm linh là tu tập sự quan sát khách quan và dần dần phóng thích các samskara (hành uẩn), các dấu chân (imprint) của lý trí và cảm xúc của chúng ta. Chẳng hạn khi một tình huống khó khăn khởi lên, chúng ta có thể thư giãn trong trạng thái quan sát khách quan và cho phép các năng lượng đó được phóng thích. Sự phóng thích này sẽ biến hóa năng lượng để cho năng lượng thấp ban đầu như sự tức giận hay sợ hãi có thể nâng lên thành năng lượng cao. Ông Singer trình bày cách này như một pháp tu thường nhật mà qua đó cuộc sống hàng ngày có thể trở thành một nguồn phát triển tâm linh phong phú. Liệu có hạn chế đáng kể nào hay cạm bẫy tiềm tàng nào liên quan đến phương pháp này, hay đây là một đường tu hiệu quả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 12/11/2022.

Các chân sư xin không có ý kiến về một vị thày hay một giáo lý đặc thù. Nhưng điều ta sẽ nói ở đây là tất nhiên, có một số vị – cho dù họ là đạo sư tâm linh hay là chuyên gia trong ngành tâm lý – đã khám phá những kỹ thuật có giá trị, những ý tưởng có giá trị, và họ đã tìm ra cách biểu đạt các ý tưởng này cho hấp dẫn đối với một số người. Ý tưởng về hành uẩn hay tâm ảnh trở ngược về đạo Phật, và tất nhiên đây là một ý tưởng chính đáng. Đó cũng giống như khi các thày giảng về hình tư tưởng, về ngã tách biệt, về phin lọc nhận thức của con. Các thày cũng có giảng về việc bước vào một tâm thái trung hòa. Nhưng ta sẽ nói là việc nhận thức điều này và phóng thích các năng lượng tuy có hữu ích, nhưng nó sẽ hiệu quả hơn nếu con phối hợp với việc đọc thỉnh, đọc chú, qua đó con thỉnh gọi ánh sáng tâm linh để giải thể năng lượng.

Có những người đã đạt đến một mức nơi họ có khả năng – bằng cách tập trung vào một số năng lượng và phóng thích chúng – dùng tâm mình để biến hóa năng lượng, nhưng hầu hết mọi người khác thì không thể làm được vậy, và do đó sẽ hữu hiệu hơn cho họ nếu họ dùng bài thỉnh và bài chú để biến hóa năng lượng. Nếu không thì kỳ thực con có thể rơi vào cái bẫy là nghĩ rằng con đã phóng thích tất cả những năng lượng đó – và trong một số trường hợp người ta có khả năng làm vậy thật – nhưng con lại phóng thích chúng vào môi trường chung quanh nơi chúng sẽ ảnh hưởng đến người khác và góp phần vào tâm thức tập thể, thậm chí còn nuôi béo con quái vật tập thể. Điều này có thể trở thành một cái bẫy sẽ cản trở sự tăng triển tâm linh của con.

Điều con thấy trong một số trường hợp là có những vị thày tâm linh có thể đưa ra một ý tưởng có giá trị, nhưng họ không luôn luôn hiểu được đầy đủ làm thế nào đem ý tưởng này vào thực hành. Nhiều vị thày không thật sự nhận thức tầm quan trọng của các năng lượng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, cũng như những cách hiệu quả để biến hóa năng lượng.

Không phải là con không thể thay đổi năng lượng qua bốn tầng của tâm con, mà con không thể thực sự biến hóa năng lượng thành năng lượng cao hơn nếu con không tiếp cận một dạng năng lượng cao hơn. Và năng lượng này phải đến từ cõi thăng thiên, vì đây là cách duy nhất để nó đến với con. Con không thể chế tạo năng lượng này trong tâm con. Con có thể mở tâm ra tiếp nhận một dòng chảy từ cõi thăng thiên chứ con không thể chế tạo nó trong tâm con. Nếu con nghĩ con có thể thì đấy là một sự hiểu lầm.

Yếu tố hấp dẫn và sóng gió trong một quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Khi vũ trụ làm việc để ngăn trở con thì điều này có nghĩa gì? Lực của vũ trụ có vẻ như đang điều khiển các tiềm năng của con người lẫn những gì xảy ra cho con người, lực này là gì? Chẳng hạn gần đây, qua một loạt sự kiện ngẫu nhiên, con gặp được một người mà con cảm thấy một sự hấp dẫn rất mạnh, rất đặc biệt. Con nhận xét thấy có một lực cứ cố khiến chúng con phải ngăn cách, nó ngăn cản chúng con đến gần với nhau. Đây có phải là cõi của Mẹ đang dựng lên chướng ngại? Điều này hình như đi ngược lại quyền tự quyết. Xin thày giúp con nhìn ra một viễn quan cao hơn ở đây.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 12/11/2022.

Không, vũ trụ không đang làm việc chống lại con. Ta hiểu là nó có vẻ như vậy và nhiều người đã diễn giải theo cách đó. Các thày đã có giảng là con có thể tự xem mình đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch, và nhiều người thì lại cảm thấy họ đang sống trong một vũ trụ thù địch.

Hẳn là nhiều người đã sống qua câu chuyện của con, theo như con vừa kể là con gặp người kia, con cảm thấy có sự thu hút, nhưng hình như có một lực nào đó cứ khiến cho hai con bị ngăn cách. Ấy, lời giải thích cho sự thể này thật đơn giản: nghiệp quả. Con mang nghiệp từ những kiếp trước và nghiệp này cho con cảm giác bị người kia thu hút, nhưng nó cũng đẩy hai người xa nhau. Có thể là vì một đằng con mong muốn quân bình nghiệp chướng với người kia, nhưng đằng khác con thực sự không muốn đến gần họ vì con không ưa thích họ cùng những gì họ đã gây cho con trong một tiền kiếp. Có thể còn nhiều mối quan hệ nghiệp tạo phức tạp khác nữa cũng đóng một vai trò trong chuyện này.

Thật sự không phải là vũ trụ, cũng không phải là cõi của Mẹ, và nó cũng không đi ngược lại quyền tự quyết, vì đó là kết quả những chọn lựa mà các con – cả hai người – đã lấy trong một tiền kiếp. Đây đơn giản chỉ là vấn đề nhìn nhận là trong những trường hợp này, có một điều gì đó cần được giải quyết. Có nghĩa là con hãy đọc các bài chú để tiêu hủy hay biến hóa năng lượng đã tích tụ, xong con dùng các dụng cụ và kỹ thuật để phơi bày các ngã tách biệt mà con đem theo từ tiền kiếp, và con giải quyết các ngã này. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là giờ đây con có thể có một mối quan hệ nào đó với người kia, hay cũng có nghĩa là con đi đến kết luận mình không cần thêm một mối quan hệ nữa vì con đã làm tan nghiệp chướng rồi. Vậy ta muốn nói gì ở đây?     

Một trong những hệ quả đáng tiếc mà các thày chứng kiến trong các phong trào tâm linh đủ loại là các phong trào tâm linh thường đem những người có nghiệp chướng từ tiền kiếp đến gần với nhau. Nếu tình cờ họ là người khác phái – hay ngay cả là người cùng phái trong một số trường hợp – họ có thể mang trong tâm ý tưởng là khi họ bị hấp dẫn bởi một ai đó thì họ cần có quan hệ tình dục với người này. Nhưng thường thường chính nghiệp chướng đã khiến con cảm thấy lực hấp dẫn đó vì con muốn giải quyết nghiệp chướng. Và cách hay nhất để giải quyết nghiệp chướng khi con là người tâm linh là dùng bất kỳ dụng cụ tâm linh nào mà con có – trong trường hợp của chúng ta, đó là các bài thỉnh, bài chú và việc giải quyết các ngã tách biệt. Nếu con làm vậy, con thường nhận ra là con không nhất thiết phải có một quan hệ vật lý với người kia, và kỳ thực điều này tốt hơn cho con vì nó giúp con tự do gặp gỡ một người mà Sứ vụ Thiêng liêng của con đã trù hoạch một mối quan hệ.

Nhiều người bị mắc bẫy trong các quan hệ nghiệp tạo này, có khi họ liên tiếp đi từ quan hệ này đến quan hệ khác, và điều này khiến họ bị sao lãng trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, đôi khi nó còn ngăn cản họ gặp một người mà đáng lý họ có thể có được một mối quan hệ tích cực hơn. Các quan hệ nghiệp tạo thường có thể rất mãnh liệt, ban đầu nó có thể cho con một cảm giác hấp dẫn vô cùng nồng nàn, nhưng sau một thời gian khi tuần trăng mật chấm dứt, đủ loại vấn đề có thể ngóc đầu lên và thường thường cả hai người nhận ra một cách hiển nhiên là họ không ưa thích gì nhau mà còn thù địch nhau một cách mãnh liệt. Tinh trạng này có thể gây ra đủ loại xung đột trong quan hệ, đặc biệt là nếu giờ đây họ bị ràng buộc bởi hôn nhân hay họ có con với nhau, và vì vậy họ không thể dễ dàng bước ra khỏi mối quan hệ.

Đương đầu với tuổi già

Hỏi: Con có ý chí muốn sống, tuy vậy con không thích sống trong đau đớn thể xác cũng như trong nỗi sợ hãi những gì đi kèm với tiến trình chết trên trái đất. Những người đau ốm, làm thế nào họ bước chân được trên đường tu khi họ bị bệnh tật hay bệnh kinh niên, khi hầu hết nếu không muốn nói là tất cả sự chú ý của họ đều dồn vào việc điều trị cơ thể vật lý? Người ta bảo rằng lìa đời dễ hơn sinh ra đời. Thế nhưng nếu khi làm vậy, chúng con phải chịu nhiều năm trời đau đớn, làm thế nào chúng con có thể kiên trì để mà tinh tấn khi niềm an ủi duy nhất mà chúng con tìm cầu là thoát khỏi cơn đau và bước ra ngoài thân xác? Một số học trò của các chân sư thăng thiên đã lớn tuổi và không còn được hưởng sức khỏe tương đối nữa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Sự phục sinh của dân chủ. Đăng ngày 11/11/2022.

Lẽ tự nhiên, ta hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh của con và cũng là hoàn cảnh của nhiều người. Và lẽ tự nhiên, ta có lòng từ bi. Tuy nhiên, thực tế là trong hiện trạng của địa cầu với độ dày đặc hiện nay của vật chất lẫn độ dày đặc của tâm thức tập thể, sẽ có những người, kể cả những người tâm linh, phải chịu nhiều loại bệnh tật trong tuổi già.

Các chân sư đã đề cập đến điều này nhiều lần, rằng có thể có một số lý do – ngay cả không phải là do nghiệp chướng cá nhân của con – nhưng có một điều gì đó mà con đã nhận vào, và con đang giữ sự cân bằng tâm linh cho trái đất, vân vân.

Điều ta khuyên con làm là con hãy tự giải thoát ra khỏi một số chờ đợi mà có thể con đang có về thế nào là một người tâm linh. Một số các con đã tự đẩy mình vào tình cảnh cảm thấy mình phải nỗ lực thật nhiều, chẳng hạn phải đọc bao nhiều bài thỉnh bài chú, và càng ngày con sẽ càng cảm thấy khó lòng nào chu toàn được vì cơ thể của mình không cho phép.

Con hãy thoát ra khỏi những chờ đợi đó, hầu con làm tất cả mọi thứ con có thể làm mà không cảm thấy đó là gánh nặng. Con cũng có thể xoay chuyển và nhận ra rằng một căn bệnh, cho dù đau đớn hay khó chịu đến chừng nào, cũng có thể được xem là một cơ hội để giải quyết toàn bộ tâm thức của con chung quanh cơ thể vật lý. Khi con nhìn con người sống trên trái đất, con thấy nhiều người bị dính mắc vào thân xác của mình, dính mắc với sự kiện mình phải trẻ trung, phải mạnh khỏe, phải cường tráng và có khả năng làm được bất cứ gì mình muốn với một cơ thể. Và nếu con không thể làm được như vậy thì ta khuyên con nên xoay chuyển. Con có thể học các giáo lý mà các chân sư đã ban truyền. Con cũng có thể tìm đến những giáo lý khác nhấn mạnh đặc biệt đến cách khắc phục sự dính mắc với xác thân, sự lệ thuộc vào xác thân, xoay chuyển sự nhận biết của con về xác thân.

Ta cũng khuyên con nên sử dụng các dụng cụ mà các thày đã ban truyền về cách cải sửa tâm lý của mình trong các vấn đề sâu xa hơn. Những quyển sách mà con hiện đang dùng trong chương trình canh thức hiện nay, con hãy học hỏi từng quyển một. Hãy xem xét thái độ của mình đối với cơ thể, đối với cõi vật lý của con, và hãy nhìn ra rằng rốt cuộc, một khi con sẵn sàng thăng thiên thì không những con sẽ bỏ lại cái thân xác vật lý mà con đang có bây giờ, mà con cũng sẽ bỏ lại bất kỳ khả năng nào để bước vào một thân xác vật lý mới. Nếu con quyết tâm thăng thiên, điều sẽ vô cùng xây dựng cho con là con nỗ lực khắc phục mọi dính mắc đối với thân xác vật lý. Và tất nhiên, sự dính mắc này chỉ có thể ngụ trong những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra, thường thường trong nhiều tiền kiếp. Con hãy sử dụng tất cả thời gian con có, tất cả sự chú ý con có, để làm công việc này. Con hãy thỉnh sự giúp đỡ của các thày. Hãy sử dụng các dụng cụ để thỉnh cầu các thày giúp con nhìn ra những gì con có thể nhìn thấy về cơ thể vật lý.

Con hãy nỗ lực chuyển đổi thái độ của mình. Hãy tự hỏi: “Cái gì ngăn cản tôi bỏ lại không chỉ thân xác vật lý này mà cả mọi khả năng đầu thai trong vật lý? Liệu tôi có thực sự sẵn sàng thăng thiên hay không? Hay liệu tôi vẫn còn một cái ngã nào đó đang bám chặt lấy việc ngụ trong một xác thân vật lý, và ngã này có thể ngăn cản tôi bỏ lại địa cầu vĩnh viễn và toàn diện?”

Con hãy làm công việc này. Tìm cách phơi bày những cái ngã đó rồi giải thoát cho mình được tự do, không dính mắc với cơ thể càng nhiều càng tốt. Và chính khi con làm như thế thì việc đương đầu với bệnh tật, đương đầu với nỗi đau, cũng sẽ dễ dàng hơn. Và do đó nó sẽ cho con một cuộc sống thoải mái hơn trong những năm cuối cùng của kiếp sống này.

Bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý tâm linh

Hỏi: Liệu chân sư thăng thiên Phật Gautama có cảm thấy đau buồn khi thấy một số nước như Myanmar và Sri Lanka tuyên bố đi theo đức Phật cùng giáo lý của Phật, nhưng họ lại cho phép sự cưỡng hiếp hàng loạt những phụ nữ Hồi giáo Rohingya hay sự tiêu diệt hàng loạt những người Ấn giáo Tamil? Hay sự áp chế các nhà truyền giáo Cơ đốc tại Bhutan, thậm chí cả kỹ nghệ du lịch tình dục trụy lạc đang phồn thịnh tại Thái Lan? Liệu ngày nay có quốc gia nào nơi đạo Phật chiếm đa số còn sống trọn với các lý tưởng của Phật hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 26/6/2022.

Khi con đã đạt đến trạng thái tâm thức Phật thì con không còn trải nghiệm sự đau buồn theo cách định nghĩa của con người. Và một khi con đã trao truyền một lời dạy tâm linh trên địa cầu thì con biết, ít ra là sau khi con thăng thiên, con biết là một khi giáo lý tâm linh đã được ban ra trong cõi vật lý thì con không thể kiểm soát được mọi người sẽ sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào để diễn giải hay thực hành giáo lý. Giê-su cũng đã kinh qua trải nghiệm đó y như những bậc khác đã thăng thiên. Con buông nó ra, con để cho chính lời dạy của con ra đi. Con chỉ đơn giản để cho nó ra đi và con nói: “Lời dạy đã ở cõi vật lý. Cơ hội đã được trao ra. Dù người ta có làm gì với nó thì đó là quyền tự quyết của họ.”

Hiển nhiên ta có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Phật và ta thấy được là họ không làm trọn các lý tưởng của Phật. Hiển nhiên Giê-su cũng có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Cơ đốc nhưng không sống trọn theo lý tưởng Cơ đốc. Nhưng đây là điều mà con phải buông bỏ khi con là chân sư thăng thiên, bởi vì nếu không thì con không thể thăng thiên. Nếu con bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý mà con đã ban truyền trong kiếp chót của con như thế nào, thì con sẽ phải tái đầu thai để cố kiểm soát cách thực hành đó, hay ít ra cố lèo lái, hướng dẫn mọi người đạt được một cách hiểu cao hơn. Và như vậy thì con không thể thăng thiên.

Đây chính là một điểm mà con trong tư cách là một người tâm linh cần lưu ý. Như Giê-su có nói, có những người đã quyết định cách đây 2000 năm là họ sẽ ở lại trong hiện thân suốt 2000 năm tiếp theo để giúp cho đạo Cơ đốc có được tầm ảnh hưởng tối ưu. Khi ta thăng thiên thành Phật, cũng có những vị đã phát nguyện làm y như vậy. Đối với những vị đó, điều thật quan trọng là họ nên suy nghĩ lại và nói: “Liệu tôi có dính mắc nào với cách người đời sử dụng giáo lý tâm linh?” Bởi vì nếu con có dính mắc thì làm sao con sẽ thăng thiên được? Nếu Sứ vụ Thiêng liêng của con định ra là con sẽ thăng thiên trong kiếp này, thì con cần phát hiện ra dính mắc đó và để cho nó ra đi. Bởi vì nếu không, con sẽ không muốn thăng thiên, con sẽ muốn trở lại trong một kiếp đầu thai khác cho đến khi con cảm thấy là mình đã hoàn thành công việc của mình. Nhưng đến bao giờ con mới cảm thấy được là con đã hoàn tất công việc đem lại tiềm năng cao nhất cho đạo Cơ đốc hay đạo Phật? Có thể còn rất lâu nữa.

Bây giờ nói đến các nước. Thật sự không có nước nào mà đa số người dân ở đó có được hiểu biết cao hơn về giáo lý đạo Phật hay đang thực hành đạo Phật một cách cao hơn. Tuy vậy, có một số nước rõ ràng là yên bình hơn một số nước khác, cho nên ít ra các nước này cũng có được một trình độ thể nhập giáo lý tốt. Ta không muốn nói rõ nhưng có một vài nước như vậy. Nhưng ta không nhìn họ như là những quốc gia – liệu có quốc gia nào thể nhập được đạo Phật hay chăng? Mà ta nhìn vào con người. Ta nhìn vào những cá nhân. Ta nhìn vào một số trào lưu đã thể nhập được đạo Phật nhiều hơn.

Lỗ đen là gì?

Hỏi: Lỗ đen (black hole) là gì? Trong vũ trụ có những hiện tượng gọi là lỗ đen. NASA mô tả lỗ đen như sau: “Lỗ đen là một nơi trong không gian mà lực hấp dẫn (gravity pull) mạnh đến độ ngay cả ánh sáng cũng không thể lọt ra ngoài. Lực hấp dẫn mạnh đến như vậy là vì vật chất bị dồn ép vào một khoảng không gian cực nhỏ.” Và trang mạng space.com viết: “Dị điểm (singularity) ở trung tâm lỗ đen là vùng bất khả xâm tối hậu, một nơi mà vật chất bị nén xuống một điểm cực nhỏ, nơi mọi quan niệm về thời gian và không gian bị hoàn toàn tan vỡ và không thật sự hiện hữu.”

Dẫu vậy, người ta ước lượng có khoảng 40 tỷ tỷ lỗ đen trong vũ trụ, và chỉ trong dải thiên hà của chúng ta – dải Ngân hà – các nhà khoa học ước tính có 10 triệu đến 1 tỷ lỗ đen. Câu hỏi này được đặt ra từ nhãn quan cõi tâm linh và nhãn quan của các chân sư thăng thiên. Lỗ đen là gì? Chức năng và mục đích của chúng là gì? Có phải chúng là sự nối dài của một hiện tượng hay một tình trạng nào đó trong ba cõi cao của cõi vật chất, tức cõi cảm xúc, lý trí và ê-the?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Như với mọi thứ, cách diễn giải của khoa học về những gì chính khoa học đã quan sát bị giới hạn bởi ý thức hệ duy vật. Điều chúng ta có thể nói chung chung là khoa học biết rằng vũ trụ đang giãn nở. Khoa học cũng biết rằng trong một hệ thống kín, entropi sẽ gia tăng cho tới khi mọi cấu trúc trong đó không thể tồn tại, là trạng thái năng lượng thấp nhất có thể, và điều này mâu thuẫn với sự quan sát là vũ trụ đang giãn nở. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải có một cái gì thúc đẩy cho nó giãn nở, và để có một cái gì thúc đẩy thì phải có năng lượng được bổ sung vào hệ thống. Năng lượng chính là lực thúc đẩy bất kỳ loại hoạt động nào.

Vì vũ trụ giãn nở cho nên phải có một cõi vượt ra ngoài cái hiện nay được gọi là vũ trụ vật chất, và ở nơi đó có nhiều năng lượng hơn vũ trụ vật chất. Và năng lượng này phải tìm được một cách nào đó để đi vào vũ trụ vật chất để thúc đẩy sự giãn nở. Đây là điều đang xảy ra với mặt trời của các con cũng như với mọi mặt trời khác khắp vũ trụ. Có một sự bổ sung năng lượng nhập vào vũ trụ vật chất xuyên qua tất cả các mặt trời – mà chúng ta có thể gọi là một hình thức lỗ trắng, mặc dù cũng có khái niệm về lỗ trắng. Và như vậy trong vũ trụ có một số trung tâm nơi năng lượng đi vào cõi vật chất dưới một dạng ánh sáng.

Tuy nhiên do những yếu tố vô cùng phức tạp, luôn luôn có một sự cân bằng năng lượng trong vũ trụ. Đây là một điều thay đổi trong thời gian – hay nói cách khác, nếu con đi ngược dòng thời gian đủ xa thì con sẽ thấy có một thế cân bằng năng lượng khác hơn là hiện tại. Vũ trụ có nhu cầu phải cân bằng năng lượng. Điều này có nghĩa là lượng năng lượng được đổ thêm vào vũ trụ vào một thời điểm nào đó không thể vô tận. Phải có một yếu tố cân bằng lại, có nghĩa là phải có một cái gì có khả năng rút năng lượng ra khỏi quang phổ vật lý (material spectrum) hầu toàn bộ vũ trụ không có quá nhiều.

Con có thể nói là thái dương hệ của các con là một đơn vị cục bộ trong vũ trụ nơi năng lượng đổ vào một cách thiếu cân bằng. Điều này cần thiết để đem lại đủ lượng ánh sáng hầu duy trì sự sống trên trái đất. Nhưng năng lượng này cũng tỏa ra khắp vũ trụ, và nếu tất cả năng lượng từ tất cả mọi mặt trời cũng đi vào vũ trụ như vậy thì nó sẽ quá nhiều, nó sẽ tạo ra sự mất quân bình. Một cái gì khác phải tái lập quân bình và đây chính là một trong các chức năng của lỗ đen, tức là lấy năng lương dư thừa đem trở ra.

Tuy vẫn có một số khu vực địa phương với nhiều năng lượng hơn, hay ít ra đủ năng lượng để nuôi dưỡng sự sống, nhưng để tránh tình trạng mất cân bằng trong toàn bộ vũ trụ, năng lượng cũng được lấy đi qua các lỗ đen. Một lỗ đen không thực sự là một lỗ đen mà là một cánh cổng dẫn vào một cõi năng lượng khác, chẳng hạn các bát cung cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khoa học hiện thời bị hạn chế bởi cach hiểu duy vật, qua đó các nhà khoa học luôn luôn tìm kiếm một cách giải thích duy vật, cho nên luôn luôn phải có một lực vật lý nào đó. Họ quan sát thấy là tại một số nơi trong vũ trụ có ánh sáng đi vào mà không có ánh sáng đi ra. Làm thế nào giải thích đây? Thế là họ phải giải thích hiện tượng này là do trọng lực tạo ra. Kỳ thực một lỗ đen không do trọng lực tạo ra, nhưng tất nhiên nó có thể có sức hấp dẫn môi trường xung quanh qua trọng lực.

Nhưng lỗ đen không hề được tạo ra bởi trọng lực. Ở giữa lỗ đen không hề có một dị điểm. Dị điểm mà các nhà khoa học và các nhà duy vật nhìn thấy chỉ là sự hư cấu của trí tưởng tượng. Nó không có. Không có một dị điểm nào thật sự hiện hữu. Trước khi Big Bang (Vụ Nổ Lớn) xảy đến, đã không có dị điểm nào. Big Bang không phải là một biến cố khởi đầu từ một điểm, mà là một sự nở giãn vĩ đại khi độ rung của năng lượng được các Elohim hạ thấp xuống từ cõi cảm xúc, và năng lượng khoác lấy hình dạng các hành tinh, mặt trời, vân vân. Đó là độ rung được giảm xuống, chứ không phải là sự giãn nở từ một dị điểm. Không gian, sự giãn nở của vũ trụ, sự giãn nở của không gian, đã không khởi đầu ở một điểm. Nó đã bắt đầu trong một bầu cõi rộng lớn không ngừng giãn nở thêm nữa từ thuở đó.

Tất nhiên còn nhiều điều để nói về đề tài này, và rất nhiều điều hơn nữa sẽ được khám phá trong tương lai. Nhưng ta đã cho con những gì ta xem là xây dựng vào thời điểm này.

Các khả năng vỏ ngoài trên đường quả vị Ki-tô

Hỏi: Vì lý do gì mà một số chúng con không có nhiều khả năng vỏ ngoài trong kiếp này, khiến chúng con gặp nhiều khó khăn hơn khi đối phó với thế giới chung quanh, khi tiến bước trên đường đời hay khi giữ một công việc, v. v…? Có phải điều này liên hệ tới tiến trình gỡ bỏ khi chúng con bước gần hơn đến thăng thiên, hay có một lý do nào khác mà chúng con không biết?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Đây là một câu hỏi phức tạp vì có nhiều yếu tố cá nhân trong đó. Có nhiều người tâm linh suốt mấy kiếp qua đã xây dựng một thái độ mà chúng tôi đã có đề cập, là thái độ xem cõi vật chất, xem thế giới vật lý là kẻ thù trên đường phát triển tâm linh của mình. Sự kiện này khiến cho nhiều người tạo dựng một lực kháng cự nơi tiềm thức, có nghĩa là họ tạo ra nhiều cái ngã trong ba thể cao khiến họ cưỡng chống lại mọi công việc trong cõi vật lý. Và họ cho đó thực sự là một chỉ dấu tinh tấn tâm linh.

Họ mang lực kháng cự này trong tiềm thức, họ tự phá hoại bản thân vì họ thật sự không muốn làm công việc đó. Họ không nghĩ là họ phải cần có việc làm đó. Họ nghĩ là họ phải có thể là người tâm linh, phải có thể sinh sống làm người tâm linh, hay sống trong một tu viện như họ đã từng làm trong những kiếp trước. Đây không phải là một động lượng tích cực, không phải là một điều tích cực. Và nếu con cảm thấy đây là trường hợp của con thì đây là điều mà con nên cố gắng vượt qua.

Tất nhiên cũng có trường hợp khác là những người đã có trớn sẵn từ tiền kiếp để làm kinh doanh chẳng hạn, để theo đuổi một sự nghiệp, kiếm thật nhiều tiền, và giờ đây họ quyết định là họ muốn là người tâm linh hơn, và vì thế họ không muốn bị lôi kéo vào dòng động lượng cũ. Cho nên một lần nữa, họ cũng khởi lên một lực kháng cự nơi tiềm thức để mình không bị lôi cuốn vào vòng xoáy xây dựng sự nghiệp hay kiếm tiền mà họ đã nếm mùi trong những kiếp trước. Con có thể thấy là trong cả hai trường hợp, nguyên nhân là một sự cưỡng chống nơi tiềm thức. Và trong cả hai, đây không phải là cách tiếp cận tâm linh cao nhất, mặc dù đối với một số người, đó có thể là một trạng thái tạm thời cần thiết hầu khắc phục một số động lực của quá khứ.

Nhưng điều lý tưởng, điều lý tưởng hơn, là con có khả năng tham gia vào các sinh hoạt đời sống vật lý và thành công trong các sinh hoạt đó mà vẫn không bị chúng lôi cuốn mình vào. Con không bị lôi cuốn vào cuộc chạy đua sự nghiệp chẳng hạn, hay cuộc chạy đua làm giàu, nhưng con vẫn có khả năng giữ công việc làm của mình, kiếm tiền đủ sống cho một lối sống vừa phải, và vẫn còn thì giờ rảnh rang để tập trung vào sinh hoạt tâm linh của con. Các đệ tử của chân sư thăng thiên không nên đặt mục tiêu là mình sẽ sống nghèo, sẽ không có một cuộc sống tươm tất, sẽ không có khả năng mua một cuốn sách hay tham dự một hội nghị, vân vân.

Nếu con là một người đang trên đường đạt đến thăng thiên, một người có mục tiêu thể hiện quả vị Ki-tô hay những mức cao của quả vị Ki-tô, thì con sẽ có sẵn một số năng khiếu tự nhiên trong cõi vật lý. Con sẽ không kháng cự lại mà con sẽ nhìn vào năng khiếu đó rồi nói: “À, hẳn là tôi phải làm một số công việc để sinh sống, vậy thì tôi hãy làm cho tốt nhất.”

Và đó là cách con thị hiện các mục tiêu tâm linh của con. Nếu Giê-su đã là một người thụ động chẳng làm được chuyện gì thì thày sẽ có hoàn thành được những công việc của thày cách đây 2000 năm hay không? Cái đó cần một động lượng nào đó. Con sẽ có thể hỏi: “Nhưng Giê-su có những khả năng thực tiễn gì?” Chắc chắn Giê-su có một số khả năng phát biểu, khả năng tương tác với mọi người, vân vân. Hay con có thể nhìn vào vị sứ giả này. Ông không sống chạy theo vật chất nhưng ông đã từng giữ công việc làm khi cần thiết, ông đã thành công trong nhiều việc làm khác nhau và ông đã tự học được nhiều kỹ năng. Nếu ông không có khả năng làm việc vật lý thì làm thế nào ông đã hoàn thành được những việc ông đã hoàn thành, học hỏi kỹ năng mới để xuất bản sách, xuất bản trang mạng, vân vân?

Một khía cạnh tự nhiên ở các tầng cao của đường tu là con không bị dính mắc vào thành quả vật lý. Con không theo đuổi một sự nghiệp trong thế gian, nhưng con có khả năng thực hiện một số công việc thực tiễn, học hỏi kỹ năng, và tất cả những thứ đó là một phần của sinh hoạt tâm linh của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Khi người nữ tăng triển nhanh hơn người nam

Hỏi: Con nhận thấy xu hướng này nơi nhiều phụ nữ đã lập gia đình trong số họ hàng cũng như trong nhóm bạn bè của con, là các chị ấy dường như gặp khó khăn vì chồng mình không bước lên cao hơn. Thường thường, các chị không bằng lòng với cách chồng mình cư xử trong các tình huống. Chẳng hạn, các anh không đủ giao tiếp, không đủ chủ động hay không đủ sáng kiến, và các chị cảm thấy như thể mình luôn luôn là người phải đề nghị những việc cần làm, phải hoạch định và tổ chức các sinh hoạt, phải chăm lo nhà cửa, v. v… Rốt cuộc, dường như các chị cảm thấy vô cùng bực bội, bất mãn đối với chồng mình, và các chị tự hỏi không hiểu phái nam có vấn đề gì sai trái. Xin các thày vui lòng cho biết ý kiến để làm thế nào phụ nữ có thể hiểu rõ hơn về tình trạng này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Đây là một hiện tượng phổ biến được thấy ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia dân chủ nơi tâm thức của nhiều người đã tăng triển nhiều hơn. Con sẽ thấy, như chúng tôi đã có nói, một xu hướng chung chung là phái nữ cởi mở hơn phái nam trong sự phát triển cá nhân, thậm chí cả sự phát triển tâm linh hay sự chữa lành tâm lý. Điều này có nghĩa là trong nhiều mối quan hệ có sự phát triển không cân xứng, qua đó người nữ tăng trưởng nhanh hơn người nam, và do vậy sẽ tới một điểm khi người nữ không còn bằng lòng với mức độ tăng triển tâm linh cũng như các sinh hoạt của chồng mình nữa. Các anh không có bất kỳ hứng thú nào làm những việc mà các chị xem là quan trọng.

Hiển nhiên, đây là một tình huống rất cá nhân trong cách con sẽ xử lý như thế nào. Không có một cách thức độc nhất. Đối với một số chị, chị ấy sẽ cần phải ly thân khỏi anh ấy, hoặc sống một mình trong một thời gian, hoặc tìm một người phối ngẫu khác tương hợp hơn với mức tâm thức cùng sự tha thiết tăng triển của mình. Nhưng đối với một số khác, chị ấy có thể tìm ra cách chung sống với anh ấy mà vẫn đeo đuổi được con đường phát triển tâm linh của mình. Và lại có một số người khác nữa có khả năng tạo được cảm hứng nơi chồng mình để anh ấy tích cực hơn trong việc theo đuổi phát triển cá nhân.

Luôn luôn sẽ có những kịch bản cá nhân cho mỗi người, nhưng rõ ràng là nếu có khoảng cách quá lớn giữa hai người trong trình độ tâm thức cũng như trong cách trải nghiệm sự phát triển tâm thức, thì sẽ xảy ra căng thẳng, và rất có thể sẽ tới một điểm khi người phối ngẫu tha thiết phát triển hơn sẽ cảm thấy cần phải tự loại mình ra khỏi mối quan hệ. Ta không bảo là con nên làm vậy, và ta cũng không bảo là con không nên làm vậy.

Đó là sự cân nhắc của mỗi cá nhân, và ta khuyên con không nên vội vã mà nên nỗ lực chữa lành tâm lý của mình càng nhiều càng tốt, gia tăng khả năng trực giác của mình, hầu con không lấy quyết định với tâm vỏ ngoài mà con đạt tới điểm khi quyết định đó đến với con từ bên trong. Con trung hòa về vấn đề này, và quyết định đó hiện ra như một điều phải, một điều đúng lúc, đúng thời.

Tất nhiên, điều này đặc biệt áp dụng cho trường hợp con có con cái. Khi đó, có thể con sẽ cần xem xét kỹ lưỡng việc ở lại trong mối quan hệ để cho con mình một nền dạy dỗ bảo đảm hơn. Nhưng một lần nữa, có nhiều yếu tố cá nhân cho con cân nhắc khi con đơn giản cảm thấy mình cần phải bước tới để có thể trải nghiệm sự tăng triển tối đa. Điều này con sẽ có thể làm được khi con hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của con, khi con chữa lành tâm lý của con và cố gắng càng trung hòa càng tốt.

Khía cạnh phân liệt của đường tu tâm linh

Hỏi: Các giai đoạn chót trước khi thăng thiên có vẻ như hơi mâu thuẫn vì chúng con vẫn còn tự ngã, và như Saint Germain có giảng, tự ngã có vẻ vẫn còn phục vụ như một cái neo hay một cơ chế an toàn để ngăn ngừa sự rút lui quá sớm của lực sống khi chúng con chưa sẵn sàng thăng thiên. Nhưng đồng thời, chúng con đang là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình biểu đạt trong thế giới, và chúng con sáng tạo xuyên qua Hiện diện TA LÀ. Điều này có vẻ hơi phân liệt tâm thần (schizophrenic) về mặt trải nghiệm. Câu hỏi của con là, liệu chúng con có biết chắc là mình đã sẵn sàng, hay khi nào mình sẽ sẵn sàng? Hay có thể chúng con bị lầm lạc trong phán đoán và làm sái hoàn toàn? Vì rốt cuộc, tự ngã vẫn còn đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Hãy cho ta trình bày theo cách thế này. Quyền tự quyết là quyền tự quyết. Trên lý thuyết, cho đến tầng 144 con vẫn có thể quyết định khởi sự một con đường đi xuống. Không có nhiều xác suất con sẽ làm vậy nhưng chuyện này vẫn có thể xảy ra. Con có thể bước vào một tâm thái cho rằng con đã sẵn sàng thăng thiên vì con đánh giá quá cao sự tiến bộ của mình. Nhưng một lần nữa, khả năng xảy ra như vậy không cao lắm. Nó có nhiều khả năng xảy ra hơn ở tầng 96, là khi con có thể nghĩ, hoặc con đã sẵn sàng thăng thiên, hoặc con đã có một trình độ quả vị Ki-tô nào đó và con bắt đầu sử dụng điều này để tự đề xướng mình như một sinh thể tách biệt, và do đó con bắt đầu đi xuống con đường tay trái, con đường hướng hạ.

Sự thật là khi con vươn lên cao hơn và vượt quá tầng 96, tự ngã ngày càng có ít ảnh hưởng trên con. Như các thày đã có nói, nó chỉ còn là một cái gì giữ con trong cơ thể vật lý, bởi vì nếu không có một loại ngã tách biệt nào đó thì con không thể hòa nhập với một cơ thể.

Con có thể nói theo một nghĩa nào đó – và các thày cũng đã đề cập – là khi con khởi sự ở tầng 144 và con đi xuống tầng 48, cứ mỗi tầng như thế con lại khoác vào một ảo tưởng, rồi lại thêm một ảo tưởng khi con cứ tiếp tục đi xuống. Những ảo tưởng đầu tiên mà con khoác vào thật ra là các ảo tưởng cho phép con, như cái Ta Biết, như một sinh thể vô hình tướng, hòa nhập với một cơ thể có hình tướng, và do đó con tới chỗ cảm thấy mình ở trong cơ thể và bốn thể phàm – không phải chỉ có cơ thể mà đầu tiên là thể bản sắc, xong thể lý trí, xong thể cảm xúc, rồi đến thể vật lý. Nhưng con phải khoác vào một số ảo tưởng để tự trải nghiệm mình đang ở trong cơ thể này, mình có một cảm giác nhận biết đã định vị chung quanh cơ thể – thật ra có thể nói là con có khả năng vận hành bộ máy của cơ thể.

Và cái này thì không thực sự gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống. Nó không khiến con ích kỷ mà nó chỉ khiến con hòa nhập với một cơ thể hầu con có thể thực sự xem mình như đang tồn tại trong cơ thể đó, đang nối kết với cơ thể đó, đang có khả năng điều khiển cơ thể và trải nghiệm thế giới xuyên qua cơ thể và hành động xuyên qua cơ thể. Đây không phải là cái gì con sẽ gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống, tức là ích kỷ và chỉ đặt trọng tâm vào chính nó.

Con càng vươn lên cao hơn thì con càng làm cho sự tập trung vào bản thân rơi rụng. Và cuối cùng con đạt tới điểm – và điểm này xảy ra trước tầng 144 – con không còn tập trung vào chính mình nữa, thậm chí con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt đến độ con phải tự nâng mình lên, trở thành danh tiếng, hay muốn làm chuyện gì quan trọng, vân vân.

Con lần lần rũ bỏ cảm nhận tập trung vào chính mình, cho nên tất nhiên càng ngày con sẽ càng ít khả năng lầm lạc để mà bắt đầu đi trở xuống. Điều này cũng có nghĩa là khi con khởi sự rũ bỏ sự tập trung vào bản thân, khía cạnh tâm thần phân liệt cũng biến mất. Ta cũng hiểu tại sao con có cảm giác phần nào đây là một tiến trình phân liệt. Như các thày đã có nói, có một giai đọan trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy phân liệt đôi chút. Nhưng con khắc phục nó, con thăng vượt nó khi con thăng vượt sự tập trung vào bản thân như một sinh thể tách biệt, và con bắt đầu hòa nhập nhiều hơn với Hiện diện TA LÀ của con, và sự phân liệt dường như tan biến mất.  

Dự báo kinh tế 2022 và xa hơn

Hỏi: Saint Germain yêu dấu, điều gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế trong tương lai ngắn hạn? Theo một số nhà báo, chúng ta chưa đạt tới điểm thấp nhất vì các ngân hàng trung ương không có khả năng giảm bớt lạm phát tăng vọt bằng cách tăng lãi suất. Có vẻ như các ngân hàng trung ương bị kẹt cứng trong một thế bí lưỡng nan và không ai biết chính xác điều gì sẽ xảy ra. Xin thày vui lòng cho chúng con một số sáng ngộ về những gì có nhiều xác suất xảy ra nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 21/6/2022.

Trong ngắn hạn, lạm phát sẽ tiếp tục gia tăng. Lý do không chỉ là vì các ngân hàng trung ương không có khả năng chặn đứng lạm phát qua việc nâng lãi suất, mà cũng vì sau cơn đại dịch corona, lượng cầu bị dồn nén khiến cho giá cả tăng lên theo luật cung cầu.

Tuy nhiên, phần lớn lạm phát mà con thấy thật ra là do đầu cơ. Đặc biệt, giá hàng hóa và giá dầu hỏa bị các nhà đầu cơ đưa lên cao vì họ nhìn thấy cơ hội kiếm được lợi nhuận khổng lồ bằng cách tạo ra khan hiếm giả tạo khi lượng cầu gia tăng. Điều có xác suất xảy ra trong tương lai ngắn hạn là sẽ tới lúc sự tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu bị trì trệ và thế giới bước vào suy thoái. Điều này sẽ khiến cho giá cả giảm xuống trở lại do lượng cầu suy giảm. Trong kịch bản tốt nhất, cuộc suy thoái này sẽ không kéo dài quá lâu, nhưng trong kịch bản xấu nhất, nó có thể dẫn đến giảm phát (deflation) khi giá cả tuột dốc. 

Các vấn đề cơ bản tác động đến nền kinh tế, nói chung, gồm có ba điều:

Trước hết, sự khuynh đảo nền kinh tế bởi tầng lớp quyền lực tài chánh qua trung gian các công cụ tài chánh không đóng góp gì cho nền kinh tế tự nhiên là sự cung cấp sản phẩm, cung cấp dịch vụ. Họ bòn rút tiền từ dân chúng cũng như từ các doanh nghiệp đang cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Đây là một vấn đề cần được giải quyết.

Vấn đề sau đó là tự thân hệ thống tiền tệ, việc tạo ra tiền tệ qua nợ nần, không thể kéo dài bền vững được nữa. Vấn đề ở đây là có nhu cầu thiết lập một hệ thống tiền tệ lành mạnh không dựa trên nợ nần. Con có thể nói đây là vấn đề thứ nhì, việc thiết lập một hệ thống tiền tệ không đặt nền tảng trên nợ nần.

Nhưng vấn đề thứ ba là chính những khoản nợ đó, khi người dân, các công ty và các chính phủ cùng các quốc gia đã mang nợ những khoản tiền khổng lồ đến độ nó không thể tiếp tục bền vững được nữa. Chỉ tiền trả lãi không thôi cũng đang đe dọa nền kinh tế của nhiều nước, nhiều doanh nghiệp, nhiều cá nhân. Sẽ tới một điểm khi ngày càng nhiều người – các nhà kinh tế học, nhà chính trị, nhà báo, vân vân – sẽ đi đến nhận thức là thế giới đang đối mặt với một chọn lựa đơn giản. Hoặc nền kinh tế sẽ sụp đổ toàn diện, và toàn bộ hệ thống tài chánh cũng sụp đổ do nợ nần, đầu cơ, vân vân. Hoặc các chính phủ dân chủ sẽ nhận lãnh trách nhiệm của mình là tạo ra một nền kinh tế thực sự dân chủ, một nền kinh tế tự do với cơ hội đồng đều cho tất cả mọi người, một nền kinh tế không thể bị lạm dụng bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực.

Ngay cả thiểu số thượng tôn quyền lực này cũng sẽ bắt đầu nhìn ra là hoặc họ có thể hủy bỏ một số khoản nợ, hoặc họ có thể duy trì khoản nợ, đòi hỏi mọi người phải thanh toán nợ, và như vậy họ có thể khiến cho kinh tế sụp đổ và không bao giờ nhận được thêm tiền trả nợ nào nữa. Đơn giản cần có sự nhận thức rằng nợ nần đã lên cao tới mức mà lối thoát duy nhất là hủy bỏ món nợ, có lẽ không phải tất cả, nhưng chắc chắn một phần lớn món nợ.

Con có thể thấy tại Hoa Kỳ, khoản nợ quốc gia đã lên tới mức thực sự khủng khiếp. Cần có một sự nhận thức và một phong trào trong quần chúng nói rằng: “Chúng ta đang mượn tiền của ai vậy? Ai đang cho chúng ta vay tiền? Chúng ta đang nợ tiền của ai đây?” Và cần có sự nhận thức rằng: “Phải, chúng ta đang nợ tiền của một số ngân hàng lớn trong nước, ngay cả những ngân hàng xuyên quốc gia. Nhưng những công ty này, những tập đoàn này, họ phải là tập đoàn của dân Mỹ chứ? Tại sao chúng ta đã lập ra một hệ thống tiền tệ dựa trên nợ nần mà chính phủ phải vay từ các cơ sở tư nhân, rồi người dân đóng thuế phải trả lãi cho các cơ cở tư nhân này? Tại sao chúng ta không tuân thủ những gì được viết trong Hiến pháp, là chỉ có Quốc hội mới có quyền in tiền? Tại sao chúng ta không in tiền trực tiếp mà lại vay tiền từ các ngân hàng tư nhân kiếm lời? Tại sao chúng ta cho phép một hệ thống tiền tệ như vậy? Tại sao chúng ta cho phép Cục Dự trữ Liên bang – gồm một số ngân hàng tư nhân – điều khiển nền kinh tế?

Tất nhiên, ở các quốc gia khác có thể có những bộ phận khác, nhưng dẫu sao thì tiền tệ dựa trên nợ nần là một vấn đề ở khắp mọi nơi. Câu hỏi được đặt ra là đến khi nào sự nhận thức đó mới có mặt, liệu người ta sẽ nhận thức được kịp thời để ngăn chặn một vụ sụp đổ, hay liệu sẽ cần thêm một khủng hoảng nữa cũng trầm trọng như năm 2008 hay 1929 để mọi người hiểu ra là họ không thể có một quốc gia dân chủ với một hệ thống tài chánh phản dân chủ?

Hằng số Planck

Hỏi: Các chân sư đã nhận xét khá nhiều lần rằng trái đất là một cỗ máy giả thực tại (virtual reality simulator). Có thể nào nói rằng hằng số Planck (Planck constant) là nhịp độ làm mới (refresh rate) của sự mô phỏng thực tại? Thày Giê-su đã có lần nói rằng giữa các hình ảnh trong máy chiếu hình của tâm có một khoảng trống mà nơi đó – trong sự tĩnh lặng vượt thời gian – các hình ảnh phù hợp với tâm Ki-tô có thể được xen kẽ vào để thay thế các hình ảnh không phù hợp với các định luật của Thượng đế, và việc này sẽ tức khắc trình chiếu ra một thực tại mới. Đây có phải là cách hiểu phần nào đúng đắn về những gì các thày đã nói?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 21/6/2022.

Phải, đó là cách nhìn đúng đắn. Nhưng tất nhiên còn nhiều điểm khác nữa có thể nói thêm, và điều này đòi hỏi một tầm hiểu biết vật lý học sâu rộng hơn, cho nên xin để lại cho một hôm khác. Đúng là có một nhịp độ làm mới, và nhịp độ này liên hệ với hằng số Planck, và tất nhiên hằng số Planck cũng là các quãng, hay các bước nhảy lượng tử, giữa các trạng thái năng lượng.

Điều khoa học chưa nhận ra là đương nhiên phải có một cái gì đó nằm giữa các bước riêng lẻ này, hay con cũng có thể nói là phải có một cái gì làm nền cho các bước riêng lẻ. Giống như nếu con lấy một dây thước đo để đo milimét hay inch, thì hầu hết mọi người sẽ chú mục vào những đường kẻ nhỏ đo đạc 3 milimét chẳng hạn hay 1 inch, vân vân. Nhưng nếu không có cái dây trắng ở đằng sau thì làm thế nào đường kẻ ở đó được?

Phải có sự im lặng vượt khỏi tiếng động, phải có sự tĩnh lặng vượt khỏi rung động, phải có một tấm thảm liên tục vượt khỏi các bước riêng lẻ. Và chính sự im lặng này là nơi con có thể xen kẽ vào những hình ảnh khác hơn các hình ảnh đã biểu hiện trong thế giới vật lý.

Con có thể nói là trong việc chữa lành một bàn tay bị tật nguyền chẳng hạn, cách trị liệu sẽ dựa trên một cái nhìn được neo trụ trong sự im lặng, và sự im lặng này là các quãng nằm xen giữa nhịp độ làm mới của các hình ảnh đã biểu hiện chứng tật vật lý đó.

Một khi con hòa điệu vào đó thì con có thể, nếu con ở một trình độ đủ cao – và con sẽ chỉ hòa điệu được nếu con đã đạt đến một mức quả vị Ki-tô nào đó – con sẽ có thể trong một số trường hợp làm một điều gì đó có vẻ giống như phép lạ, bởi vì nó thay đổi tức khắc biểu hiện vật lý mà ai ai cũng tưởng là không thể thay đổi. 

Làm thế nào tránh hận thù và giữ đức tin trong chiến tranh

Hỏi: Con xin có một câu hỏi cho Đại thiên thần Michael. Con sống ở thành phố Kharkov tại Ukraine. Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, con đã thỉnh Đại thiên thần Michael bảo vệ thành phố Kharkov của con cùng đất nước Ukraine. Tại một hội nghị ở Ukraine năm 2019, Đại thiên thần Michael có nói là thày vạch ra một đường lửa dọc theo biên giới Ukraine, và con nghĩ đất nước con giờ đây sẽ được an toàn. Con không hiểu rõ cách của Thượng đế như thế nào, nhưng con đã yêu cầu thày bảo vệ quốc gia Ukraine của con, thành phố Kharkov của con khỏi bọn Quốc xã đến từ Nga. Đại thiên thần Michael, xin thày tiếp sức cho chúng con trong giờ phút khó khăn này và xin thày khuyên chúng con phải làm gì để không bị cuốn hút vào một khuôn nếp phản ứng trong khi thành phố con bị dội bom và đồng bào con bị sát hại.


Trả lời của chân sư thăng thiên Đại thiên thần Michael qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 20/6/2022.

Ta hoàn toàn cảm thông được cảm xúc cùng suy nghĩ của con trong một tình huống như thế này. Như con cũng biết, ta là Đại thiên thần có nhiệm vụ bảo vệ đức tin của con người. Và suốt thời gian rất dài mà ta gắn bó với địa cầu, ta đã thấy biết bao người đánh mất đức tin của mình trong những tình cảnh như vậy. Xuyên qua các thời đại, bao người đã thỉnh cầu một thẩm quyền cao hơn bảo vệ họ khỏi cái ác, cho dù họ xem thẩm quyền đó là Thượng đế, là thiên thần hay là gì khác. Rồi khi chuyện đó không có kết quả và họ vẫn bị cái ác trong cõi vật lý hãm hại, thì rất nhiều lần họ đã đánh mất niềm tin, đã nghĩ rằng đó chỉ là lời hứa hão huyền, hoặc cũng có thể Thượng đế không có thật, vân vân.

Ta hiểu được cảm xúc và suy nghĩ của con, nhưng ta cũng cần nói cho con hiểu rằng đó là vì con đã không học tập đầy đủ giáo lý của các chân sư. Chúng tôi đã nói thật rõ ràng qua trung gian sứ giả này rằng mỗi khi con thỉnh cầu chúng tôi, con cho phép chúng tôi hành động trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Nhưng luôn luôn có sự giới hạn trong những gì chúng tôi có thể làm trong cõi vật lý, bởi vì trên một hành tinh như địa cầu, đó chính là cõi mà quyền tự quyết của con người phải được phép trải bày ra.     

Con nói hoàn toàn đúng, ta đã có vạch ra một đường lửa xung quanh biên giới của Ukraine, và đường lửa này chủ ý là để ngăn ngừa tình huống hiện đang xảy ra: một cuộc xâm lăng của Nga. Tuy nhiên, ngọn lửa đó nằm nơi các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Nó không thể ngăn chặn người ta lạm dụng quyền tự quyết và hành động trong cõi vật lý. Nó có thể giàm thiểu xác suất họ hành động như vậy nhưng nó không thể ngăn chặn hoàn toàn. Con cần hiểu là mỗi khi con kêu gọi chân sư thăng thiên thì mọi sự xảy ra trên địa cầu vẫn nằm trong phạm vi của định luật tự quyết. Chúng tôi biết rõ định luật này, chúng tôi tôn trọng nó. Nhưng con người thì thường không biết tới nó, hay không tôn trọng nó, hay không hiểu thấu đáo nó có nghĩa là gì.

Chúng ta hãy xem hoàn cảnh ở đây như thế nào. Vào năm 2019, chúng ta đã có một hội nghị rất quan trọng và rất tuyệt vời tại Ukraine với sự tham dự của nhiều người đến từ Ukraine, từ Nga, từ một số nước cộng hòa trong Liên bang Sô viết cũ cũng như một số quốc gia Tây phương. Đó là một cơ hội cho cả hai dân tộc Nga lẫn Ukraine bước lên một mức cao hơn. Tại Nga, điều này có nghĩa là người dân Nga sẽ bắt đầu nghe kỹ những lời vênh vang của Putin, nhận diện những gì ông đang nói và lên tiếng một cách rõ ràng rằng mình không đồng ý. Tiềm năng lúc đó là sẽ có đủ số người thực hiện được điều này, nhưng chuyện đó đã không xảy ra.

Nhìn sang phía Ukraine thì cũng có một tiềm năng. Vấn đề lớn nhất của Ukraine vào thời điểm đó là tình trạng chia rẽ tại Ukraine giữa những người có thiện cảm với Nga, chủ yếu ở vùng Đông, và những người thiên về phía Tây phương. Thêm vào đó còn có những người Ukraine nói tiếng Nga, có thể họ không muốn sáp nhập vào nước Nga nhưng họ vẫn trung thành với ngôn ngữ Nga, có lẽ cả với dân tộc Nga, hay với quan điểm về một mối liên kết chặt chẽ giữa Ukraine và Nga. Đây cũng là một cơ hội để nước Ukraine bước lên cao hơn, tiến tới một quốc gia hiện đại hơn.

Với việc ông Volodymyr Zelensky được bầu làm tổng thống, đó cũng là một cơ hội để cho dân tộc Ukraine đổi hướng đi một cách dứt khoát. Trước hết là giải quyết vấn đề tham nhũng, xem tham nhũng là một vấn đề hàng đầu và lánh xa khỏi tệ đoan tham nhũng. Tất nhiên con cũng biết tham nhũng cũng là một vấn đề hàng đầu tại Nga, cho nên có một sự tương ứng nào đó giữa những người Ukraine thiên Nga, có cảm tình với Nga, hay ngay cả nói tiếng Nga – họ bị gắn chặt vào tâm thức tập thể nhiều hơn cả tại Nga và do đó họ bị buộc chặt vào nạn tham nhũng có hệ thống tại Nga. Ngoài ra cũng có vấn đề thiếu tình người, thiếu tính nhân bản, thiếu lòng thông cảm với người khác, thiếu sự sẵn sàng chấp nhận, chẳng hạn, các quyền và nguyên tắc dân chủ.      

Con thấy được là vào năm 2019 Ukraine là một quốc gia bị chia rẽ trầm trọng. Toàn bộ buổi hội nghị là một cơ hội để cho Ukraine khởi sự khắc phục mối chia rẽ này và bước lên cao hơn. Nhưng chuyện này cũng đã không xảy ra đúng theo tiềm năng của nó. Không thể chối cãi được là đã có một sự chuyển động theo đúng hướng, nhưng trên cơ bản, tình trạng chia rẽ đã không được khắc phục. Nếu chia rẽ được khắc phục thì đã không có một cuộc xâm lăng từ Nga. 

Con có thấy điều ta muốn nói? Ta có thể vạch ra một hàng rào lửa xung quanh biên giới Ukraine, nhưng nếu bên trong Ukraine lại có chia rẽ thì chính ý chí tự quyết của dân tộc Ukraine đã vô hiệu hóa sự bảo vệ của ta trong cõi vật lý. Điều này không có nghĩa là sự bảo vệ này đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Ta có thể cam đoan với con là nếu không có sự bảo vệ ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc thì tình thế tại Ukraine đã tồi tệ hơn hiện nay rất nhiều. Để nói cho dễ hiểu, lực lượng quân sự của Nga đã có thể chiến thắng nhiều hơn. Nếu không chiếm được nhiều phần của thành phố Kyiv thì họ cũng đã có thể đe dọa Kyiv, và họ đã có thể tóm trọn cả vùng Donbas từ lâu rồi.

Cho nên đường lửa đã có một số ảnh hưởng trong cõi vật lý, nhưng chính ý chí tự quyết của người dân đã lật bỏ ảnh hưởng của nó trong cõi vật lý. Về cơ bản, con có thể nói là trong cõi vật lý, những lời kêu gọi hay cầu nguyện không có khả năng lật ngược quyền tự quyết. Chúng có thể giảm bớt xác suất người ta quyết định tung ra một cuộc xâm lăng, nhưng nếu người ta cứ khăng khăng muốn tiến hành thì lời cầu hay lời chú sẽ không thể ngăn chặn được họ ở mức vật lý.

Và ở Nga cũng thế, nếu tâm thức tập thể ở đó đã tăng trưởng nhiều hơn thì Putin đã không lấy quyết định mà ông đã lấy. Ta có thể nói với con là cho dù Putin đã lên kế hoạch và chuẩn bị cuộc xâm lăng này từ lâu, nhưng phải đến sau Thế vận hội mùa Đông thì ông mới lấy quyết định chung cuộc là ông sẽ không chỉ xâm lược mà sẽ dốc toàn lực xâm chiếm mọi mặt, thậm chí tấn công cả thành Kyiv thay vì chỉ tập trung vào vùng Đông. Cho nên trong tâm ông đã có một sự cân nhắc do dự giữa xâm lăng hay không xâm lăng, và cái đã khiến cán cân nghiêng về một bên không phải là một yếu tố gì to lớn. Ông đã có thể rút quân và giữ nguyên lập luận rằng tất cả chỉ là một cuộc tập trận và phương Tây đã mê sảng khi tưởng ông sắp sửa tấn công. Đó cũng đã có thể là một chiến thắng dưới mắt ông ta.

Con thấy được ở đây là những lời thỉnh cầu của đệ tử các chân sư thăng thiên tại Ukraine cũng như ngoài Ukraine và ở Nga đã thực sự có tác dụng. Nhưng những lời thỉnh đó không thể ngăn chặn người ta làm một số chọn lựa và một số hành động trong cõi vật lý. Chúng có thể làm nhẹ bớt nhưng không thể chặn đứng. Và lý do là vì quyền tự quyết phải được phép trải bày ra. Và đối với những người chỉ có thể học hỏi qua Trường đời Cay đắng, thì họ phải được phép tạo ra những tình huống sẽ đem lại cho họ những cú giáng thật cay đắng mà họ cần, vì đó là cơ hội duy nhất để họ có thể bước lên cao hơn.

Con có thể nói là hiển nhiên, người Nga rất cần đến những cú giáng mà họ sẽ nhận được qua tình hình hôm nay để nước Nga có thể thay đổi. Nhưng con cũng có thể nói là ngay cả người Ukraine, ít nhất là nhiều người trong số họ, cũng cần đến những cú giáng của tình hình. Giờ đây Ukraine có cơ hội vượt lên trên những mối chia rẽ trước đây, và như các chân sư khác vừa nói, họ có cơ hội rèn đúc một bản sắc dân tộc rõ rệt hơn, một mong muốn trở thành một quốc gia tân tiến, thậm chí mong muốn nói lớn: “Chúng ta không thể cho phép bọn đầu nậu doanh nhân và tệ nạn tham nhũng phá hoại con đường tiến bộ của dân tộc chúng ta.”

Giờ đây, để kịch bản này có thể trải bày ra trong tiềm năng cao nhất, điều vô cùng quan trọng là người dân Ukraine không được cho phép mình bị tràn ngập bởi độc tố tâm linh mà Giê-su đã nói đến, là oán giận và hận thù. Người Ukraine mà cho phép mình oán giận, hận thù người Nga bao nhiêu thì bước tiến của quốc gia Ukraine sẽ bị chậm lại bấy nhiêu. Là chân sư thăng thiên, chúng tôi hiểu rõ con ở trong tình cảnh vô cùng khó khăn. Con đã sống cả đời mình trong một thành phố yên bình và tương đối trù phú. Nhưng bây giờ con chứng kiến thành phố của con bị đại bác Nga dội bom tan tành, con nhìn thấy bạn bè, có thể cả người thân trong gia đình bị sát hại, nhà cửa hay chung cư của con bị phá hủy, những cơ sở công cộng mà con yêu quý bị tan nát. Chúng tôi hiểu rõ đây là một tình cảnh thật khó khăn.

Nhưng điều đơn giản mà ta muốn nói với con là con cần làm một sự chọn lựa. Liệu con tha thiết chừng nào với tương lai một quốc gia Ukraine tự do độc lập sẽ trở thành một nước tân tiến với tiềm năng gia nhập Cộng đồng châu Âu? Con tha thiết chuyện đó đến chừng nào? Bởi vì con cần nhìn nhận là nếu con càng căm thù người Nga thì con sẽ càng kéo chậm lại bước tiến của Ukraine. Con cần nhìn ra là con cần tránh hận thù không phải để người dân Nga được lợi, mà để chính người dân của con được lợi.

Con cần nhìn ra ở đây, đâu là tương lai của Ukraine? Hầu hết mọi người ở Ukraine, ít ra là những người không sống ở vùng cực Đông hay đã tự nguyện trốn sang Nga, hầu hết mọi người giờ đây công nhận là tương lai của mình tại Ukraine gắn liền với nền tự do độc lập khỏi Nga, tự do khỏi sự thống trị cũng như ảnh hưởng và xâm lấn của Nga. Tương lai của Ukraine là được tự do khỏi Nga. Nhưng con yêu dấu, con không thể tự do khỏi nước Nga nếu con hận thù nước Nga lẫn người Nga. Con sẽ buộc chặt con lại với họ trên phương diện nghiệp quả và điều này sẽ làm chậm chân bước tiến của Ukraine như một quốc gia tự do độc lập.

Con sẽ hạn chế tự do của con khỏi nước Nga khi con cho phép mình bị áp đảo bởi độc chất tâm linh của hận thù. Không thể nào khác được, con ạ. Con có thể nhìn thấy bao nhiêu ví dụ đã xảy ra y như vậy trong lịch sử khi có những sợi dây nghiệp quả buộc chặt hai nhóm người lại với nhau. Như con thấy người Do thái với người Ả rập, người Do thái với người Palestine. Và nhiều lần con thấy những người hiện đang đầu thai tại Israel cũng đã từng đầu thai trong những kiếp trước trong các dân tộc Ả rập hay người Palestine. Một số dân Palestine ngày nay là dân Do thái trong một tiền kiếp, và cứ như vậy, họ không ngừng củng cố cho nghiệp chướng đó, và họ cứ tiếp tục buộc chặt lại với nhau mãi mãi.

Làm thế nào con sẽ giải thoát khỏi nước Nga đây? Bằng cách buông bỏ mọi tình cảm hận thù, oán giận, dính mắc, mong muốn trả thù, mong muốn chứng minh là họ sai trái, mong muốn làm nhục nước Nga – tất cả những cảm xúc đó khi con càng buông chúng ra thì con sẽ càng tự do, và con sẽ tự do càng nhanh chóng hơn. Giản dị đó chỉ là thêm một khía cạnh của định luật tự quyết. Bằng cách thù hằn người khác, con dùng quyền tự quyết của con để buộc con với họ.

Ta biết chuyện này khó khăn. Ta biết rõ những gì người Nga đang làm tại Ukraine vô cùng vô nhân đạo. Ta biết điều đó. Ta nhìn thấy điều đó. Nhưng con yêu dấu, vì lợi ích của bản thân con, vì tự do của con, con hãy buông thù hận. Con hãy làm những gì con cần làm nhưng con hãy buông thù hận. Thù hận người khác không phải là một nền tảng tốt đẹp để xây dựng một quốc gia tự do, dân chủ và trù phú. Và đó cũng không là một nền tảng tốt đẹp để hàn gắn các chấn thương mà mọi người phải nhận chịu do hậu quả cuộc chiến này.

Cho nên vì lợi ích mọi người, con hãy buông quá khứ ra để mà ôm lấy tương lai.

Làm thế nào cho tâm im lặng

Hỏi: Con có một câu hỏi cho các chân sư. Có cách nào hiệu quả để vượt qua thói quen không ngừng suy nghĩ, có khi nói nhảm cưỡng chế trong tâm? Con hiểu là con cần chấp nhận ngã tách biệt đó là không quan trọng, và con cần chấp nhận chính con như con đang là. Nhưng làm cách nào con có thể kéo sự chú ý của con ra khỏi đó một cách hiệu quả hơn, bởi vì nó đang lấy đi năng lượng của con?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 20/6/2022.

Có nhiều yếu tố gây ra thói quen lảm nhảm trong tâm mà nhiều người trong đạo Phật gọi là “tâm khỉ”. Nó không ngừng suy nghĩ, không ngừng nói chuyện, không ngừng phân tích, không ngừng tham gia vào chuyện này chuyện nọ hầu lôi kéo sự chú ý của con vào tiến trình không bao giờ ngưng nghỉ đó. Chắc chắn một trong các yếu tố có thể là sự phóng chiếu của những thế lực trong cõi trung giới hay cõi lý trí, là những thế lực chỉ đơn giản cố khiến cho con bị mất thăng bằng để chúng đoạt năng lượng của con. Cúng có thể là sự phóng chiếu từ tâm thức tập thể. Đối với vấn đề này, con cần dùng những bài chú, bài thỉnh của chân sư để kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ và niêm phong hào quang của con, và Elohim Astrea cắt đứt và giải thoát con khỏi các tà lực đó.

Hiển nhiên con cũng sẽ cần dùng các dụng cụ của chân sư để chữa lành nhiều loại ngã tách biệt hay nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau – chẳng hạn như khi con thấy nhiều người gặp phải xung đột hay bất đồng với ai đó, thì nó khiến cho tâm họ cứ mãi lặp đi lặp lại tình huống đó, họ không ngừng phân tích rồi bị cuốn hút vào đó. Họ không thể nào ngừng suy nghĩ về chuyện đó, và trong tâm họ mong muốn sửa đổi một tình huống mà họ không thể thay đổi ở mức vật lý. Con cần nhận ra là sự thể này khởi lên từ một số ngã tách biệt nhất định do con bị dính mắc vào tình huống, vào kết quả của tình huống, hoặc con có một cái ngã không sẵn lòng tha thứ cho người kia. Một lần nữa, bằng cách tha thứ cho người đó, con sẽ tìm được tự do. Vậy con có muốn được tự do hay không? Có rất nhiều những cái ngã tách biệt như vậy tạo ra những câu chuyện lảm nhảm liên tục trong tâm.

Nói cho cùng, không có cách nào khác hơn là con cần nhìn thấy chúng, cần giải quyết chúng và đơn giản để cho chúng ra đi. Và khi đó, những chuyện mà tâm con thường lôi kéo chú ý con vào, bỗng nhiên có vẻ như không còn gì quan trọng nữa đối với con. Con có khả năng nhìn chúng và nói: “À vậy sao? Có gì quan trọng đâu?”

Nhưng cho dù con giải quyết được thật nhiều ngã như vậy, con vẫn cần nhìn nhận là con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất hỗn tạp, với một tâm thức tập thể và biết bao nhiêu loại năng lượng vô cùng hỗn tạp. Có thể là khó tránh chuyện tâm con cứ nhặt nhạnh những thứ đó. Và như các chân sư thường giải thích, không phải con chỉ có một cái ngã tách biệt đâu, mà con có một cái ngã tách biệt to lớn hơn – nếu có thể nói như vậy – với nhiệm vụ chủ yếu là khiến cho tâm con làm việc. Đơn giản, ngã này sẽ không ngừng suy nghĩ, lượng định, phân tích.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã nhận ra là mình có một cái ngã cứ muốn giải quyết đủ mọi loại vấn đề. Và khi không có vấn đề nào để giải quyết thì nó sẽ chế ra vấn đề. Cho nên có thể con sẽ khó tránh việc tâm con cứ muốn hoạt động, cứ muốn suy nghĩ về chuyện này chuyện nọ. Có những thiền gia Phật giáo đã bỏ ra hàng chục năm trời trong thiền quán và thiền định mà vẫn cảm thấy rất khó làm yên tâm mình. Thậm chí một số còn bảo rằng việc làm cho tâm im lặng không quan trọng lắm miễn là mình vẫn tập trung vào một cái gì vượt khỏi tâm – là cái mà chúng ta có thể gọi là Hiện diện TA LÀ, hay cõi tâm linh, hay sự phát triển tâm linh.

Nhưng ta sẽ cho con một phương cách thiết thực sẽ có thể giúp được con. Nếu con quan sát tâm, điều con sẽ để ý thấy là có một ý nghĩ đi vào tâm con. Có một khoảnh khắc khi con có thể quyết định: “Tôi có nên đi theo ý nghĩ này hay không, tôi có nên nghĩ cái ý nghĩ này hay không?” Hầu hết mọi người không để ý đến sự kiện này. Nhưng khi con đặt chú ý của con vào đó, sẽ tới một điểm khi con nhận biết có một khoảnh khắc thời gian khi một ý nghĩ đến với con – có thể là từ ngoài hay từ ngay trong tâm con – nhưng cái Ta Biết, sự nhận biết thuần khiết của con có một khoảng thời gian rất ngắn để nó quyết định: “Liệu tôi sẽ bước theo cái này hay tôi sẽ không bước theo?”     

Thay vì quyết định “Tôi sẽ không bước theo cái này”, điều con làm là con chỉ nhận biết ý nghĩ đó – cho dù nó đã bắt đầu và đã tiếp diễn một chập rồi – xong con nói trong tâm: “Tôi buông bỏ. Tôi buông bỏ ý nghĩ này.” [trong tiếng Anh, surrender có mấy nghĩa: buông bỏ, hàng phục, trả lại]  

Trên căn bản, con đang ra hiệu là chuyện đó không quan trọng đối với con, rằng con sẽ không giao tiếp, không tương tác với nó, rằng con sẽ không đặt chú ý hay trao năng lượng của con cho nó. Con chỉ đơn giản buông nó ra, con để cho nó ra đi. Nó không quan trọng. Nó không có ý nghĩa. Nếu con cứ tiếp tục làm như vậy thì con sẽ đạt được một số thành quả.      

Bất cứ khi nào một ý tưởng xuất hiện thì con có thể làm như vậy, ngay cả khi con nằm trên giường buổi tối và đang cố chìm vào giấc ngủ. Con chỉ liên tục tự nhủ: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.” Có thể là sau một lúc vẫn có một ý tưởng bỗng nhiên thu hút sự chú ý của con và nó tiếp diễn một chập. Nhưng khi con nhận biết nó ở đó thì con lại nói: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.”

Ta không bảo là phương cách này sẽ hiệu quả đối với những người chưa làm những điều kia mà ta khuyên ở trên. Nhưng chắc chắn nó có thể hiệu nghiệm đối với những ai đã đạt được một độ trong sáng hơn, tinh khiết hơn nơi bốn thể phàm của mình.

Cách nhìn từ Phật về cuộc chiến tại Ukraine

Hỏi: Con là một người Nga và con đã xúc động sâu xa trước cuộc tấn công hung bạo của nước con trên người Ukraine là một dân tộc thật gần gũi với chúng con. Con cảm thấy đau đớn và cảm thương sâu sắc đối với những ai đang phải sống qua cuộc chiến khủng khiếp này. Và con không thể giữ nổi tâm trung hòa. Đối với con, trung hòa có vẻ như là mình ngừng thương cảm. Nói cho cùng, năng lượng của lòng từ bi tự nó đã mang màu sắc rồi, nó không trung lập. Về điểm này, con xin có một câu hỏi cho các chân sư thăng thiên. Không hiểu một dòng sống đã đạt đến một trình độ tâm thức Ki-tô đủ cao cảm nhận tình cảnh này như thế nào? Liệu dòng sống đó có một quan điểm nào về cuộc chiến này hay không? Và một dòng sống ở mức quả vị Phật nhìn tình thế này ra sao? Liệu dòng sống đó có cảm thấy lòng từ bi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 19/6/2022.

Trước tiên, con cần nhìn nhận rằng con là một con người đang hiện thân, và sự kiện con cảm thấy mình bị bận tâm bởi chiến tranh và sự tàn bạo của con người là một điều tự nhiên. Việc con thương xót những người đang chịu khổ đau cũng là một điều tự nhiên. Con không cần phải tự trách mình là mình đang có những xúc động như vậy.

Nhưng tất nhiên, con có thể vươn lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô và nhờ đó con sẽ xoay chuyển. Như các chân sư đã giảng nhiều lần, một người đã đạt đến một mức quả vị Ki-tô nào đó sẽ nhận thức rằng trên cơ bản, địa cầu này là một cơ sở giáo dục, và sẽ có nhiều người chỉ có thể học hỏi qua Trường đời Cay đắng mà thôi. Họ chỉ có thể học hỏi khi những cú giáng của trường đời trở nên thật dữ dội. Điều này có nghĩa là con không thể cho phép mình cảm thấy lòng thương xót thường tình của một con người, bởi vì con sẽ không thể giữ được tâm trung hòa không dính mắc, và tâm đó chính là một khía cạnh của quả vị Ki-tô.

Hiển nhiên, quả vị Phật là một mức không dính mắc còn cao hơn nữa. Điều này không có nghĩa là đức Phật không có lòng từ bi, nhưng đó không phải là lòng thương xót của con người. Trên căn bản, con có thể nói là khi con đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật, con không còn lượng định mọi chuyện theo một cái nhìn nhị nguyên nữa – liệu chuyện này có phải hay trái, liệu chuyện này có nên xảy ra hay không được xảy ra? Con lui lại một bước, con nhìn một cách trung hòa và con nói: “Nếu đây là những gì người ta cần diễn bày ra để có thể xoay chuyển tâm thức của họ, thì tôi sẽ không chú tâm vào đó để mà phán xét là họ phải hay trái, mà tôi sẽ chú tâm vào những cách tôi có thể giúp những ai sẵn lòng xoay chuyển tâm thức mình.” Những người còn lại, thực sự con không thể làm gì được cho họ vì con không thể chạm được họ từ mức tâm thức của con. Chỉ có Trường đời Cay đắng mới chạm được họ mà thôi.

Có vẻ như tâm Ki-tô và tâm Phật lấy đi mất lòng từ bi, nhưng thực sự nó lấy đi lòng thương cảm phàm phu và con vươn lên một mức cao hơn. Lẽ tự nhiên, khi là chân sư thăng thiên thì mình không muốn nhìn thấy có ai phải đau khổ. Nhưng nếu con là một chân sư thăng thiên đang làm việc với địa cầu, thì con chấp nhận là sự đau khổ sẽ không tự dưng biến mất ngày mai hay ngày kia. Con cần chấp nhận đau khổ là một phần của cuộc sống trên hành tinh trong lúc này. Và con sử dụng mọi cơ hội trong tay để làm việc với nhân loại và giúp nâng cao tâm thức tập thể, hầu tâm thức nhân loại bước ra khỏi cái nhu cầu chỉ học được qua sự khổ đau.

Trung thành với lãnh đạo và vấn đề nghiệp quả

Hỏi: Nếu con là một người ái quốc và hỗ trợ người lãnh đạo nước con nhưng lãnh đạo đó là một sa nhân, thì liệu con có sẽ chịu chung cùng nghiệp với ông ấy hay không? Con có trao năng lượng của con cho ông ấy hay không? Và khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con nâng cao tâm thức của mình, con có góp phần vào việc gia tốc hành tinh hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 19/6/2022.

Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi đầu tiên. Nếu con là một người yêu nước và con trung thành với người lãnh đạo của nước con, thì dù người đó có là sa nhân hay không là sa nhân, con vẫn sẽ gánh chịu một phần của nghiệp chướng do người đó tạo ra. Đây chính là cách thức mà hết lần này đến lần nọ, các sa nhân đã khiến cho mọi người phải chia sẻ phần nào nghiệp chướng do chúng gây ra. Nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ không muốn đặt mình vào một vị thế như vậy.

Chúng tôi đã từng nói, và nếu con đọc các bài truyền đọc trong cuộc hội thảo trực tuyến về nước Nga, thì con cần phân biệt giữa nước con và nhà lãnh đạo của nước con. Đặc biệt con cần phân biệt giữa nước con và người dân nước con. Con có thể cảm nhận một tình đồng bào với người dân nước con, nhưng con không thể cho phép mình ủng hộ hay đi theo nhà lãnh đạo mà không suy xét.

Liệu con có trao năng lượng của con cho lãnh đạo nước con nếu con trung thành với họ? Con yêu dấu, nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con đã để ý tới những gì chúng tôi giảng dạy, thì con phải biết câu trả lời là gì. Tất nhiên là con sẽ trao năng lượng cho họ. Làm thế nào mà không được? Một lần nữa như chúng tôi có nói, con không thể tự xem mình trước tiên là một người Nga hay người Mỹ hay người gì đi nữa, rồi thứ đến con mới xem mình là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Con cần xem mình là một sinh thể tâm linh trước hết, rồi sau đó mọi thứ khác đều ít quan trọng hơn. Và nếu con là một sinh thể tâm linh thì con sẽ không thực là một “nhà yêu nước” như người ta thường gọi. Những ai trung thành với Donald Trump và tin vào những lời gian dối của ông về cuộc bầu cử, đang chia sẻ một phần nghiệp quả mà ông gây ra – họ đang trao năng lượng của họ cho ông ấy.

Về câu hỏi chót của con, liệu con có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay không? Có chứ, miễn là con cũng nâng cao tâm thức của con. Nhưng nếu con trung thành với một lãnh đạo là sa nhân, thì mức độ nâng cao tâm thức cá nhân của con sẽ bị hạn chế, và điều này cũng sẽ hạn chế những gì con có thể đóng góp cho việc nâng cao tâm thức tập thể.

Con thấy đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận một điều khi con là đệ tử của chân sư: Luật nghiệp quả sẽ vẫn áp dụng cho con dù con đã tu tập giáo lý của chân sư. Con cần nhìn xem giáo lý của chúng tôi nói gì và rút tỉa những kết luận hiển nhiên. Và con cần ngừng trao năng lượng của con cho sa nhân, ngừng trung thành với sa nhân cùng các lý tưởng và ý thức hệ của sa nhân. Nếu không, con sẽ tạo nghiệp.

“Sinh ra từ nước” và “Sinh ra từ lửa”

Hỏi: Trong cuốn sách “Tự do khỏi Phàm linh Nội tại”. Đại thượng sư có dạy về hai thời điểm quyết định trên đường tu trên địa cầu. Thời điểm thứ nhất là khi chúng con phải để cho ngã chết đi, là cái ngã tạo ra khi chúng con ở giữa mức tâm thức thứ 48 và 96. Và thời điểm thứ nhì khi chúng con ở mức 144 và phải chọn lựa, liệu chúng con sẽ vun bồi cho cái ngã đã tạo ra giữa mức 96 và 144, hay chúng con sẽ buông bỏ ngã này và cũng để nó chết hầu thăng thiên.

Ở mức 96 khi chúng con để cho ngã chết, là cái ngã chú tâm vào việc phát triển cá thể của mình, Đại thượng sư gọi đó là “sinh ra từ nước”. Và khi chúng con để cho cái ngã tạo ra từ mức 96 đến 144 chết đi, chúng con được “sinh ra từ lửa” và được gia tốc vào thăng thiên. Nhưng “sinh ra từ nước” nghĩa là gì? Chúng con biết đó là không còn chú tâm vào việc phát triển ngã cá nhân nữa, mà chúng trọng vào việc nâng cao toàn thể. Và chúng con thực hiện được điều này khi chúng con mở tim ra cho ngọn lửa thần thánh của tình thương. Con nói vậy có đúng không?

Và “sinh ra từ lửa” là thế nào? Có phải là khi chúng con hiểu rằng mặc dù cái ngã mình tạo ra rất đẹp và là một linh thể ánh sáng, đó vẫn chưa là bản sắc cuối cùng của mình, vì bản thể mình luôn lưu động, luôn thăng vượt. Chúng con phải buông bỏ mọi điều chinh phục được vì không có giai đọan nào gọi là tối hậu. Không có quyền năng nào tách biệt khỏi tình thương, không có quyền năng nào kiểm soát hoặc sở hữu – không có “cái tôi” nào tách biệt khỏi mọi sự sống?


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Ta có thể trả lời câu hỏi của con bằng một chữ giản dị là “Phải”, vì con đã hiểu được ý tưởng cơ bản. Con hiểu được là Đại thượng sư đã sử dụng những từ “sinh ra từ nước”, “sinh ra từ lửa” do ta cũng đã sử dụng 2000 năm trước đây mà con có thể tra cứu trong Kinh thánh. Điều mà ta ám chỉ thời đó, nhưng không thể trình bày một cách đầy đủ, là có hai cách để được tái sinh.

Cách thấp hơn, hoặc giai đoạn đầu tiên trên đường tu, là khi con tái sinh từ cái ngã mà con đã tạo ra – như chúng tôi đã có đề cập – để tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Cái ngã này được tạo ra như một sự phản ứng đối với tâm thức tập thể. Và đây là tâm thức mà ta đã ví như nước. Con cũng có thể gọi đó là cõi tình cảm, nhưng ta không xác định đó là cõi tình cảm, mà là tâm thức bình thường nhất của con người, là mức tập thể của tâm thức. Đây cũng chính là mặt nước mà ta đã đi bộ trên đó để chứng tỏ là ta đã vươn lên cao hơn mức tâm thức đó để đạt được tâm thức Ki-tô.     

Vậy thì trước tiên, con buông bỏ ngã đó, và con tái sinh vào một ý niệm bản sắc cao hơn, rồi khi con đi lên tới mức 144, con phải quyết định tái sinh từ lửa, tức là ngọn lửa của thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con đã lập tức gỡ bỏ ngã – vì thật ra con đã lần hồi gỡ bỏ ngã này giữa hai mức tâm thức 96 và 144 – nhưng con lấy quyết định là dù con có chút ngã nào còn sót lại, dù con đã đạt được bất kỳ chứng ngộ nào trên đường tu tâm linh, dù con có được sự hiểu biết nào đi chăng nữa, thì con cũng sẵn sàng để cho ngọn lửa thăng thiên gia tốc nó, hầu con đạt tới một mức tâm thức cao hơn nữa.  

Nói cách khác, con có thể bảo rằng thử thách ở mỗi tầng tâm thức từ 96 đến 144 thật sự là liệu con có tin là con đã đạt được một điểm tối hậu nào đó, một mức tâm thức tối hậu nào đó hay chưa, hay là con nhìn nhận rằng có một cái gì đó cao hơn nữa. Điều này cũng liên hệ đến lời dạy của một vài chân sư khác, khi các thày nói rằng con không chấp nhận là con đã tới một mức tối thượng, hay con đã trở thành vô ngã, hay là bây giờ con đã giác ngộ.

Bởi vì khi nào con còn hiện thân trong thể xác, thì luôn luôn có một mức tâm thức cao hơn để đạt được – và đương nhiên là ở cõi thượng thăng cũng có những mức cao hơn, nhưng ở cõi thượng thăng con không cần bị tiêu hủy trong lửa để mà thăng lên. Trên cõi thượng thăng, thật sự không có gì để mà tiêu hủy, mà con chỉ đơn giản bước từ mức tâm thức này lên mức kế tiếp hoàn toàn không cố gắng, bởi vì không có gì cưỡng chống lại sự tăng trưởng của con.

Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên

Hỏi: Trong một webinar trước, thày Saint Germain có đề cập đến những cái ngã tách biệt mà các avatar tạo ra trên hành tinh tự nhiên rồi đem xuống địa cầu. Xin các chân sư có thể triển khai hơn về điểm này? Những ngã tách biệt đó xuất xứ từ đâu so với những ngã tách biệt do chấn thương nhập đời tạo ra trên địa cầu? Và làm thế nào con có thể để cho chúng chết đi trên một hành tinh phi tự nhiên khi biết rằng chúng đã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên? Vì hai môi trường khác hẳn nhau như vậy, liệu công việc này có khả thi hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Những cái ngã mà con tạo ra trên địa cầu do chấn thương nhập đời, đã được tạo ra như một phản ứng đối với các điều kiện mà con gặp trên địa cầu bởi các sa nhân, bởi tâm thức sa ngã và tâm thức tập thể của địa cầu, và hiển nhiên tâm thức này thấp hơn rất nhiều so với một hành tinh tự nhiên.

Những cái ngã mà con tạo ra trên một hành tinh tự nhiên không phải là để đáp ứng hay phản ứng lại bất cứ điều gì, và chắc chắn không phải để phản ứng lại những điều kiện nhị nguyên hay thấp kém. Nhưng con cần nhìn nhận là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển được chứ? Làm thế nào con có thể khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi mở rộng sự nhận biết của con ra? Con làm được vậy bằng cách trước tiên tạo ra một cái ngã dựa trên cái ta – hay cái ý niệm bản sắc – nhỏ như chấm đó, rồi con đồng sáng tạo qua ngã đó cho tới khi con sẵn sàng khuếch trương ngã đó. Đây là tiến trình mà con vẫn tiếp tục làm. Con không ngừng tạo ra những cái ngã, và đó là cách con tự nhìn mình trong quan hệ với môi trường chung quanh. Và cho dù con trưởng thành hơn trong trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con vẫn mang những ngã đó.    

Vấn đề đặt ra lúc đó là như sau: Liệu con ở lại trên hành tinh tự nhiên và cố khắc phục ngã ở đó, hay là con quyết định đi đến một hành tinh phi tự nhiên bởi nhiều lý do khác nhau? Trong nhiều trường hợp, điều đã đem con tới một hành tinh phi tự nhiên là vì con đã tạo ra một số ngã nào đó mà con không sẵn sàng hay chưa sẵn lòng buông bỏ. Đó có thể là một cái ngã khiến con cảm thấy mình phải giúp đỡ người khác – khi con chứng kiến người khác bị khổ đau, con muốn giúp họ. Đó cũng có thể là một cái ngã khiến con nghĩ mình có khả năng quyết định những gì sẽ thị hiện hay không được thị hiện trên một hành tinh, và khi con nhìn địa cầu thì con thấy rất nhiều điều mà theo ý con không nên có mặt, cho nên con mới quyết định đến đây để thay đổi chúng đi.

Những ngã này không được tạo ra do con phản ứng lại cái gì cả. Chúng được tạo ra trong khuôn khổ chính tiến trình tăng triển của bản thân con. Có thể nói chúng là một phần của tiến trình tăng triển đó, chúng xuất phát từ cách con tự nhìn mình như thế nào trên một hành tinh tự nhiên khi con trở nên trưởng thành hơn, nhận biết nhiều hơn, có nhiều khả năng đồng sáng tạo những thứ con muốn nhiều hơn. Cho dù những thứ đó được tạo ra trong một môi trường rất khác, nhưng chúng vẫn do con tạo ra trong tâm lý của con, và con đã đem theo tâm lý đó với con đến một hành tinh phi tự nhiên.

Con hoàn toàn có thể khắc phục được chúng tại đây, trên một hành tinh phi tự nhiên. Hơn vậy nữa, có thể nói là con có thể khắc phục chúng dễ dàng hơn ở đây trên một hành tinh phi tự nhiên, vì sự tương phản giữa môi trường ở đây với môi trường trên hành tinh tự nhiên to lớn đến độ nó bó buộc những ngã đó phải biểu lộ ra và nó bó buộc con phải phản ứng lại. Nó bó buộc con phải nhìn thấy chúng, và do đó nó khiến cho việc khắc phục dễ dàng hơn – nếu con sẵn lòng nhìn thay vì gạt bỏ chúng.

Nhưng để đương đầu với những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên như thế, trước tiên con cần khắc phục cái ngã gốc [tức ngã nảy sinh từ chấn thương nhập đời trên địa cầu], bởi vì chừng nào con còn bị kẹt trong các khuôn nếp phản động đó, hay bị kẹt trong các vật trên điạ cầu, thì con sẽ không thể nhìn thấy những cái ngã mà con đã đem theo mình đến đây.  

Phật Gautama, giác ngộ và các tầng của tự ngã

Hỏi: Đức Phật kính quý, trong hội thảo trên mạng vừa qua, một trong các chân sư nói rằng khi con người còn có thân xác thì chưa thể thăng thiên được. Vị chân sư cũng nhấn mạnh với chúng con là đừng nên tin bất cứ ai tuyên bố là họ đã thăng thiên. Khi một người còn xác thân vật lý thì người đó vẫn còn tự ngã. Con hiểu lời dạy đó như sau: một người không thể nào đạt được toàn giác hay thăng thiên cho tới khi người đó chết và rời bỏ xác thân vật lý. Tuy thế, trong kinh điển Phật giáo đức Phật đã xác nhận thày đã đạt được toàn giác – anatta, vô ngã – ở tầng thiền cuối cùng là tầng thiền thứ tư, và đây chính là lúc đức Phật đạt được tuệ giác tối hậu. Xin thày vui lòng giảng cho con tại sao đức Phật có thể đạt được giác ngộ khi vẫn còn trong một xác thân vật lý? Và nếu điều này đúng với đức Phật, thì chúng con nên hiểu thế nào giáo lý của các chân sư thăng thiên nói rằng con người vẫn còn tự ngã khi vẫn còn xác thân vật lý?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền trong hội nghị qua mạng năm 2021 – Là Cánh Cửa Mở cho Hành tinh Trái Đất. Đăng ngày 28/10/2021.

Con đang phải đối phó ở đây với vấn đề từ ngữ và cách mọi người dùng từ ngữ và giải thích từ ngữ. Tại hội nghị này, các thày có nói tới sự kiện là sau khi thày thăng thiên như là một vị Phật, những tín đồ của thày bắt đầu tạo ra một tinh thần sùng bái thày. Một số các vị này muốn đưa ra hình ảnh thày là vị đạo sư tâm linh tối hậu chưa từng xuất hiện trên hành tinh này và do đó, ngay từ khi chào đời thày đã là người khác thường và vân vân. Đúng thật là thày đã nói là thày đạt được một tầng nào đó và thày khắc phục được ngã phàm (not-self) và đạt được tuệ giác tối hậu.

Tuy nhiên, đấy là tuệ giác tối hậu mà thày thấy được ở điểm đó. Con cần nhận ra ở đây là khi con tới những tầng cao của con đường tâm linh, con bắt đầu có một số trải nghiệm tâm linh. Nhiều người từ những quá trình khác nhau đã có trải nghiệm tâm linh, ngay cả những người không tỏ lộ rõ ràng bên ngoài họ là người tâm linh. Và khi con có một trải nghiệm tâm linh con cảm thấy nó rất rất là thực đối với con. Và điều này có nghĩa là khi con trở về thân xác vật lý và tâm vỏ ngoài, con rất dễ lý giải cảm nhận thực này là trải nghiệm tối hậu. Đây chắc phải là giác ngộ tối hậu, tuệ giác tối hậu mà con người có thể đạt được. Nhưng ý nghĩa sâu xa giản dị là đây là điều con thấy được ở tầng đó. 

Như các thày đã giải thích trong hội nghị này, thày chưa đạt tầng giác ngộ tối hậu. Sau này thày Padmasambhava đã xuất hiện như một vị chân sư thăng thiên với tầng giác ngộ cao hơn. Và trên cõi thăng thiên có nhiều tầng giác ngộ cao hơn nữa lên suốt tới mức của đấng Sáng tạo.

Bây giờ, có thể có sự hiểu lầm chung quanh ý của con gán cho các từ “tự ngã” (ego) hay “ngã phàm” (not-self). Các thày đã trao cho các con giáo lý là lúc nào cũng còn một yếu tố nào đó của tự ngã (ego) mà các thày gọi là tự ngã hay ngã tách biệt (separate self) cho tới khi con thăng thiên, vì nếu không như thế thì con không thể giữ được thân thể vật lý. Khi thày trở lại từ Niết bàn và ở trong xác thân vật lý và sống tới tuổi 81, và được người đời cho là đã giác ngộ, thì thày vẫn còn đủ tự ngã đó để thày có thể giữ được thân vật lý. Tuy nhiên tự ngã mà thày có khi thày là Phật không phải là cái mà người ngày nay gọi là tự ngã. Tự ngã thời nay là khía cạnh ích kỷ của tâm lý khiến cho con người ích kỷ.

Như thày đã giảng trong bài truyền đọc, thày đã đạt được hợp nhất, thày đã khắc phục được tách biệt, và do đó thày đã khắc phục được ngã phàm. Có thể nói, dựa trên định nghĩa của nhiều người, thày đã không còn tự ngã nữa. Nhưng các thày đã trao truyền cho các con một giáo lý rộng hơn dạy rằng có tự ngã tách biệt tương ứng với mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Mỗi tự ngã dựa trên một ảo tưởng và con chỉ vứt bỏ cái ngã cuối cùng, ảo tưởng cuối cùng khi con sẵn sàng thăng thiên. Điều này đã áp dụng cho thày, cho Giê-su và cho tất cả những người khác đã thăng thiên từ trái đất.

Cho nên con cần cẩn thận đừng quá dính mắc vào từ ngữ và sự diễn giải từ ngữ. Và con cũng nên cẩn thận nhìn lên trên tinh thần sùng bái, bởi vì những giáo lý các thày hiện trao truyền cho các con không dựa trên sùng bái, các thày không phục vụ những người có cái nhìn sùng bái. Trên cơ bản, có thể nói là khi con đạt được khai ngộ ở tầng 96 –  đó là lúc, như các thày đã giảng, con vượt lên trên sự chú tâm vào cái ngã, con không còn tu tập để nâng mình lên như một ngã tách biệt, nhưng con làm việc để nâng cao toàn thể –  thì ở điểm đó, có thể nói là con không còn tự ngã, dựa theo định nghĩa phổ thông nhất về tự ngã trong nhân gian.

Tuy nhiên, tại sao con vẫn chưa thăng thiên ở tầng đó? Bởi vì con vẫn còn muốn trải nghiệm điều gì đó, con muốn hiểu điều gì đó, con muốn giải quyết điều gì đó, và khi làm vậy, con giúp nâng cao tập thể, con tạo ra động lượng trong tập thể khiến mọi người tăng triển dễ dàng hơn.

Trong tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải Đăng trên Đỉnh), có giáo lý nói rằng con có thể thăng thiên khi quân bình được 51% nghiệp quả của mình. Các thày đã nhiều lần giải thích là giáo lý này giới hạn, bởi vì con không thể thực sự thăng thiên cho tới khi con hoàn toàn giải quyết tâm lý mình. Nhưng giáo lý này muốn nói rằng con không cần phải trở lại đầu thai nhưng con có thể giải quyết phần còn lại của tâm lý, của nghiệp quả trên cõi bản sắc và thăng thiên từ cõi này. Nói cách khác, con không thăng thiên thẳng sau khi rời bỏ thân vật lý như thày hay Giê-su đã chứng minh, tuy rằng Giê- su có trở lại trong một xác thân vật lý và sống tới tuổi 81.

Có thể nói là khi con tới tầng 97, con đã trút bỏ tự ngã, hiểu theo định nghĩa phổ thông là tự ngã ích kỷ, nhưng con vẫn còn những ngã tách biệt. Đó là lý do tại sao con vẫn còn phải giải quyết thêm một số chuyện, và điều này cho phép con giữ lại thân vật lý, và cũng cho phép con ở lại trên trái đất và con vẫn thấy rằng chuyện sống trên trái đất là quan trọng, con vẫn còn việc phải làm ở đây, con vẫn còn chuyện tốt cần làm ở đây, điều này hoàn toàn chính đáng, vì con có thể kéo tập thể lên. Nếu con thăng thiên ngay ở tầng 97, con cũng sẽ kéo tâm thức tập thể lên, nhưng con sẽ không đi qua từng bước giải quyết tâm lý ở mức cao nhất trong thân vật lý và do đó con không phụng sự được ở mức tối đa có thể làm được trên trái đất.

Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?

Hỏi: Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Phải.

Thay đổi tâm thức xảy ra như thế nào?

Hỏi: Nếu chúng ta đọc các tài liệu về trải nghiệm cận tử (near-death experience), những ai có trải nghiệm cận tử thường kể lại: “Khi tôi rời xác thân của tôi, tầm nhìn của tôi được mở rộng ra tứ phía, tôi có thể đi tới bất cứ nơi đâu tôi muốn và quan sát bất cứ chuyện gì mà tôi tò mò muốn biết. Hơn nữa, tôi có thể nhận được mọi kiến thức về bất cứ vấn đề nào, qua thần giao cách cảm, ngay cả về các vấn đề vũ trụ hay nguyên lý sự sống.” Và chúng ta có thể thấy được là sau một trải nghiệm cận tử, những người đó thường thay đổi cái nhìn cuả họ về cuộc sống và họ nâng cao tâm thức.

Tương tự như vậy, sau khi chết, chúng ta cũng học hỏi được nhiều chuyện mà không bị giới hạn trong cơ thể của mình cho đến khi mình tái đầu thai. Đặc biệt trong thời gian này, chúng ta có thể nhận ra là rất nhiều điều mình làm đều dựa trên ảo tưởng. Thế nhưng khi tái đầu thai trong kiếp mới, chúng ta lại lặp lại y những khuôn mẫu cũ rất nhiều lần. Tại sao sự hiểu biết học được trước khi tái đầu thai không được giữ lại trong cỗ xe linh hồn hầu chúng ta sử dụng trong kiếp kế tiếp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần thận trọng một chút trong cách con đánh giá các trải nghiệm cận tử. Hiện tượng trải nghiệm cận tử là một hiện tượng vô cùng sáng giá đã giúp cho nhiều người đạt được một cái nhìn và một thái độ tâm linh hơn về cuộc sống. Nhưng con cũng cần nhận ra là không phải tất cả những gì được trải nghiệm trong trải nghiệm cận tử đều áp dụng cho mọi người.

Rất, rất nhiều người biết đến trải nghiệm cận tử rồi thắc mắc tại sao mình lại cũng không trải nghiệm như vậy trong lúc thực hành tu tập tâm linh. Có những người đã từng có trải nghiệm cận tử mà lại không có những chiêm nghiệm tâm linh sâu xa như vậy, thì họ cũng tự hỏi tại sao. Con cần nhận ra rằng trong số những người có những trải nghiệm cận tử vô cùng sâu sắc, một số đã đạt đến một mức tâm thức khá cao rồi. Có thể họ không luôn luôn ý thức được chuyện đó, nhưng họ đã chứng đạt được mức này trong tiền kiếp của họ.

Điều này có nghĩa là họ không còn gắn bó nhiều với cơ thể vật lý nữa. Đó là tại sao họ đã rời được thân xác một cách dễ dàng mà vẫn giữ nguyên ý thức. Nhưng nhiều người khác sẽ cảm thấy việc rời thân xác khó khăn hơn gấp bội, dù là họ đang trong tình trạng bị đánh mê, hay trong khi ngủ, hay khi cơ thể đã thực sự chết. Đối với nhiều người, việc rời xác thân sẽ mất nhiều thời giờ hơn. Và đối với nhiều người, ngay cả sau khi họ rời thân xác, họ cũng sẽ chỉ đến được một cảnh giới phù hợp với trình độ tâm thức của họ mà thôi. Chỉ có một số ít có khả năng rời xa hẳn xác thân đến độ họ có được những trải nghiệm sâu xa nói trên.

Bây giờ, về câu hỏi là con học được gì khi con ở ngoài xác thân vật lý giữa hai kiếp đầu thai. Trước hết, khi con ở ngoài xác thân giữa hai kiếp đầu thai, con không ở ngoài bốn thể phàm của con. Con không còn trong xác thân vật lý nữa, nhưng con vẫn còn trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Đúng là có thể có những giai đoạn con có khả năng tách ra khỏi cả những thể đó, du hành tới cảnh giới khác và chiêm nghiệm ở đó. Nhưng khi con phải trở về chuẩn bị cho cuộc đầu thai tới của con và thảo ra sứ vụ thiêng liêng cho môi trường mới này, thì con sẽ phần lớn ở trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc, bởi vì kiếp đầu thai tới được hoạch định chính là để con khắc phục những vết thương, những ngã tách biệt, những chấn thương mà con mang trong các thể này.

Công việc khắc phục này không thể làm được, ít ra là không phải toàn bộ, trong thời gian con ở giữa hai kiếp đầu thai. Có những việc mà con phải làm, mà con phải khắc phục, khi con hiện thân trong cõi vật lý. Con đang học hỏi một số bài học cao hơn mức tâm thức của mình, nhưng không quá cao so với các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Khi con tái đầu thai, con quên mất những gì con học được khi con ở ngoài thân xác chính là vì việc khám phá những điều đó là một phần trong tiến trình học hỏi của con.

Trong số nhiều người tâm linh, có một sự hiểu lầm rất phổ biến trong cộng đồng Thời Mới. Nhiều người hiểu lầm rằng mục đích của phát triển tâm linh là để đạt được một mức tâm thức tối hậu nào đó. Con muốn gọi đó là sự giác ngộ hay là bất kỳ tên nào khác thì điều này không quan trọng lắm. Có một mục đích cần đạt được, và những người này cho rằng chỉ có vấn đề làm thế nào đạt được mục đích đó càng nhanh càng tốt. Và họ nghĩ: “Vậy tại sao các chân sư không chỉ giúp tôi khắc phục mọi vấn đề của tôi hầu tôi không phải trở lại đầu thai lần nữa?” Nhưng nghĩ vậy không đúng. Mục đích không phải là đạt được trạng thái thượng thăng càng nhanh càng tốt. Như các chân sư đã có giải thích, mục đích cuộc sống không phải là để đến đây đầu thai, tạo ra nghiệp, cân bằng nghiệp, rồi đi nơi khác. Muc đích là biến đổi tâm thức.     

Điều khiến cho nhiều người bị bối rối là sự biến đổi tâm thức xảy ra ở mức của Hiện diện TA LÀ, và nó cho Hiện diện cuả con những kinh nghiệm được cất giữ trong căn thể. Nhưng những kinh nghiệm này dựa trên những gì cái Ta Biết trải nghiệm được khi con đang đầu thai. Vấn đề ở đây không đơn giản là chuyện khắc phục một số vấn đề càng nhanh càng tốt, mà là con đi qua tiến trình gỡ bỏ một cách ý thức những chọn lựa mà con đã làm trong quá khứ. Và chỉ khi nào cái Ta Biết gỡ bỏ một chọn lựa mà cái Ta Biết đã làm trong quá khứ – khi nó còn ở một mức tâm thức thấp hơn – thì kinh nghiệm của Hiện diện TA LÀ mới đem đến sự tăng trưởng ở mức đó.

Thật là sẽ chẳng ích lợi gì nếu con được các chân sư thăng thiên giúp cho con đạt tới giải thoát trong vòng 5 phút. Con đã bỏ ra cả một thời gian, qua những chọn lựa tự quyết của con, để bước vào cung mê của chiếc máy giả thực tại này. Điều này hoàn toàn tốt thôi, vì đây là một phần của giai đọan trầm mình đã được con trù định từ trước. Nhưng khi tới giai đoạn thức tỉnh thì con phải đi trở ngược lại và giải hóa những chọn lựa đó. Và bằng cách làm điều này từng bước một, mỗi bước giải quyết một chuyện, thì con mới tăng trưởng được. Mà mục đích của Hiện diện TA LÀ của con khi nó gửi cái Ta Biết xuống thế gian là gì? Chính là để tăng trưởng. Nó không chỉ đơn giản xuống đây rồi bỏ đi cho thật lẹ. Mục đích của nó là để có càng nhiều kinh nghiệm càng tốt, càng nhiều tăng trưởng càng tốt, qua việc sinh sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên hay một hành tinh phi tự nhiên.   

Cái Ta Biết kinh nghiệm thực tại như thế nào

Hỏi: Liệu cái Ta Biết của chúng ta có nhìn thấy, cảm thấy và suy nghĩ mà không cần có cơ thể, cảm thể và trí thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 22/10/2021.

Câu trả lời ngắn gọn là “Không”. Nhưng dĩ nhiên, trả lời như vậy thì không đủ. Khi con bảo “nhìn thấy, cảm thấy, suy nghĩ” thì con thực sự muốn nói gì? Nếu con nói đến sự nhìn thấy, cảm thấy và suy nghĩ mà một người bình thường gọi là như vậy, thì các hoạt động này gắn liền với cơ thể vật lý, cảm thể và trí thể. Con không thể kinh nghiệm, cái Ta Biết không thể kinh nghiệm, tình cảm con người mà không đi qua trung gian cảm thể, bởi vì đó là nơi tình cảm con người trú ngụ. Con không thể suy nghĩ những ý tưởng bình thường của con người mà không đi qua trí thể, vì đó là nơi ý tưởng trú ngụ trong bản thể của con. Và dĩ nhiên, con không thể có trải nghiệm vật lý mà không đi qua cơ thể vật lý.

Tuy nhiên như chúng tôi đã giải thích, cái Ta Biết có khả năng đi ra ngoài cơ thể vật lý hay bốn thể phàm. Có những người đã mở mang khả năng du hành – mà người ta gọi là xuất hồn – ví dụ họ tới được những nơi chốn khác và có trải nghiệm ở đấy mà không qua trung gian bốn thể phàm. Và tất nhiên là cũng có những cảm nhận khác mà con có thể chiêm nghiệm. Con có thể chiêm nghiệm cõi tâm linh, và điều này thì không qua trung gian bốn thể phàm. Hoặc ít ra, nó có thể xảy ra qua tầng cao của bản sắc thể, nhưng không qua trí thể, cảm thể hay cơ thể vật lý. Nhưng chiêm nghiệm này không thật là cái mà con thường gọi là suy nghĩ, cảm thấy, nhìn thấy và trải nghiệm vật lý.     

Tạo nghiệp khi bình luận trên internet

Hỏi: Khi con bình luận trên internet, liệu điều đó có tạo nghiệp hay không? Và có cần thiết phải viết bình luận trên internet để tạo ảnh hưởng ích lợi cho người khác hay không? Hay là con chỉ cần nỗ lực nâng cao tâm thức mình để thăng thiên và thỉnh cầu các chân sư thăng thiên qua các bài thỉnh và như vậy là đủ rồi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Con yêu dấu, đây là một câu hỏi quan trọng. Bởi vì tuy rằng chuyện này khá hiển nhiên, nhưng có nhiều người và ngay cả những học trò của chân sư thăng thiên, vẫn có vẻ tin rằng việc viết bình luận trên internet không tạo ra nghiệp quả. Nhưng làm sao không tạo nghiệp được khi mọi việc con làm đều tạo nghiệp? Nếu con viết bình luận trên internet ảnh hưởng đến người khác thì hiển nhiên con sẽ tạo nghiệp. Nếu con bình luận về người khác và những bình luận này có tác động khiến người ta bị hạn chế, con sẽ tạo nghiệp.

Con nhìn xem ngày nay một câu bình luận trên Facebook có thể được rất, rất nhiều người chia sẻ. Nếu con lên Facebook và nhìn xem một số bài đăng có hàng triệu lượt “thích” hay hàng triệu lượt “chia sẻ”, thì trong một số trường hợp, người khởi đầu câu viết đó đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp, bởi vì họ đã ảnh hưởng đến vô số người. Con lan truyền một số bình luận không đúng sự thật, không gắn liền với thực tế, cho dù là về đề tài này hay đề tài nọ, điều đó không quan trọng, vì tất nhiên là con đang tạo nghiệp khi con làm vậy. Làm sao mà không tạo được? Con đang ảnh hưởng đến người khác.

Về câu hỏi là có cần thiết viết bình luận trên mạng hay không, đây là một vấn đề cá nhân. Chắc chắn con có thể, ít ra là một thời gian, tập trung vào việc học hỏi giáo lý của chân sư thăng thiên, dùng sách của chân sư, rồi có thể con sẽ lần hồi nhận được một sự nhắc nhở từ trực giác bảo con nên bình luận một điều gì đó trên internet. Con không muốn tứ ép buộc mình phải bình luận bằng tâm vỏ ngoài, và con cũng không muốn để cho tâm vỏ ngoài ép buộc con không được bình luận. Tất nhiên khi ta nói là con tạo nghiệp, đó có thể là cái mà người ta thường gọi là nghiệp quả tốt hay nghiệp quả xấu. Nói cách khác, có nghiệp quả sẽ giới hạn con bằng cách giới hạn người khác, và có nghiệp quả sẽ giúp con tăng trưởng bằng cách giúp đỡ người khác.

Con cần phải tương đối chắc chắn là những thông tin mà con chia sẻ là chính đáng. Vì bằng không, con có thể tạo ra một lượng nghiệp quả khá lớn chỉ qua một câu bình luận trên Facebook được nhiều người chia sẻ, hay qua chính con chia sẻ một lời bình luận được người khác chia sẻ tiếp, và câu nói đó cứ lan ra như những vòng tròn lan rộng trên mặt hồ. Con thử nghĩ xem trước thời kỷ internet, con chỉ tương tác với một số người nào đó thôi qua một số phương cách vật lý, như con chỉ có thể tương tác qua gặp mặt trực tiếp, gọi điện thoại hay viết thư vân vân, cho nên nghiệp quả mà con có thể tạo ra cũng có giới hạn. Nhưng với internet, một câu viết trên Facebook có thể được rất nhiều người chia sẻ, thì bỗng nhiên nghiệp quả cũng tăng nhanh gấp bội hơn trước.

Có cần thay đổi quá khứ hay không?

Hỏi: Con biết là vũ trụ là một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu vậy thì con có thể nào đi ngược trở về cõi quá khứ và thay đổi nghiệp quả bằng cách tiếp cận với dải tần số trong vũ trụ đa chiều kích, hầu sửa chữa những sự việc trong quá khứ ảnh hưởng đến con trong hiện tại?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Làm cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần nhìn nhận ở đây là con người thời đại hôm nay có một lối suy nghĩ đặc thù. Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã gọi tư duy này là tâm phân tích, đường thẳng. Con người có xu hướng nhìn mỗi ý tưởng xuyên qua tư duy này, rồi diễn giải nó theo một cách mà tâm có thể nắm bắt. Và điều này đã khiến cho một số người – dựa trên các giáo lý tâm linh, dựa trên các trải nghiệm cận tử hay bất cứ gì khác mà họ đã sống qua – nảy sinh ra ý tưởng là họ đang sống trong một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu con xem xét ý tưởng này chặt chẽ một chút, nó thật sự có nghĩa là gì?

Nó có nghĩa là quá khứ, hiện tại và tương lai diễn ra cùng một lượt. Nhưng khái niệm thời gian chẳng phải là để chia trải nghiệm ra thành ba giai đoạn riêng rẽ hay sao: quá khứ, hiện tại, tương lai? Làm thế nào thời gian có thể trải ra cùng một lúc nếu thời gian là một tiến trình đường thẳng? Con có hiểu ta đang cố làm gì ở đây chăng? Ta đang cố vô hiệu hóa cái tâm đường thẳng đó.

Đúng vậy, có nhiều điều có thể được nắm bắt trong vũ trụ hơn là những gì tâm đường thẳng có thể nắm bắt. Nhưng vấn đề xảy ra cho nhiều người đang bước trên đường tu tâm linh là họ cố dùng tâm đường thẳng để vượt ra ngoài tâm đường thẳng. Họ đang cố diễn đạt bằng ngôn từ những gì không thể diễn đạt bằng ngôn từ mà chỉ có thể được trải nghiệm. Một số người đã có những trải nghiệm tâm linh. Một số người đã có trải nghiệm cận tử. Và khi họ trở về, họ mong muốn mãnh liệt chia sẻ những trải nghiệm đó với người khác. Và làm thế nào chia sẻ được đây? Bằng ngôn từ. Và ngôn từ được sử dụng thế nào trong thế giới hiện đại? Qua tâm đường thẳng. Thế là họ cố sức đem vào trong bối cảnh đường thẳng một cái gì vượt ra khỏi tâm đường thẳng, một trải nghiệm vượt ra khỏi tâm đường thẳng.

Để trả lời câu hỏi của con một cách cụ thể hơn là con có thể nào đi ngược trở về quá khứ để sửa chữa lỗi lầm của mình hay không. Chúng tôi đã từng bình luận trước đây về giả thuyết con có một cỗ máy thời gian và con có khả năng du hành ngược trở lại trong xác thân để sửa lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng một lần nữa, đây là một khái niệm vô nghĩa. Quá khứ hoàn toàn không quan trọng. Những gì đã xảy ra trong quá khứ không có gì quan trọng đối với hiện tại. Điều quan trọng ngay bây giờ là những gì con đã mang theo con từ quá khứ. Và một phần, đó là năng lượng tha hóa mà người ta thường gọi là nghiệp chướng, và phần khác là một số niềm tin, một số ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con.

Con không cần trở về quá khứ để thay đổi, biến hóa cái nghiệp đó của con. Con chỉ cần hành động trong hiện tại. Con cũng không cần trở về quá khứ để giải quyết tâm lý của mình. Con chỉ cần xem xét nó bây giờ, sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, giải quyết nó và để cho những cái ngã tách biệt đó chết đi. Tại sao con lại cần trở về quá khứ chứ? Thật là không cần thiết.

Con có thể làm một điều xây dựng hơn, là con nói: “Ngay bây giờ, tôi đang mang quá khứ của tôi trong tôi, theo nghĩa là tôi đang mang cái nghiệp đó và những ngã tách biệt đó cùng những chấn thương và ảo tưởng mà trong quá khứ tôi đã cho phép đi vào ba thể cao của tôi. Và nếu tôi không thay đổi những gì đang nằm ở ngay đây, những gì tôi đang mang theo tôi từ quá khứ, thì không những nó sẽ tác động hiện tại của tôi mà nó cũng sẽ tác động tương lai của tôi.” Bởi vì ngay lúc này, con có thể nhìn vào những khuynh hướng mà con đã có trong quá khứ và từ đó con có thể phóng chiếu ra những gì sẽ diễn ra trong tương lai, bởi vì con sẽ lặp đi lặp lại hoài hoài cùng các khuôn nếp đó cho tới khi con khắc phục được ngã tách biệt. Và về điểm này, con có thể nói là con đang mang theo quá khứ của con với con, và nếu con không thay đổi nó thì con sẽ mang nó theo con vào tương lai. Và nó sẽ tác động con y như nó đang tác động con bây giờ.      

Ta cũng biết, nhiều người sẽ khó lòng nắm bắt được những khái niệm này. Nhưng như ta vừa trình bày, đó là vì họ cố dùng tâm đường thẳng để làm một chuyện mà tâm đường thẳng không thể làm. Và có lẽ đây chính là điểm bế tắc to lớn nhất tại các quốc gia tân tiến. Có quá nhiều người tập trung vào tầng mức của lý trí; họ đã sẵn sàng để bước lên và tập trung vào tầng mức của bản sắc, nhưng họ không thể nào bước lên cao hơn vì họ bị kẹt cứng, họ quá dính mắc vào tâm đường thẳng, vào tâm phân tích. Họ muốn tạo ra, và họ luôn luôn tạo ra một con đường thẳng tắp cho tất cả mọi chuyện, xong họ muốn đặt tất cả mọi thứ trên cái đường thẳng đó, và mọi thứ phải diễn ra ngăn nắp toàn hảo, hết cái này dẫn đến cái kia rồi đến cái nọ, để cuối cùng họ đạt được một kết quả ngon lành như trong một phương trình toán học.

Nhưng mặc dù trong đời sống cũng có một chút toán học và những con số, nhưng con đường tâm linh không phải là một tiến trình toán học. Đó là một tiến trình sáng tạo. Không có công thức nào cả. Không có công thức nào hết. Có những công thức sẽ giới hạn con người, như con có thể nói là nghiệp của con và tâm lý của con từ tiền kiếp hình thành những công thức. Và nếu con không thay đổi bất cứ gì trong phương trình đó, thì lời giải cho phương trình sẽ nằm sẵn ở một thời điểm trong quá khứ.

Ở bất cứ thời điểm nào trong quá khứ, con có thể nhìn vào điểm đó và nói là nếu con không thay đồi gì hết từ giờ trở đi, thì đó là kết quả mà con sẽ nhận được trong mười năm nữa. Nhưng con luôn luôn có một chọn lựa, đó là con thay đổi phương trình một cách sáng tạo, và điều này sẽ thay đổi kết quả đạt được. Đây là cách duy nhất mà bất cứ gì có thể được thay đổi, bởi vì nếu không, vũ trụ này sẽ chỉ là một cỗ máy – là cỗ máy mà các nhà vật lý đã mường tượng trong các thế kỷ trước, nơi điều kiện tiên khởi của cỗ máy hoàn toàn định đoạt kết quả chung cuộc của nó.

Các đạo sư nổi tiếng và tâm thức tập thể

Hỏi: Tại Hàn quốc có một số vị đạo sư độc lập nổi tiếng. Họ chỉ giảng dạy giáo lý tối thượng của họ về giác ngộ – tội lỗi – cho những ai quan tâm đến cách giải thích ngắn gọn của họ về tội lỗi mà không nhắc gì đến các chân sư thăng thiên, các sa nhân hay cả sự tái đầu thai của linh hồn con người. Là học trò của chân sư thăng thiên, đâu là quan điểm hay nhất và mối quan hệ tốt nhất với họ trong thời hoàng kim? Liệu chúng con xem họ là thày giả hay đạo sư chưa chứng đạt hay gì khác? Con mong được nghe ý kiến của thày Saint Germain về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cửa mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Ta không thể cho con một câu trả lời tổng quát vì vấn đề này rất cá nhân: Đâu là vai trò của con, điều gì được thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Điều ta có thể nói một cách chung chung là bất kỳ vị đạo sư nào có được một số tín đồ hay một tiếng tăm nào đó tại một quốc gia là vì vị đó đã tìm ra cách thu hút một điều gì trong tâm thức tập thể. Nói cách khác, một số người tại nước đó cần đến trải nghiệm đặc thù đó để có thể học hỏi bài học của họ, và may ra họ sẽ phát triển được khả năng phân biện sẽ dẫn đến một dạng đạo sư cao hơn.

Có rất nhiều người – và con sẽ tìm thấy họ không những tại Hàn quốc mà khắp mọi nơi – xem sự phát triển tâm linh như một phương cách để cất mình lên cao. Nói cách khác, họ chỉ tập trung vào chính họ, họ tự nhấc mình lên một mức tâm thức cao hơn hầu họ có thể hoặc cảm thấy mình trội hơn mọi người, hoặc họ đứng ra đằng trước và chứng tỏ tính ưu việt của mình hầu ai nấy phải kính trọng, hay thậm chí đi theo hay tôn thờ mình.

Có một nhóm người bị hấp dẫn bởi loại đạo sư này, là các đạo sư với những lời tuyên bố trau chuốt về trình độ tâm thức của mình hay mức hiểu biết cao cấp của mình. Đơn giản là các tín đồ đó cần đến trải nghiệm đó trong một thời gian trước khi may ra họ sẽ chán chê để vươn lên một mức phân biện cao hơn và nhận ra loại đạo sư nào có khả năng đưa họ lên một trạng thái tâm thức cao hơn, hay loại đạo sư sẽ giữ họ kẹt lại trong ngõ cụt tâm linh nơi họ có thể cảm thấy mình cao trội nhưng không thật sự tinh tấn.     

Là một học trò của chân sư thăng thiên, con có thể hỏi: “À cái đó là gì đối với con?” Hầu hết các con có thể an toàn mà bỏ qua những loại đạo sư này. Nhưng nếu con có liên hệ với những người đi theo một đạo sư như vậy hoặc nếu chính con đã từng đi theo, thì có thể việc tìm cách giúp họ nhìn thấy nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong đa số trường hợp, con sẽ không giúp được gì bằng cách chạm trán với loại đạo sư đó, mà trái lại con có thể giúp cá nhân từng người bước lên một tầm hiểu cao hơn về loại thày tâm linh mà họ thật muốn. Và con có thể giúp họ nhìn ra là nếu có ai tìm cách thổi phồng tư cách, sự chứng đạt hay sự cao trội của mình, thì người đó đã không thực sự đạt đến một tầng tâm thức cao lắm.

Bởi vì khi con đạt đến các tầng cao hơn trên đường tu tâm linh, con buông bỏ ngã tách biệt và con không tìm cách nhấc mình lên cao. Con tìm cách nâng người khác lên cao. Con tìm cách nâng toàn thể lên cao. Con tìm cách giúp đỡ người khác.

Một lần nữa, đây là một vấn đề cá nhân, tùy cá nhân con cảm thấy thế nào. Nhưng ta khuyến khích con không nên dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình phải làm gì, mà chỉ đơn giản tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi để yên cho trực giác thúc giục con từ bên trong. Nó có thể sẽ gợi ý con nên làm gì và làm cách nào.

Dùng trí năng để hiểu các khái niệm tâm linh xưa

Hỏi: Con xin được hỏi thày Gautama. Khi thày hiện thân trên trái đất, thày đã dạy các đệ tử về Niết bàn và các bậc A la hán. Các lời dạy thuở đó đưa ra khái niệm thế nào? Và có thật là thày đã dạy Vipassana và sự tĩnh lặng như một pháp tu của đạo Phật dẫn đến Niết bàn hay chăng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Đúng là ta đã dạy nhiều giáo lý khác nhau. Một số đã trở thành Vipassana hay các giáo lý tâm linh khác hay các phép tu của Phật giáo. Tất nhiên ta cũng đã dạy về các khái niệm Niết bàn, giác ngộ cùng những khái niệm khác. Điều quan trọng con cần hiểu ở đây là câu hỏi con vừa đặt ra được hỏi từ tầng cấp lý trí. Con đang tìm cách dùng trí năng để cố hiểu người ta trải nghiệm các khái niệm đó như thế nào 2500 năm về trước.

Trước hết, điều này không thể làm được vì tâm thức tập thể trên địa cầu đã được nâng cao trong suốt 2500 năm đó. Không có cách nào con có thể thực sự nắm bắt mà dựa trên trải nghiệm con đang có ngày hôm nay, con không thể nắm bắt bằng trí thức cách con người thời đó nhìn các khái niệm này như thế nào.

Nhưng hơn nữa vào thời đó, con người không hiểu khái niệm một cách trí thức. Họ trải nghiệm. Con cũng có tiềm năng trải nghiệm như vậy, nhưng điều này hầu như không thể vì tâm thức tập thể đã tiến bước rồi. Con không thể thực sự lĩnh hội cách người ta nhìn cuộc đời như thế nào vào thời đó.

Nhưng con muốn trải nghiệm chuyện đó để làm gì chứ? Thực tế là con người vào thời đó rất ít trí thức như bây giờ. Điều này không nhất thiết là một điều tích cực nhưng nó cũng có một vài khía cạnh tích cực, theo nghĩa họ là những sinh thể sống bằng trải nghiệm, cho nên họ có thể trải nghiệm một giáo lý hay một pháp tu dễ dàng hơn, họ không mang vào lớp phủ của lý trí – một lớp phủ mà quá nhiều người trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại phương Tây, khoác vào.

Thật sự điều quan trọng cho con trong thời đại này là con không nên cố gắng dùng trí năng để hiểu các lời dạy, cho dù đó là lời dạy của đạo Phật mà ta đã ban ra thuở đó hay là lời dạy của các chân sư thăng thiên ngày hôm nay. Mà con tìm cách trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau lời dạy.

Điều này không có nghĩa là con không sử dụng tâm suy luận để xây dựng một hiểu biết nào đó về đường tu tâm linh cũng như về vũ trụ, nhưng nếu đó là tất cả những gì con rút tỉa được từ lời dạy thì con đã không hoàn thành được tiềm năng đầy đủ của lời dạy.

Sự bóp méo các lời dạy của Khổng Tử

Hỏi: Con nghe nói là Khổng Tử đã thăng thiên và hiện nay đang phụng sự ở một hành tinh khác. Khi nhìn vào Khổng Tử cùng các lời dạy của ông theo một quan điểm hiện đại, chúng ta có thể nói là các lời dạy đó đã khuyến khích sự phân biệt đối xử đối với phái nữ và cũng đã góp phần vào việc hình thành một nền văn hóa đặt nền tảng trên nhị nguyên. Tại sao những việc này đã xảy ra? Cũng giống như giáo lý của Giê-su đã bị sa nhân bóp méo, liệu giáo lý của Khổng Tử cũng đã bị bóp méo hay không? Nếu vậy thì có cách nào để phần tinh hoa của giáo lý Khổng Tử được trình bày một cách đúng đắn trong thế giới hiện đại không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết con yêu dấu, chưa bao giờ trên hành tinh này đã từng có một giáo lý tâm linh nào không bị bóp méo. Một khi lời dạy được đưa ra dưới một dạng ngôn từ có thể được sao chép và truyền bá thì ngôn từ có thể được diễn giải, nhiều điều có thể được ghép thêm vào đó, còn sa nhân thì luôn luôn cố gắng bóp méo bất cứ lời dạy nào. Tất nhiên lời dạy của Khổng Tử cũng đã bị tha hóa.

Các lời dạy này đã được người ta sử dụng để viện cớ cho một nhà nước tập trung dưới sự cai trị của một người, một lãnh đạo độc nhất. Chúng cũng đã được người ta dùng ở một mức độ nào đó để củng cố cho sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ, nhưng vào thời Khổng Tử sự kỳ thị phụ nữ đã vô cùng sâu đậm rồi cho nên thật không có cách nào bài trừ được hoàn toàn.

Khổng Tử hiểu rõ điều này và ông đã lấy một quan điểm thực tế và thực tiễn hầu cố thay đổi những gì có thể thay đổi được dựa trên tâm thức quần chúng vào lúc đó. Và tất nhiên, ông đã nhận được linh hứng từ các chân sư thăng thiên nhưng chỉ ở một cấp độ nào đó.

Vậy thì các lời dạy, phần tinh hoa các lời dạy của Khổng Tử, có đã được truyền lại trong thế giới hiện đại hay không? Hẳn nhiên là có, qua trung gian giáo lý của các chân sư thăng thiên mà các thày đang truyền rải trong thời đại hôm nay. Liệu lời dạy của ông có thể được truyền rải như là “Đây là giáo lý đích thực của Khổng Tử” hay không? À, điều này sẽ rất khó thực hiện bởi vì chính những người đang nghiên cứu hay tuân thủ lời dạy của Khổng Tử theo một cách nào đó sẽ là những người cuối cùng chịu nhìn nhận như vậy. Và do đó đối với những ai không đặc biệt quan tâm đến Khổng Tử, tại sao các thày lại gắn liền giáo lý đó với Khổng Tử, tại sao không chỉ đơn giản đưa ra những lời dạy này y như các thày đang làm trong các bối cảnh khác?

Trò chơi “Bị chỉ trích và tự bào chữa”

Hỏi: Con thường hay gặp những người chuyên môn đi chỉ trích người khác thay vì chỉ dẫn người khác. Hồi này, con không còn phản ứng như thế nữa và con cố giơ má kia ra, vì con biết lối tranh cãi đó thật là vô nghĩa, và ở một mức độ nào đó, con biết người khác cũng chính là ánh phản chiếu của con. Nhưng trong những tình huống như thế, con vẫn nhận thấy là con còn chút tức giận và căng thẳng ở bên trong. Mặc dù con đã đương đầu với những hoàn cảnh này khá hơn xưa, con vẫn còn giận dữ và căng thẳng. Làm thế nào con có thể thanh lọc cơn giận và sự căng thẳng đã dồn nén? Và làm thế nào con có thể thoát ra khỏi tình trạng bị chỉ trích?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Trên một hành tinh như trái đất, con không thể tránh được tình trạng bị người khác chỉ trích. Có thể con chưa gặp ai chỉ trích con trong kiếp này, nhưng chắc chắn con đã gặp trong tiền kiếp. Con cần suy ngẫm sự kiện là tất cả mọi người đều gặp phải vấn đề mình bị chỉ trích. Trong quá khứ, con đã tạo ra một số ngã tách biệt để đương đầu với nó, cho nên cách thực tiễn duy nhất là con phải phơi bày những cái ngã này ra bằng cách sử dụng những dụng cụ của các chân sư, rồi để cho ngã chết đi.

Ở đây con cần nhận ra rằng sự chỉ trích là một trạng thái của tâm. Các chân sư đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Rằng cái trí phân tích luôn luôn có thể tìm được một lập luận để hỗ trợ cho bất kỳ quan điểm nào mà nó muốn chứng minh. Nếu ai đó mang thái độ muốn chỉ trích con, họ sẽ luôn luôn tìm được một điều gì đó để chỉ trích cho dù con có làm gì hay nói gì. Cho dù sự chỉ trích của họ có căn bản hay không, họ cũng sẽ tìm ra một lý do chỉ trích hữu lý dưới mắt của họ.

Con cần nhìn rõ trong tâm con rằng nếu người ta chỉ trích, đó là vì họ đang ở trong thái độ, cái tâm trạng chỉ trích đó. Không ích gì mà con tranh luận với họ, bởi vì con không thể thuyết phục họ là họ sai và con đúng. Và đây không phải là vấn đề đúng hay sai. Bất kỳ tâm thức nào cũng có một đối cực. Và đối cực của tâm thức chỉ trích là tâm thức tự biện hộ, thường là bằng cách chứng minh là người kia sai.  

Rất nhiều người tâm linh không phải là loại người hay xông ra ngoài và hung hãn, và con không nhất thiết sẽ muốn đi chỉ trích người khác. Nhưng khi có ai đó chỉ trích con, con sẽ chui ngay vào trong cái thái độ muốn chứng minh là người đó sai. Khi làm như vậy, con đã cho phép con bị lôi kéo vào trò chơi nhị nguyên. Con cần lấy một quyết định ý thức rằng con sẽ không cho phép con làm điều đó nữa, rằng con sẽ phơi bày những cái ngã tách biệt đằng sau cách phản ứng như vậy, và con nhất quyết rằng: “Tôi sẽ không tìm cách thuyết phục người kia là họ sai hoặc tôi không phải là con người xấu xa mà họ bảo. Tôi sẽ chỉ giản dị để cho ngã tách biệt chết đi, hầu người kia không có ảnh hưởng gì trên tôi, và họ không thể cưỡng ép tôi phản ứng lại.”  

Chỉ khi nào con không còn có phản ứng nào khi mình bị chỉ trích thì con mới thực sự tự do khỏi tâm thức đó. Con hãy xem đó là một cơ hội để tự giải thoát và đạt được một cột mốc vô cùng quan trọng trên đường tu tâm linh. Thật là con không thể biểu thị hay dám thể hiện được quả vị Ki-tô của con trừ khi con đã vượt qua toàn bộ cái vũng lầy của sự chỉ trích và sự tự bào chữa, hoặc nhu cầu muốn chứng minh là người khác sai. Nguyên thái độ này phải ra đi. Con cần phải thăng vượt nó, buông nó ra để nó không thể chạm được vào con. Khi đó, con mới bắt đầu thể hiện được quả vị Ki-tô của con một cách tự do, không còn sợ hãi và cũng không còn giận dữ khi bị chỉ trích.    

Làm thế nào phân biện giữa tự ngã và lời gợi nhắc của trực giác

Hỏi: Do con bước đi trên đường tu tâm linh, con cảm thấy hơi bối rối trong tâm con. Con bối rối vì con không phân biện được tiếng nói ồn ào của tự ngã với giọng nói nhỏ nhẹ của tánh linh. Có lẽ chăng là con có thái độ sai lầm đối với đường tu? Để giảm bớt bối rối này, liệu con sẽ phải giải quyết bao nhiêu vấn đề tâm lý, sẽ phải có được bao nhiêu trải nghiệm trong tim về các chân sư thăng thiên?  


Trả lời của châng sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Vấn đề mà con mô tả có thể coi là khiá cạnh trung tâm của đường tu ở một tầng cấp nào đó. Cho tới khi con vươn lên cao hơn một mức tâm thức nào đó nơi trực giác của con rõ ràng hơn, con sẽ luôn luôn gặp thử thách làm thế nào phân biện giữa tự ngã cùng các ngã tách biệt, với những lời gợi nhắc trực giác đến từ cái ta cao hơn của con, từ Hiện diện TA LÀ hay từ các chân sư thăng thiên. Đó sẽ là một thách đố cho bất cứ ai.   

Điều con cần làm là sử dụng các dụng cụ mà các chân sư đã ban ra, và trong một trường hợp như của con, ta khuyên con nắm lấy những cuốn sách trong bộ “Con đường Tự điều ngự”, khởi đầu với sách của Đại thượng sư Maha Chohan, rồi bước lên từng cuốn một qua bảy tầng Thượng sư, và con đi qua toàn bộ tiến trình học tập những cuốn sách này. 

Sau đó nếu con vẫn còn cảm thấy mình chưa đạt được sự minh mẫn mong muốn, con hãy học tiếp những cuốn sách kia, “Chữa lành Chấn thương Tâm lý” cùng những cuốn khác* sẽ giúp con khắc phục ngã tách biệt.

[* Bộ sách này gồm có:

  • Healing Your Spiritual Traumas (Chữa lành Chấn thương Tâm lý)
  • Fulfilling Your Divine Plan (Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng)
  • Fulfilling Your Highest Spiritual Potential (Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh Cao nhất)
  • Making Peace with Being on Earth (Làm hòa với việc Có mặt trên Địa cầu)]

Cách xử lý các triệu chứng mãn kinh

Hỏi: Con xin hỏi thày về các triệu chứng mãn kinh. Con đang có triệu chứng mãn kinh và một vài người bạn của con cũng bị như vậy. Triệu chứng thay đổi tùy theo mỗi người. Liệu có một cách hiệu quả nào để khắc phục chúng hay không? Và xin thày có lời khuyên nhủ nào cho chúng con là những học trò của chân sư thăng thiên đang phải chịu một số triệu chứng mãn kinh, chẳng hạn như tâm tính thay đổi thất thường và giảm sút thể lực? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Trước hết, hiện nay đang có một sự nhận thức ngày càng cao hơn, đặc biệt trong giới phụ nữ, về các triệu chứng mãn kinh cùng một số hình thức trị liệu khác nhau, bao gồm cả những cách trị liệu tự nhiên mà con có thể sử dụng để ít nhất làm dịu, giảm bớt các triệu chứng.

Con cần nhận ra là ở mức hiện thời của tâm thức tập thể, cơ thể vật lý con người có một độ dày đặc nào đó. Và vì vậy, đúng thực là phụ nữ phải chịu một số thay đổi khi họ trải qua giai đoạn gọi là mãn kinh. Có một số điều con có thể giảm thiểu hoặc tránh hẳn, nhưng cũng có một số điều con không thể làm gì được. Nhưng điều con có thể làm là dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để phơi bày bất kỳ ngã tách biệt nào liên quan đến sự kiện con là một phụ nữ sống trong một thân thể phụ nữ, có con, có lẽ còn bị ngược đãi hay xem thường như một phụ nữ, bị giới hạn như một phụ nữ, cùng bất kỳ cảm xúc và phản ứng nào mà con mang liên hệ đến sự việc này.  

Ta không nói đó là điều duy nhất con nên làm. Con cũng nên theo đuổi một số phương thức vật lý, nhưng nếu con là một đệ tử tâm linh thì con hãy dùng các dụng cụ cùng các lời dạy mà con đang có. Hãy nhìn vào những cái ngã tách biệt mà mọi người đều có liên quan đến cơ thể vật lý cũng như vai trò của mình, cho dù con là người nam hay người nữ.

Hiển nhiên khi con là phụ nữ đã có các triệu chứng mãn kinh này, con có nhiều động lực hơn để làm một cái gì đó, trong khi đàn ông sẽ có xu hướng phủ nhận làm ngơ trừ khi mọi chuyện trở nên thật nghiêm trọng. Là một phụ nữ, con nên xem đây là một lợi thế ở chỗ con có cơ hội xem xét vấn đề này, làm việc với các ngã tách biệt và dần dần khắc phục chúng.

Trải nghiệm cái Một cùng lúc với lòng thù hận

Hỏi: Hôm trước khi thiền quán, con đã có trải nghiệm thần bí là con biến mất và thân thể con cũng biến mất. Tất cả mọi thứ đều là một, không có gì mà không phải là con. Trải nghiệm này không thể diễn tả được bằng lời. Thật là một niềm hỷ lạc tuyệt diệu mà con chưa bao giờ kinh qua. Từ khi có trải nghiệm này và cho dù con chưa từng theo một tôn giáo nào, con đã hiểu được Kinh thánh cùng kinh Phật.

Lý do con đã bắt đầu tu học tâm linh là vì con muốn tự giải thoát khỏi nỗi đau xung đột với gia đình chồng con. Giờ đây con đã dần dần nhận ra là tình trạng xung đột này chính là chọn lựa của con. Nhưng khi con ở trong khoảnh khắc hợp nhất tuyệt diệu và chợt nhớ đến gia đình chồng con, thì con vẫn cảm thấy oán giận trong con. Trời, ngay cả trong giây phút hỷ lạc tuyệt diệu đó mà vẫn còn thù hận sao? Xin thày giảng tại sao lại như vậy?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Như các thày đã có giải thích, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và có được một trải nghiệm tâm linh. Nhưng đối với một số người đã mở tâm ra để xem xét bản thân mình, vẫn có khả năng là họ có một trải nghiệm hỷ lạc mà vẫn nghiệm thấy rằng trong lúc họ đang có trải nghiệm đó, trong tâm thức họ còn điều gì chưa giải quyết. Và chính điều này sẽ cho con viễn quan là cho dù con còn mang nỗi hận này trong con, nó thật không đáng kể gì so với niềm hỷ lạc mà con đã trải qua. Nhờ vậy, con sẽ dễ dàng hơn tách mình ra khỏi nó, xem xét nó một cách trung hòa và quyết định để cho nó ra đi.

Hiển nhiên con có một ngã tách biệt đang bám víu lấy nỗi giận này, có lẽ từ những kiếp trước. Một lần nữa, con hãy dùng các dụng cụ tâm linh, dùng sách của các thày để phơi bày ngã tách biệt này. Con hãy tìm xem tại sao con lại cảm thấy oán giận, xong nhận ra là nỗi oán giận này không hề có giải pháp. Cách duy nhất để con được tự do là để cho ngã tách biệt chết đi. Đây không phải là chuyện thay đổi nó, trừng phạt nó hay thậm chí thay đổi bản thân con, mà đây là chuyện để cho ngã tách biệt chết, tha thứ nó hầu con có thể tự do bước tới trong đời mình.

Phật (tánh) dưới dạng thực vật hay động vật

Hỏi: Theo kinh văn đạo Phật, đức Phật có nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là cỏ cây hay thú vật. Điều này có thật và chính xác hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Một lần nữa, đây là ví dụ một câu hỏi không thể trả lời “có” hay “không”, bởi vì tất cả tùy thuộc vào cách con nhìn những khái niệm này. Con cần nhìn rời ra – một điều mà hầu hết mọi người không làm được. Con cần phân biện giữa Phật như một hiện thân vật lý, một con người vật lý, với Phật như một tâm thức rộng lớn hơn. Đây là cùng vấn đề mà nhiều tín đồ đạo Cơ đốc gặp phải với khái niệm Ki-tô – một đằng con có con người cá nhân của Giê-su đã hiện thân như là Ki-tô, và đằng khác con có tâm thức Ki-tô ở mức sâu xa hơn.      

Khi con nhìn vào khái niệm Phật, con sẽ thấy được điều mà ta đã từng dạy, rằng Phật tánh ở trong tất cả mọi vật, rằng mọi vật đều mang Phật tánh nơi chính mình. Khi con nói về Phật tánh thì con có thể bảo rằng Phật tánh ở trong sỏi đá, trong cây cỏ, trong thú vật.

Nhưng giáo lý chúng tôi các chân sư giảng dạy ngày hôm nay là về cái Ta Biết. Cốt lõi con người của con là cái Ta Biết, là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và cái Ta Biết này không đi xuống vào trong sỏi đá, cây cỏ hay thú vật. Điều này có nghĩa, con trong tư cách là một dòng sống cá biệt, đã không từng là thực vật hay động vật trong tiền kiếp để rồi dần dần tiến hóa thành một con người. Lần đầu tiên con đã đi xuống hiện thân là trong một thân xác con người, và nếu con hiện thân trên một hành tinh khác thì ít nhất con đã đi xuống trong một thân xác giông giống như con người.

Ta như là Phật Gautama hiện thân cách đây 2500 năm đã không từng là sỏi đá hay cây cỏ trong tiền kiếp. Đây không phải là một điều mà ta đã nói, nhưng là sự diễn giải của người đời sau đó, vì người thời đó có một cái nhìn về thế giới không giống như ngày nay. Ngày nay ở phương Tây, cái nhìn của các con rất khác với cái nhìn của con người cách đây 2500 năm tại địa phương nơi ta hiện thân.   

Họ đã diễn giải theo cách đó, và họ cho rằng nếu mọi thứ đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất, thì trong cách suy nghĩ vô cùng đường thẳng – chẳng qua cũng tương tự như các thuyết tiến hóa mà các con có ngày nay – sự sinh tạo đã khởi đầu một cách lần hồi. Nghĩa là trước tiên sẽ có những dạng sống thô sơ hơn, sỏi đá và khoáng vật, rồi đến cỏ cây và thực vật, rồi đến động vật, rồi mới đến con người. Và nếu như vậy thì sự hiện thân phải khởi sự dưới các dạng thô sơ đó. 

Như ta vừa nói, nếu con nhìn tiến trình này dưới nhãn quan của tâm thức thì cái nhìn như vậy không nhất thiết là sai. Nhưng khi con nhìn vào một sinh thể cá biệt thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Sự thật là các Elohim đã đem lại những biểu hiện vật lý trên địa cầu qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên là sự biểu hiện vật lý của sỏi đá cùng khoáng vật, rồi đến cây cỏ, rồi đến thú vật, rồi đến biểu hiện cơ thể vật lý con người. Chỉ khi đó – khi mà cơ thể con người đã được tạo dựng với bộ não và hệ thần kinh phức tạp – thì các sinh thể tâm linh mới đi xuống cõi vật lý.

Các kỹ thuật y khoa năng lượng và dòng chảy năng lượng

Hỏi: Hiện có nhiều kỹ thuật y khoa năng lượng đang xuất hiện và con tự hỏi chuyện gì xảy ra với khoa châm cứu (acupuncture) và bấm huyệt (acupressure hay tapping). Năng lượng chảy tự do trở lại nhưng chuyện gì xảy ra với một điểm nghẻn? Làm thế nào năng lượng bế tắc có thể lưu thông điều hòa trở lại do một động tác đâm kim hay thoa bóp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến đến Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giảng dạy về một số đề tài này, nhưng điều ta muốn nói thật nhanh ở đây là khoa châm cứu là một khoa học rất cổ xưa dựa trên sự hiểu biết về các đường kinh, là đường chảy của khí hay năng lượng chảy qua trường năng lượng của một người. Và tất nhiên, người xưa cũng hiểu biết là dòng năng lượng có thể bị tắc nghẽn, và bằng cách kích thích một số điểm huyệt với một cây kim hay ngay cả bằng áp lực, người ta có thể mở lại những đường kinh này để năng lượng chảy tự do hơn. Điều chúng ta đang nói tới ở đây là dòng chảy năng lượng được mở ra trở lại, cũng phần nào tương tự như khi dòng tuần hoàn của máu bị tắc nghẽn trong tĩnh mạch, nếu con loại bỏ tắc nghẽn thì máu lại lưu thông tự do.  

Nhưng tất nhiên, con có thể đi xa hơn và sử dụng giáo lý của các chân sư, và nhận ra đường kinh không chỉ là chuyện cơ thể vật lý. Con cũng có những đường kinh cảm xúc, đường kinh lý trí, đường kinh ở mức bản sắc, và những đường kinh này cũng có thể bị tắc nghẽn. Khi đó, con không thể làm lưu thông trở lại qua sự nắn bóp vật lý hay sự kích thích cơ thể vật lý. Con cần đến một kỹ thuật khác hơn và hiện nay có một số kỹ thuật khác đang xuất hiện.   

Chúng tôi đang làm việc với một số nhà trị liệu để củng cố các kỹ thuật này, nhưng nói cho cùng, con sẽ không giải quyết được một vấn đề nào trong cảm thể mà không làm hai điều. Trước hết, con cần biến hóa năng lượng đang làm nghẽn dòng chảy, là năng lượng chồng chất trong cảm thể, để khiến nó có một độ rung cao hơn rồi nó chảy trở ngược lên qua các thể phàm cao của con, để sau đó Hiện diện TA LÀ của con có thể sinh sôi năng lượng này cho nó chảy trở xuống. Và thứ hai, con cũng phải giải quyết các niềm tin, cả trong cảm thể lẫn trí thể và bản sắc thể, đang ngăn chặn dòng chảy. Việc này đòi hỏi một hình thức chữa lành sâu xa hơn. Lẽ tự nhiên, cách mà người ta thường tiếp cận là họ cố làm sao đạt được kết quả nhanh chóng. Người ta muốn một kỹ thuật dễ sử dụng, một kỹ thuật vật lý để giúp người bệnh. Những kỹ thuật này có thể giúp ích, nhưng khả năng thì giới hạn vì người ta làm việc với cơ thể vật lý.

Rốt cuộc ra thì tất nhiên, con nhận ra là mặc dù con có thể bàn cãi về dòng chảy của năng lượng qua các đường kinh, mục đích thực sự của dòng chảy năng lượng này là để khi con sử dụng năng lượng đến từ cõi tâm linh trong sự yêu thương, và con giúp người khác cũng như chính con, thì năng lượng có khả năng chảy ngược lên lại cõi tâm linh. Nơi đó, năng lượng sẽ được nhân lên gấp mấy lần và con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn gửi trả về cho con. Đây là điều mà Giê-su đã mô tả qua chuyện ngụ ngôn về ba người đầy tớ nhận lại những số ta-lăng khác nhau [ta-lăng vừa có nghĩa là của cải, vừa có nghĩa là khả năng].   

Và đương nhiên, khi nhiều người sử dụng năng lượng đó với một nhãn quan xuất phát từ lòng sợ hãi, họ sẽ chôn vùi năng lượng dưới đất, có nghĩa là năng lượng sẽ tụ đọng lại rồi bắt đầu làm nghẽn dòng chảy, bởi vì không có bao nhiêu năng lượng có thể chảy ngược trở lên và vì thế cũng không có bao nhiêu năng lượng được gửi trở xuống. Nói cho cùng, đó mới là điều mà còn cần hồi phục, và dĩ nhiên, đó cũng là mục đích của đường tu tâm linh khi con tăng cường dòng chảy năng lượng bằng cách khởi sự xoay chuyển các hành động dựa trên sợ hãi sang các hành động dựa trên tình thương.

Nghiệp được lưu trữ ở đâu?

Hỏi: Con có một câu hỏi về nơi nghiệp quả được lưu trữ. Nghiệp có được tích tụ nơi một luân xa đặc trưng hay một khu vực của hào quang, hay ngay cả trong cơ thể vật lý, chẳng hạn trong các bộ phận của cơ thể? Hay điều này có tùy thuộc vào loại nghiệp mà chúng con mang, và tia sáng nào đã bị tha hóa khi chúng con tạo nghiệp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Bước tới các quan hệ Thời đại Hoàng kim. Đăng ngày 13/10/2021.

Một lần nữa, nghiệp là một trong những từ đã được sử dụng quá nhiều cách khác nhau bởi nhiều giáo lý tâm linh cùng tôn giáo khác nhau. Và các chân sư thăng thiên đã cố gắng cho con một cái nhìn đa diện, tinh tế hơn về nghiệp quả. Thực tế là nghiệp có nhiều dạng khác nhau. Để trình bày cho đơn giản, chúng ta có thể nói là có nghiệp vật lý, nghiệp ở mức cảm xúc, nghiệp ở mức lý trí và nghiệp ở mức bản sắc. Hiển nhiên, nghiệp vật lý được lưu trữ trong cơ thể vật lý, nghiệp cảm xúc trong thể cảm xúc, vân vân.

Cũng có loại nghiệp được tạo ra do sự tha hóa của các năng lượng đặc trưng trong một trong bảy tia sáng. Nghiệp này được cất giữ trong luân xa tương ứng với tia sáng đó. Con có thể đơn giản lấy các lời dạy về luân xa và nhìn xem luân xa nào tương ứng với tia sáng nào.

Tuy nhiên, con hãy thận trọng đừng quá “đường thẳng” về vấn đề nghiệp quả, như các thày đã bày tỏ mấy lần. Điều ta muốn nói ở đây là ngoài vấn đề năng lượng bị tha hóa, như các chân sư có trình bày, nghiệp còn có một thành phần tâm lý, và đây là những tin tưởng, những tư duy, những cái ngã tách biệt. Những thứ này không hẳn là được lưu trữ, mặc dù chúng hiện diện nơi ba thể phàm cao hơn của con – một số ngã trong thể tình cảm, một số ngã trong thể lý trí, một số ngã trong thể bản sắc.

Thật sự khi nói đến phần nghiệp tâm lý như chúng ta có thể gọi như vậy, điều quan trọng là con không nên chú mục vào nơi nó được lưu trữ. Điều duy nhất mà con cần làm là đem nó ra tầm nhận biết ý thức của con hầu con có thể, một cách ý thức, giải thể cái quyết định đã tạo ra ngã đó, và như vậy để cho nó chết đi.

Đau nhức cơ bắp sau khi đọc chú

Hỏi: Con bắt đầu đọc các bài chú 1.02 và 7.07 buổi sáng và 4.01 và 7.07, hay 7.02 buổi tối trong khoảng hai tháng. Gần đây con bị đau nhức rất nhiều cơ bắp sâu ở cổ, lưng và cánh tay. Đau nhức này có liên quan tới việc đọc chú chăng?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Khóa học trực tuyến năm 2021 – Tiến tới mối quan hệ của thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

À, nhìn theo một góc độ nào đó, đau nhức cơ bắp không trực tiếp liên quan gì tới việc đọc chú. Các bài chú không tạo nên đau nhức thân thể hay khó chịu trong thân thể. Nhưng con có thể chú ý để nhận biết hay con có thể tìm hiểu xem con có đọc chú trong một sự căng thẳng nào đó khiến con căng một số cơ bắp. Một số người có thể thấy hay trải nghiệm là đôi khi họ đọc chú, họ căng cơ bắp, hay họ ngồi trong một tư thế căng cơ bắp và điều này có thể khiến họ bị đau nhức.

Cũng có những lúc các bài chú bắt đầu giải tỏa điều gì đó trong ba thể phàm cao của con và điều này đi xuống thể vật lý của con cho nên con bị đau nhức hay khó chịu tạm thời. Nhưng đau nhức không thể nghiêm trọng hay không thể kéo dài được. Sau đó con cần có những biện pháp thích ứng như đi gặp bác sĩ hay con ngừng đọc chú hay con đừng đọc nhiều bài chú để con không nhận nhiều giải tỏa ở mức mà thân thể con không chịu được.

Học hỏi Nho giáo

Hỏi: Liệu Nho giáo có đáng để người ta học hỏi hầu cải sửa bản thân hay không? Hay Nho giáo là xấu xa và do một sa nhân lập ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Khổng Tử qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Ta không là một sa nhân. Ta chưa bao giờ là sa nhân và cũng không đến từ sinh thể sa ngã. Vào thời ta đầu thai và giảng dạy, ta đã đạt được một khả năng nhận biết khá cao, nhưng không thể gọi là cao nhất có thể đạt được trên địa cầu. Nhưng ta đã có thể nhận được một số ý tưởng từ cõi tâm linh và đã gói gọn lại thành giáo lý vỏ ngoài của Nho giáo.   

Tuy nhiên, con cần nhận ra là – và mọi lời dạy khác cũng đều phải như vậy – lời dạy của ta được trình bày trong một bối cảnh, một nền văn hóa, một dân tộc, một thời điểm đặc thù. Đương nhiên cũng có một số yếu tố, một số nguyên lý vượt thời gian trong đó, nhưng ta không khuyến cáo con học hỏi giáo lý này ngày nay bởi vì con đã có giáo lý của các chân sư thăng thiên rồi. Có thể một vài người sẽ có nhu cầu tìm hiểu Nho giáo trong một thời gian để biết rõ hơn, nhưng nói chung, ta sẽ không khuyên mọi học trò tâm linh nên học.     

Các ý tưởng đó được đưa ra vào thời buổi đó nhằm thay đổi cách hành xử vỏ ngoài của con người, chứ không chủ yếu nhắm vào việc cải sửa tâm lý con người ở mức sâu xa, bởi vì điều đó không thể làm được vào lúc đó. Cũng cần nói thêm là giáo lý được đưa ra từ quan điểm giải thích mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, và người dân cần phải cư xử như thế nào hầu giữ vững cho nhà nước được trật tự, vận hành đúng chức năng. Nhưng hiển nhiên là chế độ thời đó khác xa một nền dân chủ, và do đó những ý tưởng này không thật sự áp dụng được cho một nền dân chủ tân tiến.   

Con có thể nói được là ở một mức độ nào đó, Nho giáo đã bị các sa nhân sử dụng để biện hộ cho một nhà nước kiểm soát. Về điểm này thì con có lý. Nhưng điều này không có nghĩa là lời dạy không có những yếu tố có giá trị hay vượt thời gian. Cho dù chúng tôi có đưa ra điều gì đi nữa thì sa nhân cũng sẽ tìm cách xuyên tạc, lạm dụng. Và tất nhiên, một số kẻ sẽ cố tình lạm dụng nếu nó đem lại lợi lạc cho họ. Chẳng hạn, nó củng cố địa vị của giai cấp thượng lưu cầm quyền và khiến cho người dân phải phục tùng giai cấp đó.

Nên nói hay không nên nói?

Hỏi: Đôi khi con cảm thấy như có một sự thôi thúc muốn nói hay muốn hỏi một điều gì đó, và sự thôi thúc này chỉ biến mất sau khi con nói ra. Có thể nào điều đó đến từ Hiện diện TA LÀ của con? Hay có nhiều xác suất hơn là nó đến từ một ngã tách biệt? Làm thế nào con có thể phân biệt nó đến từ đâu?   


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Bước tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Con cần nhìn vào cái cảm giác tinh tế hơn ở đằng sau. Đôi khi con có thể nhận diện là gần như có một sự ép buộc muốn nói một điều gì đó. Gần như là con cảm thấy mình bắt buộc phải nói điều này. Thậm chí cũng có thể có một lời giải thích tại sao con phải nói ra điều đó. Trong trường hợp này, nó đến từ một ngã tách biệt.

Khi nó đến từ Hiện diện TA LÀ của con, con không hề có sự cưỡng bách, không hề có lý lẽ hay lập luận. Con có thể học cách nhận diện là khi đó, chỉ có một cảm nhận nội tâm, gần như là một sự an bình, hay bình thản, hay nhận biết nhạy cảm. Và một cái gì đó tự dưng nảy lên, gần như là con nhìn thấy một bọt nước dâng lên từ vùng sâu và hiện ra trên mặt nước, và nó xuất hiện trong tâm ý thức của con. Và con có thể học cách tới được điểm là mỗi khi điều này xảy ra, con tự nhiên phát biểu nó ra. Con không tranh cãi, lập luận, suy nghĩ hay lý luận, “Tôi có nên nói hay không nên nói?” Con chỉ nói nó ra mà thôi. Con chỉ diễn tả, thể hiện nó ra. Chứ nếu con cân nhắc là mình có nên nói hay không, thì con học được là con không nói, vì con biết nó đến từ một ngã tách biệt.    

Trải nghiệm tâm linh không có kịch tính hay tương phản

Hỏi: Con có một chờ đợi là khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con hay với một chân sư thăng thiên, con sẽ kinh qua một cảm giác hay một trải nghiệm ngoạn mục nào đó. Nhưng liệu đây có phải là một chờ đợi không thực tế?  Và liệu sự nối kết ấy có tinh tế hơn vậy và không khác lắm so với nhận biết bình thường của con? Liệu chúng con sẽ cảm nhận một trải nghiệm hay một tâm trạng chung chung nào đó khi chúng con buông bỏ ngày càng nhiều cái ngã hơn? Hay liệu chuyện này tùy thuộc vào trải nghiệm cá nhân của từng người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Tiến tới các mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Con nói hoàn toàn đúng, đó là một sự chờ đợi không thực tế. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo rằng mọi sự chờ đợi đều không thực tế. Nhưng trong trường hợp này, con cần nhận ra ở đây là chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giảng dạy về sự khác biệt giữa nhị nguyên và bất nhị. Trong nhị nguyên, con có hai đối cực: trắng và đen, thiện và ác, đúng và sai. Hai cái này đối lập tuyệt đối với nhau, và ở giữa thì không có bất kỳ nét đậm nhạt nào cả. Đó là tại sao luôn luôn có một sự tương phản rất lớn. Tâm thức nhị nguyên này đã được phóng chiếu lên các giáo lý tâm linh, các vị thày tâm linh, các trải nghiệm tâm linh, đến độ nhiều người đã dựng lên nhận thức cho rằng nếu họ là người thực sự tâm linh, nếu họ có trải nghiệm tâm linh thực sự, thì đó phải là một trải nghiệm kịch tính, khác hẳn với trạng thái tâm thức bình thường của họ.

Tất nhiên, con có thể tìm thấy nhiều người đã từng có những trải nghiệm mãnh liệt, nhưng chúng chỉ có vẻ mãnh liệt so với trạng thái nhận biết bình thường của họ mà thôi. Một số người đã cưỡng ép những trải nghiệm này, chẳng hạn qua ma túy hay những cách tu tập mất cân bằng. Một số người khác đã có những trải nghiệm tự phát vì đó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

Nhưng dù sao thì thực tế như con đã trực nhận một cách xác đáng, là khi con nâng cao nhận biết của mình ngày càng cao hơn, khi con bắt đầu nâng cao nhận biết ra khỏi nhi nguyên để hướng về bất nhị, thì con cũng đang thoát khỏi các đối cực nhị nguyên. Con đang thoát khỏi những “cặp đôi” như Phật Gautama gọi như vậy, và do đó càng ngày sẽ càng có ít tương phản giữa các trải nghiệm tâm linh và sự trải nghiệm thường nhật của con – vì sự trải nghiệm thường nhật này đã được nâng lên nhưng nó được nâng lên lần hồi đến độ con có thì giờ làm quen với nó. Tới một điểm con sẽ có một tâm thái an bình hơn trước đây rất nhiều, nhưng con đã quen với nó rồi, cho nên nó chính là trạng thái nhận biết bình thường của con.

Khi con trải nghiệm sự hiện diện của một vị chân sư, trải nghiện này sẽ gần hơn hẳn với cái mà giờ đây đã trở thành tâm thái bình thường của con, trong khi nó vẫn khác xa với tâm thái cũ của con. Chẳng hạn, vị sứ giả này đã từng kinh qua một số trải nghiệm mãnh liệt khi ông còn trẻ. Và thỉnh thoảng vẫn có người cho rằng ông phải luôn luôn có trải nghiệm mãnh liệt khi ông tương tác với các chân sư hay khi ông nhận một bài truyền đọc. Nhưng như chính ông đã có giải thích, một khi ông đã nâng cao tâm thức thì sự tương phản không còn đó nữa. Ông chỉ nỗ lực giữ tâm thái cho trung hòa, và khi đó, ông không trải nghiệm hiện diện của các chân sư như một sự kiện kịch tính, hay một sự kiện khác dữ dội so với tâm thái bình thường của ông.

Hiển nhiên là nó cũng có khác, và có những lúc trải nghiệm này có thể mạnh mẽ hơn. Nhưng tuy vậy, con cần nhìn nhận ở đây là khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, thì kịch tính cùng sự tương phản sẽ càng ngày càng ít đi. Con ngày càng có ít những trải nghiệm gọi là “tột đỉnh”, vì theo một nghĩa nào đó, trạng thái tâm thức bình thường của con đã trở thành một trải nghiệm tột đỉnh.

Thiền tỉnh giác thuần khiết so với hòa điệu với chân sư

Hỏi: Liệu các chân sư thăng thiên có xem thiền quán, đặc biệt là thiền tỉnh giác thuần khiết, có là một dụng cụ hữu hiệu để hoà điệu với Hiện diện TA LÀ và các chân sư hay không? Liệu môt hành giả chưa quen với giáo lý của chân sư và cũng chưa quen với thiền quán, khởi sự học thiền như một phương tiện hòa điệu? Liệu một hành giả đã có kinh nghiệm thiền quán sử dụng thiền quán như một phương tiện hòa điệu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Có rất nhiều hình thức thiền quán khác nhau. Có một số pháp thiền nhằm mục đích cho con một sự tỉnh thức mà con có thể gọi là trần truồng, hay tỉnh thức thuần khiết. Con đi vào một trạng thái của tâm mà chúng tôi đã có mô tả là cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức bình thường của nó và chỉ trải nghiệm chính nó là sự tỉnh thức thuần khiết. Đây là một phương tiện hữu ích cho hầu hết mọi người. Có một số người không nên sử dụng vì họ chưa sẵn sàng, nhưng đối với nhiều người, đó có thể là một dụng cụ hữu ích.    

Khi nói vậy, ta không muốn nói là mọi học trò của chân sư đều phải tu tập cách này. Tuy nhiên theo như dụng ý của câu hỏi được đề ra, ta không cho là cách thiền này thích hợp cho sự hòa điệu. Mục đích của cách thiền này là để giúp con kinh nghiệm được sự tỉnh giác thanh tịnh, tỉnh giác trần truồng, tỉnh giác không có ý tưởng, không có bất kỳ cấu trúc nào. Điều này hữu ích ở chỗ con nhận ra là có một trạng thái khác hơn là trạng thái nhận biết bình thường của mình chứa đầy những ý tưởng, cảm xúc và cấu trúc. 

Nhưng để hòa điệu với chân sư thăng thiên, con không cần tỉnh giác thuần khiết, tỉnh giác trống không, mà con cần hòa điệu với rung động của chân sư. Và để làm vậy, ta khuyên con nên dùng các bài chú, bài thỉnh, đặc biệt là những người mới tu.

Con thường nhận thấy là nhiều người mới học giáo lý cần trải qua một giai đoạn để họ thiết lập sự bảo vệ tâm linh, biến đổi các năng lượng thiếu hài hòa trong bốn thể phàm của họ, và họ cầu thỉnh Astrea để cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc với tâm thức tập thể hay các sinh thể thấp kém. Trong giai đoạn đó, việc hòa điệu có thể khó khăn, và việc chiêm nghiệm tỉnh giác thanh tịnh cũng có thể khó khăn. 

Nhưng nếu con vượt qua được giai đoạn này, con vẫn có thể sử dụng các bài thỉnh và bài chú. Chỉ thỉnh thoảng, con hãy tĩnh lặng. Con hãy ngồi đó và giữ cho tâm trí mình mở rộng, trung dung. Điều này không có nghĩa là con không có bất cứ ý tưởng nào, và chắc chắn con không cần phải cố sức kìm nén tư tưởng lại, mà con chỉ làm thế nào ở trong một trạng thái mở rộng, trung dung nhất. Sau khi con đọc xong bài chú, sau khi con nghe xong một bài truyền đọc, con chỉ cần dành ra một vài phút để ngồi đó và hòa điệu với sự hiện diện của chân sư. 

Tất nhiên, con cũng có thể dành hẳn ra một tuần cửu nhật để cầu nguyện. Chúng tôi có tuần cửu nhật cho vị Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, và con đọc chú cho vị ấy mỗi ngày chín lần, và sau khi đọc chú, con có một quyển sổ để con ghi chép lại bất cứ ý tưởng nào hiện ra trong con mà không phê phán hay phân tích. Con cũng có thể làm điều tương tự với bất cứ vị chân sư nào có bài chú. Nếu con thích hơn, con thể làm điều đó sau khi nghe một bài truyền đọc, con thực tập với một cây bút với một quyển sổ tay, và con ghi xuống bất cứ ý nghĩ nào đến với con, không phán xét và không phân tích.

Quyết định với tâm vỏ ngoài hay được nhắc bởi trực giác

Hỏi: Con mong muốn phụng sự các chân sư thăng thiên. Hiện nay con đang giúp một nhóm người không nói tiếng Anh theo học giáo lý của các chân sư. Chúng con đến từ nhiều quốc gia và gặp nhau trực tuyến. Các thày có nghĩ là con nên mở rộng dịch vụ và gia nhập, hoặc gặp tận mặt, những nhóm học bằng Anh ngữ trong thành phố của con, hay một nhóm trực tuyến bằng Anh ngũ gồm người từ nhiều thành phố tại nước con? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Nói chung, chúng tôi không bình luận về loại câu hỏi này vì chúng tôi không muốn nói riêng cho cá nhân con những gì con cần làm. Điều này phải đến từ bên trong và con có khả năng đạt được câu trả lời từ bên trong. Cho tới khi nào con cảm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ từ nội tâm thì con hãy cứ tiếp tục những gì mình đang làm. Rồi con sử dụng trực giác để nhìn thấy đường đi. Đừng bước vào tâm vỏ ngoài và dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình mà bảo rằng đây là điều mình nên làm.     

Một điều chúng tôi thường thấy là có những học trò tìm được giáo lý, vô cùng tha thiết làm điều gì đó ích lợi cho địa cầu. Mong muốn này đặc biệt mạnh mẽ nơi các avatar, nhưng ngay cả một số dân cư nguyên thủy của địa cầu cũng có mong muốn đó. Các con tìm được giáo lý xong các con như thể bị choáng ngợp trong sự nhiệt tình, và các con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định là tôi phải làm điều này, tôi phải làm điều kia.

Nhưng điều chúng tôi luôn khuyên nhủ là các con hãy sử dụng giáo lý để nhìn vào tâm lý mình, làm việc trên tâm lý mình, phát hiện những cái ngã đang chặn đường mình. Rồi con hãy sử dụng trực giác để quyết định – đúng hơn, không quyết định – mà chỉ đơn giản xuôi theo bất cứ gì đến với con từ bên trong, hầu con không có định kiến là con phải làm gì và con không tự ép mình làm như thế. Con hãy bỏ ra thời gian, dù là hàng năm trời, để bước vào bên trong nội tâm hầu tăng cường trực giác, giải quyết tâm lý của mình. Rồi khi mọi chuyện đến với con từ bên trong một cách tự nhiên, không cố gắng, con hãy theo đó mà hành động.   

Vi-rút là gì?

Hỏi: Vi-rút là gì? Trong Bài thỉnh cho Thế giới số 38, “Thỉnh Astrea tiêu hủy vi-rút corona”, đoạn 6 của phần 4 viết: “Astrea yêu dấu, chúng con kêu gọi vòng tròn và thanh gươm của thày trói chặt các ma quỷ, hồn bóng và sinh thể sa ngã, và đập vỡ cái khuôn mẫu năng lượng đang ngăn cản bản chất của vi-rút được phơi bày, ngăn cản những cách sử dụng tần số năng lượng đặc thù để tiêu diệt mọi loại vi-rút”.  Vậy thì câu hỏi là, thực sự vi-rút là gì? Thày có cái nhìn nội giác nào sâu xa hơn về việc chúng ta có thể dùng một số tần số năng lượng nhất định để tiêu diệt bất kỳ loại vi-rút nào?”


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Ta không muốn đi quá sâu vào một cuộc bàn luận kỹ thuật vì điều này vượt quá kiến thức của vị sứ giả này. Ông không nắm những khái niệm để có thể nhận được giáo lý này và chuyển thành lời nói. Nhưng chúng ta có thể nói được là vi-rút có thể được hiểu ở tầm mức năng lượng như là một dạng rung động đặc thù.   

Tất nhiên bất cứ gì, tất cả mọi thứ đều là năng lượng, cho nên mọi thứ đều có thể hiểu được ở mức độ năng lượng. Bất kỳ loại bệnh tật nào trong cơ thể cũng có thể được hiểu ở mức độ năng lượng. Và con đã nhận được giáo lý nói rằng con có khả năng biến đổi một dạng năng lượng thấp bằng cách hướng vào đó một sóng năng lượng cao tần hơn, hay một rung động cao hơn, và khi đó con có thể chuyển hóa năng lượng thấp.   

Có thể nói, vi-rút cũng như vi khuẩn và nhiều bệnh tật khác trong cơ thể là một khuôn đúc năng lượng đặc thù. Tất nhiên là đằng sau phải có một ý tưởng nào đó, nhưng cũng có một bộ phận năng lượng mà qua đó vi-rút có thể được bẻ nhỏ ra thành từng tần số năng lượng, thành từng sóng năng lượng nhất định. Và khi con có thể nhận diện các sóng năng lượng này, tần số của chúng, đặc tính rung động của chúng, thì con có thể thiết kế một sóng năng lượng sẽ chuyển hóa năng lượng của vi-rút cho cao hơn, tức là trong bản chất, con sẽ giải thoát năng lượng khỏi cái khuôn đúc sinh tạo vi-rút.

Kỹ thuật này từ rất lâu mang tên là ngành y học năng lượng. Một số người đã có dịp nghiên cứu và thử nghiệm ngành y học này từ thời trước Thế chiến Thứ hai, đặc biệt là một vị tên là Rife sáng chế ra máy phát tần số Rife. Đây là một phát minh phần nào có giá trị.

Tuy nhiên phát minh này đã bị cố tình bưng bít, một phần bởi công nghiệp dược phẩm khi họ hiểu ra là họ không thể kiếm được nhiều tiền với máy này so với các loại thuốc hóa học. Nhưng cũng có sự bưng bít bởi ý thức hệ duy vật vì họ không thể chấp nhận là mọi thứ đều là năng lượng cùng với những hệ quả của khám phá này, bởi nó sẽ làm lung lay lời quyết đoán của các nhà duy vật rằng không có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất.  

Một khi con nhìn nhận, thực sự nhìn nhận, rằng mọi thứ đều là năng lượng thì con hiểu ra là phải có những rung động năng lượng vượt khỏi những gì hiện được coi là rung động vật chất. Và điều này, tất nhiên, chỉ ra mối liên hệ giữa vật chất và tâm thức, cũng như khả năng tâm thức có thể ảnh hưởng năng lượng. Và nếu vật chất được tạo bằng năng lượng thì tâm thức cũng có thể ảnh hưởng vật chất, và đây là điều tuyệt đối cấm kỵ trong ý thức hệ duy vật. 

Hiển nhiên là trên thế giới có những người hiểu biết về lãnh vực này nhiều hơn là sứ giả ở đây. Họ đã có thử nghiệm từ khá lâu và chỉ là một vấn đề thời gian trước khi có sự đột phá và một sự công nhận rộng rãi hơn.

Một lần nữa, vấn đề ở đây là cần nhận ra rằng cái nhìn ý thức hệ về y học đang chế ngự nền y học quy ước chỉ đơn giản là một cái nhìn ý thức hệ. Cái nhìn này đang hạn chế nền y học, giới hạn cách chữa trị rất nhiều loại bệnh tật. Đây là vấn đề phải quay trở về phương pháp tiếp cận thử nghiệm và nói rằng: chúng ta không nhất thiết cần đến một ý thức hệ về thế giới tâm linh hay về cách vận hành của năng lượng, mà chúng ta cần sẵn sàng thử nghiệm. Chúng ta chỉ cần hỏi: có thể nào phát ra những rung động năng lượng chữa lành một số bệnh tật hay không? Liệu nó có giúp được con người, và nếu nó giúp được thì mặc dù ý thức hệ là gì hay chúng ta chưa hiểu được hoàn toàn, chúng ta cũng phải thực hiện thử nghiệm và tìm ra những cách chữa trị giúp nhân loại.    

Làm thế nào khiến cho vật chất ca hát

Hỏi: Saint Germain thân yêu, thày có giảng là đối với một số người, sứ vụ thiêng liêng của họ bao gồm việc làm cho vật chất ca hát. Xin thày có thể giải thích thêm về điểm này? Khi con đọc đến lời dạy này, đây là một điều mà con có ác cảm, và con cảm thấy nó không áp dụng cho con. Nhưng bây giờ thì con bắt đầu cảm thấy không phải như vậy, và đó chỉ là một khía cạnh của tự ngã đang phóng chiếu để khiến con không nghĩ việc này có thể nằm trong sứ vụ thiêng liêng của mình. Xin thày vui lòng giải thích nhiều hơn về loại công việc phụng sự mà một người có thể làm khi việc đó nằm trong sứ vụ thiêng liêng? Làm thế nào một người có thể gặp được một số tình huống trong đời có thể tạo cơ hội cho mình làm cho vật chất hát lên?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Con có thể làm cho vật chất ca hát bằng nhiều cách. Con làm cho vật chất hát khi con nâng cao tâm thức mình và đạt tới tâm thức Ki-tô. Con làm cho vật chất hát khi con tốt bụng và thương yêu người khác. Nhưng dĩ nhiên, có những cách trực tiếp hơn cũng làm cho vật chất ca hát.

Khi con đọc bài chú và bài thỉnh, con làm cho vật chất ca hát vì con gửi những rung động này vào bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Tự thân công việc này nâng cao độ rung của vật chất, thậm chí cả nguyên tử, phân tử cùng các loại hạt khác, khiến cho vật chất bắt đầu rung lên ở một mức độ cao hơn. Câu “làm cho vật chất ca hát” là một cách biểu tượng để nói rằng cõi vật chất rung động ở mức độ tự nhiên của nó. Khi con gửi một làn sóng năng lượng cao tầng vào vũ trụ vật chất, con khiến cho chính vật chất rung lên ở một mức độ cao hơn, và đó là ý nghĩa của câu “làm cho vật chất ca hát”.     

Âm nhạc và ca khúc cũng có khả năng tạo ra hiệu ứng như vậy. Một số nhạc sĩ chơi loại nhạc êm ái, hài hòa, cũng có thể làm cho vật chất hát. Khi người ta hát xướng, chẳng hạn, trong một nhóm lớn, họ cũng có thể làm cho vật chất hát. Ngay cả khi người ta nói chuyện, diễn thuyết về một đề tài nào đó và khiến cho cử tọa xúc động, hay khiến cho cử toa thấy được một điều gì mà họ chưa từng thấy bao giờ, thì một sự rung động cũng được tỏa ra làm cho vật chất hát. Khi người ta đến với nhau trong một buổi hội họp với tinh thần kết hợp và tâm thức tích cực, thì họ cũng khiến cho vật chất ca hát.    

Vượt ra khỏi cái nhìn ý thức hệ về thiên nhiên và động vật

Hỏi: Loài người chúng ta chia sẻ Trái đất này với một nhóm sinh vật khác cũng có tri giác là động vật. Động vật là gì, và tâm thức nào đang trải nghiệm cõi vật lý qua giác quan của động vật? Thế nào là cách hay nhất để chúng ta tương tác và hợp tác với động vật? Thêm một vài điểm nữa để suy ngẫm… Có phải là trong quá khứ, loài người và các sa nhân đã có đóng một vai trò trong việc phát triển các loài động vật hay không? Liệu động vật cũng có cảm thể, trí thể và bản sắc thể? So với con người thì động vật sinh hoạt thế nào trong những cõi đó? Con từng đọc rằng các nhân vật động vật trong phim hoạt hình và sách dành cho trẻ em là do sa nhân tạo ra. Tại sao lại xem chuyện thú vật cư xử như con người là một điều xấu? Còn điểm nào nữa về động vật cần được nói tới hay không?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Các chân sư đã có đưa ra một số lời dạy về động vật. Thày Maitreya đã có đề cập trong quyển sách của thày, “Những chìa khóa chủ yếu để đạt tự do tâm linh” (Master Keys to Spiritual Freedom). Riêng ta cũng đã có nói tới trong quyển “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth) và còn một số lời dạy khác nữa. Điều ta muốn nói ở đây, như thày Maitreya đã trình bày, là khi hành tinh này được sáng tạo, hành tinh được tạo dựng với bốn tầng của vũ trụ vật chất: tầng bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý. Nhưng khi những sinh thể tự nhận biết đầu tiên đi xuống địa cầu, các sinh thể này đã không xuống ngay cõi vật lý, mà trước hết họ đi xuống cõi bản sắc, rồi cõi lý trí, rồi sau đó là cõi tình cảm. Nhưng ngay từ buổi đầu sáng tạo địa cầu, đã có một tiến trình do các Elohim khởi xướng mà các nhà khoa học mô tả là quy trình tiến hóa. Quy trình này diễn ra trong cả ba cõi cao kia nhưng nó nhắm chủ yếu vào cõi vật lý. Và như vậy, tiến trình này đã tạo ra sự sống, xong qua từng giai đoạn khác nhau, đã đưa đến các dạng sống cao hơn.

Như thày Maitreya giải thích, sự sống xuất hiện lần đầu không là một sự kiện ngẫu nhiên, hên xui may rủi. Đó không phải là một tiến trình vật chất. Khi các quá trình địa chất đã đạt tới một điểm chín muồi thì chính các Elohim đã ra tay khởi xướng sự sống. Sau đó trong suốt một thời gian, các dạng sống ban sơ này đã được để yên cho tiến hóa theo các nguyên tắc vận hành được định trước cho cõi vật lý. Rồi tới một điểm, các sinh thể đa tế bào đã được hình thành, rồi những dạng sống phức tạp hơn đã tiếp theo sau, và cứ như thế…

Các Elohim đã can thiệp mấy lần, mỗi lần như thế để nâng sự sống lên một tầm cao mới, xong lại để yên cho cuộc tiến hoá tiếp diễn. Khi con nhìn các mốc thời gian trong quá trình mà các nhà khoa học duy vật đưa ra thì không hoàn toàn sai đâu, chỉ duy có điều là cần điều chỉnh lại vì dòng thời gian trên hành tinh này đã không luôn luôn xuôi chảy một cách đều đặn.    

Dẫu vậy, sự sống vật lý đã xuất hiện cách đây rất nhiều triệu năm và suốt thời gian này, quy trình tiến hoá đã lần hồi hình thành các dạng động vật mà con thấy ngày nay. Hiển nhiên, điều không được các nhà duy vật thừa nhận vì nó đi ngược lại chủ nghĩa duy vật, là tiến trình này đã không tự nó xảy ra, không phải là một tiến trình ngẫu nhiên. Các nhà theo thuyết tiến hóa không thể giải thích được tại sao lại có những bước nhảy vọt đột ngột khi một dạng sống mới, hay nhiều giống động vật mới, bỗng nhiên xuất hiện, và đó là do có bàn tay can thiệp từ cõi tâm linh. Nhưng cũng có những khoảng thời gian rất dài trên địa cầu khi cuộc tíến hóa đã được phép tiếp diễn theo quy trình dựa trên các nguyên tắc mà các đấng Elohim đã hoạch định.   

Từ tiến trình này đã nẩy sinh ra nhiều loài động vật khác nhau. Câu hỏi là, liệu các loài này có phải là những loài cao nhất có thể được sinh ra? Thưa không, không phải là cao nhất. Nhưng chúng phù hợp với các nguyên tắc thiết kế của địa cầu. Và tất nhiên ngay từ thời điểm các sinh thể tự nhận biết bắt đầu giáng thế trong cõi bản sắc rồi tiếp theo là các cõi thấp hơn, thì đã luôn luôn có một mối liên hệ giữa những sinh thể này với cõi vật lý, bởi vì dòng năng lượng cùng các khuôn đúc, các hình ảnh và ý tưởng đã không ngừng xối xuống từ cõi bản sắc vào các cõi lý trí, tình cảm và vật lý.

Nói chung, sự xuất hiện của các dạng động vật đầu tiên đã trùng hợp với sự giáng thế của các sinh thể tự nhận biết từ cõi tâm linh xuống cõi bản sắc. Có thể nói gần như ngay từ đầu, các sinh thể tự nhận biết đã có ảnh hưởng do đã hiện thân trên địa cầu dẫu là chưa hiện thân trong cõi vật lý. Họ đã ảnh hưởng sự tiến hóa của các giống động vật qua tâm thức của họ.

Tất nhiên trong tiến trình đó cũng đã tới lúc con người bị rơi vào vòng nhị nguyên, và sự kiện này đã thay đổi dòng tiến hoá của động vật một cách thật lớn lao. Thật là không sai khi bảo rằng loài người khi đầu thai đã ảnh hưởng một cách to lớn trên sự tiến hóa của các loài động vật, bởi vì động vật có xu hướng khoác lấy những hình tướng hiện diện trong tâm thức của những người bị rơi vào nhị nguyên.  

Thật ra động vật đã xuất hiện trên trái đất lâu đời hơn rất nhiều so với những khám phá của khoa học hiện nay. Khi nhìn vào cái gọi là những di tich hóa thạch, thật sự những di tích này không đưa chúng ta ngược trở về điểm xuất hiện đầu tiên của sự sống, bởi vì khi sự sống xuất hiện lần đầu, nó đã khoác lấy những dạng sống cao hơn những gì có thể tìm thấy trong di tích hóa thạch. Những gì chúng ta tìm thấy trong di tích hóa thạch là kết quả tác động của biến cố sa ngã khi các sinh thể tự nhận biết rơi vào vòng nhị nguyên, là những sinh thể đầu thai mà ngày nay chúng ta gọi là con người.     

Dù sử dụng ngôn ngữ thế nào thì điều chủ yếu cần hiểu ở đây là thiên nhiên trên địa cầu không hề tự nhiên. Thiên nhiên trên địa cầu không phải là cách duy nhất có thể diễn ra. Kỳ thực, đó là một phiên bản thấp kém hơn rất nhiều so với tiến trình đã được hoạch định, thấp kém hơn những gì đáng lý đã xảy ra ra nếu các sinh thể tự nhận biết không rơi vào nhị nguyên.   

Không có nhu cầu phải có các loài động vật ăn thịt để duy trì sự cân bằng của thiên nhiên. Không có nhu cầu phải có những động vật ăn thịt động vật khác. Các loài động vật đều có khả năng phát triển và tiến hoá trong sự hài hòa toàn diện mà không cần phải nâng cao dân số của giống mình một cách giả tạo, vượt quá nguồn cung cấp thực phẩm.  

Trên cơ bản, có thể nói rằng không một loài động vật nào trên hành tinh hôm nay là hoàn toàn tự nhiên. Và điều này có nghĩa là tất cả động vật đều đã bị tâm thức loài người, tâm thức tập thể, tác động. Và cũng có nghĩa là một khi tâm thức con người được nâng lên, điều không thể tránh được là sự kiện nhiều loài động vật hiện có mặt trên trái đất sẽ bị tuyệt chủng. Hiện nay rất, rất nhiều người có thiện chí, nhiều người trong số 10% hàng đầu về mặt tâm thức, đang vô cùng lo ngại một số loài động vật sẽ bị diệt chủng, và họ cảm thấy việc bảo tồn các loài này thật quan trọng.

Tuy nhiên trong cái nhìn thực tế từ cõi thăng thiên, có thể nói là các loài này đã không tiến hóa một cách tự nhiên, và cũng đã không tiến hóa đúng theo viễn quan tâm linh cao nhất. Chúng là biểu hiện tạm thời của tình trạng tâm thức thấp kém mà nhân loại đã phóng chiếu vào các loài động vật. Và do đó khi nhân loại nâng cao tâm thức thì các loài này sẽ tuyệt chủng một cách tự nhiên – nếu có thể nói như vậy. Bởi vì khi cái khuôn đúc tạo sinh đã khiến cho các động vật này khởi hiện, khi cái tâm thức đó không còn hiện hữu nơi các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm nữa, thì hình tướng nơi cõi vật lý cũng không làm sao duy trì được.

Các nhà khoa học hay ưa nhắc đến một giai đoạn trong kỷ nguyên Cambri khi một cuộc đại tuyệt chủng đã xảy ra. Họ đưa ra giả thuyết là vì có một thiên thạch rơi trúng địa cầu mà rất nhiều động vật đã bị tiêu diệt, loài khủng long bị tuyệt dần và các loài động vật có vú xuất hiện. Kỳ thực, sự kiện này xảy ra vào đúng thời điểm một nền văn hiến trên địa cầu nâng cao tâm thức một cách ngoạn mục, khiến cho các loài thấp như khủng long phải biến mất trong khi các loài cao hơn là loài có vú xuất hiện.    

Nhưng thôi, chúng ta không cần đi quá sâu vào vấn đề này, mà chỉ cần nói là ngày nay, các nhà khoa học đang xôn xao về một cuộc đại tuyệt chủng thứ nhì có thể sắp xảy ra, do dân số nhân loại quá đông đúc, công nghệ và ô nhiễm tràn lan và nhiều yếu tố khác nữa. Nhưng thực tế là địa cầu là một hành tinh được thiết kế cho sự phát triển của nhân loại chứ không cho động vật, và do đó động vật chỉ đơn giản là một hiệu ứng phụ so với cuộc tiến hóa của nhân loại. Cho nên điều thực sự đang khiến cho nhiều loài động vật bị tuyệt chủng ngày nay không phải là do dân số nhân loại tăng trưởng, không phải là do ô nhiễm hay công nghệ bành trướng, mà là do tâm thức tập thể đang nâng cao, và như vậy các loài động vật đó không thể tồn tại trên hành tinh được nữa.       

Khi con là một học trò tâm linh, khi con đã mở tâm ra với giáo lý của chân sư thăng thiên, điều quan trọng là con phải nhìn vào chính con. Con đang có thái độ thế nào đối với động vật, có ý thức hệ gì về động vật, rồi con sẽ cố vượt qua tất cả mọi cái nhìn thiếu thực tế, mọi cái nhìn đầy cảm tính cho rằng động vật phải được bảo tồn bằng mọi giá, kể cả cái giá phải hạn chế xã hội lẫn sinh hoạt loài người.  

Nếu con muốn diễn tả điều này từ một góc độ rộng lớn hơn, con có thể nói rằng động vật được sinh ra là để phục vụ loài người. Đã có những thời khi xã hội loài người bị thoái hóa xuống mức sơ khai đến độ chỉ một vài người có thể tồn tại trên trái đất. Vì không có công nghệ tinh xảo nào trong tay, họ đã phải sống sót bằng cách săn thú và ăn thịt thú vật.

Ngay cả ngày nay, ở một mức độ nào đó, để duy trì xác thân vật lý của mình, con người vẫn phải tiêu thụ protein từ động vật, bởi vì mức độ dày đặc hiện thời của vật chất không cho phép xác thân con người hấp thụ đươc dễ dàng từ thức ăn thực vật. Tất nhiên là sự thể này sẽ không kéo dài mãi mãi, và một ngày sẽ đến khi nhu cầu ăn thịt động vật sẽ không còn nữa.   

Nhưng trong hiện tại thì chúng ta chưa đạt đến mức đó, cho dù một số người đã đi theo ý thức hệ cho rằng họ có thể sống còn mà không cần ăn thịt, và một số khác thì đã thực hành được chuyện đó ít ra là tạm thời, nhưng chắc chắn đây không là điều mà đa số mọi người có thể làm được. 

Chúng ta thấy được – nếu có thể dùng thuật ngữ này – là động vật cảm thấy hài lòng khi có thể phục vụ con người trong bất kỳ nhu cầu nào của con người. Cho nên cũng có thể nói là động vật – hay ít ra những tinh linh (elementals) đứng đằng sau động vật, đứng đằng sau sự sinh tạo động vật – cảm thấy hài lòng khi để cho một loài biến mất do không còn cần thiết nữa, hay khi loài đó giảm dân số do không còn đáp ứng được nhu cầu của con người.

Tất nhiên là vấn đề này còn rất nhiều điểm khác nữa có thể bàn tới. Nhưng ta cảm thấy những gì đưa ra ở đây cũng đã tạm đủ để một số các con có thể bắt đầu xét lại cái nhìn của mình về động vật, xét xem liệu mình đã có chấp nhận một số ý thức hệ liên quan tới thiên nhiên và động vật do các sa nhân tung ra để đánh bẫy những người tâm linh – kể cả những avatar là người đến từ hành tinh khác để cứu giúp địa cầu – hầu họ bị lạc lối vào ngõ cụt, để rồi họ tự tước mất cơ hội phát triển do muốn bảo tồn thiên nhiên.    

Không có nhu cầu bảo tồn thiên nhiên. Thiên nhiên phục vụ con người. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là con trở thành cực đoan và cho rằng con người có quyền làm bất cứ điều gì mình muốn và tạo ô nhiễm cho môi trường, bởi vì nếu làm vậy thì chính con người sẽ chuốc lấy những hậu quả tồi tệ. Con người cũng có thể xem thiên nhiên là một vị thày. Chẳng hạn như khi con người gây ô nhiễm, hủy hoại một loài động vật, một rạng san hô hay một hệ sinh thái – cho dù là không hề có hệ sinh thái trong nghĩa hẹp – thì đó tất nhiên là một bài học khi con người thấy mình sẽ gây nguy hại cho chính mình nếu mình không ra tay. Động vật có khả năng phục vụ con người bằng nhiều cách, và một trong những cách đó là dạy chúng ta một bài học qua lời cảnh báo về hậu quả của việc làm của mình.       

Chắc chắn là trong thời hoàng kim, các xã hội loài người sẽ không còn gây ra ô nhiễm, không còn hủy hoại thiên nhiên, mà sẽ tạo dựng một môi trường được thiết kế để phục vụ con người. Điều này có nghĩa là nhiều khu vực mà hiện nay con xem là thiên nhiên sẽ trở thành những nơi sinh sống của con người. Thậm chí một số vùng sẽ có dân cư đông đúc khiến cho động vật đang sống nơi đó sẽ không thể tồn tại. Nếu con nhìn vào Phi châu một cách thực tế, con có thể đoán trước là để cho người dân châu Phi đạt được một mức sống cao hơn bây giờ, điều cần xảy ra là rất nhiều loài động vật lớn hiện đang sống trên thảo nguyên sẽ phải tuyệt chủng. Đây là điều không thể tránh được, tương tự như các loài động vật lớn xưa kia đã từng sinh sống ở Bắc Mỹ hay Âu châu. Đây là một tiến trình bắt buộc nếu chúng ta muốn kéo người châu Phi ra khỏi nghèo đói.    

Về các dạng hình học thuần túy

Hỏi: Saint Germain thân kính, con nghe nói ở cõi thăng thiên có những hình dạng hình học thuần túy. Khi các dạng hình học này được vận chuyển qua bốn tầng của tâm, điều gì xảy ra cho chúng khi trên bảy tia sáng có những tạp chất ô nhiễm? Có sự liên hệ nào chăng giữa các dạng hình học này và một tầng nào đó của tâm? Liệu các tà lực có thể sử dụng một số dạng hình học nào đó trong vật chất, hay họ có thể hình dung ra để bòn rút năng lượng từ mọi người? Và nếu vậy thì liệu có những dạng hình học có thể được sử dụng để nâng cao con người hay chăng? Xin thày làm ơn đưa ra một ví dụ về một dạng hình học thuần túy?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels trong buổi Webinar 2121 – Chấm dứt Thời đại của Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Ồ, thật là không dễ mà dùng lời nói để mô tả các dạng hình học thuần túy có mặt nơi cõi tâm linh hay nơi các tầng cao của cõi bản sắc, bởi vì chúng vượt khỏi lời nói. Các dạng hình học này không được cấu tạo bằng từ ngữ. Đó là tại sao chúng tôi có nói là khi chúng tôi đưa ra một bài truyền đọc nào đó, thật sự là chúng tôi đang truyền rải một số dạng hình học. Khi các dạng hình học này vận động qua bốn tầng của vũ trụ vật chất hay bốn tầng của tâm sứ giả, chúng được chuyển thành lời nói. Và nếu con muốn thực biết các dạng này, con cần phải chiêm nghiệm trực tiếp bởi vì không có cách nào để mô tả bằng ngôn từ, và chúng sẽ chỉ là lời mô tả mà thôi. Nhưng đúng là có những dạng hình học như thế.

Ta biết là khi ta nói về dạng hình học, con sẽ nghĩ ngay đến hình tròn hay hình vuông hay hình tam giác, là những thứ người ta thường gọi là dạng hình học trên địa cầu. Sự thực là các dạng hình học ở cõi tâm linh phức tạp hơn rất nhiều.  Chúng không chỉ là các dạng đơn giản mà con thấy trên trái đất. Những gì con thấy trên trái đất chỉ là một số hình dạng tâm linh đã được chuyển dịch khi chúng đi xuống cõi vật chất xuyên qua bốn cõi.

Con có thể thấy được là ở cõi trần, các hình thể được kiến tạo dựa theo các dạng hình học đó. Nếu con nhìn thiên nhiên thay vì nhìn những đồ vật do con người chế tạo, con sẽ thấy có một sự khác biệt trong dạng hình học.

Dạng của thiên nhiên phức tạp hơn nhiều, mà có người gọi là bộ Mandelbrot (Mandelbrot sets), tức là một sự tạo dựng hình học hay toán học có khả năng tự nó lặp đi lặp lại, tự sinh sản nhiều lần – và tùy theo người nhìn đứng ở quy mô nào, to hay nhỏ, gần hay xa, người đó sẽ thấy chúng hiện ra khác nhau. Trên bản chất, người ta có thể gọi đó là những hình chụp ba chiều (holography). Nhưng con thấy không, tâm thức tập thể của loài người hiện nay còn thấp cho nên con người không có khả năng tạo ra những dạng hình học phức tạp như con có thể thấy trong thiên nhiên. Vì vậy, con người bắt buộc phải xây dựng nhà cửa hay vật dụng công nghệ dựa theo các dạng đơn giản của hình vuông, hình tam giác, hình tròn, vân vân, là những gì mà con người hiện thời có thể nắm bắt.

Nhưng con cũng thấy được điều này sẽ giới hạn như thế nào đối với những gì con người có thể xây cất, những loại máy móc mà con người có thể thiết kế, bởi vì tất cả chỉ dựa theo một số hình thể quá đơn sơ. Trong một nghĩa nào đó, cũng có thể nói đây là những hình dạng cố định. Đó là tại sao chúng tuân theo một số định luật toán học đơn giản. Tam giác luôn luôn có một dáng vóc nhất định, và góc tam giác cũng theo một quan hệ hình học nhất định. Hình vuông, hình tròn, vân vân, cũng tương tự như thế. Đây là những gì mà con người có thể nắm bắt được thời xưa, thậm chí cả các nhà hiền triết Hy lạp Cổ cũng phải đáp ứng với một tâm thức tập thể thô sơ hơn bây giờ.   

Nhưng những dạng hình học này, con người vẫn chưa hẳn thay thế được cho dù ngày nay đã tạo ra rất nhiều hình thức toán học phức tạp hơn. Điều ta muốn nói là mọi thứ mà con thấy trong cõi vật lý đều là, theo một nghĩa nào đó, sự thị hiện của một dạng hình học nào đó nơi cõi tâm linh – tất cả đều khởi nguồn là một dạng hình học nơi cõi tâm linh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là khi đi xuống cõi ether, sẽ có một liên hệ trực tiếp, một đối một, giữa “bản chính” và “bản dịch”. Và tương tự như thế, cũng không có sự liên hệ trực tiếp nào khi dạng tiếp tục đi xuống các cõi lý trí, tình cảm, vật lý. Đó là vì trong tiến trình chuyển dịch dạng nguyên thủy từ cõi tâm linh xuống cõi vật lý, hiển nhiên đã có sự tác động của toàn tâm thức nhân loại, của từng cá nhân lẫn của tâm thức tập thể.   

Do đó con không thể lấy một hình dạng trên địa cầu rồi cố đoán ngược lên xem hình dạng ở cõi tâm linh là thế nào, bởi vì đã có sự biến dạng, bóp méo. Và đó là lý do không có cách nào mô tả bằng lời nói những dạng hình học tâm linh. Nếu tâm con đủ cởi mở, con có thể hoà điệu với các dạng tâm linh và chiêm nghiệm chúng trong tâm thức con, nhưng con sẽ cần bước vượt ra ngoài ngay cả thể bản sắc của con.

Và điều xảy ra là khi dạng hình học bị chệch hướng thì chúng tạo ra nhiều sự tha hóa. Nói cách khác, tỷ như con lấy một hình dạng nào đó ở cõi tâm linh, con phóng chiếu nó xuống cõi lý trí hay cõi bản sắc, thì tuy nó có thay đổi chút đỉnh nhưng nó không bị bóp méo, và nếu nó được chiếu tiếp xuống để thị hiện trong cõi vật lý thì nó không đến nỗi quá hư hại. Tuy nhiên hiện nay, bởi vì tâm thức tập thể còn thấp cho nên gần như không có hình dạng nào trên địa cầu còn thuần tuý được nữa. Cách này hay cách khác, chúng đều đã bị méo mó.  

Một yếu tố nữa, tất nhiên, là các sa nhân sau khi sa ngã đã tạo ra một số hình dạng không dựa theo hình dạng tâm linh. Vừa rồi ta có nói là mọi hình dạng trên trái đất đều phát xuất từ một hình dạng tâm linh, nhưng điều này không hoàn toàn đúng, bởi vì có một số hình dạng là do sa nhân tạo ra từ tâm thức sa ngã, và những hình dạng này thì không xuất phát từ cõi tâm linh. Chúng không hẳn là hình tư tưởng tâm linh đã biến thái. Theo một nghĩa nào đó, chúng vẫn phát xuất từ tâm linh bởi vì sa nhân không có khả năng sáng tạo được bất cứ gì hoàn toàn mới mẻ, nhưng chúng đã bị tha hóa đến độ không còn gì giống nữa, và nhất định là con không thể suy ngược trở lên “nguyên bản” ở cõi tâm linh.  

Và hiển nhiên các sa nhân đã phóng chiếu những hình dạng này vào tâm thức tập thể trên địa cầu đến độ nhiều người lầm tưởng đó là những loại hình dạng tối thượng, hay hình dạng thiên nhiên, thậm chí còn do Thượng đế tạo ra nữa. Đây là trường hợp của các ý thức hệ, là nền tảng của hầu hết các loại chủ nghĩa, những loại dạng hình học đã bị tha hóa. Chúng định ra là xã hội phải vận hành thế nào, vật chất phải vận hành thế nào, các định luật thiên nhiên phải vận hành thế nào, con người phải vận hành ra làm sao và do đó bị hạn chế như thế nào. Thật rõ ràng các sa nhân đã sử dụng những dạng hình học như vậy để bòn rút năng lượng từ loài người. Những con “quái vật” tập thể này trong cõi vía của tình cảm đã có thể thu hút năng lượng từ những ai tin vào chúng hay đã nhập chúng vào tâm mình.       

Bây giờ để cho con một ví dụ cụ thể là âm nhạc. Trong cõi tâm linh có một số dạng hình học về một số loại nhạc, những loại nhạc đưa con người đi lên, nâng cao sự sống, phát huy tâm thức, những loại nhạc khiến cho cả vật chất cũng phải ca hát theo. Một số nhạc sĩ cổ điển đã có khả năng hòa điệu với những dạng hình học đó, đem chúng xuống dưới một hình thể tương đối thuần khiết rồi chất chứa vào nhạc mình viết. Đó là lý do tại sao ngay cả thời nay, người ta vẫn có thể trải nghiệm được một cảm nhận tâm linh nào đó khi thưởng thức loại nhạc này. Nhưng trong số các nhạc sĩ hiện đại, thật là hiếm có người nào đạt được một tầm mức thuần khiết tương tự.

Trong khi đó lại có vô số những nhạc sĩ hiện đại, nhạc sĩ rock, nhạc sĩ rap, nhạc sĩ jazz, đã sử dụng các hình tư tưởng tha hóa hay những dạng hình học tha hóa do sa nhân chế tạo ra. Đó là tại sao họ sáng tác những thể nhạc chói tai, không khiến cho vật chất hát theo mà chỉ khiến cho độ rung của vật chất bị kéo thấp xuống, thậm chí còn làm cho vật chất bắt đầu phân hủy. Đó là một ví dụ thiết thực.  

Và sau đây là một số ví dụ nữa. Trong số các loài thú vật, con có thể nhận thấy một số được tạo ra theo hình dạng thấp kém. Như con thấy các loại bệnh tật, virút và vi khuẩn, chúng thể hiện các dạng hình học thấp kém. Trong khi đó thì một số loài khác lại tương ứng hơn với hình dạng nơi cõi tâm linh, chủ yếu là các loài chim chóc. Cũng vậy trong cõi thực vật, một số cỏ cây có dạng cao hơn và một số khác có dạng thấp hơn. Thật sự con có thể nhìn bất cứ gì trên trái đất này và thấy có những thứ hiển thị được hình tư tưởng tâm linh nguyên thủy cho dù chúng đã bị phần nào bóp méo, và có một số khác là biểu hiện của các hình tư tưởng thấp kém, những dạng hình học do sa nhân sản xuất.

Sa nhân có thể dùng những dạng hình học này để gắn nhập vào một chủ nghĩa nào đó. Và con thấy như chủ nghĩa Mác-xít chẳng hạn, họ chủ trương một nền kinh tế nơi người dân sản xuất theo khả năng và tiêu thụ theo nhu cầu hay ham muốn của mình. Hình tư tưởng này là do sa nhân chế ra, nó không liên hệ với một hình tư tưởng nào nơi cõi tâm linh, bởi vì như thày Gautama có dạy, nền kinh tế tâm linh đích thực là khi mọi người sinh sôi tài năng của mình bằng cách giúp đỡ người khác, tức là mọi người tự phát triển và phát triển khả năng cùng tâm thức rồi nhận được sự đáp trả gấp bội từ cõi tâm linh. Đây mới là yếu tố thực sự tăng gia thịnh vượng và khiến cho nền kinh tế được vững bền.  

Thật không có cách này tạo dựng một nền kinh tế hoàn toàn dựa trên các sinh hoạt vật lý mà thôi, và đó là lý do khi con lấy những dạng hình học do sa nhân phóng ra rồi đặt nên tảng cả nền kinh tế trên đó, thì phải có lúc nó sẽ tự hủy hoại.

Chấn thương nhập đời và cách tiếp cận trái đất

Hỏi: Con đã đi trên đường tu tâm linh một thời gian dài, và con hoàn toàn hiểu và chấp nhận khái niệm tự quyết cũng như những ngã tách biệt phản ứng. Nhưng con vẫn cảm thấy hoàn toàn yếu đuối trước những năng lượng và sự hung hãn của người khác. Cho dù con không chấp nhận những lời họ nói và những điều họ làm với con, con vẫn không thể thoát khỏi sự tấn công của họ. Nó giống như thể con đứng trước mặt họ hoàn toàn trần trụi và con không thể chống cự lại sự tấn công, con không thể tự vệ. Mặc dù con có một tâm thức khá phát triển, điều này không giúp ích cho con. Con vẫn cảm thấy nhiều đau đớn trong hầu hết mọi tương tác với thế gian. Con tương tác một cách rất tích cực và cố gắng biểu hiện tâm Ki-tô của mình, con cố tự biểu đạt trong tình thương, ánh sáng và tinh thần cống hiến. Con vẫn không thể thích nghi được với cách người ta hành xử và phản ứng hung hãn, cách người ta chối bỏ con, từ chối tình thương của con. Mặc dù con thông cảm, đó vẫn luôn luôn là một chấn động và một nỗi đau nhói. Xin thày chỉ cho con thấy những gì có thể con chưa thấy, những cái ngã nào có thể đang có mặt, và con có thể làm gì để tự giải thoát khỏi tính nhảy cảm và dễ tổn thương thái quá này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Con yêu dấu, những gì con mô tả là trải nghiệm mà hầu hết mọi avatar đến địa cầu đều trải nghiệm. Con đến đây với ý định giúp đỡ người khác. Con làm vậy do lòng yêu thương và ý muốn giải thoát họ. Thế rồi khi con cố bày tỏ hay giải thích cho họ thấy làm cách nào họ có thể tự do, thì hoặc họ làm ngơ, hoặc trong nhiều trường hợp họ chối bỏ con một cách hung hãn, họ muốn mạt sát con, bịt miệng con, chứng minh là con sai, hay thậm chí họ tấn công thể xác của con.

Đây là một trải nghiệm mà tất cả chúng ta đã đến đây như một avatar đều kinh qua, tức là ở một thời điểm, chúng ta phải chạm trán với cú sốc là mặc dù chúng ta ở đây để giúp mọi người nhưng người ta lại không muốn chúng ta trợ giúp, họ chối bỏ và tìm cách bịt miệng chúng ta rất hung hãn. Đối với hầu hết mọi người, đây là kinh nghiệm đã tạo ra cái mà các chân sư gọi là chấn thương nhập đời – chấn thương lớn đầu tiên mà con hứng chịu sau khi đến trái đất. Nó có thể mang những hình thức khác nhau đối với mỗi người, nhưng luôn luôn có sự chấn động khi con đến trong tinh thần thân thiện nhưng lại gặp một phản ứng hung dữ.

Điều con thật sự cần làm là sử dụng các giáo lý và dụng cụ các chân sư đã ban ra để con phát hiện chấn thương nhập đời, không phải theo nghĩa là con chỉ hiểu nó một cách trí thức mà con thực sự trải nghiệm nó. Và con đi thấu suốt tiến trình nhìn ra cái ngã được tạo ra do hệ quả của chấn thương nhập đời, và để cho ngã này chết đi. Và hơn thế, con còn nhìn ra những cái ngã khác cũng được tạo ra để con tự bảo vệ hay tránh né trải nghiệm đó tái diễn.

Đó là những dụng cụ quan trọng. Nhưng con cũng cần làm điều mà sứ giả này đã làm từ khi ông chạm mặt với chấn thương nhập đời nguyên thủy và buông bỏ nó. Ông đã nhận ra lý do khiến ông trải nghiệm chấn thương đó là vì ông đã đến địa cầu với một thái độ nào đó, một số kỳ vọng và một tư duy nào đó. Và đây chính là điều ông cần xem xét và thoát khỏi hầu được giải thoát khỏi địa cầu.

Ta khuyên con nên dùng các dụng cụ, đặc biệt là bài tập hình dung của ta để con đi xuyên qua các lớp vỏ và quay trở lại rạp hát đó nơi con đứng trên sân khấu và nhìn vào những cái ngã tách biệt đó. Nhưng con cũng yêu cầu ta trợ giúp và con quán chiếu trong tâm xem thái độ cơ bản của mình trên địa cầu là gì? “Tôi nghĩ tôi đang ở đây để làm gì, tôi muốn thực hiện những gì, tôi nghĩ những gì cần phải xảy ra trên địa cầu? Đâu là thái độ cơ bản của tôi đối với người khác? Tôi nghĩ họ phải làm gì hay không được làm gì? Tôi nghĩ họ phải hồi đáp tôi như thế nào?”

Sau đó con cần nhìn nhận là một avatar không cứ đang ở đây để đem lại một thay đổi tích cực trên địa cầu, mà một avatar cũng ở đây để học một điều gì đó từ địa cầu. Và điều con cần học từ địa cầu là những gì con chưa học hỏi trên một hành tinh tự nhiên, những gì con chưa nhìn thấy nơi chính mình trên một hành tinh tự nhiên, đặc biệt là liên quan đến quyền tự quyết. Nhiều avatar mang thái độ là mình thật sự tôn trọng quyền tự quyết vì mình không cưỡng ép ai hay không cư xử hung hãn với ai, và do đó con cho rằng mọi người khác cũng không được cư xử hung hãn với con.

Nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là trên một hành tinh như địa cầu, điều này không có gì bảo đảm. Thật là chí lý khi Giê-su dạy rằng: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn người khác làm cho con.” Nhưng thày không hề nói là nếu con không làm một số chuyện cho người ta thì người ta cũng không làm những chuyện đó cho con. Thày không bao giờ nói như vậy. Và lý do chính là quyền tự quyết – và với mức tâm thức thấp hơn trên địa cầu, không có gì bảo đảm là nếu con không đối xử hung hãn với người khác thì họ cũng sẽ không hung hãn với con. Con cần nhìn nhận điều này.

Và con cần hiểu ra và chấp nhận đây không chỉ là một vấn đề tự quyết, mà là vấn đề tình trạng tâm thức tập thể trên hành tinh này. Nếu con mang kỳ vọng trong con là con không được bị đối xử tệ mạt khi con không hung hãn, thì đây là một kỳ vọng không thực tế. Nó rất thực tế trên một hành tinh tự nhiên nhưng nó không thực tế trên một hành tinh phi tự nhiên.

Con cần xem xét: “Tại sao tôi có niềm tin đó? Nó đến từ đâu? Nó biểu lộ điều gì về thái độ thật sự của tôi liên quan đến tự quyết, tức là tôi không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết?” Bởi vì nếu con đã hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết thì con đã không mang kỳ vọng là người khác phải đối xử với con như thế nào. Con không thể chờ đợi như vậy nếu con hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết.

Sứ giả này đã kinh qua một tiến trình, một tiến trình lần hồi nhận ra là ông đã không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết khi ông đến đây. Ông không hung hăng và ông sẽ không cưỡng ép ai cả. Nhưng ông không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Và do đó ông đã có một số kỳ vọng. Và những kỳ vọng này đã khiến ông phản ứng lại một cách nhất định khi ông gặp sự chối bỏ và hung dữ trên địa cầu. Và để thoát khỏi khuôn nếp phản ứng đó, ông đã phải xem xét kỳ vọng cùng thái độ của mình đối với hành tinh, đối với con người, đối với những người sống trong nhị nguyên, đối với sa nhân, và ông phải khảo sát toàn bộ cái tư duy đã đưa ông đến địa cầu, đã khiến ông quyết định bước xuống một hành tinh như thế này.

Và đó là điều tất cả các con – các avatar – cần làm để được tự do khỏi hành tinh này, để vươn lên cao hơn tư duy đã đưa con đến đây. Bởi vì cái tư duy đã đưa con đến đây sẽ không thể đưa con rời khỏi nơi này, mà nó chỉ có thể giữ con lại ở đây cho tới khi con thăng vượt nó, vì đây chính là điều mà con thực sự mong muốn thực hiện khi con đến đây.

Phải, con đã mong muốn có tác động tích cực lên hành tinh này. Nhưng làm thế nào con tác động tích cực lên hành tinh chứ? Không phải bằng cách thay đổi người khác mà thay đổi chính con. Con tác động tích cực lên hành tinh bằng cách khắc phục mọi khuôn nếp trong tâm lý của mình, và khi làm vậy, con kéo cả tập thể đi lên và mở ra cơ hội cho người khác cũng thăng vượt tâm thực của họ.

Sẽ có những người không muốn thăng vượt tâm lý của họ và đó là những người sẽ hung hãn với con. Nhưng con không thể cho phép họ chi phối trải nghiệm của con trên địa cầu. Và do đó con cần tự giải thoát khỏi các khuôn nếp đó hầu con có thể đứng giáp mặt với sự hung hãn của họ, con có thể đứng trần trụi trước mặt họ mà họ vẫn không thể khiến con tê liệt hay làm con đau đớn.

Vị sứ giả này, từ tuổi thơ ấu trong kiếp này và chắc chắn trong những kiếp khác nữa, đã có cùng trải nghiệm đó, tức là ông đã cảm nhận một sự thôi thúc từ bên trong muốn thân thiện với mọi người, muốn sống năng động, bước vào xã hội và đóng góp tích cực. Nhưng gần như tất cả mọi tương tác của ông với người khác đều tạo ra một nỗi đau trong tim ông. Ông đã không vượt qua được tâm trạng này cho đến khi ông bắt đầu nhìn vào những vấn đề vô cùng thâm sâu đã đưa ông tới đây – là thái độ của ông đối với những gì ông nghĩ mình phải hoàn thành, những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho ông trên địa cầu.

Tất cả chúng ta cũng từng có cùng vấn đề đó. Chúng ta phải xem xét nó – cái gì đã đưa chúng ta đến đây và cái gì sẽ cho phép chúng ta thăng vượt nó, sẽ cho phép những cái ngã này chết đi, những niềm tin này chết đi, và giản dị chúng ta sẽ cảm thấy tự do, tự do để rời bỏ địa cầu mặc dù mình đã không thực hiện được gì trên địa cầu, mặc dù mình không hoàn thành được bất kỳ phần nào trong viễn kiến đã khiến mình muốn đến đây, bất kỳ những gì mình nghĩ có khả năng làm được ở đây. Nhưng con vẫn có thể bỏ lại địa cầu đằng sau trong an bình và nói: “Tôi đã quá đủ những trải nghiệm mà tôi có thể có trên hành tinh này rồi.” Đây là một điều khả thi.    

Nhiều người trong các con không xa điểm đó lắm như con nghĩ. Cho dù con có thể cảm thấy nỗi đau, và vẫn cảm thấy niềm tuyệt vọng tại sao nỗi đau không biến đi sau tất cả những gì mình đã làm để tu sửa bản thân, sau tất cả những cố gắng về tâm lý lẫn tâm linh, tại sao mình vẫn cảm thấy nỗi đau. Tại sao nó không ra đi?

Dẫu sao, nhiều người trong các con đã đến gần với điểm xoay chuyển hơn là mình tưởng, thường thường là một sự xoay chuyển tinh tế qua đó con thay đổi cách con nhìn cuộc sống trên địa cầu. Và con ngộ ra là trên một hành tinh phi tự nhiên, không có gì là quan trọng một cách tối hậu. Và nếu không có gì quan trọng tối hậu thì cũng không có gì quy định được con. Và nếu không gì quy định được con thì tại sao lại có bất cứ gì trên địa cầu quy định được cách con trải nghiệm sự hiện diện của mình trên địa cầu?

Và chỉ khi nào con có thể hiện diện trên địa cầu, có thể chạm trán với sự hung hãn của người khác, chạm trán với chính những điều đã cho con chấn thương nhập đời đó mà không phản ứng lại, thì con mới thực sự tự do.

Tất cả các con đều có khả năng làm được điều này. Con hãy tin ta, tất cả các con đều có thể làm được bằng cách sử dụng các dụng cụ, không phải một cách máy móc mà một cách sáng tạo, bằng cách kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư, bằng cách sẵn lòng tiếp tục nhìn ngày càng sâu hơn cho tới khi con đạt đến cốt lõi trong cách con nhìn sự có mặt của mình trên một hành tinh như địa cầu. Chỉ khi nào con tự giải thoát khỏi cách con tiếp cận địa cầu thì con mới có thể giã từ địa cầu.

Kinh nghiệm chứng ngộ trên đường tới Damascus

Hỏi: Con đã đi trên đường tâm linh từ nhiều thập niên and mặc dầu con biết con đã có tinh tấn về tâm thức, đôi khi con có cảm giác con vẫn chưa đạt được tiềm năng của mình bởi vì con chưa bao giờ trải qua kinh nghiệm chứng ngộ như Paul trên đường tới Damascus. Con hình dung rất nhiều vị thày tâm linh có kinh nghiệm này trong đời sống của họ. Liệu đây chỉ là một cái “ngã” đến từ một sự lập trình tập thể khiến cho con kỳ vọng một số trải nghiệm tâm linh hão huyền và phi lý, chẳng hạn như thấy chân sư hiện ra trước mặt con bất cứ lúc nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Những gì con gặp trên đường tu tâm linh là chuyện rất cá nhân, mỗi người mỗi khác. Và có một điều rất, rất quan trọng là con không được có sự phán đoán về giá trị của kinh nghiệm con trải qua, không được tạo ra hay gợi ra một tiêu chuẩn tương đối nào và bảo rằng, đã là một đệ tử tâm linh cao cấp thì con phải có một trải nghiệm nào đó.   

Hiện có nguyên một nền văn hóa gọi là Thời mới với nhiều tổ chức tâm linh và thậm chí cả tôn giáo, cho rằng con phải có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh. Có nguyên cả một nhóm rất đông trong phong trào Thời mới bị kẹt trong cuộc tìm kiếm bất tận những loại trải nghiệm tột đỉnh như thế.

Nhưng khi con nhìn vào khái niệm kinh nghiệm tột đỉnh, con nhận ra là ngay trong định nghĩa, đó là kinh nghiệm cao nhất, không có gì cao hơn. Thế nhưng một số người không những muốn lặp lại kinh nghiệm tột đỉnh mà họ còn muốn có kinh nghiệm tột đỉnh cao hơn nữa. Và họ bắt đầu lập ra một bảng xếp hạng các kinh nghiệm tột đỉnh – cái này tột đỉnh hơn cái kia. Và điều này, tất nhiên, thật là phản tác dụng cho sự phát triển tâm linh.

Nó kéo con vào một vòng tư duy ganh đua thực sự sẽ không thể đem lại tăng trưởng tâm linh cho con, bởi vì tăng trưởng tâm linh là gì? Là buông bỏ tự ngã, chứ không phải củng cố tự ngã. Và tự ngã thật là thích thú khi nó có thể sử dụng một kinh nghiệm tâm linh để bảo rằng: “Chắc hẳn tôi là một người tâm linh cao độ vì tôi đang có tất cả những kinh nghiệm này.”

Con phải vô cùng thận trọng về điểm này. Con phải nhận ra một điều rất, rất quan trọng ở đây. Mục đích của con đường tâm linh không phải là để có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh, mà để con thoát khỏi một số tin tưởng và khuôn nếp phản ứng, có thể gọi là những cái “ngã tách biệt” nếu con muốn, nơi bốn thể phàm của con.

Vậy thì cá nhân con cần gì để được tự do? Đối với một số người, họ cần môt kinh nghiệm nào đó và vì thế họ có kinh nghiệm này. Nhưng đối với rất nhiều người khác, họ có khả năng tiến bước một cách đều đặn, chậm rãi, tuần tự, và họ sẽ lần hồi buông bỏ được ảo tưởng của họ. Những người như thế không cần trải nghiệm vũ bão nào cả.  

Con cũng cần nhìn nhận là đã có những người từng trải qua những kinh nghiệm cải đạo đáng kinh ngạc như trên đường tới Damascus, và con có thể tự hỏi, có thật là Paul đã có một kinh nghiệm tâm linh? Hay đó là một kinh nghiệm cải đạo khi ông bỗng nhiên nhìn ra là mình đã đi lầm đường và từng làm những điều phản tác dụng?  

Con có thể tự hỏi: “Tại sao Paul lại có kinh nghiệm như thế?” Nếu con nhìn vào tình hình thực tế, con sẽ thấy ông đã từng đàn áp tín hữu Ki-tô, ông đã từng chống đối đạo Ki-tô. Nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của Paul thì lại có phần định ra là ông phải trở thành một nhà truyền giáo phúc âm Ki-tô. Cho tới thời điểm đó, ông đã kháng cự lại sứ vụ thiêng liêng này của ông, và sự kháng cự ngày càng mãnh liệt hơn cho tới khi bỗng nhiên ông không thể chịu đựng được nữa. Một cái gì đó bị gãy trong ông và ông buông xuôi ngừng kháng cự. Có một sự khác biệt to lớn giữa tâm trạng chống cự trước đó với cảm giác tự do khi ông buông hết. Và một cách nào đó ông đã kinh nghiệm điều này.

Và con có thể thấy được, kinh nghiệm của ông có vẻ dữ dội là do sự tương phản giữa hai trạng thái cưỡng lại và buông bỏ. Chính độ mãnh liệt của kháng cự đã tạo ra tương phản. Nhưng rất nhiều người trong số các con không có vấn đề kháng cự như vậy đối với sự phát triển tâm linh, và đó là vì sao con tăng trưởng một cách vững bền hơn. Con không có tương phản.   

Con cũng phải nhìn nhận là ở những giai đọan đầu của đường tu tâm linh, không phải là hiếm có khi hành giả trải qua một kinh nghiệm tột đỉnh, một kinh nghiệm mãnh liệt, vì vẫn có tương phản giữa trạng thái tâm thức cũ của họ và trạng thái tâm thức cao hơn mà họ đang bước vào. Nhưng một khi con tiến xa hơn trên đường đạo, khi con tiến về hướng tầng tâm thức thứ 144 và đã vượt qua tầng thứ 96, con không còn cảm giác tương phản nào nữa bởi vì con đã đạt được tâm thức cao hơn rồi. Bây giờ khi tất cả chỉ là tiệm tiến thì làm sao còn tương phản được nữa?  

Ở tầng tâm thức thứ 48, khi con khắc phục được sự kháng cự và con kinh nghiệm được, thoáng nhìn thấy được tầng thứ 49, thì con cảm thấy tương phản rất lớn. Nhưng từ tầng thứ 102 lên 103, sự khác biệt sẽ ít hơn và không còn dữ dội nữa. Ngoài ra còn có sự kiện là ở những tầng tâm thức thấp hơn, một số hành giả cần có một kinh nghiệm không thể chối cãi mà cái tâm vỏ ngoài của họ không thể phủ nhận, không thể làm ngơ, không thể giải thích được. Một kinh nghiệm như vậy rất cần thiết cho những người đó trong hoàn cảnh của họ.    

Nhưng những hành giả đã chín chắn hơn trên đường đạo thì không cần những loại kinh nghiệm như vậy. Khi con bước lên cao hơn, tương phản sẽ ngày càng ít đi, và đó là điều khá thông thường. Những bài học kịch tính, những trải nghiệm tột độ sẽ ngày càng thưa đi. Con thực sự đạt đến một điểm khi con bắt đầu sống trong tâm thức mà ta gọi là “Nước Trời” và đức Phật gọi là cực lạc. Khi đó tâm thức con quân bình, trung dung và con không còn tương phản to lớn nữa.     

Sức khỏe và năng lượng chống cự

Hỏi: Sau một công trình tìm hiểu dài  của bác sĩ của con về số lượng bạch cầu cao của con trong vòng hơn một năm, thì con mới khám phá là các bạch huyết cầu của con có thể phần nào đã đóng góp vào miễn dịch tự nhiên của con đối với vi rút Corona. Triệu chứng bệnh của con nhẹ và con phục hồi nhanh chóng. Điều duy nhất con trải qua là các hiệu ứng phụ sau khi hồi phục mà một số người gọi là hiệu ứng kéo dài của COVID. Điều đáng chú ý là mới đây con chích mũi vắc-xin mRNA đầu tiên sau khi con nhận được sự hướng dẫn nội tâm là vắc-xin an toàn. Sau đó, con cảm nhận ngay lập tức một sự an bình hoàn toàn và bao nhiêu sự căng thẳng mà con nắm giữ gần năm trời được giải ra hết. Cùng lúc, hiệu ứng tồn đọng của các triệu chứng kéo dài của COVID dần dà tan biến đi giống như bơ chảy khi gặp dao nóng.

Trước mũi vắc-xin, con đã dùng những hiểu biết có được từ khóa học chữa lành bằng năng lượng để giảm thiểu tình trạng viêm và hiệu ứng phụ của các triệu chứng kéo dài của COVID. Nhưng phải đợi tới khi con được mũi vắc-xin đầu thì con mới cảm thấy là các vấn đề sức khỏe của con được giải quyết lâu dài hơn. Phải chăng đó là vì con đã giải quyết tâm lý của con đối với thế giới vật chất, cụ thể là sự ngần ngại không muốn vắc-xin của con, và mặt khác giờ đây con nhìn nhận mình là một sinh thể tâm linh một cách sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn và do đó thế giới vật chất không thể hại con? Đúng hơn, thế giới vật chất có thể giúp con tăng triển tâm linh và vắc-xin mà con nhận được là biểu tượng của sự chấp nhận đó trong tâm con?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Trả lời trong dịp Hội thảo trên Mạng 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Quả rất đúng là một số các vắc-xin này có thể giúp khắc phục các triệu chứng kéo dài sau khi bị COVID 19. Quả cũng đúng như con nói là tình trạng tâm lý-tâm linh của con có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, vì thái độ đối với thân vật lý của con chắc chắn ảnh hưởng tới hiệu quả làm việc của tinh linh thân thể của con. Khi con quyết định chấp nhận là vũ trụ vật lý, cõi mẹ không là kẻ thù của con, không là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con, thì điều này sẽ tác dụng tốt đến thân thể con. Khi con quyết định chăm sóc cho thân và dùng các biện pháp thiết thực để bảo vệ và chữa lành thân, thì quyết định đó cũng có tác dụng quan trọng so với khi con chống cự lại điều gì đó.

Ở giai đoạn đầu của đại dịch nhiều người (thày không chỉ nói đến những người tâm linh mà nói đến nhiều người nói chung) cảm thấy bất lực, họ không thể chắc chắn rằng họ sẽ không bị vi-rút. Cho nên họ đi vào tâm thái chống cự. Và lẽ dĩ nhiên điều này tạo nên căng thẳng trong họ. Sau đó, khi một số biện pháp được đề nghị như giữ khoảng cách, đeo khẩu trang, không tương tác trong nhóm lớn và vân vân, một số người đã chịu theo các biện pháp đó nhưng một số khác chống cự lại. Sau đó vắc-xin được bào chế và lần nữa, một số người quyết định chích ngừa và một số người khác chống cự lại vắc-xin.

Nhưng khi con chống cự, thì cốt lõi thông điệp mà con gửi tới thân thể là gì? Thực sự thông điệp con gửi ra là con không tin tưởng cõi mẹ. Con không tin tưởng thân vật lý của con. Con không tin tưởng thân con sẽ không bị bệnh hay nó sẽ không ngăn trở sự tăng triển tâm linh của con. Nếu con có quá trình kháng cự đó và sau đó con quyết định lấy một số biện pháp để hỗ trợ thân thể mình, thì quyết định đó có thể có tác dụng tốt. Bỗng nhiên, tinh linh thân thể của con được giải thoát khỏi năng lượng chống cự mà con phóng chiếu lên nó. Và giờ đây nó có thể thực sự chữa lành cơ thể con nhanh chóng hơn.

Điều này không chỉ áp dụng cho vắc-xin mà còn áp dụng cho nhiều chuyện khác trong cuộc sống vì con cần nhìn vào thái độ của mình khi con có vấn đề sức khỏe. Con có đang chống cự điều gì chăng? Con gửi thông điệp gì đến thân thể, đến cõi vật chất. Con có tin tưởng cõi mẹ không? Con nghĩ rằng con đang sống trong một vũ trụ trên cơ bản là thân thiện hay một vũ trụ thù nghịch, như các thày đã từng đề cập. Đây là những điểm quan trọng con cần quan tâm khi nghĩ tới bất cứ vấn đề nào liên quan tới sức khỏe.

Ứng phó thế nào trước cái chết của người thân yêu

Hỏi: Xin các thày vui lòng cho chúng con một cái hiểu cao hơn về sự chết. Tại sao chúng con đau đớn đến như vậy khi mất đi một người thân yêu? Chúng con phải phản ứng thế nào khi mất đi một người mà chúng con yêu thương? Có khóc hay không? Làm thế nào chúng con thăng vượt được tất cả những cảm xúc tiêu cực khi mất đi một người thân yêu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Hiển nhiên đây là một vấn đề rất khó khăn cho hầu hết mọi người. Nó chứa đựng nguyên một chùm những cái ngã tách biệt liên quan đến sự thể này. Cho nên một lần nữa để ứng phó, con cần sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của chân sư thăng thiên về ngã tách biệt, tùy theo cá nhân con thấy thế nào là thích hợp.

Điều có thể nói được một cách chung chung là vấn đề cốt yếu ở đây là con có một cảm nhận sở hữu đối với một con người khác. Con cảm thấy đó là người thân yêu “của tôi”. Và con đã cho phép mình cảm thấy có một cái gì đó trong con, ý niệm bản sắc của con, cảm nhận trọn vẹn của con, cảm nhận ổn định của con, cảm nhận an toàn của con, tùy thuộc vào người khác đó.

Nhưng khi con nhìn vào thực tế của hành tinh địa cầu, con là một cá nhân biệt lập. Người thân yêu kia của con cũng là một cá nhân biệt lập. Cơ thể của người thân yêu đó có thể chết đi bất cứ lúc nào, và cơ thể của con cũng có thể chết đi bất cứ lúc nào. Làm sao con có thể cho phép mình cảm thấy là bản thân mình, trạng thái tâm mình, tùy thuộc vào một cái gì đó có thể bị mất đi bất cứ lúc nào? Thật là không minh triết nếu con để cho mình cảm thấy như vậy.

Ta cũng biết nói vậy sẽ không nhất thiết giúp ích cho con, bởi vì con cảm thấy như vậy chính là vì con đang mang những cái ngã tách biệt từ tiền kiếp gây ra cảm xúc đó trong con, hoặc chúng khiến con rơi vào trạng thái lệ thuộc đó. Nhưng dù sao thì con vẫn có khả năng sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của các thày để phát hiện những cái ngã đó, rồi con làm việc với chúng và để cho chúng chết đi.

Khi con cảm thấy đau đớn tột cùng khi có người thân qua đời, nỗi đau này luôn luôn chỉ biết có mình con thôi. Con chỉ chú tâm vào bản thân con chứ không chú tâm vào người thân. Có thể sẽ ích lợi cho con nếu con tìm đọc rất nhiều lời tường thuật về kinh nghiệm cận tử (near-death experience) mà nhiều người đã trải qua. Họ kể lại rằng sự chết không phải là một tiến trình khó chịu, họ không hề đau khổ mà lại được đi lên một cõi cao hơn nơi cuộc sống tốt đẹp hơn rất nhiều so với cuộc sống mà họ đã có trên trái đất.

Cho nên thật sự, con không đang cảm thấy buồn bã cho người thân quá cố, mà con đang buồn cho chính con. Hay đúng hơn, có một cái ngã đang cảm thấy buồn rầu cho chính nó. Vì thế con cần làm công việc phát hiện ra những cái ngã đang tạo ra tất cả những cảm xúc đó trong con, và con để cho chúng chết đi, từng cái một, hết cái này tới cái kia. Rồi thì con mới có thể được tự do khỏi cơn đau, và con có thể phản ứng một cách cân bằng hơn.

Điều này không có nghĩa là con không được khóc về sự mất mát. Nhưng có những cách khóc khác nhau. Có một cách khóc là sự giải tỏa cảm xúc, và sau khi giải tỏa, con sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tự do hơn. Và có một cách khóc buộc chặt con lại với tâm thức tập thể, với những con quái vật tập thể và những con quỷ đứng đằng sau. Khóc như vậy sẽ chỉ hút mất năng lượng của con, đẩy con vào một vòng xoáy hướng hạ khiến con càng cảm thấy tệ hơn và tệ hơn và tệ hơn nữa.

Nếu con trải nghiệm loại phản ứng này, con cần phải hết sức cương quyết sử dụng các bài chú Đại thiên thần Michael và Astrea, để cắt đứt cho con thoát khỏi các tà lực tập thể đó, thoát khỏi những con quỷ dữ đó, thoát khỏi toàn bộ động lượng tập thể đang phóng chiếu vào con ý tưởng là con phải cảm thấy buồn bã, vì nếu con không buồn thì con không thực sự yêu thương người thân của con. Nhưng nếu người thân của con đã bước sang một cuộc sống tốt đẹp hơn thì tại sao con lại cần buồn bã? Con có thấy không, chuyện này hoàn toàn vô lý. Có những cái ngã vô cùng dũng mãnh trong tập thể mà con đã mời vào, vậy thì bây giờ con cần để cho chúng chết đi ngay trong tâm mình hầu con được giải thoát khỏi chúng.

Con đường rộng và con đường hẹp

Hỏi: Trong bài Thuyết pháp trên Núi, Giê-su nói: “Hãy vào cửa hẹp. Vì cửa rộng và đường rộng dẫn đến hủy hoại, và những kẻ vào đó cũng nhiều. Còn cửa hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, và những kẻ tìm được thì ít.” Xin các chân sư thăng thiên vui lòng cho chúng con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, một lời dạy hiện đại về điểm này? Liệu có những pháp tu hoặc yêu cầu đặc thù nào sẽ giúp chúng con ở lại bên trong và băng qua cánh cửa hẹp mà Giê-su nói đến khi còn tại thế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Các thày đã cho con nhiều lời dạy về điều này. Đơn giản là có một sự khác biệt giữa con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm, con đường công truyền và con đường tâm truyền. Con đường rộng, cánh cửa rộng, là cái mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều đi theo qua các tôn giáo chính mạch, với lời hứa là khi con tuân thủ một vài quy luật vỏ ngoài, làm đúng một vài pháp tu vỏ ngoài, vâng lời giới tu sĩ vỏ ngoài, thì con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Ta sẽ đến và cứu con dùm con, ta sẽ làm mọi công việc cho con.

Đó là con đường rộng dẫn đến hủy hoại, bởi vì cánh cửa hẹp dẫn đến thăng thiên là con đường nội tâm biến đổi tâm thức của mình, thanh lọc tâm mình cho không còn khuôn nếp phản ứng nào, không còn tin tưởng sai lầm nào, không còn ngã tách biệt nào, không còn tự ngã nào. Hầu hết mọi người không biết đến sự hiện hữu của con đường này, hầu hết mọi người chưa sẵn sàng cho con đường này. Tất nhiên, các tôn giáo chính mạch đã bị sa nhân chiếm đoạt đến độ hiểu biết này không được phổ biến rộng rãi.

Như con có thể thấy qua số người quan tâm đến các giáo lý tâm linh không chính mạch, càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa những gì nhiều người đã sẵn sàng tiếp nhận và những gì được các tôn giáo chính mạch giảng dạy. Nói chung, cách đi theo con đường hẹp là con đi theo con đường tâm linh như các chân sư thăng thiên đã phác họa. Điều này không có nghĩa đây là con đường duy nhất. Chủ yếu đây là việc nhìn ra một điều gì đó trong bản thân mình và, một cách ý thức, quyết định vươn lên cao hơn. Và tất nhiên các thày đã ban truyền rất nhiều lời dạy về điều này. Ta khuyên những ai quan tâm hãy theo học khóa Con đường Tự điều ngự. Hãy khởi sự với bộ sách này, từ tầng 48 vượt lên đến tầng 96, rồi sau đó sử dụng những quyển sách khác mà các thày đã khuyên con dùng tiếp theo sau.

Câu hỏi về các nhạc sĩ rock

Hỏi: Rất nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã chết trẻ – rất nhiều ngôi sao nhạc rock trong thập kỷ trước và cả các ca sĩ nhạc rap trong thời hiện đại. Con không thể nào không nghĩ rằng một số nhạc sĩ này đã có mặt ở đây để tạo sự thay đổi tích cực, ít ra là ở mức tâm thức của họ. Không hiểu con có đang hoang tưởng không? Hay có thể một số là sa nhân?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Đây là một trong những câu hỏi không có câu trả lời rõ ràng. Thày Giê-su đã trao cho con một số lời dạy rất quan trọng về sự kiện là đôi khi có những tình thế đi vào bế tắc – nghĩa là loài người bị giam chặt trong một tư duy nhất định nào đó – đến độ phải cần có những người đi tiên phong thách thức tư duy đó cùng các năng lượng đằng sau tư duy.

Cho nên rất có thể là trong một khoảng thời gian, cần có một người đứng ra làm một việc gì đó không thực sự xuất phát từ nhãn quan cao của tâm Ki-tô nhưng là một điều cần thiết để phá vỡ một tình trạng bế tắc. Các thày đã từng đề cập đến sự kiện là đôi khi người ta cần làm một cuộc cách mạng, và trong một thời gian ngắn, điều này có thể phù hợp với tâm Ki-tô theo nghĩa là nó phá vỡ một tình trạng bế tắc và đem lại sự thay đổi.

Một điều tương tự có thể xảy ra với âm nhạc. Có một số nhạc sĩ đã đem lại một loại nhạc mới vô cùng khiêu khích đối với nhiều người, nhưng sự khiêu khích này lại cần thiết để đập vỡ một lối tư duy cổ hủ, một khuôn đúc cố hữu trong xã hội. Ta không bảo là tất cả mọi nhạc sĩ rock hay ca sĩ rap đều không khế hợp với nhu cầu thay đổi này, vì một số trong giới đó, ít nhất là trong một thời gian, đã đồng thuận với nhu cầu đó. Nhưng điều này không có nghĩa là nhạc rock hay nhạc rap là loại nhạc hài hòa theo nghĩa là nó tạo ra những rung động hài hòa đem lại lợi ích cho hành tinh. Trái lại, nó có tác dụng gây rối loạn, hỗn tạp. Nhưng như ta vừa nói, nó có thể cần thiết trong một thời gian để đập đổ một số khuôn nếp cứng nhắc đã lâm vào bế tắc.

Nhưng này con, đa số các nhạc sĩ rock và rap kỳ thực là sa nhân – không phải là tất cả nhưng đa số. Và nói thật, xin con đừng bắt đầu hỏi thày ai là sa nhân hay không là sa nhân, vì đây không phải là một điều các thày muốn bỏ thời gian lẫn không gian để bàn đến.

Thực tế ở đây là rất nhiều nhạc sĩ rock và rap là sa nhân. Họ đã sống lâu hơn cái mà chúng ta có thể gọi là tuổi thọ tự nhiên của họ. Và họ chỉ được giữ cho sống còn do được người ta tiếp tế năng lượng khi người ta nghe nhạc của họ hay đi xem họ trình diễn. Khi làm vậy, quần chúng bị cưỡng ép vào một tâm thái đặc biệt phải nhả ra những khối năng lượng khổng lồ.

Con có thể thấy người ta đi xem trình diễn nhạc rock la hét cuồng loạn như thế nào, họ phóng ra những khối năng lượng to lớn mà các nhạc sĩ rock có thể hấp thụ – và ma quỷ núp sau họ cũng có thể hấp thụ – và đây là một trong những mục đích đằng sau các buổi chơi nhạc rock. Một khi hiện tượng này tan biến dần và sự nổi tiếng của họ cũng phai nhạt dần, thì một số trong giới đó không thể ở lại trong hiện thân được nữa, và họ phải rời xác thân vật lý.

Một khía cạnh khác, tất nhiên, là yếu tố thời gian. Đã có một thời vào các thập kỷ 1960 và 1970 khi rất nhiều ban nhạc rock mới xuất hiện. Thời đó họ thường trẻ trung nhưng giờ đây họ đã có tuổi. Một phần có thể là vì họ không nhận được đủ ánh sáng. Và phần khác, nhiều nhạc sĩ rock bị mất cân bằng đến độ họ có một lối sống vô cùng thiếu lành mạnh, và đơn giản lối sống này đã bắt kịp thân xác vật lý của họ.

Điều này đi đôi với toàn bộ văn hóa nhạc rock, đa phần là một loại văn hóa nổi loạn, nổi loạn chống lại các chuẩn mực của xã hội. Cho nên chuyện thường tình là họ lạm dụng rượu và ma túy, quan hệ tình dục bừa bãi và ăn chơi trác táng. Tất nhiên sẽ đến một điểm khi cơ thể vật lý không thể chịu đựng được nữa.

Một lần nữa, con có thể chỉ ra một vài trường hợp ngoại lệ là những người đã có thể kéo dài đời sống lâu hơn. Nhưng con hãy nhìn họ đi, con sẽ thấy những cái vỏ trống rỗng chỉ bám vào sự sống bằng một sợi chỉ. Kỳ thực trên phương diện tâm linh, họ không còn sống nữa.

Chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới

Hỏi: Trước khi đầu thai hay tái đầu thai, liệu một linh hồn có ý niệm gì chăng về ngoại hình vật lý của mình, về các hạn chế tâm lý hay tình trạng bệnh tật của thân xác sẽ được sử dụng? Có phải Hội đồng Nghiệp quả cung cấp các thông tin này hay chính linh hồn có trực giác về điều đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 30/5/2021.

Rõ ràng là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của con và chuẩn bị đầu thai trong kiếp sau đó, con được các chân sư thăng thiên đang làm việc với con đưa ra lời khuyên nhủ. Thật ra trong hầu hết các trường hợp, các vị ấy không phải là Hội đồng Nghiệp quả mà là các chân sư thăng thiên đang làm việc chặt chẽ nhất với địa cầu.

Trong nhiều trường hợp, con có sự chọn lựa giữa nhiều hơn là một xác thân. Trong một số trường hợp, con chỉ có một xác thân để chọn. Nhưng khi con chuẩn bị đầu thai và con đã chọn con muốn đầu thai trong hoàn cảnh nào, thì tất nhiên con sẽ tìm hiểu lịch sử gia đình đó là gì, thân xác của gia đình đó trông như thế nào hay có thể mang những bệnh tật nào, những tình trạng tâm lý nào được truyền lại trong gia đình, trong nền văn hóa, trong dân tộc đó, vân vân.

Đúng, con có một nhận thức nào đó về tiến trình này. Mức độ nhận thức của con tùy thuộc vào trình độ tâm thức, vào mức độ trưởng thành tâm linh của con. Rõ ràng là có những người ở mức tâm thức thấp, và ngay cả khi họ ở ngoài xác thân thì họ cũng không có khả năng cộng tác với các chân sư thăng thiên. Một số thì hoàn toàn không thể làm việc với các chân sư, và đối với một số khác nữa, cách chúng tôi có thể giúp đỡ họ bị giới hạn trong một vài chọn lựa ít ỏi. Những người như vậy không nhận thức nhiều lắm về những gì sắp sửa xảy ra. Nhưng tâm thức của con càng cao thì sự nhận biết của con về tiến trình này sẽ càng nhiều. Và con càng có thể chuẩn bị nhiều hơn, để con có thể ứng phó với hoàn cảnh của con một cách tối ưu và tiến bộ nhiều nhất trong hoàn cảnh nơi con sẽ đầu thai.  

Hiểu quyền tự quyết trọn vẹn

Hỏi: Nếu chúng con đã sống một thời gian rất dài trên hành tinh tự nhiên trước khi đến địa cầu, tại sao chúng con đã không học tất cả những gì cần học ngay trên hành tình tự nhiên và thăng thiên từ đó? Tại sao vẫn còn những khía cạnh của quyền tự quyết mà chúng con chưa hiểu trọn vẹn khiến chúng con quyết định đầu thai trên địa cầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 30/5/2021.

Phần nào đây là một vấn đề cá nhân. Mỗi người có những lý do khác nhau. Nhưng thực tế là có một số điều về quyền tự quyết mà có thể con sẽ khó lòng học được trên một hành tinh tự nhiên, vì ở đó con không trải nghiệm cách người ta lạm dụng quyền tự quyết như con thấy trên địa cầu.

Có một số dòng sống trên hành tinh tự nhiên bắt đầu cảm nhận được sự kiện này, họ bắt đầu nhận ra là phải có nhiều điều hơn để hiểu biết về quyền tự quyết so với những gì được trình chiếu trên một hành tinh tự nhiên. Xong có lẽ họ bắt đầu muốn nhận biết nhiều hơn. Và một số cảm nhận được là phải có những hành tinh khác. Thậm chí một số còn học được từ vị thày tâm linh của họ trên hành tinh tự nhiên về sự hiện hữu của những hành tinh phi tự nhiên. Và họ có thể từ đó hình thành mong muốn đến hành tinh phi tự nhiên để học hỏi trọn vẹn về quyền tự quyết, để trải nghiệm trực tiếp thế nào là cuộc sống trên những hành tinh nơi quyền tự quyết bị lạm dụng theo những cách sẽ hạn chế con người.

Phần lớn đây là chuyện một số dòng sống đơn giản lấy quyết định cá nhân muốn hiểu biết và trải nghiệm sự trọn vẹn của quyền tự quyết, không nhất thiết chỉ cho bản thân họ mà còn để giúp đỡ người khác, hay cũng có thể để thăng thiên với sự nhận biết và trải nghiệm này trong căn thể của họ. 

Tình bạn và gia đình

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, tại sao chuyện xảy ra rất thường là có những người đầu thai trong cùng gia đình với chúng ta nhưng trên thực tế họ lại xa lạ với chúng ta, và họ không có điểm chung nào với chúng ta? Chẳng hạn, một người có thể có nhiều anh chị em nhưng lại không thể thiết lập mối quan hệ thân thiện nào. Mối thân thiện chỉ kéo dài một thời gian khi còn nhỏ nhưng khi lớn lên thì nó biến mất. Hoặc anh chị em chênh lệch tuổi tác tới 14 tuổi, vậy mà cha mẹ lại muốn con cái mình hòa thuận với nhau. Nhưng sự hòa thuận không xảy ra và mỗi đứa lớn lên cô độc một mình. Làm thế nào người ta có thể kết bạn được ở tuổi trưởng thành nếu người ta không thể kết bạn với chính những kẻ ruột thịt với mình?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức xem mình là vượt trội cùng cảm nhận không trọn vẹn, bị chấn thương và chú tâm bên ngoài. Đăng ngày 29/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có ban ra nhiều lời dạy là trong nhiều gia đình, có những người cứ đầu thai hết kiếp này tới kiếp khác trong cùng một gia đình với nhau. Lý do là vì họ có một số khuôn nếp nghiệp quả với nhau, nghĩa là trong quá khứ họ đã tạo ra những vòng xoáy xung đột với nhau, và cách duy nhất để họ có cơ hội giải quyết xung đột là đầu thai cùng với nhau hết kiếp này tới kiếp khác.

Hiển nhiên, vấn đề ở đây là tâm lý của họ đã không thay đổi từ kiếp này sang kiếp sau. Thậm chí, có thể họ tạo dựng một động lượng thù địch ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, khiến cho họ rất khó lòng giao tiếp hay kết bạn với nhau. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người còn chìm đắm trong Trường đời Cay đắng, đó vẫn là cách duy nhất để họ có hy vọng tiến triển, vì họ cần đạt tới điểm họ hoàn toàn chán ngán chuyện đó và mong muốn một cái gì khác hơn.

Trong một số gia đình, con có thể nhận thấy một số thành viên bị kẹt trong một khuôn nếp nhất định, nhưng trong số mấy đứa con lại có một đứa đứng ra được bên ngoài, từ chối rơi vào khuôn nếp đó, và nó rời bỏ gia đình ngay khi nó có cơ hội. Điều này có nghĩa là trong nhiều trường hợp, sẽ có người thoát ra được nhóm gia đình đó khi họ tái đầu thai trong kiếp sau. Và điều này có thể mang lại sự tiến bộ.

Tất nhiên, con nói rất đúng khi con bảo là nếu con không thể kết bạn với chính gia đình mình vào tuổi thơ ấu thì việc kết bạn sẽ càng khó khăn hơn vào tuổi trưởng thành. Nhưng chuyện này tùy thuộc vào chính con có chuyển đổi được thái độ của mình hay không. Con có cơ hội tìm kiếm những người mà con cảm thấy có cùng độ rung với con. Khi con đầu thai trong một gia đình thì con không thể rời xa các thành viên trong gia đình, nhưng khi con chọn bạn ở tuổi trưởng thành, con có khả năng tìm đến những người mà con có những điểm chung.

Chìa khóa thực sự để con thoát khỏi những khuôn nếp nghiệp quả đó là nỗ lực làm việc trên tâm lý của con chứ con không có ý muốn thay đổi các thành viên khác trong gia đình. Con tập trung vào việc thay đổi chính con, xong con tự hỏi: “Tại sao tôi lại đầu thai trong gia đình này? Nó cho tôi thấy điều gì trong tâm lý mình cần phải giải quyết?” Điều minh triết nhất mà con có thể làm trong một gia đình thiếu hài hòa, mất cân bằng và mang những khuôn nếp độc hại, là con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ không tập trung vào chuyện thay đổi các thành viên kia. Thay vào đó, con đặt trọng tâm thay đổi chính mình để con không còn phản ứng lại các thành viên kia. Trong tâm lý con, con đã giải thoát khỏi họ.

Tâm thức tập thể đằng sau cuộc khủng hoảng Coronavirus

Hỏi: Xin thày nhận xét về bản chất của tâm thức tập thể đã dẫn đến cuộc khủng hoảng Coronavirus, cũng như về cuộc khủng hoảng kinh tế và sự mất tự do tiếp theo sau.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức xem mình là vượt trội cùng cảm nhận không trọn vẹn, bị chấn thương và chú tâm bên ngoài. Đăng ngày 29/5/2021.

Đây là một đề tài phức tạp vì trong tâm thức tập thể không chỉ có một khía cạnh duy nhất.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có đưa ra trước đây một số nhận xét liên quan đến vấn đề này, tuy nhiên bức tranh ở đây rất phức tạp. Về cơ bản, trên địa cầu có quá nhiều người không sẵn lòng tăng triển để vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Họ đã có cơ hội vươn lên một mức cao hơn, và trong một kịch bản lý tưởng thì họ đã có khả năng vươn lên tới mức này rồi. Nhưng họ đã không sẵn lòng làm điều đó. Họ đã bám giữ lấy hiện trạng đời sống của họ, tình trạng đất nước họ và chính tâm thức của họ.

Điều này có thể dẫn đến, thỉnh thoảng, sẽ có một thảm họa hay một đại họa nào đó biểu hiện ra, khiến cho không ai có thể nhắm mắt làm ngơ được nữa. Thảm họa sẽ dữ dội và nghiêm trọng đến độ người ta không thể gạt nó qua bên. Nó có thể biểu hiện qua thiên tai, nó có thể biểu hiện qua chiến tranh và nó có thể biểu hiện qua bệnh truyền nhiễm.

Đó là nguyên nhân rộng lớn của vấn đề này. Và nếu con nhìn chung quanh thế giới, con sẽ thấy là cách phản ứng của một số quốc gia trước tình thế này nói lên rất nhiều điều về tâm thức tập thể ở xứ đó đang ở mức nào. Nó cho thấy những gì mà các nước đó chưa thăng vượt được và những gì mà họ cần thăng vượt để bước lên cao hơn.

Tất nhiên, một điều đã biểu lộ ra một cách hiển nhiên là tình trạng của hệ thống y tế trong nước, liệu hệ thống đó có được trang bị để đối phó với một cuộc khủng hoảng như thế này không. Và nó chỉ ra cho con thấy những lãnh vực nào cần cải tiến, những lãnh vực mà mỗi nước đã có thể, hoặc trong lý tưởng đã phải cải tiến được rồi. Con cũng có thể nhìn vào cách đối phó với khủng hoảng khi một số quốc gia đã đóng cửa cả nước lại, đã hạn chế quyền tự do đi lại cùng nhiều quyền tự do khác. Con thấy được cách họ làm và thái độ của họ khi họ thực thi chuyện đó.

Con cũng có thể nhìn vào cách phản ứng của người dân. Chẳng hạn, con thấy như tại Hoa Kỳ có một bộ phận quần chúng to lớn lúc đầu đã hoàn toàn bác bỏ sự hiện hữu của virus, bác bỏ thực tế của cuộc khủng hoảng, hay thậm chí phủ nhận cả sự nghiêm trọng của tình thế. Con thấy những người từ chối đeo khẩu trang, từ chối chích ngừa, vân vân. Điều này cho thấy mức tâm thức mà họ đang có, đặc biệt là ý thức xã hội của họ. Và nó cho thấy liệu họ có sẵn lòng giúp đỡ người khác, bảo vệ người khác và đóng góp phần mình để dịch bệnh không lây lan. 

Con cũng có thể nói là một trong những điều cần xảy ra, và trong lý tưởng đã phải xảy ra trên thế giới, là sự trồi dậy của một ý thức xã hội rộng lớn hơn về một thế giới đã trở nên kết nối hơn bao giờ hết. Những gì xảy ra tại một nước ảnh hưởng đến những gì xảy ra tại mọi nước khác, cho nên hẳn là có một nhu cầu đoàn kết hơn, nhiều sẵn lòng hơn từ các quốc gia giàu có để trợ giúp các nước khác.

Một lần nữa, đây là cơ hội để con nhìn thấy một số quốc gia mặc dù phải đương đầu với nguy cấp tại nước mình nhưng vẫn dang tay ra để giúp đỡ những nước bị khủng hoảng trầm trọng hơn mình. Và tất nhiên trong lý tưởng, điều này cần xảy ra trên bình diện rộng lớn hơn, với ý thức là tất cả loài người đều nối kết với nhau, rằng có những sự kiện ảnh hưởng chung đến tất cả, và tất cả chúng ta cần góp một tay để giải quyết vấn đề chứ không chỉ lo cho dân tộc mình mà thôi.

Tiến trình sáng tạo cơ thể con người

Hỏi: Gần đây con có xem một phim cũ “Inherit the Wind” (Thừa hưởng Gió) – nói chung phim này vừa chế giễu Kinh thánh vừa tôn vinh quyển sách “Nguồn gốc các Loài” của Darwin. Con có cảm tưởng như khoa học duy vật đang thay thế một tôn giáo lỗi thời và giả dối, và cả hai bên cuộc tranh luận đầy rẫy những điều không thực. Thuyết tiến hóa là một phần quan trọng của nền giáo dục hiện đại, nhưng nói cho cùng, đó vẫn chỉ là một quan niệm thiếu sót hay chưa đầy đủ. Xin thày vui lòng nhận xét về vấn đề này, đặc biệt là tiến trình sáng tạo cơ thể vật lý cho các sinh thể tâm linh đến cư ngụ? Nếu tất cả là do tâm tạo ra, thì liệu một cơ thể vật lý trên một hành tinh như địa cầu có thể được tạo ra ngay lập tức trong phiên bản hoàn chỉnh của nó, hay liệu nó cần phải kinh qua một tiến trình phát triển tuần tự hơn? Con dùng từ “hoàn chỉnh” một cách rất lỏng lẻo vì rõ ràng cơ thể vật lý của chúng con đang thay đổi nhanh chóng để thể hiện mức tâm thức của chúng con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Trên một hành tinh tự nhiên, cơ thể con người – nếu có thể gọi là “con người” trên một hành tinh tự nhiên, nhưng để dùng một thuật ngữ thông dụng trên địa cầu – cơ thể con người không phải là kết quả của một quá trình mang thai kéo dài. Không có nhu cầu phải có quan hệ tình dục để thụ thai hay để có một đứa trẻ sinh ra đời như một hài nhi, rồi sau đó mất nhiều năm trời lớn lên và trưởng thành. Nói chung chung, người ta có khả năng kết đọng (precipitate) một cơ thể vào tầng vật lý xuyên qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm.

Trên địa cầu hay trên bất kỳ hành tinh phi tự nhiên nào khác, chuyện đó không thể làm được. Đó là vì sao trên các hành tinh phi tự nhiên, con mới có tình trạng cơ thể con người được sinh ra đời qua một động tác tình dục hay truyền giống, rồi mang thai lâu dài, rồi có một tiến trình trưởng thành cũng lâu dài. Tất nhiên đây là điều con chứng kiến trong cõi động vật, và đó chính là lý do tại sao các nhà khoa học duy vật đã mô tả con người cũng chẳng hơn gì một dạng động vật tinh xảo, và đó cũng là lý do họ tin vào một tiến trình tiến hóa hoàn toàn duy vật và máy móc đã đưa các dạng động vật thành dạng con người.

Họ dư biết là họ không thể giải thích tất cả các giai đọan của tiến trình này – vì cái mắt xích vắng mặt (missing link) vẫn tiếp tục vắng mặt – nhưng họ không sẵn lòng nhìn vào các điểm thiếu nhất quán trong hệ thống tin tưởng của họ, chẳng khác gì tín đồ của hầu hết các tôn giáo. Đó là tại sao chúng tôi các chân sư thăng thiên đã từng nói rằng chủ nghĩa duy vật, trên mặt cơ bản, là một tôn giáo mà mục đích nhắm vào việc thay thế tôn giáo Cơ đốc.

Cho nên thực tế là trên địa cầu, con không thể sinh thành một cơ thể vật lý bằng tâm. Chuyện này có thể làm được trên một hành tinh tự nhiên, nhưng ngay cả khi con có khả năng làm được như vậy, thì như con đã nói chính xác, đó vẫn chưa phải là dạng hoàn chỉnh, dạng cuối cùng của cơ thể, vì trên một hành tinh tự nhiên, cơ thể cũng thay đổi lần hồi với thời gian, đồng bộ với những thay đổi trong tâm thức của sinh thể cư ngụ cơ thể đó. Cơ thể vật lý trên một hành tinh tự nhiên không đến nỗi dày đặc, vật chất cũng không đến nỗi dày đặc, và do đó bằng cách thay đổi tâm thức, con có thể thực sự thay đổi cơ thể của con ở một mức độ lớn hơn nhiều so với trên địa cầu.

Trên địa cầu có những người sử dụng phương tiện vật lý để thay đổi cơ thể của họ. Và tất nhiên là có khả năng thay đổi cơ thể duy chỉ bằng tâm – điều này một số sinh thể tiến hóa cao hơn đã làm được, chẳng hạn như một số đạo sư Yoga, và trong thời đại hoàng kim điều này cũng sẽ trở nên phổ biến hơn. Khi nào nhân loại đạt đến các mức cao của thời đại hoàng kim, con người sẽ có khả năng nâng cao tâm thức và bắt đầu biến đổi cơ thể của mình. Tuy vậy trong giai đoạn 2000 năm sắp tới, con người vẫn sẽ cần thụ thai và mang thai theo cách bình thường.

Niềm tin ảnh hưởng đến cơ thể như thế nào

Hỏi: Có những điểm nào trên cơ thể nơi con cất giữ một số niềm tin gây giới hạn hay không? Ví dụ, nếu con có niềm tin là mình không xứng đáng, liệu niềm tin này có nằm ở một chỗ đặc thù trong trường hào quang của con và do đó cũng có một dấu in ở một vị trí đặc thù trong cơ thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Như các thày có giải thích, cơ thể vật lý là kết quả của những gì xảy ra ở các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc – có thể nói đó là một sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở các tầng đó. Rõ ràng con có thể nói là nếu con lấy cơ thể vật lý chẳng hạn, thì có một hình ảnh hay một dấu in của cơ thể vật lý ở tầng cảm xúc, ở tầng lý trí và ở tầng bản sắc. Tất nhiên là những hình ảnh này đều khác nhau.

Nhưng dẫu sao con có thể nói là trong cảm thể có một loại bản đồ của cơ thể tương ứng với cơ thể vật lý. Và trên bản đồ này có một số cảm xúc tương ứng với một số vị trí như các bộ phận trong cơ thể. Và thật vậy, rất đúng là con có thể lập ra một bản đồ như vậy. Hiện đã có nhiều thuyết, nhiều cách điều trị, nhiều phương pháp chữa bệnh khác nhau đang dùng theo cách này. Các thày đang làm việc với một số người để truyền đạt nhiều hiểu biết hơn trong lãnh vực đó, nhưng những điều này vượt khỏi những gì các thày đã quyết định đưa ra trong đợt truyền pháp này, ít ra vào thời điểm này.

Nếu con quan tâm đến lãnh vực này, con sẽ cần đi ra ngoài và tìm kiếm một hệ thống hay một niềm tin hay một lý thuyết đáp ứng với con, đánh động được tâm con. Và khi đó tất nhiên, con sẽ có thể dùng nó song song với giáo lý của các thày. Chắc chắn khi con nhận biết có một bộ phận cơ thể nào đó đang phải gánh chịu một năng lượng cảm xúc, con có thể dùng bài chú và bài thỉnh thích hợp để tiêu hủy năng lượng này. Và con cũng có thể dùng kỹ thuật của các thày để nhận diện các ngã tách biệt hầu chữa lành một bộ phận nơi con cảm thấy có gánh nặng.

Hoàn toàn không có chuyện giáo lý của các thày gạt bỏ mọi hệ thống khác, hay con cần phải chấp nhận vị sứ giả này hay phải sử dụng những lời dạy này. Tất nhiên là con được tự do sử dụng giáo lý trong những bối cảnh khác, sử dụng đồng hành với các phương thức chữa lành khác, có lẽ thậm chí con có thể giới thiệu cho người khác sử dụng như một cách hiệu quả để giải quyết các điều kiện đang tạo gánh nặng cho họ.

Như Saint Germain, ta cũng sẽ nói là khi loài người tiến sâu hơn vào Thời Hoàng kim, tất cả những mối phân rẽ giữa con người sẽ bắt đầu mờ nhạt đi. Và điều này cũng có nghĩa là trong lãnh vực chữa lành, càng ngày sẽ càng bớt tư duy độc quyền đòi hỏi người ta phải gia nhập một phong trào nhất định, một hệ thống nhất định, và phải chấp nhận nó hoàn toàn và không được chấp nhận bất cứ gì khác. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra chẳng hạn với các giáo lý của chân sư thăng thiên – các giáo lý này cũng sẽ bớt rõ nét, và con người sẽ học nhiều loại lời dạy khác nhau từ các chân sư thăng thiên. 

Và sẽ có những tổ chức được hình thành cởi mở với nhiều lời dạy khác nhau của chân sư thăng thiên. Sẽ có những tổ chức, như hiện đã có ở một mức độ nào đó, cởi mở với nhiều loại dụng cụ tâm linh, nhiều kỹ thuật, nhiều phương thức chữa lành, qua đó vấn đề không còn là: “Bạn có tin cái này hay bạn tin cái kia?” mà câu hỏi đặt ra sẽ là: “Cái gì hiệu quả? Cái gì đem lại kết quả? Cái gì thực sự giúp ích con người?”

Một lời cảnh báo mà ta sẽ đưa ra ở đây: điều rất quan trọng cần ghi nhớ là cơ thể chỉ là một sự phóng chiếu khởi sự ở tầng bản sắc, đi vào tầng lý trí rồi mới vào tầng cảm xúc. Nhưng có một số phương thức chữa bệnh lại đi ngược chiều. Họ tin rằng bí quyết chữa trị hay tăng trưởng tâm linh là phải làm gì đó ở tầng cơ thể vật lý, và đó là cách duy nhất hay cách hiệu quả nhất để chữa trị các thể kia.

Ta không bảo là con không nên làm gì với cơ thể vật lý khi nào cần thiết. Nhưng khi con nói tới việc chữa lành tâm linh hay tâm lý, con cần khởi đầu ở các thể cao. Trong một số trường hợp, có thể con sẽ cần bắt đầu với cảm xúc rồi đi lên các tầng lý trí và bản sắc. Những lúc khác, con có thể đi vào tầng lý trí hay có khi tầng bản sắc.

Nhưng con đừng bắt đầu tin là chìa khóa của sự tăng trưởng tâm linh chẳng hạn, là phải làm gì đó với cơ thể vật lý hay làm gì cho cơ thể vật lý. Bởi vì đó không phải là cách hiệu quả nhất để theo đuổi tăng triển tâm linh. Ta biết rất rõ là nhiều người đang làm theo cách này. Ví dụ, nhiều người tin rằng yoga như một phương pháp thực tập vật lý là một cách tăng trưởng tâm linh hiệu quả. Ta không bảo là nó không giúp gì cho sự tăng trưởng tâm linh, nhưng đó không phải là cách tăng trưởng tâm linh hiệu quả nhất. Bởi vì cách hiệu quả nhất là làm việc trực tiếp với các thể cao.

Con muốn thị hiện những gì trong kiếp này?

Hỏi: Kinh sách dạy rằng: “Hãy hỏi thì sẽ nhận được.” Con đã theo dõi một số đạo sư Thời mới và họ cũng dạy cách thị hiện bất cứ gì con muốn. Con xin hỏi làm thế nào con có thể thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con buông bỏ các ham muốn vị kỷ để thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con biết được ham muốn của con có phù hợp với quy luật thiêng liêng hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Ta biết rõ ở ngoài kia có nguyên một ngành công nghệ với những vị đạo sư tuyên bố là họ dạy cho học trò cách làm thế nào thị hiện bất cứ điều gì mình muốn trong đời. Ta không nói là việc thị hiện như vậy không thể hiệu quả ở một cấp độ nào đó cho một số người, bởi vì tất nhiên con có thể dùng quyền năng tâm linh để thị hiện một số điều kiện vật lý.

Nhưng vì con là người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, câu hỏi thật sự cho con không phải là liệu con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn, mà là thị hiện một điều gì đồng hành với các mục tiêu tâm linh của con. Nếu mục tiêu của con là thăng thiên sau kiếp này thì chuyện thị hiện một mục tiêu vật chất sẽ quan trọng như thế nào? Con có thể xem việc trải nghiệm một số điều kiện là quan trọng, chẳng hạn như một căn nhà đẹp đẽ để con có thể thăng vượt ham muốn nhà đẹp, và chuyện này cũng ổn thôi. Nó có thể thẳng hàng với sự tăng triển tâm linh của con.

Nhưng cách thực sự để giải quyết vấn đề này, tất nhiên, là nhận ra rằng bất kỳ ham muốn thấp kém nào, bất kỳ ham muốn không chính đáng nào – nếu có thể gọi như vậy – hay bất kỳ ham muốn phản tâm linh nào cũng đều xuất phát từ một ngã tách biệt. Bằng cách dùng các dụng cụ của các thày để làm việc trên ngã tách biệt này, con sẽ có thể dần dần từ bỏ các ham muốn thấp kém đó.

Khi con là một người tâm linh muốn tiến bộ tối đa, đặc biệt nếu đây là kiếp đầu thai chót của con, con phải nhận ra là con có thể có nhiều ham muốn thấp kém mà con dư sức hoàn thành trong kiếp này, nhưng chúng sẽ khiến con bị xao lãng. Chúng sẽ tốn thời giờ, tốn năng lượng, tốn tài nguyên, và chúng khiến con đi chệch khỏi mục tiêu chủ yếu là việc tăng triển tâm linh.

Một phần của đường tu của con là kinh qua tiến trình xem xét ham muốn của mình, nhìn xem ham muốn có đến từ một ngã tách biệt, xong thay vì nghĩ rằng mình phải thực hiện mong muốn đó – một điều có thể mất rất nhiều thời gian – thì con để cho ngã đó chết đi. Việc này không nhất thiết sẽ tốn nhiều thời gian và con sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trên đường tu của con.

Âm lượng khi đọc chú

Hỏi: Con phải đọc các bài chú và bài thỉnh to bao nhiêu? Nếu con đọc to đủ để con nghe thấy, liệu như vậy có đủ không, hay là cần to hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn trội và cảm nhận thiếu trọn vẹn, tổn thương và tập trung vào bên ngoài. Đăng ngày 28/5/2021.

Điều này tùy thuộc phần nào vào hoàn cảnh thực tế của con. Nếu trong hoàn cảnh của mình, con không thể có được một nơi riêng tư để người khác không nghe thấy con, và nếu đó là một vấn đề cho con, thì con có thể đọc vừa đủ to để một mình con nghe thấy và người khác không nghe thấy được. Như vậy chắc chắn còn tốt hơn là không đọc ra tiếng.

Nhưng lý tưởng là con ở một nơi riêng tư, nơi con không làm phiền ai và người khác cũng không làm phiền con. Khi đó, con có thể đọc to như con muốn, miễn là con thoải mái và giọng nói không bị gắng quá sức. Đối với sứ giả thì hơi khác, vì tất nhiên khi ông dẫn đầu buổi đọc chú trong một nhóm hay ngay cả trên internet, ông cần phát âm lớn hơn để mọi người có thể nghe được. Nhưng con không nhất thiết phải làm vậy khi con một mình.

Tuy nhiên, một khi con có kinh nghiệm đọc chú và đọc thỉnh nhiều hơn, con sẽ nhận ra là có một âm lượng cảm thấy thoải mái cho giọng con, trong khi vẫn đem lại uy lực nhiều hơn cho bài chú và bài thỉnh. Nói cách khác, con muốn đạt được một dòng chảy mà tốc độ lẫn âm lượng được định đoạt bởi Tánh linh. Giản dị là Thánh linh tuôn chảy qua con và ấn định tốc độ cùng âm lượng, và điều này cho con tác động tối đa. Đây không phải là một điều con quyết định với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ để yên cho nó chảy. Khi con ngày càng kinh nghiệm hơn, con sẽ nhập vào dòng chảy này hầu như tức thì, ngay khi con bắt đầu.

Quỷ là gì?

Hỏi: Chúng con thấy trong các bài thỉnh thường nói đến quỷ, vậy xin các thày cho biết ý kiến nếu thích hợp. Quỷ là gì? Thế nào là một con quỷ? Quỷ được tạo ra làm sao? Quỷ hình thành mất bao nhiêu thời gian? Quỷ có phải là những linh hồn đã bị lạc lối quá, quá xa, hay chúng chỉ là một tập hợp những năng lượng dày đặc, đen tối đã đạt được tự chủ và hành xử hung hãn đối với loài người? Vậy quỷ là gì? Con người có quyền tự quyết, vậy thì quỷ có gì? Liệu chúng con có thể thỉnh cầu các chân sư thăng thiên giải thể chúng hay không?



Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có một số lời dạy về tiến trình tạo quỷ, nhưng để góp lại dưới một dạng dễ đọc, ta sẽ đưa ra một số nhận xét về đề tài này.

Trong các đợt truyền pháp trước cũng đã có nói về quỷ nhưng không mô tả rõ ràng quỷ chính xác là gì và chúng được tạo ra như thế nào. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi cũng có giải thích là hầu hết những con quỷ đều là tạo vật do con người và các sa nhân tạo ra khi họ tập trung vào một vấn đề tồi tệ nào đó, chẳng hạn như chiến tranh.

Khởi đầu, con tham gia vào một cuộc chiến, con tập trung chú ý vào chiến tranh ở các tầng bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Qua năng lượng được tập trung như vậy, con tạo ra một con quỷ nơi cõi cảm xúc. Con cũng có thể tạo ra những tà thể hay tà thể tập thể, những con quái vật tập thể trong cõi lý trí và cõi bản sắc liên quan đến chiến tranh, nhưng khi gọi là quỷ thì đó là quỷ trong cõi cảm xúc.

Đây là một sinh thể mà con người hay sa nhân tạo ra nơi ba cõi cao hơn. Quỷ không có ngọn lửa ba nhánh, không có cái Ta Biết, không có quyền tự quyết. Nó đã được lập trình để hành xử theo một khuôn đúc, và nó không có khả năng lùi lại để tự xem xét và thay đổi khuôn đúc đó. Nó giống như một chiếc máy tính cứ không ngừng chạy mãi cùng một chương trình một cách ngu ngốc. Một con quỷ có một chút khả năng nhận biết, và để sống còn, nó cần năng lượng từ con người.

Vì vậy nếu một con quỷ được tạo ra từ những giết chóc xảy ra trong chiến tranh, nó sẽ lôi kéo cảm thể của mọi người để khiến họ giao chiến với nhau, hoặc xung đột với nhau trong những hình thức bạo lực khác, hầu nó có thể đánh cắp năng lượng được phóng ra qua hành động chiến tranh. Có cả những con quỷ bòn rút năng lượng từ những người tham gia vào các loại kỹ nghệ quân sự, sản xuất vũ khí, nghiên cứu vũ khí, học tập cách sử dụng vũ khí, suy nghĩ về những loại vũ khí giết người, và tất cả những loại hoạt động như vậy.

Chúng tôi cũng đã có đề cặp đến một loại quỷ khác, trên cơ bản là những sa nhân bị chìm xuống một mức tâm thức thấp kém đến độ chúng không còn sót lại chút khả năng tự nhận biết nào. Chúng không thật có khả năng tự quyết, và chúng không có khả năng thay đổi hay cải sửa. Cho nên chúng cũng được xem là quỷ vì chúng hoạt động ở cùng một trình độ máy móc giống như quỷ.

Và lẽ tự nhiên, khi con là học trò của chân sư thăng thiên, điều quan trọng là con nhận thức được sự hiện hữu của những sinh thể bóng tối đó, bởi vì làm sao con có thể thoát ra khỏi chúng nếu con không biết là chúng có đó? Làm sao con có thể bảo vệ bản thân khỏi vi khuẩn trong nước uống nếu con không biết là có vi khuẩn?

Hiển nhiên, con có thể thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho con. Trong nhiều bài thỉnh, chúng tôi đề nghị con kêu gọi cho chúng bị buộc chặt lại, hầu các chân sư có thể dọn sạch chúng khỏi tâm thức tập thể và giải phóng hành tinh khỏi ảnh hưởng của chúng.

Và dĩ nhiên, chúng tôi cũng đã có đề cập tới những tà thể, những con quái vật tập thể, và ngay cả một số khuôn đúc trong tâm thức tập thể. Vậy sự khác biệt với quỷ là gì?

Chủ yếu, quỷ là loài hung hãn hơn. Chúng tìm cách ảnh hưởng con người một cách trực tiếp và hung hăng hơn. Và do đó, chúng có nhiều quyền năng hơn đối với những ai đã có sẵn nhược điểm đối với tác động của chúng. Chúng tôi có thể đưa ra ví dụ một con quỷ chiến tranh sẽ vô cùng hung hăng dồn sức để chiếm đoạt tâm trí của mọi người khiến cho quần chúng bị rơi vào tâm trạng không còn quan tâm gì nữa đến hậu quả của chiến tranh. Thế là họ quyết liệt xông ra trận, ra tay giết hại càng nhiều người càng tốt.

Chúng tôi cũng có thể nói đến một tà thể có tên là tà thể kỹ nghệ thuốc lá. Tà thể này chuyên tìm cách xúi giục mọi người hút thuốc. Nhưng nó không hung hãn như con quỷ chiến tranh, chẳng hạn. Cho nên theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là tà thể đã được tạo ra theo cùng một phương thức, tức là một sự tập trung năng lượng thường thường do kết quả của một hành động vật lý nào đó. Nhưng chúng tôi đã sử dụng từ ngữ hơi khác cho tà thể để chỉ ra sự khác biệt trong mức độ hung hãn.

Cái ngã cho con cảm nhận liên tục

Hỏi: Con nhận ra là con có một cái ngã mà con gọi là “cái ngã tôi”. Nó không có đặc điểm nào cụ thể, nhưng nó cho con ý niệm rằng con là chính con chứ không phải là một ai khác hay một cái gì khác. Nó cho con một cảm nhận liên tục, tức là sau khi con đã thay đổi hình ảnh bản thân bao nhiêu lần, nó vẫn là con. Đã rất lâu con tin rằng đó là cái Ta Biết. Nhưng bỗng nhiên con nhận ra rằng ý niệm “mình là mình” chỉ là một cái ngã và nó cần chết đi. Và khám phá này khiến con kinh hãi suốt hai tuần lễ.

Thậm chí, con – hay đúng hơn, cái ngã đó – đã rất giận các chân sư thăng thiên. Con bị sốc bởi phản ứng của mình, bởi nỗi sợ và nỗi tức giận đó. Sau khi suy ngẫm về sự tình suốt mấy tuần, con nhận ra là điều con thấy rất có thể là tự ngã. Thưa nói vậy có đúng không? Phải chăng cảm nhận liên tục mà chúng ta có trên địa cầu phát xuất từ tự ngã? Con có cảm giác vấn đề này có gì nhiều hơn vậy, nhưng con không thấy rõ được. Xin thày vui lòng cho con một tầm nhìn cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Tự ngã có nhiều khía cạnh, và con sẽ nhận thấy là những giáo lý đầu tiên mà chúng tôi ban ra đã giảng dạy đặc biệt về tự ngã. Rồi sau đó chúng tôi đã chuyển sang việc giảng dạy về các ngã tách biệt. Lẽ tự nhiên, con có thể hỏi: Tự ngã là gì? À, đó là một tập hợp những cái ngã tách biệt. Nhưng đằng sau tất cả những cái ngã đó có cái ngã mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Điều con cần cẩn thận – khi con cảm thấy vấn đề này có gì nhiều hơn như vậy – là con phải nhận ra sự khác biệt giữa cái ngã đầu tiên mà con tạo ra sau khi con hiện thân vật lý trên một hành tinh như địa cầu, và cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Ngã đầu tiên mà con tạo ra chỉ đơn giản là một cái ngã cho phép con tự biểu đạt qua bốn thể phàm của con. Đây là cái ngã cho con cảm nhận mình liên tục, để khi con tăng triển trên đường tâm linh, con vẫn có ý niệm con là cùng một con người đang tăng triển, và đó là tại sao con không đánh mất ý niệm bản sắc của mình. Một số người bị mất ý niệm bản sắc khi họ tìm cách cưỡng ép sự tăng triển, và họ có thể trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc.

Vấn đề tinh tế ở đây là cái ngã mà con tạo ra sau khi bước vào nhị nguyên cũng cho con một cảm giác liên tục như là một sinh thể tách biệt. Khi con trải nghiệm cái ngã tức giận, cái ngã sợ chết, cái ngã oán giận các chân sư thăng thiên, đó chính là cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên. Theo thuật ngữ được sử dụng trong phong trào Summit Lighthouse, con có thể nói đó là cốt lõi của “Kẻ ngụ trên Ngưỡng cửa” (Dweller on the Threshold). Nó muốn ngăn cản con tăng triển và cầm giữ con lại. Thật đúng là ngã này phải chết đi.

Bây giờ trở về với ngã kia, cái ngã chỉ đơn giản cho phép con đầu thai trên một hành tinh như địa cầu và mang một ý niệm liên tục, đúng là ngã đó không phải là cái Ta Biết, mà là ngã đầu tiên được cái Ta Biết tạo ra, cho nên nó cũng là cái ngã chót mà cái Ta Biết sẽ từ bỏ. Đây là cái ngã chỉ đơn giản cho con một cảm nhận liên tục. Cũng đúng là nó cần chết đi, nhưng nó là ngã cuối cùng cần chết đi. Nó là cái Hồn ma (the Ghost) mà ta đã từ bỏ trên thập tự giá, và chính con cũng sẽ từ bỏ ở tầng tâm thức 144 trước khi con thăng thiên.

Con có thể nói rằng tự ngã, cái ngã sinh ra từ nhị nguyên, chống đối sự tăng triển của con. Nhưng cái ngã kia mà con đề cập và đem lại cho con cảm nhận liên tục, kỳ thực nó là một phần của sự phát triển của con, thậm chí là yếu tố giúp cho con phát triển. Con cần nó để hội nhập với bốn thể phàm của con, con cần nó để có cảm giác sống liên tục trên địa cầu. Và nó cũng là loại ngã cho con cái góc nhìn độc nhất vô nhị của con.

Đây là điểm chúng tôi đã cố giải thích trong buổi hội nghị về quả vị Ki-tô khi chúng tôi nói rằng hai người đạt đến cùng một trình độ quả vị Ki-tô mà vẫn có thể có những quan điểm khác nhau trên một số vấn đề. Bởi vì người này nhìn vấn đề từ góc nhìn này, trong khi người kia nhìn từ góc nhìn kia. Không phải là một người đúng, người kia sai. Không phải một người tốt giỏi hơn người kia, mà chỉ là những cách nhìn khác nhau.

Ta không đang bàn đến những loại quan điểm nhị nguyên mà ta nói rằng ngay cả khi con đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô nào đó, thì con vẫn mang một nhãn quan mà chúng tôi gọi là nhãn quan cục bộ, địa phương (localized). Cũng giống như tất cả các con đang thấy gì khi các con nhìn qua mắt vật lý của mình – người kia đang nhìn con và thấy con, nhưng con thì không thấy con mà lại thấy người kia. Chỉ là hai góc nhìn khác nhau chứ không có cái đúng cái sai – thật là vô nghĩa nếu áp dụng cách lượng định như vậy. Không có góc nhìn này tốt hơn góc nhìn kia, nhưng có một góc nhìn chỉ của riêng con.

Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên, thậm chí cả trên một hành tinh tự nhiên, con bắt buộc phải nhìn cuộc sống từ một nhãn quan giới hạn, cục bộ. Và đó chính là cái ngã mà con đã tạo ra để cho con cái nhìn cục bộ đó khi con hiện thân. Đó là cái ngã chót mà con sẽ bỏ lại.

Con người máy móc và bản chất của cái Ta Biết

Hỏi: Vào thời tổ chức Summit Lighthouse có lời dạy về những người khổng lồ Nephilim đã kết hợp dòng giống của họ với dòng giống thú vật. Điều này có nghĩa gì? Nếu có thực, liệu họ cũng có một cái Ta Biết hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Vào thời tổ chức Summit Lighthouse đã có đưa ra một số lời dạy về nhiều loại sa nhân đến từ nhiều gốc tích khác nhau, và các thày đã quyết định không lặp lại những lời dạy đó trong đợt truyền pháp này. Điều con hỏi có nghĩa đã có một thời trong quá khứ, vào thời Atlantis và ngay cả các nền văn minh trước đó, con người có khả năng thao tác gen – giống như loài người thời nay cũng làm được, tuy thật sự khả năng của họ trước kia có tinh xảo hơn.

Có một số sa nhân ở một trình độ tiến hóa nào đó đã tìm cách pha trộn DNA của họ với DNA của động vật để tạo ra một giống người nô lệ – hay nói cách khác, những “con người” không có hoàn toàn khả năng tự nhận biết. Ban đầu, các sinh thể này không có cái Ta Biết, vì tất nhiên sa nhân không có khả năng phú cái Ta Biết cho bất kỳ sinh thể nào. Chỉ có các chân sư thăng thiên mới có khả năng này.

Nhưng chuyện này đã xảy ra rất lâu rồi. Tuyệt đại đa số những sinh thể đó, hoặc không còn đầu thai nữa, hoặc đã nhận được một cái Ta Biết cùng ngọn lửa ba nhánh do họ đã tăng triển khi tham gia vào tâm thức tập thể trên địa cầu.

Vào thời Summit Lighthouse, các thày cũng đưa ra một số lời dạy về những “người máy móc”, là một giống người mà gen trong cơ thể đã bị biến đổi, và họ không mang ngọn lửa ba nhánh hay cái Ta Biết. Và họ cũng không có khả năng tự thăng vượt. Họ được tạo ra để trở thành những con ong thợ, một giống nô lệ cho sa nhân.

Ngày nay, điều các thày ưa nói nhiều hơn về sự kiện có những người đã dựng lên quá nhiều lớp ngã tách biệt đến độ gần như họ hoạt động một cách máy móc, do họ không sử dụng khả năng tự xem xét bản thân, khả năng đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi đang hành xử như thế này? Tại sao tôi phản ứng cách này? Liệu tôi có thể thay đổi phản ứng của tôi không?” Theo nghĩa đó, họ đang ở trong một trạng thái tâm thức máy móc.

Ngược lại với những gì sa nhân thường nghĩ, chính sa nhân cũng rơi vào hạng người này. Một sa nhân không dùng đến khả năng tự nhận biết của y để tự quan sát mình và tự hỏi: “Tại sao tôi đang làm chuyện này? Tại sao tôi cứ phản ứng như thế? Tôi có thay đổi được gì không?” Đó là cách vận hành máy móc. Nếu so với các sinh thể kia mà ta vừa đề cập ở trên, thì sa nhân có vẻ tinh xảo hơn nhiều do y đã tồn tại từ rất lâu đời, nhưng đây vẫn là cách vận hành máy móc vì y không tự thăng vượt.

Và đây là sự khác biệt thực sự: Liệu sinh thể đó có đang tự thăng vượt hay không bằng cách sử dụng khả năng nhận biết của mình, khả năng bước lui lại khỏi chính mình, tự nhìn vào mình và đặt câu hỏi? Đây chính là bản chất của cái Ta Biết.

Trên lý thuyết thì sa nhân có khả năng như thế, nhưng thường thường họ đã tạo ra quá nhiều lớp vỏ khi sa ngã, có lẽ qua mấy bầu cõi, đến độ khả năng này bị chôn vùi quá sâu khiến họ không thể dùng được trên thực tế.

Thật ra một số các con, kể cả vị sứ giả này, đã gặp những sa nhân giống y như vậy. Họ không có sự tự nhận biết bình thường. Họ nghĩ là mọi người khác nhìn vào bản thân giống như chính họ nhìn bản thân họ hay nhìn thế giới. Khi họ phát biểu, họ nghĩ là mọi người khác đều xem chuyện đó là quan trọng và tán thành lời nói của họ giống như chính họ đang tán thành. Họ không có khả năng – hay ít ra họ không sẵn lòng sử dụng khả năng – bước lui lại để nhận ra là thật sự không phải như thế. 

Đây cũng là lý do tại sao một số các con – kỳ thực nhiều người trong các con – có quen biết trong đời mình một số người mà con không thể nào chạm được, cho dù con đã cố nói chuyện rất nhiều lần để giải thích một điều gì đó với họ. Con không thể khiến họ nhìn ra vấn đề chỉ vì họ không thể, hay không sẵn lòng, kích hoạt khả năng nhìn vào bản thân họ từ bên ngoài. Khả năng này là tinh túy của cái Ta Biết.

Mười Điều răn và các tầng tâm thức trên địa cầu

Hỏi: Con được biết qua các bài truyền đọc mới đây rằng các điều răn mà Thượng đế ban cho Môi-sê là từ một đợt truyền pháp xưa cũ và không còn áp dụng được trên địa cầu. Nhưng điều này có vẻ không thực tế từ quan điểm của phân biện Ki-tô. Xin một trong các thày làm rõ điểm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn người và cảm nhận bất toàn, đau đớn và chú tâm ra ngoài bản thân. Đăng ngày 28/5/2021.

Cái nhìn đúng đắn về vấn đề này là Mười Điều răn đã được ban cho một mức độ tâm thức nào đó. Và ngày nay vẫn còn khá nhiều người trên địa cầu đang ở mức tâm thức này. Cho nên đối với những người này, Mười Điều răn vẫn còn xác đáng vì nó tương ứng với mức tâm thức của họ. Họ cần phải có những điều răn thật nghiêm nghị như thế – phải làm điều này hay phải làm điều kia – bởi vì đó là tất cả những gì họ có khả năng nắm bắt.

Nhưng đối với rất, rất nhiều người khác trên địa cầu, đặc biệt tại các nước mà chúng ta gọi là tiền tiến, những điều này không còn áp dụng được nữa vì họ đã thăng vượt mức tâm thức đó rồi. Họ không cần điều răn mà cần hiểu tại sao họ không được làm chuyện này mà cần làm chuyện kia. Đây là kết quả của sự tăng trưởng tâm thức. Và tất nhiên, có những mức cao hơn nữa khi con người nhận biết những điều đó qua trực giác, họ biết điều gì cần làm và điều gì không nên làm.

Cho nên như con thấy, có tầng mức của những điều răn. Có tầng mức của một số nguyên tắc đạo đức hay đạo lý hướng dẫn con người, mà trên hết là nguyên tắc không được làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình. Và có tầng mức cao hơn khi cá nhân mỗi người hòa điệu vào bên trong và cảm nhận đâu là cách cư xử đúng đắn nhất cho mình. Luôn luôn sẽ có nhiều cấp độ tâm thức như vậy, tuy rằng trong tương lai nhân loại sẽ tới mức không ai còn ở lại tâm thức Kinh Cựu ước nữa, và do đó không còn cần đến Mười Điều răn.

Khác biệt giữa nhận trách nhiệm về bản thân và kiểm soát đời mình

Hỏi: Các thày yêu dấu, trong quyển sách về Trò chơi của Tự ngã, thày nói chúng con nên nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về đời mình, sáng tạo đời mình, quản lý đời mình, nhưng trong các bài truyền đọc khác thày lại nói là ở các tầng tâm thức Ki-tô cao hơn, chúng con không nên dùng quyền năng tâm lý để tạo ra đời mình, mà chúng con nên buông bỏ chính mình, xuôi theo dòng chảy và chấp nhận mọi chuyện sẽ xảy ra. Làm thế nào con có thể nhận ra hay hiểu ra đã đến lúc con phải buông bỏ ý muốn kiểm soát đời mình? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 27/5/2021.

Điều quan trọng là con cần tách rời hai khái niệm đó để con không trộn lẫn với nhau. Tự ngã là phương tiện kiểm soát chủ yếu. Đó là yếu tố chủ yếu trong tâm lý con muốn kiểm soát mọi chuyện. Đó là tại sao tự ngã bày ra một số trò chơi kiểm soát. Nhưng việc nhận lãnh trách nhiệm về bản thân thì khác. Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân không có nghĩa là con kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời con, mà có nghĩa là con nhận trách nhiệm về tâm lý của mình và nhận ra rằng rất nhiều khía cạnh trong đời mình chính là các khuôn nếp tâm lý chưa giải quyết của mình đang trình chiếu ra bên ngoài.

Nhưng đồng thời con cũng nhìn nhận là rất nhiều điều kiện của đời con không phải là do tâm lý hay những chọn lựa của con, mà do con đang sống trong một cộng đồng với nhiều người khác, trong một quốc gia hay thậm chí do con sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Vì vậy con không thể chờ đợi là khi con tăng triển quả vị Ki-tô của mình, con sẽ có thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Chắc chắn chính ta đã không kiểm soát được mọi khía cạnh của đời ta vì ta đã không ép buộc bất cứ ai phải treo ta lên thập tự giá, mà ta đã cho phép điều này xảy ra do ta thấy đó là một phần trong quả vị Ki-tô của mình.

Và đây chính là những gì xảy ra khi con tăng triển quả vị Ki-tô của con. Con tăng triển khả năng phân biện để biết được trong trường hợp nào con có thể sử dùng uy lực của mình để thị hiện một số tình huống, và trong trường hợp nào con cần bước lui lại và cho phép các sự cố trải bày ra. Cũng có thể nói là sẽ có một tầng cao hơn nữa của quả vị Ki-tô khi con không xét đến cả tình huống đặc thù nào phải cần xuất hiện, mà con chỉ đơn giản xuôi theo Dòng sông sự Sống, con chỉ cho phép các hoàn cảnh trài bày ra một cách tự nhiên mà không trù liệu đời mình phải đi về đâu.

Ta không nói rằng việc có mục tiêu là sai. Ở các tầng thấp hơn trên đường tu, có mục tiêu là một điều quan trọng cho dù là mục tiêu vật lý hay mục tiêu tâm linh. Nhưng khi con vươn lên cao hơn và cao hơn nữa, con ngày càng hòa điệu hơn, con càng trở thành một cánh cửa rộng mở hơn cho Hiện diện TA LÀ. Và thay vì con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định những gì con muốn thị hiện, con cho phép Hiện diện chảy xuyên qua con và thị hiện những gì nó muốn thị hiện cho dù con không biết cái đó sẽ là gì với tâm vỏ ngoài.

Các hình tư tưởng của Phật Gautama

Hỏi: Con xin hỏi về các hình tư tưởng của Phật Gautama. Hình tư tưởng là một sự truyền rải. Vậy có nghĩa chăng là hình tư tưởng chứa đựng năng lượng do Phật Gautama truyền rải? Liệu chúng con có nên đọc hình tư tưởng như một lời cầu nguyện? Cho năm nay 2021 [cũng như những năm kế tiếp] chúng con có hai hình tư tưởng: “Phật Gautama thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất, Saint Germain thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế”. Chúng con có thể nào viết lại với tên của các vị chân sư khác hay không? Chẳng hạn, Giê-su Ki-tô thày là tấm gương tuyệt hảo cho tâm thức tập thể trên trái đất, Mẹ Mary thày là tấm gương tuyệt hảo cho vương quốc tinh linh, Đại thiên thần Michael thày là tấm gương tuyệt hảo cho đại đoàn thiên thần, Đại thượng sư Maha Chohan thày là tấm gương tuyệt hảo cho các nỗi sợ hãi của con người, vân vân. Hay năng lượng chỉ được rải truyền qua các hình tư tưởng của Phật Gautama?

Elizabeth Prophet có nói là khi chúng con lặp lại đúng những lời nguyên thủy của hình tư tưởng, chúng con sẽ tiếp cận trực tiếp với sự bảo vệ, sự hướng dẫn cùng phước lành của các chân sư thăng thiên. Có lẽ từ thời đó có điều gì đã thay đổi, vì bây giờ chúng ta đang bước vào một thời đại mới, Thời đại Bảo bình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 27/5/2021.

Các hình tư tưởng được ta ban truyền một cách đặc biệt, cho nên khi con hình dung các hình tư tưởng này theo đúng lời ta đã ban ra hay khi con lặp lại câu nói mà ta đã cho con năm nay, con sẽ tiếp cận với năng lượng mà ta đã bỏ vào trong đó. Vì vậy con không cần viết lại với tên các vị chân sư khác.

Con cũng cần nhận ra là không có ích lợi gì mà đọc, chẳng hạn, “Đại thiên thần Michael thày là tấm gương tuyệt hảo cho đại đoàn thiên thần.” Đại đoàn thiên thần không cần đến một tấm gương. Ta cũng khuyên con cứ đơn giản sử dụng các hình tư tưởng mà ta đã trao cho năm nay và như vậy là đủ.

Hiển nhiên con có thể lặp lại lời nguyên thủy của hình tư tưởng, nhưng nếu hình tư tưởng là một bài hình dung thì điều quan trọng hơn là con hãy hình dung thay vì chỉ lặp lại lời mô tả. Tất nhiên, không có gì đã thay đổi, theo nghĩa là con vẫn có thể tiếp cận với năng lượng được rải truyền qua một đợt truyền pháp.


[Ghi chú: Xin nhắc lại lời dặn của Phật Gautama khi thày đưa ra hình tư tưởng nguyên thủy trong bài “Con đang chú tâm vào điều gì?” ngày 30/12/2020.

Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất”.

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội.]

Cầu nguyện cho người quá cố

Hỏi: Vị linh mục tại tu viện nói chúng con cần cầu nguyện cho linh hồn người quá cố, và cầu nguyện như thế sẽ giúp cho linh hồn thăng lên một cõi cao hơn. Thưa có đúng không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Các chân sư thăng thiên đã có giảng là một linh hồn, tùy theo mức tâm thức đạt được trước khi qua đời, có thể bị kẹt lại nơi cõi trung giới chẳng hạn, và chắc chắn đây là một trường hợp con có thể cầu thỉnh để cắt đứt các sợi dây trói buộc hầu linh hồn đó có thể bước sang một cõi cao hơn và nhận được nhiều cơ hội tăng triển hơn trước khi tái đầu thai trong kiếp mới.

Ta không bảo là những lời cầu nguyện truyền thống mà nhiều hội thánh sử dụng không có tác dụng, tuy nhiên những cầu nguyện đó không thể nào hiệu quả bằng bài chú Astrea hay những bài thỉnh/bài chú khác mà chúng tôi đã ban ra trong mục đích này.

Cho nên đúng vậy, việc cầu nguyện quả là sẽ hữu ích, nhưng tốt hơn con nên sử dụng các bài thỉnh gọi để thỉnh trực tiếp các chân sư thăng thiên hầu các thày cắt đứt những mối dây nhợ và giúp cho linh hồn tiếp tục bước tới.

Hiển nhiên đây sẽ là một việc phụng sự quý báu mà con có thể đóng góp cho người thân của con sau khi họ qua đời. Chắc chắn con cũng có thể tổ chức một buổi cầu nguyện canh thức cho Astrea cũng như sử dụng những bài chú và bài thỉnh cho các chân sư khác như Đại thiên thần Michael hay ngọn lửa tím để chữa lành tâm lý. Nếu con được biết lúc sinh tiền, người thân của con đã gặp một số vấn đề tâm lý chưa được giải quyết, con có thể sử dụng những bài thỉnh để chữa lành chấn thương tâm linh đó và đọc lên thay mặt cho người quá cố.

Làm như vậy sẽ không đi ngược lại quyền tự quyết của người thân của con mà sẽ giúp cho họ chọn lựa dễ dàng hơn khi họ không còn ngụ trong thân xác vật lý nữa. Trừ khi họ bị kẹt lại nơi trung giới thì nói chung, ai ai cũng sẽ chọn lựa thay đổi tâm lý dễ dàng hơn khi mình không còn trong xác thân vật lý. Khi ở trong thân vật lý, họ thường mang gánh nặng của những điều kiện vật lý hay điều kiện tình cảm, khiến họ không có khả năng lấy những quyết định cần thiết cho sự phát triển của mình.

Đối phó với nỗi bất mãn sâu sắc về cuộc sống

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã đem lại giáo lý trong tư cách là sứ giả, nó đã giúp tôi rất nhiều. Tôi đã tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hơn 20 năm về trước. Tôi đã nỗ lực khám phá mục đích thực của mình là gì, sứ vụ thiêng liêng của mình là gì. Tôi đã thiết lập sự nối kết với cái ta cao hơn của mình, học cách nhận biết những thông điệp của cuộc sống, học cách tha thứ và yêu vô điều kiện. Nhờ quá trình này mà đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy bất mãn, tôi đánh mất ý nghĩa của cuộc sống, tôi cảm thấy như mình không đang sống cuộc đời của mình. Và tôi phải mất một thời gian để tìm lại động lực giúp mình bước tới. Tôi muốn hiểu gốc rễ của nỗi bất mãn sâu xa này. Làm thế nào chữa lành những chấn thương tình cảm và lý trí đó? Làm thế nào giữ cho sự nối kết với cái ta cao hơn của tôi được thường trực và ổn định, hầu tôi có thể thị hiện một cách ý thức vương quốc của Thượng đế trên địa cầu và hoàn thành một cách ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Dựa trên kinh nghiệm bản thân, tôi xin nói là trong số những người tâm linh có một loại giấc mơ – chính tôi cũng đã mang giấc mơ này khi còn trẻ, và tôi đã thấy rất, rất nhiều người mang cùng giấc mơ đó như thế này: Nếu chúng ta tìm được giáo lý tâm linh đúng đắn, và nếu chúng ta tu học thật hăng say, thì nhất định chúng ta sẽ đạt tới điểm đột phá. Và khi chúng ta đột phá thì chúng ta sẽ giác ngộ – hay bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta có về giác ngộ – và giờ đây mọi chuyện sẽ tuyệt vời.

Bản thân tôi đã mang giấc mơ này trong nhiều năm trời. Tôi còn nhớ vào thập niên 1990, tôi hay nghĩ: “Trời, mình đã giải quyết được quá nhiều thứ trong tâm lý mình rồi, không hiểu bây giờ còn bao nhiêu nữa?” Thế rồi sau khi nhận được tất cả các lời dạy về chấn thương nhập đời, về việc đi xuống từ một hành tinh tự nhiên đến trái đất, phải hứng chịu chấn thương nhập đời và sinh sống một thời gian rất dài trên địa cầu, cái nhìn của tôi đã đổi khác, vì tôi ngộ ra là trên một hành tinh như trái đất không hề có một trạng thái nào là vĩnh viễn, vì đây là một hành tinh phi tự nhiên.

Chừng nào còn đầu thai thì chúng ta sẽ còn kinh qua nhiều chuyện trong tâm lý mình, hoặc là tâm lý của riêng cá nhân mình, hoặc một điều gì đó mình đã lấy vào từ tâm thức tập thể và đang cố xử lý. Cho nên chúng ta đang  luôn luôn đối phó với một điều gì đó.

Tôi nghĩ bước đầu tiên – ít ra là điều mà tôi đã làm – là tôi đã từ bỏ ý tưởng mình sẽ đạt được một loại đột phá nào đó và thế là mình ở trong trạng thái tâm thức tối thượng, mình đã giác ngộ. Tôi nhận ra là luôn luôn sẽ có những chuyện khởi lên trong tâm lý mình.

Một điều nữa mà tôi thấy được khi tôi nhìn lại quá trình hơn 40 năm bước chân trên đường tâm linh, là có một số chu kỳ, một số giai đọan nhất định. Có những giai đọan mà chắc chắn chúng ta tăng triển.

Thông thường khi bạn tìm thấy một giáo lý mới, bạn rất hào hứng với nó, bạn cố gắng thực hành, nhưng bạn làm vậy với một viễn quan nhất định về những việc cần làm. Chẳng hạn khi tôi khám phá ra phong trào Summit Lighthouse thì tôi đang ở một mức tâm thức nào đó và tôi nhìn con đường tâm linh theo một cách nào đó, và vì vậy tôi tiếp cận nó theo cách đó. Nhưng tôi cũng có thể thấy là một vài lần tôi đã bước đến một bước ngoặt. Nơi đó là điểm mà đúng lý tôi cần bước lên một mức cao hơn trên đường tu, nhưng tôi lại mang một thái độ, một cách nhìn, một phin lọc nhận thức nào đó ngăn cản tôi bước tới. Như thể tôi bị dính mắc vào một cách nhìn nhất định về đường tu.

Đó là những giai đọan mà tôi có thể nhìn lại và thấy là mình không còn hào hứng nữa, có lẽ mình bất mãn, hay có lẽ như bạn vừa nói, tôi đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống vì nó không hẳn có ý nghĩa như trước nữa. Nó không khiến tôi phấn chấn. Tôi không cảm thấy có chuyện gì đang xảy ra vì tôi không đang tăng trưởng. Khi bạn không tăng trưởng thì bạn trở nên bất mãn.

Không chỉ là vấn đề những chấn thương cần chữa lành. Đó có thể là một chấn thương mà chúng ta cần đương đầu, tuy nhiên cũng có thể là chúng ta cần xoay chuyển thái độ của mình – như tôi vừa trình bày, chúng ta cần từ bỏ ý tưởng về một sự đột phá tối hậu. Như chẳng hạn, từ bỏ ý nghĩ là mình phải tinh tấn hơn hiện thời. Ý tôi muốn nói là tôi có thể nhìn lại và thấy rất nhiều người trong giáo lý của chân sư thăng thiên nghĩ rằng: “Tôi đã học các giáo lý này từ 10, 20 năm qua, tôi phải tiến hơn thế này chứ. Tôi phải an bình, tôi phải thế này, tôi phải thế kia, tôi phải nối kết được một cách thường trực với cái ta cao hơn của tôi. Tôi phải có khả năng thị hiện bất kỳ đời sống nào mà tôi muốn.”

Tôi nghĩ sẽ tới một điểm bạn cần xoay chuyển và bước ra khỏi tư duy đó, bạn cần buông các ý nghĩ đó và nhận diện đường tu là thực sự một tiến trình không ngừng, luôn luôn xem xét chính mình, luôn luôn nhìn vào tâm lý của mình để nhận ra một giới hạn nào đó, một cái ngã nào đó, rồi để cho nó ra đi.

Khi bạn từ bỏ mong muốn đạt được một sự đột phá tối hậu nào đó, thì tâm bạn sẽ an bình, vì bạn không còn luôn luôn cảm thấy mình phải tốt hơn, hay mình phải đạt tới một điểm nào khác, hay mình phải tinh tấn hơn nhiều. Bạn biết là bạn đang tăng triển mỗi ngày, đơn giản là bạn an bình là con người mà bạn là, ở nơi bạn đang đứng trên đường tu cho dù bạn chưa toàn hảo.

Tôi không lo lắng mình đang ở mức tâm thức nào. Bạn có thể bảo chuyện này dễ quá vì tôi biết mình ở mức cao hơn tầng 96, nhưng dù sao thì tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ tiếp tục tìm kiếm điều kế tiếp mà tôi cần xử lý trong tâm lý của mình, và tôi xử lý nó. Tôi không mang cảm nhận là tôi phải ở một nơi nào khác. Tôi không còn cảm nhận này nữa. Thuở trước, tôi cứ cho rằng: “Ồ, tôi phải là một sứ giả toàn hảo, tôi không được lầm lỗi hay cái này cái nọ.”

Bây giờ nếu tôi làm lỗi, tôi sẽ học hỏi từ lỗi lầm xong tôi lại tiến tới. Nếu có điều gì khởi lên trong tâm lý, tôi sẽ xem xét nó xong tôi giải quyết nó. Tôi không kháng cự lại việc xem xét một vấn đề nào như nhiều năm về trước khi tôi cưỡng lại vì tôi không thể chịu nổi trong tâm lý mình có một loại vấn đề nào đó.

Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện xoay chuyển, là nhận ra đường tu là một tiến trình không ngừng tiếp diễn. Chúng ta sẽ lần hồi tự cải thiện, rồi khi nào chúng ta đạt đến một trạng thái tâm thức tối thượng thì đó sẽ là lúc chúng ta không còn bám giữ cái thân xác vật lý này nữa. Chúng ta sẽ thăng thiên. Đó là cách nhìn của tôi, mong là nó đã hữu ích.

Tai nạn và nghiệp quả

Hỏi: Khi máy bay bị rớt thì đó là một tai nạn hay chỉ là một điều tất yếu? Các tai nạn có tùy thuộc vào trạng thái nội tâm của phi hành đoàn hoặc người chỉ huy máy bay ở một giây phút nhất định hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức thượng tôn và cảm nhận bất toàn, thương tổn, tập trung ra bên ngoài. Đăng ngày 26/5/2021.

Ta sẽ nói về đủ các loại tai nạn. Ta cũng biết một tai nạn hàng không luôn luôn gây ấn tượng rất mạnh vì nó thường gây thiệt mạng cho mọi người trên chiếc máy bay. Nó cũng là một sự cố rất đột ngột. Nhưng hiển nhiên, con cũng thấy là số người bị thiệt mạng trong tai nạn xe cộ nhiều hơn gấp bội tai nạn hàng không.  

Vậy đâu là nguyên do xảy ra tai nạn? Trong nhiều trường hợp, vấn đề khá phức tạp. Nếu con nói đến một chiếc xe có một người hay ngay cả một vài người bị thương tích hay tử vong, thường thường đó là do nghiệp chướng của những người đó. Và tất nhiên cũng do trạng thái tâm thức của họ.

Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa một tai nạn xảy ra hay một tai nạn được tránh khỏi, có thể rất nhỏ. Có thể chỉ là một giây phút lơ đãng dẫn đến tai nạn, và điều này có thể tránh khỏi cho dù nghiệp chướng là gì.

Khi con nói đến trường hợp một chiếc máy bay với hàng trăm hành khách thì ở một mức độ nào đó, đây là nghiệp chướng không nhất thiết của mọi người mà của đa số. Tất nhiên là có phi hành đoàn, các kiểm soát viên không lưu, có thể cả các toán bảo trì, toán sửa chữa, liệu họ đã bảo trì máy bay đầy đủ hay không. Vấn đề có thể nằm ở tầng cao hơn trong công ty hàng không, liệu chủ trương bảo trì của công ty là gì, hay họ có xu hướng chấp nhận rủi ro khi phi cơ không được bảo trì nghiêm ngặt theo đúng quy chuẩn. Cho nên nhiều vấn đề phức tạp có thể góp phần vào tai nạn, và khi càng có nhiều người dính dấp vào thì vấn đề sẽ càng phức tạp hơn.

Phật Gautama đã có giảng về lý duyên khởi. Vậy con có thể nhìn vào một tai nạn hàng không và bảo rằng có một bộ phận của chiếc máy bay bị mỏi mệt khiến cho động cơ ngừng chạy và máy bay rớt xuống. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất.

Có nguyên một loạt những yếu tố khác mà ta vừa mô tả sẽ góp phần vào kịch bản. Và như ta vừa trình bày, càng có nhiều người liên lụy vào thì bức tranh sẽ càng phức tạp hơn. Nếu con có khả năng nhìn từ nhãn quan thăng thiên, con sẽ thấy, chẳng hạn, đây là một chiếc phi cơ đang bay cao trên bầu trời với 300 hành khách trên đó. Con có thể nhận thấy những sợi dây năng lượng, những sợi chỉ năng lượng đang nối liền hào quang những người đó với quê hương của họ, với gia đình, với công việc làm ăn của họ.

Các sợi dây này kéo dài vào tận tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và con có thể nhìn ra một mạng lưới vô cùng phức tạp những mối ràng buộc năng lượng. Đó có thể là sự ràng buộc vào nơi họ đang bay tới, ràng buộc vào nơi họ vừa rời khỏi, thậm chí cả ràng buộc vào những vùng họ đang bay qua. Đây là một mạng nhện vô cùng phức tạp với những tuyến đường năng lượng chằng chịt, và không những thế, là một mạng nhện năng động thay đổi không ngừng.

Trong một số trường hợp, con có thể thấy là ngay thời điểm chiếc phi cơ cất cánh, tai nạn đã được quyết định rồi. Nhưng có những lần khác, đó có thể là một khuôn đúc vẫn đang trong tiến trình chuyển đổi dẫn đến tai nạn, nhưng đôi khi một cách thật sát nút, tai nạn lại có thể được ngăn chặn. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, và việc bảo rằng chỉ có một nguyên nhân cụ thể duy nhất thật là vô nghĩa.

Điều con có thể làm khi con lấy máy bay là, tất nhiên, thỉnh cầu cho chức năng kỹ thuật và cơ học của chiếc máy bay được bảo đảm, sự an toàn của phi hành đoàn, của mọi người trên máy bay, cùng những điều kiện bao quanh máy bay chẳng hạn như thời tiết, các chuyến bay khác và sự an toàn của chuyến bay của con.

Con cũng có thể thỉnh gọi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ chỉ đạo con không nên đáp một chuyến bay nếu chuyến này có tiềm năng tai nạn và nếu tai nạn này không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên con có thể có một vài biện pháp cá nhân để sự an toàn được tối đa khi con du lịch.

Chữa lành tâm lý là một tiến trình kéo dài suốt đời

Hỏi: Con đã mất nhiều người thân thiết mà con rất gắn bó. Trong suốt một năm trời, con đã rất chăm chỉ sử dụng các dụng cụ tâm linh được các chân sư thăng thiên trao truyền để chữa lành, để buông bỏ các chấn thương của quá khứ và khắc phục chấn thương nhập đời của con. Có những lúc con cảm thấy mình không còn dính mắc với quá khứ nữa và con có thể nhớ lại quá khứ một cách trung hòa, không động cảm. Nhưng gần đây, tới một điểm mọi chuyện lại lặp lại và con lại cảm thấy nỗi đau trong cảm xúc. Con rất bối rối, tại sao chuyện này lại xảy ra? Con cố nhìn vào bên trong, bước vào bên trong tâm lý mình một cách thật chân thành, và con tránh cach tiếp cận máy móc. Có lẽ chăng con chưa nhìn ra ảo tưởng của mình hay những tin tưởng đằng sau dính mắc này? Hay phải chăng con rất thiếu kiên nhẫn, và một năm trời thật là ngắn ngủi cho tiến trình này? Xin các chân sư thăng thiên vui lòng bình luận.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Con yêu dấu, khi con đọc quyển sách Những kiếp của tôi cùng các giáo lý về chấn thương nhập đời, con sẽ thấy là rất nhiều người trong các con có thể đã ở trên trái đất này một thời gian rất dài. Các con đã sống qua rất, rất nhiều kiếp sống, cho nên mặc dù các thày đã cho con những dụng cụ dũng mãnh, thật không thực tế chút nào nếu con nghĩ con có thể giải quyết tất cả chỉ trong một năm. Đơn giản là con cần kiên nhẫn hơn và tự cho mình nhiều thời gian hơn.

Con cũng cần nhận biết là bởi vì con đã gây dựng những khuôn nếp này suốt nhiều kiếp sống, cho nên sẽ tới một điểm khi con đã nỗ lực giải quyết một điều gì đó – và con cảm thấy mình đã giải quyết nó xong xuôi – nhưng thật ra con mới giải quyết được cho một kiếp đặc thù. Nhưng khi con cứ tiếp tục làm việc với tâm lý của con, cuối cùng con sẽ giáp mặt với một điều gì đến từ một tiền kiếp trước đó, nó sâu thẳm hơn, hay nó không hẳn là cùng một vấn đề tuy rằng nó có một số nét giông giống.

Con cần kiên nhẫn và nhận ra là sẽ có một số chu kỳ, qua đó con sẽ đào sâu xuống một vấn đề nào đó, con giải quyết nó, xong nếu có thể nói như vậy, con bơi trở lên mặt nước để lấy hơi và nhận được chút khuây khỏa. Rồi con lại lặn sâu xuống vùng nước của tiềm thức để đương đầu với cùng vấn đề đó ở một cấp độ sâu sắc hơn hay một vấn đề liên hệ mà con chưa giải quyết được lần đầu tiên.

Cho nên đơn giản, con cần kiên nhẫn hơn với chính mình, con cần chuyển đổi thái độ của mình để con có thể nhìn tiến trình này – như vị sứ giả này có nói – như một tiến trình chữa lành tâm lý sẽ kéo dài suốt đời con. Thẳng thắn mà nói, một kiếp sống là một thời gian rất ngắn để chữa lành tâm lý của con so với bao nhiêu kiếp sống mà con đã bỏ ra để xây đắp các chấn thương.

Tư duy đằng sau bạo lực tại Hoa Kỳ

Hỏi: Hôm thứ hai vừa rồi, thống đốc tiểu bang California đã ký một dự luật chống bạo loạn nhằm bảo vệ các cơ quan thực thi pháp luật, trấn áp các cuộc biểu tình biến thành bạo loạn. Việc này phần nào có thể là để đối phó với những cuộc bạo loạn ở các thành phố Mỹ vào mùa hè năm ngoái. Phần đáng lo ngại nhất trong dự luật này là quyền miễn truy tố dân sự đối với những ai lái xe đâm vào người biểu tình làm nghẽn đường phố. Gần đây những vụ xả súng hàng loạt đã gia tăng đáng kể tại Hoa Kỳ. Mức độ bạo lực có vẻ đang leo thang. Các quan chức được bầu lên đáng lý phải nỗ lực giảm thiểu sự căng thẳng, nhưng dự luật mới này có vẻ mang tiềm năng làm cho vấn đề tệ hơn. Liệu có cách nào lật ngược tình thế theo chiều hướng tích cực để hạn chế bạo lực ở Hoa Kỳ hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Đây là một đề tài phức tạp vì bạo lực ở Hoa Kỳ không chỉ có một nguyên nhân. Nếu chỉ bình luận hạn hẹp về biện pháp mới này của giới chính quyền, rõ ràng Hoa Kỳ cũng như một vài nền dân chủ khác, do mức bạo động và căng thẳng leo thang, đang bị buộc phải xét đến một số phương pháp không thực sự dân chủ.

Đây là điều con đã thấy xảy ra ở nhiều quốc gia độc tài là khi người dân bắt đầu phản đối chế độ thì chế độ đàn áp ngày càng mạnh tay hơn để giới hạn những cuộc phản kháng. Chắc chắn điều này đã và đang xảy ra ở Nga đây. Con thấy là ngay cả một số nước dân chủ cũng đã bị bạo động cùng căng thẳng leo thang bắt buộc họ phải ban hành những loại luật lệ hay phương pháp không thực sự dân chủ, không nên diễn ra ở một nước dân chủ.

Có nghĩa chăng là họ không nên làm vậy? À, họ cần làm môt cái gì đó để ngăn chặn bạo động – chuyện này thật rõ ràng ở một nước như Hoa Kỳ. Chẳng hạn như các thày có nói, mọi nước cần có biện pháp đối với loại phát biểu thù hận (hate speech) có thể nhanh chóng leo thang thành bạo hành thể xác.

Điều cốt yếu là như sau: đây là một vấn đề cần được thảo luận. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói lả bạo động đang buộc xã hội phải thảo luận, phải xem xét những vấn đề như: “Thế nào là phản ứng thích hợp trong một nước dân chủ?” Vì rõ ràng một khi con bước vào chu kỳ áp đặt những hạn chế bằng vũ lực thì nó sẽ ngừng ở đâu? Con phải đi xa tới đâu? Như con đã chỉ ra chính xác, một cách tiếp cận xây dựng hơn là nhìn vào nguyên nhân của sự căng thẳng. Làm thế nào xuống thang đây?

Tất nhiên đây là điều mà chính quyền Mỹ hiện thời biết rõ và mong muốn thực hiện trong khả năng của mình – một sự tương phản nổi bật so với chính quyền trước chỉ lo khích động thêm các mối căng thẳng thay vì xuống thang. Điều này không có nghĩa là chính quyền hiện thời sẽ thành công to lớn, vì bạo lực ở Hoa Kỳ là một vấn đề vô cùng phức tạp.

Đây là một vấn đề đi ngược trở về thời lập quốc, như các thày đã từng trình bày, khi Hoa Kỳ đã không thăng vượt được ý muốn sử dụng bạo lực cùng vũ lực để đạt bất kỳ mục tiêu nào, cho dù là muc tiêu cá nhân hay mục tiêu chính trị. Giải pháp lâu dài là Hoa Kỳ phải thăng vượt tư duy này như các nước dân chủ khác đã làm được. Lấy một ví dụ gần gũi nhất, con có thể nhìn về phía bắc biên giới với Canada, là một nước đã tiến xa hơn nước Mỹ trong lãnh vực này, và một số quốc gia châu Âu còn tiến xa hơn nữa.

Tiến trình này sẽ tốn thời gian. Vấn đề thật sự ở đây là tình hình phải tồi tệ hơn bao nhiêu nữa trước khi nước Mỹ mới đột phá và sẵn sàng giải quyết nó? Nó là một cái gì đã ăn sâu vào tâm lý người Mỹ đến độ có những lúc bạo lực không những là chính đáng, mà bạo lực còn cần thiết và là lối thoát duy nhất.

Ta đã có đề cập về điểm này, ngay cả Chiến tranh Cách mạng cũng đã có thể được tránh khỏi. Hoa Kỳ vẫn đã có thể lập quốc mà không dùng đến bạo lực – sẽ mất nhiều thời gian hơn, nhưng Hoa Kỳ đã có thể được thành lập mà không có bạo lực. Với trạng thái tâm thức vào thời điểm đó thì có lẽ không thể, nhưng về mặt lý thuyết, bạo lực đã có thể tránh được.

Sự thật ở đây là con có thể hoàn thành bất kỳ mục tiêu tích cực nào mà không dùng đến bạo lực. Nó có thể tốn thời gian hơn, nhưng nó có thể làm được. Vấn đề là tâm lý của người Mỹ không nhận ra điều này. Tâm lý người Mỹ có xu hướng bước vào một trạng thái mà chúng ta có thể gọi là trạng thái ám ảnh cưỡng chế, là khi con thấy một mục tiêu cần đạt được, con cần phải thực hiện nó ngay lập tức!

Đây chính là tư duy cuồng đại đó con. Nó phải thực hiện ngay lập tức! Và vì vậy, cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện. Bạo lực và vũ lực được biện minh, vì nếu chúng ta không đạt được cứu cánh này ngay bây giờ thì mọi chuyện sẽ càng tồi tệ hơn nữa. Con đã thấy rõ điều này được sử dụng như một công cụ khuynh loát bởi ông Donald Trump và chính quyền của ông: “Hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, mà thật ra là cố làm thế nào để duy trì sự thống trị của nam giới da trắng trên nước Mỹ, mà họ mô tả là đang bị đe dọa và sắp sửa biến mất nếu họ không làm gì đó ngay bây giờ. Nói cách khác, nếu họ không làm gì để thay đổi kết quả cuộc bầu cử thì họ chẳng còn đất nước để mà sống.

Đây là loại tư duy nằm bên dưới tất cả các hiện tượng bạo lực nói trên, ngay cả những vụ xả súng bởi những cá nhân. Đây là tư duy đã ăn quá sâu vào tâm lý người Mỹ đến độ nó thật sự cần một nỗ lực ý thức quyết tâm để bật được gốc rễ. Về mặt thực tế, nó sẽ tốn thời gian. Nhưng nó sẽ xảy đến. Nó là một phần của những gì cần xảy ra để Hoa Kỳ có thể bước vào và thị hiện Thời Hoàng kim. Ta có kế hoạch để nó xảy ra. Có nhiều người đã mở tâm ra cho viễn quan này và họ đang làm việc hướng tới mục đích này. Không phải tất cả những người này đều luôn luôn cân bằng, nhưng dẫu sao họ đang làm việc về hướng đó.

Nhưng câu hỏi đặt ra thực sự là như sau: Bạo động sẽ phải tồi tệ hơn đến chừng nào thì mới có một số lượng tới hạn những con người thức tỉnh, nói rằng: “Đủ rồi. Như vậy là đủ rồi.” Rõ ràng việc kiểm tra súng là một phần của vấn đề, nhưng không phải là giải pháp tối hậu. Giải pháp tối hậu là một cuộc xoay chuyển tâm thức lánh xa khỏi ý tưởng: “Bạo lực là chính đáng và cần thiết. Bạo lực là cách duy nhất để đem lại một thay đổi quyết định, và chúng ta phải thực hiện thay đổi, và chúng ta phải thực hiện ngay bây giờ.” 

Đây là một phiên bản của tư duy cuồng đại, và chúng ta có thể nói là tư duy này đã dẫn đến việc thành lập quốc gia Hoa Kỳ vào thời buổi đó. Như ta vừa trình bày, Hoa Kỳ đã chưa thăng vượt được tư duy đó, và chừng nào chưa thăng vượt thì Hoa Kỳ sẽ không thể bước sâu hơn vào Thời Hoàng kim. Đó chính là lý do con đang thấy một sự trì trệ nào đó trong nhiều lãnh vực của xã hội Mỹ. Trong khi đó, con thấy một số quốc gia khác vẫn đang tiến bước vì họ không có vấn đề này để đối phó.

Thiền định có phải là cách hay nhất để trải nghiệm Thượng đế?

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã thiết lập trang mạng này. Tôi đã học hỏi các giáo lý tâm linh từ nhiều năm và cũng đã thiền tập, nhưng chỉ từ khi tôi khám phá ra trang mạng của ông mà tất cả như ăn khớp lại với nhau. Tôi đang thực hành rất nhiều những bài nguyện tràng hạt và lời xác định cùng với cầu nguyện và thiền định. Và sau đây là câu hỏi của tôi cho thày Giê-su.

Thưa thày, quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập. Con đã đọc quyển sách “Tự truyện của một Yogi” (Autobiography of a Yogi) và từ đó có cảm hứng muốn học Kriya Yoga. Theo tổ chức RSF (Self-Realization Fellowship) Giê-su từng nhận được điểm đạo trong pháp yoga này. Khóa học của SRF kéo dài 3 năm rưỡi là lớp nhập môn vào Kriya Yoga. Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng? Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn? Con đã cầu nguyện và thiền quán để tìm trả lời cho câu hỏi này nhưng cho tới giờ con vẫn chưa có lời giải đáp.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 2/9/2011.

Trong thời gian 17 năm mà người ta gọi là “những năm biệt tăm”, ta quả là có chu du ở phương Đông và đã thử nghiệm cũng như học hỏi một số kỹ thuật tâm linh của phương Đông. Thật vậy, ta đã vô cùng cởi mở để học hỏi bất cứ điều gì có thể trợ giúp sứ vụ của mình, cho dù thuở đó ta không hiểu được hay không “thấy” được hoàn toàn đó là gì.     

Ta có được học một điều tương tự như Kriya Yoga, tuy nhiên nếu bảo rằng điều ta học là cùng một thứ – hay được chỉ dạy trong cùng một cách thức – như khóa học hiện nay của SRF thì sẽ không đúng lắm. Con cũng cần nhớ là ta đã được học rất nhiều kỹ thuật khác của phương Đông và do đó ở đây ta không có ý định hỗ trợ hay khuyến cáo bất kỳ kỹ thuật nào.   

Tất cả mọi sự phải thay đổi và tiến hóa theo thời gian, bởi vì sự thay đổi là cách vận hành nền tảng của hành tinh này – và lý do là vì tâm thức tập thể trên địa cầu vẫn còn tụt hậu so với nhịp tăng trưởng của phần còn lại của vũ trụ. Vì vậy, cho dù các đạo sư Ấn độ có khuynh hướng bảo rằng họ đã tìm lại được một kỹ thuật bị thất lạc, thật không có cách chi tách rời một kỹ thuật tâm linh với bối cảnh của nó, tức là với xã hội nơi kỹ thuật đó được sử dụng cũng như mức tâm thức tập thể vào thời đó. Điều này giải thích tại sao, nói chung, chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường không khuyên nhủ các học trò ở phương Tây sử dụng kỹ thuật thiền định của phương Đông.       

Ta cũng biết, một số người sẽ nắm ngay câu nói vừa rồi của ta để lý giải rằng ta không thật là Giê-su. Nhiều học trò của SRF có thể lý luận rằng bởi vì Yogananda đã từng làm việc với Giê-su đích thực, thì tất cả nội dung của trang mạng này cũng phải đồng ý hoàn toàn với những gì Yogananda đã nói – và nếu không, chỉ có nghĩa là trang mạng này không phải là do Giê-su đích thực. Và cũng vậy, tất nhiên, học trò của các phong trào khác hay đạo sư khác cũng sẽ làm y như thế.  

Tuy nhiên, cho những ai có tâm phân biện hơn, ta cần nói rõ là quả thực ta đã có làm việc với Yogananda. Nhưng những gì ta đã có thể truyền rải qua trung gian Yogananda phần lớn là kết quả của khả năng thăng vượt của chính ông đối với xuất xứ của ông, cũng không khác gì trang mạng này là kết quả của khả năng thăng vượt của sứ giả này đối với xuất xứ của Kim Michaels.      

Con thấy đó, một sinh thể thăng thiên đã thăng vượt MỌI xuất xứ trên địa cầu và luôn luôn tìm cách giúp cho mọi người làm tương tự, bắt đầu là với chính thế giới quan hiện thời của họ. Cho nên chúng tôi sẵn sàng làm việc với hầu hết những ai cũng sẵn lòng thăng vượt, và chúng tôi luôn luôn tìm cách trao truyền những điều khả dĩ giúp được một đoàn nhóm nào đó thăng vượt hệ tư tưởng hiện thời của họ.   

Điều khiến cho nhiều học trò tìm đạo chân thành không theo được sự hướng dẫn của chúng tôi gồm có hai điểm:

  • Niềm tin rằng chúng tôi trong Đại đoàn Thăng thiên có một chân lý toàn vũ, cố định và tuyệt đối ở trên đây mà chúng tôi đang cố gắng trao truyền dưới một dạng toàn vẹn, không pha loãng,
  • Niềm tin rằng trong quá khứ chúng tôi đã trao truyền nhiều phần của chân lý này, và do đó bất cứ gì mà một đạo sư hay một phong trào thốt ra sau này cũng nhất định PHẢI ăn khớp với những gì đã truyền dạy trước đây.   

Chính những điều tin tưởng đó đã khiến cho người ta bị kẹt lại trong lòng trung thành không đúng chỗ đối với một giáo lý vỏ ngoài, một đạo sư hay một phong trào vỏ ngoài. Điều này không những khiến cho sự tăng trưởng cá nhân của họ bị ngừng trệ, mà cả công việc toàn cầu nhằm nâng cao tâm thức nhân loại cũng phải chậm lại. 

Đó cũng là lý do có một xu hướng rõ rệt nơi các phong trào tâm linh mà bất cứ một học trò trung thực nào cũng nhận xét được, đó là hội chứng có thể gọi là “bùng lên rồi xẹp xuống”. Con có thể thấy một số phong trào tâm linh trải qua một giai đoạn bành trướng nhanh chóng đề rồi bị trì trệ, xong từ từ xẹp xuống. Giai đọan suy yếu này thường khởi sự khi người lãnh đạo qua đời hay rút lui, nhưng đôi khi nó bắt đầu ngay cả trước đó.  

Nguyên nhân hiện tượng suy yếu này nằm ở chỗ vị lãnh đạo hoặc đa số các học viên trong phong trào không có khả năng, hay không có ý muốn, sinh sôi các ta-lăng, nghĩa là nhân rộng các giáo lý và kỹ thuật được trao truyền. Con thấy không, có một định luật tâm linh dẫn dắt BẤT KỲ phong trào tâm linh nào.     

Ngược lại với sự suy nghĩ của nhiều học trò của chân sư thăng thiên, chúng tôi KHÔNG chỉ làm việc với một hoặc vài ba phong trào mà thôi. Chúng tôi làm việc với tất cả mọi học trò cho dù họ có ở đâu hầu gia tốc sự tăng trưởng nơi họ, và chúng tôi không có sự trung thành cố định với một giáo lý hay một phong trào nào. Có nghĩa là nếu quả thực một phong trào đang giúp được người ta thăng vượt các khuôn nếp tư duy cũ, thì chúng tôi sẽ trao một yếu tố nhân thêm cho phong trào đó.

Con lưu ý là điều này không có nghĩa là chúng tôi tán thành hay hỗ trợ bất cứ gì mà phong trào đó thực hiện hay giảng dạy. Đã từng có nhiều phong trào có giáo lý xa vời thực tế, thế nhưng nếu họ còn trợ giúp được người ta thăng vượt trình độ tâm thức cũ thì họ vẫn sẽ vẫn nhận được yếu tố nhân thêm – là yếu tố đã khiến cho phong trào đó tăng trưởng.  

Tuy nhiên, điều thường xảy ra là phong trào không thể duy trì mãi độ tăng trưởng, và lý do là vì quá nhiều học trò đã ngừng thăng vượt bản thân. Thay vào đó, họ sử dụng các giáo lý và các dụng cụ để củng cố cho thế giới quan của tự ngã, có nghĩa là bây giờ họ cảm thấy hơn trội người khác, họ cảm thấy họ sẽ được “cứu rỗi” mà không phải phơi bày tự ngã.  

Khi điều đó xảy ra, một đạo sư đích thực sẽ rời bỏ phong trào, và thậm chí trong nhiều trường hợp, sẽ bỏ cả hiện thân. Còn một đạo sư không mấy đích thực thì sẽ ở lại, nhưng phong trào nay rơi vào vòng chi phối của cái lực đứng đằng sau định luật thứ hai của nhiệt động học, cho nên sự hỗn loạn sẽ gia tăng cho đến khi phong trào bị tan vỡ hoặc từ từ suy thoái.

Cho nên điều ta muốn nói qua phần trình bày dài dòng này là cho con thấy tại sao một số đạo sư từ phương Đông đã thành công khi thiết lập phong trào tại Tây phương, và cũng vì lý do đó mà họ thường suy vi sau một thời gian. Lý do là vì trong đa số trường hợp, các đạo sư phương Đông không đủ thăng vượt xuất xứ của họ và không thể thích ứng giáo lý cùng kỹ thuật của họ với tư duy của người phương Tây.

Con thấy đó, trong hầu hết mọi trường hợp, một vị đạo sư Đông phương đến phương Tây với một cảm nhận vi tế về tính ưu việt của truyền thống tâm linh Đông phương. Vị đạo sư nghĩ rằng mình đến đây để đem lại một cái gì trội hơn, và do đó mình không có gì để học hỏi. Đó là tại sao con thấy các đạo sư phương Đông thường không mấy sẵn lòng thích nghi với tư duy người Tây phương.  

Thế nhưng khi một đạo sư phương Đông đến phương Tây, vị ấy gặp phải thử thách rất lớn trong khả năng thích ứng và linh động. Con thấy không, con sẽ không giúp ích cho bước tiến của nhân loại nếu con tìm cách biến các học trò tâm linh Tây phương thành những bản sao của học trò tâm linh Đông phương. Con sẽ CHỈ phát triển được nếu con rút tỉa những tinh túy thực sự phổ quát trong truyền thống tâm linh của mình, rồi biểu đạt nó trong một bối cảnh Tây phương. Trong số ít những kỹ thuật phương Đông đã chuyển giao thành công sang phương Tây thì có yoga, và lý do thành công của yoga là vì pháp môn này đã không nằm trong một khuôn khổ tập quyền mà trái lại được phép đa dạng hóa.      

Tình thế trở nên phức tạp hơn nữa do sự kiện hiện nay có nhiều học trò tâm linh đã chọn đầu thai tại phương Tây hầu trợ giúp sự thức tỉnh tâm linh của phương Tây. Nhưng suốt mấy tiền kiếp trước kiếp này, họ đã từng đầu thai tại phương Đông, và do đó chính họ đã chưa thăng vượt được truyền thống tâm linh của phương Đông. Họ bị thu hút bởi các đạo sư từ phương Đông, và một khi ở đây, họ cảm thấy không những truyền thống phương Đông quen thuộc hơn với họ mà lại còn cao trội hơn, và do đó không nên thay đổi.

Và như con thấy đó, mình thế nào thì mình sẽ thu hút thế nấy. Vị đạo sư nào mang sẵn niềm kiêu hãnh tâm linh về truyền thống phương Đông sẽ thu hút những học trò với cùng niềm kiêu hãnh đó, và cùng nhau họ sẽ củng cố lẫn nhau, và họ tạo ra một hệ thống khép kín bắt buộc phải suy thoái.

Trên căn bản, đây là cuộc thử thách vốn đã có từ ngàn đời, là làm thế nào cân bằng hai lực cơ bản của sáng tạo, tức là lực lan ra và lực co lại. Lực lan ra bảo con phải thăng vượt cái cũ, và lực co lại bảo con phải giữ đúng như truyền thống.     

Nếu con mất cân bằng trong sự lan ra, con sẽ mất hết phương hướng và mọi thứ sẽ vỡ tung trong một cuộc bành trướng vô kiểm soát. Nhưng nếu con mất cân bằng trong lực co lại, tất cả sẽ thu rút và sụp đổ từ bên trong.

Cho nên chìa khoá là cái nhìn Ki-tô, luôn luôn tìm cách vươn ra nhưng KHỒNG tìm cách khiến cho mọi người phải chấp nhận một chân lý tối cao. Ki-tô gặp gỡ mọi người ở chỗ họ đang đứng, rồi tìm cách giúp họ tăng triển từ đó. Và nếu ai đó không sẵn sàng thăng vượt cái cũ thì Ki-tô sẽ rút lui về – nếu họ không giết Ki-tô trước.

Điều này giải thích tại sao ta đã bỏ lại đệ tử của ta sau ba năm và tại sao Yogananda đã bỏ lại học trò của ông khi ông thấy rằng SRF đã đạt hết mức thăng vượt của nó. Đấng Ki-tô Hằng sống không hề trung thành với bất cứ cái gì trên địa cầu và luôn luôn hướng đến mức thăng vượt kế tiếp.

Bây giờ con đã có một nền tảng vững vàng hơn thì ta sẽ lần lượt trả lời câu hỏi của con:

“Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng?”

Ta không khuyến khích mọi người lao mình vào mà sử dụng thiền tập theo cách mà các đạo sư phương Đông thường trình bày, tức là xem đó là “giải pháp độc nhất cho mọi vấn đề”, là kỹ thuật tâm linh duy nhất mà họ sẽ sử dùng. Phương Tây là một môi trường vô cùng bận rộn, căng thẳng và hỗn loạn về mặt các năng lượng tâm lý mà con phải tiếp xúc trong đời sống hàng ngày. Ta KHÔNG khuyên bất cứ ai sử dụng một kỹ thuật nhằm làm cho tâm mình tĩnh lặng hay trống rỗng mà không đồng thời thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, chẳng hạn qua các bài chú, bài thỉnh của chúng tôi.

Con cần lưu ý là chúng tôi luôn luôn khuyến khích mọi người nên đi theo những thúc đẩy sáng ngộ nơi nội tâm mình. Nếu chẳng hạn con cảm thấy một sự thu hút mãnh liệt đối với Kriya Yoga, thì lý do là vì con có nhu cầu học hỏi một điều gì đó từ kinh nghiệm này. Có khi điều mà con cần học là pháp môn này không thích hợp với con, nhưng hầu hết mọi người sẽ không thể học được điều này nếu họ chỉ nghe theo người khác. Cho nên nếu con cảm thấy thu hút mãnh liệt thì con hãy bước theo – nhưng con cần tỉnh táo để tìm ra bài học tâm linh đích thực có thể nằm bên ngoài những gì ngoại tâm con có khả năng nghĩ tới ngay bây giờ.  

“Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn?”

Con đang nói tới hai chuyện khác nhau ở đây – trước hết là một kỹ thuật có hệ thống, và sau đó là sự trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng. Con hãy lưu ý con đã nói gì ngay trước đó:

“Quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập.”

Vấn đề ở đây là nhiều người tìm kiếm một kinh nghiệm về Thượng đế, nhưng họ lại cho rằng họ phải sử dụng một cách tiếp cận có hệ thống đề sản xuất ra, hay thậm chí “ép uổng”, kinh nghiệm đó. Giản dị là điều này không thể làm được. Cái vô hình tướng KHÔNG BAO GIỜ bị cưỡng ép vào BẤT CỨ hình tướng nào, do đó con cần tra vấn bất kỳ hình ảnh nào cho rằng Thượng đế phải ra làm sao hay một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào.

Nhiều người nghĩ rằng họ đã có một trải nghiệm về Thượng đế do sử dụng một kỹ thuật nào đó hay ngay cả do ma túy. Nhưng điều họ làm là họ đã buộc bộ não và hệ thống thần kinh của họ phải sản xuất ra một trải nghiệm vượt xa kinh nghiệm bình thường của họ đến độ họ cho đó là Thượng đế.

Con có thấy được sự khác biệt tinh tế ở đây? BẤT KỲ một trải nghiệm nào mà con ép buộc sẽ được bộ não sản xuất ra, và nó sẽ xảy ra TRONG tâm con – và như vậy nó KHÔNG THỂ VƯỢT RA NGOÀI tâm con. Nhưng một kinh nghiệm đích thực về Thượng đế sẽ hoàn toàn và tuyệt đối vượt ngoài tâm con.    

Con có thấy việc dùng tâm làm phương tiện thăng vượt tâm là một chuyện bất khả thi hay không? Chuyện đó KHÔNG BAO GIỜ làm được. Con càng tập trung vào việc sử dụng tâm con thì con càng buộc cái ta thực của con vào với tâm – bởi vì chính sự chú tâm của con đã tạo ra một sợi dây buộc năng lượng khiến CON bị giam cầm trong tâm, mà chức năng của tâm thì vỏn vẹn chỉ là phương tiện tương tác với thế giới vật chất. Làm thế nào con có thể dùng phương tiện này để vượt ra ngoài thế giới vật chất?  

Cho nên chìa khóa để có một kinh nghiệm về Thượng đế là ngộ ra rằng không có gì mà con có thể LÀM sẽ đem lại kinh nghiệm đó.

Điều này không có nghĩa là con không nên dùng một kỹ thuật nào hết. Một kỹ thuật đúng đắn có thể giúp con tăng trưởng bằng cách làm thông sạch tâm con và cân bằng luân xa của con, và điều này sẽ khiến con kinh nghiệm Thượng đế dễ dàng hơn. Con càng giảm bớt sự hỗn loạn trong tâm con thì CON sẽ càng dễ giải phóng sự nhận biết của con khỏi tình trạng đồng hóa với tâm.

Một trong số những kỹ thuật hữu hiệu nhất hiện có là các bài chú các Elohim. Mặc dù chúng tôi đã không công bố một cách rầm rộ – cố tình như vậy – nhưng các bài chú này là một phương tiện chủ yếu để thông sạch và cân bằng tất cả mọi luân xa của con. Nhưng một lần nữa, điều này không có nghĩa là việc đọc những bài chú đó sẽ bảo đảm cho con một kinh nghiệm về Thượng đế.

Một kinh nghiệm thần bí không thể tiên đoán trước được bởi vì nó vượt khỏi mọi hình tướng. Cho nên con không thể định trước một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào – nó sẽ khoác những hình dạng khác nhau tùy theo mỗi người.

Cho nên điều quan trọng là tập trung vào một kỹ thuật mà con ưa thích, nhưng không bao giờ cho phép kỹ thuật này trở thành một thói quen, một thông lệ. Đừng bao giờ cho phép mình rơi vào cái khuôn nếp với quá nhiều phong trào, là nghĩ rằng mình phải tiếp tục sử dụng một kỹ thuật suốt đời và điều này sẽ bảo đảm thành quả. Con cần phải thật nhạy bén khi cái ta cao hơn của con nhắc con nên chuyển sang một kỹ thuật mới, hay sử dụng kỹ thuật hiện thời một cách cao hơn.   

Con cũng cần bước ra khỏi cái tư duy tìm kiếm hay ngay cả mong muốn một kinh nghiệm thần bí. Nếu con mong muốn một điều gì, đó là vì con có sẵn một tâm ảnh là kinh nghiệm đó phải như thế nào, và làm như vậy cũng giống như con muốn ép uổng Thượng đế phải hiện ra trước mặt con dưới một dạng nào đó. Đây chính là “hình tạc vào đá”, và nó sẽ gần như chắc chắn ngăn chặn con kinh nghiệm được Thượng đế vô hình tướng.

Thay vào đó, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức hầu con có thể đóng góp tốt hơn trong công cuộc nâng cao mọi sự sống. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo có ý hướng tốt thiện đã quá tập trung vào chính mình cũng như vào việc đạt được trải nghiệm tột đỉnh, đến độ họ biến thành những hệ thống khép kín. Con cần bước ra khỏi cái tư duy chú tâm vào bản thân quá mức, và cách duy nhất là con hãy đặt trọng tâm vào việc phụng sự người khác hay một mục đích cao rộng hơn – nhưng con hãy làm vậy một cách vị tha, quên mình, chứ không nhằm tâng bốc tự ngã.

Vì vậy con cần nỗ lực đạt đến một trạng thái hoàn toàn không dính mắc vào hình dạng mà trải nghiệm thần bí cần phải mang – thậm chí con không dính mắc luôn cả chuyện trải nghiệm. Nếu con làm được vậy thì rất có thể con sẽ thăng vượt được ngoại tâm và TỰ DƯNG trải nghiệm. Nhưng cũng rất có thể là con sẽ không có trải nghiệm thần bí nào hết, bởi vì nhiều người vẫn tinh tấn mà không cần trải nghiệm thần bí, hoặc họ chỉ có một lần trải nghiệm mà thôi.

Con sống trên địa cầu để hoàn thành một sứ vụ và hội đủ điều kiện thăng thiên. Địa cầu này còn xa mới là một môi trường lý tưởng để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế, Con chỉ có một thời gian nhất định để hội đủ điều kiện thăng thiên, nhưng một khi con đã thăng thiên, con sẽ có thời gian bất tận để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế. Con hãy đặt ưu tiên của con cho đúng.

Một hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh

Hỏi: Thày Giê-su thân yêu, con ngày càng bối rối bởi nghịch lý sau đây: Trong khi ông Kim, sứ giả của thày, tiết lộ những hiểu biết vô cùng sâu sắc về bản chất của cõi thiêng liêng và Ki-tô, thì cùng lúc ông lại đưa cho chúng con những bài đồng dao vườn trẻ như là bí quyết để đạt được trạng thái bất nhị. Con đã thử đọc những bài này nhưng con thật không nghĩ là các Elohim đang chú ý. Con biết, vì con đã từng đạt được trạng thái bất nhị, và con không thể đạt được trạng thái này khi sử dụng những bài đồng dao vườn trẻ. Vấn đề có phải là con chăng (đương nhiên rồi, con biết)?

Câu hỏi thực sự của con: Từ khi trang mạng của thày được thiết lập, đã có ai báo cáo là mình đã đạt được sự kết hợp bất nhị đích thực với đấng Ki-tô Toàn vũ hay chưa? Một lần nữa, với tất cả sự kính trọng và yêu thương. David.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Ta có thể hiểu được nếu có người xem các bài chú, bài thỉnh mà các chân sư đưa ra chỉ là những bài đồng dao cho vườn trẻ. Ta cũng hiểu được nếu có người sử dụng những kỹ thuật của chúng tôi với kỳ vọng đạt được một trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên, ta không thể hiểu làm thế nào một người có thể dùng những bài đó với thái độ là chúng chẳng hơn gì bài đồng dao vườn trẻ, và ĐỒNG THỜI chờ đợi đạt được một trải nghiệm tâm linh. Đây là một sự hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh.

Một người có thể ghét xe ô tô và nghĩ rằng xe ô tô chịu trách nhiệm đâm chết người, cày nát đất đai hay làm hâm nóng khí hậu. Nhưng khi người đó bước vào xe, vặn chìa khóa lên thì chiếc xe sẽ phải nổ máy. Lý do là vì công nghệ là một bộ máy cơ học sẽ chạy tốt cho đù người sử dụng có nghĩ gì về nó. Trái lại, một kỹ thuật tâm linh KHÔNG PHẢI là một bộ máy cơ học.

Những gì con bỏ vào một kỹ thuật tâm linh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những gì con lấy ra. Nếu con muốn một trải nghiệm thần thánh thì con hãy tiếp cận kỹ thuật đó với một thái độ tôn kính và thần thánh. Nếu con không làm được thì con hãy thừa nhận như vậy và không sử dụng kỹ thuật. Hãy tìm một kỹ thuật nào khác mà con có thể tiếp cận với một thái độ xây dựng hơn. Ngừng phóng chiếu nỗi nghịch lý nơi chính nội tâm con vào bất cứ gì ở ngoài con, và giải quyết vấn đề ở ngay gốc của nó. Con thử lắng nghe chính lời con nói: “Con ngày càng bối rối…” và sẵn lòng thừa nhận là nếu con không an bình, thì đây là vấn đề mà con cần giải quyết.

Các bài chú và bài thỉnh không được thảo ra đặc biệt để sản xuất những trải nghiệm bất nhị. Trải nghiệm bất nhị là một kinh nghiệm nội tâm. Một kinh nghiệm như thế xảy ra được là do cái Ta Biết được tạo bằng chính bản thể và tâm thức của Thượng đế. Vì vậy, cái Ta Biết không thể bao giờ đánh mất khả năng hòa điệu với một tầng thực tại vượt ngoài thế giới quan nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô và giác quan vật lý.

Cái Ta Biết có thể có nhiều loại kinh nghiệm bất nhị, và không phải bất cứ ai đọc chú hay đọc thỉnh với thái độ đúng đắn cũng có được một hình thức kinh nghiệm tâm linh, dù là trong khi đang đọc hay khi thiền định sau khi đọc.

Tuy nhiên, bài thỉnh và bài chú là những kỹ thuật rất tích cực, hướng ra ngoài, ngược lại với các kỹ thuật trầm tư, hướng vào bên trong. Cho nên chúng không được thiết kế để cho con kinh nghiệm bất nhị, mà là một dụng cụ để giải quyết những tin tưởng nhị nguyên cũng như thỉnh cầu và điều hướng năng lượng tâm linh.

Đương nhiên, khi con làm thông sạch cả bốn tầng của tâm con, con sẽ đạt sự rõ ràng hơn, và điều này sẽ mở đường cho những kinh nghiệm tâm linh đủ loại. Tuy nhiên, việc này có thể tốn nhiều năm trời, tùy vào lượng rác rưởi được chất nơi gác thượng của tâm con. Cho nên điều khôn ngoan là con nên tiếp cận mọi kỹ thuật tâm linh một cách không những kiên nhẫn, mà còn hoàn toàn không dính mắc vào bất kỳ hình thức trải nghiệm nào mà con có thể có qua việc sử dụng kỹ thuật tâm linh.

Lý do là vì một kinh nghiệm bất nhị không thể được sản suất tùy ý. Đó không phải là một sản phẩm cơ học từ việc sử dụng một kỹ thuật thần diệu, và hương vị của thiên đàng không thể đoạt được bằng vũ lực. Một kinh nghiệm bất nhị nên được xem như một món quà có thể được trao ra hay là không. Con không thể ép buộc kinh nghiệm đó, cho nên điều duy nhất con có thể làm được là khiến cho tâm mình càng bén nhạy càng tốt để nó nhận được kinh nghiệm. Và chỉ khi nào con hoàn toàn không dính mắc là món quà sẽ có được trao tặng hay không, thì con mới nhạy bén tối đa. Đó là tại sao Thiền đạo Phật nói đến sơ tâm, là tâm mở rộng ra những trải nghiệm tự phát thay vì đòi hỏi trải nghiệm phải xảy ra. Và đó cũng là vì sao ta đã từng nói: “Ai không nhận lãnh Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không thể vào được.” (Luke 18:17)

Nếu con dùng óc phân tích để thiết lập những điều kiện mà con nghĩ sẽ sản xuất ra trải nghiệm, con sẽ chỉ đẩy trải nghiệm đó đi xa khỏi con. Và nếu con dùng cảm xúc để thiết lập kỳ vọng là đúng lý con phải nhận được trải nghiệm – nghĩa là con sẽ cảm thấy bị thất vọng hay lừa bịp nếu nó không xảy ra – thì con đã ngăn chặn trải nghiệm trước khi nó có thể xảy ra.

Có nhiều người tầm đạo đã có những trải nghiệm bất nhị một cách tự nhiên khi lần đầu họ khám phá ra đường tu, hay ngay cả trước đó. Một số bị ám ảnh bởi chuyện trải nghiệm này, tưởng rằng mình phải có khả năng trải nghiệm mọi lúc. Điều này khiến họ không ngừng tìm kiếm những “trải nghiệm tột đỉnh”, không ngừng chạy đuổi theo một mục tiêu dường như vượt khỏi tầm tay. Và khi họ có được một số trải nghiệm, họ cảm thấy vẫn chưa đủ, và ngay lập tức họ lại bắt đầu thèm khát trải nghiệm tiếp theo sau. Thậm chí, một số bị còn mê mệt trong cuộc tìm kiếm trải nghiệm đến độ họ sử dụng những chất ma túy mà họ cho là sẽ giúp họ có trải nghiệm.

Con sẽ khôn ngoan nếu con nhìn trải nghiệm tâm linh như chỉ có một mục đích mà thôi, là chứng tỏ cho con rằng thật sự CÓ một trạng thái tâm thức vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con người phàm phu. Nó cho con thấy là con đường tâm linh là thực, và ở cuối đường có một phần thưởng. Do đó trải nghiệm tâm linh – ngay cả khi con chỉ có được một lần trong đời – cũng đủ là sự khích lệ để con tiếp tục bước đi trên đường tu suốt đời.

Một số người tầm đạo đã bị đánh lạc bởi một số đạo sư giả – và ngay cả một số đạo sư chân chính nhưng lầm lẫn – khi dựng lên kỳ vọng là mục đích của việc tu tập tâm linh là để luôn có những trải nghiệm bất nhị. Họ đã tạo dựng một hình ảnh của người thiền định ngồi trong một hang động trên núi Himalaya, không ngừng được hưởng cực lạc. Quả vậy, có một số ít vị với sứ mạng tâm linh trong hiện thân là cầm giữ sự cân bằng cho hành tinh địa cầu, và họ thiền định liên tục.

Nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo – và chữ quan trọng ở đây là “tuyệt đại đa số” – đó không phải là Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Con không ở đây để được trải nghiệm tâm linh cho thỏa thích. Con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô của mình bằng cách phụng sự tha nhân và giúp cho người khác tăng triển tâm linh. Khi con làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức của người khác và trong lọc hành tinh, đó là một công việc quan trọng hơn gấp bội chuyện trải nghiệm tột đỉnh.

Con hãy lưu ý điều ta nói ở đây. Có một quan niệm sai lầm cho rằng những trải nghiệm tột đỉnh sẽ dẫn đến phát triển tâm linh và nâng cao tâm thức con một cách thường trực. Thế nhưng nhiều người có trải nghiệm như vậy rồi gặp khó khăn rất lớn để hòa nhập nó vào đời sống hàng ngày cũng như trạng thái tâm thức bình thường của mình. Một số người cứ lắc lư qua lại giữa cuộc sống bình thường và cuộc chạy đuổi điền cuồng những trải nghiệm tột đỉnh, và họ rất khổ tâm trong cả hai cực đoan đó.

Sự thật là trải nghiệm tột đỉnh có thể gây hại cho sự tinh tấn tâm linh nếu con không nhìn nó theo cách ta đã mô tả ở trên. Như ta vừa nói, một số người vô cùng tập trung vào bản thân và không ngừng tìm kiếm trải nghiệm tột đỉnh kế tiếp. Một số khác trở nên kiêu hãnh, tưởng mình chắc là người tiến bộ tâm linh cao lắm do mình đã trải nghiệm cao như vậy trong quá khứ. Họ cảm thấy mình có quyền chờ đợi thêm nhiều trải nghiệm nữa, rồi họ bực tức khi trải nghiệm đó không hiện ra. Một thái độ như vậy chỉ có thể ngăn chặn sự tăng triển của con.

Thực tế là tất cả mọi người tầm đạo sẽ CHỈ tiến bộ xa hơn một mức nào đó nếu họ khắc phục được tính vị kỷ phát xuất từ tự ngã và bắt đầu giúp tha nhân hay giúp hành tinh một cách vô vị lợi. Tất nhiên, mỗi người đều có những trách nhiệm hàng ngày, cho nên các bài thỉnh của Mẹ Mary được soạn thảo để giúp con nâng cao tâm thức của hành tinh ngay khi con ngồi trong phòng mình.

Mục đích của Mẹ Mary lẫn của ta là trao cho mọi người những dụng cụ để họ có thể nâng cao tâm thức một cách hệ thống và tiến bộ một cách bền vững. Các kỹ thuật này được thiết kế để nâng cao tâm thức của con lần hồi, thay vì cho con một trải nghiệm vượt hẳn tâm thức hàng ngày đến độ con không làm sao thể nhập được. Dĩ nhiên là khi sử dụng các dụng cụ này, con có thể có được trải nghiệm tâm linh, nhưng khôn ngoan nhất là con không nên chờ đợi gì cả.

Mục đích thực sự là nâng cao tâm thức một cách thường trực để toàn bộ tâm trí tỉnh giấc trở thành một kinh nghiệm bất nhị. Tuy nhiên con hãy lưu ý, khi điều này bắt đầu xảy ra, có vẻ như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Theo định nghĩa, một trải nghiệm tột đỉnh là một cái gì vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con. Cho nên điều có thể xảy ra là con thường trực ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn mà không hoàn toàn nhận thức có gì đang xảy ra. Con đã quá quen với trạng thái cao đó đến độ cái mà trước kia là một trải nghiệm tột đỉnh thì bây giờ con xem là bình thường, và dường như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Vì vậy, nếu thỉnh thoảng con có thể nhìn lại bước tiến đáng kể mà mình đã đi qua so với tâm thức cũ, thì điều này sẽ rất hữu ích.

Nói cho cùng, trải nghiệm bất nhị nằm vượt khỏi nhị nguyên. Nếu sử dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào mà lại chờ đợi hay đòi hỏi – thậm chí thèm khát – một trải nghiệm bất nhị, thì cái đó nằm trong phạm vi nhị nguyên. Làm sao con có thể dùng tâm nhị nguyên để sản xuất một trải nghiệm bất nhị? Cho nên con càng mong muốn trải nghiệm bất nhị thì xác suất xảy ra sẽ càng ít đi. Chỉ khi nào con bỏ sang một bên mọi kỳ vọng và đòi hỏi nhị nguyên của con, thì con mới có thể nhận được trải nghiệm bất nhị. Trong lãnh vực tâm linh, thái độ là tất cả. Những gì con gửi ra tấm gương vũ trụ sẽ là những gì được phản chiếu lại cho con.

[Ghi chú của Kim Michaels: Bản thân tôi đã có nhiều trải nghiệm bất nhị do đọc bài chú và bài thỉnh. Tôi đã thực tập những kỹ thuật này suốt hơn 25 năm qua và nhiều lần đã có trải nghiệm cao, đặc biệt khi tôi thiền định ngay sau khi thỉnh cầu năng lượng tâm linh. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy những bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary rất hiệu nghiệm để giúp tôi nhạy cảm hơn với trải nghiệm tâm linh, nhất là khi tôi đọc chầm chậm và trầm tư về lời đọc.]

Liệu con đang nghe thấy tự ngã hay cái ta cao của con?

Hỏi: Làm thế nào con biết được giọng nói con nghe thấy có thực sự là vị thày nội tâm của con? Đôi khi con lo rằng đó có thể là tự ngã đang cố gạt con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Một câu hỏi rất hay, không có câu trả lời trắng đen. Thực tế đơn giản là hầu hết mọi người vẫn còn bị bao trùm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên đến mức họ nghe thấy nhiều “giọng nói” đang cố đánh lừa họ. Đó có thể là tự ngã của họ, hay có thể là tà lực từ ngoài đang tìm cách kéo họ ra khỏi đường tu tâm linh.

Thực tế đơn giản là không có cách tuyệt đối và máy móc nào để xác định là sự hướng dẫn mà con nhận được có thực sự đến từ cái ta Ki-tô của con và Đại đoàn Thăng thiên hay từ các thế lực thấp kém. Con chỉ có thể xác định sự chính đáng của những lời hướng dẫn này bằng cách xây dựng dần dần khả năng phân biện của riêng con, hầu con có thể nhận ra sự khác biệt đó chỉ duy qua việc cảm nhận độ rung của thông điệp hay độ rung của nguồn gốc thông điệp.  

Nếu con chưa có nhiều kinh nghiệm, rất có thể con sẽ nghe thấy nhiều loại giọng nói khác nhau. Do đó, con không nên nghe theo mà không suy xét bất kỳ ý tưởng hay lời hướng dẫn nào. Con cần luôn luôn lượng định trên căn bản lẽ thường tình. Hãy để ta cho con một vài gợi ý hầu giúp mọi người học cách phân biện, lọc lựa giữa hạt với trấu khi nhận được lời chỉ dẫn trong nội tâm.

  • Con hãy khởi sự bằng cách nhìn nhận là có những tà lực sẽ vô cùng thích thú trao cho con những lời hướng dẫn dối trá sẽ đưa con vào ngõ cụt trên con đường tâm linh. Để giảm thiểu tối đa rủi ro nhận được loại chỉ dẫn này, con hãy quyết tâm nỗ lực sử dụng biện pháp bảo vệ tâm linh. Bài nguyện ROS08 cho Đại thiên thần Michael được thiết kế đặc biệt để bảo vệ con khỏi những nguồn đó.
  • Hãy tu học các lời dạy tâm linh để cảm nhận được điều gì là chân thực dựa theo cách Đại đoàn Thăng thiên đã dẫn dắt loài người suốt nhiều thiên niên kỷ. Điều này sẽ giúp con lượng định xem một lời chỉ dẫn nội tâm có đứng thẳng hàng, có tương hợp với sự dẫn dắt vượt thời gian đó hay là nó bị trệch đi quá xa.    
  • Cố gắng khiến cho trực giác của con nhạy bén hơn và hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, chẳng hạn bằng cách sử dụng kỹ thuật hòa điệu.
  • Luôn luôn dùng lẽ thường tình để lượng định lời chỉ dẫn mà con nhận được. Đặc biệt con cần cảnh giác bất kỳ lời chỉ dẫn nào rơi vào hai loại cạm bẫy chủ yếu trên đường tu, cụ thể là lòng sợ hãi và lòng kiêu mạn. Nếu lời chỉ dẫn đánh vào những nỗi sợ của con và tìm cách đẩy con vào những hành vi dựa trên sợ hãi, thì đó không phải là Đại đoàn Thăng thiên hay cái ta Ki-tô của con. Cũng vậy, nếu lời chỉ dẫn vuốt ve lòng kiêu hãnh của con và bảo sao con giỏi và tuyệt vời đến thế, hay sự cứu rỗi của cả vũ trụ tùy thuộc vào một hành động nào đó của con, thì nó không phát xuất từ một nguồn gốc cao.
  • Cũng nên lưu ý là các tà lực sẽ hung hãn tìm cách xúi giục con làm một chuyện gì đó, và điều này thường biểu hiện như một cảm giác bị ép buộc, khiến con cảm thấy mình nhất định phải ra tay. Cái ta Ki-tô hay Đại đoàm Thăng thiên sẽ không bao giờ tìm cách khuynh đảo con như vậy mà chỉ nỗ lực trao cho con một sáng ngộ hiểu biết sẽ giúp con tự ý lấy quyết định và chọn lựa tốt nhất. Tà lực sẽ vô cùng sung sướng nếu chúng có thể điều khiển cuộc đời của con. Còn Đại đoàn Thăng thiên sẽ không điều khiển đời con vì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, biết rõ là con sẽ chỉ  có thể bước vào trạng thái thăng thiên bằng cách tinh lọc khả năng chọn lựa đúng đắn của mình.
  • Nếu con nhận được một lời hướng dẫn có vẻ không ổn, cho dù là do nội dung hay rung động của nó, thì con hãy đừng theo đó mà ra tay hành động. Con hãy chỉ đơn giản cất nó lên kệ và hoàn toàn không dính mắc về sự kiện là nó có chân thực hay không. Con cứ tiếp tục tu tập tâm linh và chờ xem có sự hướng dẫn hay xác nhận nào hay không.
  • Trong một số trường hợp, con có thể nhận thêm những lời chỉ dẫn rất dai dẳng thúc giục con làm một chuyện gì đó. Nếu những lời đó có vẻ hung hãn hay xâm lấn, nó không đến từ một nguồn gốc cao. Nhưng nếu con đã cất một lời hướng dẫn lên kệ và sau một thời gian con lại nhận được một lời gợi ý nội tâm hay một sự xác nhận bên ngoài rằng đó là một lời chân chính, thì nói chung con có thể xem là nó bắt nguồn từ một cõi cao hơn. Trong trường hợp một quyết định quan trọng có tiềm năng thay đổi đời con, có lẽ con sẽ muốn buông nó ra vài lần trước khi bước vào hành động.

Một lần nữa, thật sự không có một cách tuyệt đối hay máy móc nào để xác định xem một lời hướng dẫn xuất phát từ nguồn cao hay nguồn thấp. Đơn giản là con không thể làm như vậy với tâm phân tích hay với tình cảm của con, bởi vì tâm vỏ ngoài sẽ nói cho con nghe những gì con muốn nghe. Rốt cuộc thì con chỉ có thể cảm nhận sự rung động, và điều này đòi hỏi con đạt được một mức độ hòa điệu nào đó với cái ta Ki-tô của con cũng như với Đại đoàn Thăng thiên.

Một khi con có sự hòa điệu này, con sẽ cảm nhận được rung động của cái ta Ki-tô của con hay của một chân sư thăng thiên, và như vậy con có được một khung tham chiếu sẽ cho phép con so sánh rung động của một lời chỉ dẫn và biết được nó đến từ đâu. Đây không phải là một tiến trình máy móc mà một tiến trình nghệ thuật. Nó sẽ không xảy ra ngay lập tức, nhưng néu con kiên trì sử dụng các dụng cụ mà ta đã trao truyền trên trang mạng này, con sẽ từ từ khai triển khả năng phân biện của con.

Ta cũng biết là một số người sẽ cảm thấy như thể ta đã không đưa ra một lời dạy rõ ràng lắm, nhưng lý do là vì quả vị Ki-tô không có một con đường máy móc để đi tới đó. Con đường dẫn đến quả vị Ki-tô đòi hỏi con chọn lựa bằng cách sử dụng sự hiểu biết, phân biện và khả năng viễn kiến của riêng con. Trong đa số các trường hợp, con sẽ có nhiều hơn một chọn lựa đúng đắn duy nhất, cho nên chọn lựa “phải” nhất cho con sẽ là chọn lựa thể hiện đúng nhất cá thể độc đáo của con.

Các thế lực bóng tối sẽ tìm cách khiến con phủ nhận cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Nhưng các uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con biểu lộ cá thể đó. Thế lực bóng tối muốn con chắp nhận cái bản sắc do tự ngã phàm phu của con quy định. Uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con từ bỏ cái bản sắc giả tạo đó để nhận lấy bản sắc chân thực của con như một sinh thể tâm linh độc đáo.

Lòng tốt không có nghĩa là con không bao giờ thách thức hay chống đối người khác

Hỏi: Bài truyền đọc của thày Maitreya có nói về lòng tốt và ý nghĩa của lòng tốt trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Con xin hỏi, làm sao chúng con có thể tốt mãi mà không trở thành tấm thảm chùi chân cho người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Đây quả thực là một câu hỏi khó trả lời trong cái nhìn đường thẳng. Đây là một thử thách mà mọi người cần phải trải qua. Chúng tôi, các chân sư, có nói là ở một điểm nào đó, con có sự mong muốn kiểm soát, có nhu cầu kiểm soát, và con sẵn sàng phóng chiếu ra người khác để có được cảm giác là con đang kiểm soát tình thế. Tất nhiên đây không phải là lòng tốt. Và khi con vượt qua được mong muốn kiểm soát cũng như mọi hình thức hung hãn đối với người khác, thì con bắt đầu biểu hiện được cái mà người ta thường gọi là lòng tốt.

Nhiều người sau đó sẽ trải qua một giai đoạn khi họ gần như đền bù quá độ cho cảm nhận là trước đó họ đã không tốt. Và như vậy họ bước vào một cái nhìn thụ động về lòng tốt, qua đó họ nghĩ rằng lòng tốt có nghĩa là họ không được thách thức hay chống đối một ai. Trên căn bản, họ cho rằng họ phải để yên cho người khác muốn làm gì thì làm, sau đó họ sẽ giơ má bên kia, và đó là lòng tốt. Nhưng khi chính ta tình nguyện xuống địa cầu ở ban đầu, ta có đặt câu hỏi là liệu cư dân trên địa cầu có thể được đánh thức qua lòng tốt hay không. Câu trả lời mà ta nhận được từ các vị hướng dẫn tâm linh của ta thuở đó là: chỉ khi nào ta điều ngự được cả 144 sắc thái của lòng tốt.

Nói cách khác, lòng tốt có một sắc thái đặc thù cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức. Khi con đi xuống các tầng tâm thức thấp hơn, hay khi con phải cư xử với một người ở những tầng tâm thức thấp kém, thì nếu con là một tấm thảm chùi chân và cho phép họ làm bất cứ gì họ muốn, đó không phải là lòng tốt đâu con. Đó không phải là cư xử tốt cho họ, bởi vì cách cư xử như vậy sẽ chỉ củng cố trạng thái tâm thức của họ là họ có thể xâm hại người khác mà vẫn không hề hấn chi.

Khi con tương tác với những người ở tâm thức thấp, những loại người hung dữ, thì lòng tốt không phải là để yên cho họ không bị hề hấn chi, mà thực sự là thách thức họ. Không phải thách thức trong nghĩa là con sẽ đánh nhau với họ hay tìm cách tiêu diệt họ, mà con tìm cách khiến cho hành vi của họ rõ ràng hơn cho mọi người, và cuối cùng thì có lẽ cũng rõ ràng hơn cho chính họ.   

Nói cách khác, con nỗ lực chất vấn họ, con đặt vấn đề là tại sao họ lại cư xử như thế, tại sao họ nghĩ đó là điều hợp lý, tại sao họ nghĩ đó là điều cần thiết, tại sao họ lại không quan tâm đến những hậu quả trên người khác, và một lô câu hỏi khác mà con có thể hỏi. Và dĩ nhiên, cũng có khi lòng tốt có nghĩa là nếu họ không nghe, con sẽ bước ra ngoài, lánh xa khỏi họ và để mặc cho họ một mình.   

Như con có thể thấy, đối với mỗi tầng tâm thức của cá nhân con, sẽ có một sắc thái của lòng tốt tương ứng với tầng đó. Đây là điều mà con có thể nhận thức và cố đạt được qua kinh nghiệm trực giác. Chắc chắn con có thể yêu cầu ta giúp, con hãy gọi ta qua bài chú của ta để ta có thể giúp con nắm được lòng tốt ở mức của con nghĩa là gì, và lòng tốt nghĩa là gì khi con phải cư xử với một người ở một mức nào đó. Vậy thì con hãy hỏi và ta sẽ trả lời con, với điều kiện là con có khả năng nhận được trong trạng thái lắng nghe trung dung, không thành kiến.   

Còn hay không còn tự ngã

Hỏi: Hình như 144 tầng tâm thức trên địa cầu có thể được chia ra làm ba cấp độ khác nhau: dưới tầng thứ 48, từ 48 đến 96, và từ 96 đến 144. Vậy nếu đúng như vậy, ở mỗi tầng mỗi chúng ta sẽ phải đối mặt với một mức điểm đạo tâm Ki-tô khác nhau. Trong lần điểm đạo về thử thách của Ki-tô, liệu chúng ta có thể đối mặt với sự thoáng hiện của toàn bộ cấu trúc của tự ngã thay vì chỉ thấy thêm một cái ngã phải cởi bỏ? Hay đây chỉ là thêm một ảo tưởng khiến chúng ta, sau khi đã nhìn thấy toàn cấu trúc của tự ngã, tin rằng chúng ta đã biết hết tất cả và không cần tiếp tục thách thức cái hộp tư duy của chúng ta về tâm thức Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/01/21.

Đây là ảo tưởng mà nhiều người đã rơi vào trong suốt thời gian qua, đặc biệt là những người đã đạt đến một địa vị nào đó là thày tâm linh, là thành viên của một tổ chức tâm linh, hay một địa vị trong một phong trào tâm linh, hoặc bất cứ gì khác. Có rất nhiều người như vậy tự cho mình, hoặc các môn đồ của họ hoặc chính họ cũng tin là họ không còn sót lại chút tự ngã nào. Đôi khi điều này không sai theo định nghĩa của họ về tự ngã, nhưng đó không có nghĩa là họ không còn chút tâm lý nào phải xem xét, bởi vì như chúng tôi có nói, cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một ảo tưởng, một cái ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng đó. Con cần phải tiếp tục xem xét khi nào con vẫn còn hiện thân.

Chúng tôi đã từng nói là con có khả năng vượt qua bất kỳ giới hạn nào miễn là con sẵn sàng xem xét nó. Nếu con khiến cho con tin rằng con không còn chút tự ngã nào hay tâm lý chưa giải quyết, và do đó con không cần phải xem đến tâm lý mình, thì con sẽ không vượt lên trên tầng tâm thức đó được. Con có thể đã đạt tới một tầng tâm thức khá cao, nhưng nếu con không vượt quá tầng này thì con sẽ không phát huy hết tiềm năng cao nhất của con. Rất có thể là con sẽ không thượng thăng đâu. Thực tế là khi con lên đến các tầng cao hơn của phân biện Ki-tô, con bắt đầu thấy rằng ở mỗi tầng có một cái ngã tách biệt nhất định cần được hóa giải. Con nhận ra là con vẫn còn sót lại một số ngã tách biệt. Điều này không làm con phiền hà; nó không có nghĩa là con cảm thấy con không thể biểu đạt được chính mình. Con nhận ra rằng luôn luôn có điều gì đó mà con cần xem đến – con luôn luôn xem xét cách phản ứng của con trước các tình huống. Nếu con sẵn lòng làm điều này, đó là lúc con sẽ thành công.

Bất cứ khi nào con ngừng lại ở một điểm, con sẽ không tiến xa hơn điểm đó. Chỉ giản dị vậy thôi.

Ta biết trên địa cầu có một giấc mơ rất xa xưa là con có thể đạt tới một trạng thái tâm thức cao tối hậu. Nhưng con yêu dấu, đó chỉ là một ảo tưởng mà các sinh thể sa ngã đã phóng chiếu lên, và được nhiều người tâm linh đầy thiện chí củng cố thêm vào. Con có thể thấy đa số các phong trào tâm linh hay tôn giáo đều có niềm tin như thế. Người đạo Cơ đốc sẽ bảo: “Giê-su không có tự ngã.” Người đạo Phật sẽ bảo: “Phật không có tự ngã.” Người đạo Hồi sẽ bảo: “Tiên tri của chúng tôi không có tự ngã.” Trong nhiều phong trào tâm linh khác cũng vậy – trong Summit Lighthouse, người ta tin rằng vị sứ giả không có tự ngã. Trong I AM Movement, người ta tin rằng các sứ giả không có tự ngã. Trong Thông thiên học, người ta tin rằng bà Blavatsky không có tự ngã, vân vân và vân vân.

Con hãy tự xem mình là may mắn khi con đang tham gia vào một sinh hoạt mà vị sứ giả ở đây không cảm thấy nhu cầu phải tuyên bố là mình không có tự ngã, và cũng không muốn người khác nghĩ như vậy. Đó là lý do chúng tôi mới có thể đưa ra những lời giáo lý này. Vì nếu không, con sẽ đến một điểm khi con không thể tiến xa hơn được nữa.

Sứ vụ thiêng liêng, hay tạo kết quả trong thế gian?

Hỏi: Có phải việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình trong kiếp này không là những việc mà mình phải hoàn thành trong thế gian? Nói cách khác, có sự khác biệt nào giữa việc muốn thực hiện một số thành quả trên địa cầu so với việc muốn làm tròn sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/1/2021.

Khi con hiểu một sứ vụ thiêng liêng là gì, con sẽ nhận ra rằng sứ vụ thiêng liêng quy định con sẽ thực hiện một số công việc và tạo ra một số thành quả trên địa cầu. Và đó là những điều mà con có khả năng thị hiện. Nếu không thì con đã không quy định những điều đó trong sứ vụ thiêng liêng của con, bởi vì không ai định ra mục tiêu thiếu thực tế cho mình trong kiếp sống này.

Nhưng ngoài điều đó ra, cũng có thể là sau khi con đầu thai, con quyết định bằng cái tâm vỏ ngoài là con muốn thực hiện một số kết quả vỏ ngoài nào đó. Và nếu điều này không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, nó sẽ trở thành một trở ngại cho việc hoàn thành sứ vụ, một trở ngại cho sự phát triển tâm thức của con, vá nó có thể trở thành một sao lãng dẫn con vào ngõ cụt. Sứ vụ thiêng liêng của con không đề ra những mục tiêu mà con không thể thực hiện được trong kiếp này. 

Sứ vụ thiêng liêng dành cho một kiếp sống nhất định. Trong đó cũng có thể có một số mục tiêu dài hạn, nhưng nó quy định mục tiêu cho một kiếp sống nhất định. Nó khả dĩ và thực tế. Nếu con quy định trong sứ vụ là con sẽ tự thăng vượt thì con sẽ muốn tự thăng vượt trong kiếp này.

Các chân sư có một trạng thái tâm thức quả cầu, phi địa phương

Hỏi: Làm thế nào các chân sư thăng thiên nối kết với chúng con khi chúng con hòa điệu với các thày trong tim mình? Chẳng hạn, nếu con thiền quán và thỉnh cầu thày Giê-su, liệu thày có sẽ bị ngắt quãng trong công việc thường nhật của thày nơi cõi thăng thiên khi thày phải vội chạy đến với con? Hay là nơi nhiệm sở của thày có nhiều sinh thể khác giúp việc cho thày? Luôn luôn có rất nhiều người tìm cách hiệp thông với thày Giê-su, vậy làm thế nào thày xử lý được việc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Câu hỏi được đặt ra từ mức tâm thức mà các con hiện có trên địa cầu này, tức là một trạng thái tâm thức rất đường thẳng. Sự kiện có người đặt và thắc mắc về câu hỏi này rất dễ thông cảm, nhưng nó dựa trên thực tế là khi con đầu thai trên một hành tinh dày đặc như địa cầu, con không thể làm sao tưởng tượng hay mường tượng được cuộc sống của một chân sư thăng thiên là như thế nào, con không thể tưởng tượng nổi trạng thái tâm thức của các chân sư. Con ở trong một trạng thái tâm thức cục bộ (localized) đặt trọng tâm chung quanh thân xác vật lý của mình, cho nên con nghĩ là nếu có ai gọi con đến giúp họ, thì con sẽ phải đến với họ trong thế giới vật lý và toàn bộ tâm thức của con cũng đi tới đó cùng với xác thân vật lý của con.

Ta không mang xác thân vật lý. Ta không có một ý thức tâm thức cục bộ. Ta có một trạng thái tâm thức quả cầu (spherical) hay phi địa phương (non-local) cho nên ta có thể ở hai nơi cùng một lúc. Đúng hơn, ta có thể ở 2 triệu nơi khác nhau cùng một lúc. Ta có thể ở mọi nơi trong bầu cõi cục bộ của trái đất hầu giúp đỡ hàng triệu người cùng một lúc.

Ta không cần có người trợ giúp để gửi người trợ giúp đến mỗi người cần trợ giúp, vì ta có thể ở tất cả những nơi đó cùng một lúc. Điều này không gây xao lãng trong công việc bình thường của ta, mà kỳ thực đó chính là một phần trong công việc bình thường của ta.

Điều này không phải để nói là bất cứ ai thiền quán hay cầu nguyện về Giê-su đều sẽ đạt tới chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – một số sẽ đạt tới những sinh thể thấp hơn, một số sẽ đạt tới những kẻ mạo danh, điều này tùy thuộc rất nhiều vào mỗi cá nhân. Nhưng chắc chắn là có rất, rất nhiều người đã xây dựng được một mối nối kết nào đó với ta, trong số đó có những tín đồ Cơ đốc giáo và vì vậy họ có thể cảm nhận được sự hiện diện của ta. Và tất nhiên, ta có thể thị hiện sự hiện diện cuả ta với họ mà đồng thời vẫn có thể dành ra một phần hiện diện của ta để thực hiện những công việc khác trên cõi thăng thiên.

144 tầng tâm thức và đầu thai

Hỏi: Khi xác thân vật lý của một dòng sống qua đời và vị đó tái đầu thai trong một xác thân mới và một đời sống mới, liệu vị đó sẽ bắt đầu ở cùng mức tâm thức trong số 144 mức như đạt được trong kiếp trước đó hay không? Lý do con hỏi là vì con nghĩ một dòng sống phải đi qua 144 tầng tâm thức nhiều lần chứ không phải một lần duy nhất.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Trong đa số trường hợp khi một sinh thể tái đầu thai, người đó sẽ trở lại ở cùng một tầng tâm thức như trong kiếp trước đó. Cũng có một số sinh thể bị suy kém đi trong khi họ ở ngoài xác thân vì họ bị kẹt lại nơi cõi trung giới và họ bị kéo xuống một tầng tâm thức thấp hơn.

Nhưng ngược lại cũng có một số lớn những sinh thể là học trò tâm linh – dù là học trò của chân sư thăng thiên hay là hành giả tu tập theo những giáo lý tâm linh khác – đạt được tinh tấn giữa hai kiếp đầu thai. Họ giải quyết tâm lý của họ, nhận được sự trợ giúp của các chân sư, và họ vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Kết quả là trong kiếp đầu thai mới, họ khởi sự ở một mức cao hơn kiếp trước có thể tới mấy bậc.

Ý tưởng rằng con phải kinh qua tất cả mọi tầng tâm thức nhiều lần như trên đường thẳng, không chính xác. Tất nhiên là sẽ có những người đạt đươc một mức nào đó rồi đứng yên ở đó một thời gian, hay họ bị tụt xuống trở lại. Đây không phải là một tiến trình đường thẳng mà qua đó một khi con đã đạt được một mức nào rồi thì con không thể đi xuống thấp hơn.

Có những người sẽ đi lên đi xuống nhiều lần, và vì vậy có những mức mà họ sẽ kinh qua nhiều lần. Tuy nhiên rất, rất hiếm khi những người đã đạt tới những tầng cao của quả vị Ki-tô mà đi ngược trở xuống.

Ý thức sở hữu liên quan tới gia đình

Hỏi: Con nghĩ là khắp nơi trong xã hội, người ta thường tin chắc rằng khi một người thân, một người mà chúng ta yêu thương qua đời, thì đó là một nỗi đau buồn lớn lao, không thể bù đắp được. Chúng ta cần học cách tách mình ra khỏi tin tưởng này để thay thế tin tưởng sai lầm bằng tin tưởng đúng đắn. Ngoài ra cũng có sự mất mát những người họ hàng hay bạn bè còn đang hiện thân. Bản thân con đã trải nghiệm nỗi sợ hãi và đau đớn này. Khi học tập giáo lý của các chân sư thăng thiên, con vẫn không có khả năng đương đầu với hoàn cảnh này, do một tin tưởng nào đó mà con vẫn chưa thể nhìn thấy. Con không sẵn sàng trực diện với hoàn cảnh đó, và khi nó xảy ra, con không hòa hợp và yêu thương. Niềm tin nào nằm đằng sau nỗi đau khổ khủng khiếp đó mà con người phải trải qua trên hành tinh địa cầu dày đặc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Một lần nữa, đây là một niềm tin bắt nguồn từ sa nhân. Và con có thể thấy nó diễn bày ra ở nơi rất nhiều lãnh tụ trong quá khứ. Con thấy những lãnh tụ đã tự đặt mình vào vị thế quyền lực tối cao của một nhà độc tài, được dân chúng tôn thờ gần như là một vị thần. Thế nhưng họ biết rõ là mặc dù quần chúng xem mình là thần, khi nào họ còn ở trong một xác thân sinh diệt thì cũng sẽ đến lúc xác thân đó không thể duy trì sự sống, và họ sẽ phải chết. Nhưng họ không thỏa mãn với chuyện đạt được danh vọng tuyệt đỉnh chỉ trong một kiếp sống. Họ muốn để lại một sự nghiệp, một di sản. Và trong phần di sản đó, họ muốn mọi người vẫn phải gắn bó với họ, đến độ cảm thấy cái chết của họ là một mất mát không thể bù đắp. Họ muốn mọi người phải đau buồn thật lâu dài sau khi họ chết. Tất cả chỉ là chuyện xây đắp tự ngã mà thôi, xây đắp ý thức mình là một người thật đặc biệt. Chuyện đó khởi sự như thế đó.

Nhưng nó cũng đã được củng cố bởi một niềm tin khác, một lần nữa cũng do sa nhân truyền bá, mà con có thể tìm thấy trong câu nói thường tình: “Cha mẹ tôi là ông này bà nọ”, “Con cái tôi đã thực hiện được chuyện này chuyện kia”. Tất cả các con đều nói “cha mẹ của tôi, con cái của tôi, anh chị em của tôi”. Có một ý thức sở hữu nào đó liên quan đến gia đình. Và khi con lớn lên trên một hành tinh dày đặc như thế này, phần nào con cũng không thể tránh khỏi hấp thụ tinh thần đó. Tất nhiên, có một số nền văn hóa đưa cường độ sở hữu lên cao hơn nữa, khi người ta gần như thờ phụng gia đình của mình, và cấu trúc gia đình được xem là khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc sống con người.

Giờ đây khi con bước đi trên đường tu tâm linh và đạt tới những mức cao hơn của quả vị Ki-tô, đương nhiên con nhận ra con là một sinh thể tâm linh. Con đã sống rất, rất nhiều kiếp sống trên địa cầu này. Không phải lúc nào con cũng đã có cùng cha mẹ hay cùng anh chị em mà con đang có trong kiếp này, hay cùng những đứa con mà con có trong kiếp này. Đó không phải là cha mẹ của con, con cái của con – con không thuộc về họ và họ không thuộc về con. Đây chính là ý thức sở hữu mà con có thể bắt đầu tra vấn. Rồi con có thể nhận ra là gia đình không thể định nghĩa được con, và tất nhiên, con có quyền vượt ra khỏi gia đình con. Và con sẽ phải làm vậy hầu thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không thể ở lại trong vòng giới hạn của những gì mà gia đình xem là bình thường.

Hiển nhiên còn có một yếu tố khác nữa, đặc biệt là ở phương Tây nơi luân hồi đã bị phủ nhận từ khi Giáo hội Công giáo tuyên bố vào năm 553 rằng luân hồi là tà giáo. Cho nên đã có một chấn thương vô cùng sâu đậm đối với cái chết, khi người ta cho rằng con người chỉ có một kiếp sống mà thôi, một cơ hội duy nhất để bảo đảm sự cứu rỗi của mình. Sau khi con chết, con sẽ ra đi khỏi hành tinh này vĩnh viễn, hoặc con sẽ lên thiên đàng hoặc con sẽ xuống địa ngục. Điều này phóng chiếu ra ý tưởng là khi cha mẹ con qua đời, con sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nữa. Và dĩ nhiên, trong nền văn hóa duy vật đã khởi lên, cha mẹ con sẽ ngừng tồn tại khi qua đời – con sẽ ngừng tồn tại khi con qua đời. Như vậy thì làm sao không cảm thấy mất mát cho được? Nó đi kèm với mất mát trong nhận biết cũng như mất mát về bản sắc. Mà sự nhận biết cá nhân chính là năng khiếu quý giá nhất mà con có được. Cho nên, một lần nữa, nếu con thấy cần, con nên tìm đọc một số cuốn sách đã được viết ra về trải nghiệm cận tử.

Qua trải nghiệm cận tử, rất nhiều người đã chứng kiến xác thân mình chết đi nhưng chính mình thì không ngừng hiện hữu, và họ đã tiếp tục có một cuộc sống ở một cõi khác. Nhiều người như vậy đã trở về, đã “sống trở lại”, và họ giải thích là không hề có đau buồn đối với người kinh qua cái chết. Họ không đau buồn do mình không sống nữa, mà ngược lại, họ thường cảm thấy nhẹ nhõm thanh thản. Họ được bao bọc trong tình thương, họ gặp lại những người thân trong quá khứ hoặc những vị hướng dẫn tâm linh của họ, và họ ở trong một cõi cao hơn, thú vị, khoan khoái hơn khi họ còn ở trên trái đất. Con thật không cần đau buồn giùm họ đâu, vì họ chẳng mất mát gì khi họ không còn sống trong cõi này.

Và khi con nhận ra điều đó, con cũng nhận ra: “Ừ nhỉ, mình đang đau buồn chuyện gì đây?” Trong nhiều trường hợp, con đau buồn không phải vì bản thân con cảm thấy đau buồn, cũng không phải vì cha mẹ con sẽ được khuây khỏa nhờ con đã đau buồn, mà bởi vì nền văn hóa của con đã tạo ra cái ý tưởng là con phải biểu lộ sự đau buồn vì như vậy sẽ chứng tỏ là con yêu thương cha mẹ con đến chừng nào. Và nếu con không làm vậy thì người ta sẽ chê trách con.

Vậy thì tại sao con đau buồn? Là để bảo vệ một bộ mặt mà văn hóa của con đòi hỏi nơi con. Và khi con bắt đầu nhìn ra điều này, con cũng có thể bắt đầu buông nó ra. Con có thể dùng các dụng cụ tâm linh của chân sư để phơi bày những cái ngã đó nơi chính con, và con chỉ cần nói: “Thôi vậy là đủ rồi. Tôi cho nó chết đi.” 

Khi các nhân vật nổi tiếng chuyển tiếp vào cõi chết 

Hỏi: Xin thày giảng điều gì xảy ra cho một dòng sống nổi tiếng trên trái đất – như một ngôi sao nhạc pop hay lãnh tụ một quốc gia chẳng hạn – khi người đó rời khỏi cõi vật lý? Liệu y sẽ khó lòng bước về phía trước nếu có quá nhiều người nhắc nhở đến y, quá nhiều người bàn tán hay suy nghĩ về y? Liệu y sẽ bị ràng buộc về mặt tình cảm, vân vân? Nếu những người còn sống cứ bám chặt lấy y thì liệu điều này sẽ hạn chế khả năng của y để bước về phía trước?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô của con. Đăng ngày 13/1/2021.

À, con có thể thấy được rất nhiều người nổi tiếng khi họ rời khỏi màn ảnh cuộc đời thì trong nhiều trường hợp, họ đã gặp khó khăn bước tới trước mặt. Một lần nữa, đó là vì một số trong những người đó kỳ thực là sa nhân. Nhưng cho dù họ không là sa nhân thì họ cũng có lòng ham muốn được thần tượng hóa. Họ ham muốn được người đời kính trọng, được người ta xem mình là nhân vật quan trọng và mình để lại một di sản kế thừa nào đó.

Nếu một người mong muốn để lại di sản kế thừa thì thường thường y sẽ không thể đơn giản bỏ lại kiếp sống đó đằng sau. Y sẽ muốn ở nán lại để nhìn xem chuyện gì xảy ra, liệu người ta sẽ nói gì về mình, nói gì về sự nghiệp của mình, liệu họ sẽ than khóc, liệu họ sẽ đau buồn, liệu họ sẽ tiếp tục nghĩ tới mình và nhắc đến mình, vân vân. Trong nhiều trường hợp, điều này đã trì hoãn khả năng bước tới của dòng sống đó.

Điều quan trọng con cần nhận ra là một khi con đã rời khỏi một kiếp hiện thân thì con đã xong xuôi với kiếp đó. Điều con cần làm là con chỉ đơn giản buông bỏ mọi chuyện thuộc về kiếp đó, để hoặc con có thể chuyển sang kiếp kế tiếp và chuẩn bị cho kiếp kế tiếp, hoặc con sẽ thăng thiên. Đặc biệt nếu con muốn thăng thiên, tất nhiên con sẽ cần bỏ lại kiếp hiện thân đó đằng sau. Chỉ khi nào con bỏ lại mọi chuyện đằng sau thì con mới có thể thăng thiên.

Tương tác với người không tâm linh

Hỏi: Con thấy là các chân sư đang khuyến khích một thời đại cộng đồng, vậy làm thế nào chúng con có thể cân bằng một đằng là sự kiện chúng con tu tập một giáo lý có vẻ rất cách mạng so với các hệ tư tưởng phổ thông đã có từ lâu hơn, và đằng khác là nhu cầu giao tiếp với những người không dính dáng gì đến những điều chúng con tin? Đôi khi con cảm thấy là khi con một mình, con biểu lộ nhiều năng lượng “tốt” hơn. Nhưng vì con luôn luôn có xu hướng hướng nội, cho nên con cũng cảm thấy sự thôi thúc bên trong là con cần giao tiếp xã hội nhiều hơn. Tuy vậy khi con tương tác với xã hội thì con lại cảm thấy hầu như con bị các tương tác này hủy diệt. Đôi khi con thực sự cảm thấy mình là cây ô-liu độc nhất giữa một rừng cây keo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển phân biện Ki-tô. Đăng ngày 12/1/2021.

Đây là một trong những bí ẩn trên đường tu là cách ứng phó với sự kiện con là một người tâm linh tương tác với những người không tâm linh. Điều quan trọng là con cần xây dựng một cách tương tác nào đó với những người không theo cùng giáo lý tâm linh với con, vì đây là cách duy nhất để con không rơi vào điều mà các thày đã chứng kiến trong quá nhiều tổ chức tâm linh, là người ta tạo ra một vòng xoáy hướng hạ khiến mình bị mù không thấy được nhiều chuyện.

Một tổ chức có thể dựng nên một tâm thức tập thể, một nét văn hóa, cuốn hút mọi người vào trong đó với nhiều hậu quả không mấy xây dựng. Chẳng hạn nó có thể khiến cho toàn nhóm cảm thấy là mình vô cùng đặc biệt, và điều này sẽ khuyến khích một lòng kiêu mạn tâm linh nào đó. Mọi người có thể dựng lên một ý niệm tôn sùng đối với người lãnh đạo hay đối với tổ chức, cùng với nhiều sự việc không xây dựng khác.

Cho nên điều quan trọng là con có liên hệ với những người không tâm linh, ít nhất là để có được một khung tham chiếu. Tất nhiên khi con giải quyết đặc tính mà các thày đã nói đến trong hội nghị này, đặc biệt là mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, thì con sẽ dễ tương tác với người khác hơn.

Điều này không có nghĩa là con cần phải tham gia vào mọi loại tương tác xã hội. Thật không có lý do gì con phải đi chơi hộp đêm, phải khiêu vũ nhạc rock và phải uống rượu để có thể tham gia xã hội. Con có thể có những loại tương tác xã hội khác, như sứ giả này đã suốt đời tham gia vào các loại hội họp xã hội mà không bao giờ uống rượu.

Và con vẫn có thể nói chuyện với người khác về những gì họ thường nói chuyện mà không mang ý định nào trong tâm vỏ ngoài là con cần phải thay đổi họ hay cải đạo họ. Con trung hòa và con hòa điệu, và thỉnh thoảng con có thể nhận được một gợi ý từ cái ta cao của con là con có thể biểu đạt một ý tưởng nào đó sẽ hoặc giúp người khác, hoặc thách thức một số niềm tin của người khác. Không phải là con phải cải hóa họ mà con chỉ gieo một hạt mầm. Con cho họ một ý tưởng nào đó mà với thời gian, họ có thể nghiền ngẫm, tiêu hóa, và nó sẽ giúp họ xoay chuyển sự nhận biết của họ. 

Phật Thiền định là để bạn thiền quán

Hỏi: Trong bài thỉnh Đông Tây về việc tìm lại những mảnh hồn thất lạc và trong phần thỉnh Ratnasambhava, có đề cập đến Viên ngọc Toại ý tuyệt vời của các thày. Xin các thày vui lòng giải thích đó là gì? 


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 11/1/2021.

Thật sự tôi cảm nhận là các thày không muốn giải thích điều này vì các Phật Thiền định, ít nhất trong một số phong trào Phật giáo, được xem là những vị Phật để thiền quán. Nói cách khác, bạn cần thiền quán về các vị Phật này, và mặc dù chúng ta xem Phật Thiền định là chân sư thăng thiên – lả những sinh thể thăng thiên cụ thể – các thày không muốn cho chúng ta một cái gì cụ thể mà tâm đường thẳng có thể sử dụng để phân loại, hiểu biết hay lý giải.

Điều quan trọng về Phật Thiền định là bạn nên dùng các thày trong chức năng của các thày. Chúng ta có thể thiền quán về các thày, chúng ta có thể đọc những bài thỉnh nhắc đến các thày, và trong quyển sách “Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh cao nhất” có nhiều bài thỉnh như vậy. Bạn cũng có thể nhìn vào các phẩm chất mà các vị Phật này biểu tượng cùng những mặt tha hóa khi chúng ta làm tha hóa các phẩm chất đó. Bạn có thể thiền quán và thỉnh cầu sáng ngộ trực tiếp từ các Phật Thiền định. Nhưng bạn phải vượt qua tâm đường thẳng và bỏ nó qua bên. Và đó là tại sao các thày không muốn trao truyền một lời dạy mà tâm đường thẳng có thể chụp lấy, vì làm như vậy kỳ thực có thể chặn nghẽn sự hòa điệu trực giác của bạn.  

Làm thế nào thoát khỏi bị choáng ngợp bởi đau khổ của người khác

Hỏi: Con có một độ nhạy cảm rất cao và con cảm nhận được nỗi khổ và nỗi đau của người khác như thể chính con đang trải nghiệm vậy. Nhiều khi con cảm thấy mình là cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện, nhưng thật ra con cũng là cánh cửa mở cho sự đau khổ mà con luôn luôn cảm thấu. Con có cảm giác giống như mình luôn luôn bị ướt đẫm trong nỗi khổ đó và con không thể sung sướng khi biết người ta đang đau khổ đến chừng nào. Con có cảm tưởng chuyện này đã xảy ra từ những kiếp hiện thân đầu tiên, nhưng con vẫn không hiểu được nó. Con tự hỏi làm thế nào người ta có thể nhạy cảm mà không đau khổ khi đầu thai ở đây?

Hơn nữa, con rất chú trọng đến việc tự biểu đạt ra ngoài – cuộc sống, ánh sáng, sức khỏe, phụng sự. Con ưa thích chuyện đó, nhưng gần như toàn bộ sự chú ý của con tập trung vào vấn đề là con có thể làm gì và đem lại những gì cho người chung quanh, và tất nhiên cho tâm lý của con nữa. Không có nó thì đời con trở nên trống trải, vô nghĩa. Có vẻ như hai trạng thái đó gắn liền với nhau, và con không thể phân biệt được cái nào đến từ Hiện diện TA LÀ và cái nào đến từ ngã tách biệt.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 9/1/2021.

Con yêu dấu, có những avatar đã đến địa cầu, thường khi là đã mang sẵn lòng trắc ẩn đối với nỗi đau khổ của con người trên trái đất, cũng như ý muốn đóng góp để giảm bớt nỗi đau khổ đó. Rồi khi con bước vào hiện thân, một trong những kiếp đầu thai đầu tiên của con, khi con phải chạm trán với một chấn thương vô cùng sâu sắc đã sinh tạo ra cái ngã gốc của con (primal self), thì lúc đó cảm thể con đã mở toang ra trước nỗi đau khổ của người khác. Con bị nỗi đau khổ này choáng ngợp đến độ nó trở thành khía cạnh áp đảo ngã gốc của con.

Gần như có thể nói là con đã rút lui khỏi việc hiện thân, và con quyết định là mình không muốn ở đây, mình đã không tới đây để thể hiện con người của mình hay để trải nghiệm bất cứ gì trên trái đất, mà mình đến đây chỉ để giúp đỡ nỗi đau khổ của tha nhân, và do đó nó trở thành điều hệ trọng duy nhất đối với con. Trong khi đó, chính con và tất cả những mục tiêu mà con đến đây để thực hiện, hay Hiện diện TA LÀ của con muốn con thực hiện ở đây, đều không quan trọng nữa. Và con phải kềm hãm khả năng sáng tạo của con cũng như ánh sáng được biểu đạt qua con.

Bây giờ, điều rất, rất quan trọng là nhìn nhận rằng tình trạng đó có mặt là vì con có những lỗ hổng trong cảm thể của con buộc chặt con vào những xoáy lốc tập thể của đau khổ. Thật sự con đang không giúp giảm bớt đau khổ trên hành tinh này bằng cách cho phép mình bị chúng choáng ngợp. Cho nên con có thể khởi sự đọc bài chú, bài thỉnh, để cầu thỉnh sự bảo vệ cho cảm thể của con, kêu gọi Astrea cắt đứt để con được giải thoát khỏi những sợi dây ràng buộc con vào tâm thức tập thể, vào cõi trung giới.

Nhưng dài hạn hơn, con cần phát hiện những cái ngã, con cần khám phá quyết định đã khiến con mở lớn cảm thể của mình và nghĩ mình phải làm chuyện đó. Con cũng sẽ cần đối phó với một số phóng chiếu, ngay cả một số ngã tách biệt, bảo con sẽ là người ích kỷ nếu con đóng cửa lòng nhạy cảm của mình lại đối với người khác. Nhưng như Giê-su vừa giải thích, con không hề ích kỷ khi con không cho phép mình bị cảm xúc của người khác kéo mình xuống. Và nếu con tới mức không còn vui hưởng cuộc đời được nữa, và nếu con không thể biểu hiện bản thân mình một cách tích cực, thì con không đang đem lại lợi ích cho hành tinh. Con không đang giúp cho tâm thức tập thể.

Cho nên con cần sử dụng những dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con để giải quyết những cái ngã này, giải quyết chấn thương nhập đời cùng cái ngã gốc, và đạt đến chỗ tìm lại thái độ tích cực khi sống trên trái đất. Con cũng cần nhận ra – như Giê-su cũng nói, nhưng trong một nghĩa hơi khác – là con phải cho phép quyền tự quyết trải bày ra. Loài người đã sử dụng quyền tự quyết của mình để tạo ra đau khổ hiện tại của mình. Con không thể kiểm soát được quyền tự quyết của người khác, do đó không có lý do gì con phải tạm dừng quyền tự do chọn lựa của con hầu cảm thấy nỗi đau khổ của người khác. Con có quyền vươn lên cao hơn nỗi đau khổ đó và đạt tới điểm chính cá nhân con có thể sông trên hành tinh này mà không bị đau khổ. Hơn thế, con có thể sống trên hành tinh này và thể hiện ánh sáng, thể hiện cá thể và sự sáng tạo tuôn chảy từ Hiên diện TA LÀ của con. Nói cho cùng, chính việc thể hiện khả năng sáng tạo này mới nâng tâm thức tập thể lên cao hơn và cải thiện các điều kiện trên hành tinh.

Con không giảm bớt nỗi khổ của con người bằng cách cho phép mình cảm thấy và bị choáng ngợp bởi nỗi bất hạnh của người khác. Ta biết, sự bất hạnh luôn tìm kiếm kẻ đồng hành, nhưng điều đó không giảm bớt sự bất hạnh. Cho nên một lần nữa, nếu con cho phép mình tiếp tục cảm thấy như hiện nay và tắt đi khả năng sáng tạo của mình, thì con là một phần của vấn đề chứ không là một phần của giải pháp. Con đã đến địa cầu vì con muốn là một phần của giải pháp, do đó con cần nối kết lại với động lực nguyên thủy của mình. Con cần nối kết lại với đấng đã tạo ra động lực đó tức là Hiện diện TA LÀ của con, hầu con biểu lộ được điều gì đó sáng tạo và tích cực cho hành tinh.

Không tức giận trước những chuyện chướng mắt

Hỏi: Trong cuốn sách “Christ is Born in You” (Ki-tô sinh ra trong con) có viết là con cần từ bỏ lòng tức giận khi bước chân trên con đường quả vị Ki-tô. Nhưng làm sao con có thể không tức giận khi con trông thấy người ta hiếp đáp trẻ nhỏ hay thú vật? Làm thế nào con có thể giải quyết được chuyện này trong tâm thức cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 8/1/2021.

Con phải khởi đầu bằng cách nhìn nhận con đang sống trên loại hành tinh nào. Con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn. Quyền tự quyết đã được phép trải bày ra trên địa cầu, và nó đã trải bày ra ở một mức độ thật là cùng cực. Con cần nhìn vào thực tế này, và con cần lấy quyết định mình sẽ chấp nhận đây là loại hành tinh nơi mình sinh sống. Có rất nhiều chuyện xảy ra trên trái đất mà lẽ ra không nên xảy ra, cho nên nếu con tức giận mỗi khi con phải đối mặt với một chuyện như thế, con sẽ không thể bước chân trên đường tu Ki-tô. Cơn tức giận sẽ kéo con vào một phản ứng xúc cảm. 

Hiện có rất nhiều những lốc xoáy tình cảm ở quy mô của hành tinh và những lốc xoáy này sẽ chỉ đơn giản đánh bẫy con mắc kẹt vào đó, và con sẽ không thể tinh tấn. Sẽ tới một điểm khi con phải lấy quyết định trong ý thức: “Tôi không thể cho phép mình nổi giận vởi tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên địa cầu.” Trên cơ bản, con cần làm việc với tâm lý con để đạt tới điểm con quyết định: “Tôi không muốn tức giận vì bất cứ chuyện gì trên địa cầu.” Và để làm được vậy, con cần nhận ra là trong kiếp này cũng như trong tiền kiếp, con đã có một số ngã tách biệt tin rằng sự tức giận là cần thiết và chính đáng.   

Con cần dùng các dụng cụ tâm linh từ sách “Healing your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cùng những cuốn sách khác* để nhận diện những ngã tách biệt đó, cho tới khi con đạt tới điểm con có thể để cho chúng chết đi. Sau đó con sẽ cảm thấy quyết định đó dễ hơn hẳn, nhưng dù sao thì con cũng cần lấy quyết định. Giản dị, con cần nói: “Tôi cần gì phải tức giận tất cả những chuyện xảy ra trên địa cầu? Làm thế nào cơn giận có thể giúp cho một tình trạng nào đó? Làm thế nào cơn giận có thể cải thiện được những điều kiện đó?”  

Thực tế là khi con tức giận, con sẽ tạo ra năng lượng tình cảm phát xuất từ sợ hãi, con sẽ bồi thêm sức cho các vòng lốc xoáy của hành tinh, và trong nhiều trường hợp, chính những lốc xoáy này áp đảo con người khiến cho họ hiếp đáp người khác, hiếp đáp thú vật hay làm nhiều hành vi khác rõ ràng là bất nhân. Con có muốn đóng góp vào vấn đề hay con muốn đóng góp vào giải pháp? Nếu con muốn đóng góp vào giải pháp, con cần sử dụng những dụng cụ mà các chân sư đã ban ra đễ khắc phục nỗi giận của mình và vươn lên khỏi tức giận.   

* [Những cuốn sách này gồm có: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, Making Peace with Being on Earth]

Người da đen cần thăng vượt một số thái độ và niềm tin về chính mình

Hỏi: Làm thế nào người da đen có thể thăng vượt được cảm nhận thua kém, tư duy nghèo đói, ý niệm rằng mình không thể cao quý, rằng những điều tốt đẹp không thể xảy ra cho mình, rằng mình bị nguyền rủa, rằng chỉ có người da trắng mới có thể vĩ đại và làm được những chuyện vĩ đại?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 20/10/2020.

Đây không phải là một điều có thể thay đổi ở tầm mức tổng quát của người da đen tại Hoa Kỳ, mà chỉ có thể thay đổi ở tầm mức cá nhân từng người – khi người đó sẵn sàng nhìn vào tâm lý của mình và xét xem tâm lý mình đã bị tác động như thế nào bởi quá trình giáo dục khi lớn lên cũng như di sản của người da đen tại Hoa Kỳ.

Con cần nhận diện ở đây sự kiện người da đen tại Hoa Kỳ đã khoác vào một số thái độ, một số tin tưởng về chính mình, với kết quả là họ đã tạo ra những tà thể tập thể vô cùng dõng mãnh. Những tà thể này lôi kéo cảm thể và trí thể của con người, chúng lôi kéo người da đen vào một thái độ nhất định về cuộc sống, rồi thái độ này trở thành một lời tiên tri tự hiện thực.

Tại sao người da đen quá thường khi lại ở những địa vị kém hơn người da trắng trong xã hội? Phương trình này có thể phần nào được giải thích qua sự kỳ thị, phân biệt đối xử của người da trắng. Tất nhiên đó là một phần của phương trình, và tất nhiên việc giải quyết vấn đề này là tuyệt đối quan trọng và cần thiết, hầu giảm bớt sự kỳ thị trong tâm thức tập thể qua lòng bao dung. Nhưng đó chỉ là một phần của phương trình.

Phần quan trọng kia của phương trình là chính tư duy của nhiều người da đen mang một cảm nhận thua kém, cảm nhận cho rằng mình tồi tệ, rằng mình bị xã hội bỏ bê hất hủi, rằng chỉ có người da trắng mới có thể thành công, cùng bao nhiêu niềm tin khác biến thành những lời tiên tri tự hiện thực. Cho nên trước tiên con có thể bắt đầu xem xét vấn đề này trong tâm con, làm việc trong tâm con và nhận ra là con có mang một số ngã tách biệt trong tâm mà con cần phát hiện, con cần nhìn ra niềm tin tưởng đứng đằng sau ngã đó và con cần để cho nó chết đi. Tất nhiên con cũng có thể thỉnh cầu về vấn đề này, thỉnh cầu để cho những người da đen khác được cắt đứt ra khỏi vấn đề này.

Trên cơ bản, điều con cần nhận ra ở đây là câu sau đây trong Tuyên ngôn Độc lập: “… Mọi con người đều được tạo ra bình đẳng”. Thật là không quan trọng da con màu gì, vì ở ban đầu con được sinh tạo với cùng cơ hội mở mang khả năng tự nhận biết của mình y như người da trắng. Không có khác biệt gì ở đây, con không được sinh tạo là người da trắng hay người da đen, mà con được sinh tạo là những con người tâm linh, những sinh thể tâm linh.

Điều đã xảy ra trong chiều dài thời gian – và cũng là điều con nhận thấy tại Phi châu ngày nay mà chúng tôi cũng đã có đề cập – là trong một thời gian rất dài, nhiều người tại châu Phi đã khoác vào tư duy vô cùng hạn hẹp này, và tất nhiên khi họ bị cưỡng ép đi sang châu Mỹ, họ đã đem theo tư duy đó với họ. Bây giờ tại Hoa kỳ, họ có cơ hội lớn hơn để giải thoát khỏi tư duy đó so với người ở châu Phi, nhưng nhiều người lại không nắm lấy cơ hội đó – họ đã buộc mình vào cùng tư duy đó và chính vậy mà nó đã trở thành một lời tiên tri tự hiện thực.

Đối với những người da đen mở tâm ra với các giáo lý của chân sư thăng thiên, các con có khả năng phá vỡ vòng ốc xoáy này. Con có thể phá vỡ trước tiên cho bản thân con, xong con có thể tìm cách giúp người khác làm tương tự. Con có thể đưa ra lời thỉnh, con có thể xoay chuyển tâm thức tập thể của người da đen.

Hiển nhiên là con đã có một số gương sáng, rất rất sáng, từ một số người đã đem lại sự khác biệt, đã tự giải phóng khỏi di sản kềm chế mà họ vốn có, đã vươn lên một số vị thế quan trọng trong xã hội. Barack và Michelle Obama là những ví dụ hiển nhiên, Colin Powell, Oprah và nhiều người khác nữa cũng có thể được nhắc đến. Con có nhiều diễn viên như Morgan Freeman và một số khác đã thực sự chứng tỏ là họ đã đạt đến một mức tâm thức cao hơn so với khi họ đi ra từ di sản da đen của họ.

Cho nên con hãy xem đó là điểm khích lệ, con hãy nhận ra là những vị đó đã thực hiện một công việc vô cùng quan trọng không những cho người da đen mà cho toàn bộ xã hội Hoa kỳ – bởi vì họ đang giúp phá vỡ định kiến mà nhiều người da trắng đang có về người da đen, một định kiến mà trong một số trường hợp cũng đã trở thành một lời tiên tri tự hiện thực do cách hành xử của nhiều người da đen. Có một tiềm năng thật to lớn để đập vỡ vòng xoáy hướng hạ này và tạo dựng một vòng xoáy hướng thượng.

Một lần nữa, ta có thể cam đoan với con là nếu 200 năm tới đây người ta nhìn lại ngày hôm nay, thì loài người sẽ không thể hiểu nổi tại sao màu da và chủng tộc lại là một vấn đề to lớn như vậy tại Hoa kỳ. Người ta sẽ nhìn sang các quốc gia dân chủ khác như các nước Bắc Âu chẳng hạn nơi màu da không đặt thành vấn đề. Tại các xứ Bắc Âu không có chuyện phân biệt đối xử dựa trên màu da.

Con sẽ có thể bảo là các nước đó đã có một lịch sử dễ dàng hơn vì họ đã không gặp những khác biệt như vậy. Nhưng dù sao thì tư duy của họ cũng khác, cho nên ngay cả nếu họ đã có một lượng người di dân da màu lớn như vậy thì họ vẫn không gặp những vấn đề chủng tộc mà Hoa kỳ đã gặp. Cho nên ở đây con cần nhìn nhận là trong tương lai, trong thời đại hoàng kim, chủng tộc sẽ đơn giản không còn là một vấn đề nữa. Con người sẽ nhìn vượt khỏi tất cả những đặc tính vỏ ngoài đó, và họ sẽ đi tìm các đức tính nội tâm của bản thể, của linh hồn.

Cách hiệu quả nhất để tác động đến khí hậu

Hỏi: Bờ Tây của Hoa kỳ vừa bị tàn phá bởi những trận hỏa hoạn dữ dội trong khi bờ Đông phải đương đầu với bão lụt. Hôm trước, nhiệt độ thành phố Los Angeles lên tới 120 độ Fahrenheit (49 độ C). Hình như mỗi năm hành tinh lại nóng hơn trước. Con hiểu là các chân sư có nói rằng tâm thức loài người có tác động đáng kể đến khí hậu. Con xin hỏi cho rõ hơn là loài người có thể sử dụng tâm thức của mình như thế nào để cải thiện khí hậu? Liệu chúng con nên giữ trong tâm thức mình một viễn quan về một khí hậu quân bình hơn, hay đây là vấn đề chuyển đổi các ưu tiên của mình? Chẳng hạn, con hiểu là các vụ cháy rừng dữ dội ở bờ Tây gắn liền với lòng tham, cho nên nếu tâm thức tấp thể trên bờ Tây chuyển dời ưu tiên và tập trung vào việc nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao cá nhân mình, thì liệu sự thay đổi trọng điểm này có dẫn đến một khí hậu tốt hơn? Đâu là cách hiệu quả nhất để thúc đẩy một sự thay đổi tích cực? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 20/10/2020.

Nếu con là một người tâm linh cởi mở với ý tưởng rằng tâm thức có tác động đến khí hậu – và tất nhiên nhiều người sẽ chế giễu ý tưởng này – thì việc tập trung vào khí hậu sẽ không thực sự là cách hiệu quả nhất để đem lại thay đổi. Nói cách khác, trong tư cách một học trò của chân sư thăng thiên, con có thể tập trung vào việc thay đổi thái độ của con đối với khí hậu, hay nâng cao tâm thức của con, hay đọc những bài thỉnh bài chú cho khí hậu.

Nhưng thật ra, làm như vậy vẫn là một cách gián tiếp để thay đổi khí hậu. Cách trực tiếp hơn để thay đổi khí hậu là con làm những gì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khuyến khích loài người nên làm: chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể. Tất nhiên con có thể nâng cao chính tâm thức của con, nhưng con cũng có thể thỉnh gọi việc nâng cao tâm thức tập thể.

Trên cơ bản, đó là lý do vì sao chúng tôi đã không đưa ra bài thỉnh nào đặc trưng nhắm vào khí hậu, vì phương thức để thực sự thay đổi khí hậu là tập trung vào những vấn đề kia. Điều này không có nghĩa là mọi người nên làm ngơ vấn đề khí hậu. Nhưng như đã trình bày, chúng tôi phải lượng định tình hình một cách thiết thực – bởi vì đệ tử của chân sư thăng thiên chỉ có một số giới hạn, cho nên đâu là cách tốt nhất để họ sử dụng nỗ lực của họ vào việc đem lại tác động lớn nhất? Và cách tốt nhất đó không phải là những bài thỉnh đặc trưng về khí hậu, mà những bài thỉnh để đem lại thay đổi trong tâm thức tập thể lẫn trong xã hội.

Rõ ràng nếu người dân sống trên bờ Tây sẵn lòng thay đổi trọng tâm của mình, lánh xa khỏi lòng tham cá nhân chỉ biết phục vụ cho quyên lợi của mình và chuyển sang phụng sự toàn thể cũng như hợp tác trong các cộng đồng, thì chắc chắn điều này sẽ có tác dụng to lớn trên khí hậu vùng bờ Tây. Tương tự như vậy, nếu người dân ở các khu vực khác đang bị tai biến thiên nhiên cũng thay đổi tư duy của mình lẫn tâm thức tập thể, thì họ cũng sẽ có được một tác động tích cực.

Rõ ràng việc tìm cách thay đổi khí hậu một cách riêng lẻ không phải là cách hiệu quả nhất. Để thay đổi khí hậu, con cần thay đổi nguyên nhân của nó, và nguyên nhân chính là tâm thức tập thể. Con cần không quan tâm đến việc người ta sẽ chế giễu toàn bộ ý tưởng này cũng như toàn bộ cách tiếp cận này như thế nào. 

Các chân sư làm việc với con người ở mức trực giác

Hỏi: Con có một người bạn là học trò của chân sư, được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt. Đôi khi anh ấy nghe thấy giọng nói trong đầu mình. Trong phần lớn đời anh, anh không bị hiện tượng này. Chỉ từ khi quan tâm đến những vấn đề huyền bí, anh bị thu hút bởi ý tưởng rằng tâm con người giống như một chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được làn sóng của nhiều đài phát thanh, nhiều mức rung động hay tầng cõi khác nhau. Anh bị thu hút bởi ý tưởng anh có thể bắt liên lạc với những sinh thể phi vật chất.

Sau đó anh bắt đầu nghe thấy giọng nói trong đầu bảo anh phải làm gì. Đời anh xuống dốc từ dạo đó. Cho tới khi anh tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên và anh bắt đầu tập bài cầu nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael, anh cũng quyết định anh không muốn nghe thấy chúng nữa. Các giọng nói bặt hẳn, nhưng sau vài năm chúng lại trở lại. Con đoán là vì anh bắt đầu muốn giao tiếp với các chân sư, có thể vì anh cho rằng anh đã tiến đủ để nghe thấy chân sư.

Cá nhân con không nghĩ là anh đang giao tiếp với các chân sư đích thực, nhưng anh biết hơn con. Có thể đó chỉ là những lực tâm linh thấp kém mà anh đang liên lạc. Bạn con tin chắc là người ta có thể nghe được chân sư nói chuyện với mình y như giọng nói bình thường. Con không nghĩ như vậy, vì theo kinh nghiệm bản thân, con chỉ cảm được tình thương của chân sư trong tim con, đôi khi là sự thôi thúc nhè nhẹ chứ không bao giờ có giọng nói. Tất nhiên, kinh nghiệm của con rất hạn hẹp, Người ta có thể nào nghe thấy chân sư như giọng nói trong đầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Không thể quả quyết rằng không ai có thể nghe được các chân sư theo như lời con, “một giọng nói trong đầu”. Có một số trường hợp con có thể nhận được một lời cảnh báo mà con nghe thấy như một giọng nói trong đầu. Nhưng tất nhiên, đó không phải là cách giao tiếp thông thường của các chân sư. Đó chỉ xảy ra trong một số tình thế nhất định, thường là một tình thế căng thẳng khi người ta nhận được cảnh báo rõ ràng là đừng làm chuyện này, phải làm chuyện kia. Khi đó, họ có thể cảm nhận đó là giọng nói trong đầu. Điều đó có thể xảy ra như vậy, hoặc cũng có thể cái ta Ki-tô của họ đang phóng chiếu ra một ý tưởng mà tâm họ biến đổi thành một giọng nói nghe được bằng tai.     

Rõ ràng là chúng tôi, các chân sư, không nói qua giọng nói như vậy, và đó là lý do chúng tôi phải nói qua trung gian một sứ giả để biến thành giọng mà con có thể nghe thấy. Và chúng tôi không nói chuyện trong đầu mọi người bởi vì – trên căn bản – đó là một sự vi phạm quyền tự quyết ngay cả khi người đó muốn vậy. Chúng tôi làm việc với con người trên một mức độ trực giác hơn, vì như vậy mỗi người sẽ nhiều tự do hơn trong chọn lựa.   

Ngắn gọn, chúng tôi có thể nói như sau: “Nếu con nghe thấy một giọng nói trong đầu bảo con phải làm một điều gì đó – hay không làm một điều gì đó – và nếu đó không phải là một tình huống khủng hoảng cấp bách, thì giọng đó không đến từ các chân sư thăng thiên.” Chúng tôi không tìm cách thiết lập quan hệ với con người mà cứ luôn luôn bảo họ phải làm điều này hay không làm điều kia. Chắc chắn chúng tôi không muốn, đặc biệt là trong những tình huống thường nhật, bảo con phải sống cuộc đời của con như thế nào. Chúng tôi không bảo con đi ra cửa hàng mua cái này hay không mua cái kia, bởi vì đó là trách nhiệm của con lấy những quyết định đó.

Tất nhiên là có những người mong muốn – có thể là một mong muốn có vẻ vô hại – giao tiếp với những sinh thể ở những cõi cao hơn. Trên thế giới có rất, rất nhiều người đồng bóng cũng có mong muốn có vẻ vô hại là giao tiếp với những sinh thể cao hơn, đem lại một số giáo lý có khả năng giúp ích nhân loại. Tuy nhiên nếu con đi vào sâu hơn trong tâm lý, những người đó có mong muốn làm người đặc biệt, mong muốn làm được những điều mà người khác không thể làm, mong muốn được người khác khâm phục và ngưỡng mộ. Có thể họ không ý thức được điều đó nhưng dù sao, đó cũng là một mong muốn không trong sáng.   

Hiển nhiên là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ không bao giờ đáp lại mong muốn đó. Nhưng trong các cõi bản sắc thấp, lý trí và ngay cả tình cảm, sẽ có những sinh thể sẵn sàng đáp lại nguyện vọng này. Và các sinh thể này sẽ cho người ta loại giao tiếp mà người ta mong muốn, bởi vì nhờ vậy mà các sinh thể này mới có thể bòn rút năng lượng của con người. Và nếu một người – chẳng hạn một người đồng bóng – được nhiều người hưởng ứng thì người đó cũng sẽ có thể khai thác năng lượng của những kẻ theo mình.

Trong trường hợp mà con đề cập, con có trực giác đúng đắn. Và cũng vậy, điều này nói chung cũng đúng đắn đối với nhiều người khác bảo rằng họ có kiểu giao tiếp này. Kiểu đó không đến từ các chân sư thăng thiên, bất kể họ tin tưởng như thế nào.

Bảy tia sáng và quang phổ vật chất

Hỏi: Bảy tia sáng có thể nói là một phần đặc thù của quang phổ vật lý hay không? Và chúng có thể được phát hiện bằng dụng cụ vật chất hay không? Có những khía cạnh đã được nói đến về con mắt và tầm nhìn của chúng ta vận hành như là sự giao thoa của bảy tia sáng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Ta sẽ không nói rằng bảy tia sáng là một phần của quang phổ vật chất – tức là bảy tia sáng là những loại năng lượng tâm linh. Và tất nhiên, năng lượng của bảy tia đã được giảm độ rung xuống để tạo ra cõi bản sắc trước tiên, rồi cõi lý trí, cõi tình cảm, rồi mới đến cõi vật lý. Năng lượng được hạ độ rung, và khi đó chúng không thực sự là cùng sự rung động của cái mà con thường gọi là bảy tia sáng.

Không phải là mắt con không thể phát hiện ra bảy tia sáng, nhưng bộ não của con không thể xử lý các tia sáng.

Đó là vì sao một số người với khả năng ngoại cảm có thể thấy được hào quang của người khác, chẳng hạn. Mọi người đều nhìn thấy được hào quang nhưng bộ não của họ lọc nó ra như là một loại thông tin không cần thiết. Con không thể thực sự dùng mắt vật lý để thấy được bảy tia sáng tâm linh trong quang phổ tâm linh bởi vì mắt không có khả năng vượt được ra ngoài. Nhưng con có khả năng nhìn tâm linh, là khi con nhận biết, con trực nhận bảy tia sáng.

Nói về các dụng cụ vật chất, thật ra đã có những dụng cụ vật chất có khả năng phát hiện những rung động vượt hẳn ra ngoài cõi vật lý, cõi vật chất. Người ta đã phát triển những dụng cụ này, và một số ít nhà khoa học có đưa ra giả thuyết là chúng phát hiện các rung động của những cõi cao hơn. Nhưng tất nhiên, đây không phải là khoa học chính mạch.  

Dĩ nhiên là người ta có thể khám phá hay phát triển một số dụng cụ có khả năng phát hiện rung động cao hơn, tuy không nhất thiết là sẽ biến chúng thành những vật có thể nhìn thấy bằng mắt. Nhưng dụng cụ sẽ nhận rõ là các rung động đó có mặt ở đó, và bắt buộc phải có mặt ở đó. Điều này cũng phần nào giống như năng lượng tối (dark energy) và vật chất tối (dark matter), là những thứ hiện nay chưa được phát hiện trực tiếp, nhưng có thể được suy ra từ sự đo đạc rằng có sự hiện diện của những thứ mà mắt người không thể nhìn thấy.  

Tại sao một số phụ nữ cứ thu hút những đàn ông lạm dụng mình?

Hỏi: Từ khi còn nhỏ, con đã trải nghiệm rất nhiều sự hung hãn tình cảm từ cha con, rồi khi trưởng thành, con lại bị như vậy từ phái nam. Suốt đời con đã thu hút những người đàn ông khép kín về mặt tình cảm và chỉ chú trọng đến tình dục và dâm ô. Con đã kinh qua hai quan hệ lạm dụng vô cùng tồi tệ. Sau đó con tìm được con đường tâm linh và con đã nỗ lực rất nhiều để cải sửa bản thân cũng như tâm lý của con. Mặc dù con đã giải quyết được rất nhiều về mặt tâm lý nhưng con nghiệm ra là có một phần trong con vẫn muốn một điều gì đó từ loại đàn ông đó. Con ý thức được là loại đàn ông đó không tốt gì cho mình, nhưng con nghiệm thấy – mặc dù có những người đàn ông trìu mến cũng mong muốn con để ý tới họ – là có một phần trong con vẫn muốn nhận được sự chú ý và tiếp xúc từ những đàn ông mà con chỉ có thể có mối quan hệ độc hại.

Xin thày có thể giải thích cho con cơ chế đó vận hành như thế nào? Tại sao cái ngã đó, cái phần đó của con, lại muốn được những đàn ông đó chú ý và tiếp xúc đến như vậy, trong khi họ chỉ cốt ý lấy tất cả những gì họ có thể lấy mà không chia sẻ tình cảm? Cái gì ở trong con khiến con từ chối tình yêu từ những người đàn ông tốt bụng đang ở trong đời con và quan tâm đến con? Tại sao trong số tất cả những người đàn ông đó, con lại chỉ muốn đúng cái anh chàng không thích hợp với con? 

Con hiện không có quan hệ nào và con không dính dáng tới đàn ông nào, nhưng con nghiệm được điều gì xảy ra bên trong. Con nhìn thấy những thành phần trong con, và con muốn được thêm sáng ngộ về nguyên nhân tại sao nó lại xảy ra khi con còn tỉnh táo. Hiện tại, con đang làm thông sạch cả bốn thể phàm bằng cách bước trên con đường bảy tia sáng và con đọc bài thỉnh trong cuốn sách của Mẹ Mary “Course In Abundance” (Khóa tu về sự dồi dào). Xin thày cho con một chút sáng ngộ để con nhìn thấy rõ hơn.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Trước hết, con sẽ được ích lợi biết rằng con hoàn toàn không phải là người phụ nữ đầu tiên hay người phụ nữ duy nhất có cơ chế này. Rất, rất nhiều phụ nữ cũng từng có và đang có như vậy – thật ra người ta đã có viết sách về hiện tượng này mà con sẽ được lợi ích nếu con tìm đọc. Những cuốn sách đó có thể bổ sung cho những lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về tâm lý, và cũng sẽ giúp con nhận được nhiều nguồn sáng ngộ khác nhau. Bây giờ, hiện tượng mà con nói đến có thể có một số nguyên nhân riêng rẽ, nhưng ta sẽ tập trung vào ít nhất ba nguyên nhân.

Trước hết, một số phụ nữ có một mặc cảm thua kém, họ không cảm thấy là mình xứng đáng. Thường là vì họ không cảm thấy mình xứng đáng được người khác chú ý. Cho nên con thu hút những người đàn ông ngược đãi con, vì mặc dù họ ngược đãi con thật, nhưng ít ra họ chú ý đến con. Và sự chú ý này, cho dù là ngược đãi đi nữa, vẫn còn hơn là sự làm ngơ. Đây là một nguyên do – ta không bảo là nó áp dụng cho mọi phụ nữ, nhưng đó là một nguyên do.

Một lý do khác là trong một tiền kiếp, con đã bị tổn thương trầm trọng bởi phái nam, thường khi bởi một người đàn ông đã gần gũi với con suốt nhiều kiếp đầu thai. Cho nên con mang trong con một cảm nhận sâu xa là con không thể tin tưởng phái nam. Và hiện tượng lạ lùng xảy ra ở đây là sự cảm nhận mình không thể tin đàn ông thường bắt nguồn từ mối quan hệ với một người mà con tin tưởng đến độ con đã mở lòng ra với người đó. Rồi người đó đã lợi dụng sự cởi mở của con để làm hại và khiến con đau đớn. Do đó, con có một cái ngã đã quyết định là mình sẽ không bao giờ mở lòng ra với bất cứ đàn ông nào nữa. Đó là tại sao con đã từ chối những người đàn ông kia mà đáng lý con đã có thể nối kết sâu sắc hơn. Và con lại quan hệ với những người đàn ông này, cho dù là họ hiếp đáp con, nhưng đối với con, đó không phải là yếu tố quyết định. Vì yếu tố quyết định là con không bao giờ có thể có một mối liên hệ sâu xa gì với những người này cho nên không có nguy cơ con mở lòng ra với họ.

Bây giờ có một yếu tố thứ ba có thể xen vào. Đối với một số các con, chuyện này trở ngược về thời chấn thương nhập đời của con, trở ngược về lần đầu tiên con đầu thai trên địa cầu. Khi đó, con đã bị hiếp đáp nghiêm trọng bởi những khuôn mặt thẩm quyền thuộc phái nam. Và lý do con cứ thu hút những đàn ông loại đó có thể, phần nào, do hai nguyên nhân ta vừa đề cập ở trên – nó đã tác động đến tâm lý của con. Nhưng nguyên nhân thật sự là con muốn giải quyết chấn thương nhập đời của con. Do đó, con cứ không ngừng thu hút những đàn ông hiếp đáp con đến độ con khó lòng nào bỏ qua được vấn đề. Nói cách khác, nếu con có một mối quan hệ bình thường, thương yêu, với một người đàn ông, thì có thể con sẽ đẩy vấn đề đó sang một bên, tức là hoặc con sẽ dời chuyện giải quyết chấn thương nhập đời lại một thời gian sau, hoặc con sẽ không giải quyết cho đến hết kiếp này. Cho nên nếu có thể nói như vậy, trong tiềm thức con đã tự ép buộc mình phải đối đầu với vấn đề. 

Tất nhiên chúng tôi đã có giàng dạy về ngã tách biệt, và rõ ràng cơ chế nói trên dựa trên một cái ngã tách biệt, hoặc trong nhiều trường hợp, trên mấy cái ngã tách biệt mang sẵn một số niềm tin về bản thân con và về quan hệ của con với đàn ông. Có thể con tin là mình không thể tin tưởng đàn ông, có thể con tin là mình không thật sự xứng đáng sống với một người đàn ông cho nên mình phải chịu đựng sự lạm dụng của họ, có thể con tin là mình không xứng đáng được người khác chú ý. Và cũng có thể có những niềm tin khác nữa, vì mỗi cá nhân đều có những niềm tin khác nhau. 

Nhưng nếu con sử dụng những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra trong sách “Healing Your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cũng như một số sách khác*, con sẽ có khả năng tiến bước. Một lần nữa, con có thể được ích lợi nếu con đọc thêm sách về đề tài này, vì nó có thể giúp con tìm cách trị liệu, hoặc có lẽ nó sẽ giúp con tìm ra một nhóm gặp gỡ của phụ nữ nơi con có thể tâm tình. Thật ra đang có một nhu cầu lập ra những nhóm hỗ trợ cho những phụ nữ đã có mối quan hệ lạm dụng với phái nam trong kiếp này. Con thử nhìn xem con có thể tìm được một nhóm như vậy hay không, hoặc con đứng ra thành lập một nhóm nếu con không thể tìm thấy.   

* [Những cuốn sách này gồm có 4 quyển: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, và Making Peace with Being on Earth]

Đền bù cho con cháu người nô lệ

Hỏi: Vì con là người Mỹ nên con tự hỏi, không hiểu vấn đề đền bù cho con cháu người nô lệ thời trước là như thế nào? Gần đây càng ngày càng có nhiều người đề cập đến vấn đề này. Con xin hỏi ý kiến của các chân sư về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Điều chúng tôi, các chân sư thăng thiên, muốn nói là việc bàn luận về chủ đề này thật quan trọng, vì nó sẽ giúp cho cuộc bàn cãi về các vấn đề kỳ thị chủng tộc tiến lên một bực. Hiển nhiên, chế độ nô lệ là một phần của quá khứ nước Mỹ, và nước Mỹ vẫn chưa thảo luận đủ về vấn đề này để có thể thực sự suy ngẫm, lãnh hội và tìm cách giải quyết.

Về vấn đề thực tiễn là liệu chính phủ có nên đột ngột bắt đầu trả tiền bồi thường cho hậu duệ những người từng bị cưỡng bách đến Hoa Kỳ làm nô lệ hay không, thì đây thật sự không là một kịch bản thực tế. Từ cõi thăng thiên, cá thày không hỗ trợ điều này. Giản dị là quá nhiều thời gian đã trôi qua. Vấn đề ở đây không phải là làm một cái gì đó về mặt vật lý, mà làm một cái gì đó về mặt tâm lý trên quy mô của tâm thức tập thể, để đưa vấn đề này ra trước công luận hầu mọi người có thể có một cuộc thảo luận thấu đáo – hy vọng là một cuộc thảo luận xây dựng không nhị nguyên – để giải quyết toàn bộ khuôn nếp tư duy này.

Có rất nhiều điều cần thảo luận về vấn đề này, đặc biệt tại các tiểu bang được gọi là miền Nam Hoa Kỳ nơi từng có chế độ nô lệ trước cuộc Nội chiến. Hiện vẫn còn một số con quái vật tập thể đang giam chặt tâm trí của nhiều người. Vẫn còn rất, rất nhiều người bị kẹt trong quá khứ, cả những người xuất thân từ tổ tiên nô lệ lẫn những người xuất thân từ tổ tiên làm chủ nô. Cả hai thành phần đều chưa buông bỏ được quá khứ.

Điều thực sự cần xảy ra ở đây là cả hai, da trắng lẫn da đen, thăng vượt toàn bộ khuôn nếp tư duy của thời kỳ nô lệ, hầu cả hai có thể tiến tới, và xã hội cũng có thể tiến tới phía trước. Giống như các thày đã nói về vấn đề xâm hại, con sẽ không thực sự giải thoát khỏi sự xâm hại cho đến khi con hoàn toàn tha thứ cho kẻ đã xâm hại con, tha thứ cho cách con đã phản ứng lại sự xâm hại đó như thế nào. Điều này áp dụng cho cá nhân từng người cũng như cho tất cả mọi người đã từng bị vấn đề này tác động, kể cả vấn đề cuộc Nội chiến.     

Hoa Kỳ sẽ không được giải thoát khỏi vấn đề này cho tới khi cả hai bên tha thứ, cả hai bên quyết định tiến tới về phía trước và ôm lấy tương lai thay vì cứ muốn ôm giữ quá khứ mãi mãi. Điều này sẽ bị một số người chống đối, đặc biệt nơi con cháu của người nô lệ, vì rất nhiều người trong số này đã lấy một quyết định tương tự như người Do Thái sau khi họ thoát khỏi các trại tập trung, và quyết định đó là: “Chuyện này, người ta không bao giờ được lãng quên.” Nhưng con yêu dấu, nếu con bảo rằng chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ không bao giờ được lãng quên thì có phải con đang trừng phạt tất cả mọi người Mỹ da đen phải mãi mãi sống cuộc đời bị kẹt cứng, bị chi phối bởi tâm thức nô lệ hay không? Liệu con có thực sự mong muốn như vậy cho những người mà con xem là anh em cùng chủng tộc với con hay không?

Điều tốt nhất có thể xảy ra cho người da đen tại Hoa Kỳ là chính họ thăng vượt tâm thức nô lệ, khắc phục tâm thức đó, tha thứ cho người da trắng, tha thứ cho Hoa Kỳ và tiến bước về phía trước. Cho dù người da trắng không sẵn sàng làm điều tương tự thì người Mỹ da đen hay người châu Phi da đen vẫn sẽ được ích lợi khi tha thứ.

Điều này sẽ đòi hỏi họ, chẳng hạn, thăng vượt cái nhãn “người châu Phi da đen.” Nếu con muốn là người châu Phi da đen thì con hãy trở về châu Phi. Còn nếu con muốn sống tại Hoa Kỳ thì con hãy là người Mỹ da đen, hay tốt hơn, con hãy là người Mỹ.

Con hãy đạt tới điểm con thăng vượt được toàn bộ vấn đề này, khi chủng tộc và màu da không còn là vấn đề cho con nữa. Nếu đó là vấn đề cho người khác thì con hãy để yên cho họ đối phó với nó, nhưng riêng con, con sẽ bước tới ôm lấy tương lai, tận dụng tất cả mọi cơ hội mà con có. Khi có thật nhiều người làm như vậy, một cuộc xoay chuyển sẽ có thể xảy ra để mọi người Mỹ da đen được hưởng lợi và có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Khi câu hỏi không còn thích đáng, đó là lúc con đã thoát khỏi nó

Hỏi: Trước khi trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, con đã nỗ lực nhớ lại phần nào những kiếp trước của con và giải tỏa những cảm xúc gắn liền với chúng. Bây giờ con đã đọc quyển “Những kiếp của tôi” và “Chữa lành Chấn thương Tâm linh” thì con tự hỏi liệu con có cần nhớ lại vết thương nguyên thủy của mình để chữa lành hay không? Con có cảm nhận mang máng rằng con là một avatar, nhưng vì không có ký ức đặc trưng nào cho nên cảm nhận đó còn trừu tượng. Liệu một ngày kia con sẽ nhớ lại một cách tự nhiên hay sẽ hoàn toàn không nhớ? Con không lo lắng về chuyện này, đúng hơn là con mong muốn một sự hướng dẫn về cách con có thể tiếp tục làm việc trên nó. Làm thế nào con biết được khi nào con sẽ thoát khỏi nó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Như ta có viết trong sách, con không tuyệt đối nhất thiết phải nhớ lại những chi tiết cụ thể của chấn thương nhập đời của con, hoàn cảnh mà nó đã xảy ra. Đối với một số người, việc nhớ lại có thể là một lợi điểm, và nếu vậy thì nó sẽ tự phát. Con không cần phải tìm cách ép buộc cho nó xảy ra, và con nghĩ rất đúng khi con không quan tâm đến chuyện đó. Cũng vậy, sẽ có một số người nhớ được cuộc sống của họ trên hành tinh tự nhiên trước khi họ đến địa cầu, nhưng điều này cũng không cần thiết cho mọi người. Một lần nữa, không có lý do gì để con phải bận tâm hay bị dính mắc.

Làm thế nào con biết được con đã thoát ra khỏi chấn thương? Con sẽ biết được phần nào là do con nhận ra chấn thương đã khiến con khoác vào một niềm tin nào đó, một tư duy nào đó. Như vị sứ giả này cho ví dụ, ông nhận ra là ông đã luôn luôn bị thúc đẩy bởi cảm nhận mình phải làm gì đó trên địa cầu. Và khi ông đạt tới điểm ông giải quyết được chấn thương, giải quyết được niềm tin đó, ông đã cảm thấy một sự giải toả tự phát vô cùng mạnh mẽ, qua đó ông nhận ra rằng: “Tôi không cần làm gì hết trên địa cầu.” Nhiều người trong số các con đã tạo dựng những niềm tin khác dựa trên chấn thương nhập đời của mình. 

Một khi con đạt tới điểm nhận ra điều đó, rằng niềm tin cơ bản đó đã tô màu, đã làm nền tảng cho mối quan hệ của con với địa cầu, đã làm nền tảng cho cách con tự nhìn mình trên địa cầu và những gì con nghĩ con đã đến đây để thực hiện hay không thực hiện, một khi con tới điểm nhìn thấy niềm tin đó, thì con sẽ cảm thấy một sự giải tỏa tự phát trong nội tâm, và trong sự giải tỏa đó con buông nó ra, thế rồi con biết là con đã giải thoát khỏi nó.

Con cũng có thể nói như chúng tôi đã từng nói: Khi câu hỏi không còn thích đáng nữa thì đó là lúc con đã thoát khỏi nó.

Phong trào Black Lives Matter

Hỏi: Ai đã tạo cảm hứng cho phong trào Black Lives Matter [Mạng sống người da đen quan trọng]? Phong trào này có do sa nhân tài trợ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

À, có và không.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giải thích là có một thiểu số tự tôn quyền lực tìm cách tạo xáo trộn trong xã hội, tạo biến động, tạo mất hài hòa cùng xung đột giữa các nhóm người khác nhau. Và thiểu số quyền lực này sẽ tuyệt đối sử dụng tất cả mọi vấn đề khởi lên trong xã hội để gây ra mối bất hòa. Tuy nhiên nếu con chỉ nhìn hời hợt, con sẽ có thể bảo là bất kỳ phong trào nào kêu gọi thay đổi trong xã hội cũng phải nhận được cảm hứng và tài trợ từ thiểu số quyền lực cũng như sa nhân. Và hiển nhiên, điều này không đúng.

Trong phong trào Black Lives Matter có một khía cạnh chính đáng. Đơn giản đó là sự cần thiết phải lưu ý mọi người về sự kiện tại Hoa kỳ có cái gọi là “việc thực thi pháp luật chọn lọc” (selective law enforcement) qua đó người gốc Tây ban nha và người da đen bị cảnh sát đối xử phân biệt so với người da trắng. Giản dị, chuyện này được mọi người biết rõ rộng rãi trên nước Mỹ. Dựa trên những hành vi của cảnh sát đã nổ súng và các vụ vi phạm khác đối với người da đen, phải cần một phong trào đứng lên phản kháng lại tình trạng này.

Vấn đề đặt ra cho một phong trào như vậy là liệu nó sẽ diễn ra trong trật tự hay là nó sẽ tha hóa thành bạo lực? Và ở đây một lần nữa, con lại cần nhìn ra một số điểm vi tế, vì rõ ràng trong phong trào Black Lives Matter có một khía cạnh chính đáng, ôn hòa rất cần thiết, và kỳ thực ở một mức độ nào đó, khía cạnh này đã nhận được nguồn cảm hứng từ các chân sư thăng thiên đang làm việc với một vài cá nhân.

Nhưng đồng thời cũng có một số nhóm người sẽ sử dụng bất kỳ lý cớ nào để gây bạo loạn, ví dụ như cướp bóc các cửa hàng. Chúng sẽ ra tay mỗi khi có cuộc biểu tình và cố biến nó thành bạo động. Lại có một số nhóm mưu toan cố tình làm mất uy tín một phong trào bằng cách gây ra bạo động. Đây không phải là một hiện tượng phổ biến như tại một số nước khác chẳng hạn.

Con đã từng thấy tại một số quốc gia nơi đã có biểu tình, thì chính quyền ở đó đã phái lực lượng đặc biệt ngụy trang trà trộn vào đoàn biểu tình để gây bạo động và khiến cho toàn bộ cuộc biểu tình bị mang tiếng – bởi vì khi biểu tình trở nên bạo động thì quần chúng sẽ không nhìn nó với con mắt tích cực. Con đã thấy chuyện này xảy ra tại nhiều quốc gia khắp thế giới. Con cũng đã thấy chuyện này tại Hoa kỳ, tuy không đến nỗi phổ biến như trong trường hợp nếu có thêm nhiều cuộc phản đối dân sự diễn ra.

Đường tu thường là những chu kỳ có thể xem là thăng trầm

Hỏi: Thỉnh thoảng con nghĩ là chúng con, cac học trò của chân sư thăng thiên, trải qua một giai đọan ngắn mà con xin mô tả như sau. Con có cảm giác như con đi thụt lùi, con kinh qua một vòng xoáy hướng hạ, con bước vào trường đời cay đắng, nhưng sau đó con quay trở lại trải nghiệm cái ta mở rộng và biết một điều gì đó rõ ràng hơn. Cảm giác đó là một giai đoạn ngắn ngủi, ít đau đớn hơn trước. Con bắt đầu nghĩ là thực sự con đã không đi thụt lùi, mà con kinh qua một số thời kỳ trầm mình ngăn ngắn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Đấy, con đường tâm linh hẳn là có nhiều giai đoạn khác nhau, và việc chúng ta xem xét vấn đề này rất, rất quan trọng.

Một khía cạnh của vấn đề này là nhiều người tâm linh, khi họ tìm thấy phong trào tâm linh đầu tiên của họ, thường mang một cái nhìn phần nào thiếu thực tế về con đường tâm linh. Họ thường có xu hướng nghĩ rằng giờ đây họ đã tìm ra phong trào tâm linh này, và nó khác hẳn với những gì họ đã lớn lên và sống qua, thì một cách nào đó họ đã quẹo sang một con đường mới. Và từ giờ trở đi, họ chỉ có thể đi lên, mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, và họ không thể đi thụt lùi, cho nên họ không thể cho phép họ đi thụt lùi. Và do đó, một số người bị rơi vào phản ứng rất tiêu cực khi họ đi thụt lùi.

Nhưng điều con cần nhìn nhận ở đây là nhiều người trong các con đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, thậm chí còn phản tâm linh. Rồi đến một thời điểm con tìm ra một giáo lý tâm linh thì con nhận ra là có một con đường tâm linh. Lúc đầu, con gần như ở trong một trạng thái phấn khích: con sẽ khám phá con đường tâm linh nghĩa là gì, có những giáo lý tâm linh nào và những giáo lý đó có ý nghĩa với con làm sao. Đại loại con ở trong một giai đoạn ngây thơ.  

Thực tế là trong nhiều trường hợp, chúng tôi các chân sư thăng thiên – ngay cả khi con không hay biết gì về chúng tôi – cũng sẽ giữ lại, hay gánh dùm cho con, một phần nghiệp của con. Và vì con đang cảm thấy phấn chấn cho nên theo một nghĩa nào đó, con cũng vươn lên xa hơn tâm lý bình thường của con. Điều này cũng phần nào tương tự như khi con đem lòng yêu thương một ai đó, con kinh qua giai đoạn hưng phấn đó khi con tưởng như mình là một con người khác, và người con yêu cũng là một con người khác, và mọi chuyện sẽ tuyệt vời, mãi mãi tuyệt vời. Con được phép có giai đoạn hưng phấn này.

Nhưng rồi sẽ tới một điểm khi giờ đây con cần khởi sự công việc khó khăn hơn. Con cần nhận lại một số nghiệp chướng của con, con cần bắt đầu làm công việc cải sửa tâm lý của con. Thường thường đây là khi con có thể trải nghiệm con đi giật lùi. Bỗng nhiên mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn, nặng nề hơn, dường như khó khăn hơn. Có vẻ như con không tinh tấn nhiều như trước nữa. Đơn giản, đây chỉ là một giai đoạn tự nhiên.

Chúng ta có thể giải thích điều này một cách khác và nói rằng khi con tìm ra đường tu lần đầu, con đang cố cải sửa một vài vấn đề tương đối dễ giải quyết. Điều này cho con một cảm giác thăng tiến, và đây là một niềm khích lệ trên đường tu.

Nhưng điều không thể tránh khỏi là sau khi con làm xong việc đó, con sẽ bắt đầu phải giải quyết một số vấn đề sâu sắc hơn, nặng nề hơn, tốn nhiều thời gian hơn và không mấy dễ giải quyết. Và do đó con sẽ kinh qua một giai đoạn có vẻ nặng nhọc hơn.

Rồi khi con giải quyết được điều này thì một lần nữa, con lại có thể có một giai đoạn cảm thấy mọi chuyện nhẹ nhàng, dễ dàng hơn. Sau đó con lại có thể chạm trán với một số vấn đề nặng nề hơn mà con cần giải quyết. Thường khi đường tu của con sẽ là những chu kỳ mà con có thể xem là có lúc thăng, lúc trầm.

Nhưng rồi sẽ tới một điểm sau khi con đã bước trên đường đạo lâu đủ, con nhận ra tất cả chỉ là lẽ tự nhiên, con chấp nhận nó, con không tự dằn vặt mỗi khi còn tuột dốc nhất thời, hay mỗi khi con cảm thấy mình đang xuống dốc cho dù con không hề xuống dốc. Con chỉ chấp nhận đó là cách mọi chuyện trải ra. Con nỗ lực cải sửa, con sử dụng các dụng cụ để nhìn vào tâm lý mình và con giải quyết nó.

Cũng có thể có một số người khi họ tìm ra đường tu và trải qua giai đoạn phấn khích, thì họ cảm thấy họ đang tiến bộ kinh khủng nhưng trên thực tế, họ không tiến bộ nhiều đến vậy. Chỉ là bởi vì họ có một cảm giác tương phản rất lớn giữa thời họ chưa tìm ra giáo lý tâm linh và sau khi họ tìm ra, cho nên họ tưởng là họ đang tinh tấn nhưng kỳ thực thì không.

Lý do là vì họ chưa hiểu thấu đường tu tâm linh là gì. Họ nhìn vào đó như một con đường vỏ ngoài, và ngay cả một giáo lý của chân sư thăng thiên cũng có thể bị một số người cảm nhận như một con đường vỏ ngoài. Họ nghĩ là họ chỉ việc học hỏi giáo lý, gia nhập một tổ chức, đọc thỉnh đọc chú thì một ngày kia, đùng một cái, họ sẽ thăng thiên. Nhiều người từng nghĩ như vậy, và nhiều người vẫn còn nghĩ như vậy – tuy không nhiều lắm trong đợt truyền pháp này, nhờ các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về đề tài này cũng như nhờ các con đã sẵn lòng ôm lấy những lời dạy đó.

Có những người nghĩ rằng họ đang tiến bộ, nhưng không thật là vậy. Xong sẽ tới điểm họ bắt đầu nhận ra là họ không còn tiến bộ nữa. Không phải là họ không tiến bộ nữa mà kỳ thực họ chưa bao giờ tiến bộ, vì họ đã không hiểu đường tu là gì. Họ không bỏ công ra giải quyết tâm lý, họ cứ tưởng là họ có thể tiếp tục làm những chuyện vỏ ngoài mặt nổi kia thì sẽ đạt được kết quả. Cho nên nhiều người đã trở nên thất vọng, chán nản, tức giận, họ đổ lỗi cho vị đạo sư, đổ lỗi cho đường tu, đổ lỗi cho các chân sư thăng thiên, bất kể… thay vì nhận lấy trách nhiệm và sẵn lòng thay đổi chính bản thân họ.  

Cũng có một số người chiêm nghiệm mình đã có tinh tấn, họ đang giải quyết một số vấn đề trong tâm lý, nhưng rồi họ chạm trán với một vấn đề sâu xa hơn mà họ không sẵn lòng xem xét, ho không sẵn lòng nhìn nhận là họ có mang vấn đề đó. Điều này có thể khiến họ giậm chân tại chỗ trong một thời gian, có khi trong suốt phần đời còn lại của họ, nhưng trong một số trường hợp thì sau một thời gian, họ đột nhiên xoay chuyển. Và giờ đây họ sẵn sàng nhìn vào vấn đề, họ sẵn sàng giải quyết nó, và một lần nữa họ lại cảm thấy mình đang tinh tấn.

Thêm một vấn đề nữa là đối với nhiều người, Sứ vụ Thiêng liêng của con có trù liệu là con sẽ gặp một phong trào tâm linh nào đó, con sẽ tăng triển ở một vận tốc nào đó. Nhưng khi con tới điểm có những vấn đề mà con không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng giải quyết, thì con bắt đầu tụt hậu so với những gì con đã có thể đạt được nếu con đi theo con đường tối ưu. Và con có thể cảm thấy đó như một gánh nặng lớn hơn, như con không đang tiến triển đúng mức. Nhưng trong nhiều trường hợp, con sẽ không thể thực sự hiểu được nguyên do tại sao, ít ra với tâm vỏ ngoài. Đây là điểm mà một lần nữa, con có thể nhìn vào những gì con không sẵn sàng nhìn vào, những gì con không sẵn lòng nhìn nhận.

Điều sẽ giúp ích con rất nhiều là nhận ra rằng trên con đường tâm linh, tất cả chúng ta, tất cả các con đang còn đầu thai lẫn tất cả những ai đã từng đầu thai, sẽ có một số vấn đề mà chúng ta cưỡng lại không chịu xem xét. Chúng ta có một hình ảnh nào đó về chính mình như một đệ tử tâm linh tốt đẹp, và chúng ta thường có xu hướng nghĩ rằng mình không được có một số vấn đề tâm lý.

Vị sứ giả này đã nhìn thấy điều này một vài lần trong tâm lý của ông nhưng ông không sẵn sàng thừa nhận mình đang có một vấn đề tâm lý nhất định nào đó. Ông cho rằng ông không được có nó, cho nên xu hướng của ông là phớt lờ nó đi. Ông sẵn lòng cải sửa một số vấn đề khác, nhưng trong một thời gian, ông không chịu cải sửa vấn đề này. Cuối cùng thì cách đây ít lâu, ông xoay chuyển, ông ngộ ra là thật sự không có nghĩa lý gì mà phán xét giá trị kiểu đó và bảo rằng có những yếu tố trong tâm lý con người là tốt hay xấu hơn, vì tất cả chỉ là tâm lý con người và tất cả phải được loại bỏ. Cho nên không có gì phải xấu hổ, cũng không có chấn thương gây ra do mình mang một vấn đề tâm lý.

Khi con nhận xét địa cầu là loại hành tinh dày đặc đến chừng nào, khi con thấy biết bao nhiêu kiếp con đã sống trên hành tinh này, biết bao nhiêu cảnh huống khác nhau con đã trải qua, thì điều gần như chắc chắn là con đã từng mang tất cả mọi vấn đề tâm lý mà con người đã biết tới. Và đây không phải là chuyện lập ra một cách phán xét giá trị theo đó nếu con là một người tâm linh thì con không được có một vấn đề nào đó. Đây chỉ là chuyện nhìn vào tâm lý mình, nhìn ra các vấn đề trong đó, rồi ra tay giải quyết y như thể chúng là những chuyện phải được giải quyết và vượt qua. Điều này có thể giúp con tinh tấn vượt bực – khi con sẵn lòng nhìn vào tất cả mọi vấn đề bất kể chúng là gì.  

Trên cơ bản, chúng ta có thể nói là nếu con cảm thấy mình đi thụt lùi hay rơi vào một vòng xoáy hướng hạ, thì luôn luôn đó là vì có một cái gì đó mà con không sẵn lòng xem xét – và trong nhiều trường hợp, vì con cảm nhận là con không được có vấn đề đó. Cho nên thay vì giải quyết nó, con lại cố nhón bước đi vòng chung quanh, con chối bỏ nó, con giải thích như nó không có, hay con chú tâm vào những công việc khác, nhưng trong khi đó thì cách duy nhất để quay trở lại con đường tinh tấn tối đa là con chỉ nhìn vào vấn đề, giải quyết nó như con vẫn giải quyết mọi vấn đề khác, và vượt qua nó.

Bây giờ thì con đã có những lời dạy này – sách Chữa lành các Chấn thương Tâm linh và những quyển khác trong cùng bộ – con đã có các dụng cụ để không phải rơi vào những vòng xoáy đi xuống đó, con đã có các dụng cụ để không phải trải qua những bước thăng trầm trên đường tu, thì con có khả năng tiến bước một cách vững vàng hơn. Con vẫn sẽ gặp một số chuyện cần thời gian để giải quyết, nhưng con không phải cảm thấy đó là lùi bước hay rơi vào vòng xoáy hướng hạ. Con vẫn có thể nhìn thấy đó chỉ là một phần của đường tu, rằng con đang gặp một cái gì sẽ tốn thời gian hơn một chút, nhưng con vẫn thăng tiến, con vẫn đang bước tới trên đường đạo.

Tầm nhìn tâm linh về việc xâm hại tình dục trẻ em

Hỏi: Xin các chân sư cho biết tầm nhìn tâm linh về ấu dâm là gì? Tại sao ấu dâm lại hiện hữu? Chúng con có thể dùng bài thỉnh nào để loại bỏ ấu dâm khỏi trái đất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Các thày đã dạy rằng nạn xâm hại tình dục trẻ em hiện diện chủ yếu là vì có nhiều sinh thể, đặc biệt là sa nhân, đã bị cắt đứt không nhận được ánh sáng trực tiếp từ cõi tâm linh. Vì vậy để có thể nuôi thân và thậm chí sống còn – và hơn nữa để có chút năng lực làm bất cứ việc gì – chúng phải đánh cắp năng lượng từ những ai vẫn còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh. Và một trong những phương cách để đánh cắp năng lượng từ người khác tất nhiên là qua việc cưỡng hiếp hay hành vi tình dục đồi bại nào khác.

Nhưng chúng chỉ có thể đánh cắp một lượng giới hạn nào đó tùy theo người kia mang bao nhiêu năng lượng. Và vấn đề là một số người lớn đã phung phí một phần năng lượng của mình.

Nhưng trẻ em thì khác. Nói chung, trẻ em vẫn còn nhiều năng lực sống trước khi các em bắt đầu hoạt động tình dục hay bắt đầu bước vào lối sống của giới thanh thiếu niên hay của người lớn khiến cho năng lượng bị phung phí. Đó là tại sao có một thành phần những sinh thể không có khả năng nhận ánh sáng từ cõi tâm linh tìm cách đánh cắp năng lượng qua việc quan hệ tình dục với các em. Đó chính là lý do thực sự của vấn đề.

Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để loại bỏ tệ nạn này. Con có thể dùng các bải thỉnh cho Astrea, hay nhiều bài khác như bài nguyện cũ cho Đại thiên thần Michael, bài nguyện cho Ánh sáng Vô biên, vân vân. Nhưng con có thể thỉnh gọi sự phán xử đối với những kẻ ấu dâm cũng như các loài quỷ dữ cùng các tà thể đứng đằng sau chúng. Và con có thể thỉnh gọi xã hội sớm thức tỉnh để thực sự nhìn nhận tệ nạn này và ra tay làm nhiều hơn để hạn chế tệ nạn.

Cảm thấy hôn trầm và ngủ gà ngủ gật khi thực tập tâm linh

Hỏi: Các chân sư đã trao truyền những bài hình dung dùng làm dụng cụ tâm linh giống như bài hình dung Chữa lành các chấn thương tâm linh của con. Con muốn hỏi con làm được gì khi thực tập hình dung khiến con bị hôn trầm, ngủ gà ngủ gật và nhiều lần con không làm theo bài hình dung được. Khi thiền tập con cũng bị hôn trầm. Đôi khi đọc thỉnh con cũng hôn trầm. Nó xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày, cho dù con đã có một giấc ngủ ngon đêm trước đó.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong dịp Khóa học trực tuyến 2020 – Chọn tương lai cho nước Mỹ. Đăng ngày 19/10/2020.

À, nếu chuyện này xảy ra nhiều lần, giản dị là con cần ngưng tập hình dung hay tập thiền định. Con sẽ phải tìm một thực tập tâm linh khác không làm con ngủ gà ngủ gật, ít ra là trong một thời gian. Lẽ tất nhiên, con có thể buồn ngủ khi con đọc bài thỉnh nhưng con có thể khắc phục điều này bằng cách thay đổi tốc độ đọc. Nếu con cảm thấy buồn ngủ, con hãy đọc một số câu thơ chậm hơn, đọc dõng dạc hơn, sau đó con trở lại tốc độ bình thường hay con cũng có thể đọc nhanh hơn. Hoặc nếu con không khắc phục được vấn đề với bài thỉnh, con hãy dùng bài chú. Đọc bài chú khó buồn ngủ hơn vì bài chú có tốc độ nhanh hơn và nhịp nhàng hơn, nhưng nếu con vẫn buồn ngủ, con hãy đọc chậm hơn, dõng dạc hơn, đọc theo nhịp điệu ngắt quãng (staccato rhythm), đọc như thế sẽ giúp con tỉnh thức.

Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nhận ra rằng hôn trầm do một số ngã tách biệt gây ra hoặc có những tà thể tập thể phóng chiếu năng lượng tới con để làm con buồn ngủ và ngăn cản con làm bài tập tâm linh. Con có thể dùng bài thỉnh hay bài chú Astrea để kêu gọi thày trói buộc và tiêu hủy các tà lực này. Con cũng có thể giải quyết các ngã tách biệt và tìm cách phơi bày niềm tin đằng sau các ngã này.

Giáo lý của chân sư thăng thiên và các đạo sư Ấn độ

Hỏi: Con là người Ấn độ, và con rất lấy làm lạ con là người Ấn độ duy nhất mà con quen biết đang theo học giáo lý của chân sư thăng thiên. Đất nước này có 1,3 tỷ dân và đã sinh sản ra rất, rất nhiều người trưởng thành về mặt tâm linh. Điều gì đang khiến cho nước con tụt hậu tâm linh đến như vậy? Và đâu là cách tiếp cận tốt nhất để đánh thức dân tộc con dậy? Con biết chân sư MORE đã từng nói là chính các đạo sư đã từ chối thừa nhận các chân sư thăng thiên, chẳng hạn những vị như Satguru, Sri Sri Ravi Shankar và phong trảo của Brahma Kumaris đều có rất đông người đi theo. Nhưng thực sự họ đã giúp cho tín đồ của họ được bao nhiêu? Con muốn biết suy nghĩ của các thày về điều này.


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Trong quá khứ, các chân sư đã cố gắng với tay tới học trò tại Ấn độ qua phong trào Thông thiên học, nhưng kết quả đạt được khá giới hạn. Qua các đợt truyền pháp gần đây hơn là Phong trào I Am, Summit Lighthouse và đợt truyền pháp hiện thời, các thày lại đạt được kết quả ít hơn nữa khi cố mở ra với học trò tại Ấn độ. Tất nhiên, nguyên nhân phần nào là do Ấn độ có một truyền thống tâm linh vô cùng phong phú, phong phú hơn hầu hết mọi quốc gia phương Tây. Ở đây có một truyền thống đi tìm đạo sư. Tại Ấn độ vẫn còn một số đạo sư cá nhân chân chính, cho nên những ai cởi mở với đường tu tâm linh có thể tìm thấy những giáo lý này trong chính nền văn hóa của mình.

Ta cũng xin nói là tất nhiên, có một hàng ngũ những thày giả tà đạo tại Ấn độ, họ không chỉ tìm cách gạt gẫm người tầm đạo từ phương Tây mà ngay cả người Ấn nữa. Rõ ràng là trong tâm thức tập thể tại Ấn, có một sự tắc nghẽn chống lại việc thừa nhận các chân sư thăng thiên. Điều này không chỉ xảy ra tại Ấn mà con thấy nó xảy ra tại hầu hết mọi quốc gia. Ở hầu hết các nước chịu ảnh hưởng đạo Cơ đốc, đạo Cơ đốc đã tạo ra một sự tắc nghẽn chống lại việc chấp nhận chân sư thăng thiên, và ở Ấn độ cũng không khác gì. Tất nhiên, một phần là do truyền thống Ấn độ giáo không công nhận bất cứ gì vượt ra khỏi người Bà la môn cùng các vị thần của đạo Ấn, nhưng thôi…

Đây không phải là một vấn đề khiến cho chúng tôi quan tâm quá mức. Chúng tôi rất vui mừng có những học trò tại Ấn độ đang học hỏi giáo lý, nhưng thực sự chúng tôi không đang nỗ lực lôi cuốn một số đông đệ tử theo học đợt truyền pháp này tại Ấn độ.

Rõ ràng nếu con nhìn vào Ấn độ như một quốc gia, con sẽ thấy một số đạo sư đã trở nên danh tiếng hơn và quy tụ người theo học ngày càng đông đảo hơn. Nói chung, ta có thể nói là khi một đạo sư có rất nhiều người đi theo, thường đó là vì giáo lý của đạo sư không vượt lên trên một mức nào đó. Chính vì vậy mới có nhiều người cảm thấy tương hợp mà theo học. Một cách nào đó, vị đạo sư đã trao cho quần chúng những gì mà quần chúng mong muốn. Đạo sư cống hiến cho họ một con đường tiện lợi rất dễ theo, nhưng là một con đường không thực sự đòi hỏi họ phải nhìn vào chính bản thân mình, phải chữa lành tâm lý mình và nâng cao tâm thức.      

Bây giờ, nếu con nhìn rộng ra thế giới chứ không riêng gì Ấn độ, có một câu hỏi mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã từng tự hỏi: “Nếu đúng là loài người đang nâng cao tâm thức và sự tăng trưởng tâm thức này là do các chân sư thăng thiên đang làm vị thày phổ quát cho cả nhân loại, thì tại sao người ta không ngày càng công nhận các chân sư thăng thiên nhiều hơn?” Chẳng hạn, nếu một đạo sư đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, tại sao vị ấy lại không nhìn nhận chân sư thăng thiên? Tại sao Paramahansa Yogananda đã không viết nhiều hơn về các chân sư thăng thiên trong cuốn sách của mình, ngoại trừ một vài đoạn nói bóng gió mà con có thể tìm thấy?   

Giải đáp cho câu hỏi này là không chỉ có một giải đáp duy nhất. Mỗi đạo sư chân chính đều có một nhóm người nhất định mà vị ấy đã trù định sẽ hướng dẫn. Tùy theo mức tâm thức của nhóm này, rất có thể là họ chưa sẵn sàng chấp nhận chân sư thăng thiên. Có nghĩa là nhiệm vụ của đạo sư không phải là khiến cho họ chấp nhận chân sư thăng thiên, mà là nâng cao mức hiện thời của họ lên tới một mức tâm thức mà từ đó họ có thể tiến xa hơn. Không cứ là mọi đạo sư chân chính đều sẽ có ngày công nhận chân sư thăng thiên, bởi vì không phải ai ai cũng sẵn sàng cho chuyện đó.    

Nhưng hiển nhiên còn có vấn đề hàng ngũ tà đạo, các đạo sư giả, không những tại Ấn độ mà khắp mọi nơi khác, và những kẻ này thì sẽ không công nhận chân sư thăng thiên, vì dĩ nhiên, chúng tôi là những vị thày có khả năng giải phóng người tầm đạo khỏi sự chi phối của đạo sư giả.

Con hãy nhìn vào địa cầu thì con có thể thấy được là các đạo sư chân chính cần nâng cao tâm thức của đệ tử, và nếu đệ tử cứ tiếp tục nâng cao tâm thức, thì cuối cùng hầu hết sẽ tìm thấy các chân sư và giáo lý của chân sư. Nhưng tuy vậy, con không thể nói là tất cả mọi người tâm linh trên địa cầu sẽ cần phải tìm thấy chân sư thăng thiên. Có những đường tu khác. Và điều quan trọng là luôn luôn có những người thực chứng được mỗi đường tu chân chính đó để cho rất nhiều người còn ở mức tâm thức chưa cao có thể tìm ra một con đường hấp dẫn đối với họ.       

Như ta đã nói, không phải ai ai cũng sẵn sàng đi theo đường tu mà chúng tôi cống hiến. Nhưng điều cũng cần nói là tất nhiên có nhiều đạo sư giả, và các đạo sư giả này sẽ dẫn con người đi lạc lối bằng rất nhiều cách, và họ sẽ cài đặt những nút tắc nghẽn trong tâm con người khiến cho con người không thể vượt quá một mức nào đó trên đường đạo. Có những đạo sư giả sẽ khiến đệ tử tiến tới một mức nào đó nhưng rồi bị kẹt lại, và sẽ rất khó khăn vượt qua được mức đó.   

Đối với những đệ tử đã đi theo đạo sư giả, họ sẽ thấy rất, rất khó lòng tìm lại được con đường chân chính nếu họ không sử dụng giáo lý của chân sư thăng thiên. Đó là vì chúng tôi là những vị thày duy nhất có mức tâm thức và kinh nghiệm cần thiết để giúp học trò khắc phục sự tắc nghẽn khởi sinh từ việc đi theo đạo sư giả. Hiển nhiên, rất nhiều đệ tử trong số này sẽ được lợi ích nếu họ xem đến giáo lý của chúng tôi. Nhưng tiếc thay, điều này đòi hỏi họ phải cởi mở hơn rất nhiều, phải sẵn lòng hơn rất nhiều, để nhìn xa hơn các giáo lý trước đây của họ. Đó là vì đạo sư giả thường có những phương thức vô cùng tinh vi để cài đặt tắc nghẽn trong tâm họ, và điều này sẽ ngăn cản họ nhận ra chân sư thăng thiên.

Các bạn trẻ cần xét lại cái nhìn của mình về an toàn tài chánh

Hỏi: Nhiều sinh viên yêu thích một số lãnh vực khác nhau, đặc biệt là các lãnh vực phi kỹ thuật như xã hội học và các ngành nhân văn, hiện đang cảm thấy rất bất an về tương lai của mình. Họ muốn một tương lai tài chánh an toàn vì nhiều người đã sinh ra trong hoàn cảnh tài chánh bấp bênh. Họ không muốn một cuộc sống luôn luôn phải lo lắng những chuyện cơ bản như thanh toán hóa đơn hay tiền thuê nhà, và họ muốn làm nhiều thứ để cải thiện hoàn cảnh kinh tế cá nhân của mình. Trong trường hợp những người tâm linh, họ còn muốn có thời gian và chú ý để tiếp tục nâng cao tâm thức và giúp đỡ người khác cũng làm như vậy, nếu có thể.

Tuy nhiên, do không có cơ hội trong nhiều lãnh vực học tập, đặc biệt các lãnh vực khác hơn là công nghệ và y khoa, và do hệ thống giáo dục và nhân dụng có vẻ ưu đãi một thành phần xã hội đặc biệt nào đó, những sinh viên này đôi khi không thể không cảm thấy vô cùng bất lực khi họ tìm cách cải thiện hoàn cảnh đời sống, cho dù họ có cố gắng thế nào đi nữa.

Thêm vào đó, với dịch coronavirus và nhiều vấn đề khác ảnh hưởng đến thị trường nhân dụng, triển vọng tìm được việc làm với tiềm năng thu nhập ổn định dường như trở nên khó khăn hơn hẳn, đặc biệt là đối với những người thuộc thành phần thua thiệt về tài chánh. Không hiểu các chân sư có lời khuyên nào hay không cho các bạn trẻ đó từ những thành phần thiệt thòi đang cảm thấy bất lực trong cố gắng đạt được sự độc lập ổn định về tài chánh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Con yêu dấu, nếu con không thể thay đổi hệ thống nơi con sinh sống, thì con có thể thay đổi cái nhìn của con về hệ thống. Điều các bạn trẻ đó có thể làm là lượng định lại xem họ đã có tiếp nhận một số giá trị từ cha mẹ mình hay không. Sau Thế chiến thứ Hai, đã có một giai đoạn rất nhiều quốc gia chứng kiến nền kinh tế phát triển và thịnh vượng gia tăng nơi các lớp trung lưu. Sự phát triển này vẫn còn tiếp tục tại một số quốc gia, nhưng ở nhiều nước khác thì nó đang bắt đầu giảm xuống.

Điều con chứng kiến là có một thế hệ lớn lên và được nuôi nấng bởi những cha mẹ an toàn về tài chánh. Từ đó, các bạn trẻ này có sự chờ đợi là mình cũng phải được hưởng điều tương tự. Họ cũng có suy nghĩ là điều đó chỉ có thể xảy ra khi họ có việc làm ổn định mang lại thu nhập sung túc. Nhưng họ cần nhìn vào thực tế là cha mẹ họ đã phải trả một cái giá để có được sự an toàn tài chánh đó, nghĩa là cha mẹ họ đã phải làm việc không ngừng trong những công việc ổn định cho dù mình có nghĩ gì về công việc đó, cho dù mình có thoả mãn với công việc hay không.   

Kỳ thực, hiện nay có nhiều bạn trẻ đã đầu thai để đưa xã hội về một hướng đi mới không còn quá chú trọng đến những yếu tố vật chất của cuộc sống. Điều này có nghĩa là con không nhất thiết phải xem cách duy nhất để sống còn về mặt tài chánh là có một việc làm ổn định với mức lương cao. Con sẽ thấy là để có lương cao một cách ổn định, con phải sẵn lòng – nếu có thể gọi như vậy – bán linh hồn của mình và đặt nó lên bàn thờ của công ty, và con phải sẵn lòng buộc mình vào những đòi hỏi của việc làm.

Có rất nhiều bạn trẻ đã không họach định trong sứ vụ thiêng liêng của mình là mình sẽ sống theo cách đó. Có nghĩa là họ phải xét lại xem họ có cần sống giống như cha mẹ họ hay không. Liệu họ có phải có cùng một mức sống vật chất? Liệu họ có phải có một ngôi nhà thật lớn, chẳng hạn? Hay là họ có thể sống một cách khiêm tốn hơn? Liệu con có thể sống với mức thu nhập không ổn định và không đều đặn? Liệu con sẽ không bị phiền hà bởi đồng lương như vậy, mà con sẽ tin tưởng rằng vũ trụ sẽ chu cấp đầy đủ cho con nếu con sẵn sàng làm những gì nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con?

Ta không nói đây là câu trả lời cuối cùng về vấn đề này, vì trong dài hạn, tất nhiên sẽ có một số thay đổi trong nền kinh tế khi kinh tế lại phục hồi hướng tăng trưởng đều đặn. Cũng sẽ có một số quốc gia nơi người ta sẽ ban hành một mức thu nhập cơ bản hầu con có thể sống một cuộc sống tương đối an toàn mà không cần phải làm việc trong một việc làm truyền thống, và điều này sẽ là cơ hội cho nhiều bạn trẻ dành thời gian để thực hiện sứ vụ thiêng liêng của mình. Nhưng trước hết, vấn đề ở đây là con chất vấn quan hệ của con đối với tài sản cũng như cái nhìn của con về của cải vật chất và sự an toàn tài chánh. Con không thể thực sự kỳ vọng có được sự độc lập về tài chánh nếu con không có một việc làm nơi con không còn sự độc lập về thời gian, năng lực và chú ý.

Chỉ có tha thứ toàn diện mới dẫn đến tự do toàn diện

Hỏi: Làm thế nào mà những ai đã phải sống qua sự hà hiếp vào tuổi thơ ấu – dù là tình dục, thể chất, lời nói hay nhiều cách khác – có thể tiến bước trong quá trình chữa lành? Làm thế nào họ có thể thăng vượt vĩnh viễn tâm lý tiêu cực, như tức giận, tự ti, thù hằn, oán hận,… và tiếp tục bước tới trong cuộc sống? Trong những trường hợp như vậy, liệu có chuyện tha thứ và bỏ qua hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Lẽ tự nhiên, nếu con đã biết tới các chân sư thăng thiên, con có thể sử dụng tất cả các giáo lý mà chúng tôi đã ban ra về tiến trình chữa lành tâm lý của con, kể cả về ngã tách biệt và chấn thương trong quá khứ, để mà vượt qua. Nhưng để trình bày một cách tổng quát hơn cho mọi người, thực tế của cuộc sống là nếu con đã phải chịu một hành vi xâm hại, con sẽ không được giải thoát hoàn toàn khỏi trải nghiệm đó cho tới khi con tha thứ cho những người đã lạm dụng con, và đồng thời con cũng tha thứ cho chính mình đã phản ứng lại sự lạm dụng theo cách đó. Sự tha thứ toàn diện dẫn đến tự do toàn diện, như các chân sư đã có nói. Không có cách nào khác đâu con.

Chúng tôi đã ban ra lời dạy về cách giúp cho một người vươn lên khỏi quá khứ, và ở đây những lời dạy đó sẽ có thể hữu ích, tuy nhiên nói chung, cho tới khi con tha thứ thì con sẽ không thể quên được và không thể bước tới. Vậy làm thế nào con có thể tha thứ đây? Con chỉ có thể tha thứ một khi con đạt tới điểm con lấy quyết định là mình sẽ không để cho hành vi lạm dụng của quá khứ xác định mình là con người như thế nào ngày hôm nay, cũng như xác định mình là con người như thế nào trong tương lai cho tới hết kiếp này. Con phải quyết định là con sẽ không cho phép những kẻ đã xâm phạm con tiếp tục ảnh hưởng đến tâm thức và tâm trạng của con.

Con chỉ có thể làm vậy khi con trả tự do cho họ, khi con tha thứ họ và nhận rõ là họ đã hành xử cách đó để thể hiện mức tâm thức mà họ trải bày ra vào lúc đó, và con nhận rõ là hành vi của họ không trực tiếp nhắm vào cá nhân con, và do đó, con có thể dần dần đạt tới mức con ngừng xem đó là một chuyện cá nhân, rồi con cho phép nguyên cái đó ra đi.

Ta không bảo là chuyện này dễ làm, đặc biệt là nếu con không có giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con đã có giáo lý của chân sư và sử dụng các bài chú cùng bài thỉnh để biến hoá năng lượng đang ngăn cản con buông bỏ, thì thực sự con có thể đạt tới mức con giải phóng khỏi lực kéo của các năng lượng giận hờn và thù oán.

Khi đó, con sẽ có thể tự do lấy quyết định để cho nó ra đi. Rất có thể con sẽ phải nỗ lực làm việc trên bản thân mình, làm việc trên những cái ngã và nhận ra là mặc dù con đã bị xâm hại trong kiếp này, rất có thể đây cũng không phải là lần đầu tiên. Rất có thể chuyện đó trở ngược về một số kiếp trước, hay trở ngược về chấn thương nhập đời của con khi con đầu thai lần đầu. Con cần giải quyết những cái ngã này trước khi con hoàn toàn tự do mà có được quyết định: “Ta cho mi ra đi.”

Con không thể thực sự có được quyết định đó với tâm vỏ ngoài. Nhưng một khi con đã làm việc trên bản thân mình thì sẽ tới một điểm khi bỗng dưng con sẽ có một cảm giác buông xả nhẹ nhõm. Con sẽ cảm thấy như có cái gì bị gẫy, một cái gì nhả con ra, và con nhận ra trong ý thức là giờ đây con đã tha thứ, con đã để cho nó chết đi, và sau đó con cảm thấy tự do.

Tha thứ không có nghĩa là phủ nhận

Hỏi: Con đã từng bị tổn thương và con không thể tìm thấy sức mạnh để tha thứ và bước tới về phía trước. Trong một thời gian dài, con đã không muốn tha thứ. Nhưng bây giờ thì con đã quá mệt mỏi với những hạn chế mà con phải đối mặt và con muốn biết con phải bắt đầu ở đâu trên con đường tha thứ. Tha thứ là gì? Tha thứ có phải là quên hết và cư xử như thể không có chuyện gì xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Hiển nhiên những điều ta vừa trình bày trong câu trả lời trước cũng áp dụng ở đây. Nhưng điều vô cùng quan trọng mà con cần ngộ ra là tha thứ không phải là giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cái đó trong tâm lý học gọi là phủ nhận. Không phải là chuyện con quên đi bằng cách đẩy nó ra khỏi tâm trí của mình, mà như ta vừa trả lời trong câu trước, là chuyện đạt tới điểm con thoát ra khỏi tất cả những gì trong tâm lý đang níu kéo con lại, những cái ngã tach biệt, những năng lượng đã tích tụ khởi lên từ lòng sợ hãi, và nhờ vậy con có tự do để lấy quyết định tha thứ.

Một lần nữa, câu hỏi chỉ đơn giản là như sau: Con có muốn tự do hay không? Và nếu con muốn tự do thì con phải nhận ra là bằng cách tha thứ cho người khác, con đang tự giải phóng chính con.

Như các chân sư đã có đề cập, có sự hiểu lầm xảy ra thông thường là khi con tha thứ cho ai đó thì con để cho người đó thoát thân. Nhưng thực tế là khi con tha thứ, con cho phép chính con được thoát thân, vì con quyết định là cho dù người kia đã có làm gì tới con thì điều đó sẽ không quy định được con nữa.

Con sẽ không bám giữ chuyện đó nữa. Con sẽ không tìm cách quy trách nhiệm cho họ. Con sẽ không tìm cách thay đổi họ. Con sẽ không tìm cách trừng phạt họ. Chuyện đó không quan trọng gì nữa. Con chỉ muốn giải thoát khỏi họ. Con không muốn làm gì tới họ. Và con cũng không muốn họ làm gì tới con, hay làm gì cho con. Con chỉ muốn tự do. Đó là quyết định mà con phải lấy.

Nhưng như ta có nói, có thể con sẽ cần làm việc khá nhiều trên bản thân mình trước khi con có tự do lấy được quyết định đó.

Sa nhân và nghệ thuật

Hỏi: Xin các chân sư cho ý kiến về vai trò của sa nhân trong nghệ thuật. Phải chăng họ chỉ biểu đạt tình trạng tâm thức của họ, hay là họ có một ý đồ nào đó? Khi con nghe nhạc rap, con nhận thấy mặc dù có thể có sự vô cảm đối với sự sống, con vẫn tìm thấy một chút tính nhân bản trong cách đặt lời. Ngay cả những nghệ sĩ có vẻ như không có chút tình người trong âm nhạc của họ, nhưng họ dường như vẫn hiền lành, hầu như vô hại nếu so với những sa nhân như Hitler. Phải chăng con chưa được nghe loại nhạc có rung động đủ thấp để mà nhận thấy điều gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho nước Mỹ. Đăng ngày 15/10/2020.

Có những nhà ngoại cảm có khả năng nhìn vào một bức họa chẳng hạn. hay một tác phẩm nghệ thuật nào đó, và thấy được nó có tác dụng cài đặt một cái móc hay một ống hút vào hào quang của người đang ngắm nhìn, hầu bòn rút năng lượng của người đó. Cũng có một số tác phẩm nghệ thuật có khả năng tải xuống một số hình ảnh hoặc ma trận năng lượng vào các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của những ai đặt chú ý vào tác phẩm. Nghệ thuật không hoàn toàn trong trắng, vô hại như nhiều người tưởng. Nhưng điều này không có nghĩa là bây giờ con phải sợ ngắm nhìn mọi tác phẩm nghệ thuật, bởi vì tất cả tuỳ thuộc phần lớn vào cách con nhìn tác phẩm hay cách con nghe bản nhạc – liệu con có mở toang ra để cho nó nhập vào mình hay không. 

Tất nhiên, điều này có thể khó biết được đối với nhiều người vì họ không ý thức được những lỗ hổng mà họ đang có trong hào quang của mình, cho nên họ sẽ dễ bị tổn thương hơn như khi họ thâu nhập, hay để cho người khác bòn rút năng lượng từ cảm thể của họ chẳng hạn. Đối với những ai nhậy bén hơn, họ có khả năng học rất nhanh cách cảm nhận độ rung trong tim họ, tức là liệu bức tranh mà họ đang ngắm có nâng cao hay kéo thấp độ rung, có nâng cao hay kéo thấp cảm giác trong tim họ. Chẳng hạn có người học được cách nhận thấy năng lượng bị hút ra khỏi họ khi họ đang lắng nghe một loại nhạc nào đó. Ai ai cũng có thể học được khả năng này nếu mình sẵn sàng học hết tiến trình, nhưng để thực sự học được thì mình phải trung dung.

Con không thể thiếu trung dung như rất nhiều người khi họ không sẵn lòng cảm nhận xem năng lượng của họ có bị đánh cắp hay không, bởi vì họ quá ham nghe một loại nhạc nào đó do một quyết định của ngoại tâm, hoạc vì họ quá muốn xem một tác phẩm nào đó, hoặc nữa, vì họ tin – như một số người tâm linh hay muốn tin như thế – rằng mọi loại nghệ thuật “đều tốt thôi”.     

Sự phân biện đòi hỏi một sự sẵn sàng muốn biết – và trên căn bản, điều này đòi hỏi là con ở trong một trạng thái trung dung hầu con tự do cảm nhận: “Tác phẩm này đang tác động tôi như thế nào? Nó có kéo thấp năng lượng của tôi? Nó có lấy mất năng lượng hay nó nâng cao năng lượng của tôi? Liệu tôi có nhận được năng lượng tích cực từ nó hay không?”

Phong trào QAnon

Hỏi: Xin các chân sư thăng thiên bình luận về QAnon, phong trào rộng lớn đang diễn ra tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Liệu Đại đoàn Chưởng giáo đang có làm việc với các lãnh đạo của tổ chức này hay không? Hay đây chỉ là một nhóm đang cực đoan hóa cơ sở hiện thời của sa nhân tại Hoa kỳ?

Kim Michaels: Nếu các bạn chưa biết, QAnon là một hiện tượng có vẻ đã khởi sự vài năm trước đây trên một diễn đàn trao đổi trên internet khi có người đưa ra giả thuyết là có một giáo phái Satan hay một bè đảng ấu dâm tổ chức thành những nhóm lạm dụng ấu dâm, và đồng thời cũng bí mật khuynh loát cả thế giới. Nếu tôi hiểu không sai, QAnon nói rằng đa số những nhóm này thuộc đảng Dân chủ và mối đe dọa lớn nhất cho âm mưu cai trị toàn cầu của họ là Donald Trump, và ông Trump đang hoạt động chống lại họ cho dù ông không biết. Nhưng tôi sẽ nhường lời cho Mẹ Mary bình luận. Điều tôi vừa nói là để bạn biết thêm trong trường hợp bạn chưa biết QAnon là gì, vì chính tôi cũng không biết cho tới khi tôi tra cứu.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Mỹ quốc. Đăng ngày 15/10/2020.

Trước hết, hãy để ta cam đoan với con là các chân sư thăng thiên không hề làm việc với bất cứ ai đứng đằng sau phong trào này. Các chân sư không liên hệ gì với họ. Các chân sư không đưa ra bất kỳ ý tưởng nào mà phong trào này sử dụng.

Đây là một phong trào, theo nghĩa cùng cực, được khởi xướng bởi một số sa nhân hoạt động qua trung gian một số người mang sẵn nhược điểm khiến mình dễ bị sa nhân chiếm hữu, ám ảnh và sử dụng theo cách đó. Hiển nhiên nhiều người trong số này cũng không biết một cách ý thức là mình đang bị như vậy. Họ tin là họ đang làm một điều gì đó, nhưng thật ra, có rất ít tin vào chính những ý tưởng của mình. Có một số người trong số đó là những kẻ mà chúng ta gọi là “internet troll”. Có một số nghĩ là họ đang làm một cuộc thử nghiệm để xem họ có thể lôi kéo người ta tin được tới đâu. Nhưng cũng có một số thành phần thuộc những nhà máy troll tại Nga và Trung quốc, ít nhất đã nắm lấy phong trào này và thổi phồng nó lên, vì họ thấy nó có thể phục vụ cho mục tiêu của họ là tạo ra càng nhiều hỗn loạn càng tốt.

Là một người tâm linh, con cần làm một số điều. Trước hết, con cần sử dụng lôgíc và lẽ thường khi con lượng định những lời tuyên bố đó. Con có thể thấy là nếu có một tổ chức bí mật đang thật sự điều khiển thế giới, và nếu mối đe dọa duy nhất cho âm mưu khuynh loát của họ là sự đắc cử của ông Donald Trump, thì làm thế nào ông Trump đắc cử được đây? Nếu họ thật sự kiểm soát được toàn thế giới, tại sao họ không ngăn được ông ta đắc cử? Có nghĩa là nếu ông thắng cử thì không thể nào họ hoàn toàn kiểm soát được thế giới, phải không con?

Một điều khác mà ta muốn chỉ ra ở đây là tất nhiên, ấu dâm là một vấn nạn có thật. Một số những kẻ ấu dâm đang ở ngay Hollywood và trong một số cơ sở truyền thông khác, nhưng ta có thể đảm bảo với con là chúng không chỉ giới hạn trong đảng Dân chủ mà thôi. Có những đảng viên Cộng hòa cũng ấu dâm, có những doanh nhân, những nhà tài chánh và ngân hàng cao cấp cũng ấu dâm. Chúng được tìm thấy trong nhiều lãnh vực của xã hội, ngay cả trong giới chính quyền. Ở đây con phải nhận ra ấu dâm là một cái gì không thể gắn liền với một đảng phái chính trị, một chủng tộc hay màu da, hay bất kỳ cách phân chia nào khác. Đó là một sự hủ hóa của linh hồn đã diễn ra suốt rất nhiều kiếp sống, và do đó nó không liên hệ gì đến những đặc điểm hoặc niềm tin vỏ ngoài của người đó trong kiếp này.

Nhưng điều con thấy ở đây là có những người sẵn sàng dựng lên những thuyết âm mưu như vậy. Và để lôi kéo quần chúng vào với họ, họ đã chụp lấy một vấn nạn có thật mà ai ai cũng quan tâm, rồi họ bóp méo nó đi để cho nó một kích thước chính trị. Đó là cách họ khiến cho một số người tin vào chuyện này. Phần lớn những người cả tin ấy đã bị mù quáng bởi cái mà chúng ta có thể gọi là “ảo tưởng Cộng hòa”, là ảo tưởng cho rằng chỉ có đảng Cộng hòa mới có khả năng cứu vãn đất nước Hoa Kỳ khỏi suy vong. Đây là một ảo tưởng được tạo dựng từ nhiều năm nay, một phần do những tín đồ đạo Cơ đốc cực chính thống, tức những Cơ đốc nhân thuộc phái Phúc âm tại Hoa Kỳ, với tư duy cuồng đại dựa trên cách diễn giải cực chính thống về Kinh thánh, là một tư duy đen trắng cho rằng mọi chuyện sẽ sụp đổ nếu người ta không đi theo con đường mà họ cho là đúng đắn.

Ở đây con cần nhận ra là khi con là một học trò của chân sư thăng thiên, con có khả năng sử dụng những lời dạy mà các thày đã ban ra, sử dụng những bài truyền đọc của các thày để cảm được những rung động không xuất phát từ sợ hãi. Rồi con có thể dùng đó như là một khung nền để cảm nhận khi nào có một cái gì đó, một ý tưởng hay một lý thuyết nào đó, rõ ràng phát xuất từ sợ hãi. Và ý tưởng này thì rõ ràng phát xuất từ sợ hãi. Nó thấm đẫm độ rung của lòng sợ hãi.

Và ta có thể cam đoan với con rằng những lý thuyết dựa trên sợ hãi đó không chỉ không đến từ các chân sư thăng thiên, mà chúng còn không có sự thật. Chúng không thể có sự thật nếu chúng xuất phát từ sợ hãi và nếu chúng dấy lên lòng sợ hãi. Bởi vì ngay cả khi các chân sư đưa ra những thông điệp vô cùng nghiêm túc, các thày cũng không tìm cách dấy lên lòng sợ hãi, bởi vì các thày biết rõ tiềm năng thay đổi thực tế. Nhưng như các thày đã giảng, hầu hết các thuyết âm mưu đều tước đi quyền năng của con vì chúng không trao cho con tiềm năng thay đổi, hoặc chúng trao cho con một tiềm năng nhưng để con không làm được chuyện gì khác hơn là chuyện tức giận, tìm cách ảnh hưởng hay ép buộc người khác. Và chuyện này thì sẽ không giúp con thoát ra khỏi tư duy nhị nguyên.

Bây giờ con yêu dấu, thành thật mà nói với con, nếu con là một học trò của chân sư thăng thiên, hay nếu con tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên, và con đã tin vào hay vẫn còn tin vào chuyện đó cùng những thuyết âm mưu đó, con sẽ cần lượng định lại một cách nghiêm túc vị trí hiện thời của con trên đường tu. Con sẽ cần xét một cách nghiêm chỉnh xem con có một vấn đề phân biện hay không. Và con cần quyết định xem con có cho phép mình bị cuốn hút thêm nữa vào những thuyết đó, hay là con sẽ có nỗ lực để kéo mình trở lại con đường của các chân sư.

Bởi vì con không thể làm cả hai. Con không thể phục vụ hai chủ. Con không thể bỏ thời gian ra để cho phép sự chú ý và năng lượng của con bị đổ vào những thuyết đó. Con không thể ngồi đó và cho phép hào quang của mình bị thấm đẫm những năng lượng sợ hãi đó mà đồng thời vẫn bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô và thăng thiên. Nếu con tin những thuyết đó có một số yếu tố của sự thật Ki-tô thì con đang đi trên con đường giả trá rồi. Con đang bước trên con đường tà đạo và con không hề nối kết với tâm Ki-tô, tâm Ki-tô toàn vũ.

Có học được gì về cõi tâm linh bằng cách so sánh với địa cầu?

Hỏi: Con biết câu hỏi này của con gần như vô nghĩa đối với các chân sư thăng thiên, nhưng con cứ hỏi thử. Đối với một chân sư thăng thiên, một ngày bình thường, một tuần lễ bình thường, một năm bình thường diễn ra như thế nào? Các thày có làm việc 24/7 cho sự tiến hóa của hành tinh địa cầu? Thỉnh thoảng các thày có thời gian rảnh rỗi nào không? Chẳng hạn các thày Giê-su, Mẹ Mary và MORE có gặp nhau thân mật vào dịp cuối tuần, ví dụ tại nhà của thày Saint Germain, dùng cơm thăng thiên với nhau, nghe nhạc và bàn chuyện với nhau? Có lẽ kể chuyện khôi hài cho nhau nghe? Các thày có đi nghỉ hè, có du hành đến các bầu cõi khác? Hay các vũ trụ khác? Các thày có làm việc với các vị thày tâm linh của mình để tăng triển tâm linh, vân vân…?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary  qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

À, không một câu hỏi nào là vô nghĩa đối với các thày cả nếu nó có nghĩa cho con, vì vai trò của các thày tất nhiên là giúp con nâng cao tâm thức của con. Cho nên bất cứ gì có ý nghĩa với con ở tầng tâm thức hiện thời của con, các thày đều có thể trả lời và giúp con vươn lên một tầng cao hơn.

Một câu hỏi như thế này rất dễ thông cảm. Nhưng con cũng phải nhìn nhận là câu hỏi được đặt ra từ nhãn quan một người sống trên trái đất nhìn vào các điều kiện mà người đó thấy trên trái đất, như thể phóng chiếu nó ra, rồi hỏi xem liệu chúng có áp dụng cho cõi thăng thiên hay không. Một cách nào đó, con có thể đặt lại câu hỏi một cách khác và nói: “Liệu các điều kiện con thấy trên địa cầu có liên quan hay tác động gì đến các điều kiện trên cõi thăng thiên? Liệu con có học hỏi được gì về cõi thăng thiên bằng cách nhìn vào cac điều kiện trên địa cầu?”

Và câu trả lời cho câu đó là: Không. Mọi thứ trên cõi thăng thiên quá khác đến độ việc mô tả hầu như vô nghĩa, vì con không thể thực sự hiểu được từ mức tâm thức hiện thời của con. Và tất nhiên là con không cần hiểu. Con cần phải nhìn vào môi trường nơi con sống và tiếp tục thăng vượt tầng tâm thức của con cho đến khi con thăng thiên, và khi đó con sẽ trải nghiệm các điều kiện của cõi thăng thiên.

Tại sao con không thể trải nghiệm các điều kiện nơi cõi thăng thiên khi con còn ở trong trạng thái tâm thức chưa thăng thiên? Bởi vì các điều kiện ở cõi thăng thiên chỉ có thể được trải nghiệm từ một tâm thức thăng thiên. Nơi cõi thăng thiên không có thời gian đường thẳng như con có trên địa cầu. Không có một ngày giống như một ngày, vì không có ngày lẫn không có đêm. Không tuần lễ giống như tuần lễ, hay năm giống như năm, vì thời gian không được chia thành những đơn vị đường thẳng. Các thày không có một trạng thái tâm thức đường thẳng, cục bộ, địa phương.

Ta cũng biết là các chân sư có trao cho con lời dạy về các lớp nhập thất trên cõi ê-the. Nhưng các lớp đó nằm ở cõi ê-the là những tầng cao của bầu cõi chưa thăng thiên. Mục đích các khóa nhập thất này là tạo cho con một môi trường mà con có thể liên hệ ngay khi con còn hiện thân trên địa cầu và được dịp học hỏi một điều gì đó. Điều này không có nghĩa là các thày bị hạn chế trong các nơi nhập thất đó, và cũng không có nghĩa là các thày có lâu đài hay tu viện đồ sộ trên cõi thăng thiên, vì các thày không có nhu cầu như vậy. Các thày không ăn uống, không ngủ, không cần thú tiêu khiển, vì tất cả những gì các thày làm tự thân nó đã là một niềm vui toại nguyện. Các thày không xem đó là công việc mà mình cần phải nghỉ ngơi, hồi sức hay thư giãn. Các thày không cần thư giãn vì không hề căng thẳng.

Tâm thức và thực tại của một chân sư thăng thiên quá khác với những gì con thấy trên địa cầu đến độ thật khó lòng nào mô tả được bằng ngôn từ, vì con có xu hướng chỉ nắm bắt được ngôn từ, nắm bắt các hình ảnh, các khái niệm mà con quen thuộc trên địa cầu. Vấn đề là trên địa cầu hầu như không có gì giống như ở cõi thăng thiên. Đó là tại sao trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi con có được những thoáng hiện, những trải nghiệm thần bí, những tia chớp về cõi thăng thiên hay tâm thức thăng thiên, nơi con nhận ra là nếu con cứ lấy những gì mình thấy trên địa cầu rồi phóng chiếu nó lên cõi thăng thiên, thì điều này thật không xây dựng. Và con ngừng làm chuyện đó.

Con sẽ nhận thấy, ví dụ trong các đợt truyền pháp trước, là đã có những hình ảnh của một số chân sư thăng thiên được nhiều đệ tử sử dụng. Nhưng đây chỉ là một giai đoạn. Một khi con tăng triển cao hơn một mức tâm thức nào đó, con không cần đến hình ảnh của vị chân sư thăng thiên nữa. Kỳ thực, con không muốn đặt chú ý vào một tấm hình của một vị chân sư vì con nhận ra rằng vị ấy không thể bị giới hạn trong hình tướng đó. Ở một mức nào đó trên đường tu thì việc nhìn bức tranh có thể giúp con hòa điệu với sự hiện diện của chân sư – chuyện này chấp nhận được. Nhưng vượt quá một mức tâm thức nào đó thì đấy không phải là điều con cần nữa, thậm chí không phải là điều mà con muốn làm.

Và tương tự như nhiều thứ khác, sẽ tới một điểm khi con ngừng suy đoán xem mọi chuyện trên cõi thăng thiên là như thế nào, con ngừng suy nghĩ về chuyện đó vì con nhận ra là con đang ở trên địa cầu, và công việc của con là thăng vượt mức tâm thức của con cho tới khi con thăng thiên. Và khi đó con sẽ có thể trải nghiệm cõi thăng thiên.

Về khái niệm đồng sáng tạo

Hỏi: Qua từ “sáng tạo” và “đồng sáng tạo”, có phải các chân sư muốn nói đến các hậu quả mà chúng con học hỏi về bản thân mình hay là hậu quả bên ngoài? Thật là bối rối cho ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả khi thậm chí nó không thể nhìn thấy những gì nó đã tạo ra. Liệu chúng con tạo ra một vật, hay một hoàn cảnh được chia sẻ với những người đồng sáng tạo khác (tức quả báo), hay chỉ mt cái ngã khác, hay mt loại khuôn đúc năng lượng, hay tất cả nhng th đó? Liệu hình tướng mà chúng con đồng sáng tạo và hậu quả của nó sẽ khác đi tùy theo chúng con ở trong Trường đời Cay đắng hay trường của chân sư thăng thiên?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Phải, các con là người đồng sáng tạo. Điều này có nghĩa là con không thể sáng tạo một cái gì đó từ chính cái ta của con như Đấng Sáng tạo vốn làm. Trên cơ bản, tất cả chúng ta – ngay cả các chân sư thăng thiên của các bầu cõi trước – những sinh thể trong thế giới hình tướng của Đấng Sáng tạo, chúng ta đều đồng sáng tạo, vì chỉ có Đấng Sáng tạo mới tạo ra một thế giới hình tướng từ hư vô, từ chính bản thể của ngài, còn chúng ta thì đồng sáng tạo cùng với ngài.

Các con đang hiện thân trên địa cầu, con đang hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con đang đồng sáng tạo cùng với các chân sư thăng thiên được giao nhiệm vụ giúp cho bầu cõi của con tăng triển. Hơn thế, con cũng đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên, có nghĩa là con đang đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện của hành tinh này.

Điều này cũng đúng cho bất kỳ hành tinh nào khác, và ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có một khuôn đúc nào đó được quy định cho hành tình đó. Và con sẽ luôn luôn đồng sạng tạo trong khuôn khổ đó, và trong tư cách một cá nhân, con không thể đi ngược lại nó, không thể nào lật bỏ nó. Trên trái đất, con đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện mà tâm thức tập thể đã tạo ra.

Bây giờ, thật dễ thông cảm khi con nói rằng ngã vỏ ngoài bị bối rối phải học hỏi từ hậu quả khi nó không thấy được những gì nó đã đồng sáng tạo trong quá khứ.

Nhưng con thấy đó, thật ra không phải ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả, mà cái Ta Biết mới có khả năng học hỏi từ hậu quả. Và cái Ta Biết chỉ học được nếu nó bước ra ngoài ngã vỏ ngoài rồi nhờ vậy ngộ ra rằng hoàn cảnh vỏ ngoài của con là sự phản ánh của chính hoàn cảnh nội tâm của con, tráng thái tâm thức của con.

Con đồng sáng tạo qua tâm thức của con, con là một người đồng sáng tạo cá biệt. Các hình ảnh mà con giữ trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm sẽ có tác động to lớn trên hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó, con đang tạo ra tất cả những thứ mà con vừa liệt ra trong câu hỏi. Nhưng tất nhiên khi nói đến các tình huống vỏ ngoài, các tình huống vật lý, con không tạo ra chúng trong hư vô, mà con tạo ra chúng trong bối cảnh hành tinh nơi con sống và cái khuôn đúc do tâm thức tập thể thiết lập.

Băy giờ như các thày đã giải thích, bảy vị Elohim đã tạo ra hành tinh địa cầu trong hình dạng nguyên thủy thuần khiết của nó. Và nhân loại sau khi sa ngã vào nhị nguyên, đã thay đổi khuôn đúc ban đầu của địa cầu một cách đáng kể, đến độ khiến cho cả vật chất cũng dày đặc hơn. Có rất, rất nhiều điều kiện, rất nhiều điều kiện vật lý trên trái đất do tâm thức tập thể sinh ra trong một khoảng thời gian rất dài. Con đang đồng sáng tạo những hoàn cảnh vật lý trong môi trường đó. Như một cá nhân, tất nhiên sẽ có giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ tùy theo tầng tâm thức của con, nhưng ngay cả khi con ở tầng cao nhất, tầng tâm thức thứ 144, vẫn có một giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ trong tâm thức tập thể, bởi vì quyền tự quyết phải được phép trải bày ra.

Điều quan trọng nhất mà con cần hiểu về việc đồng sáng tạo là tâm thức của con, những gì nằm trong ba thể cao của con, có tác động cơ yếu trên hoàn cảnh vật lý, tình huống vật lý của con. Con đã không luôn luôn đồng sáng tạo các tình huống đó, nhưng trong nhiều trường hợp con đã tự thu hút mình vào các tình huống đó, và con đã làm vậy để học hỏi một số bài học.

Nhưng nếu con đi trở ngược lại xuyên qua rất nhiều kiếp đầu thai trên trái đất và giải quyết những cái ngã đủ loại mà con đang mang, con sẽ có thể vươn lên trên tình huống vỏ ngoài, và hoặc con sẽ tự thu hút mình vào một tình huống khác, hoặc con sẽ đồng sáng tạo, con sẽ tạo ra một tình huống mới. Nhưng đây không phải là điều mà ngã vỏ ngoài có thể làm.

Liệu có khác biệt gì chăng giữa việc ở trong Trường đời Cay đắng và việc bước chân trên đường tu với các chân sư thăng thiên? Tất nhiên là có, theo nghĩa là nếu con ở trong Trường đời Cay đắng thì con đã chưa hoàn toàn nhìn nhận rằng hoàn cảnh bên ngoài chỉ là sự phản ánh của hoàn cảnh bên trong, cho nên con không thể dễ dàng học hỏi từ những hoàn cảnh đó.

Tuy vậy, ta cũng phải nói là có những người đã học tập giáo lý của chân sư thăng thiên mà vẫn chưa hoàn toàn nhìn nhận điều đó, cho nên họ vẫn còn phần nào ở trong Trường đời Cay đắng. Nhưng khi con hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình, thì khi đó sẽ có một sự khác biệt. Vì khi con còn trong Trường đời Cay đắng, con không cởi mở lắm với nhu cầu thay đổi nội dung trong ba thể cao của mình, và do đó con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo dựa theo nội dung đó, con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo cùng một thứ đó. 

Một khi con nhập trường chân sư thăng thiên và sẵn lòng buông bỏ những ngã đó từ quá khứ, thì con sẽ không lặp lại cùng những khuôn đúc đó, con sẽ không để cho ánh sáng chảy xuyên qua chúng, chúng sẽ không còn nữa và do đó con cũng tự do hơn để tạo ra một cái gì khác. Con có thể tạo ra những gì con xem là hoàn cảnh xây dựng hơn cho bản thân con.

Đừng suy nghĩ quá đáng mà hãy giải quyết từng cái ngã một

Hỏi: Dường như ngã gốc là một trong những điều cuối cùng con cần giải quyết. Nhưng trong bài tập hình dung của Mẹ Mary để đối phó với ngã gốc, thày nói thật ra đó là điều đầu tiên con cần giải quyết, và tất cả những cái ngã đến sau sẽ dễ tháo gỡ hơn sau khi con đã giải quyết ngã gốc.

Sau khi con nhận diện trong con rất nhiều ngã tách biệt chưa giải quyết, con bị khó khăn phân biệt một ngã chấm dứt ở chỗ nào và cái ngã sau bắt đầu ở chỗ nào. Con nhận ra chấn thương từ thời thơ ấu lẫn những chấn thương từ những chuyện con chưa thấy rõ. Con có cảm tưởng một số ngã không thể nào tháo gỡ được nếu con chưa giải quyết ngã gốc, vì ngay lúc con cố nhìn nó thì ngã gốc sẽ ngăn cản con thấy nó một cách khách quan.  

Thứ tự mà con nên giải quyết các ngã tách biết là gì? Con có lý hay chăng khi nghĩ rằng việc xem xét một số ngã tách biệt – chẳng hạn như các chấn thương thời thơ ấu – sẽ chỉ uổng phí thời gian nếu con chưa giải quyết ngã tách biệt? Hay liệu con phải làm ngược lại, tức là con sẽ không thể giải quyết ngã gốc nếu con chưa nhìn vào từng lớp một, bắt đầu từ cái ngã gần đây nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Con cần nhìn nhận ở đây là câu hỏi của con được đặt ra từ tâm phân tích đường thẳng. Con đang cố xếp loại và phân tích những ngã đó rồi con hỏi con phải giải quyết cái nào trước nhất. Nhưng đây là một vấn đề cá nhân. Một số người sẽ có thể đi tới ngã gốc tương đối nhanh chóng và giải quyết nó, và nếu con có thể làm điều này thì việc giải quyết các ngã được tạo ra sau ngã gốc sẽ dễ dàng hơn, vì những ngã này đặt nền tảng trên ngã gốc. Một khi con đã nhìn thấy ảo tưởng của ngã gốc, việc nhìn ra ảo tưởng của các ngã kia sẽ dễ dàng hơn.

Nếu con làm chuyện ngược lại và bắt đầu với những cái ngã mới nhất, con sẽ không thể nhìn thấu cái ảo tưởng làm cơ sở cho ngã gốc, có nghĩa là đối với từng ngã tách biệt, con sẽ phải phát hiện ảo tưởng riêng của nó. Việc làm này khó hơn, nhưng không phải là không thể.

Dù sao thì câu hỏi về thứ tự con phải bắt đầu với ngã nào, như ta vừa trình bày, là một vấn đề cá nhân. Và điểm mấu chốt là thế này: Dù ngã nào xuất hiện thì con cũng sẽ bắt đầu làm việc với ngã đó. Bất kỳ ngã nào con nhận biết được khi con học sách, bất cứ gì nổi bật trong tâm con, đó là cái con sẽ làm việc cho tới khi con giải quyết được nó, xong con lấy cái ngã tiếp theo rồi cái tiếp theo nữa. Con vẫn có thể dùng bài tập mà ta đã trao truyền để chữa lành chấn thương tâm linh của con, con đi qua các tầng lớp khác nhau trên đường vào rạp hát, và con làm việc với bất kỳ ngã nào xuất hiện trong tiến trình này.

Thậm chí con không cần nghĩ đó có phải là ngã gốc hay không, mà con chỉ nắm lấy từng cái ngã một, nỗ lực giải quyết nó, rồi xử lý cái tiếp theo và tiếp theo nữa như chúng xuất hiện. Đừng suy nghĩ quá đáng, đừng phân tích quá đáng, mà hãy đơn giản bắt đầu với cái ngã hiển nhiên nhất đang ló dạng và cứ làm tiếp như vậy.

Lập trình bộ não hay lập trình tâm?

Hỏi: Mặc dù các nhà khoa học tin rằng bộ não của chúng ta phát triển do những gì chúng ta trải nghiệm trong thế gian và là kết quả của lịch sử cá nhân mỗi người, nhưng họ cũng nói rằng bộ não hoạt động 90% một cách tự động. Chỉ có 10% hoạt động của não là ý thức. Điều này có nghĩa là trong thời gian còn lại, nó chạy các chương trình của nó nhưng nó khiến chúng ta tin rằng chính chúng ta là người lấy quyết định theo rất nhiều cách.

Câu hỏi của con cho các chân sư là việc lập trình bộ não đó có chỉ là kết quả của rất nhiều trải nghiệm mà nhân loại đã có trong lịch sử tiến hóa của giống loài (phylogenetic) hay không? Và nếu vậy, đó có phải là một lập trình ngẫu nhiên, kết quả của sự tình cờ? Hay đó là một lập trình có chủ ý, và do ai, ai đã tạo ra các cơ chế tương tự như bản năng sử dụng các chương trình sinh học? Việc này liên hệ thế nào với lịch sử cá nhân của mỗi người hết kiếp này đến kiếp khác? Và tất cả những cái ngã mà chúng ta mang theo do các trải nghiệm cá nhân thì sao? Làm cách nào bộ não vật lý liên lạc với ba thể cao?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Bộ não vật lý nối kết rất chặt chẽ với ba thể cao của con. Thật ra chúng ta có thể nói, bộ não vật lý một phần là cánh cửa thông thương để ba thể cao biểu đạt trong cõi vật lý, và phần khác là cánh cửa mà qua đó ba thể cao nhận được ấn tượng từ cõi vật lý.

Thật không đúng như các nhà khoa học nói rằng tất cả các lập trình đó nằm trong bộ não. Nhiều lập trình không nằm trong não vật lý. Có một số lập trình trong não vật lý nhưng chúng chỉ là các chương trình liên quan đến sự tồn tại của cơ thể cùng sự truyền giống. Những loại chương trình này cũng có thể tìm thấy ở các loài động vật. Và con có thể nói, đúng vậy, chúng được tạo ra bởi quá trình tiến hóa rất dài của động vật khi một số chương trình được thiết lập để đảm bảo sự sống còn của một giống loài. Những thứ đó được lập trình vào não vật lý cùng hệ thống thần kinh của con. Đây là cái người ta thường gọi là bản năng.

Nhưng ngoài bản năng ra và khi nói đến tâm lý con người, thì tâm lý này không nằm trong bộ não. Phần lớn tâm lý không tùy thuộc vào bộ não. Thỉnh thoảng não có thể ảnh hưởng nếu nó bị thương tích vật lý thì nó có thể ảnh hưởng đến tâm lý của con khi nó làm suy giảm các khả năng tâm lý. Tuy vậy khi nói đến các chương trình tâm lý thì các chương trình này nằm trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con dưới dạng những cái ngã tách biệt, hay dưới dạng một tư thế sẵn sàng đón nhận các tà thể đại chúng, các quỷ dữ tập thể đi vào. Các tà thể này có khả năng chiếm hữu tâm trí một người, và các thày đã có dạy rất nhiều về điều này trong các bài giảng.

Vấn đề là rất nhiều những lập trình này đã – nếu có thể nói như vậy – tiến hóa im ỉm trong tiềm thức khi rất nhiều người nếm những trải nghiệm đủ loại suốt một thời gian rất dài, dài hơn hẳn chiều dài lịch sử được ghi chép. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói là một số nhóm sắc tộc, một số dân tộc, một số chủng tộc đã mang một số lập trình nhất định từ thuở xa xưa.

Và tất nhiên còn có một loại lập trình do sa nhân tạo ra suốt một thời gian rất dài từ khi chúng được phép đầu thai trên trái đất. Sa nhân đã cố tình thiết lập vô số những chương trình như vậy nhằm suy đồi tâm lý con người, tạo ra những khuôn nếp phản ứng sẽ giúp chúng kiểm soát con người. Các thày đã giảng dạy rất nhiều về sự kiện này mà con có thể tìm thấy trong nhiều lời dạy.

Chuyển nghiệp cho con cái

Hỏi: Với tư cách là một người mẹ, con có thể nào dùng ngọn lửa tím để làm tiêu nghiệp cho một đứa con đã trưởng thành hay không? Hay đó là vi phạm quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 9/9/2020.

Nghiệp có hai khía cạnh. Một khía cạnh chỉ đơn thuần giống như một cơ chế máy móc: Năng lượng tha hóa có thể đã tích tụ lại trong ba thể cao của một người và đang là một gánh nặng cho người đó. Con có thể dùng các bài thỉnh gọi để tiêu hủy khía cạnh này cho người khác.

Nhưng cũng có một phần của nghiệp đòi hỏi chính người đó phải thấy được một điều gì đó và thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó. Điều này, hiển nhiên, con không thể làm thế cho người khác. Không phải là chuyện vi phạm quyền tự quyết của họ, mà đơn giản là con không thể làm được chuyện đó. Con không thể khiến cho họ nhìn ra một điều gì mà họ không sẵn lòng nhìn thấy.

Cho nên một lần nữa, việc thình gọi cho người khác có thể có tác dụng tích cực, vì bằng cách chuyển hóa năng lượng, họ sẽ dễ dàng hơn thấy được những gì họ cần thấy. Nhưng không có bao đảm là họ sẽ thấy được điều đó vì sự thể tùy thuộc vào ý chí tự quyết của họ.

Ca khúc “Let it be” của The Beatles

Hỏi: Có phải ca khúc “Let it be” của The Beatles lấy cảm hứng từ Mẹ Mary không? Lời ca có vẻ cho thấy điều đó: “Khi tôi gặp khó khăn, Mẹ Mary đến với tôi để nói những lời trí tuệ, Hãy buông và để yên cho họ…vân vân và vân vân”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Vâng, Mẹ Mary vừa nói: “Không. Ban nhạc The Beatles không có khả năng hòa điệu với tâm thức của ta hay tâm thức của bất kỳ chân sư thăng thiên nào khác.”

Giáo lý Advaita

Hỏi: Giáo lý của Advaita ở phương Đông gần gũi như thế nào với giáo lý cuả các chân sư thăng thiên về cái Ta Biết? Liệu có vị thày nào của Advaita đã thăng thiên trong 200 năm qua?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Các giáo lý của Advaita rất gần với giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng, không những về cái Ta Biết mà về cả nhị nguyên, bất nhị cũng như tư duy cuồng đại. Các giáo lý này không hẳn là đặc thù và cũng không liên hệ đến một số điều kiện cụ thể trên địa cầu như giáo lý mà chúng tôi đang giảng dạy. Tuy nhiên, các giáo lý này ngay từ đầu đã nhận được linh hứng từ các chân sư thăng thiên, và trong 200 năm qua, một số vị thày của Advaita đã thăng thiên, kể cả vị sau cùng là Ramana Maharshi.

Sức lôi cuốn chân chính

Hỏi: Về sức lôi cuốn hay khả năng hấp dẫn, có những người có mãnh lực này ở nhiều mức độ khác nhau, và có những nhà lãnh đạo thì có dư thừa và nhờ vậy họ điều khiển được người khác. Trong đời sống hàng ngày, có người có rất nhiều bạn bè hay bạn tình, trong khi có người lại không làm bạn được với ai vì thiếu thu hút và hấp dẫn. Vậy từ góc độ tâm linh, thế nào là sức lôi cuốn? Một người có thể nào kiểm soát được đặc tính đó? Liệu đặc tính đó có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần phân biệt giữa sức lôi cuốn của một người kiểm soát, và sự lôi cuốn của một người chứng đạt tâm linh đã hóa giải được tâm lý của mình. Sẽ đến một điểm khi con đã bước trên đường tu tâm linh và giải quyết tâm lý mình, thì ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên bắt đầu tỏa rạng xuyên qua con, tạo cho con một lực lôi cuốn dưới mắt những ai hòa điệu được với ánh sáng đó.   

Nhưng đối với một người không hòa điệu với bất cứ gì, thì họ có thể gặp một người tiến hóa tâm linh, thậm chí một bậc thày tâm linh, mà vẫn không cảm nhận được điều gì đặc biệt. Như trong Kinh thánh con cũng thấy, có những người gặp ta cách đây 2000 năm mà không thấy gì đặc biệt nơi ta. Trong khi đó lại có những người gặp ta và cảm nhận được một hào quang ánh sáng tỏa ra mạnh hơn trung bình. Có thể nói đây là khía cạnh chân chính của sự lôi cuốn.

Ngược lại, khía cạnh kia là sức lôi cuốn của nhiều sa nhân, là cái mà người ta thường gọi là sức thu hút, sức quyến rũ. Đó là vì sa nhân đã tập được cách kiểm soát người khác bằng tâm lý. Con thấy một số sa nhân gần như có khả năng thôi miên người ta đi theo và phục tùng mình. Hitler đã làm được chuyện này ở một mức độ khá cao, Mao cũng vậy. Riêng Stalin thì không có sức lôi cuốn, cho nên ông đã phải dùng đến lòng sợ hãi để buộc ai nấy phải vâng lời mình, mặc đù một số người cũng bị choáng ngợp bởi cường độ năng lực mà ông đã xây đắp chung quanh ông.

Điểm này dẫn đến việc xem xét khía cạnh thứ ba của sức lôi cuốn: giản dị đó là lòng tôn sùng, sự thờ phượng và thần tượng hóa được xây dựng lần hồi chung quanh một người nào đó. Thời xưa chuyện này ít xảy ra hơn. Nhưng với sự ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, nó xảy ra nhiều hơn hẳn ngày hôm nay. Con cứ lấy một ngôi sao điện ảnh đã đóng một số phim, đã đoạt giải Oscar, đã được báo chí và truyền thông nói đến rất nhiều, thì ai nấy sẽ dựng lên một lòng tôn sùng và xem người đó là vô cùng đặc biệt.   

Thậm chí, diễn viên đó có thể tin là mình đặc biệt thật và bắt đầu hành xử y như một người rất đặc biệt. Tuy nhiên, có những người đã gặp mặt một số diễn viên như vậy thì hiểu ra họ cũng chỉ là con người giống như bất cứ ai khác. Con thấy, tất nhiên, có những sa nhân có khả năng thôi miên người khác, và song song con cũng thấy những người tiến hóa tâm linh với sức lôi cuốn chân chính. Nhưng cả hai, nhà lãnh đạo sa ngã lẫn nhà lãnh đạo tâm linh, đều có thể trở thành đối tượng cho sự sùng bái của thế gian khi người ta phóng chiếu một số đức tính hoàn toàn không thực tế lên họ.

Trong hai tổ chức Summit Lighthouse và I Am Movement, chúng tôi đã chứng kiến sự tôn sùng thần tượng to lớn chung quanh các vị sứ giả. Ngay cả trong phong trào này, chúng tôi cũng thấy một số người tôn sùng sứ giả này mặc dù ông đã không khuyến khích sự thể đó, đã lên tiếng, và những ai đã gặp ông và làm việc với ông cũng biết rõ là không có lý do gì để tôn sùng như vậy. Ông không tự xưng là ông có gì đặc biệt, ông không xem là mình cao hơn người khác vì ông là một lãnh đạo-đầy tớ.   

Cách đây 2000 năm, ta cũng như vậy. Nhưng ngay từ thời đó cũng đã có một sự phóng chiếu sùng bái nào đó. Tuy vậy, đó vẫn không là gì so với sự sùng bái đã được phóng chiếu lên bản thân ta từ khi Giáo hội Công giáo được thành lập, khi ta được nâng lên ngôi vị một đấng siêu phàm ngang hàng với Thượng đế. 

Vậy con hỏi, liệu việc phát triển khả năng lôi cuốn có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng của con hay không? Tại sao con lại muốn phát triển khả năng lôi cuốn chứ nhỉ? Nói cách khác, nếu con là một học trò tâm linh, tại sao con lại muốn sức lôi cuốn của sa nhân để khuynh loát người khác? Điều mà con mong muốn có lẽ là phát triển một lực lôi cuốn tự nhiên xuất phát từ sự tinh tấn tâm linh và giải quyết tâm lý. Điều này chắc chắn có thể là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con, nhưng trọng tâm của sứ vụ không phải là khả năng lôi cuốn. Đó có thể là một phụ phẩm, chứ không phải là mục đích. Đó không phải là một mục đích mà con ấn định cho con.

Chắc chắn có những người tâm linh, kể cả học trò của chân sư thăng thiên, ấp ủ  những giấc mơ xa vời là mình sẽ phát triển khả năng lôi cuốn quần chúng hầu mình có thể thu hút người ta theo mình, giống như họ đã thấy một số lãnh đạo tâm linh từng làm. Có người còn mơ ước mình đạt được thiên khiếu của Tánh linh để người ta phải ngất xỉu mỗi khi mình vẫy tay hay bước vào phòng, và người ta sẽ thấy tận mắt một số biểu hiện rồi tin rằng mình nói gì hay làm gì cũng là dấu hiệu mình là người đặc biệt. Nhưng đó không phải là điều mà chúng tôi khuyến khích nơi các đệ tử. Đó không phải là điều chúng tôi khuyến khích nơi bất cứ ai, bởi vì sùng bái có ích lợi gì đâu?  

Điều mà chúng tôi mong muốn lập ra là một giáo lý và một phong trào đặt nền tảng trên ý tưởng rằng mọi người đều có tiềm năng tâm linh, mọi người đều có tiềm năng tự thăng vượt. Cho nên nếu con là một sứ giả trong một phong trào đích thực của chân sư thăng thiên, con không là một người đặc biệt, con không đứng riêng ra như một người đặc biệt. Con là một tấm gương mà người khác có thể noi theo. Có thể con đã bước xa hơn nhiều người khác trên đường tu, nhưng điều này không có nghĩa là họ không thể bước đi trên cùng con đường đó và đạt cùng mức thành đạt tâm linh như con. Có thể là họ sẽ không làm y hệt những gì con đã làm, chẳng hạn như làm sứ giả, nhưng có nhiều việc khác mà họ có thể làm trong khuôn khổ sứ vụ thiêng liêng của họ.

Cho nên, thật sự, mục tiêu của một sứ giả đích thực cho chân sư thăng thiên là nâng cao mọi người lên mức tâm thức cao nhất và giúp họ đạt được mức đó. Ngược lại, mục tiêu của một thày giả là chỉ khiến cho y tiếp tục là người đứng đầu. Y sẽ là người lãnh đạo và sẽ luôn luôn là một người đặc biệt. Nhưng mục tiêu của một người lãnh đạo-đầy tớ thì khác. Trên cơ bản, đó là khiến cho minh trở thành dư thừa khi không còn ai cần đến mình nữa.

Làm thế nào ứng phó với một người không muốn sống

Hỏi: Con gái của con bị chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nó không muốn sống nữa. Làm thế nào con có thể làm việc trên tâm lý của chính con? Và làm thế nào con có thể giúp tâm lý con gái của con? Chấn thương nào là chấn thương mấu chốt ở đây? Và điều gì cần được giải quyết trước tiên? Con đã thử nhiều phương thức khác nhau, kể cả cầu nguyện, đọc thỉnh, xua đuổi các tà thể bệnh tật nhân danh Giê-su Ki-tô và cái Ta Là, cũng như nhiều cách khác, nhưng vẫn không đủ. Con có cảm giác là khi con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng của con gái con càng trầm trọng hơn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần nhìn ra ở đây là không một lời cầu nguyện, một lời chú, một lời thỉnh nào có khả năng đi ngược lại quyền tự quyết của một người. Đó là vì sao trong một số hoàn cảnh, con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng dường như lại càng tệ hơn, vì ánh sáng đang tác dụng trên người đó nhưng họ lại không muốn quyết định xoay chuyển để trở về một thái độ tích cực hơn đối với sự sống. Và do đó, ánh sáng khiến họ bị dao động xốn xang, hay làm dao động những con quỷ hay tà thể đang xâm chiếm họ, khiến họ xử sự càng cực đoan hơn nữa.

Có thể điều cần thiết trong những cảnh huống như vậy là con hãy tạm ngừng thỉnh cầu ánh sáng thay mặt cho người đó. Điều có thể cần thiết trong trường hợp như thế này – và ta đang trình bày một cách tổng quát về những ai đang ở trong một hoàn cảnh tương tự – là con nên ngừng chú tâm vào người kia, và thay vào đó, con chú tâm vào chính con cũng như tâm lý của con, và con tìm cách giải quyết tâm lý của mình. Con cũng có thể tập trung và thỉnh cầu việc hóa giải mọi nghiệp chướng mà con còn mang với người kia.

Ta cũng biết đây là một thông điệp mà một số người sẽ rất khó lòng lắng nghe, nhưng con sống trong một thế giới nơi quyền tự quyết là định luật tối cao. Có thể có những hoàn cảnh mà một người không muốn sống, và đương nhiên con cảm thấy bắt buộc phải giải cứu họ khỏi tình trạng của họ để họ có thể tiếp tục sống, bởi vì con không muốn một người thương yêu phải qua đời. Nhưng có thể có những trường hợp mà con cần cho phép người đó qua đời, vì đó là cách duy nhất để dòng sống của họ học được bài học cần học – cụ thể là sự tự vẫn, hay thậm chí cả cái chết, sẽ không giải thoát họ khỏi tình trạng mà họ đang mang, vì con người luôn luôn mang theo tâm lý của mình với mình.

Ở đây ta không đang khuyến khích bất cứ ai hãy cứ để yên cho người khác tự vẫn hay để yên cho họ qua đời. Nhưng ta muốn nói là tới một điểm con cần ngừng sử dụng các dụng cụ tâm linh. Ta không đang đề cập tới chuyện vi phạm luật pháp, mà ta chỉ nói là nếu các bài thỉnh, bài chú, khiến cho tình trạng càng thêm bất ổn, thì rất có thể con cần ngừng sử dụng và cho phép tình hình trải bày ra cho đến kết cuộc.

Điều con có thể làm là con nỗ lực cải thiện tâm lý của con, tìm cách giải quyết những phản ứng mà toàn bộ cảnh huống đó khơi lên nơi bản thân con. Đây có thể là những điều vô cùng vi tế, sâu sắc, về cách con nhìn người khác, cách con nhìn chính mình cũng như trách nhiệm của con đối với người khác. Con cần nhận diện ở đây là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất hỗn loạn. Con chỉ cần nhìn lại lịch sử và nhận ra biết bao người phải gặp chấn thương trầm trọng trong tiền kiếp của họ. Ngày nay có những người bước vào đầu thai đã mang sẵn những chấn thương vô cùng sâu đậm như vậy từ một tiền kiếp không xa.

Trách nhiệm của con có thể không phải là cứu sống người đó hay chữa lành chấn thương đó, vì chuyện này không thể. Mà trách nhiệm của con là trao cho người đó cơ hội tìm kiếm sự chữa lành. Nhưng nếu họ không muốn sử dụng cơ hội thì điều này có thể có nghĩa là trách nhiệm của con đối với họ đã chấm dứt. Ta nói ra điều này để con có thể đương đầu với những cảm giác trách nhiệm, tội lỗi, vô vọng và tuyệt vọng khi con không có khả năng giúp đỡ người đó.

Có những thời điểm trong đời khi con không thể giúp đỡ một người thân thuộc hay ngay cả một người con gặp trong việc làm. Và vì thế, con chỉ có thể đứng quan sát họ tiếp tục hành xử theo cách hành xử tự hủy diệt của họ. Một lần nữa, ta không đang nói tới chuyện vi phạm luật pháp. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần buông bỏ trách nhiệm của con đối với người kia và cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra.

Ta cũng không đang bảo đây là việc đầu tiên mà con cần làm, bởi vì hiển nhiên con đã làm tất cả các biện pháp khác rồi. Điều con phải làm là đứng lui lại một bước khỏi tình thế trước mặt và tự nhủ: “Tôi sẽ tập trung vào việc cải sửa tâm lý của tôi”. Và khi con làm vậy, đôi khi một sáng ngộ trực giác có thể bật lên từ nội tâm, rằng giờ đây con đã giải quyết được một điều gì đó trong bản thân mình và con có thể tiếp cận người kia một cách khác hơn. Và điều này có thể giúp con giúp đỡ họ theo một chiều hướng mà trước đây con không thể làm được khi tâm lý của con tạo ra những phản ứng ngăn cản con giúp họ.

Chọn lựa tự quyết của người khác có thể ảnh hưởng những gì xảy ra cho bạn

Hỏi: Có thật chúng ta là kẻ sáng tạo thực tại của mình đến độ mọi thứ chúng ta trải nghiệm trong thế giới hình tướng đều do chính mình tạo ra trong ba thể cao qua các tin tưởng, các ý nghĩ và các cảm xúc trước khi chúng ta trải nghiệm? Điều này bao gồm tất cả mọi trải nghiệm tiêu cực nhất của chúng ta, tất cả mọi thứ do sa nhân gây ra cho chúng ta, tất cả mọi chuyện đã xảy ra cho chúng ta trong khi đầu thai vật lý. Có phải là chúng ta đã tự điều chỉnh rung động cho xứng hợp với những gì sắp xảy ra cho mình? Hay có thể có điều gì xảy ra mà chúng ta đã không tạo ra và cũng không điều chỉnh rung động cho xứng hợp?


Trả lời của ông Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Tôi xin trả lời câu hỏi này vì các chân sư đã ban ra một số bài truyền đọc trong mấy năm qua. Các thày nói rằng, trước hết, bạn đang sống trong một thế giới có những sinh thể tự nhận biết khác có quyền tự quyết, cho nên rất có thể một ai đó quyết định gây cho bạn một điều gì mà bạn đã không tạo ra. Vậy bạn cần nhìn nhận là bạn đang sống trên một hành tinh với rất nhiều người khác và các chọn lựa tự quyết của họ sẽ ảnh hưởng đến những gì xảy ra cho bạn. Không phải chỉ có những chọn lựa tự quyết của bạn mà thôi.

Thêm vào đó tất nhiên, bạn sống trên một hành tinh phi tự nhiên có rất nhiều người ở trong tâm thức nhị nguyên. Hành tinh này rất rất hỗn tạp và hiển nhiên nó còn bị sa nhân chi phối. Chẳng hạn bạn có thể thấy những gì các chân sư giảng dạy về các avatar. Bạn đã đến trái đất như một avatar, bạn hứng chịu một sự cố vô cùng đau thương khiến bạn bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc. Bạn đâu có cái ngã này trong bản thể của bạn khi bạn đến đây như một avatar? Bạn đã không tạo ra một khuôn đúc rung động trong ba thể cao xứng hợp với những gì sa nhân gây cho bạn, cho nên cái này là do sa nhân áp đặt lên bạn.

Kể từ thuở đó, chúng ta đã tạo ra trong ba thể cao của mình tất cả những cái ngã tách biệt phản ứng lại những điều kiện trên trái đất. Sau khi tạo ra những ngã này, điều chúng ta có thể nói là trong nhiều trường hợp, chúng ta đều mang một cái ngã mang tin tưởng là những chuyện tệ hại có thể xảy ra cho mình, và rất có thể ngã này đã kết đọng những chuyện xảy ra đó vì chúng ta cần phải nhìn ra ngã này và buông nó ra.

Dẫu sao chúng ta vẫn phải sống trên một hành tinh hỗn tạp có quyền tự quyết, cho nên chúng ta phải tìm ra một thế cân bằng tế nhị, là nói rằng: “Tôi nhận trách nhiệm về trạng thái tâm thức của tôi. Tôi nhận ra là trạng thái tâm thức của tôi sẽ có ảnh hưởng trên những gì xảy ra cho tôi.” Nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi bạn nhận ra là không phải mọi thứ xảy ra cho mình đều có thể được giải thích bởi một điều gì đó trong trạng thái tâm thức của mình. Ở điểm này, bạn cần bắt đầu xem xét: “Thật ra không phải những gì xảy ra cho tôi là do tâm thức tôi định đoạt, mà phản ứng của tôi trước hoàn cảnh mới do tâm thức tôi định đoạt.”

Và đây chính là điểm bạn có thể tới mức nhận ra giai đoạn kế tiếp của bạn là tu tập để thay đổi cách phản ứng của mình trước mọi sự việc xảy ra trên địa cầu. Bạn khắc phục các khuôn nếp phản ứng và thấy chúng đều khởi lên từ một ngã tách biệt. Cho nên khi một điều gì xảy ra cho bạn, không cứ là bạn cần nói: “Liệu tôi có điểm gì tiêu cực trong tâm thức của tôi khế hợp với sự cố kia?” mà bạn có thể nhìn vào phản ứng của mình và nói: “Phản ứng của tôi nói lên điều gì về những ngã tách biệt mà tôi đang có?” Rồi bạn làm việc với điểm đó, bạn nhìn ra nó và bạn để cho ngã tách biệt chết đi. 

Bạn cần tới được một điểm trên đường tu khi có những chuyện không mấy tich cực xảy ra cho mình nhưng bạn không phản ứng lại nữa. Bạn không có phản ứng nào hết, bạn có càng ít phản ứng càng tốt. Đây là điều được minh họa qua câu nói của Giê-su: “Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không nắm được gì nơi ta,” hay là câu chuyện về đức Phật ngồi dưới cây Bồ đề có quỷ Mara đến đối đầu, cố khiến cho thày phản ứng lại.

Đây là một điểm có tính xây dựng trên đường tu khi bạn đã bước chân trên đường tâm linh được một thời gian và cảm nhận mình đã cân bằng phần lớn nghiệp chướng của mình, cho nên những gì xảy ra cho mình không phải là nghiệp quả hay một việc gì mình đã làm trong quá khứ, nhưng bạn vẫn có thể sử dụng nó như một cơ hội để xem xét phản ứng của mình. Chúng ta cần nhìn nhận là khi nào chúng ta còn sống trên trái đất – một hành tinh phi tự nhiên – thì chúng ta phải cho phép quyền tự quyết trải bày, và điều này có nghĩa là chúng ta rất có thể sẽ chạm trán với một số tình huống.

Như bạn có thể nói là nhiều người đã bị đại dịch corona tác động, nhiều người đã mất việc làm. Bạn có thể cũng bị như vậy và nói: “Ồ, chắc cá nhân mình có vấn đề gì tiêu cực đã khiến mình bị mất việc làm chăng?” Nhưng bạn cũng có thể nói: “Đơn giản đây có phải là sự trình chiếu của tâm thức tập thể đã gây ra cơn đại dịch này, và có lẽ vai trò của riêng tôi trong nguyên chuyện này là xem xét phản ứng của mình và nhìn ra cơ may mình có thể rút tỉa từ biến cố này? Có lẽ tôi có thể đưa đời mình vào một hướng đi mới chăng? Liệu tôi sẽ khắc phục được một số ngã tách biệt và điều này sẽ giúp tôi khắc phục phản ứng để tôi nhìn ra cơ hội này? Tôi có thể xem đây là một cơ hội, tôi có thể thấy được hướng đi mới để mà bước theo.”

Đó chỉ là một trong nhiều ví dụ bạn có thể xem xét khuôn nếp phản ứng của mình. Thường thường các khuôn nếp phản ứng sẽ ngăn bạn xem biến cố là một cơ hội. Chúng ta phải nhận thức là đôi khi sự việc xảy ra là một cơ hội. Chẳng hạn nếu bạn bị mất việc, rất có thể đã đến thời điểm trong Sứ vụ Thiêng liêng bạn cần tìm một cách kiếm sống khác, một ngành nghề khác. Và như vậy nếu bạn cho phép các ngã tách biệt khiến mình phản ứng lại tình huống, thì bạn sẽ không nhìn ra đó là một cơ hội. Bạn không thể thấy cánh cửa đang mở ra cho bạn. Nhưng nếu bạn khắc phục được các khuôn nếp phản ứng, bạn sẽ thấy đó là một cơ hội mới và bạn nói: “Đâu là hướng đi mới tôi có thể theo trong đời tôi? Và làm thế nào tôi có thể xoay chuyển hoàn cảnh hiện thời thành một cơ hội tăng triển?”

Làm thế nào sống mà không tạo nghiệp

Hỏi: Định luật toàn vũ của nghiệp quả là người bạn đồng hành tự nhiên của quyền tự quyết. Chúng ta chịu trách nhiệm về ánh sáng mà mình nhận được. Do đó nếu chúng ta làm tha hóa ánh sáng thì chúng ta phải phục hồi lại phẩm chất của ánh sáng. Đối với đa số chúng ta bị vướng mắc trong tâm thức nhị nguyên, chúng ta thường cho rằng toàn bộ nghiệp chướng của mình đều đến từ những quyết định sai lầm mà mình đã có qua tâm thức nhị nguyên, qua tâm phản Ki-tô. Nhưng chuyện gì xảy ra khi chúng ta chuyển vọt tâm thức và đồng hóa với cái Ta Biết và lần hồi hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, phần lớn được tự do khỏi cấu trúc của tự ngã? Vì chúng ta vẫn tiếp tục có quyền tự quyết, chúng ta không thể nói là mình không còn tạo nghiệp nữa. Vậy thì điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể ở những giai đọan cao của quả vị Ki-tô, và điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể thăng thiên?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Trước hết, các chân sư đã có dạy là một chân sư thăng thiên không tạo nghiệp giống như con tạo nghiệp trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, chúng tôi có thể bộc lộ một số điều kiện, hoặc khiến mình gắn bó với một hành tinh nào đó, hoặc khiến mình cần chuyển khỏi một hành tinh để không bị gắn bó, tuy nhiên đó không phải là nghiệp.

Khi người ta bảo là mình đang tạo nghiệp, người ta thường muốn nói đến một việc gì đó mà mình làm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên, từ một cái ngã tách biệt. Cái đó tạo ra nghiệp và làm tha hóa năng lượng. Nhưng con cần thận trọng và nhận ra quan niệm trong Ấn giáo bảo rằng nghiệp gắn liền với hành động, không phải là lời giải thích đầy đủ. Hành vi nhị nguyên dẫn đến nghiệp. Hành vi bất nhị không dẫn đến nghiệp. Thậm chí hành vi bất nhị cũng không dẫn đến cả nghiệp tốt. Kỳ thực trong cách hiểu cao hơn về nghiệp quả, con có thể nói là sự khác biệt giữa nghiệp tốt và nghiệp xấu hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì bất kỳ nghiệp chướng nào cho dù được tạo ra bởi hành vi nào đi nữa, cũng sẽ buộc con lại với địa cầu và do đó sẽ ngăn cản không cho con thăng thiên.

Điều xảy ra là khi con bắt đầu đi đến quả vị Ki-tô, con có thể có những hành động sẽ không tạo nghiệp như trước kia con đã tạo nghiệp xuyên qua một cái ngã nhị nguyên. Con có thể vẫn còn một số ngã nhị nguyên, và nếu con hành động xuyên qua chúng thì con sẽ vẫn tạo nghiệp. Nhưng khi con không hành động qua một cái ngã nhị nguyên thì con không đang tạo nghiệp.

Con đang hành động, nhưng con không khiến cho năng lượng bị tha hóa bởi lòng sợ hãi. Khi con hành động không sợ hãi, và nếu con nhìn kết quả hành động mà không sợ hãi, thì con không làm tha hóa năng lượng với một rung động thấp kém. Con hoàn toàn có thể hiện thân trên địa cầu mà đã giải thoát khỏi tâm nhị nguyên, đến độ con không còn hành động qua sợ hãi nữa, và con không lượng định hành động của mình trong sợ hãi. Cho nên con không gán cho năng lượng một phẩm chất đến từ rung động thấp kém. Mà ngược lại, con ban cho năng lượng một rung động xuất phát từ tình thương, và như các chân sư đã có đề cập, điều này khiến cho năng lượng được nâng cao trong dòng chảy hình số 8 giữa Hiện diện TA LÀ và phàm nhân của con, và khi nó vươn lên cao, nó sẽ được nhân lên gấp bội rồi gửi trả xuống cho con để con nhận nhiều năng lượng sáng tạo hơn.

Đây là một lời dạy vô cùng tinh tế mà nhiều người sẽ khó lòng hiểu được, và ta có thể thấy trước là nhiều người sẽ diễn giải sai lạc lời dạy này từ quan điểm tâm đường thẳng. Nhưng sự thật là con có khả năng đạt đến một điểm khi những hành động mà con làm sẽ thực sự giúp con trở nên tự do hơn, sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là những hành động đó nhất thiết phải cao nhất, hay phải là lý tưởng theo một chuẩn mực tâm linh hay một lượng định tâm linh nào đó.

Con có thể có một hành vi đôi khi có vẻ là vị kỷ, nhưng vì con không hành động trong tâm nhị nguyên, vì con không hành động trong sợ hãi, con không làm tha hóa năng lượng. Chẳng hạn, con có thể hành động với mục đích tạo cho mình một trải nghiệm mà mình muốn có trên trái đất. Có vẻ như con đang vị kỷ, nhưng nếu con làm với mục đích thỏa nguyện một mong muốn hầu con có thể buông bỏ mong muốn đó một khi nó được thỏa nguyện, thì có thể nó nằm trong hành trình tăng trưởng tâm linh của con, thậm chí trong sứ vụ thiêng liêng của con.

Ví dụ, việc có con có thể là một mong muốn tâm linh chính đáng. Không cứ là con sẽ tạo nghiệp khi con có con, cho dù là đôi khi con có thể bị cáu kỉnh hay choáng ngợp bởi nhiệm vụ làm cha mẹ. Con cũng có thể muốn theo đuổi một sự nghiệp, một việc làm nào đó. Ngay cả con cũng có thể theo đuổi một số mục tiêu vật chất, vì mong muốn trải nghiệm là một việc chính đáng, để sau đó con có thể cảm thấy chán ngấy và buông bỏ nó.

Con cũng nên biết là các chân sư đã có giảng dạy về một cõi giới nơi một số linh hồn đi đến sau khi thân xác vật lý chết đi, gọi là Devachan, là cõi hoàn thành ước nguyện. Nơi đây, con có cơ hội kinh qua một số mong muốn cho đến khi con chán ngán, và khi đó, con có thể buông nó ra và không còn nhu cầu phải tái đầu thai trong một kiếp sống bị ham muốn đó chi phối. Như con có thể thấy trong cuốn sách của Yogananda, ông có đưa ra ví dụ một kinh nghiệm mà ông trải qua khi thày của ông đã thị hiện một cung điện cho ông vì ông ham muốn cung điện đó. Bằng cách khiến cho cung điện thị hiện – không trong cõi vật lý, nhưng dù sao cũng đủ hiện thực để ông có thể chiêm nghiệm được – ông đã có thể buông được ham muốn đó mà không phải kinh qua trải nghiệm vật lý, một điều đã có thể ngăn ông trở thành bậc thày tâm linh trong kiếp đó.

“Có cảm xúc” so với “trải nghiệm cảm xúc”

Hỏi: Phải chăng các cảm xúc của chúng ta như vui sướng, giận dữ, lo lắng hay buồn rầu là kết quả của một cái ta tách biệt? Nói cách khác, phải chăng sự kiện chúng ta có cảm xúc là do một cái ngã tách biệt?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Con không cảm xúc do một cái ngã tách biệt. Ngã tách biệt có cảm xúc, và nếu con tự đồng hóa với ngã tách biệt – hay con tự đồng hóa là ngã tách biệt – thì con trải nghiệm cảm xúc đó. Ta cũng biết cách nói thường tình là bảo rằng: “Tôi đang có một cảm xúc”, nhưng con không cảm xúc đó. Con, trong tư cách là cái Ta Biết, không có một cảm xúc. Con đang trải nghiệm một cảm xúc.

Không phải là trong tư cách cái Ta Biết con không thể trải nghiệm một số cảm xúc, nhưng đó là những cảm xúc không nhị nguyên. Nói cách khác, chúng không có đối nghịch. Đức Phật có nói đến cực lạc, mà một số người diễn giải là sự hỉ lạc cùng cực, nhưng không phải vậy. Đó là một cảm xúc vượt ra khỏi các đối cực nhị nguyên như vui và buồn, tức giận, oán hận, tất cả những cảm xúc dựa trên sợ hãi đó, và tất cả các loại cảm xúc mà người ta có thể gán cho một đối nghịch. Tất cả các cảm xúc có đối nghịch đó, các cảm xúc nhị nguyên đó, các cảm xúc mà đức Phật gọi “các cặp”, đó là những cảm xúc mà một cái ngã tách biệt đang có. Khi con chưa nhận biết ngã tách biệt và chưa trải nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, khi con chưa tự tách mình ra khỏi ngã tách biệt, thì con cho rằng con đang có cảm xúc đó. Con cảm thấy con đang có cảm xúc đó, nhưng kỳ thực con không đang có nó. Và chìa khóa ở đây là cái Ta Biết cần nhận biết điều này.

Điều này không có nghĩa là con sẽ nhất thiết khắc phục mọi cái ngã tách biệt, hay con phải khắc phục mọi cái ngã tách biệt, nhưng con có thể đạt tới sự nhận biết rằng mình là nhiều hơn ngã tách biệt. Do đó khi con đang “có” một cảm xúc nào đó, con nhận ra: “À, đây là một cái ngã tách biệt đang có cảm xúc này, nhưng tôi là nhiều hơn ngã tách biệt này.” Không có nghĩa là con có thể tức khắc vứt bỏ ngã tách biệt đi. Có thể ngã tách biệt vẫn có một cảm xúc.

Giả dụ con trải nghiệm một tình huống thật động cảm như khi có điều gì khó chịu xảy ra cho ngã tách biệt, một điều mà ngã tách biệt không muốn xảy ra. Do sự kiện này, ngã tách biệt có một cảm xúc nào đó, nhưng con nhận ra là con không phải là ngã tách biệt, cho nên mặc dù cảm xúc có mặt trong cảm thể của con, con không bị lôi cuốn vào đó. Con không bị đồng hóa với nó. Con trải nghiệm cảm xúc từ bên ngoài. Con không ở trong – nếu có thể nói như vậy – cái bình thủy tinh chứa đầy nước bị cảm xúc tô màu. Con không bị chết chìm trong cảm xúc. Con đứng bên ngoài. Con đang thấy có cái bình thủy tinh đó có nước đang xoáy xoáy đó, và nước thì đang bị một cảm xúc tô màu. Nhưng con để yên cho nó là một cảm xúc. Con không cần phản ứng lại.   

Điều này có nghĩa là con có khả năng phá vỡ vòng xoắn ốc cảm xúc mà trong nhiều trường hợp – khi một tình huống đau buồn xảy ra – có một cái ngã sẽ phản ứng lại tình huống qua cảm xúc: “Ồ, chuyện này đáng lý không được xảy ra.” Rồi một cái ngã khác bước vào và cảm thấy tức giận hay nuối tiếc, hay sẽ đổ lỗi cho con đã hành xử như vậy hay con không hành xử như đáng lý con phải hành xử. Thế là bỗng dưng có vòng xoắn ốc đó nổi lên, nó quay và nó quay như thể tất cả những cái ngã tách biệt kia đang khích động lẫn nhau, và toàn bộ sự nhận biết của con bị cuốn hút vào đó và con không thể gỡ mình ra khỏi nó. 

Một khi con đạt đến điểm nhìn nhận rằng con không phải là ngã tách biệt, con có thể cho phép các cảm xúc đó đơn giản có mặt, nhưng chúng không chiếm đoạt được tâm con. Thật ra con có thể bước ra ngoài cảm thể, có lẽ bước lên trí thể, thậm chí bước lên bản sắc thể, và con chỉ đơn giản trải nghiệm các cảm xúc đó từ bên ngoài thay vì từ bên trong, và điều này sẽ giúp con chịu được chúng dễ dàng hơn rất, rất nhiều.   

Nhị nguyên không liên hệ hay tùy thuộc vào không gian

Hỏi: Con xin nói về nhị nguyên, không phải về ý niệm tốt xấu mà về ý niệm không gian. Đôi khi con có thể làm tan biến khoảng cách giữa chính mình và vật mình nhận thức – tức là tiến trình khách quan hóa, vật hóa (objectification) – và con thấy tất cả đều xảy ra trong khoảng không gian mà TA LÀ. Ngoài ra cũng có sự kiện con tách xa khỏi trải nghiệm qua việc cách ly và làm tan biến trải nghiệm, khi con nghiệm thấy là tất cả những gì ở trong con cũng là chính con như một tâm thức. Có rất nhiều lời dạy về làm thế nào chúng con có thể vượt khỏi thời gian bằng cách sống trong hiện tại vĩnh cửu. Vậy có lời dạy nào hay không để giúp chúng con xóa tan ảo tưởng không gian?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Nhị nguyên tự thân nó không dính dáng gì đến không gian. Nhị nguyên không liên hệ với không gian hay tùy thuộc vào không gian. Tự thân không gian không nhị nguyên. Hiển nhiên, theo một nghĩa nào đó, không gian có thể khuyến khích nhị nguyên vì không gian cho con trải nghiệm mình là một sinh thể địa phương cục bộ, nhìn mọi vật từ một góc nhìn đặc thù trong không gian. Thậm chí nó còn cho con một cảm giác vị trí vật lý nhất định khi con xoay 360 độ và nhìn quanh cơ thể vật lý của mình.

Điều này có thể cho con cảm giác: “Đây là tôi, và ở đó là cái gì khác. Cái đó nằm ở ngoài tôi,” khiến có nhiều xác suất con sẽ chấp nhận những quan điểm nhị nguyên, nhưng nền tảng của nhị nguyên là sự hiện hữu của hai đối cực rồi thêm vào đó một sự phán xét giá trị. Tự thân nó, không gian không mang một phán xét giá trị nào.

Các thày đã có trao truyền, đặc biệt là thày Gautama, nhiều lời dạy về không gian, và con có thể tìm các bài truyền đọc này để học hỏi. Đây là những giáo lý có thể giúp con có một tầm nhìn khác hơn về không gian.

Thập niên 2020 dành cho tình trạng của phụ nữ

Hỏi: Từ năm 2013, mỗi năm đã được dành riêng ra để học hỏi về một tia sáng tâm linh, bắt đầu từ tia sáng thứ nhất. Năm ngoái là năm của tự do, là tia sáng thứ bảy. Vậy năm nay 2020 là điểm đạo về đề tài gì, phải chăng là sự hội nhập cả bảy tia?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiệng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Chúng tôi, các chân sư, đã không quyết định dành riêng năm nay cho một tia sáng nào vì chúng tôi muốn tập trung mười năm tới cho tình trạng của phụ nữ. Con có thể, nếu con muốn, tiếp tục và học hỏi tia sáng thứ tám cho năm nay, nhưng chúng tôi đã không chính thức dành hẳn toàn bộ sự tăng triển của hành tinh cho tia sáng này.

Về lòng gắn bó với người khác

Hỏi: Từ rất lâu, con đã cố gắng trừ bỏ những phàm linh đằng sau sự dính mắc của con đối với quá khứ, đặc biệt với những người mà còn từng có quan hệ hay những người đã khuất. Nhưng con không thể nào buông những phàm linh đó ra. Con đã chân thành sử dụng các dụng cụ được chỉ dạy và con đã cố tu sửa tâm lý của mình, nhưng con thấy rất ít tinh tấn. Xin thày vui lòng nhận xét về những niềm tin đứng đằng sau xu hướng khi chúng ta kháng cự lại không buông bỏ những người mà chúng ta đã từng có quan hệ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 5/9/2020.

Đây là một câu hỏi phức tạp vì nguyên nhân khiến con gắn bó với một số người thật là cá nhân. Nhưng chúng ta có thể nói đến một số nhóm chính. Nói cách khác, niềm tin cụ thể mà con có như một cá nhân có thể là một niềm tin rất đặc trưng, nhưng nó thuộc về một số loại người nhất định.

Một loại người là khi con có một cái ngã muốn tận tụy giúp đỡ những người đó. Một số avatar đã đầu thai cùng với sa nhân khi họ đến địa cầu lần đầu tiên, và họ đã hình thành một ý muốn mãnh liệt muốn cứu giúp sa nhân đó và đưa người đó vào con đường tích cực. Đối với loại tin tưởng này, ta khuyên con nên đọc quyển sách Những kiếp của tôi [My Lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus], trong đó có mô tả nhân vật chính đã trải qua nguyên một tiến trình tự giải thoát khỏi mọi dính mắc với Lucifer, tức dòng sống mang tên Lucifer trong sách.

Con cũng có thể bị dính mắc với việc giúp đỡ các avatar khác hay giúp đỡ các dòng sống là cư dân nguyên thủy trên địa cầu. Và ở đây, con cần bắt đầu nhìn vào quyền tự quyết, hay ý chí tự do. Con cần bắt đầu nhìn nhận là mọi người khác đều có quyền tự quyết của họ, cho nên con không thể cứu được ai cả. Con không thể thay đổi được ai cả. Đây có thể là một cuộc khai ngộ khó khăn để con vượt qua. Vị sứ giả này đã bỏ ra bao nhiêu năm trời phấn đấu với vấn đề này trong nội tâm của ông cho đến khi ông ngộ ra là ông phải buông bỏ mọi mong muốn thay đổi người khác – bởi vì nếu không, nó sẽ giam ông trong một vòng luẩn quẩn cho đến hết kiếp này và có thể còn lâu hơn nữa.

Con cần nhận ra ở đây là con có quyền tự quyết cá nhân của con và người khác cũng có quyền tự quyết cá nhân của họ. Con cần giải thoát ý chí tự do của con ra khỏi ý chí tự do của người khác. Đây là cách duy nhất để con giúp cho ý chí tự do của con được thực sự tự do. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con là một học trò của chân sư thăng thiên và nếu con thành thật mong muốn hội đủ tư cách thăng thiên trong kiếp này, con không thể bị dính mắc vào những ai có thể sẽ không thăng thiên sau kiếp này. Do đó con phải gắng sức về điểm này, con cần nhìn ra những cái ngã đó và để cho chúng chết đi. Nếu con có dính mắc thì hiển nhiên cũng có một cái ngã mà con chưa nhìn thấy, vì vậy con cần nỗ lực cho tới khi con thấy được nó, và con cần tiếp tục sử dụng các dụng cụ cho tới khi con thấy được nó.

Một loại người khác là con có thể có một cái ngã mong muốn kiểm soát người khác, cho nên con sẽ không buông cho người đó ra đi, vì con cảm thấy con phải giữ lại một chút kiểm soát. Điều này lại có thể xuất phát từ một ý muốn lành mạnh muốn giúp đỡ người kia, nhưng đó vẫn là một cái ngã kiểm soát, nó muốn kiểm soát hay thậm chí muốn sở hữu người kia. Ta không nói đây là trường hợp của đa số những người tâm linh, nhưng tất cả các con đều có thể đang mang những cái ngã được tạo ra từ rất lâu về trước mà con chưa buông bỏ. Con cần sẵn lòng nhìn vào điều này.

Sự kiện cơ bản là như sau: Bất kỳ dính mắc nào cũng đến từ một cái ngã tách biệt. Nếu con vẫn còn một dính mắc thì con vẫn có một cái ngã tách biệt mà con chưa thấy. Cho nên con hãy dùng các dụng cụ mà các chân sư đã ban cho con, con hãy suy ngẫm các lời dạy, nhìn vào bản thân, xem xét các tin tưởng của mình. Tại sao con lại dính mắc với người đó, điều gì con cảm thấy mình phải làm, điều gì con thực sự cảm thấy đã phải xảy ra hay đã không được xảy ra? Và con hãy tiếp tục làm vậy cho đến khi con phơi bày được những niềm tin vi tế mà con mang đang giữ con dính chặt với người kia. Tất cả đều xoay quanh sự kiện là con tin rằng mình phải làm một việc gì đó trên địa cầu.

Như vị sứ giả này đã mô tả, một khi con giải quyết chấn thương nhập đời của con, ngã gốc của con cùng những cái ngã tách biệt khác, con sẽ tới điểm nhận ra điều này: rằng ở nơi đây trên trái đất, không có công việc gì mà con phải làm. Không có điều gì mà con bị bắt buộc phải làm, không có điều gì mà con bị ép buộc phải làm. Rất có thể con vẫn sẽ làm một số công việc vì con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng những việc này không xuất phát từ một cái ngã tách biệt.

Cái Ta Biết ở đâu vào ban đêm khi con ngủ?

Hỏi: Cái Ta Biết ở đâu vào ban đêm trong khi con ngủ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 10/7/2020.

Điều này tùy thuộc vào mức tâm thức của con. Nếu con bước chân trên đường tu tâm linh và có một mức tâm thức cao hơn, cái Ta Biết thường đi tới những nơi mà các thày gọi là các Lớp Nhập thất trên cõi ê-the của chân sư thăng thiên. Nơi đó, con sẽ nhận được nhiều loại hướng dẫn, và thỉnh thoảng khi tỉnh giấc, con có thể nhớ lại là mình đã tham dự nhập thất. Nhưng nhiều khi, con không giữ được ký ức này mặc dù con vẫn nhận được sự trợ giúp trong các lớp nhập thất đó.

Tất nhiên, đại đa số mọi người trên địa cầu không đang bước chân trên đường tu, cho nên cái Ta Biết của họ không thể thoát ra khỏi cơ thể và nó chỉ đơn giản ở lại với cơ thể vào ban đêm. Đôi khi nó không tập trung vào cơ thể vật lý mà nó có thể, chẳng hạn, bước vào cảm thể, và đây chính là tại sao người ta có ác mộng.

Cũng có một số ngươi mang lỗ hổng trong hào quang của mình, khiến cái Ta biết có thể rời xác thân vật lý để ngao du đến những vùng khác, hoặc trong cõi vật lý hoặc trong cõi trung giới, thậm chí đôi khi đến cả cõi lý trí. Ở đó, họ kinh qua một số trải nghiệm mà một số người có thể nhớ lại khi tỉnh dậy.

Vật chất tối và năng lượng tối

Hỏi: Con xin có câu hỏi về vật chất tối (dark matter) và năng lượng tối (dark energy). Có sự tương ứng nào hay không? Chẳng hạn, liệu vật chất tối tương ứng với các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, còn năng lượng tối tương ứng với cõi tâm linh? Thực sự chúng là gì? Người ta có thể tìm tòi nhiều hơn về chúng hay không? Và liệu chúng có thể đem lại nhiều hiểu biết hơn về cấu trúc của vũ trụ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 10/7/2020.

Sự phân biệt giữa vật chất tối (dark matter) và năng lượng tối (dark energy) thật ra là giả tạo. Đó là vì các nhà khoa học đã chưa nhảy được bước nhảy vọt lượng tử để chấp nhận hệ quả triết lý của ngành vật lý lượng tử, thậm chí cả thuyết tương đối, cho thấy rõ là mọi thứ đều là năng lượng và không có gì thực sự là vật chất. Vật chất chỉ đơn giản là một khái niệm được tạo ra bởi giác quan con người. Trên thực tế, tất cả đều là năng lượng.

Các lý thuyết về vật chất tối đã đưa vào nhận biết vật lý của con người – hay đáng lý phải đưa vào nhận biết vật lý của con người – quan niệm rằng cõi vật lý chỉ là một khoảng năng lượng nhỏ bé trong một toàn thể liên tục gồm nhiều năng lượng khác. Vật chất kỳ thực là năng lượng, và có nhiều dạng năng lượng khác vượt ngoài cái được gọi là vật chất vật lý hay năng lượng vật lý.

Cái mà các nhà khoa học hiện đang quan niệm là vật chất tối và năng lượng tối, thật sự là các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc. Cộng thêm với cõi vật lý, toàn bộ năng lượng của bốn cõi này cấu tạo cái mà trong góc nhìn thăng thiên được gọi là vũ trụ vật chất. Các nhà khoa học đã nhận xét một cách chính xác khi, chẳng hạn, họ không thể giải thích được cách chuyển động của các thiên hà duy chỉ bằng trọng lực của cái thường được gọi là vật chất. Nhất định phải có những loại lực khác tác động lên thiên hà khiến chúng chuyển động như vậy. Và hiện tượng này là do lực kéo – không cứ là trọng lực – của các năng lượng trong các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc.

Vật chất tối và năng lượng tối không phải là cõi tâm linh vì cõi này vượt hẳn mọi khả năng hiểu biết hiện tại của khoa học. Tất nhiên, tiến bộ vượt bực sẽ có thể đạt được nếu khoa học bắt đầu tìm hiểu những vấn đề này nhiều hơn. Thậm chí trong tương lai cũng có thể có một số dụng cụ hay kỹ thuật mà ta có thể truyền rải để khoa học hiển thị loại năng lượng này và khởi sự nghiên cứu.    

Dĩ nhiên người ta cũng có thể nghiên cứu qua kinh nghiệm trực giác để hiểu biết thêm về vấn đề này. Chẳng hạn, cách đây một vài năm, người ta có nói đến một hiện tượng rất nổi tiếng, ít ra ở một số nơi trên thế giới, là ý tưởng du hành trong cõi vía (astral travel) qua đó con người có thể được huấn luyện để du hành đến các nơi chốn xa xôi và quan sát từ xa. Hiển nhiên đó là vì con người có khả năng du hành trong cảm thể hay trí thể của mình để đến một nơi khác và quan sát những gì cần quan sát ở đó.

Hiện đã có một số chỉ dấu về sự kiện này. Nhiều nhà ngoại cảm có nhận thức về các cảnh giới đó. Và chỉ là một vấn đề thời gian trước khi loài người đạt được một túc số tới hạn, và khi đó một sự chuyển vọt sẽ xảy ra và một số lớn hơn, hay một số đủ, các nhà khoa học sẽ sẵn sàng tuyên bố: “Đây là một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu. Và để tìm hiểu trọn vẹn, chúng ta cần mở rộng hệ tư tưởng hiện tại của chúng ta. Chúng ta cần nhìn xa hơn một hệ tư tưởng duy vật quá cứng nhắc, vì nếu không, chúng ta sẽ không có cả khả năng tư duy để khái niệm hóa những gì vượt ngoài cõi vật lý.”

Người với tâm thức thấp quyết định kiếp đầu thai tới như thế nào

Hỏi: Các chân sư dạy rằng một số người bước vào một trạng thái giống như hôn mê khi họ ở giữa hai kiếp đầu thai. Vậy làm thế nào họ có thể có quyết định về kiếp đầu thai kế tiếp của họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 8/7/2020.

Có rất nhiều người với một trạng thái tâm thức thấp sẽ đơn giản không có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên để nhận được sự hướng dẫn giữa hai kiếp đầu thai. Như con nói, có một số đi vào một trạng thái giống như hôn mê, nhưng có những người đi vào các tầng thấp nhất của cõi trung giới và những người này thì thật sự họ không lấy quyết định, họ không lấy bất cứ quyết định nào về kiếp sống tới của họ. Họ bị ném – nếu có thể nói như vậy – vào kiếp kế tiếp bởi các hoàn cảnh nghiệp tạo của họ. Con hiểu ở đây là các thày đã có cho con giáo lý là nghiệp quả có những tầng cấp khác nhau.

Khi con bước chân trên đường tu tâm linh này và nếu con sẵn lòng chuyển đổi tâm thức, không nhất thiết là nghiệp của con từ tiền kiếp sẽ thị hiện trong cõi vật lý vì khi xung lực nghiệp quả quay trở về con, con không có bất cứ gì trong ba thể cao để nhân xung lực đó lên. Và tất nhiên trước khi con bước vào kiếp đầu thai kế tiếp, các chân sư thăng thiên sẽ khuyên con cố đạt được điều này.

Nhưng nếu con không thể tiếp nhận sự hướng dẫn này, và nếu con không cởi mở ngay cả với việc thăng vượt mức tâm thức của con, thì nghiệp của con sẽ đi xuống cõi vật lý, và như vậy nghiệp sẽ định đoạt kiếp tới của con là gì. Nghiệp sẽ đơn giản quyết định giùm con vì con không có khả năng hay ý muốn tự quyết định lấy.

Đấng Sáng tạo có vô hạn?

Hỏi: Có ai nói rằng Đấng Sáng tạo vô hạn khi ngài chưa phân chia. Một khi ngài tự phân chia ở bên trong ra thành Alpha và Omega, ngài không còn vô hạn nữa. Có thể nào giải thích được điều này? Ý nghĩa điều này là gì và “vô hạn” là gì trong trường hợp này?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 cho Sự Giải phóng của Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Con yêu dấu, con cần hiểu ở đây – hay đúng hơn, con cần chiêm nghiệm thực tại – rằng tư duy đường thẳng có một số giới hạn. Tâm đường thẳng không làm sao hiểu được điều gì vượt ngoài thế giới đường thẳng. Trên địa cầu con có một số từ mà con không thể nắm bắt được với tâm đường thẳng. Một trong số những từ này là “vô hạn”, một từ nữa là “vô điều kiện”. Tâm đường thẳng chịu thua, không làm sao nắm bắt được.

Vậy Đấng Sáng tạo không thật sự vô hạn, nhưng vì phải dùng từ, cho nên “vô hạn” là một từ khả dĩ dùng được, vì nó ngụ ý một cái gì vượt khỏi cái có hạn, vượt khỏi thế giới hình tướng. 

Đấng Sáng tạo không tự phân chia ra để tạo ra tạo vật, để tạo ra Alpha và Omega. Đấng Sáng tạo vẫn là Đấng Sáng tạo, ngài vẫn không bị phân chia – vô hạn, nếu con muốn dùng từ này. Cho nên Đấng Sáng tạo có thể sáng tạo nhưng ngài không trở thành tạo vật của ngài.

Đây là một điểm khác biệt giữa đồng sáng tạo và sáng tạo. Là một vị đồng sáng tạo, con sáng tạo như thế nào? Con sáng tạo qua bốn tầng của tâm thức con và con sống bên trong bốn thể này. Do đó, trong một nghĩa nào đó, con trở thành cái mà con sáng tạo, con bị mắc kẹt lại trong tạo vật của con. Đấng Sáng tạo không như vậy, Đấng Sáng tạo vẫn là Đấng Sáng tạo.

Đo mức độ tâm thức

Hỏi: Liệu có một chỉ số hay những chỉ dấu nào cho thấy mức độ tâm thức của một người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 8/10/2019.

Con yêu dấu, tất nhiên là người ta có thể lập ra đủ loại chỉ số khác nhau, nhưng có một cách thật giản dị, đó là nhìn vào mức độ vị kỷ của con người, mức độ xem mình là trung tâm cuộc sống. Một dấu hiệu khác là khi con đến gần hơn quả vị Ki-tô và đặc biệt là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, tâm con sẽ ngày càng trung hòa hơn, an bình hơn.

Con ngày càng it bị thôi thúc phải làm những chuyện ngoài đời vì càng ngày con càng ít những cái ngã tách biệt áp lực con phải hành động hay phải phản ứng lại một cách nào đó. Cho nên con ngày càng phản ứng ít hơn trước các điều kiện của thế gian. Chúng không còn phiền hà con nữa, chúng không nhào nặn được con là ai. Điều này không có nghĩa là con không hành động, nhưng con hành động trong cái tâm an bình mà các thày đã gọi là không dính mắc, con hành động trong tâm trung dung thay vì luôn luôn bị thôi thúc phải làm một cái gì đó. Đây là những chỉ dấu rất tốt mà con có thể ghi nhớ.  

Con có thể nghĩ ra nhiều loại chỉ dấu khác. Đương nhiên, con có thể dựng ra cả một hệ thống đo đạc, nhưng các chân sư cảm thấy làm như vậy sẽ đẩy người ta vào một lối tư duy vô cùng trí thức và phân tích. Người ta sẽ dễ dàng có thái độ muốn so sánh, và người ta bắt đầu tự so mình với người khác, hay tự so sánh với nhau trong một nhóm, rồi lập ra những băng nhóm toàn những người cho mình là đã đạt một cấp độ chỉ số nào đó. Hiện tượng này đã xảy ra trong những tổ chức học giáo lý của chân sư trước đây, và chúng tôi thực sự không muốn khuyến khích sự thể này.

Trên căn bản, con hãy đừng lo lắng gì đến mức độ tâm thức của người khác. Con hãy lo tâm thức của con mà thôi, nhưng như vị sứ giả này có nói, sẽ đến một lúc khi thực sự con sẽ vượt quá cả nhu cầu muốn lượng định xem mình đang ở mức nào hoặc so sánh mình với bất cứ gì. Con chỉ tập trung vào việc tự biểu đạt chính mình ở mức mà mình đang ở, và con cố gắng bước lên những mức cao hơn. Con thực sự không quan tâm đến việc đánh giá, gán một con số cho cái này cái kia, hay bất kỳ một sự lượng định nào khác.

Trong một ý nghĩa nào đó, con có thể nói là con sẽ biết mình đang ở một mức cao hơn khi con cảm thấy mình tự do hơn để biểu đạt con người thực của mình, biểu đạt con người mà mình là, và tận hưởng sự kiện mình đang đầu thai.

Con đang ở tầng tâm thức nào?

Hỏi: Làm thế nào chúng con có thể xác định mình đang ở tầng tâm thức nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Con yêu dấu, cách duy nhất để con thực sự xác định là qua trực giác. Thật không xây dựng chút nào nếu có ai đó – ngoài con ra – bảo cho con chuyện đó, chẳng hạn như chúng tôi các chân sư thăng thiên nói cho con biết con đang ở tầng tâm thức nào. Con cần cảm nhận bằng trực giác. Tất nhiên, do sự kiện con đã mở tâm ra với các lời dạy này, con có thể nói là có xác suất rất cao là con ở trên tầng 48.

Đó mới là điều thực sự quan trọng cho con, vì khi đó con có thể theo học khóa Con đường Tự Điều ngự, để nâng cao tâm thức mình qua bảy tia sáng và đạt đến tầng 96, rồi con có thể tu tập tiếp với các quyển sách cùng giáo lý khác để vượt lên cao hơn tầng 96. 

Nếu chỉ quan sát cách con cư xử vỏ ngoài thì thật không dễ biết được con đang ở tầng nào. Nếu con đã mở tâm ra với các lời dạy này như ta vừa nói, hay thậm chí con có thể nhìn vào người khác và nói: Nếu người đó không hung hãn, nếu họ không cố tình muốn kiểm soát người khác, hay nếu họ không sẵn lòng dùng bạo lực, ngay cả bạo lực tâm lý, thì rất có thể họ ở trên tầng 48.

Giữa tầng 48 và 96, có thể con sẽ khó lòng xác định được mình ở tầng nào, nhưng liệu điều này có thực sự quan trọng hay không? Khi con đến tầng 96, con sẽ phần nào có cảm nhận trực giác là mình đã đạt tới mức đó, vì đó là tầng cấp nơi con cần lấy quyết định: “Liệu tôi sẽ tiếp tục con đường nâng cao ý niệm bản ngã tách biệt của tôi, hay giờ đây tôi sẽ bước lên con đường cao hơn dẫn đến quả vị Ki-tô, nơi tôi sẽ không tìm cách tôn vinh hay nâng mình lên cao mà sẽ tìm cách phụng sự tổng thể, tìm cách khắc phục mọi cái ngã tách biệt?”

Có những người có thể rất bận tâm với vị trí tâm thức của mình, thậm chí còn bị ám ảnh về chuyện này. Ta có thể cam đoan với con là những ai bị ám ảnh bởi việc đánh giá tầng cấp tâm thức của mình, hay những ai cứ không ngừng đánh giá tầng cấp của người khác, thì họ không phải là người ở mức tâm thức cao lắm.   

Kỳ thực, một số những người đó có thể ở tầng 96 nhưng họ đã không lấy quyết định bước vào đường tu thực sự. Họ vẫn chưa buông bỏ ngã tách biệt, và điều này có nghĩa là họ sẽ bắt đầu tuột trở xuống. Điều có thể xảy ra là họ không hề hay biết mình đã bắt đầu tuột từ tầng 96 đi xuống. Họ vẫn giữ ảo tưởng là mình chứng đạt cao siêu. Và tất nhiên, đó là tại sao họ không thể buông bỏ ham muốn tôn vinh bản thân và xây đắp khả năng của ngã tách biệt. Có những người bị đi vào những loại ngõ cụt như vậy.

Lại có những người khác đạt đến một mức tâm thức nào đó, rồi họ tự đặt mình vào địa vị một bậc thày tâm linh, có người còn tự xưng mình đã giác ngộ trong khi kỳ thực họ vẫn chưa đặt chân lên đường tu chân chính của quả vị Ki-tô. Thật ra họ đang đi trên con đường tay trái.

Như chúng tôi có nói, khi con theo đường tà đạo thì con có thể tạo ra một dáng vẻ tinh thông bề ngoài. Nếu đầu tiên con đến được tầng 96 rồi bị trượt xuống từ đó, con có thể có một số khả năng sẽ làm chóa mắt những ai ở mức tâm thức thấp hơn. Đó là cách mà một số người đã tự đặt mình vào địa vị một bậc thày hay một đạo sư. Điều họ thường làm là thu hút một đoàn tín đồ là những người mang sẵn nỗi bất an bên trong rồi bị quyến rũ đi theo vì họ thấy vị thày có vẻ rất tự tin, nhưng vị thày này sẽ kéo họ xuống hố theo thày. Sứ giả này đã từng gặp một vài người làm y như vậy. 

Điều con cần nhận thức khi con là một đệ tử tâm linh là con không nên bị ám ảnh, không nên quan tâm đến chuyện cấp bậc. Sẽ tới một điểm khi con thực sự bước vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô và con không quan tâm nữa. Con không quan tâm là con đang ở tầng 97 hay 120, mà con chỉ dõi tìm xem ảo tưởng kế tiếp, ngã tách biệt kế tiếp mà con cần giải quyết sẽ khởi lên ở đâu, và chuyện kia thì sẽ tan biến mất.

Tầng tâm thức nơi con đang đứng không có gì quan trọng. Vì khi con bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, con không có bất kỳ nhu cầu nào đứng cao hơn người khác, đứng tách riêng khỏi người khác, hay cảm thấy minh vượt trội hơn người khác. Cho nên một chỉ dấu cảnh báo mà con cần để ý là nhìn xem liệu con có nhu cầu cảm thấy hơn người, cảm thấy mình đặc biệt. Và nếu con có cảm giác đó trong con, một lần nữa con không cần cảm thấy xấu hổ, bởi vì con đang ở trên hành tinh địa cầu. Thay vào đó, con hãy nhận ra là cảm giác đó đến từ một cái ngã tách biệt, con hãy bỏ công ra để phát hiện nó, chạm trán với nó và để cho nó chết đi. Rồi sau đó con có thể đặt chân lên đường tu đích thực.

Ngã tập thể

Hỏi: Con muốn hỏi về cái có thể gọi là “ngã của tổ chức” hay “ngã của ngành nghề”. Chẳng hạn con làm giáo viên, và ngay khi con bước qua ngưỡng cửa ngôi trường của con, con khoác vào vai trò nghề nghiệp của một thày giáo. Con sẽ nói hay làm những gì mà bình thường con không nói hay làm, vì có một sự chờ đợi là con phải làm tròn một vai trò định sẵn và con cũng cảm thấy bắt buộc phải làm tròn vai trò này. Xin các chân sư vui lòng bình luận làm thế nào con có thể đối phó một cách xây dựng với những loại ngã tổ chức hay ngã ngành nghề như thế mà không cưỡng lại chúng lẫn không bị chúng khuất phục.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Đây là một nhận thức quan trọng mà con đã đạt được. Như các thày có nói, bất kỳ công việc nào do con người tổ chức nói chung cũng sẽ tạo ra với thời gian một cái ngã tập thể nào đó, một tà thể đại chúng nào đó. Và tất nhiên, nhiều ngành nghề có ngã tập thể.

Thực tế là nếu con bước vào một môi trường như vậy, chẳng hạn như khi con trở thành một thày giáo, hay con bước vào một cơ sở kinh doanh, gia nhập quân đội hay bất cứ gì khác, con sẽ khoác vảo ngã này ở một mức độ nào đó, con sẽ cần làm tròn các yêu cầu để gia nhập và thực hiện chức năng ở đó. Chẳng có ích gì mà con phải nổi loạn chống lại, tạo ra căng thẳng và sự chống đối. Con cần tìm ra thế cân bằng cá nhân của mình, giống như khi Giê-su nói: “Cái gì của Cesar hãy trả cho Cesar, và cái gì của Thượng đế hãy trả cho Thượng đế.”

Con có thể nhận ra là có một môi trường, có một nét văn hoá, có một sự chờ đời nào đó, và đúng vậy, có một con quái vật tập thể. Để có thể làm việc trong môi trường đó, con cần tuân theo những luật lệ đó. Nhưng con cũng có thể không quy hàng và tuân thủ mọi luật lệ, chắc chắn con có thể không quy hàng để tự đồng hoá mình với môi trường cùng con quái vật tập thể. Để làm được như vậy một cách trọn vẹn, con cần nhìn lại chính mình, nhìn xem cách phản ứng của mình là gì, mình phản ứng thế nào đối với môi trường, thấy được nó xuất phát từ những cái ngã tách biệt, rồi con bắt đầu giải quyết những ngã tách biệt này.

Điều xảy ra trong nhiều trường hợp là nhiều người bị thu hút vào một ngành nghề, chẳng hạn, vì lý do họ muốn khắc phục những cái ngã mà họ biết sẽ kích hoạt khi họ đi vào môi trường đó. Cho nên con có thể nhìn sự việc này một cách tích cực, xem đó là một kinh nghiệm học hỏi, rồi sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con để giải quyết những cái ngã đã khiến con phản ứng lại môi trường đó – cho dù phản ứng của con là cưỡng chống hay khuất phục.

Một khi con đã giải quyết các ngã đó, một trong hai điều sẽ xảy ra. Hoặc con có thể ở lại trong môi trường mà đã thoát khỏi con quái vật tập thể, có nghĩa là con có thể làm gương cho người khác cũng thoát ra như con. Hoặc con đạt tới điểm nói rằng: “Thôi như vậy là đủ rồi. Bây giờ tôi cần bước tới và chuyển sang một môi trường khác, một nghề nghiệp khác, bất kể đó là gì.”

Về việc đốt nhang

Hỏi: Có rất nhiều người tâm linh đốt lá xô thơm (sage) hay thắp hương, thắp nhang để tẩy sạch những năng lượng tiêu cực hay những tà thể trong nhà ở và quanh cơ thể. Xin thày giúp con hiểu tại sao và làm thế nào hương khói có thể làm được chuyện đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 về Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 5/7/2020.

Thật ra không phải là khói mà là sự rung động phát ra khi đốt các chất đó. Ta vừa trình bày về tinh thể (crystals) và ta có nói là con không thể để cho bước tăng triển tâm linh của con bị phụ thuộc vào một chất vật lý nào cả. Một lần nữa, có những người ở một mức tâm thức nào đó có thể hưởng lợi – hay ít ra hưởng một lợi ích mà họ cảm nhận – từ việc đốt nhang. Có một số loại nhang, chẳng hạn như nhang cây thông (pine) có thể xua đuổi tà thể, tương tự như chất thép không rỉ có thể đâm cắt vào tà thể khiến chúng bị khó chịu và phải rút lui.     

Nhưng khi con đã mở tâm ra để nhận giáo lý của đợt truyền pháp này, con không nên tin rằng làm như vậy tự nó là đủ. Con đã có những lời dạy, con có những bài chú cho Astrea và Đại thiên thần Michael, con có lời kêu gọi Shiva – vậy con hãy dùng đi. Nhưng xa hơn nữa, con hãy sử dụng các dụng cụ để chữa lành tâm lý của mình, hầu các tà thể đó không còn xâm nhập được vào tâm thức mình. Con không còn chấn thương nào để chúng có thể sử dụng mà ảnh hưởng được con nữa. Và như vậy, con sẽ thực hiện được yêu cầu của Giê-su là: “Ông hoàng của thế gian có thể đến nhưng y chẳng nắm được gì trong tôi”.  

Virút corona là tự nhiên hay do con người?

Hỏi: Liệu siêu vi corona có là siêu vi khuẩn tự nhiên, là phản ứng của thiên nhiên đối với một cách tiếp cận mất cân bằng như việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách tham lam, v.v… hay là do con người tạo ra, chẳng hạn như giới thượng lưu cầm quyền mong muốn kiểm soát dân chúng chặt chẽ hơn và hạn chế tự do?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 cho Giải phóng phụ nữ. Đăng ngày 4/7/2020.

Con yêu dấu, chúng ta cần xét xem con muốn nói gì qua từ “tự nhiên”. Liệu trên địa cầu có điều gì tự nhiên hay không? Trong cách nhận thức của quần chúng hiện có sự phân chia giả tạo giữa tự nhiên và không tự nhiên. Người ta thường nghĩ: “Ở trong này là lãnh vực hoạt động của con người, còn ở ngoài kia là lãnh vực của thiên nhiên. Cái ở ngoài kia là tự nhiên, còn cái ở trong này là nhân tạo.”  

Nhưng các chân sư đã nói gì với con? Tâm thức đến trước, sự thị hiện vật lý đến sau. Tất cả mọi thứ trên địa cầu đều bị tác động bởi tâm thức tập thể của nhân loại. Vũ trụ vật chất có bốn tầng cõi: bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Những gì xảy ra trong cõi vật lý là kết quả của những gì xảy ra trong ba cõi cao hơn. Điều đó có nghĩa là bất cứ gì trên điạ cầu cũng bị ảnh hưởng bởi tâm thức con người.  

Con thực sự không thể nói trên trái đất có gì là “tự nhiên”, trong ý nghĩa là nó không bị con người ảnh hưởng. Ngay cả cái con gọi là thiên nhiên cũng bị con người ảnh hưởng. Mật độ của vật chất cũng bị con người ảnh hưởng. Sự kiện virút hiện diện trên hành tình này là hệ quả trực tiếp của mức độ thấp kém của tâm thức tập thể.

Với tâm thức tập thể đang nâng lên để bước vào Thời Hoàng kim của Saint Germain, sẽ tới một lúc khi mọi virút sẽ biến mất bởi vì chúng sẽ không thể hiện hữu với mức tâm thức cao hơn như thế, nhưng ngay bây giờ thì chúng còn tồn tại. Virút không phải là một sự thể tự nhiên. Như chúng tôi có giải thích, đó là một sự tạo dựng nhân tạo, là sự trình chiếu của trạng thái tâm thức sa ngã không muốn tự thăng vượt.

Nhưng tất nhiên khi ta nói vậy không có nghĩa là ta tán thành tất cả các thuyết âm mưu đang được lưu truyền khắp mọi nơi. Có một sự cân bằng rất tinh tế ở đây. Các học trò của chân sư rất cần tìm được sự cân bằng đó. Con có thể sử dụng các dụng cụ tâm linh của chân sư nhằm chữa lành tâm lý của con, vượt qua những cái ngã và bảo vệ trường năng lượng của con để ngăn chặn sự xâm nhập của những năng lượng vô cùng hung hãn đứng đằng sau những thuyết âm mưu này.

Con cần nhận ra là tất cả mọi thuyết âm mưu đều có một con quái vật tập thể đứng đằng sau nơi các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Mỗi khi con để ý đến một thuyết âm mưu thì con cũng tạo ra một sơ hở cho năng lượng chúng xâm nhập vào. Như con thấy, ngay cả một số học trò của chân sư, đặc biệt là trong các đợt truyền pháp trước có nhiều sợ hãi, đã bị các tà thể đứng đằng sau thuyết âm mưu cưỡng chiếm cả tâm trí lẫn luân xa. Ngay cả ngày nay vẫn có một số bị xâm chiếm như vậy.  

Con phải rất thận trọng về chuyện này. Con cần tìm ra một sự cân bằng. Một đằng, con không được vô ý thức như một người trung bình, nghĩa là con cần ý thức rằng có rất nhiều chuyện bị thao túng trên hành tinh này, nhưng đằng khác con cũng không nên quá say mê theo dõi các thuyết âm mưu đang được tung ra với mục đích duy nhất là đánh lạc hướng những người hiểu biết hầu đẩy họ vào ngõ cụt, làm thui chột sự phát triển tâm linh của họ và ngăn chặn họ tác động tich cực lên xã hội.    

Sứ vụ thiêng liêng của một số người có ghi rõ là họ sẽ đóng góp tích cực vào việc đưa xã hội đi lên, nhưng họ lại bị lôi kéo vào các thuyết âm mưu này. Họ sẽ không hoàn thành được vai trò của họ trong sứ vụ thiêng liêng bởi vì họ bị rơi vào một quan điểm mất quân bình, đến độ hầu hết mọi người sẽ đều lắc đầu nói rằng: “Chúng ta không thể nghe lời anh chàng này vì anh ta quá cực đoan.” Con cần phải tìm được sự cân bằng. Con có thể nhìn thấy những sự ngụy tạo to lớn đang diễn ra trên địa cầu, tuy nhiên con không thể chờ đợi người khác sẽ ở một mức có thể nhìn thấy giống con. Con cần cho họ những gì liên quan trực tiếp với mức tâm thức của họ để từ đó họ mới bước lên cao hơn.  

Tâm lý chưa giải quyết đằng sau sự bùng phát coronavirus

Hỏi: Xin Elohim Cyclopea hay một vị chân sư nào khác có thể vui lòng bình luận về tâm lý chưa giải quyết đằng sau sự bùng phát của vi-rút corona? Và xin các thày chia sẻ với chúng con những lời dạy sẽ giúp chúng con thăng vượt tâm lý này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar vào tháng 5, 2020 cho sự Giải phóng của Phụ nữ. Đăng ngày 3/7/2020.

Con yêu dấu, con hãy biết vi-rút không thực sự là một dạng sống, ít ra không phải là cái mà bình thường con gọi là dạng sống. Vi-rút là một loại ký sinh trùng (parasite), và để sống còn, nó phải lệ thuộc vào một tế bào chủ (host cell) mà nó đã xâm nhập.

Dựa trên đó, con có thể thấy vi-rút không phải là một sự kiện tự nhiên, theo nghĩa nó không là kết quả của quá trình tiến hóa bình thường. Bởi vì ngay cả trên một hành tinh như địa cầu với vật chất dày đặc như thế này, quá trình tiến hóa bình thường vẫn tạo ra những dạng sống tự thân có khả năng sống còn và sinh sản – và nhờ vậy chúng có thể tăng trưởng, chúng có thể tự thăng vượt, tiến hóa thành những dạng sống khác, và trong quá trình tiến hóa đó có một hướng phát triển tuần tự. Nhưng với một số dạng sống như vi-rút, ký sinh trùng, thú vật độc hại v.v… con thấy là chúng không thể tồn tại một cách tự lực. Và khi con gặp những loại dạng sống đó thì con biết chúng không phải là kết quả của một quá trình tiến hóa tự nhiên trơn tru, mà là kết quả của một ảnh hưởng đến từ sa nhân cùng tâm thức sa ngã.

Trong các đợt truyền pháp trước, chúng tôi đã có đề cập đến các vi-rút cũng như cách thức mà chúng đã được sa nhân tạo ra bằng gen hoặc biến đổi gen nơi phòng thí nghiệm của các nền văn minh trong quá khứ. Nhưng ở đây ta không đặc biệt muốn đi sâu vào vấn đề này. Điều ta muốn nói là, vi-rút là sự biểu hiện, sự phóng diễn của tâm thức sa ngã trong cõi vật lý. Tâm thức sa ngã và các sinh thể sa ngã là một loại vi-rút, một loại ký sinh trùng vì chúng không có khả năng tồn tại một mình. Do chúng không còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh, từ Hiện diện TA LÀ của chúng hay từ các chân sư thăng thiên, cho nên để có thể sống còn, chúng phải xâm chiếm tâm của người khác và ép buộc những người này tha hóa năng lượng mà họ nhận được từ cõi tâm linh qua một độ rung thấp hơn.

Đây thực sự là cái tư duy đứng đằng sau một vi-rút – sự từ chối tự thăng vượt, từ chối thay đổi, vươn lên cao hơn, tiến hóa, phát triển. Và tất nhiên là có một mối liên hệ giữa tâm thức cùng tâm thức tập thể, và những khu vực nơi vi-rút có thể nhảy vào cõi vật lý, hay nhảy từ động vật sang con người.

Không phải ngẫu nhiên mà sự kiện này đã xảy ra tại Trung quốc, vì Trung quốc là một trong những quốc gia trên thế giới ngày nay còn bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức nơi người ta không muốn, hay không có khả năng, tự thăng vượt. Tâm thức này mang nhiều khía cạnh, trong đó phải kể đến cách người ta đối đãi với động vật, cách người ta đối xử với động vật ở chợ bán động vật, nhưng thêm vào đó cũng có cách người ta đối xử với con người. Và vấn đề hiển nhiên nhất ở Trung quốc ngày nay, tất nhiên, là việc từ chối thăng vượt chủ nghĩa cộng sản cùng ý thức hệ cộng sản.

Ở đây con có một quốc gia tư bản, nếu không nói là còn tư bản hơn cả Hoa Kỳ, với số nhà triệu phú cùng tỷ phú tăng nhanh chóng, thế nhưng họ vẫn khăng khăng tìm cách duy trì bộ mặt một thể chế cộng sản do một đảng cộng sản cai trị. Để dùng một câu nói quen thuộc, họ đang muốn phỉnh gạt ai đây? Họ chỉ gạt được chính họ thôi, phải không con? Tất nhiên đặc tính này đã hiện hữu từ hàng ngàn năm qua tại Trung quốc – và ngay cả trong vùng châu Á rộng lớn hơn – là xu hướng muốn đưa ra một bộ mặt. Bằng mọi cách, họ muốn duy trì bộ mặt đó. Họ muốn giữ thể diện.

Tất nhiên con cũng tìm thấy vấn đề này ở nhiều nơi khác trên thế giới, và ta không bảo là ở những xứ khác không thể có vi-rút bùng phát. Nhưng dù sao thì con thấy nó xảy ra rất nhiều tại Trung quốc. Và đây chính là nguyên nhân của vụ bùng phát này, sự biểu hiện của một tâm thức, là tâm thức không chịu thăng vượt chính nó, và con người thì không chịu tự thăng vượt chính mình.

Và thực sự, đây cũng là sự biểu hiện của tâm thức không chịu đứng lên đối mặt với sa nhân. Vì ai là những kẻ đang duy trì bộ mặt một đảng cộng sản nắm trọn quyền kiểm soát tại Trung quốc chứ? Đó là các sa nhân, vì chính sa nhân không những đã tạo ra chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa Mác mà chắc chắn cả đảng cộng sản Trung quốc cùng toàn bộ guồng máy quyền lực ở đó.

Khi con người không chịu đứng lên đối đầu với sa nhân thì cần phải có một cái gì khác sẽ lay chuyển tư duy đó, sẽ thách thức tư duy đó theo một cách khó phủ nhận hơn. Và ở đây con có một sự biểu hiện vật lý rất khó phủ nhận. Ta biết rất rõ Trung quốc đã phủ nhận điều này từ ít lâu nay, và nếu họ cởi mở và thẳng thắn hơn với WHO [Tổ chức Sức khỏe Thế giới] cùng với phần còn lại của thế giới, thì họ đã có thể giảm thiểu tác động của vi-rút này. Nhưng một lần nữa, đây lại là vấn đề xem trọng chuyện giữ thể diện cho đảng cộng sản một cách cuồng tín. Họ nghĩ là họ kiểm soát được tình hình, nhưng liệu họ có kiểm soát được vi-rút hay không? Không, và sự kiện này đã có một tác động trên tâm thức tập thể tại Trung quốc rồi. Trong tương lai, tác động này sẽ còn lớn hơn nữa. Tất nhiên các quốc gia Tây phương cũng bị tác động, vì hiển nhiên tại một số quốc gia Tây phương, người ta cũng bị rơi vào tâm trạng không chịu tự thăng vượt.

Con thử nhìn quanh nhiều nước mà xem và con có thể tìm thấy ít nhất một sự tương ứng hợp lý giữa số người bị nhiễm bệnh, số người bị tử vong do COVID-19, và tâm thức tập thể không sẵn lòng thăng vượt một điều gì đó tại nước đó. Con có thể nhìn tại Ý chẳng hạn, có sự kiện Giáo hội Công giáo đã được thiết lập và vẫn còn đặt tòa thánh tại đó, nhưng liệu nhân dân Ý đã có thực sự thách thức Giáo hội Công giáo hay chưa? Và tại Tây ban nha cũng vậy? Ở Anh, con thấy dân chúng rời khỏi Liên Âu vì họ muốn đi con đường riêng, nhưng họ không đang thách thức lớp thượng lưu quyền lực đang cai trị nước Anh từ đằng sau hậu trường – một lần nữa, một sự không sẵn lòng thăng vượt.

Con nhìn xem tại Hoa Kỳ, nơi như chúng tôi đã từng nói, lớp thiểu số độc tôn quyền lực trở nên ngày càng giàu hơn trong khi giới trung lưu thì ngày càng nghèo đi và người nghèo thì trở nên cùng khốn. Nhưng người dân Mỹ vẫn không sẵn lòng thay đổi sự thể này. Họ không sẵn sàng đòi hỏi chính quyền của họ, tổng thống của họ, có những biện pháp để thay đổi sự thể, mặc dù đó chính là điều ông ấy đã phần nào hứa hẹn khi ông được bầu lên bởi một phong trào gọi là dân túy (populist). Nhưng ngày hôm nay, dân túy ở đâu để thách thức bàn tay sắt đá của lớp thượng lưu quyền lực đang cầm chặt nền kinh tế cùng hệ thống tái chánh Hoa Kỳ? Chắc chắn con có thể nhìn vào thế giới và tìm thấy một sự tương ứng nào đó. Không nhất thiết là con cần diễn giải phân tích quá đáng, nhưng sự tương ứng nằm ở đó.

Bây giờ nói đến các dụng cụ tâm linh mà con có thể dùng cho vấn đề này. Chắc chắn con có thể dùng các dụng cụ mà chúng tôi đã ban ra nhằm nâng cao tâm thức của con, và con có thể thỉnh gọi sự bảo vệ tâm linh cho con, thỉnh gọi để con được cắt đứt khỏi các mối ràng buộc. Và con có thể nỗ lực cải sửa chính mình và con sẵn lòng tự thăng vượt. Nhưng con cần nhìn nhận ở đây là những gì người tâm linh có thể làm được để thỉnh gọi cho đại dịch COVID-19 giảm bớt, cũng chỉ giới hạn mà thôi. Lý do là vì, giản dị, đây là một trong những bài học mà nhân loại cần học qua, vì khi con người không sẵn lòng học hỏi từ sự chỉ đạo tâm linh cao hơn thì con người phải học từ Trường đời Cay đắng. Và hiển nhiên, con có thể nói là trong thời gian vừa qua, đây chắc chắn là một trong những biến cố đã thu hút sự chú ý của mọi người, thậm chí còn thu hút hơn cả cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, và một cách nào đó, hơn cả vụ khủng bố 9/11.  Con phải chú ý vì con nhìn thấy tận mắt những biện pháp hạn chế được ban hành, và con thấy các chính phủ đã phản ứng như thế nào.

Và như vậy con thấy, cho dù cuộc khủng hoảng này có khó khăn biết mấy, it ra nó đá khiến cho người ta chú ý. Và người ta bị lung lay không còn dám nghĩ: “Ồ, chắc rồi chuyện này cũng sẽ trôi qua. Chúng ta không phải làm gì nhiều để đối phó với nó.” Người ta đã được đánh thức bởi sự kiện là mình phải làm một cái gì đó, vì nếu không, mình sẽ phải trải qua một thảm họa thực sự. Cho nên một lần nữa, đây là một sự thức tỉnh có thể dẫn đến một nhận thức sâu sắc hơn về nhu cầu phải thăng vượt tư duy cũ và tiến tới theo nhiều cách khác nhau.

Lỗ thủng trong hào quang thành hình thế nào?

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có đề cập đến lỗ hổng trong ba thể cao trong trường hợp chấn thương. Những lỗ hổng này thành hình như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn vào hào quang, trường năng lượng của con, con có thể xem nó hơi giống cơ thể vật lý, chỉ không đến nỗi dày đặc như vậy. Con cũng biết, nếu có ai bắn một viên đạn vào cơ thể vật lý của con, viên đạn sẽ tạo ra một lỗ thủng trên cơ thể. Nếu người ta bắn viên đạn lớn, lỗ thủng cũng sẽ lớn. Cho nên điều mà các sa nhân, các tà lực, cố làm là chúng hướng nhắm một xung lực năng lượng về phía con. Chẳng hạn nếu chúng nhắm vào cảm thể, đó sẽ là một xung lực cảm xúc mạnh mẽ đập vào con, khiến hào quang con bị thủng một lỗ – trong nghĩa đen. 

Tuy nhiên chúng không thể làm được điều đó trừ khi, như chúng tôi đã có giải thích, con đã có một cái ngã nào đó trong con, có một tin tưởng nào đó trong con khiến con mang sẵn tiềm năng bị tổn thương. Nếu không, xung lực đó sẽ nẩy bật ra khỏi hào quang, hoặc nó sẽ bay xuyên thẳng qua. Điều thường xảy ra là các sa nhân cảm nhận được là con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng, rồi chúng khai thác điểm này để bắn năng lượng vào con, tạo ra một lỗ hổng trong hào quang, trong trường năng lực của con.    

Điều con có thể làm nếu con cảm thấy con có nhược điểm là con hãy đọc các bài cầu thỉnh sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, cầu thỉnh Astrea cắt đứt những sợi dây buộc con với sa nhân cũng như tất cả những cái móc mà chúng đã cài đặt trong hào quang của con. Nhưng cuối cùng thì con cũng phải đương đầu với cái ngã tách biệt đã tạo ra nhược điểm của con trước đó. Mục đích là để ông hoàng của thế gian không có chỗ nào để nắm được con hầu gây ra lỗ thủng trong hào quang của con.

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người bất đồng cho là họ không nên làm theo, và trong cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó thì cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn như thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng duy nhất của con đối với tình thế là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy là mình đang có một phản ứng không bình an, thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con sẽ đạt tới một điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách khác hoàn toàn.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách mà họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay bằng cách nào khác, người ta thường chờ đợi một cách phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó, khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được sự phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa của việc đưa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại sự phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Làm thế nào giúp một người không tâm linh

Hỏi: Liệu các lời dạy về tâm lý tâm linh có thể giúp được một người không tâm linh, không tin là có tiền kiếp và không muốn sử dụng các dụng cụ tâm linh? Nếu người ấy yêu cầu sự giúp đỡ, liệu con có cách nào giải thích cho anh ấy là anh đã cho phép tà lực xâm nhập vào tâm anh cũng như vào trường năng lượng của anh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Câu trả lời là có lẫn không – theo nghĩa là điều đó có thể hữu ích, và ngay cả khi người đó không tâm linh một cách ý thức hay ở một mức ý thức, thì họ vẫn có thể sẵn lòng lắng nghe một số ý tưởng. Nhưng cũng có những người sẽ gạt bỏ bất cứ gì đi ra ngoài hộp tư duy hiện thời của họ, và có thể là họ không thể được giúp đỡ. Tuy nhiên, con có thể cố diễn tả giáo lý bằng những ngôn từ trung dung hơn, và con có thể cố nhìn xem khoa học đã khám phá những gì. Con có thể trình bày về năng lượng, về những năng lượng phải có mặt ở những tần số thấp hơn hay cao hơn. Thay vì nói về tà thể, con có thể chỉ nói đến những năng lượng thấp phát xuất từ lòng sợ hãi, và điều này có thể sẽ giúp ích cho họ.

Nhưng có một số người sẽ không thể được giúp đỡ qua tâm lý tâm linh. Bởi vì nếu con nhìn vào bất kỳ hệ thống nào, ngay cả ngành tâm lý trị liệu truyền thống, mọi lời dạy mà con tạo ra đều dựa trên một số khái niệm nhất định. Đó là cái sẽ quy định lời dạy. Trong bất kỳ lời dạy nào cũng có một số khái niệm quy định nó. Nếu người ta cởi mở với các khái niệm thì lời dạy sẽ có khả năng giúp đỡ họ. Nhưng nếu họ bác bỏ các khái niệm, tranh cãi và từ chối đặt lòng tin vào khái niệm, thì làm thế nào lời dạy sẽ giúp được họ đây? Và nguyên tắc này cũng áp dụng cho mọi thứ khác. 

Ngay cả ngành y khoa hiện đại, ngành y khoa vật lý liên hệ đến cơ thể vật lý, cũng dựa trên một số khái niệm. Nếu người ta chấp nhận các khái niệm đó thì đôi khi chỉ qua hiệu ứng giả dược – placebo effect, tức là khi họ tin tưởng một loại thuốc sẽ có khả năng giúp họ lành bệnh – thì họ cũng có thể được giúp đỡ. Nhưng nếu họ bác bỏ tất cả thì đôi khi họ không thể được giúp đỡ. 

Con cần nhìn nhận là có những người con không thể giúp đỡ vì những chọn lựa tự quyết của họ đã khiến họ bác bỏ những gì con muốn cống hiến. Và khi con là một người tâm linh – một điều mà vị sứ giả này đã từng vật lộn nhiều năm trời vì ông mang cái ý tưởng rằng ông phải có thể giúp được mọi người – khi con là người tâm linh thì con có quyền nói: “Tôi có những niềm tin này, tôi có thế giới quan này và do đó tôi có thể giúp đỡ những ai chấp nhận thế giới quan đó, hay ít ra một số khía cạnh của thế giới quan đó. Nhưng tôi không cần phải bận tâm với những ai khác. Những người đó, họ phải tìm kiếm những cách khác để được giúp đỡ.” Con không cần cảm thấy là mình mang trách nhiệm phải giúp tất cả mọi người mà mình gặp.

Ta biết điều này có thể khó khăn đối với con khi người đó là một người thân, gần gũi với con. Nhưng một lần nữa, sẽ tới một điểm khi con cần nhìn nhận quyền tự quyết, chấp nhận là mọi người đều có quyền tự quyết của mình, và con không thể làm gì được ngoại trừ con tôn trọng quyền tự quyết của con và nói: “Liệu tôi có muốn ở gần vị này nữa hay không? Liệu tôi có muốn liên hệ mật thiết với những ai bác bỏ tất cả mọi thứ mà tôi hỗ trợ và tin tưởng?” Con có quyền làm chọn lựa đó.

Làm thế nào ngừng phản ứng qua một ngã tách biệt

Hỏi: Khi con có phản ứng động cảm qua một ngã tách biệt, khi có một lỗ hổng mở ra một phàm linh tập thể và năng lượng của nó rất mãnh liệt, tràn ngập sợ hãi, giận dữ và hoảng hốt, thì đâu là cách hay nhất để đối phó với tình huống ngay lúc đó? Phản ứng đó đến từ tầng tâm thức nào? Có thể nào là con ở một mức tâm thức cao hơn các phản ứng đến từ ngã tách biệt cùng phàm linh tập thể đang củng cố cho phản ứng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Điều con có thể làm là dùng các lời dạy mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban ra về ngã tách biệt, và con có thể quyết định là mình sẽ sẵn sàng, một cách ý thức, nhìn ra các ngã tách biệt của mình, và con tách rời khỏi chúng. Và nếu con lấy thái độ tổng quát đó, con cũng sẽ rút được kết luận là bất cứ khi nào con có phản ứng khiến mình bị bối rối và mất an bình, thì cái đó đến từ một ngã tách biệt. Tùy theo cường độ của cảm xúc khởi lên, con có hai cách đối phó mà ta đề nghị như sau.

Nếu cảm xúc vô cùng mãnh liệt, con có thể quyết định: “Tôi sẽ không cho phép cảm xúc này kéo dài thêm nữa, tôi sẽ không cho phép nó tạo ra một vòng xoắn ốc đi xuống. Cho nên tôi sẽ ngừng ngay việc tôi đang làm. Tôi sẽ ngừng không phản ứng lại tình huống này. Tôi sẽ bước ra khỏi tình huống. Và tôi sẽ vào phòng riêng của mình để gửi lời thỉnh lên các chân sư thăng thiên, như Shiva, như Astrea, để các thày giúp tôi cắt đứt sợi dây đang kéo buộc tôi vào năng lượng đó.” Nếu năng lượng rất mạnh, con biết là con đang bị nối chặt với một phàm linh tập thể nào đó. Cho nên con có thể kêu gọi để mình được cắt đứt ra khỏi nó, và con khiến cho vòng xoắn ốc ngừng lại. Đây chính là nguyên tắc cơ bản của ngành cấp cứu là ngăn không cho tai nạn tiếp tục gia tốc và kéo thêm nhiều người vào trong cuộc hay trở nên nghiêm trọng hơn.

Thứ hai, nếu năng lượng không đến nỗi mạnh mẽ, con có thể lần hồi lấy trớn, lần hồi xây dựng một động lượng là con nhận diện mình đang phản ứng lại trong một trạng thái bất an. Và một lần nữa, con tự ngừng lại trong tâm, và cũng trong tâm, con chỉ giản dị bước ra khỏi ngã đó. Con nhận ra đó là một cái ngã tách biệt. Và một khi con có trớn và xây dựng được động lượng, con có khả năng tự ngừng lại – trong ngay tình huống đó chứ không cần phải bước ra khỏi tình huống – con ngừng lại mà không phản ứng qua ngã tách biệt. Có thể không có nghĩa là con sẽ tức khắc giải quyết được tình huống, nhưng con có thể tách mình ra khỏi ngã đó, vừa đủ để con khỏi tiếp tục khuôn nếp phản ứng. Con có thể tiếp cận trung hòa hơn. Con có thể ngưng nói chuyện với người kia, hay con có thể tạm ngưng một lúc để cố gắng hồi đáp trong một nhãn quan trung hòa hơn.

Về lâu về dài, tất nhiên con sẽ muốn tự hỏi: “Đâu là cái ngã tách biệt đã khiến tôi phản ứng trong tình huống đó?” Rồi một khi con có thì giờ thiền quán về vấn đề này, con có thể học tập một cuốn sách hay một bài truyền đọc giảng dạy về đề tài này, con có thể đọc một bài thỉnh để sáng nghĩa hơn về ngã đó cũng như về niềm tin đứng đằng sau ngã đó, cho tới khi con có thể buông nó ra và để cho nó chết đi.

Hiểu khái niệm “mạn đà la”

Hỏi: Mục đích và đặc tính của mạn đà la của chúng con là gì? Tất cả chúng con được nối kết như thế nào, và mỗi chúng con nối kết như thế nào với nhau? Chúng con đã có từng đầu thai như một nhóm hay chưa? (“Chúng con” ở đây có nghĩa là những người theo học giáo lý mà các thày đang ban truyền)



Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Tất nhiên là nhiều người trong các con đã từng đầu thai với nhau rồi. Nhưng khi các thày dùng từ “mạn đà la”, các thày sử dụng theo một nghĩa rộng hơn – rộng hơn ý nghĩa mà các thày đã dùng trong các đợt truyền pháp trước. Thật ra thì không, các thày dùng theo cùng một nghĩa, nhưng các thày muốn các con trong đợt truyền pháp này hiểu rộng hơn các đệ tử trong đợt các truyền pháp trước. Các đệ tử đó nghĩ là có một nhóm thu hẹp những người thuộc về một mạn đà la nhất định, và đó là lý do họ đã cùng tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, họ đã cùng đầu thai trước kia và đều mang một sứ mạng thật quan trọng.

Điều các thày muốn con nhìn ra là không phải chỉ những ai đang học giáo lý hiện thời mới thuộc vào mạn đà la – vì mạn đà la rộng lớn hơn vậy rất nhiều. Và không nhất thiết có nghĩa là mọi người trong mạn đà la này cần phải chấp nhận giáo lý của chân sư thăng thiên.

Như các thày đã nói, các thày không muốn các con tự cô lập mình khỏi người khác hay khỏi xã hội. Cho nên các thày không muốn các con xem như thể các con chỉ cần quan tâm đến các thành viên của mạn đà la này, xem mình là những người đứng bên lề do mình đã chấp nhận giáo lý này.

Các thày muốn con nhìn rộng hơn, là con nhận ra trong mạn đà la có một vòng bên trong gồm những người nhận biết giáo lý của chân sư thăng thiên một cách ý thức, nhưng cũng có những vòng khác nữa. Và vai trò của những người có nhận biết ý thức là ban phát, là giúp đỡ những ai đang ở các vòng ngoài, hầu con trao cho họ bất cứ gì họ cần để bước lên cao hơn.

Các thày cũng có nói, điều này không có nghĩa là khi con cố giúp người khác, ý định chủ yếu của con là khiến họ gia nhập tổ chức này. Thật ra các thày làm gì có tổ chức nào ở đây để họ trở thành hội viên, nhưng trong các đợt truyền pháp trước thì có, và nhiều người đã quá quan tâm đến tổ chức, quá quan tâm đến việc bành trướng tổ chức, thu hút thêm nhiều hội viên và khiến họ trở thành hội viên đắc lực của tổ chức để họ làm tất cả những công việc họ phải làm. Đây không phải là điều các thày nói ngày hôm nay, đây không phải là cách suy nghĩ của Thời đại Bảo bình mà là tư duy của Thời đại Song ngư.  

Cho nên ý các thày là các con hãy xem mình là thành phần của một nhóm rộng lớn hơn. Không có nghĩa là con cần nghĩ là con có thể giúp đỡ mọi người, vì có nhiều người trong suốt kiếp này sẽ không nhạy bén với các giáo lý cùng các tư tưởng này. Con cần quan tâm đến những ai con có khả năng giúp đỡ, những ai có tâm cởi mở. Không cứ là những người này sẽ mở tâm đón nhận mọi lời dạy của chân sư thăng thiên, nhưng họ có thể cởi mở với một số ý tưởng mà các thày đang truyền rải.

Cho nên đó là điều các thày muốn thấy. Các con tự xem mình ở vòng trong của một vòng tròn không khép kín vì nó trải rộng đến nhiều người khác. Xong con thử nhìn xem con có thể giúp họ như thế nào. Trong các bài truyền đọc suốt năm vừa qua, các thày có đề cập đến một tình trạng căng thẳng đã hình thành trong tâm thức tập thể, và điều này có nghĩa là có nhiều người thuộc về các vòng ngoài của mạn đà la các con đã sẵn sàng bước lên một mức cao hơn, họ sẵn sàng công nhận một số tư tưởng một cách ý thức.

Các thày mong muốn con tự xem mình như những người đi tiên phong có khả năng giúp những người đó thực hiện cuộc xoay chuyển này, cho dù là có thể họ không bao giờ biết đến con, hay đã gặp con, hay đã chấp nhận các chân sư thăng thiên – vì họ vẫn còn trong quá trình chuyển đổi tâm thức. Và đó là điều các thày muốn con nhìn ra: Mục đích của con là chuyển đổi tâm thức chứ không phải là bành trướng số hội viên của một tổ chức nào đó.

Làm thế nào ngừng cãi vặt

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có thể vui lòng nói rộng hơn về đề tài cãi vặt giữa các cặp vợ chồng? Đó nhiều phần có là một phàm linh tập thể hay một phàm linh cá nhân? Đâu là những yếu tố chính yếu để thăng vượt thói này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Điều tạo ra hiện tượng cãi vặt là một con quái vật, một con quỷ, một phàm linh tập thể vô cùng mạnh mẽ. Thật ra cãi vặt không chỉ xảy ra giữa các cặp nam nữ mà còn trong nhiều loại quan hệ khác giữa con người. Gần như thể người ta bị rơi vào cái mà chúng ta có thể gọi là một trạng thái thôi miên, qua đó người ta bị thôi miên, như thể cái nhìn của một người về người kia bị khoá cứng. Nhưng có một điều khác cũng bị khóa cứng là cái nhìn của họ về chính họ trong mối tương quan với người kia. Chẳng hạn con có thể có một cặp vợ chồng không ngừng cằn nhằn với nhau, và cả hai người đều có cùng ý nghĩ. Họ nghĩ: “Ồ, chồng tôi hay vợ tôi cứ như vậy đó, cho nên tôi không thể là gì khác hơn đối với anh ấy hay cô ấy.”

Ấy, nếu cả hai đều cùng nghĩ như vậy thì làm thế nào họ sẽ có thể bước ra khỏi tình trạng đó đây? Bởi vì điều mà cả hai đều đang bảo là: “Tôi không thể thay đổi vì người phối ngẫu của tôi không chịu thay đổi.” Đây chính là trạng thái bất lực cùng cực. Khi con cho rằng con không thể thay đổi gì trừ khi một cái gì ở ngoài con thay đổi, thì con đang tỏ ra bất lực một cách tột cùng. Không có gì trong đời con mà con có thể làm chủ được – đấy là điều con đang nói. Và đó là tại sao người ta mở tâm thức của họ ra cho những quái vật hay những con quỷ tập thể kia. Họ kỳ thực bảo rằng: “Tôi không muốn thay đổi chính tôi, tôi không muốn lãnh trách nhiệm thay đổi chính tôi. Do đó tôi muốn con quỷ kia chiếm lĩnh đời tôi để tôi không phải lấy bất kỳ quyết định thay đổi nào.” Đương nhiên, họ không nói vậy một cách ý thức nhưng họ nói vậy trong tiềm thức.

Khi cả hai đều rơi vào trạng thái đó thì mối quan hệ có thể đi tới đâu? Nó không thể đi tới đâu ngoài chuyện càng ngày càng cãi vặt nhiều hơn nữa. Điều con thấy trong một số cặp là sự cằn nhằn trách móc nhau lên tới một mức độ nào đó nhưng nó không tồi tệ hơn. Nó không biến thành một mối xung đột có thể dẫn tới ly dị, mà nó chỉ khiến cho cả hai dừng lại ở mức đó suốt 10, 20, 30, 40, 50 năm trời. Và họ đang làm gì chứ? Họ đang lấy năng lượng của họ đem nuôi béo cho con quỷ cứ ngồi yên đó ngày càng béo phì hơn nữa. Con có muốn xem hình con quỷ giống gì không? Con vào xem các bộ phim Star Wars đầu tiên có nhân vật tên là Jabba the Hutt thì con sẽ có một chút ý niệm về hình dạng của những con quỷ hay quái vật đó. Chúng chỉ mê mải hút hết năng lượng của người ta và càng ngày càng béo hơn, và thực sự chúng còn xấu xí hơn cả những gì được miêu tả trong phim.

Vậy thì họ có thể làm gì để phá vỡ tình trạng này? Buồn thay, khi người ta bị rơi vào tình cảnh đó, thật khó lòng nào mà thoát ra được. Một cách để phá vỡ là họ leo thang xung đột rồi quyết định ly dị nhau. Điều này ít ra sẽ phá vỡ khuôn nếp. Còn cách kia, tất nhiên, là cả hai người có thể quyết định bước theo con đường tâm linh. Hoặc nếu họ đã có biết về con đường tâm linh thì họ có thể nhìn vào hiện tượng cãi vặt này và nói: “Này, liệu chúng ta có muốn tiếp tục như thế này hay không?”

Ở đây có cái bẫy sẽ ngăn cản rất nhiều sự thay đổi trong mối quan hệ, khi cả hai người quyết định: “Tôi không thể thay đổi mối quan hệ trừ khi phối ngẫu của tôi cũng sẵn lòng thay đổi. Vì phối ngẫu của tôi không sẵn lòng thay đổi, cho nên tôi không thể làm gì hết.” Một lần nữa, đây là sự từ chối nhận lãnh trách nhiệm.

Nhưng luôn luôn có cái gì đó mà con có thể làm. Con có thể thay đổi tâm thức của con. Con có thể nhìn nhận là thói cãi vặt đó đến từ một ngã tách biệt. Con có thể sử dụng các dụng cụ của chúng tôi để nhận diện ngã này, để nhìn ra nó là gì, nhìn ra niềm tin nào đang đứng đằng sau nó trong trường hợp cá nhân của con. Nó liên quan đến cách con nhìn chính con cũng như cách con nhìn người khác phái. Cách con nhìn các mối quan hệ. Cách con nhìn chính con trong một mối quan hệ. Khi con nhận diện niềm tin đó, con có thể để cho ngã chết đi. Con không cố thay đổi người phối ngẫu của con. Con không cố thay đổi ngay cả tình huống vỏ ngoài. Con không cố giải quyết một vấn đề. Con chỉ để cho ngã đó chết đi, cái ngã đã khiến con tham gia vào quá trình cãi vã.

Con yêu dấu, có thể nào chỉ có một người cãi nhau hay không? Thế nào là âm thanh của một người cãi nhau chứ? Nó giống như âm thanh của một bàn tay – im phăng phắc. Bởi vì không có gì được gửi trả về. Nếu con không gửi trả về cái gì cho phối ngẫu của con, liệu người ấy có thể tiếp tục cãi vã được không? À, một số người sẽ bảo là có thể chứ, trong một thời gian. Nhưng cuối cùng thì chuyện cãi vặt có vui thú gì không khi người kia không đáp lại?

Nhưng thật không quan trọng chút nào nếu người kia có ngừng cằn nhằn hay không, vì như chúng tôi đã có nói, nếu con thay đổi chính con, nếu con thay đổi trạng thái tâm thức của con, một trong hai chuyện sẽ xảy ra. Hoặc người phối ngẫu của con cũng sẽ thay đổi, hoặc con sẽ thay phối ngẫu.

Trong cả hai trường hợp, nó vẫn tốt hơn là con ở lại trong một quan hệ không đi tới đâu, ít nhất nếu con là một người đang bước chân trên đường tu tâm linh. Bởi vì nếu con thực sự nghiêm túc muốn tinh tấn tối đa trên đường tu và hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con không thể cho phép mình ở lại trong một quan hệ không đem lại tăng triển tâm linh. Con không thể ở lại trong một quan hệ bị khóa chặt vào một khuôn nếp nhất định. Con không thể ở lại với một người phối ngẫu không sẵn lòng nhận trách nhiệm bản thân mình, không sẵn lòng tăng trưởng, xem xét tâm lý mình và cải sửa tâm lý đó. Con yêu dấu, con không thể. Con không thể tinh tấn tối đa và hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con bị khóa chặt trong một mối quan hệ bế tắc. Có thể con sẽ tiếp tục một thời gian nếu con có con cái và không muốn khiến gia đình bị đổ vỡ. Nhưng con không thể làm vậy suốt đời nếu con có ý định tăng triển tối đa.

Làm thế nào vượt qua khó khăn hòa điệu với chân sư

Hỏi: Con nhận thấy là khi con cố hòa điệu trực tiếp với một vị chân sư đặc thù, điều này đôi khi rất khó khăn. Chẳng hạn, kỹ thuật do thày Guru Ma đưa ra để hòa điệu với thày rất hữu ích, là hình dung ra một cánh đồng hoa cúc bất tận xong tập trung vào điểm vô tận. Xin các thày vui lòng khai triển đề tài này về những khó khăn hòa điệu tâm mình với các chân sư, và liệu có những kỹ thuật nào để việc đó dễ dàng hơn?


Kim Michaels: Đúng vậy, lời dạy đó được đưa ra trong cuốn sách “Don’t drink your own Kool Aid”. Nếu tôi nhớ không lầm, lời dạy mà ông đề cập về hoa cúc, đó là kỹ thuật đặc thù của thày Guru Ma.

Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Trước hết, đây là câu trả lời “mẫu” cho câu hỏi này. Hãy tìm xem có ngã tách biệt nào đang ngăn chặn sự hòa điệu của con, xong tìm cách khắc phục ngã tách biệt đó. Rất, rất nhiều người tâm linh – và điều này cũng liên hệ tới những gì chúng tôi vừa trình bày về tư duy thần tượng hóa con đường tâm linh, thần tượng hóa chân sư thăng thiên – nhiều người đã dựng các chân sư lên thành thần tượng và nghĩ sao chúng tôi quá toàn hảo. Chúng tôi như cao chót vót ở trên các con đến độ để các con hòa điệu được với chúng tôi, nó gần như đòi hỏi một nỗ lực siêu phàm hầu nâng tâm thức mình lên một mức tối thượng.

Nhưng như ta đã nói trong câu trả lời về quả vị Ki-tô, mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một cách biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ta là ai? Ta là vị đại diện của tâm thức Ki-tô cho trái đất. Có nghĩa là ta có khả năng tự biểu lộ ra cho mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng. Cho nên dù con có ở mức tâm thức nào đi nữa, ta cũng có thể – nếu con muốn dùng hình ảnh này – đi xuống tới mức của con, và do đó, con chỉ cần với lên tầng ở ngay trên con để nối kết với ta. Không như là con phải với lên nhiều tầng cao hơn, mà con chỉ cần vượt lên khỏi mức hiện thời của con thì con sẽ liên lạc được với ta. Và điều này, con đầy đủ khả năng làm được.

Câu hỏi đặt ra là liệu con có một cái ngã tách biệt đang ngăn chặn con không? Có thể đó là cái ngã tách biệt cho rằng con phải nâng cao tâm thức lên rất nhiều, nhưng cũng có thể là một ngã tách biệt nào khác liên quan đến cách con nhìn chân sư thăng thiên hay một vị chân sư cụ thể nào đó. Cũng có thể là một ngã tách biệt không muốn con nối kết, vì nó lo sợ chân sư sẽ phơi bày ra một khía cạnh của tự ngã của con. Trong một tổ chức trước của chân sư thăng thiên, biết bao nhiêu người đã sợ hãi “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa” của mình bị vạch trần vì họ tưởng đó là điều mà các chân sư luôn luôn làm. Nhưng đó không phải là điều chúng tôi làm luôn luôn. Chúng tôi tỏ lộ qua rất nhiều cách khác nhau cho nhiều người khác nhau, tùy theo cách nào sẽ giúp người đó tăng trưởng lên mức tâm thức kế tiếp.

Chúng tôi không bao giờ tìm cách trừng phạt con. Chúng tôi không bao giờ tìm cách khiến con hổ thẹn. Chúng tôi không bao giờ muốn con cảm thấy mình tắc trách. Chúng tôi chỉ muốn giúp con tiến lên mức kế tiếp. Cho nên ta xin nói, con hãy xem xét mối quan hệ của con với các chân sư, xem xét cách con nhìn các chân sư và đặc biệt cách con nhìn chính con trong quan hệ với chân sư. Hãy nhìn xem con có cảm thấy miễn cưỡng điều gì không, có cảm thấy mình bất xứng, rồi con hãy làm việc trên cái ngã tách biệt đó, và mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn cho con.

Ngoài ra còn có một loại ngã tách biệt khác mà nhiều người mắc phải liên quan đến các sinh thể tâm linh. Và đây là toàn bộ cái tâm thức đã được nhiều tôn giáo dựng lên, cho rằng bất kỳ sinh thể tâm linh nào, bất kỳ vị thần nào, cũng đều phải là phiên bản của ông già Nô-en – hay nói cách khác, là một vị Thượng đế có khả năng thỏa nguyện mọi điều ước. Đây là Thượng đế mà nhiều người hoàn toàn phớt lờ trong đời sống hàng ngày, nhưng khi họ gặp phải vấn đề thì bỗng nhiên, đó là Thượng đế mà họ sẽ cầu nguyện, hay họ cầu nguyện đức Mẹ Mary, hay họ đi lễ và thắp nến ở nhà thờ. Và giờ đây họ cho rằng Mẹ Mary sẽ giải quyết vấn đề đó cho họ như trong phép lạ, để sau đó họ có thể phớt lờ tiếp. Đây không phải là cách hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Nếu con mang loại ngã tách biệt này, hay có lẽ đã lớn lên trong một môi trường như thế, thì đây cũng là một điều mà con phải cải sửa.    

Rồi đến lúc con phải tự hỏi: “Tại sao tôi lại cố hòa điệu với chân sư? Ý định của tôi là gì? Tôi muốn đạt được điều gì?” Và ở đây con có thể học từ những gì vị sứ giả này đã nói về bản thân khi ông nhận các bài truyền đọc từ chân sư. Ông có nói mấy lần là để nhận được bài truyền đọc, ông bước vào một trạng thái trung hòa. Ông không có ý định muốn chúng tôi làm gì hay nói gì đặc biệt. Ông không chờ đợi là chúng tôi sẽ làm bất cứ gì cho ông, ca ngợi ông, tâng bốc ông, hay bất cứ gì khác. Ông chỉ bước vào tâm trung hòa. Nếu con thực sự muốn hòa điệu với một chân sư thăng thiên, con cần làm việc trên ý định của con. Con đang cố đạt được gì đây?

Có thể có một ngã tách biệt muốn con được thêm vị thế, như được chân sư vỗ vai nếu chúng tôi hiện ra cho con hay nếu con nối kết được với chúng tôi. Con có thể dùng chuyện đó để khoe khoang với người khác. Chúng tôi đã chứng kiến bao học trò của chân sư làm chuyện này rất nhiều lần. Nó có thể cho con một cảm giác quan trọng, rằng con quan trọng hơn những người chưa bao giờ có được trải nghiệm nào với chân sư.

Nếu con có những loại ý định đó, nó sẽ ngăn chặn con trải nghiệm sự hiện diện của chúng tôi, vì nếu chúng tôi cho con trải nghiệm đó thì hóa ra nó chỉ củng cố cho ngã tách biệt, có phải vậy không? Tất nhiên cũng có những học trò mang ý định đó và cảm thấy là mình đã có một trải nghiệm với chân sư, nhưng kỳ thực trải nghiệm của họ là với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá. Bởi vì nếu con có bất kỳ ý định kiêu hãnh nào, con sẽ không thể nối kết được với chúng tôi, vì chúng tôi sẽ cản trở sự phát triển của con nếu chúng tôi cho con một trải nghiệm về sự hiện diện của chúng tôi. Đã có những lần chúng tôi trực tiếp rút lui khỏi một đệ tử vì đó là cách duy nhất để giúp cho đệ tử đó tăng trưởng. Cho nên đây cũng là một điều mà con có thể xem xét. Nhưng nếu con có thể đạt tới điểm con không còn muốn chúng tôi làm bất cứ điều gì, không muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi nào, thì con có thể trung hòa.  

Ý tưởng muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi cá nhân cho con, đặc biệt là muốn chúng tôi bảo con phải làm gì trong một tình huống nào đó, cũng là một điều thường khi sẽ chặn đứng sự hòa điệu của con. Không phải là chúng tôi không sẵn lòng giúp con trong một số hoàn cảnh, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng tôi không muốn bảo con phải làm gì bởi vì đó chính là trách nhiệm của con phải quyết định lấy.

Đó là điều mà vị sứ giả này cũng đã học được trong những bước đầu trên đường tu, khi ông nhận ra là có những tình huống trong đời ông mà ông có trách nhiệm phải tự lấy quyết định. Chúng tôi sẽ không bảo con phải làm gì. Chúng tôi có thể cho con một khung tham chiếu, chỉ ra cho con một cách nhìn khác về tình huống. Nhưng chúng tôi chỉ có thể làm vậy khi con ở trong một trạng thái tâm trung hòa.

Cho nên một lần nữa con hãy nhìn đây, hãy khắc phục cái ngã đang muốn con được chỉ bảo mình phải làm gì, thường thường là vì nó sợ lầm lỗi. Vậy con sẽ nghĩ gì nếu một chân sư hiện ra trước mắt con và bảo con làm điều gì đó, chẳng hạn rút ra một con dao và cứa cổ đứa con của mình như đã xảy ra cho Abraham? Và cho dù con có làm gì thì con cũng sẽ không có lỗi vì chuyện đó là do một sinh thể tâm linh? Nếu có một bài học trong câu chuyện của Abraham, thì bài học đó đã không được Kinh thánh thuật lại chính xác, bởi vì không phải Thượng đế đã ra lệnh cho ông làm vậy, mà là một kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá đã bảo ông giết con ông. Và khi ông không nghe theo, đó chính là vì cái ta Ki-tô của ông hay Hiện diện TA LÀ của ông đã khuyên ông đừng làm theo. Nhưng ông đã chỉ có thể nghe được lời khuyên đó là vì ông sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài lệnh ban đầu.

Cho nên một lần nữa, nếu con muốn nghe thấy một giọng nói ầm ầm từ trên trời bảo con phải làm gì vì con sợ lầm lỗi, thì chúng tôi không thể hiện ra cho con, vì làm như vậy sẽ chỉ tăng cường cái tâm thức đó mà thôi. Cho nên nếu con đạt tới điểm con có thể nói thật giản dị là con muốn trải nghiệm sự hiện diện của một chân sư thăng thiên, hay có lẽ một chân sư đặc thù nào đó, thì con hãy đọc bài chú cho vị chân sư đó. Nhưng ngay sau khi con đọc xong, con hãy bước vào tâm trung hòa, nằm xuống, nhắm mắt lại, thư giãn ra và trung hòa – một trạng thái tâm trung hòa. Con càng trung hòa bao nhiêu thì xác suất sẽ càng lớn để con trải nghiệm một cái gì đó vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Đó sẽ không phải là sự thị hiện tối hậu của vị chân sư đó. Đó sẽ là trải nghiệm mà con có khả năng chịu được ở mức tâm thức của con. Chúng tôi không thị hiện trong trải nghiệm tối hậu vì con người sẽ không chịu nổi. Nếu ta thị hiện trọn vẹn sự Hiện diện của ta ở đây ngay bây giờ, tất cả các luân xa của con sẽ thiêu cháy, kể cả luân xa của vị sứ giả này. Chúng tôi luôn luôn giảm bớt Hiện diện của mình xuống một mức mà con người có thể chịu được. Và đây là thêm một cạm bẫy nữa cho những ai mong muốn trải nghiệm tâm linh – nếu con luôn tìm cầu một trải nghiệm tột đỉnh, một trải nghiệm tối hậu nào đó, thì đó cũng là một điều sẽ ngăn cản con, và ngăn chặn chúng tôi thị hiện cho con. Không hẳn là nó ngăn chặn chúng tôi thị hiện, mà nó ngăn chặn con nhận ra là chúng tôi đang ở ngay đây, vì con không thể cảm thấy Hiện diện của chúng tôi khi con đang tìm cầu một cái gì khác. Cho nên nếu mọi chuyện chưa thành công, con hãy bước vào trung hòa, con hãy trung hòa. Và con sẽ chiêm nghiệm được một cái gì vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Đệ tử của chân sư thăng thiên và sự nghèo túng

Hỏi: Mẹ Mary có nói là trong tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên, trọng điểm của chúng con không phải là thế giới vật chất. Hình như về mặt tài chánh, nhiều người trong chúng con phải cóp nhặt và làm đủ mọi cách để sinh sống. Nhưng cho dù cố gắng hết sức, chúng con vẫn rơi vào tình trạng nghèo túng. Vậy chúng con phải làm gì đây?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Một câu hỏi không thể được trả lời chung chung vì nó rất cá nhân. Tất nhiên, nó tùy thuộc vào nơi con sinh sống, xã hội của con là loại xã hội nào, và trong xã hội đó con có những cơ hội như thế nào. Ta biết rõ trên thế giới có nhiều quốc gia có đệ tử của chân sư sinh sống, và do các điều kiện ở các nước đó, việc vươn lên khỏi tình trạng nghèo túng – ít ra để không phải dồn quá nhiều sức vào việc kiếm sống đến độ nó hút hết thời gian và sự chú ý của con – có thể là một điều rất khó khăn.

Vì vậy trong một số trường hợp, có những đệ tử sẽ phải chấp nhận một lối sống không mấy sung túc và tập trung vào sự phát triển tâm linh của mình.

Nhưng trong những trường hợp khác, các đệ tử sẽ được lợi lạc rất nhiều nếu họ đẩy mạnh để đạt được một mức sống cao hơn, và nhờ vậy họ sẽ có nhiều tự do hơn để theo đuổi các mục tiêu tâm linh của mình. Nếu con sống trong một quốc gia tương đối giàu có, hẳn con sẽ phải tìm được những cách cung ứng một mức sống vật chất khả dĩ sẽ không ngăn trở sự tăng trưởng tâm linh của con.

Con cần nhìn nhận là rất, rất nhiều đệ tử tâm linh, không chỉ các đệ tử của chân sư thăng thiên mà nhiều người tâm linh, ngay cả nhiều người sùng đạo, mang một thái độ tiêu cực đối với sự dồi dào vật chất. Họ cảm thấy có lẽ tiền bạc là gốc rễ của mọi chuyện xấu xa, như họ đã được nghe rất nhiều lần. Hoặc họ cảm thấy là trong tư cách một người tâm linh, họ không được làm gì để kiếm tiền. Chính điều này đã giữ chặt nhiều người tâm linh ở một mức sung túc kém hơn là thực sự cần thiết.

Cho nên con cần lượng định cá nhân mình xem, và thật sự trong nhiều trường hợp, con sẽ có khả năng nhìn ra là con mang một cái ngã tách biệt đang cưỡng chống lại sự dồi dào, cưỡng chống lại sung túc vật chất. Nếu con loại bỏ được cái ngã này, nếu con phát hiện được niềm tin đứng đằng sau đó, thì con sẽ tìm ra là con sẽ dễ dàng thị hiện sự sung túc hơn mà không phải tổn hại đến các mục tiêu cùng ý tưởng tâm linh của con.

Có thể rất nhiều khi, con đã lớn lên trong một hoàn cảnh gia đình nào đó, một hoàn cảnh văn hóa hay có lẽ một thành phố nào đó nơi tâm thức tập thể chỉ biết đúng một cách kiếm sống mà thôi, và con mang một thái độ cố hữu đối với việc kiếm tiền. Điều này có thể giới hạn con. Và nếu con có thể thoát ra khỏi cái khuôn đó, thậm chí có lẽ dọn đến một môi trường khác hơn, thì con sẽ có thể vươn lên một mức sung túc cao hơn mà vẫn không xao lãng các mục tiêu tâm linh của mình. Thật sự đây là vấn đề những gì con đã thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng cá nhân của con.

Đúng thật là con không được rơi vào cực đoan tập trung quá nhiều sự chú ý cùng năng lực của mình vào chuyện kiếm tiền. Nhưng mặt khác, con cũng không nên quá nghèo túng đến độ việc kiếm sống hút mất hết thời gian cùng năng lượng của con do con quá lo sẽ thiếu thốn những thứ mình cần. Cho nên con cần tìm được sự cân bằng này. Và nếu con khắc phục được những cái ngã đang lôi kéo con mất cân bằng về chuyện tiền bạc, con sẽ nhận thấy là có những cơ hội sẽ mở ra cho con để con thị hiện sự dồi dào vật chất cần thiết, hầu sự dồi dào vật chất sẽ hỗ trợ cho việc phát triển tâm linh cùng sự trải bày của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và đó phải là mục tiêu của người tâm linh.

Quan hệ giữa phàm linh tập thể và phàm linh nội tại cá nhân

Hỏi: Đôi khi con cảm thấy sự chống đối từ một phàm linh nội tại. Nhưng có thể nào con có một lỗ hổng mà qua đó một phàm linh tập thể đang ảnh hưởng con? Làm thế nào con phân biện được điều này? Đó là phàm linh nội tại của con hay là phàm linh tập thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Trên cơ bản, con có thể nói là một phàm linh tập thể không có khả năng xâm nhập bốn thể phàm của con, hay ảnh hưởng bốn thể phàm của con, trừ khi có một lỗ hổng để nó đi vào. Và lỗ hổng này được tạo ra bởi một phàm linh nội tại. Đó là cách duy nhất mà các phàm linh tập thể đó có đường xâm nhập vào tâm thức của con. Con đã tạo ra phàm linh tập thể đó hay ngã tách biệt đó bằng cách lấy một quyết định. Đó là vì sao chúng tôi, các chân sư thăng thiên, nhấn mạnh lại nhiều lần là con cần phát hiện ra cái ngã tách biệt, nhìn thấy quyết định đằng sau nó, xong con thay đổi nó một cách ý thức.

Có thể là trong một tiền kiếp chẳng hạn, như chúng tôi đã có đề cập qua chấn thương nhập đời, con đã phải chạm trán với một cảnh huống gây chấn thương đến độ con đã không lấy quyết định hoàn toàn ý thức hay tỉnh thức để tạo ra một phàm linh nội tại hay một ngã tách biệt. Cho nên có thể một cách vô thức, con quyết định tạo ra một ngã tách biệt, nhưng con không thể nào khắc phục được ngã đó bằng những quyết định vô thức. Con phải quyết định ý thức là con sẽ để cho ngã đó chết đi, hay giải thể ngã đó đi. Một lần nữa, cách hay nhất là con hãy nhìn vào chính mình, sử dụng các dụng cụ để phơi bày ngã tách biệt, cho tới khi con nhìn ra loại quyết định nào mà con đã có.

Điều này không có nghĩa là con không cần đọc những lời thỉnh gọi để bảo vệ tâm linh chẳng hạn, thỉnh gọi Astrea cắt đứt cho con giải thoát khỏi phàm linh tập thể, vì một khi con bị một phàm linh tập thể chi phối thì việc nhìn ra và giải quyết phàm linh cá nhân sẽ trở nên khó khăn hơn.

Con hãy hiểu ở đây là có nhiều loại phàm linh nội tại hay ngã tách biệt khác nhau. Chúng có mức độ trầm trọng khác nhau, qua đó ta muốn nói là có những phàm linh sẽ khiến con bị hở rất ít hay chỉ thỉnh thoảng hở ra với phàm linh tập thể. Trong khi đó thì một số ngã hay phàm linh nội tại khác có khả năng tạo ra lỗ hổng lớn hơn, khiến con chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ phàm linh tập thể. Một khi con mang một phàm linh nội tại đã tạo ra một lỗ hổng to lớn cho phàm linh tập thể đi vào, thì con có thể bị phàm linh tập thể áp đảo đến độ con thực sự không có cách nào đối phó với phàm linh nội tại cá nhân đó nữa. Điều con cần làm trong những trường hợp như vậy là nỗ lực một cách vô cùng chân thành để thỉnh gọi và sử dụng các bài thỉnh cho Đại thiên thần Michael và Astrea, hầu con được cắt đứt khỏi phàm linh tập thể.

Mục đích các bài thỉnh đó là để niêm phong bốn thể phàm của con khỏi ảnh hưởng của các phàm linh hầu con có một cơ hội – không phải là cơ hội sống một cuộc đời thoải mái như một số người lầm tưởng, nghĩa là họ cầu nguyện hay họ dùng một số kỹ thuật tâm linh để được nhẹ gánh khỏi phàm linh tập thể và giờ đây họ nói: “À, thế là bây giờ tôi có thể thảnh thơi vui hưởng cuộc đời và tiệc tùng thỏa thích.” Nhưng đúng thực, cơ hội ở đây là con có dịp làm việc trên phàm linh nội tại đó. Và một khi con loại trừ được nó, con tự ý niêm phong năng trường của con lại, thì phàm linh bên ngoài sẽ không thể ảnh hưởng được con nữa.

Việc biết rõ một phàm linh là nội tại từ bên trong hay đến từ bên ngoài, không nhất thiết là quan trọng. Chúng ta có thể nói là nếu con có một vấn đề thật nghiêm trọng qua đó con cảm thấy rất nhiều năng lượng, rất nhiều gánh nặng năng lượng phóng về phía con, thì con biết nó đến từ một phàm linh bên ngoài. Khi đó, con cần nỗ lực đóng kín con lại cho nó không xâm nhập, xong con làm việc trên cái phàm linh nội tại.

Nhưng nếu con không cảm thấy luồng năng lượng mạnh đến như vậy – và đối với nhiều các con bắt đầu lên tới những tầng cao hơn và đã khắc phục được một số phàm linh dữ dằn nhất – thì con chỉ phải đối phó với những thứ vi tế hơn không bị phàm linh tập thể ảnh hưởng nhiều. Đó là lúc con bắt đầu nhìn vào các phàm linh nội tại đó, các ngã tách biệt đó, và thấy chúng là gì.

Trên cơ bản, con có thể nói là nếu con cảm thấy một năng lượng rất mãnh liệt thì năng lượng này đến từ một phàm linh tập thể. Đối với một phàm linh nội tại, con sẽ không cảm thấy cường độ năng lượng lớn đến vậy, giản dị là vì nó đến từ bên trong và con đã quen với nó rồi. Khi con cảm nhận một cái gì thực sự đè nặng lên con, một cái gì thực sự mạnh mẽ, thì con biết nó đến từ ngoài, vì nếu không, có thể con đã quen nó rồi.

Và đó tất nhiên chính là nguy cơ của những phàm linh nội tại, con có thể trở nên quá quen thuộc với năng lượng mà chúng phóng chiếu tới con. Một số người, nhiều người thậm chí, bị năng lượng đó khống chế và họ nghĩ sống như vậy là chuyện bình thường: “Ôi cuộc đời là như thế đấy” hoặc “Tôi là con người như vậy đó.” Và điều này hiển nhiên không phải là điều con muốn làm trong tư cách một người tâm linh. Hầu hết các con khi thành thực gắng sức bước chân trên đường tu, không rơi vào mô thức đó. Khi con đã khắc phục được một phàm linh thì chỉ một thời gian ngắn sau, con lại sẵn sàng tìm kiếm cái phàm linh kế tiếp, và đó chính là điều con cần làm.

Câu hỏi về chủ nghĩa tối giản (minimalism)

Hỏi: Con muốn biết là chủ nghĩa tối giản (minimalism) hay chủ nghĩa tối thiểu, có nhận được cảm hứng từ các chân sư thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Không. Và lý do là vì tất nhiên trong Thời đại Hoàng kim, con người sẽ không tối giản. Họ sẽ muốn hơn nữa, họ sẽ nỗ lực để có hơn nữa, họ sẽ không ngừng tìm cách thăng vượt và tăng triển. Bởi vì đó là cách xã hội phát triển.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một tâm thức rất quỷ quyệt, rất tinh tế – hay ta có thể nói – tâm thức gian xảo của rắn, đã được cài đặt vào thế giới phương Tây. Tâm thức này được tạo ra phần nào bởi chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa tư bản không kềm chế của những người tìm cách làm giàu ngày càng giàu hơn, sở hữu ngày càng nhiều hơn cùng một thứ. Và tâm thức này bảo rằng việc con muốn hơn nữa là chuyện sai trái, vì con đang dùng hết tài nguyên của hành tinh, hay ở phương Tây người ta tiêu thụ quá đáng trong khi ở các nước thế giới thứ ba thì người ta đói nghèo. Rõ ràng là trong Thời Hoàng kim, rất nhiều tình trạng như vậy sẽ chuyển đổi. 

Nhưng một trong những chuyển đổi lớn nhất sẽ xảy đến là trong Thời Hoàng kim sẽ có thêm rất nhiều tài nguyên. Có nghĩa là mọi người khắp thế giới sẽ đều có thể có một mức sống vật chất tươm tất. Đương nhiên, điều này không có nghĩa là ai ai cũng sẽ sống như vua chúa, mà có nghĩa là mọi người sẽ không chỉ có đủ mà sẽ có nhiều hơn là đủ.

Và đó là tại sao chủ nghĩa tối thiểu không đến từ các chân sư thăng thiên. Đó là một hình thức tự phủ nhận, nó rất dễ khiến cho con người phủ nhận tiềm năng tiến bộ tâm linh của mình. Bởi vì trên thực tế, khi con tiến bộ tâm linh, khi con nâng cao tâm thức của mình đến tầng 96 và cao hơn nữa, con sẽ muốn hơn nữa. Không nhất thiết con sẽ muốn có nhiều hơn cùng một thứ, nhưng con sẽ muốn có nhiều hơn những gì con đang có.

Con có thể nói là sẽ có một dạng cao hơn của chủ nghĩa tối thiểu, qua đó con người không còn chú tâm vào khía cạnh vật chất của cuộc sống. Họ sẽ chú tâm vào các khía cạnh tâm linh của cuộc sống, cho nên họ sẽ chỉ cần của cải vật chất vừa đủ để có lối sống mà họ mong muốn rồi tập trung vào sự tìm kiếm tâm linh. Họ sẽ không dành quá nhiều thời gian và nỗ lực để kiếm tiền, để mua thêm nhiều đồ dùng, hay có nhà lầu xe hơi hay cái này cái nọ. Nhưng họ sẽ có đủ và không cảm thấy thiếu thốn bất cứ gì.

Nhưng điều đó khác hẳn chủ nghĩa tối thiểu, vì chủ nghĩa tối thiểu muốn tạo ra một triết lý, rồi phóng chiếu ra là con người phải bước vào một vai trò và cứ theo đó mà hành xử. Đây chủ yếu cũng là những gì chủ nghĩa cộng sản từng làm. Trong bài truyền đọc hồi nãy, ta có nói là chủ nghĩa đó cố tạo dựng một lý tưởng quy định con người Sô viết phải như thế nào. Và sa nhân thì mê làm chuyện này lắm. Chúng đã làm chuyện này suốt chiều dài lịch sử, như ý tưởng một người đạo Cơ đốc phải hành xử ra sao. Hiện còn rất nhiều người vẫn cố sống làm sao cho đúng với một lý tưởng bảo rằng: đây là cách sống mà một tín đồ ngoan đạo Cơ đốc, hay đạo Hồi, hay đạo Phật, hay đạo Ấn, hay đạo Sikh hay bất cứ gì khác, phải sống như thế nào. Ngoài ra còn có đại nghĩa bảo vệ môi trường, nó định ra những gì con phải làm để giữ cho dấu chân cacbon được tối thiểu. Người ta dựng lên tất cả những lý tưởng đó.

Nhưng thực sự, điều các chân sư khuyến khích con làm là con hãy nâng cao tâm thức của mình, con tập trung vào việc tăng triển tâm linh. Và khi con tập trung vào việc tăng triển tâm linh thì con sẽ tự nhiên tìm được một sự quân bình trong lối sống vật chất của con, chứ không phải vì con tự ép buộc mình phải sống theo một lý tưởng giả tạo được người ta lập ra.

Đơn giản là con tự nhiên không chú tâm vào các khía cạnh vật chất của cuộc sống, cho nên liệu sẽ quan trọng lắm không nếu con lái loại xe nào, hay chiếc xe sẽ cho con địa vị nào trong xã hội, hay nó sẽ vượt tốc độ quy định bao nhiêu cây số, hay động cơ của nó sẽ to đến chừng nào, hay điều này điều nọ? Tất cả những thứ đó không ăn nhập gì với con nữa.

Cho nên đó là một hình thức quân bình mà con tự tìm ra, trong khi chủ nghĩa tối thiểu không phải là một lối sống quân bình. Các chân sư luôn luôn khuyến khích sự quân bình trong mọi khía cạnh của đời con.

Câu hỏi về tóc, lông và đầu hói

Hỏi: Không hiểu có cách giải thích tâm linh nào cho việc có nhiều lông trên cơ thể? Và ngược lại, việc rụng tóc hay hói đầu cũng có nguyên nhân tâm linh nào không? Và có cách chữa trị tâm linh nào không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C., Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 11/12/2019.

Con có để ý câu trả lời của Giê-su về việc con không nên xem mình quá hệ trọng? Trên đường tu tâm linh, con cần duy trì một khoảng cách nào đó, một sự quân bình nào đó. Các thày đã quá nhiều lần nhìn thấy học trò của mình đâm đầu vào lối suy đoán trí thức vô cùng chi tiết về vấn đề này hay vấn đề nọ. Cho nên con mới thấy rất nhiều người khi họ tìm thấy đường tu tâm linh lần đầu tiên, họ muốn giải thích mọi chuyện trong đời họ như thể nó có ý nghĩa quan trọng gì đó. Có thể là số tử vi của họ, thần số học của họ, màu mắt của họ, cái này của họ, cái kia của họ, qua đó họ thỏa mãn nhu cầu cảm thấy là mình đặc biệt. Cho nên họ tìm xem có điểm gì độc đáo nơi bản thân sẽ cho họ cảm giác đặc biệt. Thế là họ dựng lên đủ cách giải thích tỉ mỉ tại sao đặc tính này cho thấy nguyên nhân này, và họ là thế này, họ là thế kia.

Thật sự sẽ tới một điểm khi con trưởng thành hơn, con bỏ lại tất cả những thứ đó và con nói: “Cho dù chuyện có lông trên cơ thể mang ý nghĩa tâm linh gì đi nữa thì nó có quan trọng gì không? Nó có hệ trọng gì không? Tôi có cơ thể mà tôi đang có, tôi sử dụng cơ thể tốt nhất, tôi không để nó quy định tôi, tôi không để nó điều khiển đời tôi. Cho nên tôi sẽ làm những gì tôi cần làm để chăm sóc nó, xong tôi tập trung chú ý vào việc phát triển tâm linh của tôi.”

Thực tế ở đây là một khi con nhìn vào, con bắt đầu suy ngẫm lời dạy của đức Phật về lý duyên khởi, con sẽ thấy là mọi sự việc trên trái đất đều nối kết và đan chéo với nhau thành một tổng thể phức tạp không sao tả xiết, ít ra đối với tâm con người. Cho nên cái ý tưởng bảo rằng việc hói đầu, chẳng hạn, có một nguyên nhân tâm linh, cho thấy là con chưa nắm bắt được những sợi dây kết nối kia phức tạp đến chừng nào và mọi thứ gắn liền với nhau đến chừng nào. Đơn giản là con không thể nghĩ ra một cách giải thích đơn giản nào với một nguyên nhân độc nhất cho rất nhiều hiện tượng của thế giới vật lý.  

Chẳng hạn, chỉ để nói qua, và mặc dù các thày tất nhiên đã nhìn nhận là ngành di truyền học không toàn hảo và chưa đầy đủ, nhưng có chút chứng cớ là cơ thể của con mang sẵn một di sản gen nhất định. Cho nên nếu con sinh ra trong một gia đình đặc thù thì chứng hói đầu đã nằm trong gen con rồi. Thật chỉ có vậy thôi. Chuyện này không liên hệ gì với con, với dòng sống của con, với quá trình của con. Giản dị đó chỉ là nơi con đã có cơ hội sinh ra trong kiếp này.

Cho nên điều lành mạnh là con hãy bước lui lại một chút và đừng lo đến chuyện tìm kiếm những lời giải thích sơ sài quá đáng – một nhân độc nhất cho một quả độc nhất – về từng hiện tượng trong đời sống. Nếu con mang xu hướng này thì nó đến từ một ngã tách biệt. Và con sẽ được lợi lạc nếu con sử dụng các dụng cụ tâm linh để xem xét và khắc phục ngã này. Và con sẽ cảm thấy thoải mái, tự do hơn hẳn về cơ thể của mình cũng như về việc con ở trong cơ thể.

Câu hỏi về căn thể

Hỏi: Con bị bối rối bởi căn thể (causal body), là nơi các động lượng tích cực từ các kiếp đầu thai vật lý được lưu trữ trong kho trên thiên đàng. Có cách mô tả nào chi tiết hơn không? Chính xác những thứ được tích tụ trong căn thể là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 9/12/2019.

Cách đơn giản nhất để mô tả là nói rằng bất kỳ trải nghiệm nào con sống qua khi con đang hiện thân vật lý, thì con sẽ có trải nghiệm đó qua những ngã tách biệt của con, và do đó trong nhiều trường hợp, con có thể trải nghiệm một điều kiện nào đó như một kinh nghiệm tiêu cực. Con không thấy bất cứ gì tích cực trong đó vì nó khó chịu và con chỉ muốn tránh nó thôi. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con thì lại nhìn cùng điều đó từ bên ngoài. Hiện diện không đứng bên trong những ngã tách biệt hay ngã vỏ ngoài này, cho nên chiêm nghiệm của nó hoàn toàn khác. Dù trải nghiệm của con có là thế nào, Hiện diện TA LÀ cũng có thể rút tỉa từ đó một bài học tích cực hay chiêm nghiệm tích cực, và chính chiêm nghiệm này được lưu trữ trong căn thể.

Vậy có thể con sẽ muốn hỏi: “Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con, tức cái Ta Biết, có một trải nghiệm tích cực, hay một trải nghiệm mở rộng tâm thức, mở rộng hiểu biết và thăng vượt, liệu cái đó cũng được lưu trữ trong căn thể hay không?” Trả lời cho câu này phức tạp hơn một chút, vì cái đó có thể được lưu trữ trong căn thể nhưng không hoàn toàn giống như cách con nhìn từ mức độ của cái Ta Biết, mà từ mức độ của Hiện diện TA LÀ. Cho nên con có thể nói, Hiện diện TA LÀ là đấng trông coi những gì đi vào căn thể, chứ không phải cái Ta Biết. Hiện diện TA LÀ nhìn vào mỗi trải nghiệm của cái Ta Biết, rồi nó quyết định xem có nên cho vào căn thể hay không.

Xong có thể con lại muốn hỏi thêm: “Nếu con đã có rất, rất nhiều kiếp sống, và trong nhiều kiếp như vậy, con đã đau khổ, nghèo khó, con đã sống một cuộc đời vô vị không có chuyện gì xảy ra, thì liệu Hiện diện TA LÀ sẽ rút tỉa được những gì?” Một phần nào đó, con có thể nói, nếu con sống qua bấy nhiêu kiếp sống mà cứ mãi lặp đi lặp lại cũng một khuôn nếp, thì đúng là Hiện diện TA LÀ không có kinh nghiệm mới nào để tích tụ. Nó đã trông thấy những gì nó cần thấy tử loại kinh nghiệm đó rồi, nhưng tuy vậy, nó có thể tích lũy những trải nghiệm này trong căn thể để chúng lần hồi hình thành mốt khối đủ lớn để giúp con có thể, từ mức độ cái Ta Biết, hòa điệu dễ dàng hơn và tiếp cận cái mà chúng ta có thể gọi là ký ức tích lũy, bộ nhớ tích lũy. Chính điều này sẽ giúp con quyết định là con không cần lặp lại trải nghiệm đó nữa. Con đã đủ chán chê rồi. Và nó có thể giúp con lấy quyết định ý thức sẽ nâng con lên một mức cao hơn, và ở mức cao hơn này, con sẽ có chiêm nghiệm khác, kiếp sống khác.

Phí phạm thời gian trên đường tu tâm linh

Hỏi: Trong một kiếp sống nào đó, tại sao nhiều đệ tử phải mất quá nhiều thời gian để tìm thấy các chân sư thăng thiên? Rồi một khi chúng con tìm được các thày, tại sao lại khó khăn và mất nhiều thì giờ đến vậy để phát hiện và kích hoạt Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Tại sao mất nhiều thời gian như thế? Tại sao quá nhiều thời gian bị phí phạm qua cách đó trong một kiếp người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C, Hoa kỳ, năm 2019. Đăng ngày 9/12/2019.

Cách thực sự để nhìn vấn đề này là không có thời gian nào bị đánh mất. Con phải kinh qua một số trải nghiệm trước khi con sẵn sàng tìm ra giáo lý trong tâm thức vỏ ngoài của con. Cách nhìn thực tế là con nói: “Tôi đã cần đến những trải nghiệm mà tôi đã có trước khi tôi tìm thấy các lời dạy, đó là để tôi mở tâm ra cho việc tìm thấy lời dạy.” Đây là cách tiếp cận thực tiễn.  

Bây giờ nếu con đi trở ngược lại trước thời internet, thì từ một góc nhìn thực tế, việc tìm kiếm giáo lý của chân sư thăng thiên từng khó khăn hơn rất nhiều. Vào thời đó, việc tìm kiếm có thể tốn nhiều thời gian hơn đến độ con có thể đã sẵn sàng phát hiện giáo lý nhưng con vẫn không tìm thấy giáo lý trong cõi vật lý. Thời nay với mạng internet, chuyện này ít là vấn đề hơn nhưng tất nhiên vẫn có thể xảy ra. Nhưng nói chung, con vẫn cần nói: “Tôi đã cần đến trải nghiệm đó để tôi có thể sẵn sàng, cho nên tôi sẽ không lo lắng là mình đã phí phạm thời gian hay không.”

Giờ đây con đã tìm ra giáo lý, một lần nữa con lại cần nhận ra là không có thời gian bị lãng phí ở đây. Việc phát hiện giáo lý chỉ là bước đầu của một tiến trình rất dài. Con cần thời gian để thể nhập các lời dạy, để chữa lành bốn thể phàm của con, để khắc phục mọi ngã tách biệt, để thanh lọc các luân xa và bao nhiêu việc nữa. Thẳng thắn mà nói, khi con tìm ra giáo lý, con đã hoàn thành một yếu tố quan trọng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi. Rất có thể là những gì con từng làm trước khi con tìm ra giáo lý cũng nằm trong Sứ vụ của con.

Con không thể giản dị bảo rằng chỉ khi nào con nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng của con trong ý thức thì con mới bắt đầu thực hiện Sứ vụ. Con đã bắt đầu từ tuổi thơ ấu rồi, vì con mang sẵn một cảm nhận nội tâm về Sứ vụ của con gồm có những gì, cho dù con không nhận biết ý thức hay con không thể diễn tả bằng lời nói.

Đa số những sự kiện xảy ra cho con trong kiếp này là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì Sứ vụ của con không chỉ là những gì con phải làm, mà còn là những trải nghiệm mà con có, cũng như bằng cách nào các trải nghiệm đó sẽ giúp con tăng triển. Điều quan trọng là con nên tránh bất kỳ cảm giác thất vọng nào là con đã tốn quá nhiều thời gian cho nên bây giờ con bị chậm trễ. Bởi vì cảm giác này thường khiến cho người ta rơi vào phản ứng mất cân bằng – mà sứ giả này đã mô tả – là con trở nên quá háo hức giành lại thời gian đã mất, con cố đền bù, thế là bỗng nhiên con phải đi cứu cả thế giới hay tự cứu chính mình trong vòng năm phút. Chuyện nó không xảy ra như vậy. Con vẫn cần kinh qua một tiến trình, và một phần của tiến trình này là nếm mùi một số trải nghiệm nào đó.

Các thày đã cố nói điều này nhiều lần: Không thể có chuyện tạo ra một chương trình hay ban ra một kiến thức nhất định sẽ lập tức thay đổi một con người. Ngay cả nếu con tưởng tượng các chân sư thăng thiên có thể thiết lập một khóa tu vật lý ở đâu đó, và giả dụ ta là vị thày trong khóa tu đó, vẫn không thể có chuyện con chỉ cần bước vào lớp học và ta ngồi đó dạy học, ta trao cho con kiến thức cùng hiểu biết, rồi sau một thời gian con bỗng giác ngộ.

Bởi vì để có thể thể nhập hiểu biết đó, con sẽ cần đến một số trải nghiệm nhất định, và trải nghiệm này sẽ tốn thời gian, nó là một tiến trình. Để khắc phục những cái ngã, con cần đến một trải nghiệm sẽ giúp con nhìn thấy ngã và nhìn thấy các khuôn nếp phản ứng của mình. Đây chính là hai khía cạnh Alpha và Omega: con nhận được giáo lý, nhưng cũng cần có trải nghiệm.

Một lần nữa, tại sao con lại nghĩ con đã phí thời gian? Thay vào đó, điều xây dựng hơn là nói rằng: “Tất cả chỉ là một phần của những trải nghiệm mà tôi cần. Làm thế nào tôi có thể sử dụng các lời dạy này tốt hơn từ giờ trở đi?”

Hiệu ứng giả dược (placebo)

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có thể nào nói nhiều hơn một chút về hiệu ứng giả dược (placebo), và hiệu ứng này thâm nhập qua bốn thể phàm như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. (Hoa Kỳ) năm 2019. Đăng ngày 6/12/2019.

Toàn bộ quan niệm hiệu ứng giả dược thật ra là một điều rất đáng tiếc. Nó do sa nhân giàn dựng. Nó được mô tả như là một hiệu ứng phụ, một chuyện gì bất thường không có tác dụng nào – hay  không được có tác dụng nào – trong lãnh vực y tế. Nhưng thực tế thì khác. Cái mà người ta gọi là hiệu ứng giả dược thật ra là tác nhân chữa bệnh chủ yếu, nó chính là hệ thống chữa bệnh của bốn thể phàm con người.

Con có thể nhìn thấy thực tế này một cách rất đơn giản qua sự kiện nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế công nhận rằng hầu hết mọi bệnh đều là bệnh tâm lý mang triệu chứng vật lý (psychosomatic) hay là bệnh có một thành phần tâm lý. Và con cần nhận ra đây chỉ đơn giản là một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance) khi ngành y khoa quá tập trung vào việc tìm kiếm những cách chữa trị vật chất cho một chứng bệnh tâm lý.

Làm thế nào con có thể một mặt thừa nhận rằng hầu hết mọi bệnh đều là tâm lý, trong khi mặt khác con lại nghĩ rằng một bệnh tâm lý chỉ có cách trị liệu vật chất mà thôi, rằng con có thể trị liệu mà không cần giải quyết tâm lý? Đây là sự bất nhất nhận thức, và trong các thập niên sắp tới, người ta sẽ nhìn ra đó là một trong những lối mòn quanh co nhất mà nhân loại đã bước lầm vào, đặc biệt trong lãnh vực điều trị. Hiệu ứng giả dược, như người ta gọi như vậy, cần được nghiên cứu và tìm hiểu, và người ta cần nhìn nhận rằng tâm con người, bốn thể phàm của con người, có khả năng tự chữa lành.

Và khi một người uống một viên thuốc rồi cảm thấy thuốc có tác động vật lý, thì điều thực sự xảy ra hoàn toàn ngược lại. Chính phương pháp trị liệu vật lý mới là giả dược vì nó đã kích hoạt ý tưởng trong tâm nghĩ rằng: “Tôi sẽ lành bệnh do tôi đã uống viên thuốc này.” Cho nên chuyện xảy ra hoàn toàn ngược lại: yếu tố trị bệnh là niềm tin rằng con sẽ được trị bệnh.

(Tất nhiên là có một số ngoại lệ như khi con bị té gẫy xương thì xương cần được chỉnh lại – ít ra ở mức tâm thức tập thể hiện tại.)

Sẽ tới một thời điểm trong thời đại hoàng kim khi bất kỳ bệnh tật nào cũng sẽ có thể được chữa lành qua những cách khác, những phương cách tâm lý hay rung động. Nhưng cốt lõi của vấn đề là tất cả đều xoay quanh quyền tự quyết. Cho nên câu hỏi đặt ra là: Cái gì sẽ đánh lừa tâm con người tin rằng nó có thể được chữa lành và sự chữa lành đó xảy ra qua trung gian một phương thức nào đó? Do đó nếu con định nghĩa hiệu ứng giả dược là một cách để đánh lừa tâm trí chấp nhận nó được chữa lành, thì con phải nói rằng ngành y khoa đối chứng* cũng là một giả dược. Phép chữa đó chỉ đánh lừa tâm con người tin và chấp nhận rằng nó có thể được chữa lành. Rồi sau đó điều này sẽ tác động lên cơ thể vật lý vì cơ thể vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn.

* Y khoa đối chứng: allopathic medicine, tức ngành y khoa quy ước dùng dược phẩm có tác dụng đối nghịch với các triệu chứng.

Giới trẻ tham gia trong vấn đề biến đổi khí hậu

Hỏi: Nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, say mê – thậm chí cuồng tín – chống lại cái loại nhiên liệu hóa thạch cũng như các hoạt động tạo ra khí thải carbon. Họ bảo rằng họ tranh đấu để cứu trái đất khỏi sự hâm nóng địa cầu. Con có giả thuyết là con người có ký ức trong linh hồn rằng loài người có khả năng gây ra những tai biến toàn cầu. Sau đó các sinh thể sa ngã đã nắm lấy ký ức đó để gán nguyên nhân tai biến cho ô nhiễm thay vì tâm thức sa ngã và nghiệp quả do sự lạm dụng ánh sáng. Thày có đồng ý với quan điểm này không? Xin thày bàn thêm là liệu thuyết hâm nóng toàn cầu nhân tạo có căn bản nào không? Nếu đó là lời dối gạt thì ai đứng đằng sau và tại sao? Và cuối cùng, tại sao có quá nhiều người và đặc biệt là giới trẻ lại bị mắc lừa đến thế?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 6/12/2019.

Chúng tôi đã bình luận về vấn đề hâm nóng toàn cầu trước đây và có nói rằng đây là một luận thuyết do các sinh thể sa ngã tạo ra, đặc biệt là để thao túng con người. Tuy nhiên, quả là có hiệu ứng hâm nóng đang diễn ra trên hành tinh, nhưng nguyên do là vì mức tâm thức tập thể bị tụt hậu so với mức phải có. Sự thể này gây ra một lực cọ sát khiến cho hành tinh nóng lên. Nguyên do không phải là nhiên liệu hoá thạch. Nhưng đúng đây là một vấn đề nhân tạo. Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết bằng cách nâng cao tâm thức chứ không bằng cách giảm lượng khí thải từ nhiên liệu hóa thạch. Ngay cả nếu ngày mai đây con giảm khí thải nhiên liệu hoá thạch, hay khí thải CO2, con vẫn sẽ thấy địa cầu tiếp tục hâm nóng, không nhiều như trước nhưng vẫn tiếp tục nóng lên.  

Vì vậy giả thuyết của con chính xác, là nhiều ý tưởng như thế do sa nhân tung ra khi họ gắn liền với sự hiểu biết của nhiều người là loài người có khả năng gây ra rất nhiều tai biến trên địa cầu, tạo ra những biến động cho các mô thức thời tiết hay động đất, v.v… Ta đã từng trình bày về điều này trong nhiều bài giảng ở đầu đợt truyền pháp này cũng như trong những đợt truyền pháp trước.

Tại sao có quá nhiều bạn trẻ lại rơi vào tròng như thế? Vấn đề thực sự ở đây, như ta đã có bàn trước đây, là ngày càng có nhiều người sẵn sàng bước vào giai đoạn mà Abraham Marslow gọi là các nhu cầu tự hiện thực hóa (self-actualization needs) là giai đọan con người bắt đầu tự hiện thực chính mình, nhưng vì họ lớn lên trong một xã hội phản tâm linh nơi cả đạo Cơ đốc lẫn chủ nghĩa duy vật không hướng dẫn họ hiểu được thế nào là tự hiện thực và phải làm gì để tự hiện thực, cho nên ho cảm thấy bất mãn. Họ bất mãn với cuộc sống, họ cảm thấy có điều gì thiếu sót, có điều gì sai trái.

Đồng thời, họ cũng cảm thấy họ có mặt ở đây là để có tác động tích cực. Vì thế họ tìm kiếm một loại chính nghĩa để đóng góp, và đây là tại sao rất nhiều người trong số họ bị lầm lạc vào một số chính nghĩa, không chỉ vấn đề khí hậu mà nhiều chủ thuyết khác mà họ đổ hết thiện chí cùng nhiệt huyết tuổi trẻ vào. Tất cả là vì họ nghĩ rằng họ sẽ giúp ích cho địa cầu, là điều mà họ biết họ cần phải làm trong đời này.

Nhưng trong đời này, điều mà họ cần phải làm là nâng cao tâm thức. Và đây chính là việc mà không ai đã chỉ dạy cho họ cách làm suốt những năm tháng lớn lên. Trong khi đó, họ cảm thấy họ đang làm một cái gì hữu ích khi họ đeo đuổi một chính nghĩa như vậy. Mặc dù họ đã sẵn sàng tiến trình hiện thực hóa, họ chưa thoát khỏi sự lầm lạc của tư duy trắng đen, và vì vậy họ tưởng là phải có một cách giản dị để định nghĩa rõ ràng thế nào là sai trái trên địa cầu. Họ cảm thấy có điều gì sai trái cho nên ở đâu đó phải có một giài pháp giản dị.    

Cơ thể và cái chết của một ngã tách biệt

Hỏi: Chuyện gì xảy ra trong cơ thể vật lý khi con để cho một cái ngã tách biệt chết đi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Điều này tùy thuộc vào bản chất của ngã tách biệt đó. Có một số ngã tách biệt liên quan tới một căn bệnh vật lý. Nếu con để cho ngã đó chết đi, nó có thể gỡ bỏ căn bệnh đó, thậm chí nó có thể chữa khỏi bệnh hoàn toàn.

Con cũng biết có một số ví dụ điển hình những người mắc phải một số triệu chứng nào đó, rồi khi họ chuyển sang một nhân cách khác thì các triệu chứng này biến mất. Trường hợp này có tên là hội chứng phân rẽ nhân cách (split personality syndrome), nhưng kỳ thực họ chuyển từ một ngã này sang một ngã khác và họ hoàn toàn đồng hóa với một cái ngã nào đó.

Khi con để cho một cái ngã chết đi, điều này có thể gỡ bỏ một chứng bệnh, nhưng thêm vào đó, nó cũng trao cho cơ thể vật lý nhiều năng lượng hơn, và trong nhiều trường hợp, nó sẽ khiến cho cơ thể thoải mái, thư giãn hơn. Chẳng hạn khi con khắc phục một cái ngã không ngừng đặt cơ thể vào trạng thái báo động do nó lo sợ một mối đe dọa nào đó ập tới bất cứ lúc nào, thì điều này có thể giúp con ngủ ngon hơn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều triệu chứng mất ngủ hay nhiều vấn đề liên quan đến giấc ngủ.

Có rất nhiều tác dụng như vậy, nhưng một số ngã liên quan nhiều hơn đến các thể cao là thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và do đó không ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể vật lý.

Câu hỏi về Nikola Tesla

Hỏi: Nhà khoa học Tesla có sẽ trở lại đầu thai trong Thời Hoàng kim?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Washington D.C., Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Dòng sống đã đầu thai như Nikola Tesla đã tái đầu thai rồi đó, và một lần nữa là một nhà khoa học. Chắc chắn ta sẽ không tiết lộ vị ấy là ai. Nhưng theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng câu hỏi thật vô nghĩa, vì tất nhiên Tesla đã không trở lại là Tesla. Khi con đã trải qua một kiếp sống, cho dù kiếp sống này có trải ra như thế nào, thì con học hỏi từ kiếp sống đó, con tăng triển từ kiếp sống đó. Và nếu con thật sự tăng triển – và Tesla là một trong những dòng sống đang tăng triển – thì con đâu có muốn lặp lại kiếp sống vừa qua của con. Con muốn thăng vượt nó, con muốn đi xa hơn.

Điều xảy ra là với một số nhân vật nổi danh như vậy, loài người trong hiện thân thường tạo dựng một loại hình ảnh biểu hiện cách họ nghĩ về người đó như thế nào. Trong hầu hết mọi trường hợp, hình ảnh này hoàn toàn xa lạ với con người thực của người đó. Thật ra họ đâu muốn Tesla trở về mà họ muốn hình ảnh của Tesla trở về, để Tesla làm tiếp những gì hình ảnh này sẽ làm nếu như kiếp sống trước của ông không bị gián đoạn. Cách nhìn này thật không thực tiễn.

Con biết không, thật ra con cần để yên cho dòng sống các nhân vật nổi tiếng đó được tự do bước tới theo ý của họ trên hành trình tâm linh riêng của họ. Nhưng có những người đang đầu thai tạo ra một lực kéo mãnh liệt đến độ nó có thể tác động đến các dòng sống và ngăn trở dòng sống tiến bước.

Đối với riêng bản thân ta, chắc chắn đây đã có thể là một tình thế mà ta phải đương đầu nếu như ta nổi danh hơn trong kiếp chót của ta. Nhưng vì loài người chỉ thực sự biết đến ta hàng mấy thế kỷ sau, cho nên đó đã không hẳn là một vấn đề cho ta. Nhưng đúng là đã có những vị nổi danh với tiềm năng thăng thiên, nhưng do họ cảm thấy lực kéo mãnh liệt của những ai đã biết đến họ khi họ còn sinh tiền, cho nên họ không buông ra được để mà bước đi tiếp.

Là một sinh thể tâm linh nghĩa là gì?

Hỏi: Khi các chân sư thăng thiên nói chúng con là người tâm linh, các thày muốn nói chính xác là gì? Và tất cả mọi dòng sống đều cơ bản là Tánh linh. Làm thế nào các thày tìm được một người tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Qua từ “người tâm linh”, chúng tôi trước hết muốn nói là một người không tự đồng hóa mình với xác thân vật lý, với tâm vỏ ngoài hay với nhân cách. Con nhận ra con là nhiều hơn thân xác của con. Con sẽ không chết và biến mất và bị tiêu diệt khi bộ não chết. Con cũng là nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài đã được nhào nặn khi con lớn lên trong một nền văn hoá và một hoàn cảnh gia đình đặc thù, và do đó con không bị hoàn toàn đồng hóa vào đó. Con càng vươn lên và vượt trên tâm thức vỏ ngoài đó thì con sẽ càng ít đồng hóa với xác thân và tâm vỏ ngoài, với văn hóa và nguồn gốc gia đình cùng đủ loại yếu tố khác.  

Và điều này có nghĩa, con bắt đầu nhận ra con là nhiều hơn cái mà hầu hết mọi người định nghĩa là một con người. Không phải con không là một con người nữa, con vẫn có một thể xác con người, nhưng con không còn hoàn toàn đồng hóa với một con người bị giới hạn trong cách định nghĩa của văn hóa con, cách định nghĩa rằng một con người chỉ có thể làm những điều này và không thể làm những điều kia. Con nhận ra là con có tiềm năng nâng cao tâm thức của con, chuyển vọt bản sắc của con hầu con không tự xem mình là một con người.

Sứ mạng của ta cách đây 2000 năm là gì? Điều ta đã cố giảng dạy là tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô. Tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô nhận ra là mình đến từ một nguồn cội cao hơn. Con không đến từ bụi và sẽ trở về với bụi. Và do đó con có tiềm năng nâng cao tâm thức, khoác lấy tâm Ki-tô và chuyển vọt ý thức bản sắc của mình. Và con đồng hóa, con tự nhận mình là một sinh thể tâm linh, là một đứa con của Thượng đế, là nhiều hơn cái định nghĩa hạn chế và hẹp hòi về con người.   

Tất nhiên, mọi thứ đều có thể bị tự ngã lạm dụng, và một số người tâm linh đã suốt nhiều năm tháng sử dụng lời dạy trên để tự đặt mình vào một địa vị tự hào tâm linh nơi họ cảm thấy vượt trội hơn người khác bởi vì họ mang danh là “người tâm linh”. Nhưng một lần nữa, không có gì mà các chân sư thốt ra mà không thể bị hiểu sai. Vậy đây là định nghĩa ngắn gọn của một sinh thể tâm linh: con không hoàn toàn tự đồng hóa là một con người. 

Làm cách nào đi đến khóa nhập thất tâm linh?

Hỏi: Khâu hậu cần của việc đi tới các khóa nhập thất tâm linh là như thế nào? Có phải là có thiên thần đến mời con đi, hay thể bản sắc của con tách rời ra khỏi cơ thể vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Không có thiên thần nào đến mời con đi dự khoá nhập thất tâm linh, mà con tự mời chính mình – con đi một mình. Đó là một điều con có thể làm một cách ý thức khi con là đệ tử cùa một chân sư thăng thiên, nhưng không có nghĩa là con phải làm ý thức để đi dự khóa nhập thất. Thường chuyện này đã khởi sự từ nhiều kiếp trước, khi con dần dần xây đắp một động lượng hòa điệu với một thực tại cao hơn, cho dù con xem thực tại đó là gì. Điều này có nghĩa là con mong muốn học hỏi, rồi con có thể đi học ban đêm, con đi học và con bắt đầu du hành. Thường khi con đi học trong thể bản sắc, có nghĩa là thể bản sắc của con đi tới khóa nhập thất. Khi con nói là thể bản sắc tách rời khỏi cơ thể vật lý thì điều này không nhất thiết là xây dựng.

Con cần thận trọng ở đây và nhận ra là chúng tôi các chân sư đã đưa ra một số hình ảnh nói rằng khóa học nằm trong cõi ether bên trên một số địa điểm vật lý. Lý do là vì lời dạy này đã được đưa ra vào một thời mà mọi người có tâm thức đường thẳng hơn nhiều. Nhưng tất nhiên, khoảng cách và địa điểm vật lý chỉ có ý nghĩa trong cõi vật lý mà thôi, chứ trong cõi bản sắc thì nó không ý nghĩa gì nhiều lắm.

Không đúng hẳn là thể bản sắc của con phải tách rời khỏi cơ thể vật lý, như chẳng hạn con ở Hoa Kỳ mà phải đi đến đảo Crete để nhập khóa học của thày Hilarion. Nói đúng hơn, con cần hòa điệu với độ rung của khóa nhập thất.

Sau đó con có thể tham gia khóa nhập thất trong thể bản sắc của mình mà không phải thật sự rời xác thân vật lý. Bởi vì, một lần nữa, trong cõi bản sắc không thật có địa điểm vật lý đó. Nhưng nếu một số người cảm thấy việc hình dung thể bản sắc của mình tách ra khỏi cơ thể và du hành đến địa điểm nhập thất là chuyện hữu ích, thì đó cũng là một cách chính đáng để hình dung. Con nên nghĩ là một khi con tiến xa hơn trên đường tu, con sẽ có thể bỏ lại những hình ảnh như vậy.

Đó cũng là cùng lý do tại sao trong đợt truyền pháp này, chúng tôi đã không trao truyền bất cứ chân dung mới nào của các chân sư thăng thiên, và chúng tôi cũng không khuyến khích các con sử dụng. Nếu có ai cảm thấy nhu cầu dùng chân dung thì tất nhiên, họ có thể tự do làm điều đó. Chúng tôi không muốn đề xướng chuyện này vì sẽ tới một điểm khi con cần có khả năng hòa điệu với sự hiện diện của chúng tôi mà không cần nhìn vào một bức chân dung, hoặc nghe thấy nốt nhạc đặc biệt của chân sư, hay bất kỳ phương cách vỏ ngoài nào khác. Không phải là nó sai trái, mà nó đặc thù với một giai đọan trên đường tu. Chúng tôi mong có thể giúp được nhiều người trong số các con vươn lên cao hơn giai đoạn đó để không còn cần đến nữa.

Nhìn và nghe thấy thân nhân sau khi minh qua đời

Hỏi: Sau khi xác thân qua đời, liệu một người có thể nghe thấy hay nhìn thấy thân nhân trong vòng 40 ngày?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa kỳ năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Đây là một vấn đề tùy thuộc vào tâm thức cá nhân, tức là khi đó người quá cố đang ở trong tâm thức nào. Và cũng là vấn đề người đó có dễ dàng cởi bỏ để bước tới nơi dừng chân kế tiếp của mình hay không. Thời gian 40 ngày không phải là một con số nhất định. Một số dòng sống sẽ nhìn thấy và nghe thấy thân nhân của mình trong một khoảng thời gian, nhưng thời gian này không nhất định.

Vấn đề là người đó có còn gắn bó, ràng buộc đến mức nào với gia đình của mình hay với cuộc sống cũ của mình trong cõi vật lý. Người đó sẵn sàng đến chừng nào để buông nhả cuộc sống đó ra hầu tiến bước tới giai đoạn kế tiếp?

Một số dòng sống sẽ bước tới nhanh nhẹn đến độ họ không bao giờ nghe thấy gì. Một số khác, như câu thành ngữ quen thuộc, lại thích tham dự đám tang của mình, thích nghe hay mục kích buổi tang lễ, hay lắng nghe người khác nói gì về mình. Đối với học trò của chân sư thăng thiên, mục tiêu của con là bước đi ngay lập tức sau khi con rời thân xác. Con bước tới và con nhìn theo ánh sáng, con dõi tìm cái đường hầm đó, rồi con bước vào đường hầm, bước tới ánh sáng ở cuối đường hầm. Và con sẵn sàng gặp gỡ những ai đang đón chờ con ở đó trong ánh sáng.

Một người thương cảm có thể đối phó với năng lượng của người khác như thế nào

Hỏi: Khi con ở gần một số người hay khi con đến một số nơi, con cảm thấy hơi bị choáng ngợp bởi những gì người ta đang làm hay phải chịu đựng. Làm cách nào con có thể biết đâu là năng lượng của con và đâu là năng lượng mà con tiếp thu từ người khác? Làm thế nào một người thương cảm, hay đồng cảm (empath), có thể học cách lèo lái trong những tình huống rất đau buồn nhưng không phải là tình huống của mình? Làm thế nào đem lại ánh sáng mà không cảm thấy kiệt lực?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C., Hoa kỳ, năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Khi con ở gần người khác, đặc biệt khi họ vô cùng động cảm, năng lượng mà con cảm thấy luôn luôn là năng lượng của họ, hay đó là phản ứng của con trước năng lượng của họ. Điều con cần xem xét trong cả hai trường hợp là tại sao con lại phản ứng. Con cần nhìn vào khuôn nếp phản ứng của con và nhìn ra tại sao con lại bị cuốn hút vào khuôn nếp đó hết lần này đến lần khác. Con sẽ phát hiện đằng sau những khuôn nếp như vậy là, tất nhiên, có một cái ngã. Và đằng sau mỗi cái ngã là một loại tin tưởng nào đó cho rằng, chẳng hạn, trong tư cách là một người tâm linh thì con phải có lòng thương xót đối với người khác, và cách để thương xót là con cảm được năng lượng, hay con hứng lấy năng lượng của họ để họ nhẹ bớt gánh nặng.  

Nhiều người tâm linh có một tin tưởng rất giống như vậy, tuy không nhất thiết được diễn tả với những từ đó. Con cần sử dụng lời dạy của chân sư thăng thiên về quyền tự quyết, cho tới mức con nhận ra là con không đang giúp cho người khác tăng triển bằng cách khoác vào năng lượng của họ, mà thật ra con đang giúp họ giữ nguyên trạng thái tâm thức cũ do con đã làm dịu gánh nặng của họ. Chính điều này cho phép họ cứ tiếp tục ở lại trong trạng thái tâm thức đó.

Tất nhiên con có thể thỉnh sự bảo vệ tâm linh để niêm phong trường năng lượng của con khỏi mọi sự xâm nhập. Nhưng thực tế là con cần giải quyết cái khuôn nếp phản ứng đó, cái ngã tách biệt đó khiến con cảm thấy mình phải phản ứng lại những người đó. Con có thể nói định nghĩa của người thương cảm là một người cảm thấy mình phải phản ứng lại cảm xúc của người khác thay vì có cảm xúc của riêng mình.

Rất, rất nhiều người tâm linh đã bước vào động lượng mong muốn giúp đỡ người khác đến độ họ phủ nhận cảm xúc của mình. Gần như thể họ đẩy cảm xúc của họ sang một bên, và họ cảm thấy họ không có những cảm xúc đó. Họ không nhận diện được cảm xúc riêng của họ. Điều này, tất nhiên, không có gì lành mạnh và không phải là điều sẽ dẫn con lên các tầng tâm thức cao hơn.

Con cần sẵn lòng nhìn vào cảm xúc của mình và biết mình đang cảm thấy gì. Tất nhiên là khi con vươn lên tâm thức Ki-tô, vượt qua ngã gốc và ngừng cá nhân hóa trong cuộc sống, thì con sẽ không còn loại tình cảm thấp kém đó nữa. Nhưng con vẫn có những tình cảm cao hơn. Bởi nếu không có tình cảm, con sẽ không thể thị hiện được điều gì trong bát cung vật lý, vì tiến trình thị hiện chính là khi năng lượng cùng các tâm ảnh đi xuống từ tầng bản sắc qua tầng lý trí vào tầng tình cảm rồi mới xuống đến tầng vật lý.

Thời nay, rất nhiều người tâm linh đã trở thành quá trí thức đến độ họ cố nhảy qua giai đoạn cảm xúc để đem thẳng từ tâm lý trí xuống vật lý, nhưng chuyện này không thể làm được.

Truyền thống thần bí trong Giáo hội Chính thống và Giáo hội Công giáo

Hỏi: Cơ đốc giáo Chính thống (Giáo hội phương Đông) có khác biệt cơ bản với Công giáo (Giáo hội phương Tây hay Giáo hội La mã) là pháp tu thần bí gọi là Hesychasm (gốc chữ Hy lạp Hesychia có nghĩa là im lặng, là một pháp tu thần bí dựa trên một số kỹ thuật thiền định trong truyền thống Giáo hội phương Đông).

Khác với Công giáo đã đi theo con đường thiết lập thần học, Cơ đốc giáo Chính thống đã chọn con đường thần bí để trải nghiệm sự hợp nhất với Ki-tô qua kinh nghiệm tâm linh trực tiếp – là con đường tự thăng vượt của con người trong Ki-tô. Thày có nhận xét gì về góc nhìn so sánh giữa hai tôn giáo này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Trong truyền thống Công giáo cũng có những khía cạnh thần bí. Ngay cả trong một số hội thánh Cơ đốc Tin lành, con cũng tìm thấy một số khía cạnh thần bí. Và dĩ nhiên, con có những nhà thần bí Cơ đốc trong truyền thống Công giáo đã đạt đến những mức tâm thức rất cao. Thần bí có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo nhưng không là chính mạch ở đâu cả.

Một điều con cần nhìn nhận ở đây là mặc dù có những điểm khác biệt giữa hai giáo hội Chính thống và Công giáo, Giáo hội Chính thống cũng vẫn bị tác động bởi cùng một tư duy đã lập ra Giáo hội Công giáo. Và con sẽ thấy là đã có một thời cả hai giáo hội đã phát triển song song với nhau theo cùng một cách thức trước khi phân ra làm hai.

Có rất nhiều khía cạnh tương đồng, hay cách suy nghĩ tương đồng, đã che khuất con đường thần bí đối với quần chúng nói chung. Luôn luôn đã có những người có khả năng nhìn vượt khỏi các giáo điều và các nghi lễ vỏ ngoài để tìm thấy con đường thần bí, tuy nhiên đối với quần chúng thì tất cả các giáo hội Cơ đốc đã che lấp thực tại mà ta giảng dạy cũng như thực tại của đường tu. Con có thể nói là các giáo hội thường thường đã được thiết lập để ngăn cản không cho quần chúng rộng lớn tìm thấy và bước đi trên con đường đích thực dẫn đến quả vị Ki-tô.

Đó chính là cách mà sa nhân đã định nghĩa các giáo hội đó. Nhưng sa nhân cũng biết là sẽ có một số người không xem đó là đủ, và họ sẽ tìm kiếm con đường thần bí. Cho nên điều mà sa nhân đã cố làm là cho phép những người như vậy bước đi trên con đường thần bí, nhưng họ vẫn phải nằm trong phạm vi của giáo hội vỏ ngoài, cho dù là Chính thống hay Công giáo. Đó là lý do con có khái niệm gọi là những nhà thần bí Cơ đốc.

Kỳ thực, nếu con đã là thần bí thì con là một sinh thể phổ quát. Con có khả năng bước vào truyền thống Cơ đốc hay truyền thống Ấn giáo hay truyền thống Phật giáo hay truyền thống Hồi giáo, mà vẫn thăng vượt được truyền thống đó. Con dựa vào nền tảng truyền thống đó mà vẫn bước đi trên con đường thần bí, nhưng con không thật sự là một nhà thần bí Cơ đốc hay thần bí Ấn giáo hay thần bí Phật giáo nữa. Bởi vì khi con càng bước xa hơn trên đường tâm linh, thì việc nhìn thấy tính phổ quát đằng sau mọi tôn giáo vỏ ngoài càng trở nên quan trọng hơn.

Một điều mà Giáo hội Công giáo, chẳng hạn, đã làm với một số những nhà thần bí đó là tâng họ lên thành bực thánh, qua đó giáo hội giành lấy quyền sở hữu họ và không để cho tính phổ quát của họ được tỏa sáng. Và trong nhiều trường hợp, các nhà thần bí không thể biểu hiện tính phổ quát này và cẫn coi mình là nhà thần bí Cơ đốc. Đây là điều mà chúng ta cần thăng vượt trong thời đại hôm nay. Chúng ta cần góp chung lại tất cả các nhà thần bí từ mọi nguồn gốc, và nhìn nhận rằng đằng sau tất cả những truyền thống vỏ ngoài đó, có một con đường phổ quát mà không một truyền thống nào có thể đóng khung hay sở hữu.

Chuyện này thật là giản dị. Ki-tô không hề cấp bằng sáng chế cho bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào trong thế giới con người.

Khác biệt giữa nội giác và thần nhãn

Hỏi: Có sự khác biệt nào giữa nội giác hay nhãn quan nội tâm (inner vision) và thần nhãn (clairvoyance) không? Đệ tử của chân sư thăng thiên có cần phát triển một khả năng nhìn? Và nếu vậy, liệu có kỹ thuật đặc biệt nào để phát triển khả năng nội giác hay thần nhãn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Vấn đề này tùy theo con dùng từ như thế nào. Trong cách dùng từ của các thày, các thày không nói đến thần nhãn vì từ này đã bị nhiều nhóm người sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Thay vào đó nói chung, các thày dạy về khả năng nội giác, và thật sự các thày không có ý giống như khi người ta nói về thần nhãn, vì điều người ta muốn nói là có ai đó có khả năng nhìn thấy – nhìn thấy cả trong vật lý – hào quang chẳng hạn, hay nhìn thấy cõi trung giới hay những loại hiện tượng khác. Điều các thày mong muốn đệ tử của mình phát triển không phải là cái con thường gọi là thần nhãn mà là nội giác, tức là khả năng nhận được những ấn tượng từ bên trong nội tâm con.

Nhưng này, có một số người thiên về thị giác nhiều hơn, thì việc nhìn thấy hình ảnh hay hiểu được những gì được trình bày bằng hình ảnh sẽ dễ dàng hơn đối với họ. Có một số người khác thiên về thính giác nhiều hơn, cho nên họ hiểu dễ hơn khi họ dùng tai nghe. Các thày không muốn nói ở đây là cách này hay cách kia tốt hơn, mà kỳ thực khi các thày trình bày về nội giác, các thày có ý nói là trên hết con nhận được một ấn tượng trực giác từ bên trong. Và cho dù ấn tượng này đến với con dưới dạng hình ảnh mà con nhìn thấy bằng con mắt nội tâm, hay dưới dạng từ ngữ mà con nhận được từ cái ta cao của con, hay thậm chí dưới dạng những cảm giác vi tế hơn mà con nhận được từ cái ta cao hay từ các thày, thì đây chỉ do con là loại người như thế nào và con tiếp nhận các ấn tượng đó dễ dàng như thế nào. Không cứ là cách này sẽ tốt hơn cách kia.

Nhưng chung chung, điều các thày muốn nói qua từ “nội giác” là con không mở mắt ra nhìn thấy một vật gì đó ở cõi vật lý hay ngay cả vượt khỏi cõi vật lý. Đây là một cái gì diễn ra bên trong tâm con và thật không liên quan gì đến giác quan vật lý của con.

Hầu hết mọi người khi họ đề cập đến khả năng thần nhãn, họ muốn chỉ ra một cái gì liên quan đến giác quan, thường thường một sự nối dài của giác quan. Nói cách khác, con nhìn thấy những năng lượng mà hầu hết mọi người không thấy được bằng mắt thường, bằng con mắt vật lý. Đây không phải là điều các thày cốt ý khuyến khích con phát triển. Nếu nó xảy ra thì nó xảy ra, đó là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Nhưng có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh, đã ấp ủ tham vọng này ví dụ như mở con mắt thứ ba. Và điều này thường hay đem lại hậu quả không xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm nữa là đằng khác, vì có thể họ cưỡng ép cho mắt thứ ba phải mở ra để họ có khả năng nhìn thấy cõi trung giới – một chuyện họ sẽ rất khó lòng đương đầu hay đối phó.

Điều các thày khuyến khích là một cách tiếp cận quân bình hơn nhiều. Vậy con có thể làm gì để phát triển nội giác? À, con bước chân trên đường tu, con sử dụng các dụng cụ mà các thày đã ban truyền. Đầu tiên, con cần giải tỏa các năng lượng thấp khỏi ba thể cao của con, nhưng con cũng cần giải quyết tâm lý của con, giải quyết những cái ngã đang ngăn cản con nhận được ấn tượng từ cái ta cao của con và từ các thày.

Ma quỷ và vai trò của lý trí

Hỏi: Trong giáo lý của các chân sư thăng thiên có lời dạy là tà lực không có khả năng trực tiếp gây tổn thương vật lý cho con người. Tuy nhiên có nhiều trường hợp đã được ghi lại và được cho là đáng tin cậy về sự xâm hại thể chất do tà lực gây ra. Liệu các trường hợp này là hoàn toàn hư cấu hay sao? Xin các thày có thể giải thích những hiện tượng như ma quỷ tác động lên đồ vật trong cõi vật lý? Chúng con muốn hiểu rõ hơn về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Ukraine năm 2019. Đăng ngày 1/11/2019.

Kể từ quyển sách của thày Maitreya [Master Keys to Spiritual Freedom] trở đi, các thày đã trình bày về sự kiện là có một số địa điểm trên trái đất nơi sự rung động thấp đến độ có thể xảy ra một hiện tượng mà các thày gọi là hiệu ứng giao nhau (crossover effect) giữa cõi trung giới và cõi vật lý. Đây là vì sao con có thể có nhiều loại hiện tượng khác nhau, và trong một số trường hợp các hiện tượng này cũng có thể là vật lý.

Khi các thày nói là tà lực không có khả năng tác hại đến thể chất của con người, các thày muốn nói đến một người bình thường tương đối khỏe mạnh về cả thể chất lẫn tâm lý. Nhưng tất nhiên, có những người ở trong một trạng thái tâm thức thấp hay rối loạn đến độ họ có thể tạo ra hiệu ứng giao nhau kia, khi độ rung của cõi vật lý xích lại gần độ rung của cõi trung giới đến mức năng lượng từ cõi trung giới có thể ảnh hưởng hay tuôn vào cõi vật lý. Sự kiện này có thể tác hại đến cơ thể vật lý hay gây ra một số triệu chứng khác.

Hiện tượng ma quỷ, một lần nữa, chỉ đơn giản là do hiệu ứng giao nhau mà có. Thậm chí đã từng có những nghiên cứu tương đối khoa học trong ngành tâm lý khi một nhóm người tụ họp lại một cách đều đặn và cố tạo ra một con ma (poltergeist). Có những trường hợp họ đã thành công tạo ra tiếng gõ trên tường hay những loại hiện tượng như vậy.

Cho nên điều này cho con thấy là tâm có một sức mạnh nào đó để tạo ra một số hiện tượng. Các thày không phủ nhận khả năng của tâm tạo ra đủ loại hiện tượng, nhưng các thày cũng nói là nếu con là một người khỏe mạnh bình thường thì các thày không muốn con sống trong nỗi lo sợ tà lực có thể tác động đến con một cách vật lý. Và chắc chắn khi con là một đệ tử sử dụng các bài chú bảo vệ tâm linh, con không cần phải sống trong nỗi sợ này.

Nhưng điều tự nhiên là một khi tâm thức tập thể được nâng lên, sẽ tới một thời điểm khi nhiều loại hiện tượng hiện nay không có lời giải thích vật chất sẽ bắt đầu phổ biến hơn. Và điều này sẽ mở đầu một giai đoạn khi quần chúng sẽ có một nhận thức tổng quát cao hơn về các hiện tượng, và tiếc thay, nó cũng sẽ khiến cho một số người rơi vào trạng thái sợ hãi các hiện tượng này có thể làm hại đến họ.

Nếu con quay trở ngược vài thế kỷ, con sẽ thấy là trên thế giới đã có rất, rất nhiều địa điểm nơi dân chúng, hay ít ra đại đa số dân chúng phải sống trong nỗi sợ các hồn ma, tà lực, quỷ dữ, yêu tinh – đủ loại hiện tượng mà hầu hết mọi người ngày nay đều cho là không thực. Điều xảy ra thuở đó tất nhiên là hiệu ứng giao nhau giữa cõi vật lý và trung giới khiến người ta trải nghiệm đủ loại hiện tượng. Cho nên để vượt ra khỏi giai đoạn tiến hóa đó của loài người, nhiều người đã phải đi vào tâm thái duy lý, qua đó họ chỉ đơn giản bác bỏ các hiện tượng là có thật và nhờ vậy họ không để cho chúng ảnh hưởng đến họ.

Nhưng khi chúng ta nâng cao nhận thức tập thể và bắt đầu vượt lên trên thời đại duy lý này, thì một lần nữa chúng ta lại đi vào một giai đọan phải ứng phó với các hiện tượng. Các thày hy vọng là con người sẽ ứng phó ở một mức trưởng thành hơn, tức là sẽ không rơi vào sợ hãi mà sẽ có khả năng nhận ra sự hiện hữu của những cõi năng lượng vượt khỏi vật chất. Trong những cõi này có những sinh thể sinh sống, và chúng có thể tìm cách chi phối con người theo những cách không mấy tích cực. Cho nên con cần nhận thức điều này và biết cách tự vệ, và cách tự vệ chủ yếu là nâng cao tâm thức của mình, qua đó con không cần đi vào sợ hãi mà ngược lại con có thể nhìn nhận là nó có mặt nhưng con không sợ.

Đây chính là điều đã xảy ra vào thời Trung cổ khi người ta thừa nhận là hiện tượng có mặt nhưng họ lại sợ hiện tượng, họ chạy trốn các tà lực cùng những đường xâm nhập của tà lực vào tâm thức họ. Cũng vì vậy mới có nhu cầu khiến họ suy nghĩ là hiện tượng không thực, để họ đóng tâm lại không cho hiện tượng xâm nhập vào. Nhưng giờ đây chúng ta cần bước lên một độ trưởng thành hơn qua đó con có khả năng nhận ra là có cái gì ở đó, nhưng con cũng có sự phân biện để nó không ảnh hưởng được con. Cho nên con nhìn nhận là các lực thấp có mặt nhưng đồng thời các lực cao cũng có mặt, tức là các chân sư thăng thiên với khả năng trợ giúp con qua nhiều cách.

Vậy thì một lần nữa, sẽ có một nhận thức cao hơn về lãnh vực này như con đã thấy ở một số quốc gia có những người cởi mở với các hiện tượng. Và tất nhiên cũng sẽ có một số người – mong rằng chỉ một số ít – sẽ có phản ứng sợ hãi và rơi vào tâm trạng bị động. Nhưng mong rằng phần lớn mọi người sẽ phản ứng một cách trưởng thành hơn và có được khả năng phân biện để nhìn nhận sự hiện hữu của tà lực mà không bị chúng xâm chiếm, và nhờ vậy cũng nhìn nhận sự hiện hữu của các lực ánh sáng và xây dựng mối quan hệ với các thày. Có nghĩa là con có thể nhìn vào tà lực mà không rơi vào sợ hãi.

Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con nên nhận ra là con đã đạt được một mức điều ngự nào đó cho phép con công nhận sự hiện hữu của sa nhân và các loại tà lực khác mà không rơi vào trạng thái sợ hãi hay hoảng loạn. Nhưng con có thể chỉ đơn giản chấp nhận nó, con thỉnh cầu, con nhìn vào bản thân xem mình có bị các lực này ảnh hưởng hay không, xong con tự giải thoát khỏi ảnh hưởng này qua các dụng cụ tâm linh cùng sự trợ giúp mà các thày cống hiến.

Và điều rất quan trọng là người khác cũng đạt đến được điểm này giống như con. Tất nhiên con có thể, nếu con mong muốn, thỉnh gọi để một số người con quen biết, hay loài người nói chung, khắc phục được nỗi sợ vẫn còn ở đó. Bởi vì như thày vừa nói, tuy vào thời Trung cổ người ta sợ hãi các lực này và nhìn nhận chúng có mặt, thì thời nay người ta chối bỏ sự thật về các lực này nhưng trong tiềm thức vẫn mang một nỗi sợ nào đó mà họ không thể nhận diện. Và các nhà duy vật thì không thể giúp họ thoát khỏi nỗi sợ này.

Điều này sẽ chỉ xảy ra khi ai nấy nhìn nhận sự hiện hữu của một cái gì đó, nhưng đồng thời cũng đủ phân biện để nhìn ra là tuy nó có mặt nhưng con có thể tự giải thoát, tự bảo vệ khỏi nó. Con có thể nâng cao tâm thức đến mức các lực này không thể ảnh hưởng đến con.

Mục đích của giấc ngủ

Hỏi: Đâu là mục đích của giấc ngủ? Chúng ta biết rằng cơ thể chúng ta nếu thiếu ngủ sẽ suy yếu và cuối cùng sẽ chết. Nhưng điều đó chỉ giải thích hậu quả của sự thiếu ngủ. Mục đích của giấc ngủ là gì? Đó có phải là một phần trong thiết kế của các Elohim khi tạo dựng hành tinh này hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Hoà Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Như con nói, mục đích của giấc ngủ là để sống còn, bởi vì cơ thể cần ngủ để sống còn. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu sâu hơn. Giấc ngủ không nằm trong kế hoạch ban đầu của các Elohim bởi vì trên một hành tinh tự nhiên, người ta không cần ngủ. Lý do phần nào là vì người ta không có một xác thân dày đặc như cơ thể vật lý của các con hiện nay trên địa cầu. Nơi đây, các cơ thể vật lý dày đặc hơn và do đó cần đến sự nghỉ ngơi đó.

Nhưng giấc ngủ cũng mang một khía cạnh tâm linh – bởi vì khi con ngủ, con thoát ra khỏi tâm ý thức.Và khi chúng ta biết rằng trên địa cầu có nhiều yếu tố căng thẳng đến chừng nào, thì rất, rất nhiều người thực sự có nhu cầu thoát khỏi tâm ý thức một vài tiếng đồng hồ mỗi đêm, vì nếu không thì họ sẽ phát điên – trong nghĩa đen của từ này. Và con cũng thấy được điều này ngay cả khi con là người tâm linh, con có thể bị cuốn trôi vào một tâm trạng nào đó, một cảm giác bực dọc nào đó, và nếu cảm giác này cứ kéo dài 24 tiếng một ngày, bảy ngày trên bảy, thì nó có thể leo thang đến mức biến thành một vòng xoáy ngày càng cuồng nhiệt khó lòng nào thoát khỏi. Thật là quan trọng con có được thời gian nghỉ ngơi đó.  

Đương nhiên giấc ngủ cũng quan trọng vì khi ngoại tâm được vô hiệu hóa, con có thể dùng các thể thanh cao của con, hoặc chính cái Ta Biết của con, để chu du vào cõi ether nơi các chân sư thăng thiên mở lớp nhập thất nơi con có thể học hỏi, tìm hiểu, nhận sự hướng dẫn cũng như sự chữa lành. Cho nên trong khi ngủ, con cũng có khả năng tinh tấn trên đường tu tâm linh.  

Rất nhiều người trong số các con thức dậy với một sáng ngộ hay một hiểu biết mà con không hề có trước khi đi ngủ và con cũng không nhất thiết đã suy nghĩ về đề tài đó vào ngày hôm trước. Đây là một ví dụ cho thấy là con vẫn đem theo trong tâm ý thức của con một số điều nhận biết mà con đã học hỏi nơi các khóa nhập thất tâm linh vào ban đêm.

Làm thế nào học nhiều giáo lý cùng một lúc mà được ích lợi từ tất cả

Hỏi: Trong một đợt giáo lý trước của chân sư thăng thiên, chủ yếu là Thông thiên học (Theosophy) và Agni Yoga, có khái niệm Manvantara gốc từ Ấn độ giáo. Đó có phải là cùng một thứ với các bầu cõi trong giáo lý mới nhất cuả chân sư?

Theo Wikipedia, Manvantara là một từ Phạn, là từ ghép của manu và antara. Nghĩa đen là khoảng thời gian hay tuổi thọ của một vị Manu. Mỗi chu kỳ Manvantara được tạo ra và cai quản bởi một vị Manu đặc thù, và Manu thì được sinh tạo bởi Brahma, tức là chính đấng Sáng tạo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Đấy đấy, con yêu dấu, chúng ta đang gặp phải sự giới hạn của ngôn từ cũng như cách diễn giải mà người ta áp đặt lên ngôn từ. Con sẽ thấy là trong Thông thiên học chẳng hạn, đã có nhiều nối kết hơn giữa Đông và Tây, và vì thế, các chân sư đã mượn một số khái niệm từ các giáo lý và tôn giáo Đông phương để minh họa một số điều không dễ diễn tả trong giáo lý Tây phương vào thời điểm đó. Luôn luôn sẽ có giới hạn khi con cố làm điều này. Mặc dù con có thể bảo là có sự tương đồng giữa khái niệm Mantanvara và khái niệm chu kỳ, cách diễn tả đặc thù này như được hiểu trong Ấn giáo không hẳn ăn khớp với giáo lý mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã ban ra về các bầu cõi. Nói rộng ra thì tất nhiên có thể nói, bầu cõi cũng là một hình thức chu kỳ.

Tuy nhiên, con cần hiểu là luôn luôn có một bối cảnh văn hóa nhất định trong mỗi giáo lý được ban ra. Con nhìn xem giáo lý của Ấn giáo được đưa ra ở nơi đâu, xong con nhìn vào văn hóa phương Đông, tư duy của người phương Đông, thì con nhận thấy giáo lý đó được truyền giảng cách đây rất lâu khi tâm thức tập thể ở một trình độ thấp hơn bây giờ. Kiến thức con người cũng ở mức thấp hơn, cho nên những gì có thể được giảng dạy vào thời đó bắt buộc bị giới hạn.

Đó là tại sao – ta có thể nói thế này – có một số điểm tương đồng, nhưng con đừng nên dùng tâm phân tích đường thẳng để so sánh những lời dạy cũ với lời dạy mới, đừng tìm cách đối chiếu xem khái niệm đó trong Ấn giáo có ăn khớp hoàn toàn với khái niệm trong giáo lý hiện thời của chúng tôi hay không. Làm như vậy sẽ không đem lại kết quả đâu. Nếu con thực sự muốn so sánh như vậy, con sẽ cần thấu hiểu hoàn toàn bối cảnh văn hóa và ý nghĩa mà người dân trong nền văn hóa đó gói ghém trong ngôn từ được sử dụng. Tại sao con lại có nhu cầu làm chuyện đó khi con đã lớn lên tại phương Tây vào thời nay?

Giản dị là con hãy sử dụng các khái niệm mà con có ở đây, sử dụng các giáo lý mà chúng tôi ban ra lúc này, và tận dụng nó một cách tối ưu. Nếu con cởi mở với giáo lý mà chúng tôi đang giảng dạy, con cần nhận ra rằng tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự, và sẽ có những thời điểm khi chúng tôi phải thoát ra khỏi giáo lý cũ nếu muốn đưa giáo lý lên một mức cao hơn. Giáo lý cũ đó đã được đẩy xa tối đa trong khả năng hạn chế của ngôn từ cũng như của bối cảnh văn hóa. Và chúng tôi phải bắt đầu lại ở một mức cao hơn và không quan tâm đến những gì mình đã giảng dạy trước kia, như khi có người nhìn vào đó và diễn giải, “Đây hình như là một điểm khác biệt hay một điểm mâu thuẫn”.

Chúng tôi không thể đưa ra giáo lý ở mức cao hơn mà không đánh mất một số học trò cứ dùng tâm đường thẳng để tìm điểm mâu thuẫn. Chúng tôi đã quyết định là, giản dị, mình không thể lo lắng về chuyện đó. Con sẽ thấy là trong quá khứ, chúng tôi đã có xu hướng đưa một đợt truyền pháp đến một điểm khi hoặc vị sứ giả, hoặc các đệ tử, không thể thăng vượt được mức tâm thức đó nữa. Và như vậy, chúng tôi đã phải bỏ lại tổ chức đó và khởi sự một tổ chức mới có nhiều tự do hơn để vươn lên cao hơn. Đây là một điều mà chúng tôi vẫn có thể làm ngày hôm nay. Tuy nhiên, vì sứ giả này và rất nhiều đệ tử đã sẵn lòng bước lên cao hơn mấy lần rồi, cho nên chúng tôi đã không cần phải làm vậy.

Chúng tôi đã có thể bước lên một trình độ cao hơn, như vài năm trước đây với giáo lý về bất nhị, hay với giáo lý về cái Ta Biết, rồi giáo lý về phàm linh nội tại, giáo lý về ngã tách biệt cũng như quyển sách “Những cuộc đời của tôi”. Mỗi lần như vậy, sẽ có một số học trò sử dụng tâm đường thẳng để so sánh lời giảng mới với lời giảng cũ. Ho sẽ phát hiện những điều gì đó có vẻ là mâu thuẫn từ góc cạnh của tâm đường thẳng. Thay vì bước vào sâu hơn và nhìn vượt khỏi những mâu thuẫn bề ngoài để đạt được hiểu biết thâm sâu, thì họ lại dùng tâm vỏ ngoài chú mục vào những điểm mà họ xem là xung khắc, và họ phóng vào đó ý tưởng cho rằng những điểm này bắt buộc phải có vấn đề.

Lời khuyên của ta luôn luôn là như sau: Con hãy nhận ra là mặc dù giáo lý của các đợt truyền pháp trước vẫn có thể có giá trị, nhưng đó là kết quả của một tiến trình tiết lộ tuần tự. Cho nên ta sẽ nói với con, những giáo lý mới nhất mà con mở tâm ra để nhận lấy, chính là giáo lý mà con nên ôm lấy và tận dụng.

Con vẫn có thể tìm hiểu các lời dạy cũ bởi vì lời dạy đó vẫn còn chính đáng, tuy nhiên con đừng sử dụng tâm phân tích đường thẳng để tìm kiếm những sự khác biệt hay mâu thuẫn mà con cho là có thật. Thay vào đó, con hãy nhìn vượt khỏi tâm đường thẳng, hãy sử dụng trực giác để vươn tới một cách hiểu cao hơn về các vấn đề. Nếu con làm vậy, con sẽ có khả năng học hỏi nhiều giáo lý cùng một lúc mà vẫn rút tỉa lợi ích từ tất cả các giáo lý đó. Lợi ích này sẽ không đến qua tâm phân tích đường thẳng, mà qua tâm trực giác.

Nếu con chưa chán trải nghiệm mà ngã cho con, con sẽ chưa bỏ được ngã

Hỏi: Có người bảo là con có thể gạt bỏ ngã tách biệt khi con thấy nó, nhưng nó vẫn có thể ở lại trong tâm tiềm thức của con, và các chân sư sẽ không thể loại nó ra khỏi con nếu con còn bám lấy nó trong tiềm thức. Làm thế nào con có thể khiến cho tâm tiềm thức nhả ngã tách biệt ra, để nó được lấy đi? Làm thế nào con có thể ngăn tâm tiêm thức phóng chiếu ra những hình ảnh bất toàn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Ta ưa cách nói thế này hơn: Con hãy từ bỏ ý tưởng cho rằng tâm tiềm thức của con đang có một sự sống riêng biệt nào đó. Cái có sự sống riêng biệt là những cái ngã tách biệt. Chúng có thể ngụ trong tiềm thức của con. Không phải tâm tiềm thức con phóng chiếu những hình ảnh đó vào tâm ý thức của con, mà là ngã tách biệt.

Điều xảy ra là con có thể đạt tới mức khi con có thể nhìn thấy một ngã tách biệt nào đó, và con thấy một số hậu quả mà nó gây ra, nhưng rất có thể con không sẵn sàng nhìn vào nó và loại bỏ nó đi. Lý do phần nào có thể là cái ngã đó đã cho con một loại trải nghiệm nào đó và con chưa cảm thấy chán chê trải nghiệm đó.

Cho nên con làm ngơ không nhìn ngã, hay con đẩy nó vào tiềm thức hầu con không phải nhìn nó hoài hoài. Điều này có thể xảy ra cho một số người, và trong trường hợp này, giản dị con chỉ cần nói: “À, mình chưa chán ngấy những trải nghiệm mà cái ngã cho mình, vậy tại sao phải lo lắng về ngã? Tại sao lại cố vứt bỏ nó đi? Hãy trải nghiệm nó cho tới khi mình chán ngấy.”

Để loại trừ một ngã tách biệt, không những con phải nhìn thấy nó, nhìn thấy nó đang làm gì, mà con cũng phải nhìn ra được niềm tin hay quyết định đã tạo ra ngã tách biệt. Con phải nhìn thấy những hạn chế của nó, thấy nó đang giới hạn con ra sao, thấy nó xa rời thực tại như thế nào, và nó xuất phát từ một cái nhìn giới hạn và ảo tưởng tới đâu. Và một khi con thấy được ảo tưởng đó, cái niềm tin đứng đằng sau ngã tách biệt, đó là lúc con sẽ tự nhiên buông nó ra. Con không cần phải quyết định buông bỏ với tâm vỏ ngoài của con. Con chỉ cần cảm nhận được nhãn quan của con đã thay đổi, và con thả cho ngã ra đi.

Tất nhiên, con có thể nói là có những cái ngã tách biệt trong tiềm thức đang phóng chiếu hình ảnh vào tâm ý thức của con. Trong nhiều trường hợp, điều đó cũng có thể là những lỗ hổng trong các thể tình cảm và lý trí của con mà qua đó các tà lực đang phóng hình ảnh vào tâm ý thức của con. Nếu thế, cách hay nhất để giải quyết vấn đề này là kêu gọi sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, và kêu gọi Astrea cắt đứt mọi dây buộc con vào tà lực. Làm như vậy có thể sẽ đem lại cho con sự nhẹ nhõm tạm thời, nhưng hiển nhiên, cái đã tạo ra lỗ hổng ngay từ đầu là ngã tách biệt, và do đó cho tới khi con loại bỏ được ngã tách biệt thì con sẽ không thể hoàn toàn thoát ra được.

Một lần nữa, có rất, rất nhiều người trên thế giới, không nhất thiết là người tâm linh nhưng trong số đó có cả người tâm linh, đang có một ngã tách biệt nào đó đem lại cho họ một trải nghiệm mà họ chưa sẵn sàng buông bỏ. Điều này tạo ra một lỗ hổng mà qua đó các tà lực có thể phóng chiếu hình ảnh vào tâm họ, nhưng họ không thể làm gì được trừ khi họ sẵn lòng buông bỏ ngã.

Các bài thỉnh vận hành như thế nào ở mức tâm lý?

Hỏi: Các bài thỉnh vận hành như thế nào ở mức độ tâm lý? Thày đã có đề cập đến việc thỉnh cầu năng lượng cao, và những làn sóng của bài thỉnh tác dụng trên năng lượng thấp như thế nào. Nhưng xin thày giải thích bài thỉnh vận hành như thế nào về mặt tâm lý? Chẳng hạn, việc lặp lại các từ ngữ trong khi mình tập trung vào chúng có khiến cho ý nghĩa đằng sau từ ngữ thâm nhập vào tâm tiềm thức, tạo ra những thay đổi ở mức sâu xa, hay là có tiến trình nào khác hơn nữa?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Trong các đợt truyền pháp trước, chúng tôi tập trung chủ yếu vào các bài chú (decrees) vì đó là nhu cầu vào thời buổi đó, đặc biệt là cho tâm thức tập thể. Bài chú có tác dụng thỉnh cầu năng lượng một cách vô cùng cô đặc, nhưng nó chỉ đơn giản thỉnh cầu năng lượng. Cho nên câu hỏi đặt ra là, con làm gì với năng lượng đó? Và chúng tôi đã thấy nhiều đệ tử quá tập trung vào việc đọc chú đến độ họ không làm việc trên tâm lý của họ. Đó là lý do tại sao lúc đầu ta đã thảo ra những bài nguyện tràng hạt (rosaries) sau này trở thành những bài mà chúng tôi gọi là bài thỉnh (invocations). Trong bài thỉnh, con có sự phối hợp của bài chú nhằm thỉnh cầu ánh sáng, đi đôi với những lời khẳng định xen vào giữa để chuyển đổi cách nhìn của con về các sự việc.

Và đúng vậy, nếu con cởi mở, nếu con chú tâm vào ý nghĩa lời đọc chứ không chỉ lặp lại một cách máy móc, thì những lời khẳng định đó trong bài thỉnh có thể có tác dụng thách đố những cái ngã mà con đang có.  Và nó cũng sẽ thách đố những tin tưởng đằng sau ngã đó. Và điều này lần hồi có thể đưa con tới một điểm khi con có khả năng nhìn ra ngã đó, nhìn ra tin tưởng đó, nhìn ra ảo tưởng, và con tự tách mình ra khỏi nó. Đây là một điều mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã phát triển trước khi chúng tôi cảm thấy sẵn sàng đưa ra lời dạy về ngã tách biệt, nhưng nó vẫn giúp cho người đọc làm việc trên ngã tách biệt của mình cùng những tin tưởng đằng sau ngã tách biệt.

Bây giờ nói đến những bài thỉnh về những điều kiện xảy ra trên thế giới. Khi con đọc những lời khẳng định đó, và bởi vì con là người đang hiện thân, cho nên con phóng chiếu những lời đó vào tâm thức tập thể. Và chúng có khả năng thách đố những ảo tưởng mà nhiều người đang cầm giữ – không phải tất cả mọi người vì một số có tâm quá khép kín. Nhưng đối với những ai cởi mở, họ sẽ bỗng nhiên cảm thấy như thể mình bị xáo trộn trong tâm khảm, nếu có thể gọi như vậy. Và nếu họ sẵn lòng, sau một thời gian, các ý tưởng đó có thể tuần hoàn xuống tâm ý thức, và đột nhiên họ nhìn ra một ao tưởng. Giống như khi con bừng tỉnh dậy và nhìn ra một điều gì đó mà trước kia con không thể nhìn thấy. Và giờ đây họ sẽ nói: “Ử nhỉ, chuyện này thật là hiển nhiên. Tại sao suốt bao nhiêu lâu mình không nhìn ra được?”

Có điều gì nữa xảy ra khi đọc con đọc bài thỉnh hay chăng? Có, có chứ, theo nghĩa là mọi con người đều nối kết với nhau. Thay vì nói như câu hỏi vừa rồi rằng tất cả chúng ta đều là một, ta thích bảo rằng mọi con người đều nối kết với nhau. Bởi vì nói như vậy thì ngụ ý là khi con đọc một bài thỉnh, con có khả năng tác động lên tập thể bằng cách kéo nó lên cao hơn. Nói cách khác, con đang nâng cao tâm thức cá nhân của con, và mặc dù con không cần làm gì hung hãn trên tâm thức mọi người, con vẫn kéo được tâm thức tập thể đi lên vì con là một thành phần của tập thể. Và vì thế con kéo nó đi lên.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng tác dụng là gì khi con chỉ là một người đơn độc trong khi cả hành tinh có đến bảy tỳ người?” Ấy nhưng nó vẫn có tác dụng, và càng nhiều người làm thì tác dụng sẽ càng lớn. Và một lần nữa, con hãy nhìn lại lịch sử mà xem, làm thế nào thay đổi đã xảy ra? Làm thế nào các thể chế dân chủ đã ra đời? Là bởi vì một số người đã nâng cao nhận biết của mình, và sự nâng cao này đã kéo theo cả tập thể đến một điểm đột pha khi bấy giờ việc thiết lập một quốc gia dân chủ trở thành một khả năng hiện thực. Mỗi lần một sự thay đổi tích cực đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử thì một tiến trình tương tự đã có mặt. Nó khởi đầu với một số cá nhân nâng cao tâm thức mình, rồi lần hồi nó đạt đến túc số cần thiết khi nó tác động ở mức tập thể, ngay cả trong cõi vật lý.  

Cách đối phó với lời chỉ trích của người khác

Hỏi: Con có một câu hỏi về cách đáp ứng và chìa má bên kia khi có đồng nghiệp nơi sở làm chỉ trích và xem thường con. Con thường phản ứng với cảm giác xấu hổ, xong con cố biện minh và tự bào chữa. Con nhận ra chính là cái ngã cảm thấy xấu hổ và muốn tự bào chữa. Thật là khó để con bỏ qua mà không có bất kỳ phản ứng nào. Làm thế nào con có thể đáp ứng lại mà không kích hoạt một phản ứng “chiến hay chạy”?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Ta đề nghị con nên khởi sự bằng cách nhìn vào tình huống và lượng định xem cái giá phải trả trong cách cư xử hiện thời của con là gì cũng như lợi ích mà con gặt hái. Con sẽ thấy là cách tiếp cận đó kéo con vào một phản ứng qua đó con luôn luôn bị mất an bình, rồi càng ngày con càng khó lòng hòa hợp với người khác do con kháng cự lại những gì họ nói với con. Con có thể thấy được cách phản ứng của mình mang một cái giá, xong con thử nhìn xem giá đó là gì rồi quyết định con có muốn trả tiếp hay không, hay là con muốn bước ra khỏi nó. Nếu con bước ra khỏi nó, con sẽ thấy có tới mấy cái ngã đang hiện diện ở đây.

Thường thường có một cái ngã cưỡng chống lại việc con tự xem xét mình, nó kháng cự không muốn nhìn vào bản thân vì có một cái ngã thứ nhì muốn khiến con xấu hổ hay muốn phán xét khi con nhìn vào một điều gì đó chưa giải quyết. Có thể con sẽ tới một điểm khi con sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã ban truyền để nhận diện và tách mình ra khỏi những cái ngã đó, và con ngộ ra là con không có vấn đề gì cần giải quyết, và con để cho những ngã đó chết đi.

Con cũng sẽ khám phá có một cái ngã sâu hơn đứng đằng sau, gắn liền với toàn bộ quan điểm cho rằng con phải là người toàn hảo, hay là người không bao giờ lầm lỗi. Đây chính là cái ngã đã tạo ra – nếu có thể nói như vậy – hai ngã kia, nhưng nó nằm ẩn sâu đằng sau hai ngã kia do con bị bận tâm trong phản ứng “kéo và đẩy” khi con kháng cự lại lời phát biểu của người khác. Con có thể đạt tới điểm là con phát hiện cái ngã nằm sâu ở dưới đó và nhận ra là nó hoàn toàn không thực.

Trước hết, không hề có trạng thái nào là toàn hảo. Thứ hai, đó là một sự lập trình rất sâu kín trong tâm lý tập thể do các sa nhân tạo dựng; nó quy định rằng con phải sống đúng theo một chuẩn mực toàn hảo mà không một ai có thể đạt được. Con có thể nhìn ra ngã đó, và một lần nữa, con nhìn ra là nó không thực. Con không phải sống theo một chuẩn mực toàn hảo khi không một ai có thể định nghĩa chuẩn mực đó là gì. Trong tư cách một con người, con không phải toàn hảo mà chỉ cần liên tục tăng triển. Cho đến hết phần còn lại của cuộc sống trong hiện thân, con sẽ tiếp tục tăng triển.

Một khi con thấy được điều này, con nhận ra là việc nhìn thấy một cá tính nào đó trong bản thân mình, hay việc người khác chỉ ra một điểm gì đó nơi mình, thật sự không là cái gì con cần kháng cự lại, bởi vì chính nó sẽ giúp con tăng triển. Một khi con vứt bỏ những ngã đó đi, con sẽ thấy là con có thể hoàn toàn trung hòa khi người khác nói gì về con. Trong nhiều trường hợp, con thấy được là rất có thể điều họ nói không hợp lý chút nào, và nó dựa trên một nhận thức thiên vị hay thiếu khách quan. Nếu đó là một cấp trên tại sở làm, thì thay vì con phản bác lại hay tự bào chữa hay chứng minh là họ sai lầm, con có thể thoát ra nhẹ nhàng và thích ứng với người đó, hầu con có mối quan hệ tốt đẹp hơn với họ, xong con chỉ việc tiếp tục công việc của mình.

Một lần nữa, vấn đề chính ở đây là con xem xét những cái ngã đó đang kéo con vào phản ứng. Trên cơ bản, như chúng tôi đã có giảng trước đây, mỗi khi con cảm thấy một sự xáo trộn bên trong, con sẽ biết ngay sự xáo trộn đó đến từ một ngã tách biệt. Khi cái Ta Biết biết rõ nó là ai và nó là gì, thì con chỉ đơn giản là một người quan sát trung dung. Trong cái Ta Biết không hề có phản ứng đó.

Nếu trong con có căng thẳng thì con biết có ngã tách biệt hoành hành

Hỏi: Trong tâm con có một ý nghĩ đang lớn dậy, và con hơi lo ngại không hiểu đó có phải là một ảo ảnh. Nội dung của ý nghĩ đó là làm cách nào cải thiện môi trường trên địa cầu và cải thiện hệ thống giáo dục. Sự thôi thúc muốn thực hiện ý nghĩ đó cứ xảy ra đều đặn, nhưng đồng thời con lại không chắc chắn con có khả năng làm được. Con rất muốn biết đó có phải là viễn quan mà tâm thức con đang có, hay đó chỉ là một ảo ảnh tình cờ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Nhiều người ngày nay cũng như suốt các thời đại đã từng có một khuôn nếp tương tự. Và một lần nữa, hình như ta cứ lặp lại điều này, vì câu trả lời là mỗi khi con có một sự căng thẳng, thì căng thẳng đó đến từ một trong số những ngã tách biệt, hay trong đa số trường hợp, từ hai cái ngã tách biệt đang chống đối nhau. Cho nên như ta vừa trả lời trong câu hỏi trước, có một ngã tách biệt khiến con bị thôi thúc phải đạt được điều gì đó, rồi có một ngã tách biệt khác khiến con ngờ vực, hoặc con tự phê bình là liệu mình có khả năng thực hiện được hay không. Cho nên điều cần làm là con làm việc trên những ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu có sự căng thẳng thì con biết là có những cái ngã tách biệt đang hoành hành. Và như vậy con cần dọn sách chúng đi, hầu con có được một viễn quan sáng rõ hơn về nội dung của sứ vụ thiêng liêng của con.

Chúng tôi đã thấy suốt các thời đại, hay ít ra trong những thập niên qua, rất, rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã nắm lấy các giáo lý của chúng tôi rồi trở nên vô cùng nóng lòng – nếu có thể nói như vậy – muốn xông ra ngoài và thay đổi thế giới, có thể là thay đổi hệ thống giáo dục hay môi trường hay cái này cái nọ. Và như thế họ gần như bị ám ảnh bởi động lực muốn cải sửa thế giới. Nhưng động lực này thường do một cái ngã tách biệt muốn đánh lạc hướng họ khỏi con đường đích thực, là con đường nhìn vào chính bản thân mình. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã quá tập trung vào chuyện cứu nguy thế giới để giúp thày Saint Germain đến độ họ nghĩ rằng: “Ồ, tôi không cần phải xem xét tâm lý của mình bởi vì nếu tôi cầu thỉnh đủ Lửa Tím, nó sẽ làm tiêu sạch nghiệp quả của tôi, và khi đó tâm lý tôi sẽ được giải quyết.” Và đó là tại sao giờ đây các chân sư đang kêu gọi các con hãy nhận ra là điều này hoàn toàn không đúng.

Con sẽ không thăng thiên nếu con không nhìn vào tâm lý của con. Cho nên một lần nữa, con hãy tự xét xem, mỗi khi có sự căng thẳng, mỗi khi có áp lực, mỗi khi con không thoải mái, mỗi khi con có sự thôi thúc ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) muốn làm một điều gì đó, thì con phải tìm xem những ngã tách biệt nào đang gây ra tình trạng đó. Và khi nào chúng chết đi, thì khi đó con có thể theo đuổi những gì thực sự nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con sẽ có được viễn quan về nội dung của sứ vụ thiêng liêng, xong con có thể thực hiện từ một trạng thái nội tâm an bình. 

Liên lạc với phàm linh nội tại

Hỏi: Câu hỏi này là về việc giao tiếp với các phàm linh. Chúng con cần bốn thể phàm hiện thân trong vũ trụ vật chất để có thể tăng triển. Con được biết là trong bốn thể phàm này có một số phàm linh nội tại (internal spirits) cũng được tạo ra để giúp mình tăng triển và trải nghiệm trong kiếp hiện thân. Ở một điểm nào đó trong tiến trình tăng triển tâm linh này, liệu chúng con sẽ giao tiếp với các phàm linh này qua một số tín hiệu như ngôn ngữ hay cảm xúc trong một số tình huống cụ thể? Liệu chúng con có thể liên lạc với các phàm linh được tạo ra để phản ứng lại một số tình huống trong kiếp hiện thân? Và con có thể giao tiếp với Hiện diện TA LÀ của con theo cùng cách đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Câu hỏi được đặt ra dựa trên một sự hiểu lầm. Điều các thày gọi là phàm linh nội tại không được tạo ra để giúp con tăng triển tâm linh. Chúng được tạo ra để phản ứng lại những tình huống mất cân bằng, thiếu hài hòa mà con gặp trên địa cầu. Có một sự tương đồng rất lớn giữa những gì các thày gọi là phàm linh và ngã tách biệt. Cho nên việc giao tiếp với phàm linh không mang tính xây dựng nào vì chúng sẽ chỉ đơn giản giữ chặt con lại, khiến con phải dính dấp với chúng để chúng đoạt năng lượng của con, để con phải tập trung chú ý vào đó thay vì chú tâm vào việc giải thể phàm linh.

Nếu con cố liên lạc với chúng, gần như chắc chắn con sẽ tự buộc mình vào những phàm linh có cùng bản chất hiện diện trong cõi trung giới hay cõi lý trí, thậm chí cả cõi bản sắc thấp, và điều này có thể khiến con bị mắc bẫy vĩnh viễn. Con tưởng là con đang giao tiếp với một thực thể thiện lành nào đó nhưng đơn giản chúng chỉ đang kéo con xa khỏi điều sẽ thực sự giúp con tăng triển tâm linh, là việc giải thể các phàm linh, giải thể các ngã tách biệt.

Tiến trình giao tiếp với Hiện diện TA LÀ của con không giống như vậy. Như các thày đã có đề cập, tất nhiên có những người nghĩ rằng Hiện diện TA LÀ của họ là một sinh thể bên ngoài mà họ có thể liên lạc, giống như khi con gọi điện thoại cho ai đó. Con cho rằng Hiện diện TA LÀ của con ở đâu đó ngoài kia và con cần tìm số điện thoại của Hiện diện TA LÀ của con, con cần gọi số này và nói chuyện với Hiện diện từ xa. Như các thày đã giảng, nếu Hiện diện TA LÀ làm vậy, nó sẽ chỉ củng cố cảm nhận tách biệt của con đối với Hiện diện mà thôi. Cho nên con không liên hệ với Hiện diện TA LÀ của con theo cách đó.

Và hiển nhiên, các thày không khuyến khích con giao tiếp với các linh thể trong ba cõi phàm – cõi cảm xúc, cõi lý trí và cõi bản sắc – vì trong bản chất các cõi này không phải là cõi thăng thiên, cho nên các linh thể này chưa thoát khỏi ý muốn tư lợi. Chúng có thể tương đối vô hại và không nhất thiết là xấu ác, nhưng dẫu sao chúng rất dễ biến thành một ngõ cụt cho con. Và rõ ràng các phàm linh con đang mang trong bốn thể phàm của con cũng chưa thăng thiên, cho nên chúng bị buộc chặt với những tà thể khác nằm ngoài tâm thức con, những tà thể trong tâm thức tập thể, trong cõi trung giới.

Và một lần nữa, đây chỉ là một ngõ cụt không lối thoát. Nó có thể giữ chặt sự chú ý và năng lượng của con trong một thời gian vô hạn định cho đến khi con quyết định là con đã chán chê và muốn thực sự tiến bộ tâm linh qua việc giải thể phàm linh, giải thể các ngã tách biệt. Nhưng điều này đòi hỏi con lấy một quyết định là con sẽ sẵn lòng bỏ ra công sức, sẵn lòng nỗ lực làm công việc nội tâm, thay vì đi theo con đường có vẻ an nhàn là giao tiếp theo một cách mà con quen thuộc.

Phật tánh là gì?

Hỏi: Phật tánh là gì?


Trả lời của Chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Phật tánh mà có thể diễn tả được bằng lời nói chỉ là một khái niệm. Con có câu mở đầu tuyệt vời của Đạo Đức Kinh rằng Đạo mà nói được thành lời không phải là Đạo thật. Phật tánh cũng tương tự như thế. Như các con vừa thảo luận và chúng tôi cũng có đề cập trước đó, giác ngộ là một khái niệm. Con người sống trong vô minh và họ đau khổ. Chúng tôi phải chỉ ra cho họ thấy là có một con đường để thoát khỏi khổ đau. Chúng tôi phải cho họ một mục đích và bảo rằng: “Đây là điều mà các con có khả năng đạt được khi các con vượt qua vô minh.”  Nhưng như chúng tôi đã nói, giác ngộ chỉ là một khái niệm. Và nếu con sử dụng tâm nhị nguyên để hình thành một ý tưởng trau chuốt về bản chất của giác ngộ, con sẽ đẩy giác ngộ đi ra thật xa, bởi vì giác ngộ là khi con ngừng nhìn cuộc sống qua tâm nhị nguyên.

Phật tánh là gì? Đó là một khái niệm mà ta đã diễn đạt bằng lời. Mục đích khi ta diễn đạt như vậy thực sự là, trước hết, để nói rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng vươn lên khỏi vô minh. Vào thuở xa xưa khi ta giảng dạy, các sinh thể sa ngã chưa bày ra khái niệm về tội lỗi nguyên thủy, cho nên lúc ấy chưa có khái niệm là con người được sinh tạo như một sinh thể khiếm khuyết phải cần đến một Đấng Cứu thế từ ngoài. Khi ta nói là mọi người đều có Phật tánh ở bên trong, điều ấy có nghĩa là bất kể trình độ tâm thức của con trên địa cầu, con cũng có tiềm năng nối kết lại với Phật tánh và như vậy vượt lên khỏi vô minh.

Nhưng hơn thế nữa, muc đích cũng là để chứng tỏ rằng mọi người đều có Phật tánh trong mình. Chính khi con nối kết lại với Phật tánh của con trên bình diện cá nhân, con mới có thể thực sự nối kết với người khác. Và cách duy nhất để phát triển Tăng đoàn của Phật là phải có những cá nhân đã tái nối kết với Phật tánh trong mình. Một khi con đã thấy Phật tánh trong mình thì con cũng thấy được Phật tánh bên trong người khác, và khi có nhiều người nối kết được với Phật tánh, họ sẽ nối kết lại với nhau ở một mức cao hơn, đạt được sự hợp nhất trọn vẹn hơn. Đó là cách hình thành Tăng đoàn thực sự của Phật, chứ không chỉ là một cộng đồng vật lý của những người sống chung với nhau, học tập cùng những giáo lý và đọc cùng những bài kinh kệ. 

Trên hết, đó là một sự nối kết trong tâm thức. Và tất nhiên, trong một ý nghĩa rộng hơn nữa, tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Toàn bộ vũ trụ vật chất này nẩy sinh ra từ Phật tánh, và điều này một lần nữa sẽ giúp con vượt lên trên ý thức tách biệt, vượt lên trên cảm nhận con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất.

Nếu con cảm thấy con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất, con sẽ rất dễ dàng rơi vào cái bẫy như thời trẻ của ta khi ta thử nghiệm với tu tập khổ hạnh. Cái bẫy đó là xem cõi vật lý, vũ trụ vật chất, là kẻ thù của phát triển tâm linh, xác thân con là kẻ thù của sự thăng tiến và do đó con phải hành nó bằng đủ mọi cách tu tập cực đoan nhất. Nhiều người tâm linh cũng đã bước vào ngõ cụt này khi họ cưỡng chống lại cuộc sống trong cõi vật lý trong khi họ sống ngay giữa cõi vật lý. Và họ nghĩ rằng bằng cách kháng cự lại cõi vật chất, họ sẽ lên được cõi tâm linh – vào được Niết bàn và giác ngộ.     

Nhưng con không thể giác ngộ bằng cách cưỡng chống, bởi vì làm vậy sẽ chỉ giữ con ở lại trong vòng nhị nguyên, ở lại trong vô minh. Như trong kinh Pháp cú có nói, nó sẽ giữ con lại trong những cặp nhị đối. Khi con nhận ra là vũ trụ vật lý cũng chính là Phật tánh, con sẽ ngừng chống cự, con sẽ ôm lấy sự sống và ôm lấy cơ hội hiện thân trong một xác thân vật lý. Chỉ khi nào con ôm lấy vận hội đó, rằng con có một xác thân vật lý trên địa cầu, thì con mới đạt được tự do để rời khỏi địa cầu, bởi vì khi nào con chưa ôm lấy được hoàn toàn thì con sẽ không thể thực sự đi đâu khác.    

Các phong trào nữ quyền tại Hàn quốc

Hỏi: Câu hỏi này là về nữ quyền. Hiện nay xung đột giới tính là một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội Hàn quốc, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Với chủ trương mở rộng quyền lợi phụ nữ và nâng cao vị thế của phụ nữ ở nơi làm việc, nữ quyền dường như là một phong trào khuyến khích cả phái nam lẫn phái nữ cân bằng hai khiá cạnh nam-nữ của họ, và như vậy đó là một viễn quan gần hơn với một xã hội tâm linh. Tuy nhiên, các nhà hoạt động nữ quyền này lại có những lời tuyên bố gây xung đột trong xã hội, chẳng hạn như mạnh mẽ hỗ trợ việc bãi bỏ luật phá thai, hay đòi hỏi phụ nữ phải đạt túc số nhất định trong các chức vụ cao cấp. Khi con thấy điều này, con nghĩ họ có liên hệ với tâm thức sa ngã nhằm kích động xung đột giữa hai phái. Chúng con nên hiểu phong trào nữ quyền tại Hàn quốc như thế nào từ một góc nhìn tâm linh, và phong trào này đang tác động xã hội Hàn quốc ra sao?     


Trả lời của chân sư Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 15/10/2019.

Nếu con nhìn những gì đã xảy ra tại các nước dân chủ Tây phương trong các thập niên trước, con sẽ thấy một mô thức phần nào cũng tương tự như những gì đang xảy ra ngày hôm nay tại Hàn quốc, nghĩa là để khắc phục nền văn hóa cũ trọng nam khinh nữ, nơi phụ nữ bị lấn át và chỉ có phái nam mới được xem là có phẩm giá, thì con phải phá vỡ những khuôn mẫu cũ ở một mức độ nào đó.

Tại hầu hết các nước Tây phương, con thấy được là đã có một phong trào nữ quyền hiển nhiên là mất cân bằng nếu nhìn từ góc cạnh tâm linh. Rõ ràng là có một số nhà hoạt động nữ quyền cực đoan có quan hệ với sa nhân. Họ toan tính sử dụng phong trào nữ quyền để gây ra chia rẽ và xung đột trong xã hội. Thậm chí có cả một số sa nhân, thay vì muốn thiết lập bình quyền giữa hai phái, lại muốn lật ngược tình thế và trao ưu thế cho phái nữ, như đã từng xảy ra trong một số nền văn minh thời quá khứ không được các sử gia hiện đại biết đến.

Cho nên các sa nhân luôn luôn có khuynh hướng sử dụng bất kỳ thay đổi nào trong xã hội để tạo ra hỗn loạn và xung đột, hoặc để đưa xã hội về một hướng mất quân bình hơn trước.

Tuy nhiên, các thày cũng từng nói, và thày Giê-su cũng đã có những lời dạy quan trọng về vấn đề này, có những trường hợp khi xã hội đã lâm vào bế tắc trong một thời gian rất dài. Và vì bế tắc kéo dài quá lâu, cho nên nó đã sinh sản ra những con quỷ tập thể hùng mạnh cưỡng chống lại thay đổi, và trong tâm thức tập thể có một số khuôn nếp chống đối lại thay đổi. Vì vậy trước khi thay đổi có thể xảy ra, các khuôn nếp cũ này cần được phá bỏ, hầu con người thoát ra khỏi mô thức tư duy quen thuộc và khởi sự suy nghĩ một cách mới mẻ. Điều này có nghĩa là những hành động này rõ ràng là mất cân bằng. Nhưng trong ngắn hạn, tác động của chúng là đập vỡ các khuôn đúc cũ hầu mọi người được tự do xem xét vấn đề một cách mới hơn. Và đây chính là điều đang xảy ra với phong trào nữ quyền tại Hàn quốc, cũng như đó là điều đã diễn ra tại các nước Tây phương trong những thập niên trước.

Cho nên với tư cách là người tâm linh, điều mà con có thể làm là, tất nhiên, con tránh để mình bị lôi kéo vào những phong trào cực đoan hơn. Con có thể, nếu con ưa thích, hoạt động để tranh đấu cho một quan điểm cân bằng hơn. Nhưng quan trọng hơn nữa, con có thể thỉnh cầu để kêu gọi một quan điểm cân bằng hơn trong vấn đề này. Như con thấy, ngay bây giờ đã có một sự quân bình nào đó trong xã hội Hàn quốc khi nhiều người nhận ra đây là vấn đề phá vỡ khuôn đúc cũ và thiết lập bình đẳng thực sự giữa nam và nữ.

Nhưng điều này không có nghĩa là người nam và người nữ gíống nhau. Rõ ràng nam và nữ khác nhau, và do đó họ sẽ có những vai trò khác nhau. Nhưng họ vẫn có thể được xem là có giá trị bình đẳng, có tầm quan trọng bình đẳng. Như chúng tôi có nói, rõ ràng hiện nay có một nhu cầu sinh vật học thiết yếu là các em bé được sinh ra từ bụng mẹ, và vì vậy một trong hai phái phải lãnh trách nhiệm sinh con. Và đó là phụ nữ. Điều này không có nghĩa là có gì bất công. Cũng không có nghĩa là phụ nữ phải nổi loạn chống lại, bởi vì con người cần nhận ra là mình không bị kẹt trong cơ thể phái nữ mãi mãi. Con có thể thay đổi cơ thể của mình mỗi lần con đầu thai trong một kiếp mới, và trong một kiếp tương lai, con có thể có một cơ thể phái nam nếu con muốn như vậy.

Cho nên con không nên có cảm giác là có sự bất công nào đó trong vũ trụ nếu con sinh ra trong một cơ thể phái nữ trong kiếp này và nghĩ rằng con là người phải chịu gánh nặng sinh nở. Vấn đề này sẽ tàn lụi đi khi các xã hội bắt đầu thiết lập được bình đẳng thực sự giữa hai phái. Ngay bây giờ con đã có thể thấy được tại một số quốc gia phương Tây như các nước Bắc Âu chẳng hạn, nơi họ đã đạt được một thế quân bình cao hơn trong vấn đề này, thì ở đó chủ nghĩa nữ quyền cực đoan phần lớn đã tan biến. Và với thời gian, một điều tương tự cũng sẽ xảy ra tại Hàn quốc. Nhưng tất nhiên, những lời thỉnh cầu của con vẫn sẽ vô cùng hữu ích.

Sự đổi mới của đạo Phật

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích rất nhiều về các vấn đề tổng quát của Cơ đốc giáo. Con xin các thày cho biết quan điểm về những vấn đề tổng quát của xã hội Phật giáo trên toàn thế giới và xã hội Phật giáo Hàn quốc. Các xã hội này cần phương hướng thế nào để tiến về phía trước?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 14/10/2019.

Như Mẹ Mary vừa bày tỏ, kiến thức và gốc gác văn hóa của vị sứ giả có thể là một hạn chế bởi vì sứ giả này không quen thuộc với xã hội Phật giáo tại Hàn quốc hay với Phật giáo nói chung, ít nhất là các khía cạnh về tổ chức. Ông nắm vững giáo lý của đức Phật nhưng không hiểu biết nhiều về phần tổ chức.

Nhưng thật là rõ ràng Phật giáo đã tiếp tục là một tôn giáo thuần khiết hơn Cơ đốc giáo chẳng hạn. Trong Phật giáo không đến nỗi có những lớp che phủ giáo lý như trong Cơ đốc giáo. Điều này một phần là vì những giáo lý mà ta giảng dạy không dễ dàng bị bóp méo. Và phần khác là vì tư duy của người Á đông không đến nỗi “đường thẳng” như tư duy người phương Tây. Vì thế mà tâm người Á đông cởi mở hơn đối với các lời dạy về bất nhị, họ thấy được các thái cực dễ dàng hơn là tâm người phương Tây nói chung.

Cho nên nếu con nhìn một người trung bình đã lớn lên trong một nền văn hóa Phật giáo tại Á châu, không nhất thiết có nhiều điều có thể thay đổi. Ta không nghĩ là Phật giáo đã hoàn toàn đi trật đường rầy như Cơ đốc giáo rõ ràng đã đi chệch hướng. Vì vậy các xã hội Phật giáo tại Á châu, kể cả Hàn quốc, vẫn đang đưa ra những lời dạy khả dĩ có giá trị đối với một người trung bình.  

Nhưng mặt khác cũng phải nói là khi con có một vị thày đã đạt một mức tâm thức nào đó, tức là vượt khỏi nhị nguyên, thì vị thày này sẽ vô cùng khó khăn đưa ra những lời dạy về nhị nguyên và bất nhị mà một người chìm trong nhị nguyên có thể nắm bắt được. Điều này có nghĩa là cho dù người đó không có ý định xấu xa và không bị sa nhân ảnh hưởng, thì tâm nhị nguyên vẫn trải một lớp phủ nào đó lên trên giáo lý.   

Vì vậy từ góc nhìn này, điều không thể tránh được là Phật giáo đã trở thành một tôn giáo với một cách diễn giải nhị nguyên phủ chồng lên trên giáo lý bất nhị. Điều này đã mang hệ quả mà con cũng thấy trong Cơ đốc giáo, là rất, rất nhiều người xem Phật giáo là một con đường công truyền, vỏ ngoài. Nếu theo con đường này thì chỉ cần tuân thủ một số giáo huấn, thực hành một số tu tập, một số nghi lễ, và tất cả trở nên gần như máy móc. Hiện có quá, quá nhiều người cũng có cùng thái độ như tại phương Tây khi con thấy những tín đồ Cơ đốc nghĩ rằng nếu mình tin vào giáo lý vỏ ngoài, nếu mình tu tập tôn giáo vỏ ngoài, nếu mình làm đúng theo nghi thức, thì một ngày nào đó trong tương lai, có thể là sau kiếp này, mình sẽ thấy một sự chuyển đổi và mình sẽ chứng ngộ.   

Tất nhiên đây không phải là những gì ta giảng dạy thuở trước. Ta giảng dạy một con đường nội tâm đòi hỏi con phải chuyền vọt trạng thái tâm thức của con. Liệu một người trung bình tại hầu hết các nước Á châu có sẵn sàng đi theo con đường nội tâm này hay chưa? Chưa đâu, nhưng chắc chắn là có nhiều người đã sẵn sàng. Cho nên sự thay đổi có tiềm năng xảy ra là các xã hội Phật giáo sẽ nhận ra được sự khác biệt giữa con đường công truyền vỏ ngoài với con đường tâm truyền nội tâm, và trong thời đại hôm nay, ngày càng sẽ có nhiều người sẵn sàng cất bước trên con đường nội tâm này. Do đó, các xã hội này có thể nỗ lực nhiều hơn để đặt trọng tâm vào con đường tâm truyền hầu giúp được nhiều người hơn.

Một số xã hội Phật giáo có nhận thức về đường nội tâm, nhưng song song lại cảm nhận một người trung bình không làm sao theo được, và do đó con đường này không được giảng dạy cho quần chúng mà chỉ trong một số tu viện nơi người ta cho rằng chỉ các tăng ni mới sẵn sàng đi theo vì họ đã cống hiến cả đời mình cho việc tu hành. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, cách hiểu như vậy không chính xác. Như ta đã trình bày, một người trung bình có thể chưa sẵn sàng nhưng chắc chắn nhiều người khác thì thật đã sẵn sàng. Có rất, rất nhiều người sẵn sàng hơn là các vị có ý xuất gia nơi tu viện, bởi vì như ta có nói trong thời đại hôm nay, sống tâm linh không thực sự là sống trong tu viện mà là sống bình thường mỗi ngày và tham gia tích cực vào xã hội, ít ra là cho đa số.     

Lẽ tự nhiên, ta mong muốn thấy các xã hội Phật giáo nhận ra được điều này: nếu đức Phật và sự chứng đạt giác ngộ còn có chút ý nghĩa nào, thì điều đó phải là ta vẫn còn hiện diện như một đấng giác ngộ, như một Chân sư Thăng thiên, và ngày hôm nay ta vẫn hoàn toàn sẵn sàng cũng như hoàn toàn có khả năng đưa ra những lời giảng dạy trực tiếp cho những ai sẵn lòng nhận lấy. Thực sự rất có thể có những người đã lớn lên trong truyền thống Phật giáo, đã thấm nhuần truyền thống này, sẽ trở thành những vị sứ giả cho ta, không nhất thiết là phải truyền đọc bài giảng của ta như ở đây tuy rằng điều đó cũng có thể xảy ra, mà trong ý nghĩa họ có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp của ta và như vậy đưa đạo Phật lên một tầm cao mới.     

Con sẽ thấy là giáo lý mà các chân sư đưa ra hôm nay được dựa trên nguyên tắc tiết lộ tuần tự. Tình hình thật giản dị. Để cho một vị thày đang đầu thai trong thế gian đạt được một mức tâm thức nào đó không phải là điều dễ dàng, đơn giản, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Con thấy là từ khi ta hiện thân trong xác thịt, đã có một số vị thày đạt được tâm thức cao và đưa ra được một số giáo lý có thể xem là tiết lộ tuần tự. Long Thọ là một ví dụ như thế và chắc chắn có nhiều ví dụ khác nữa. Cho nên trong một nghĩa nào đó, con có thể thấy sự ích lợi nếu các xã hội Phật giáo nhận ra được những thay đổi lớn lao trong xã hội từ khi ta hiện thân vật lý, cũng như sự cần thiết phải tinh chỉnh và mở rộng thông điệp, sự cần thiết phải tiến xa hơn nữa, phải không ngừng tiết lộ thêm những điều mới một cách tuần tự.    

Con hãy nhìn vào dòng chuyển động của tâm thức. Khi một giáo lý được đưa ra ở một thời điểm nào đó và có tiềm năng giúp con người thăng vượt tâm thức mình, nếu có người nhận lấy và thực hành giáo lý thì tâm thức tập thể sẽ được nâng lên. Không thể nào có giáo lý đưa ra ở một thời điểm mà lại vẫn tiếp tục hữu ích y như vậy mãi mãi trong tương lai. Nếu giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm mang lại kết quả thì tâm thức tập thể đã được nâng lên, có nghĩa là sẽ cần giáo lý ở một mức cao hơn. Những gì ta có thể giảng dạy 2500 năm trước không phải là chân lý tuyệt đối có thể đứng yên mãi trong mọi thời đại, mà đó là giáo lý phù hợp với tâm thức tập thể của con người vào thời buổi đó, ở địa phương đó. Cho nên dù là một bậc thày giác ngộ thì cũng không thể nào đưa ra một giáo lý tuyệt đối được.      

Một vị thày giác ngộ không dạy giáo lý mà vị đó cần, mà trái lại dạy giáo lý mà con người cần. Vị thày biết rõ trình độ tâm thức của những người theo học mình và những gì mình có thể đem ra giảng dạy vào thời điểm đó. Vị thày biết rõ họ không thể nắm bắt một giáo lý cao hơn cho dù mình có thể trao cho họ giáo lý cao hơn.

Và vì vậy, đây sẽ là một sự thay đổi thật quý báu khi mà các Phật tử cũng các vị lãnh đạo Phật giáo nhận ra được là quả thực có sự cần thiết phải đổi mới đạo Phật. Ngoài ra cũng có nhu cầu vượt ra khỏi con đường công truyền, con đường máy móc chỉ lặp đi lặp lại một số nghi thức. Như con có thể thấy qua ví dụ cùng cực là bánh xe cầu nguyện Phật giáo: người ta cho rằng bằng cách quay một chiếc bánh xe, họ có thể thăng tiến tâm linh và làm cho nghiệp quả của họ tiêu sạch. Đó không phải là những điều ta giảng dạy cách đây 2500 năm, ít ra là những gì ta còn nhớ, và ta nhớ khá rõ.  

Về việc sử dụng lò vi sóng

Hỏi: Câu hỏi của con là về việc sử dụng lò vi sóng (microwave oven). Một số người tin rằng việc sử dụng lò vi sóng có hại cho sức khỏe vì cấu trúc của thức ăn bị phá vỡ, cho dù là thức ăn được nấu chín hay được hâm nóng trong lò. Có thật vậy không? Và có phải công nghệ này là do thày Saint Germain truyền rải xuống?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 14/10/2019.

Phải, công nghệ đằng sau lò vi sóng được Saint Germain truyền rải vì nó là một phần của sự tăng triển không ngừng của mức nhận thức về nhiều dạng sóng năng lượng khác nhau. Nhưng ta xin nói thế này, ta không khuyên các đệ tử của chân sư thăng thiên sử dụng lò vi sóng một cách thường xuyên.

Không nhất thiết là vì nó có hại đến độ nó khiến cho sức khỏe của con bị suy giảm trong ngắn hạn. Nhưng sức nóng từ lò cũng có một tác động nội tại bên trong thức ăn sẽ giảm thiểu không những giá trị dinh dưỡng mà cả các năng lượng vi tế trong thực phẩm. Trong triết học phương Đông có khái niệm về khí, hay khái niệm prana, được xem là một năng lượng vi tế vượt khỏi cõi vật lý nhưng vẫn là một thành phần của thức ăn. Và tất nhiên cũng có các kỹ thuật tu tập yoga nhằm dùng hơi thở để tiếp nhận prana.

Trong thức ăn có rất nhiều loại năng lượng vi tế vượt khỏi những gì con người thời nay xem là chất dinh dưỡng vật lý. Ta cũng biết là đã có những nghiên cứu được các nhà khoa học duy vật thực hiện trong cõi vật lý cho thấy việc sử dụng lò vi sóng không có hại, nhưng nó vẫn có một tác dụng vi tế hơn, theo nghĩa là nó lấy đi các năng lượng tinh tế hơn trong thức ăn. Do đó mặc dù nó không có tác động vật lý, nhưng khi con là người tâm linh thì con cần nhận biết về tác động vi tế này của nó.

Tuy nhiên còn có một khía cạnh phần nào tâm lý hơn. Nếu con nhìn cách người ta sử dụng lò vi sóng khắp thế giới, con sẽ thấy người dùng lò chủ yếu là những người cảm thấy vô cùng bận bịu cho nên không có thì giờ nấu ăn theo cách thông thường. Vậy họ làm gì? Họ phải làm vội một bữa ăn, và loại món ăn nào nấu nhanh nhất với lò vi sóng? Đúng vậy, một bữa ăn được làm sẵn ở nhà máy, được đóng gói trong gói bịt kín mà họ có thể ném vào lò vi sóng, hâm lên rồi cứ thế mà ăn.

Rõ ràng loại thức ăn này không có cùng chất lượng, cùng giá trị dinh dưỡng như những món ăn con tự nấu lấy và bỏ ra nhiều thời gian hơn để chuẩn bị. Cho nên rõ ràng là từ góc độ tâm linh, việc dùng thức ăn được nấu nướng theo cách truyền thống sẽ tốt lành hơn loại thực phẩm được nấu hay được hâm lại trong lò vi sóng.

Một lần nữa, ta không nói là con không bao giờ được nấu với lò vi sóng, vì con không cần phải cực đoan về vấn đề này. Nhưng đằng khác, ta không khuyên con dùng lò vi sóng một cách thường xuyên – chắc chắn không phải như là công cụ nấu nướng chính yếu của con.

Câu hỏi về thuốc ngủ

Hỏi: Câu hỏi này là về dược phẩm Propofol. Propofol được phép sử dụng hợp pháp trong mục đích y tế, và người ta dùng loại thuốc này vì nó có tác dụng gây mê, gây ngủ mạnh mẽ. Tuy nhiên một số người lại lo rằng Propofol cũng có tác dụng gây nghiện. Loại thuốc này ảnh hưởng bốn thể phàm của con người như thế nào? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 13/10/2019.

Như một nguyên tắc chung chung khi con là một học trò của chân sư thăng thiên, con sẽ cố tránh bất kỳ loại thuốc nào không chỉ nhằm mục đích khiến con đi vào giấc ngủ, mà cả những loại thuốc ảnh hưởng đến tâm con.

Ta không bảo là không có một số trường hợp bệnh tâm thần mà việc dùng dược phẩm có thể thích hợp trong một thời gian. Nhưng trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, con nên vô cùng thận trọng khi sử dụng những loại thuốc đó vì con đã có các dụng cụ tâm linh mà chúng tôi ban truyền cho con.

Sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, việc Astrea cắt đứt các sợi dây ràng buộc để con được tự do, hay việc sử dụng ngọn lửa tím để tiêu hủy những gì đã nằm trong năng trường của con, những dụng cụ ấy thường sẽ có khả năng giúp con tránh chuyện phải sử dụng những loại thuốc đó.   

Rõ ràng bất cứ gì làm cho cơ thể vật lý của con chìm vào giấc ngủ, hay đưa cơ thể vào trạng thái yên tĩnh, cũng sẽ có một tác dụng tương tự trên ba thể cao hơn của con – nó sẽ khiến cho các thể này đờ đẫn, kém linh hoạt, kém tỉnh thức, và do đó nó có thể dẫn đến một hình thức nghiện ngập. Tốt hơn con nên sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã cho con, không chỉ để tự bảo vệ và thỉnh cầu năng lượng, mà cũng để nhìn xem con đang có những loại triệu chứng nào.

Ví dụ, tại sao con lại mất ngủ? Cái ngã nào đang khiến con không thể đi vào giấc ngủ? Xong con hãy làm việc trên điểm đó. Ta cũng biết rằng điều này sẽ không giúp cho những ai không phải là học trò của chân sư thăng thiên, nhưng một lần nữa, chúng tôi không thể giảng dạy cho mọi người.

Liên lạc với các hồ sơ akasha

Hỏi: Có một số khóa học dạy cách liên lạc với các hồ sơ ở cõi akasha chỉ sau vài ngày. Có đúng chăng là bất cứ ai cũng có thể kết nối với hồ sơ akasha và nhận được lời giải đáp có giá trị từ nguồn đó mà không cần chuẩn bị gì hết?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 10/10/2019.

Không đâu con yêu dấu, điều này không đúng. Không hề có một cách giải quyết chớp nhoáng nào được quảng cáo ngoài kia mà đem lại hiệu quả, và chắc chắn không phải bất cứ ai cũng có khả năng liên lạc với các hồ sơ akasha. Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ liên lạc được với cõi trung giới, với các loài quỷ hoặc tà thể ở đó chỉ muốn lợi dụng việc này để đánh cắp năng lượng của con người.

Nối kết với hồ sơ akasha không phải là điều các thày khuyến khích, hay ngay cả các thày cũng sẽ không giảng dạy điều này ở một mức có hệ thống. Đây là một điều có thể xảy ra một cách tự phát hơn một khi con đạt đến một tầng tâm thức nào đó. Có nhiều người hội đủ tư cách để thăng thiên mà không bao giờ kết nối với hồ sơ akasha.

Nhận biết cao là một trạng thái tâm thức trung hòa hơn

Hỏi: Khi mình đạt được một mức độ nhận thức cao hơn, điều này có luôn luôn đi đôi với một cảm nhận hạnh phúc cực lạc lớn hơn không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Nhưng con yêu dấu, con muốn nói gì khi con nói hạnh phúc cực lạc? Sự nhận biết cao hơn không luôn luôn dẫn đến loại hạnh phúc mà con có thể thấy trong phim Hollywood, và cũng không dẫn đến loại cực lạc mà nhiều Phật tử, chẳng hạn, mơ ước. Họ đã lấy một hình ảnh của thế gian mà phóng chiếu lên những khái niệm đó.

Có một số người chán nói về kundalini dâng lên và họ đã giải thích theo cách đó. Con thấy một số khác có những trải nghiệm tâm linh lạ lùng khi họ cảm giác một trạng thái ngất ngây. Và con cũng thấy một số nhà thần bí Cơ đốc giáo, chẳng hạn, kể lại họ đã chiêm nghiệm một trạng thái dạt dào kéo dài.

Nhưng làm thế nào con sinh hoạt được bình thường trong đời sống hàng ngày nếu con ở trong trạng thái như vậy? Câu trả lời là không thể được. Con không có mặt nơi đây để có một trạng thái cực lạc bởi vì, như các thày vừa mới nói, con có thể chứng nghiệm trạng thái đó khi con ở cõi thăng thiên.

Nhưng đấy không phải là mục đích ở địa cầu. Mục đích là con trải qua những kinh nghiệm mà địa cầu cho con cơ hội trải qua. Khi con đạt tới một mức nhận biết cao hơn, thật sự tâm con sẽ trở nên trung hòa hơn. Điều này thật sự là điều mà Phật gọi là cực lạc nhưng rất ít Phật tử hiểu được như thế. Họ hiểu trong nghĩa gần hơn với hạnh phúc con người.

Thực tế là hạnh phúc con người là một trạng thái tương đối của tâm, có tính chất nhị nguyên. Nó có một đối cực, là khổ sở, và cả hai chỉ có thể hiện hữu trong thế đối nghịch với nhau. Con cảm thấy hạnh phúc đối chiếu với cảm giác khổ sở; đây là tâm nhị nguyên. Khi con nâng cao sự nhận thức, con vượt ra khỏi đối cực nhị nguyên và con có một cảm nhận an bình, phúc lạc, nhưng đây không phải là hạnh phúc trong nghĩa phàm phu vì hoàn toàn không có tương phản.

Con càng lên cao hơn trong nhận biết thì con càng cảm thấy ít tương phản trong tâm thức. Do đó con không nghiệm thấy cái hạnh phúc phàm phu luôn có đối nghịch, hoặc luôn cần phải được so sánh với một cái gì khác. Con chứng nghiệm một tâm thức không có cách nào diễn tả bằng lời vì nó thực sự không thể so sánh với bất cứ gì trong trải nghiệm con người.

Đó là lý do đức Phật đã sử dụng từ “cực lạc” bởi vì vào thời đó từ này không thực sự mang một ý nghĩa nào cả. Đó là một từ mới. Ngày nay chúng ta cũng có thể phát minh ra một từ mới như vậy để mô tả cảm nhận này, nhưng chẳng bao lâu người đời sẽ bắt đầu phóng chiếu những hình ảnh phàm phu vào đó. Cho nên, tốt hơn hết là ta cứ giảng dạy và nói rằng con cần vượt qua các đối cực nhị nguyên. Không có tương phản nào giữa tâm thức của con và một tâm thức ngược lại. Con ở trong một trạng thái trung dung hơn, bình đẳng hơn, quân bình hơn.

Và đó cũng là điều Phật muốn nói khi thày dùng từ “trung đạo”. Trung đạo không phải là điểm đứng giữa hai đối cực mà nó vượt hẳn lên trên toàn bộ cái thang nơi đối cực hiện hữu.

Năng lượng đi theo sự chú ý

Hỏi: Khi người ta nói, năng lượng chảy vào nơi mà sự chú ý hướng tới, thì câu này có nghĩa gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Con yêu dấu, ngược với những gì khoa học bảo con, giác quan của con không chỉ là những dụng cụ thọ nhận thụ động. Khi con nhìn vào một vật gì, tất nhiên có tia sáng từ vật đó đi vào võng mạc trong mắt con và đập vào võng mạc của con. Nhưng cũng có năng lượng từ con hướng ra bên ngoài qua tia nhìn của con. Không phải là qua con mắt vật lý, vì đó không phải là năng lượng vật lý mà năng lượng tâm lý – nếu có thể gọi như vậy – tức là năng lượng từ cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Điều này xảy ra cho bất cứ gì mà con đặt sự chú ý vào.

Đó là tại sao trong một đợt truyền pháp trước – đúng hơn, trong sách về thuật giả kim – ta đã có nói rằng con người là nô lệ cho sự chú ý của mình, bởi vì chú ý hướng về đâu thì năng lượng cũng đi về đó, và con người chỉ có thể đi theo.

Cho nên đúng vậy, thực tế là bất cứ gì mà con đặt chú ý vào thì con sẽ cho nó năng lượng. Đó là tại sao các chân sư có nói là nếu một nhóm người họp nhau lại, chẳng hạn trong một phong trào tôn giáo, họ sẽ tạo ra với thời gian một thực thể tập thể, một quái vật tập thể, và quái vật này sẽ ngày càng lớn mạnh đến mức nó sẽ áp đảo tâm trí của mỗi cá nhân trong nhóm.

Đó cũng là tại sao người ta có vấn đề nghiện ngập. Những người uống rượu từ hàng ngàn năm qua đã cùng tạo ra một tà thể tập thể mạnh mẽ đến mức nó có khả năng chế ngự tâm trí của rất nhiều người. Trong mọi lãnh vực, mọi hoạt động của con người, luôn luôn có một xu hướng làm như vậy, và nó xảy ra qua sự chú ý.

Tất nhiên là nó không vật lý – vì nó xảy ra trong các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc – nhưng đây là một lời dạy rất chính đáng. Điều quan trọng hiển nhiên là con cần biết đến lời dạy này, và nếu con cảm thấy mình đã hoặc đang bị ảnh hưởng, hay con quen biết những ai đang bị ảnh hưởng bởi những tà thể đó, chắc chắn con có thể thỉnh gọi để họ được cắt đứt khỏi tà thể và được giải thoát, và tà thể thì bị buộc trói lại và tiêu hủy.  

Thời nay, tâm thức Ki-tô là sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày

Hỏi: Một khía cạnh của tâm thức Giê-su Ki-tô là làm phép lạ như biến nước thành rượu và đi bộ trên mặt nước. Tại sao thời nay không có ai làm những việc này? Chẳng phải đó là một khía cạnh quan trọng của tâm thức Ki-tô, là quyền năng của tâm trên vật chất hay sao?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Ta đã từng nói là cách đây 2000 năm tâm thức con người dày đặc hơn, cho nên mới có nhu cầu thực hiện những việc làm mà con gọi là phép lạ hầu đánh động sự chú ý của mọi người. Trong thời đại hôm nay, tâm thức đã cao hơn cho nên điều đó không còn cần thiết nữa. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thật sự không ưng thuận những cách biểu đạt đó nữa vì nó thường dẫn đến hiểu lầm. Thường khi nó khiến cho người ta sùng bái người có khả năng thực hiện “phép lạ”, và chính người đó thường bị rơi vào cảm tưởng mình là hơn người, hay bất cứ cảm giác nào khác. Ngoài ra cũng có một số pháp sư ma thuật có một khả năng nào đó sử dụng tâm để điều khiển vật chất – nếu con có thể gọi như vậy – nhưng họ lại dùng quyền năng này cho những mục tiêu vị kỷ.

Vì vậy ngày nay, các chân sư chủ trương một cách tiếp cận khác hẳn, qua đó việc thực hiện phép lạ không phải là trọng tâm. Kỳ thực, phép lạ mà chúng tôi mong muốn loài người thị hiện là sống một cuộc sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày của mình. Chúng tôi không tìm kiếm những việc làm phi thường, mà tìm kiếm những việc làm có vẻ bình dị nhưng lại được thực hiện với một tầm mức nhận biết phi thường. Ngày nay, chúng tôi không hề mong muốn giúp cho một ai đó thực hiện những loại phép lạ đó vì người đó sẽ được thần tượng hóa và sùng bái. Và chuyện này sẽ dẫn đến kết quả ngược lại những gì chúng tôi mong muốn, vì chúng tôi mong muốn khuyến khích cho thật thật nhiều người đạt được và biểu lộ được quả vị Ki-tô của mình. Đó là tại sao chúng tôi rất quan tâm khi có người sùng bài các vị thày tâm linh vì việc này thật không lành mạnh.

Một cái nhìn tâm linh về sẩy thai

Hỏi: Con có xem một cuốn phim đưa ra quan điểm là khi một người mẹ bị sẩy thai, việc đứa bé có sinh ra hay không không tùy thuộc vào người mẹ. Nếu linh hồn của đứa bé không muốn đầu thai vào thế gian, nó có thể ngừng tiến trình vật lý trong thai mẹ. Xin chân sư vui lòng bình luận về đề tài này. Việc sẩy thai có phải là sự chọn lựa của người mẹ hay có điều gì nữa mà con cần biết, và sự kiện này liên hệ đến quyền tự quyết như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 7/10/2019.

Sẩy thai có thể do nhiều yếu tố. Tất nhiên có thể có một lý do vật lý trong cơ thể người mẹ, trong gen của đứa bé, trong sự phát triển của đứa bé. Người mẹ có thể, đặc biệt trong trường hợp một cái thai không hoạch định, gây ra sẩy thai do không muốn có con – không nhất thiết là không muốn đứa đó mà không muốn có con một cách chung chung, hay không muốn có con vào thời điểm đó. Cho nên sự lựa chọn của người mẹ có khả năng gây ra sẩy thai – thậm chí điều này có thể nằm sâu trong tiềm thức khi người mẹ không sẵn sàng nhìn nhận những cảm xúc của mình về việc mang thai.

Tất nhiên cũng có thể đứa bé quyết định nó không muốn sinh ra. Điều này có thể xảy ra khi nó cảm nhận được độ dày đặc của cõi vật lý. Có thể đứa bé cảm được trường năng lượng của người mẹ, chẳng hạn trong trường hợp tiền kiếp đã có một nghiệp chướng gay gắt hay một mối xung khắc kéo dài với người mẹ. Khi nó đi xuống bào thai và cảm nhận trường năng lượng của mẹ, nó có thể quyết định là nó không muốn phải đối diện với vấn đề đó và nó không muốn sinh ra.  

Có thể có những lý do khác nữa khi đứa bé cảm được sự dày đặc của cõi vật lý hay nó nhận biết một số vấn đề khó khăn mà nó sẽ phải đối mặt trong kiếp sống sắp tới và nó từ chối đương đầu.

Cho đến nay, chúng tôi đã cho con một bức tranh hơi lý tưởng về sứ vụ thiêng liêng của con, nhưng những lời dạy đó nhắm đến những người tâm linh là những người sẵn sàng nắm lấy trách niệm bản thân và tự thay đổi chính mình. Đối với người tâm linh như vậy, mục đích là để cho con sẵn lòng hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con cho dù con sẽ gặp một số hoàn cảnh khó khăn bởi vì con biết nó sẽ dẫn tới tăng trưởng, dẫn tới cái mà chúng tôi gọi là giai đọan sáng tạo hơn của sứ vụ thiêng liêng. Con sẵn lòng đi muốt giai đoạn thực hiện của sứ vụ thiêng liêng để bước vào giai đoạn sáng tạo.  

Nhưng có những linh hồn không ở mức tiến hóa như vậy. Sứ vụ thiêng liêng của chúng chủ yếu là nhằm quân bình nghiệp quả, và vì thế chúng cần sống bên một số người mà chúng đang mang nghiệp từ tiền kiếp hầu chúng có thể – nếu có thể nói như vậy – tự buộc mình phải giải quyết nghiệp quả. Nhưng có những trường hợp linh hồn đó không đủ tiến hóa để giữ vững quyết định của mình khi gần đến ngày đầu thai hơn và chúng cảm được độ dày đặc của cõi vật lý. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng ở một cõi tâm thức cao hơn, một linh hồn có thể thảo sứ vụ và quyết định “phải, tôi sẵn lòng đối đầu và giải quyết những khó khăn này”, nhưng khi nó phải trực diện với việc đi vào cơ thể và cảm nhận các năng lượng thì nó quyết định “không, tôi không sẵn sàng làm chuyện này.”

Một lần nữa, đây là một trong những trường hợp quyền tự quyết cần được tôn trọng. Con có thể nói là trong mọi trường hợp, quyền tự quyết phải được tôn trọng, nghĩa là nếu linh hồn quyết định nó không muốn sinh ra thì nó sẽ được tôn trọng. Nhưng tất nhiên có những trường hợp linh hồn có một ý chí thấp muốn trốn chạy khó khăn, và đồng thời nó cũng có một ý chí cao muốn đương đầu khó khăn, thì ý chí cao sẽ bác bỏ ý chí thấp.

Ta biết chuyện này nghe có vẻ hơi tối nghĩa nhưng sự thật là y như vậy. Quyền tự quyết là tiêu chuẩn tối hậu, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là thế nào là tự quyết. Con có thể nói là khi một linh hồn trải nghiệm sự dày đặc của cõi vật lý thì ý chí của nó không còn tự do nữa và nó không thể đi ngược lại những gì đã được hoạch định trong sứ vụ thiêng liêng. Và thật vậy, nhiều linh hồn đã quyết định bác bỏ cái ý chí thấp đó, cái con người vỏ ngoài đó, để tự bắt buộc mình bước vào hiện thân và đối phó với khó khăn vì nó biết điều này sẽ dẫn đến phát triển dài hạn.

Khi kundalini thức giấc tự phát

Hỏi: Thày Giê-su có dạy về con đường tuần tự nâng cao nhận biết, và thày cũng nói rằng tiến trình kundalini phải chậm và tuần tự. Khi kundalini thức dậy một cách tự phát, nó có thể gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng. Tại sao có một số người trải nghiệm kundalini một cách tự phát khi họ chưa chuẩn bị và sẵn sàng? Các chân sư thăng thiên khuyến cáo họ làm gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Con yêu dấu, mặc dù đây có thể là chuyện bẻ cong ngôn từ, nhưng không có gì gọi là một sự thức dậy tự phát, theo nghĩa là mọi người đã từng sống qua nhiều kiếp đầu thai, và tuy con có thể không làm gì đặc biệt trong kiếp này để đánh thức nó dậy, nhưng chắc chắn con đã làm một điều gì đó trong tiền kiếp đưa con đến điểm con trải nghiệm một sự thức dậy trong kiếp này.

Tất nhiên là có những người đã từng có một trải nghiệm mà chúng ta có thể gọi là “thức dậy tự phát” – hay kundalini tự động khởi dậy – và trải nghiệm này đã khiến họ vô cùng lo lắng. Đâu là mục đích của trải nghiệm này? Trong một số trường hợp, chẳng có mục đích gì đặc biệt ngoài sự kiện là những người đó đã, trong một tiền kiếp, toan chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực khi họ sử dụng một loại phương pháp nào đó, hay thậm chí sử dụng cả ma thuật đen chẳng hạn, để cưỡng ép kundalini dâng lên hay để ép buộc sự tăng triển tâm linh của mình. Có nghĩa là trong kiếp trước, họ đã không có được sự đột phá mà họ mong muốn, và trong kiếp sau thì sự đột phá xảy ra cho dù họ đã quên mất mình làm gì trước đây.

Mục đích duy nhất của sự kiện này là họ cần trải nghiệm những gì có thể xảy ra khi họ chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực. Có thể họ không có được trải nghiệm đó trong tâm ý thức, nhưng ít ra sau kiếp đầu thai này, họ sẽ có thể làm việc với các vị hướng dẫn tâm linh của họ và họ suy ngẫm, rút tỉa bài học về trải nghiệm này.

Cũng có một số người đã cố gắng phát triển tâm linh trong một tiền kiếp và đạt đến một mức nào đó, rồi trong kiếp này họ quyết định sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh hoàn toàn thiếu vắng yếu tố kích động sự phát triển tâm linh. Cho nên họ không sinh ra trong một môi trường tâm linh, họ không được tu học tâm linh, không nhận được bất kỳ hướng dẫn tâm linh nào, rồi đùng một cái, như thể một cách vô cớ, họ có một sự thức dậy tự phát hay một trải nghiệm tâm linh vô cùng mạnh mẽ. Giờ đây vấn đề là làm thế nào xử lý được tình trạng này. Trong trường hợp này, mục đích có thể là họ đã chọn làm như vậy vì họ muốn chứng tỏ là cho dù họ đã lớn lên trong một môi trường phi tâm linh, ho vẫn có khả năng xoay chuyển để trở thành một con người nhận thức tâm linh hơn.

Vị sứ giả này có biết đến một người phụ nữ tại Đan mạch lớn lên với cha mẹ hoàn toàn phủ nhận mọi con đường tâm linh, thậm chí còn có lối sống rất duy vật. Bà đã tự đào tạo thành một ký giả, viết nhiều bài từ một nhân sinh quan duy vật. Thế rồi một hôm khi đến thăm một nhà thờ ở Tây ban nha, bà bỗng chiêm nghiệm thấy được Giê-su – như thể bà nhận thức được chính ta đang đứng bên cạnh bà. Kinh nghiệm này xoay chuyển tâm thức bà một cách mãnh liệt đến độ bà bỏ ra nhiều năm trời để lãnh hội. Kỳ thực, bà có trải nghiệm kundalini thức dậy và điều này khiến bà rất bối rối. Bà nghĩ mình bị bệnh tâm thần, nhưng rốt cuộc bà viết một cuốn sách về kinh nghiệm này. Cho đến nay, cuốn sách đã tác động tích cực đến rất nhiều độc giả, khiến độc giả hiểu ra là thật sự người ta có thể lớn lên trong một nền văn hóa và một môi trường vô cùng duy vật, nhưng người ta vẫn có thể xoay chuyển để nhận thức tâm linh hơn. Đây có thể là trường hợp của một số người.  

Tất nhiên cũng có một số người chứng nghiệm kundalini thức dậy là vì trong sứ vụ thiêng liêng của họ có ghi là họ sẽ trở thành một vị thày tâm linh, cho nên con thấy có một số người đã viết sách, đã là thày tâm linh, và dưới mắt họ thì họ đã có một sự thức tỉnh tâm linh tự phát. Một lần nữa, đây lại là một sự hiểu lầm vì họ không ý thức được là trong những kiếp trước, chắc chắn họ đã làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức, dẫn họ tới điểm họ có khả năng “thức dậy tự phát”.

Trong một vài trường hợp, điều này có thể đem lại một hậu quả đáng tiếc là họ cho rằng thật sự họ không cần dạy cho đệ tử một con đường thức tỉnh tâm linh lần hồi, tuần tự từng bước một. Trên cơ bản, họ bảo con là con không thể làm bất cứ gì để thúc ép sự thức tỉnh tâm linh mà con chỉ cần ngồi chờ cho tới khi nó xảy đến. Hiển nhiên, nói như vậy sẽ không hữu ích lắm cho nhiều người, bởi vì nếu con không thức tỉnh tâm linh trong kiếp này thì không lẽ con cứ ngồi đó, hoàn toàn thoả mãn với tình trạng vô minh của mình và hy vọng rằng một ngày kia sự thức tỉnh sẽ ập tới?

Đa số những ai sẵn sàng tăng triển tâm linh sẽ cảm thấy là con đường tuần tự là con đường xây dựng hơn. Có một điểm vi tế ở đây, theo nghĩa là có một số vị thày tâm linh phủ nhận sự hiện hữu của một con đường tâm linh. Các vị thày đó nói rằng con không thể tạo ra một con đường máy móc sẽ dẫn con tới giác ngộ. Một số thày tâm linh đó là những sinh thể sa ngã chỉ đơn giản muốn ngăn cản không cho người ta cất bước trên đường tu. Nhưng một số vị thày đó không phải là sa nhân, và quả thực họ có lý từ một quan điểm nào đó.

Không có cách nào tạo ra một con đường máy móc để con – nếu con theo đúng một số bước chỉ dạy – sẽ được bảo đảm đạt đến thức tỉnh hay giác ngộ hay quả vị Ki-tô. Các chân sư thăng thiên đã nói nhiều lần đường tu không tự động, không máy móc. Tuy nhiên vẫn có khả năng tạo ra một con đường đưa con đến những tầng tâm thức cao hơn miễn là con không đi theo nó một cách máy móc, mà con nhận ra nhu cầu sử dụng và phát triển các khả năng trực giác của mình và nhìn xa hơn các giáo lý công truyền. Con không máy móc trong cách tu tập vỏ ngoài, mà trái lại con sẵn sàng mở tâm ra những chứng nghiệm tâm linh nhỏ hơn, lần hồi hơn, sẽ dẫn con đến những đột phá ngày càng lớn hơn.

Có một số người đã trải qua một chứng nghiệm thật dữ dội đưa đến một bước đột phá thật to lớn, nhưng đối với hầu hết mọi người, điều thực tiễn và xây dựng hơn hẳn là con có được rất nhiều những đột phá nho nhỏ, những chứng nghiệm “à ra thế” nho nhỏ, những trải nghiệm thần bí nho nhỏ sẽ lần lần dẫn con lên những tầng tâm thức ngày càng cao hơn.

Cũng có một số người khác đã phát triển tâm linh phần nào trong một tiền kiếp, nhưng khi bước vào kiếp này, họ lại phủ nhận khả năng tăng triển tâm linh. Cho nên con sẽ thấy một số người sống mấy chục năm trời trong sự phủ nhận tâm linh, rồi bỗng nhiên họ đột phá vì họ đã từng đạt đến mức này trong một tiên kiếp, và ngay cả sự phủ nhận cũng không đủ mạnh để trấn áp nó được. Mục đích ở đây, một lần nữa, có thể là để chứng tỏ là người ta vẫn có khả năng chuyển sang một nhận thức tâm linh hơn ngay cả khi người ta đã phủ nhận.

Điều quan trọng là con nhận ra đường tu không máy móc chút nào. Tuy nhiên điều cũng không kém quan trọng là con nhận ra đường tu có thật, và nếu con không tiếp cận nó một cách máy móc thì nó sẽ đem lại kết quả cho con.

Điều không xây dựng là con cứ ngồi đó mà chờ đơi một sự thức dậy tự phát, trong khi khắp bát cung vật lý đã có rất nhiều giáo lý và dụng cụ chỉ dẫn con tiến bước một cách tuần tự có hệ thống.

[Bài đọc thêm: Hiểu rõ năng lượng kundalini – một lời giải đáp của chân sư Giê-su]

Làm thế nào nhận diện một thày giả

Hỏi: Liệu có sinh thể nào hiện đang giả mạo chính xác sự rung động của các chân sư thăng thiên hay không? Chẳng hạn như được mô tả trong sách “Những kiếp của tôi” khi Giê-su đã không nhận diện được người thày giả ở cõi bản sắc. Vậy làm thế nào phân biện và nhận ra họ thực sự là thày giả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Vâng con yêu dấu, đúng là có khá nhiều sinh thể ở các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang tìm cách làm ra vẻ họ là chân sư thăng thiên hay họ tiến hoá cao hơn trình độ tiến hoá của họ. Làm thế nào để con phân biện? À, có một số chỉ dấu vỏ ngoài và ta đã có trao truyền một số lời dạy trên trang mạng này về cách nhận diện thày giả. Con có thể tìm kiếm một số chỉ dấu vỏ ngoài nhất định. Nếu họ cố tự đặt mình cao hơn mọi người khác, nếu họ cố thu hút những người sẽ theo họ một cách mù quáng và mù quáng vâng lời họ, thì đây là những dấu hiệu của một thày giả.

Nhưng sâu hơn bên trong, cách duy nhất thật sự để phơi bày sự thể này là như các thày đã đề cập nhiều lần, con phát triển khả năng trực giác của mình để con có thể đọc được độ rung động. Con có thể đạt tới điểm con có khả năng cầm lên một quyển sách trong tiệm sách, đọc một vài dòng hay một vài đoạn, và con có thể cảm nhận là sách này không dành cho con hay sách này không phải là một giáo lý cao. Nói cho cùng, đây là cách con có thể biết được. Tất nhiên, con cũng có thể nói là nếu con đã trải nghiệm sự rung động của một chân sư thăng thiên chân chính qua các bài truyền đọc của các thày hay các vị sứ giả khác nhau, thì trải nghiệm này cũng có thể cho con một khung tham chiếu.

Không dễ dàng mà có được khả năng phân biện vì như các thày có nói, con có quyền tự quyết chọn lựa, nhưng tầng tâm thức hiện thời của con giới hạn những chọn lựa mà con có thể nhìn thấy.

Cho nên con có thể nói là một thày giả luôn luôn có một hậu ý ẩn giấu, một thâm ý ích kỷ nào đó. Một chân sư thăng thiên không cần gì ở con. Các thày không có mong muốn thao túng con hay ràng buộc con với các thày hay với bất kỳ một sứ giả, một tổ chức nào, nhưng thày giả thì luôn luôn có một mong muốn ích kỷ; họ muốn một cái gì đó từ con. Có điều, nếu con có một cái ngã tách biệt mang một tính vị kỷ nào đó, thì con sẽ không có khả năng nhận diện tính này nơi người thày. Con sẽ không thể nhận diện là thày có một động lực ích kỷ nếu chính con chưa khắc phục được tính đó trong bản thân con, và đó là tại sao sự phân biện có thể khá khó khăn và tại sao nhiều đệ tử tâm linh với nhiều thiện ý đã bị thày giả lừa gạt suốt nhiều năm trời. Con có thể nói là thày giả có thể thao túng con là vì con mang một số điểm mù nhất định, và con có điểm mù là vì ở trong con có một cái ngã mà con chưa nhìn ra. Do đó con không thấy được đây là một mong muốn vị kỷ, và con cũng không thể nhận diện nét vị kỷ của người thày.

Nhưng dẫu sao, con có thể ngộ đạt rất nhiều bằng cách phát triển trực giác và tất nhiên làm việc trên các ngã tách biệt của mình, hầu con gia tăng sự phân biện. Và chắc chắn con có thể đạt tới điểm con chỉ cần nhìn thoáng qua hình chụp của một vị thày tâm linh đang hiện thân – nếu đó là một đạo sư đang hiện thân – và cảm nhận đó không phải là một vị thày chân chính hay chắc chắn không là vị thày thích hợp cho con. Con có thể biết được khi cầm lên một quyển sách hay đọc một điều gì đó trên internet.

Con yêu dấu, thật không khó lắm để phát triển khả năng cảm nhận một lời dạy xuất phát từ cõi lý trí vì lời dạy này thường vô cùng phức tạp, vô cùng rắc rối. Nói chung, một lời dạy như vậy nhằm tạo cảm tưởng cho người khác là nếu họ có thể hiểu được, hay ít ra nếu họ nghĩ là họ có thể hiểu được, thì điều này có nghĩa là họ thật cao cấp, họ cao cấp hơn người khác.

Cũng có thể có một số lời dạy vô cùng mập mờ, khiến con phải đọc câu văn tới mấy lần mà vẫn không chắc chắn ý tác giả muốn nói gì hay ý định của tác giả là gì. Những loại giáo lý như vậy thường hay thu hút người ta, vì khi giáo lý mập mờ thì nó cho phép tự ngã diễn giải theo bất cứ cách nào nó muốn. Khi đó, nhiều người sẽ có thể dùng giáo lý để chứng thực những gì họ muốn tin, và đây là tại sao một số sinh thể nơi cõi lý trí đưa ra những lời dạy thật tối nghĩa để ai nấy khó lòng hiểu được chính xác họ muốn nói gì.

Hiển nhiên, việc trao truyền một lời dạy tâm linh tự thân nó đã khó khăn vì việc truyền đạt sự nhận biết quả cầu của một chân sư thăng thiên qua ngôn từ đường thẳng thật là khó khăn. Đó là tại sao nếu con nhìn vào các lời dạy của chân sư thăng thiên qua thời gian, con có thể thấy là trong quá khứ, các thày đã mơ hồ, đã thiếu rõ ràng hơn. Nếu con xem các giáo lý trước đây, con sẽ khó lòng hơn hiểu được ý nghĩa một cách chính xác. Con sẽ thấy là ngày hôm nay, các thày đã cố gắng ngày càng trực tiếp hơn, ngày càng chính xác hơn, để ít ra con thấy rõ được điều các thày đang cố nói là gì, nhưng tất nhiên, các thày vẫn gặp phải sự giới hạn của ngôn từ.

Những lời tiên tri về điều xảy ra vào một thời điểm nhất định

Hỏi: Câu hỏi này là về những kênh ngoại cảm nói về một sự kiện đáng kể sẽ xảy ra vào tháng 11. Thời điểm được tiên đoán rất chính xác, như ngày 11/11 chẳng hạn. Loại thông điệp đó đến từ đâu?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 5/10/2019.

Những thông điệp cụ thể đó đến từ cõi lý trí, không phải từ các chân sư thăng thiên. Như một hướng dẫn chung chung, đã có bao nhiêu lần các chân sư thăng thiên đã ban truyền – ít nhất qua trung gian sứ giả này – những lời tiên tri về một sự kiện nào đó sẽ xảy ra vào một thời điểm nhất định? Đã có bao nhiêu lần các thày đã đề cập đến một biến chuyển to lớn sẽ xảy đến và tất cả mọi chuyện sẽ thay đổi vào một ngày nhất định? Chúng tôi chỉ nói đến những thay đổi từng bước một, khi tâm thức được nâng cao tuần tự.

Cho nên bất cứ khi nào con thấy chuyện này xảy ra, đó là một nỗ lực nhằm lợi dụng (thêm một lần nữa) niềm hy vọng là một tin vui sắp sửa xảy đến – niềm hy vọng rằng một ngày kia nhân loại sẽ chứng kiến một bước đột phá quyết định, rằng địa cầu sẽ chuyển sang chiều không gian thứ năm, rằng Ki-tô sẽ tái lâm ở trên trời, và đủ loại truyền thuyết cùng ý tưởng thiên niên kỷ khác. Tất cả chỉ giản dị là vì con người mong mỏi một sự đổi thay đột phá.

Có một số thế lực trong các cõi tình cảm và lý trí, và ngay cả trong cõi bản sắc, đang sử dụng niềm hy vọng này để bòn rút năng lượng từ con người. Con có thể chứng kiến qua hiện tượng năm 2012, khi ai nấy bị thao túng, cuốn hút vào một tâm trạng gần như cuồng loạn và tin rằng một biến cố gì vĩ đại sắp sửa xảy ra vào năm 2012.

Hiện tượng này tự nó đã cung cấp năng lượng cho các thế lực kia vắt kiệt năng lượng từ những người đó. Và khi biến cố đó không xảy đến, con cũng thấy tinh thần của họ chìm nghỉm, y hệt như khi con ăn quá nhiều đường thì sau lúc dâng lên thật cao sẽ đến lúc tuột xuống thật thấp. Và con thấy ở điểm thấp nhất của năm 2012 tiếp theo sau điểm cao nhất, các thế lực trong cõi tình cảm cũng đã có thể bòn rút năng lượng từ con người.

Cho nên con hiểu tại sao các chân sư luôn kêu gọi con giữ tầm nhìn cho cân bằng, tức là sự tăng trưởng sẽ diễn ra một cách lần hồi, tuần tự. Các chân sư không muốn kéo con bước vào trò chơi tàu lượn lên lên xuống xuống. Khi con thấy chuyện đó xảy ra, con biết là các thế lực thấp kém đang cố đánh cắp năng lượng của con người.

Nguyên nhân tâm linh của chứng mất ngủ

Hỏi: Những nguyên nhân tâm linh của chứng mất ngủ là gì? Liệu có biện pháp nào để giải quyết hay quản lý chứng mất ngủ hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 5/10/2019.

Bước đầu tiên để tiến tới việc giải quyết vấn đề mất ngủ là khởi sự đọc các bài chú, bài thỉnh cho Đại thiên thần Michael và Astrea một cách đầy nhiệt huyết. Con có thể dùng bài chú, con có thể dùng bài thỉnh, và con có thể kêu gọi sự bảo vệ cho chính mình cũng như bảo vệ bốn thể phàm của con, hay ba thể cao của con – là tâm bản sắc, lý trí và tình cảm.

Con kêu gọi Astrea cắt đứt mọi dây buộc vào cõi trung giới, vào bất kỳ tà lực, ma quỷ hay tà thể nào, v. v… Thường chứng mất ngủ do các tà lực đó gây ra khi chúng phóng chiếu năng lượng hay ý tưởng và cảm xúc vào tâm con, rồi cuốn lấy tâm con khiến con không thể đi vào giấc ngủ.   

Về lâu dài, tất nhiên, vấn đề là phải giải toả tâm lý khiến con cảm thấy mình có điều gì đó phải giải quyết, điều gì đó phải làm, điều gì đó phải suy nghĩ. Vấn đề này gắn liền với những lời dạy về ngã gốc, ngã tách biệt, và đây là cơ hội để con sử dụng những lời dạy trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh (Healing your Spiritual Traumas).

Điểm đạo không phải là kết quả tự động của tu tập vỏ ngoài

Hỏi: Thày có điều gì cần nói với một học trò của chân sư không chịu đọc một bài thỉnh đủ 33 ngày liền bởi vì có lẽ cô ấy cần một chút mới mẻ và muốn tiến nhanh hơn nhưng rồi lại bị mất chân đứng vì chưa đạt được điểm đạo nào hết? Tuy nhiên, cô ấy có tu sửa tâm lý một cách siêng năng và đã tinh tấn, nhưng cô ấy cảm thấy mình hơi bừa bộn với sách vở. Cô ấy có điểm đạo được không?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 2/10/2019.

Lời hướng dẫn mà chúng tôi trao cho con về việc cầu thỉnh trong 9 ngày hay 33 ngày chỉ là lời hướng dẫn. Con cần để ý tới nhu cầu riêng của con, và con không thể suy luận rằng con không điểm đạo được chỉ vì con đã không theo đúng các quy định. Các chân sư không bao giờ hứa hẹn là nếu con đọc bài thỉnh đủ 33 ngày thì con sẽ điểm đạo.

Điểm đạo không phải là kết quả tự động của sự tu tập vỏ ngoài bởi vì điều cần thiết là phải có một sự chuyển vọt tâm thức. Các bài thỉnh được thảo ra với mục đích giúp con chuyển vọt tâm thức, nhưng cuối cùng thì điều này tuỳ thuộc vào quyết định của con, một quyết định trong ý thức khi con ngộ được một điều gì mà trước đó con không thấy, rồi con chuyển vọt. Không có gì bảo đảm điều đó sẽ xảy ra, và đây là một trong các lý do có người đạt được kết quả khi sử dụng các bài thỉnh và có những người thì không.

Nhưng nếu con không chắc là con đã điểm đạo hay chưa thì điều này thật sự cho thấy con đã chưa điểm đạo, bởi vì tâm thức của con vẫn chưa chuyển vọt. Nếu con đã chuyển vọt thì con cũng đã chiêm nghiệm được sự thay đổi, và con đã không cần đặt vấn đề điểm đạo hay chưa điểm đạo. Nếu con chuyển vọt thì con sẽ ung dung bước tới, tìm xem trong tâm lý mình còn điều gì khác nữa cần giải quyết hay không. Một lần nữa, con không thể lý luận rằng, “Ồ, tôi đã không làm đủ 33 ngày liền, vậy thì bây giờ tôi phải làm lại từ đầu cho đủ 33 ngày và sau đó tôi sẽ điểm đạo.”

Như ta vừa nói, điều này đòi hỏi con ngộ được cái gì đó, rồi con lấy một quyết định và sau đó con chuyển vọt. Nếu con cảm thấy mình chưa qua được một cuộc điểm đạo, con hãy đừng quá khắt khe với chính mình. Đừng cuống cuồng lên mà nghĩ, “Ồ bây giờ tôi nhất định phải tập trung vào chuyện này. Thay vì đọc một lần mỗi ngày trong 33 ngày, tôi sẽ đọc 3 lần mỗi ngày”. Làm vậy sẽ không nhất thiết giúp con đâu. Có những khi con sẽ cần tự nhủ, “Không sao cả, tôi sẽ tạm thời để chuyện điểm đạo này sang một bên. Tôi sẽ tu tập những thứ khác.” Và sau đó một thời gian, rất có thể con bỗng ngộ được một điều gì đó và con chuyển vọt trong tâm thức.    

Con không thể ép buộc một sự chuyển vọt tâm thức nếu con chưa sẵn sàng. Con yêu dấu có thấy không, chuyển vọt tâm thức rất có thể xảy ra trong tầng cõi vật lý, nhưng trước khi con chuyển vọt được trong cõi vật lý, thường thường con cần giải quyết được phần nào trong các cõi cao hơn, là cõi bản sắc, lý trí, tình cảm. Cho nên khi con đọc một bài thỉnh, con cầu thỉnh năng lượng sẽ giải quyết, hay sẽ biến hóa những năng lượng ở ba thể cao này, và sẽ cần một thời gian trước khi con nhận thấy sự chuyển đổi trong tâm ý thức của con. Do đó tiến trình có thể kéo dài hơn 33 ngày, và vì thế, một lần nữa, con đừng quá nóng lòng về chuyện này. Đừng cố ép uổng nó mà hãy cho nó một chút thời gian và chuyển sang làm chuyện khác. Hãy đừng lo lắng, đừng căng thẳng về nó mà hãy để yên cho nó chín muồi.

Hối tiếc quá khứ và ngã gốc

Hỏi: Làm thế nào con có thể vượt qua một vấn đề choáng ngợp do tâm cảm xúc của con tạo ra, khi ngay cả tâm lý luận cũng biết một cách trí thức là nó thật không khôn ngoan khi nó khắc khoải về vấn đề đó? Chẳng hạn, con biết là chẳng ích gì mà nuối tiếc một mối quan hệ đã qua và tình yêu là một nguồn năng lượng không ngừng chảy, nhưng con không khỏi cảm thấy tức giận vì mối tình của con đã chấm dứt. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ. năm 2018. Đăng ngày 2/10/2019.

Con yêu dấu, ta không muốn có vẻ lặp đi lặp lại, nhưng câu trả lời hiển nhiên là: Hãy dùng các dụng cụ. Trong mọi trường hợp khi con cảm thấy mình phải đương đầu với một cảm xúc choáng ngợp, vấn đề ngay trước mắt là có một số tà lực đang phóng đại hay đang kiểm soát cảm xúc của con, và chúng đang sử dụng các tình cảm này để kéo con ra khỏi trạng thái bình an. Con có thể giảm bớt sự thể này bằng cách thỉnh gọi sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, thỉnh Astrea giải vây con và ngọn lửa tím để chuyển hóa mọi năng lượng tha hóa mà con có trong cảm thể.

Nhưng trên dài hạn, vấn đề là con cần giải quyết một điều gì đó trong tâm lý của con. Thật sự điều này trở ngược về tận chấn thương nhập đời vũ trụ, vì tất cả các con khi hứng chịu chấn thương nhập đời đó và tạo ra ngã gốc, đã mang vào một cảm nhận hối tiếc, không những về những gì đã xảy ra trong chấn thương nhập đời mà cả về sự việc trước đó khi con đến hành tinh này. Bất cứ khi nào con thấy mình khó lòng buông bỏ và bị khắc khoải tại sao mình đã làm một chuyện gì đó, tại sao chuyện đó đã xảy ra và con căm giận về một sự việc đã xảy ra trong quá khứ, thì cái đó thật sự đi trở ngược về cảm nhận hối tiếc nói trên khi con hối tiếc đã đến hành tinh này, hay con hối tiếc cách phản ứng của mình đối với sa nhân.

Trong trường hợp các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng vậy, các con cũng có thể cảm thấy hối tiếc, không phải tại sao mình đã đến hành tinh này mà tại sao mình đã phản ứng cách như vậy với sa nhân khi lần đầu tiên con phải chạm trán với chúng. Vấn đề sẽ không được giải quyết hoàn toàn cho đến khi con trở về chấn thương đó, giải quyết ngã gốc cùng những cái ngã khác, và thấy được tại sao con đã đến hành tinh này. Con giải quyết nó và học hỏi những gì con cần học, con thoát ra khỏi cái khuôn đúc đã đưa con đến đây rồi con làm hòa với sự kiện con đang ở đây, làm hòa với việc con đang sống, làm hòa với việc mình là một người đồng sáng tạo không cần phải luôn luôn toàn hảo.

Con đang thử nghiệm cuộc sống và con chỉ đang quan sát kết quả ra sao, rồi con hỏi: “Liệu tôi có muốn tiếp tục thế này hay tôi muốn làm gì khác?” Xong con chuyển đổi tâm thức để gửi ra một thông điệp khác vào tấm gương vũ trụ, và con cứ tiếp tục như vậy.

Các dụng cụ đã sẵn đó để con dùng. Ta cũng nói thêm là quyển sách Các Kiếp của Tôi thật ra được thiết kế để giúp con người vượt qua cơ chế hối tiếc quá khứ, vì khi con nhìn nhận là mình đã ở trong hiện thân trong rất nhiều kiếp sống, đã phải chạm trán với rất nhiều sự việc, đã có nhiều kiếp mình làm những chuyện tồi tệ hơn cả kiếp này, hay mình đã trải nghiệm những chuyện đau đớn hơn kiếp này, thì sự nhìn nhận đó sẽ giúp con bước lui ra một chút và thấy rằng những gì con đã trải nghiệm kiếp này thật chẳng quan trọng gì một cách quyết định. Nó chẳng quan trọng gì một cách vĩ đại.     

Con có khả năng bước sang một bên và nói: “À, so với tất cả những chuyện tôi đã từng trải suốt biết bao kiếp sống, liệu điều này có thật quan trọng lắm không? Nó có thật khủng khiếp đến vậy không? Liệu tôi có cần khắc khoải vì nó, hay là tôi có thể tách mình ra khỏi nó, bớt xem nó là chuyện cá nhân và nói, Aaa! Chuyện này có to lớn gì đâu? Tôi chỉ việc bước đi tiếp.”

Thẳng thắn mà nói, một khi con giải quyết ngã gốc đó, con sẽ cảm thấy những hối tiếc này sẽ chỉ tan biến mất. Một số hối tiếc có thể đòi hỏi con nỗ lực đôi chút vì có thể con đã tạo ra một cái ngã khác để phản ứng lại tình huống đó, cho nên có thể con sẽ cần xem xét khuôn nếp phản ứng này và dần dần nhận diện ra ngã đó, xong một cách ý thức, con quyết định để cho nó chết đi.

Khi con cảm được sự buông bỏ này thì con sẽ giải thoát khỏi nó. Điều này sẽ dễ thực hiện hơn hẳn một khi con đã giải quyết được ngã gốc.  

Kỹ thuật thiền Vipassana

Hỏi: 2600 năm trước đây, đức Phật Gautama đã phát minh kỹ thuật thiền Vipassana. Không hiểu các chân sư có nhận xét gì về kỹ thuật này trong thế giới Tây phương hiện đại hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Con yêu dấu, ta đã không phát minh mà đã nhận được từ một cõi cao hơn, từ các chân sư thăng thiên. Thuở đó chưa có khái niệm chân sư thăng thiên, và các chân sư cũng chưa nhận thấy đến lúc tiết lộ được khái niệm đó. Cho nên lẽ tự nhiên, các Phật tử cho rằng ta đã nghĩ ra, đã phát minh ra kỹ thuật này.

Về mặt nó có thích hợp với thế giới Tây phương hiện đại hay không, thì đối với một số người, nó sẽ thích đáng bởi vì họ là những người mà trong tiền kiếp đã có dùng nó rồi theo truyền thống đạo Phật. Tuy nhiên các chân sư đã lượng định là trong thế giới Tây phương hiện đại, nếu người tu tập sử dụng một kỹ thuật phát tỏa ra ngoài – như các bài thỉnh, bài chú – thì sẽ xây dựng hơn. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với tư duy người phương Tây đặt trọng tâm nhiều hơn vào thành quả, vào việc thực hiện một công việc.

Ví dụ, nhiều người phương Tây không có nhiều sự chú tâm hướng nội, không thiên về thiền định nhiều lắm, không kiên trì ngồi thiền được lâu lắm, và họ cần cảm thấy là mình đang tích cực làm một công việc nào đó. Nhưng một lần nữa, nếu ở mức độ cá nhân có ai cảm thấy đây là một kỹ thuật hữu ích cho mình, chắc chắn họ có thể sử dụng được. Tuy nhiên xét về tầm ảnh hưởng to lớn trên thế giới Tây phương, thì ta không lượng định chuyện đó có thể xảy ra thời nay. Có những dụng cụ khác mà các chân sư ban ra thời nay phù hợp hơn với thế giới Tây phương.

Lẽ tự nhiên, con cần nhận thức, như tất cả các con cũng đều đã biết, là chúng ta cần có một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là nói chung trên một hành tinh thay đổi nhanh chóng như địa cầu, một lời dạy được đưa ra cách đây 2600 năm không nên được xem là có giá trị muôn đời. Điều này không có nghĩa là không có một số ý tưởng phổ quát có thể áp dụng được ở mọi thời đại. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là những ý tưởng được biểu đạt ngày hôm nay bởi các chân sư thăng thiên cũng là cùng những ý tưởng đã được biểu đạt trong nhiều thời đại trước, nhưng sự biểu đạt luôn luôn phải phù hợp với bối cảnh khác nhau hầu có thể thích đáng và áp dụng được cho những người sống trong thời đại đó.

Làm thế nào xử lý những lỗi lầm ảnh hưởng đến người khác

Hỏi: Đây là kinh nghiệm cá nhân của con nhưng có lẽ nhiều người sẽ thấy nó quen thuộc. Con trải qua kinh nghiệm này khi con phạm một lỗi lầm liên quan đến một người. Làm xong, con nhận thấy có điều gì không phải, và con quyết định là mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Con bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi cuốn sách “Các cuộc đời của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Jesus” được xuất bản, con mới thực sự nhận ra sự việc mình đã gây ra, và trong một giây phút con đã nghĩ: “Trời, tôi vừa nhận ra là tôi đã làm một chuyện sai trái mà tôi không muốn”, cho nên phần nào con bằng lòng là mình đã nhận ra lỗi lầm và mình đã có thể điều chỉnh lại cách hành xử của mình.

Tuy con biết là sự kiện con đã học xong bài học sẽ hóa giải được nghiệp quả – nghĩa là sự việc đã xong và mình không còn mang vấn đề đó trong tâm nữa – nhưng đối với người kia thì sao? Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với người kia, dòng sống kia, mà con đã có tương tác? Theo một nghĩa nào đó, con không muốn họ phải trải qua bất cứ điều gì tiêu cực hay bất kỳ hậu quả nào quay ngược trở lại, đặc biệt là vì người đó còn trẻ tuổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Đây là một tình huống mà tất cả các con đều đã và đang đối mặt rất, rất nhiều lần khi con sống trên địa cầu này. Và nói thật, tình huống này là một trong những vũ khí lợi hại nhất của sa nhân để khiến con bị mắc vào những dây nhợ nghiệp chướng hay những khuôn nếp phản ứng rất khó lòng thoát ra khỏi.

Con sống trong một môi trường vô cùng khó khăn trên hành tinh này, trong một nền văn hóa cũng vô cùng khó khăn, cho nên khi con làm điều gì tác động lên người khác thì con rơi vào một khuôn nếp phản ứng do hành động đó gây ra. Hoặc con sẽ phủ nhận nó, hoặc con sẽ tìm cách đền bù, hay con cảm thấy là mình thật đáng trách về chuyện này hay chuyện nọ. Cho nên đây là lời đề nghị của ta.

Có những hoàn cảnh mà con có thể làm điều gì đó ở mức vật lý để bù đắp cho những gì con đã gây ra cho người khác qua cách hành xử hay quyết định của mình. Con nên hòa điệu trong tim, cố gắng bước vào một trạng thái tâm trung hòa và nhận sự hướng dẫn từ nội tâm để xét xem điều này có áp dụng cho con hay không, xem xét con có thể làm được gì ở mức vật lý. Rồi nếu con cảm thấy nó đến từ bên trong, con có thể hành động theo đó ở mức vật lý. Con không nên lấy quyết định này với tâm vỏ ngoài dựa trên mặc cảm tội lỗi mà con đang có.

Rồi sau đó tất nhiên, con có thể bước vào công việc tu sửa tâm linh, con có thể thỉnh cầu cho nghiệp quả được hóa giải, thỉnh cầu cho người kia được tự do khỏi các hậu quả trong cõi bản sắc, lý trí lẫn tình cảm, và con có thể tu sửa chính tâm lý mình để nhìn xem cái ngã nào đã khiến con hành xử như thế, xong con giải quyết nó và để cho nó chết.

Ở điểm này, con đã làm tất cả những gì con có thể làm được cho người kia. Và cũng ở điểm này, con cần dùng các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về quyền tự quyết và nhìn nhận rằng con đang sống trên một hành tinh thấp kém về trạng thái tâm thức. Con không đang sống trên một hành tinh tự nhiên. Không thể tránh được chuyện ai ai cũng sẽ phạm phải lỗi lầm vì đủ loại lý do khác nhau. Thật sự con không cần phân tích quá đáng mà con chỉ cần công nhận là mình đã lỗi lầm. Con đã dùng quyền tự quyết của con để nhìn nhận lỗi lầm, để cố gắng vươn lên cao hơn tâm thức đó và tìm cách đền bù cho những hậu quả của việc làm.

Đây là điểm mà con cần nhìn nhận là người kia cũng có quyền tự quyết của họ, và con cần cho phép họ tự do quyết định cách phản ứng của họ trước tình thế, bất kể cách họ muốn phản ứng thế nào. Nếu họ giận dữ với con, con hãy cho phép họ chọn lựa như vậy, nhưng khi đó, con cần làm một việc khó khăn bậc nhất đối với hầu hết mọi người tâm linh: đó là con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Vì khi con nhìn nhận là mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức vật lý, đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức tâm linh, thì con cũng cần nhìn nhận một điều: Nếu người kia giận con hay trách móc con thì con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải tự trách mình, con không cần cảm thấy mình có tội, con không cần cảm thấy là mình phải tiếp tục cố gắng đền bù cho tới khi người kia hết giận. Con cần nhận ra là con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, và trên một hành tinh phi tự nhiên thì không có gì lý tưởng.

Cho nên con không thể chờ đợi mọi chuyện sẽ lý tưởng, mà con cần nhìn nhận là con có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền có trạng thái tâm thức hiện thời của con, con có quyền lấy quyết định và hành xử dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời đó, bởi vì con không thể làm bất cứ gì khác.

Sẽ có những tình huống khiến con làm một điều gì đó sẽ tác động lên người khác, và người kia có quyền bị người khác tác động y như con cũng có quyền bị người khác tác động. Nói cách khác, người đó không có quyền nói: “Đáng lẽ bạn không bao giờ được hành xử như vậy. Đáng lẽ bạn không được có trạng thái tâm thức đó. Đáng lẽ bạn không được sống trên hành tinh này.” Con có quyền sống ở đây trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con có quyền làm những điều sẽ ảnh hưởng đến người khác – khi con lầm lỗi một cách trung thực và không hành xử với ác ý. Chính người kia cũng đang ở trong một trạng thái tâm thức nào đó, họ có quyền ở trong tâm thức đó, và con cần nhìn nhận là cách phản ứng của họ đối với con là kết quả của tâm thức đó. Con không cần can thiệp vào chuyện này, nhưng mặt khác, con cũng không cần cho phép nó can thiệp vào đường tu của con – một khi con đã làm tất cả những gì có thể làm để nâng cao tâm thức của con.

Đây là một điều rất, rất khó khăn cho nhiều người tâm linh, và đó là lý do tại sao ta vừa nói đó là một vũ khí hữu hiệu của sa nhân để chúng cầm giữ con trong các mối dây nhợ đó. Tác động tổn hại nhất của sự thể này là khi con sống gần một số sa nhân trong cõi vật lý và con đã làm điều gì đó mà họ xem là sai trái, họ có thể trở nên rất hung hãn, rất cố chấp, và họ sẽ đổ lỗi cho con.

Nhiều người trong số các con đã có tương tác với sa nhân trong tiền kiếp, và một số các con đã tương tác trong kiếp này. Họ đã tỏ ra vô cùng tiêu cực đối với con và con đã quyết định: “Ồ, tôi phải giải quyết cho chuyện này tốt đẹp trở lại.” Nói cách khác, con quyết định: “Tôi cần thay đổi những sa nhân đó để họ không còn tâm trạng tiêu cực đó nữa.” Con yêu dấu, đây là công thức dẫn đến thảm họa, vì trong vũ trụ ít điều gì khó khăn hơn là khiến cho sa nhân đổi ý hầu họ nhìn con với con mắt tích cực, tha thứ cho con và bỏ qua. Cho nên con cần nhìn nhận điều này, liệu người kia có phải là một sa nhân hay không. Thật ra con cũng không cần đánh giá như vậy, mà con chỉ cần nhận rõ trong tâm là nếu họ không để cho quá khứ là quá khứ, nếu họ không buông ra, nếu họ không bỏ qua, thì điều này sẽ không có nghĩa là con không có quyền buông ra, bởi vì chính con có quyền buông ra.

Con có quyền cảm thấy ở bên trong là mình đã làm những gì mình có thể làm cho người đó, và bây giờ mình sẽ bỏ họ lại đằng sau để tiếp tục sống đời mình. Con không chạy trốn bất cứ gì bởi vì con đã giải quyết vấn đề tâm lý nội tâm, con đã làm những gì con có thể làm, và sau đó thì con có quyền bước đi tiếp.

Điều này áp dụng cho mọi người trong đời con, con yêu dấu: cho cha mẹ, cho con cái, cho thân nhân, cho bất cứ ai, tuyệt đối bất cứ ai. Con tôn trọng quyền tự quyết của họ nhưng con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Họ có quyền phản ứng lại với con bất cứ cách nào họ muốn, nhưng con cũng có quyền không bị phản ứng đó của họ tác động lên mình, vì tâm lý của con thì chính con phải giải quyết lấy. Con không phải giải quyết tâm lý của người khác vì đó là trách nhiệm của họ.

Làm thế nào kéo dài trạng thái an bình nội tâm

Hỏi: Sau khi đọc bài chú hay bài thỉnh, con cảm thấy an bình và con cũng cảm được năng lượng tâm linh. Nhưng khi con đi làm những hoạt động khác trong ngày, cảm giác này bắt đầu trôi đi mất. Nếu con không có dịp đọc một bài chú khác, liệu có một cách nào thực tiễn để kéo dài cảm giác an bình này không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Có một cách thực tiễn nhưng nó sẽ không có hiệu quả ngay lập tức. Ta không thể cho con một lời dạy sẽ giúp con xoay chuyển tức thì vì thực tế là khi con đọc thỉnh, con cũng thỉnh cầu ánh sáng. Con cũng tự nâng mình lên cao hơn trạng thái nhận biết bình thường của con, vượt quá các khuôn nếp phản ứng bình thường của con. Đó là tại sao con cảm thấy an bình. Nhưng sau đó tất nhiên, khi con làm các hoạt động thường nhật và tùy theo con gặp những công việc gì trong ngày hôm đó, con quay trở về một số khuôn nếp phản ứng. Con có thể quay trở về cách nhìn cố hữu của con về cuộc đời nói chung. Nói cách khác, con lại bắt đầu phản ứng dựa theo ngã gốc chẳng hạn, và đó là yếu tố làm tiêu tan năng lượng và lấy đi an bình của con. Cho nên không có cách nào thực sự sẽ giúp con quay trở về tức thì với trạng thái an bình cho đến khi con bắt đầu giải quyết cái ngã gốc đó và làm hoà với việc con hiện diện trên địa cầu.

Khi con làm hoà với việc mình hiện diện trên địa cầu thì ngay lúc đó, con sẽ có khả năng mang trạng thái an bình này theo con. Một số các con sẽ thấy là một khi con làm hoà được như vậy, con không cần đọc thỉnh để đạt được trạng thái an bình này. Đơn giản là con có nó rồi. Điều này không có nghĩa là con không thể đọc thỉnh, nhưng con không đọc thỉnh vì lý do đó.

Cho nên đây là vấn đề xem xét: “Đâu là phản ứng cơ bản của tôi – hay như Giê-su nói, đâu là cách vận hành thường lệ (modus operandi) của tôi? Tôi quan hệ thế nào với cuộc sống trên trái đất? Cái gì lấy đi an bình của tôi? Cái gì làm tôi xáo trộn?” Sau đó con hãy dùng các dụng cụ trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh để nhìn tận đáy vấn đề này. Ngay cả nếu con là một dân cư nguyên thủy của địa cầu, thì khi sa nhân đến trái đất, con đã tạo ra một cái ngã phản ứng lại chúng, và đây chính là điều tước mất an bình của con. Tất nhiên, thật khó lòng an bình trên một hành tinh có sa nhân, nhưng một khi con khắc phục được khuôn nếp phản ứng đó, con sẽ có thể thực sự cảm thấy an bình.

Không có chất nào, thiết bị nào, kỹ thuật nào trong cõi vật lý sẽ bảo đảm tăng triển tâm linh

Hỏi: Con có một câu hỏi về cần sa (marijuana). Con được đọc nhiều lần là người thổ dân sử dụng các loại ma túy như peyote marijuana để khai mở tâm linh trong bộ lạc của họ. Con xin các thày vui lòng cho ý kiến về cách đó liên hệ tới sa nhân. Đó có phải là một ảo ảnh hay là một phương thức cân bằng?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 30/9/2019.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói con điều gì trong các lời dạy được trao truyền? Rằng trong vũ trụ vật chất có bốn tầng. Trong một hoàn cảnh lý tưởng, năng lượng tuôn xuống từ tầng bản sắc vào tầng lý trí, rồi vào tầng cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Chúng tôi đã dạy con điều gì trong sách Những kiếp của tôi? Rằng sa nhân đã thiết lập một hệ thống trên địa cầu, qua đó chúng tước mất quyền làm chủ của con bằng cách bắt con trải qua trong bát cung vật lý một biến cố sẽ tạo ra một dòng năng lượng chảy nghịch hướng. Trong lý tưởng, không có gì xảy ra trong cõi vật lý sẽ ảnh hưởng được các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tuy nhiên các sa nhân rất giỏi tạo ra dòng chảy nghịch hướng đó khi con phải đối mặt với một sự kiện trong cõi vật lý sẽ tác động ngược lên ba thể cao của con – như tra tấn, chấn thương, bất kể…

Cho nên điều ta muốn nói ở đây là thế này: Chìa khóa thực sự của sự phát triển tâm linh là con tái lập dòng chảy năng lượng tự nhiên, nơi không có gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng ba thể cao của con, mà ngược lại mọi hành động của con trong cõi vật lý đều là sự biểu hiện của những gì phát xuất từ Hiện diện TA LÀ chảy xuyên qua ba thể cao của con. Nếu có một chất vật lý – bất kỳ loại chất vật lý nào – hay bất kỳ thiết bị nào, bất kỳ kỹ thuật nào trong cõi vật lý mà có thể bảo đảm cho sự tăng triển tâm linh, thì chúng tôi đã nói với con rồi. Nhưng do dòng chảy năng lượng tự nhiên, cái đó không hề có.

Không có gì con có thể làm trong cõi vật lý sẽ bảo đảm sự tăng triển tâm linh cho con, đơn giản là vì sự điều ngự tâm linh cũng có nghĩa là sự điều ngự cả bốn thể phàm của con. Có nghĩa là con điều ngự thể bản sắc để bản sắc của con là thể sẽ gửi khuôn đúc xuống trí thể, rồi trí thể gửi khuôn đúc xuống cảm thể, rồi cảm thể gửi khuôn đúc xuống cơ thể vật lý. Không có gì xuất phát từ cơ thể vật lý sẽ tác động lên cách con biểu đạt tâm linh. Đây chính là ý nghĩa của câu “làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ”. Đây cũng là ý nghĩa của sự điều ngự tâm linh. 

Cho nên con yêu dấu, con thử trả lời câu hỏi này của ta: Làm thế nào con sẽ đạt được sự điều ngự đó bằng cách sử dụng một chất vật lý? Cho dù chất đó có là gì thì chuyện đó cũng không thể làm được.

Và sau đây là điểm phức tạp hơn một chút, vì như ta có nói, trong tình trạng rối mù của trái đất thì không có gì là giải pháp hay lời giải thích trắng-đen. Như Giê-su đã trình bày, con có một tình trạng khi ý nghĩa, khái niệm của đường tu tâm linh đã bị người ta xóa bỏ khỏi văn hóa, ít ra trong các nền văn hóa phương Tây. Rất, rất nhiều người lớn lên mà không nghe biết gì về đường tu này. Tuy nhiên họ vẫn mang trong họ một cái biết nội tâm, một cảm giác nội tâm, là có một cái gì đó vượt lên khỏi mức tâm thức hiện tại của họ.

Vào thập niên 1960 đã có một túc số những người, cũng như một sự xoay chuyển tâm thức với ngày càng nhiều người hơn bắt đầu bác bỏ nền văn hóa duy vật. Thật ra họ mong muốn có được một cách nhận biết tâm linh hơn, một nền văn hóa tâm linh hơn. Chuyện này trở thành một mối đe dọa cho sa nhân đến độ chúng phải cố tìm đủ mọi cách để đánh lạc hướng nhu cầu tâm linh đó, để nó không thể thực sự tác động xã hội. Và một trong những phương thức của chúng là tạo ra toàn bộ nền văn hóa ma túy, khi chúng khiến cho biết bao người tâm linh nghĩ rằng ma túy là một con đường tắt dẫn đến sự tăng triển tâm linh. Rốt cuộc thì nó dẫn những người này vào nghiện ngập; họ bị dẹp yên và đã không đạt được tầm ảnh hưởng mà đúng lý họ đã có thể có trên xã hội.

Con có thể nhìn một số những người đó và bảo rằng, đúng thật là một số đã rơi vào nghiện ngập và một số đã sử dụng ma túy suốt đời khiến họ bị dẹp yên, nhưng cũng có được một số ít nhận ra rằng: “Ma túy đã giúp tôi bước ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường của tôi, và điều này chứng tỏ là có một cái gì đó vượt ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường đó.” Và điều này cũng khiến họ tự hỏi: “Vậy làm thế nào tôi có thể đạt tới trạng thái tâm thức đó mà không dùng ma túy?” 

Nếu con sử dụng theo cách đó thì, thôi cũng được, ma túy không đến nỗi tai hại cho con và con có thể tiếp tục tăng triển trở lại. Nhưng ta xin nói để con suy ngẫm, tất cả những ai làm vậy đã có thể đạt tới cùng điểm đó mà không cần đến ma túy, nếu họ chịu khó kiên nhẫn hơn một chút, nếu họ cởi mở hơn một chút để tìm kiếm con đường. Trong quá khứ, việc tìm kiếm con đường tâm linh khó hơn bây giờ, nhưng ngày nay thì nó dễ hơn, và hy vọng thay, càng ngày nó sẽ càng dễ hơn nữa, hầu nhu cầu sử dụng bất kỳ loại ma túy nào sẽ dần dần giảm bớt.  

Sự thật trong vấn đề này là nhiều người thổ dân, các pháp sư, đã sử dụng peyote, ayahuasca hay một chất nào khác, đã không hề nâng cao tâm thức của họ đến mức họ có thể bắt liên lạc với các chân sư thăng thiên. Nhiều người trong số đó đang cộng tác với một số sinh thể trong các cõi tình cảm hay lý trí. Cho nên con có thể nói: “Tôi sẽ muốn hòa điệu tâm tôi với ai đây? Tôi muốn đi về hướng nào? Liệu tôi muốn các chân sư thăng thiên hay tôi muốn một cái gì thấp hơn?”

Đây cũng là cùng một vấn đề với những người đồng bóng. Có những người đồng bóng liên lạc với cõi lý trí, thậm chí một số còn liên lạc với cõi tình cảm, một số ít với phần thấp của cõi bản sắc. Con muốn gì đây? Con muốn loại thày nào đây? Nếu con đã dùng ma túy thì con đừng tự lên án mình, mà con hãy nhận ra đó là một giai đoạn cần thiết trên con đường của con, tuy nhiên con hãy sẵn lòng tự nhủ: “Điều này không có nghĩa là tôi phải bênh vực cho những ai dùng ma túy.” Đừng cố xuất khẩu kinh nghiệm chủ quan của con và cố biến nó thành một cái gì phổ quát. Đừng bào chữa cho ma túy hay tìm cách ngụy biện như thể nó không có mặt, mà con chỉ cần nói: “Đúng vậy, tôi đã sử dụng, tôi đã cần đến nó. Nó đã có giúp tôi nhưng giờ đây nó đã đi vào quá khứ.” Xong thay vì khuyên người khác dùng ma túy, con hãy khuyên họ sử dụng một lời dạy tâm linh. Ít nhất con đã có một lời dạy mà ta có thể khuyên con rồi đó, nhưng có nhiều lời dạy khác nữa.

Tiến hóa của một dòng sống sau khi đã theo sa nhân

Hỏi: Trong một bài truyền đọc của các chân sư thăng thiên có nói rằng nếu một người muốn đi theo sa nhân thì thể theo định luật tự quyết, họ sẽ phải theo sa nhân sau kiếp đầu thai. Con hiểu là vì lý do đó, nhiều dòng sống sẽ không có cơ hội tái đầu thai trên địa cầu. Vậy con xin hỏi về các dòng sống hiện đang đầu thai hay sẽ sinh ra trên địa cầu trong xác thân vật lý, phải chăng là họ đã tiến hóa nhiều hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời họ cũng như quốc gia của họ thay vì cứ đi theo sa nhân? Chẳng hạn, có thể nào một dòng sống đã lạm dụng quyền lực vào thời cai trị của Stalin, sẽ đi vào đầu thai với một ý muốn mãnh liệt chứng tỏ cho mọi người thấy rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ đem lại hòa bình và hạnh phúc?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 28/9/2019.

Không hoàn toàn là đúng khi con bảo rằng nếu một dòng sống quyết định đi theo sa nhân thì người đó không thể bước vào hiện thân trong kiếp kế tiếp. Đó là một vấn đề của từng cá nhân phải do Hội đồng Nhân quả quyết định. Cho nên điều có thể xảy ra là có những người đã từng đầu thai trước kia – chẳng hạn dưới thời chính quyền Stalin hay thời trị vì của Hitler – đang đầu thai ngày nay. Lẽ tự nhiên, một số những người đó vẫn ở trong một trạng thái tâm thức tương tự như trước, họ đã không tăng triển bao nhiêu giữa hai kiếp đầu thai, và do đó theo một cách nào đó, họ đang cố chứng minh tâm thức cũ của họ.

Có những ví dụ về các dòng sống đã không buông bỏ được niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, và hoặc là họ đã tìm cách xây dựng lại chế độ đó, hoặc họ tìm cách chứng minh là nó chính đáng. Cũng có những dòng sống tìm cách chứng minh là không có điều gì xấu xa đã xảy ra trong quá khứ, rằng Stalin không đến nỗi tệ hại mà lại có ảnh hưởng tốt đẹp đến lịch sử nước Nga. Tất nhiên cũng có những dòng sống cho rằng sự tan rã của Liên Xô là tai họa địa chính trị to lớn nhất trong thế kỷ vừa qua, như Vladimir Purtin từng tuyên bố như vậy. Ông ta là ví dụ một người đã hiện thân trong một bối cảnh cộng sản trong tiền kiếp, và bây giờ ông tái đầu thai với niềm tin muốn dựng lại đế chế cũ.

Cũng có một số dòng sống như vậy đang đầu thai tại Trung quốc nơi cộng sản vẫn là chủ nghĩa nắm quyền, ít ra một cách chính thức. Con cũng có thể thấy những ví dụ, như chúng tôi đã có đề cập, một số người chủ mưu chính sách đàn áp người đạo Do thái dưới chế độ Quốc xã, hiện đang đầu thai tại Israel. Nói thật, một số những người đó đang hành xử đối với người Palestine y như họ đã từng hành xử với người đạo Do thái trong tiền kiếp của họ, chỉ khác một điều là lần này họ đầu thai làm người đạo Do thái.

Cho nên con thấy đó, vấn đề các dòng sống được trao cho một cơ hội mới như thế nào là một vấn đề vô cùng phức tạp. Do đó con không thể nói một cách chung chung là tất cả những dòng sống đang đầu thai hiện nay có một mức tâm thức cao hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân của họ. Điều chúng ta có thể nói được là hiện nay có nhiều dòng sống hơn đã đi vào hiện thân với trình độ tiến hóa cao hơn các thời kỳ trước. Nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đang đầu thai đều ở một mức cao hơn.

Tại sao các chân sư không dạy thiền dưới dạng truyền thống

Hỏi: Tại sao các chân sư thăng thiên không giảng dạy nhiều hơn về thiền quán và kỹ thuật thiền quán? Hình như các thày hiện không dạy về thiền quán, nhưng không phải thiền quán là phương tiện chủ yếu để đạt được Hợp nhất với Thượng đế hay sao? Hay là chúng con bước vào Hợp nhất với Thượng đế một cách tự nhiên bằng cách chữa lành tâm lý, nâng cao tâm thức, giải thoát khỏi tự ngã, v.v…? Liệu kỹ thuật hình dung (visualisation) hay tiến trình hòa điệu (attunement) cũng có thể được xem là thiền quán?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 12/9/2019.

Câu hỏi này ngụ ý một cách nhìn đặc thù về thiền quán, nhưng thiền quán trong nghĩa rộng nhất của nó cũng có thể được mô tả bằng một từ đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, đó là tỉnh thức. Làm thế nào con đọc được một bài thỉnh hiệu quả nhất? Bằng cách con tỉnh thức trong nguyên tiến trình – tất cả đều có thể là một hình thức thiền quán. Thiền quán không nhất thiết có nghĩa là con ngồi đó tĩnh lặng và tập trung vào một câu thần chú hay một kỹ thuật nào khác. Cách đó là cái nhìn cố hữu trong đạo Phật và đạo Ấn truyền thống, nhưng nhìn như vậy quá hạn hẹp.  

Chúng tôi, các chân sư, không dạy thiền quán trong hình thức đó bởi vì đối với nhiều người sống trong thế giới ngày nay, họ rất nên có một cuộc sống năng động và vì vậy họ cần tu tập qua hình thức những bài thỉnh và bài chú. Tiến trình phóng ra ngoài hiệu quả hơn cho con người sống trong thời đại hôm nay với lối sống bận rộn hơn trước. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, tất nhiên, là thiền quán không phải là phương tiện chủ yếu để đạt được hợp nhất với Thượng đế và chưa bao giờ từng là như vậy. Phương tiện chủ yếu là sự nâng cao nhận biết, và điều này chỉ đến được từ sự giải tỏa tâm lý. Thời xưa, con người đã có thể thực hiện được điều này, nhưng ngày nay hiển nhiên con có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để giải tỏa tâm lý của mình, không những với những kiến thức và lời dạy tổng quát về tâm lý học, mà cả với những giáo lý mà các chân sư đã trao cho con về ngã gốc và các loại ngã tách biệt khác.  

Sự hợp nhất với Thượng đế sẽ không tự động thực hiện được qua sự giải hóa mọi cái ngã, nhưng một khi con giải hóa được chúng, đặc biệt khi con không còn cá nhân hóa con đường của con – như thày More vừa giảng dạy – thì cái Ta Biết của con sẽ được giải thoát để nó nhận diện nó là một sinh thể vô hình tướng. Chỉ khi nào là một sinh thể vô hình tướng thì con mới đạt được hợp nhất với Thượng đế. Đã có một quan niệm sai lầm rất lâu đời và rất phổ biến trong số những người tâm linh rằng con có thể khoác cái bản sắc mà con đang có bây giờ khi con cất bước trên đường đạo, rồi con sẽ hoàn thiện nó để bản sắc này hợp nhất với Thượng đế. Điều này đơn giản là không thể xảy ra, chưa bao giờ từng xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra.    

Cách đích thực duy nhất để hợp nhất với Thượng đế – mà cũng chính là sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con – là làm tan biến một cách lần hồi và có hệ thống mọi cái ngã mà con đã tạo ra trong bốn thể phàm của con, hầu cái Ta Biết không còn bị kéo vào mà tự đồng hóa với chúng nữa. Khi đó, cái Ta Biết sẽ tìm được chỗ đứng chính đáng của nó ở ngay điểm gặp gỡ của hình số 8 nối kết Hiện diện TA LÀ của con với bốn thể phàm của con.

Và như vậy con sẽ là cánh cửa mở, không hơn không kém, và đó là trạng thái hợp nhất với Thượng đế. Điều này sẽ không tự động xảy ra bởi vì cái Ta Biết cần có một sự chọn lựa, nó cần lấy quyết định tự đặt mình vào điểm đó, nhưng nó sẽ không thể làm được cho tới khi mọi cái ngã đã tan biến.

Đạo Phật và tiến trình tiết lộ tuần tự

Hỏi: Khoảng một ngàn năm trước đây, một trong những giáo lý cao siêu nhất của Phật giáo Tây tạng, Kali Chakra Tantra, từng được một vị thày thuyết giảng. Tuy nhiên vì một số lý do, văn bản gốc đã bị thất lạc. Liệu chúng ta có thể hy vọng rằng trong một tương lai gần, Chân sư Yêu dấu sẽ đưa ra một giáo lý hoàn chỉnh hơn để những người theo Phật giáo Tây tạng nói riêng và các Phật tử nói chung có thể tiếp cận được hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 12/9/2019.

Tiếc thay, con yêu dấu, khả năng của ta để cải cách Phật giáo Tây tạng cũng hạn chế như khả năng của Giê-su cải cách đạo Cơ đốc vậy. Điều tương tự cũng xảy ra với các tông phái chính mạch khác của đạo Phật. Các tông phái này không thực sự đón nhận ý tưởng rằng ngày nay ta có thể là một chân sư thăng thiên trong số nhiều chân sư thăng thiên khác. Tất nhiên là các chân sư sẽ tiếp tục đưa ra những giáo lý mới. Qua vị sứ giả này và qua các đợt truyền pháp trước, ta đã giảng dạy một số giáo lý tiên tiến hơn tất cả những gì có thể được giảng dạy hàng ngàn năm trước.

Con thấy không, trong hầu hết mọi phong trào tôn giáo luôn luôn có khuynh hướng nhìn về quá khứ và tôn vinh quá khứ như thể những gì được giảng dạy thuở trước phần nào cao hơn, thuần khiết hơn những giáo lý được trình bày thời nay. Nhưng với thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự, con cần nhìn nhận là khi tâm thức tập thể bước lên cao hơn thì giáo lý có thể được giảng dạy ngày hôm nay cũng phải cao hơn những gì có thể được giảng dạy 1000 năm hay 2000 năm hay 2500 năm về trước. Là một học trò của chân sư thăng thiên, con không có lý do gì tìm về quá khứ và tôn vinh các giáo lý quá khứ.

Tam giác Bermuda và hiệu ứng giao nhau

Hỏi: Con có câu hỏi về Tam giác Bermuda. Chuyện gì xảy ra cho máy bay và tàu bè bị mất tích ở đó? Chuyện gì xảy ra cho những người bị thiệt mạng, họ đi về đâu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2018. Đăng ngày 11/09/2019.

Con yếu dấu, trong nhiều trường hợp đều có lời giải thích vật lý cho các hiện tượng tàu bè hay máy bay bị mất tích. Thường là các điều kiện thời tiết bất thường khiến cho các liên lạc vô tuyến hay radar bị trục trặc hay một lý do nào khác. Trong loại tai nạn này, tất nhiên những người bị thiệt mạng sẽ chuyển tiếp sang một cõi khác, họ sẽ đi về nơi cư ngụ thích hợp cho họ, ở cõi trung giới, cõi lý trí hay cõi bản sắc.  

Ta không phủ nhận là trong một vài trường hợp hiếm hoi, có thể đã có hiện tượng mà trong quyển sách của thày Maitreya gọi là hiệu ứng giao nhau giữa cõi vật lý và cõi trung giới. Đây cũng là lý do một số người cảm thấy rất chắc chắn là họ đã nhìn thấy tận mắt những hiện tượng UFO (vật bay không xác định) hoặc trong quá khứ đã từng có những người tin chắc rằng mình đã nhìn thấy tận mắt những con kỳ lân hay quái vật đủ loại – như rồng chẳng hạn. Có những trường hợp rất hiếm khi một chiếc tàu, hay một chiếc máy bay hay một người, trải nghiệm một loại “dời chuyển” để nhập thẳng vào cõi trung giới và – nếu có thể nói như vậy – biến mất khỏi cõi vật lý.

Trong trường hợp này, đối với một người thì xác thân vật lý người đó sẽ qua đời. Không phải là xác thân sẽ cứ tồn tại và bước vào một chiều kích khác. Cơ thể vật lý sẽ chết, nhưng linh hồn người đó sẽ đi tiếp vào cõi trung giới và vẫn tiếp tục duy trì được một phần tâm thức như thể người đó đã kinh qua sự chuyển tiếp một cách bình thường. Con hiểu là để cho một vật như chiếc máy bay di chuyển sang cõi trung giới, vật đó không thể tồn tại như một vật thể vật lý hay ở lại trong cõi vật lý.   

Tương tự như vậy đối với thân xác vật lý của con người. Cho nên trong một nghĩa nào đó, con có thể gọi đó là một hiện tượng phi vật chất hóa, nhưng tâm thức của người đó tất nhiên sẽ phần nào tiếp tục sống còn.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

Tiếp xúc với chân sư thăng thiên giữa hai kiếp đầu thai

Hỏi: Tất cả chúng con ở đây đều có ít nhiều tiếp xúc với các chân sư thăng thiên. Nhưng khi chúng con qua đời và bước qua bên kia tấm màn thì sao? Một người bạn của con vừa bước qua tấm màn và đã tiếp xúc với chân sư thăng thiên. Mẹ con có liên hệ rất mạnh mẽ với Mẹ Mary nhưng không trong ý thức. Cho nên con tò mò, nếu con ở bên kia tấm màn, tức là không trong hiện thân, liệu sự tiếp xúc với chân sư và gia nhập lớp học của chân sư có dễ dàng hơn hay không?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Con sẽ tiếp xúc với chúng tôi dễ dàng hơn khi con ở ngoài xác thân vật lý nếu con ở một mức tâm thức đủ cao để có thể hòa điệu phần nào với chúng tôi. Tất nhiên, những ai ở những mức tâm thức thấp hơn thường bị kéo hút vào cõi trung giới giữa hai kiếp đầu thai, và từ đó thì rất khó lòng bắt được liên lạc với các chân sư thăng thiên.

Đối với những ai ở mức tâm thức cao hơn và đã mở mang được phần nào khả năng hòa điệu với chúng tôi, dù ý thức hay không ý thức, thì khi họ ở ngoài thân xác vật lý, họ sẽ dễ dàng hơn đi vào cõi bản sắc, gia nhập các khóa nhập thất, hoặc tương tác với chúng tôi bằng nhiều cách.

Rõ ràng là khi con ở trong một xác thân vật lý, con phải nhìn thế gian qua lăng kính của tâm vật lý, và điều này tạo thêm một lớp trung gian, khiến cho việc tiếp xúc với chúng tôi trong tâm ý thức gặp nhiều trở ngại hơn.

Người tâm linh và quan hệ cá nhân

Hỏi: Trong đời con – và con biết cũng là trường hợp của những người tâm linh khác mà con quen biết – chúng con không có nhiều quan hệ, nếu không muốn nói là không có quan hệ nào. Xin các chân sư cho biết cảm nghĩ về điều này – về các quan hệ tình cảm cá nhân cũng như bất kỳ mối quan hệ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Con yêu dấu, như người ta thường nói, thói quen cũ rất khó bỏ. Hiển nhiên nhiều người tâm linh hôm nay đã từng là người tâm linh trong nhiều kiếp trước. Nếu con nhìn trở ngược thời gian, con thấy người tâm linh ngày xưa thường làm gì? Phải, họ rút khỏi xã hội, họ sống trong một hang đá trên núi Himalaya, nơi một trường bí giáo hay một tu viện. Thật sự có nhiều người tâm linh đã sống ẩn dật suốt nhiều kiếp, hoặc trong những khung cảnh im lặng, thanh vắng, ngăn nắp nơi họ không phải tiếp xúc với những vấn đề của cuộc sống năng động ngoài đời.    

Nhiều người trong số các con đã chọn đầu thai trong kiếp này nhưng các con đem theo mình một xu hướng lâu đời, theo một nghĩa nào đó, muốn sống trong một môi trường nơi mình cảm thấy thoải mái. Con có nhu cầu mọi thứ phải trong tầm kiểm soát và có một số thử thách của thế gian mà con không muốn phải đương đầu. Con đem xu hướng này với con tới độ con trở thành người hướng nội, thích lẻ loi. Ta không nói là nhất thiết có điều gì không ổn trong mọi trường hợp, hay là con không nên cư xử như vậy. Đối với một số người, đây có thể là một điều thích hợp cho họ, ít nhất trong một thời gian cho đến khi họ đạt được một giải pháp nội tâm.

Con cần hết sức thận trọng và con nên dùng những dụng cụ và giáo lý tâm linh để hòa điệu với sứ vụ thiêng liêng của con, và xét xem con đã quyết định mình phải có nhiều tương tác hơn với người khác hay không. Hiển nhiên, điều nguy hiểm khi con tự cô lập là tâm con có thể trở thành một căn phòng khép kín vì con không nhận được phản hồi từ bên ngoài để dùng làm khung chuẩn.  

Con cần nhận ra ở đây là ngay cả một người có trình độ phân biện Ki-tô và hòa điệu Ki-tô cao độ với Hiện diện TA LÀ, vẫn có thể được nhiều lợi ích khi tương tác với người khác – it nhất là vì việc biều lộ quả vị Ki-tô của mình phần nào là phải giúp đỡ người khác. Làm sao con có thể giúp được nếu con không cảm nhận được họ đang ở mức tâm thức nào? Nói cách khác, nếu sứ vụ thiêng liêng của con (như đối với hầu hết các con) phần nào là phải chứng tỏ tâm Ki-tô và đóng góp những ý tưởng có thể giúp người khác chuyển đổi tâm thức họ, làm thế nào con sẽ làm tròn được nếu con không hòa điệu với trình độ tâm thức của họ?  

Đó là lý do con cần phải sẵn sàng xét xem: Phải chăng tôi đang tự cô lập hầu tránh né một điều gì đó? Trong trường hợp này, con đã có những dụng cụ để nhìn vào “điều gì trong chấn thương nhập đời của tôi đã khiến tôi quyết định là bởi vì người khác đã hại tôi cho nên tôi không muốn đối đãi với người khác”, rồi từ đó con vượt qua chấn thương của con. Nói cách khác, con cần đi tới một điểm nơi con có thể xác định rằng lý do con không có nhiều quan hệ không phải là một phương cách tránh né hay trốn chạy sự đối mặt, bởi vì con đã khắc phục được những vết thương tâm lý khiến con cảm thấy cần tháo chạy.

Một khi con làm được điều đó, con sẽ thấy được: Liệu sứ vụ thiêng liêng của tôi định rằng tôi phải tiếp tục sống tương đối cô đơn, hay liệu sứ vụ của tôi định rằng tôi phải vào đời và tương tác nhiều hơn với người khác? Nói cách khác, ta muốn con đạt đến một điểm khi con nhận biết trong thâm tâm của con vấn đề này có ý nghĩa gì với con, và liệu con cần tiếp tục sống cô độc hay đã đến lúc con cần tương tác nhiều hơn với người khác.   

Nhiều người tâm linh chối bỏ hoặc trốn tránh cuộc sống

Hỏi: Nếu chúng con có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, tại sao nhiều người tâm linh lại gặp nhiều khó khăn để xoay xở trong thế giới bên ngoài và lo liệu cuộc sống như người ta thường sống bên ngoài? Cuộc đời làm việc của nhiều người tâm linh vô cùng hỗn độn và họ rất khó khăn kiếm tiền và giữ tiền? Và người tâm linh nói chung hình như cũng kém khả năng nhất để đối phó với những thử thách của thế giới vật chất – tại sao vậy? Tại sao lại có sự chênh lệch này? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Con yêu dấu, câu trả lời nằm trong quyển sách đó. Trong sách, chúng tôi có mô tả nhiều avatar đến địa cầu đã bị cú sốc và chấn thương rất nặng bởi các điều kiện trên địa cầu. Hệ quả là các con đã dựng lên một nỗi căm giận nào đó, một nỗi phẫn uất nào đó, một sự miễn cưỡng không muốn tham gia vào cuộc sống trong cõi vật lý. Điều này phần nào có thể là do cú sốc và chấn thương mà con đã trải nghiệm ở đây. Đó cũng có thể là do con cảm nhận rằng mọi chuyện đã có thể khác hơn, rằng con đã từng kinh nghiệm một thế giới nơi mọi chuyện đều khác. Và do đó trong tiềm thức, nhiều người trong các con có khuynh hướng chối bỏ địa cầu nói chung. Trên căn bản, con nghĩ: “Tôi sẽ không tham gia hoàn toàn vào cuộc sống ở đây. Tôi sẽ chỉ làm tối thiểu tuyệt đối để bảo đảm sinh nhai mà thôi.”  

Và do đó nhiều lần con đã để mặc cho hoàn cảnh quyết định việc làm cho con cũng như thời gian con làm việc. Nhiều người trong số các con cũng có một cách trốn tránh nỗi đau bắt nguồn từ thuở chấn thương nguyên thủy khi con mới đến đây. Để trốn tránh nỗi đau nguyên thủy này, con đã lập ra một cơ năng bù đắp, là khi có một tình huống nào đó có vẻ khơi lại vết thương cũ, con liền tìm cách rút lui khỏi tình huống. Cho nên mỗi khi con có việc làm nào khả dĩ sẽ khơi lại vết thương, con sẽ lánh xa ra và tìm công việc khác. Cho nên cả đời con trở thành một cuộc rượt đuổi để tìm ra một nơi nào không có ai sẽ nhấn vào chỗ đau và khuấy lên vết thương của con. 

Con làm một chuyện mà chúng tôi gọi là những quyết định trốn tránh. Thay vì con lấy quyết định về những điều gì mà con muốn trong cuộc sống, con lại bị thúc đẩy bởi những gì con không muốn, và con lấy những quyết định mà con nghĩ sẽ khiến con tránh được những điều con không muốn.  

Cho nên lối thoát duy nhất khỏi tình trạng này là con thực sự xem xét những gì được viết trong sách, nhìn vào toàn bộ tiến trình và quyết định xem con có đang ở điểm con sẵn sàng rời bỏ địa cầu hay chưa, và sau đó con tập trung vào việc hội đủ các điều kiện để thăng thiên. Nhưng hầu hết các con chưa hẳn tới được điểm đó bởi vì con còn cần đi qua một giai đọan đặc thù trước khi con sẵn sàng rời khỏi trái đất. Và giai đoạn này là con thực sự chấp nhận cuộc sống trên trái đất và con tham gia vào đó một cách tích cực. Điều này không có nghĩa là con phải làm giống như những người không tâm linh, mà chỉ có nghĩa là con chấp nhận con ở đây. Con chấp nhận hành tinh này là như vậy. Và sau đó con tự nhủ: “Đằng nào tôi cũng ở đây rồi – tại sao tôi lại không có cuộc sống tốt đẹp nhất? Tại sao không thực sự thưởng thức đời sống ở đây? Tại sao không cảm thấy hài lòng về chính mình như một người trên địa cầu? Tại sao không hài lòng về đời mình? Tại sao không hài lòng về hành tinh, về người khác, về thế giới vật lý?” Hãy ôm lấy cuộc sống thay vì cố trốn chạy nó.

Và nếu con nhảy được bước nhảy vọt này, thì trước hết phần đời còn lại của con sẽ thú vị hơn, nhưng ngoài ra đó cũng sẽ là một chuẩn bị cần thiết cho việc thăng thiên thực thụ, bởi vì có một số người kể cả những học trò của chân sư tưởng rằng thăng thiên có nghĩa là rút lui khỏi mọi khía cạnh của đời sống. Nhưng rất hiếm khi là như vậy.

Một số người có thể có nhu cầu rút lui trong một chu kỳ nào đó, nhưng trong hầu hết trường hợp con không thể thực sự thăng khỏi địa cầu, con không thể trở nên không dính mắc với địa cầu cho tới khi con ôm lấy cuộc sống ở đây. Cho nên có một sự cân bằng tế nhị mà con phải bước. Một đằng, con không muốn bị lôi cuốn vào những ham muốn không thể thoả mãn là luôn kiếm nhiều tiền hơn, nhiều danh vọng hơn hay bất cứ gì khác. Nhưng đằng khác, con không muốn từ chối những mong muốn của con và quyết định rằng không có gì thú vị trên trái đất này, và với tư cách là một người tâm linh, con sẽ bước trên con đường khổ ải, luôn luôn cảm thấy bất mãn về địa cầu bởi vì sự bất mãn là một cách để khắc phục vướng mắc. Nhưng con yêu dấu, cảm thấy bất mãn không phải là cách để vượt qua vướng mắc. Cảm thấy hài lòng về chính mình mới là cách nhanh hơn và thú vị hơn để vượt qua vướng mắc.   

Trong nhiều trường hợp, con càng bất mãn thì con sẽ càng khó vượt qua vướng mắc vì con dựng lên một vướng mắc mới đối với sự bất mãn. Như nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đã từng bước trên con Đường Thương khó, tuy họ có bỏ được một số vướng mắc đối với một vài khiá cạnh của cái gọi là “đời sống trần tục” hay “đời sống xác thịt”, nhưng họ lại vừa dựng lên một phàm linh nội tại mới, một vướng mắc to lớn mới với điều mà họ xem là đau khổ.    

Vì vậy, một lần nữa, con hãy quyết định xem con muốn làm gì trong phần đời còn lại của mình. Con có muốn tiếp tục khuôn nếp cũ là con sống trên hành tinh này, con không thể tránh khỏi phải ở đây, nhưng trong tiềm thức con lại chối bỏ cuộc sống ở đây, khiến cho đời con khó khăn hơn? Hay con muốn làm sự chuyển vọt mà quyển sách đó – cùng nhiều giáo lý khác của các chân sư – sẽ giúp con làm, tức là con ôm lấy ít nhất một số khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu và hài lòng về bản thân, hài lòng về tất cả những sinh hoạt đó, hài lòng về sự có mặt của con trên địa cầu?   

Sẽ dễ dàng hơn nếu con có một kinh nghiệm tích cực và sau đó vượt qua các dính mắc một cách tự nhiên, hơn là cố ép mình khắc phục các dính mắc. Con có thể ép mình khắc phục một dính mắc đặc thù nào đó nhưng cái giá con phải trả là con dựng lên một dính mắc mới, và điều này sẽ không giúp con thăng thiên.

Làm sao biết được mình là avatar

Hỏi: Làm sao một người có thể tìm ra mình là một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu, hay một loại gì khác nữa?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Không hiểu bạn có đọc quyển sách mới hay chưa? Tôi xin trả lời câu hỏi này, và quyển sách mới đó là “My Lives with Lucifer Satan Hitler and Jesus”. Từ “avatar” đã được sử dụng trong một số giáo lý trước đây – một số là của các chân sư thăng thiên và một số giáo lý tâm linh khác nữa. Tôi không chắc chắn 100% nhưng tôi nghĩ từ này có thể đã được bà Blavatsky và giáo lý Thông thiên học đề xướng. Không hiểu trong số các bạn có ai biết rõ hơn không?

Và tất nhiên, từ này được dùng trong phim Avatar. Trong các trò chơi máy tính cũng có khái niệm avatar. Nhưng trong nhiều giáo lý của các chân sư thăng thiên, một avatar được xem là một sinh thể vô cùng tiến hóa đã đến trái đất. Cũng có một số giáo lý nói rằng, chẳng hạn, Giê-su là một avatar, và đó là lý do thày đặc biệt đến như vậy.

Điều này trớ trêu, vì như tôi vừa nói chuyện với một vị hồi nãy, giáo lý của các chân sư dạy rằng Giê-su không phải là đứa con duy nhất của Thượng đế, rằng thày đã từng có nhiều kiếp đầu thai, và trong một số kiếp này, thày không nhất thiết là đã luôn luôn làm điều phải. Cho nên có một phần giáo lý kéo Giê-su xuống khỏi bệ, nhưng có một phần giáo lý khác lại vẫn duy trì quan điểm thờ thần tượng và bảo rằng khi thày xuống thế gian, thày đã rất đặc biệt rồi. Sự thể này tất nhiên là phản tác dụng.

Cho nên cuốn sách này (My Lives with Lucifer, Hitler and Jesus) cố gắng vượt quá việc huyền thoại hóa và thần tượng hóa tất cả các khái niệm đó, kể cả về Giê-su. Nó cố gắng đưa ra quan niệm một avatar là một người không là dân cư nguyên thủy của địa cầu, không là một sa nhân, và cũng không là một người đã phải đến đây do nghiệp quả.

Có những người, những dòng sống đã đầu thai ở đây từ những hành tinh khác và đã tạo nghiệp nơi những hành tinh đó, chẳng hạn khi hành tinh đó được thăng lên thì họ đã không đủ nâng tâm thức, nên đã phải chuyển tới địa cầu nơi mức tâm thức thấp hơn. Nhưng một avatar không đến đây đầu thai vì lý do đó, mà đã lựa chọn đến đây với một mục đích trong tâm là, trên cơ bản, tham gia vào một sứ mạng cứu nguy và nâng cao địa cầu lên một tầng tâm thức cao hơn.

Trong cuốn sách mới này có nói rằng, trên cơ bản, hầu hết những người rất tâm linh và cởi mở đối với các giáo lý tâm linh – kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên nhưng không chỉ của chân sư thăng thiên – đều là avatar. Giả thuyết hợp lý là nếu bạn là một người rất tâm linh từ rất lâu và cũng rất cởi mở, thì rất có thể bạn đã tới đây như một avatar.

Trong sách nói rằng Giê-su đã từng là một avatar, nhưng có rất nhiều vị khác nữa, hay đúng hơn, có hàng triệu người là avatar đã đến địa cầu. Điều mà các chân sư mong muốn chúng ta làm là xóa bỏ khoảng cách mà chúng ta thường đã dựng lên giữa chúng ta và các chân sư, là khi chúng ta đặt chân sư lên một cái bệ không thể nào với tới. Các chân sư mong muốn chúng ta nhận ra là rất nhiều người đã đến địa cầu với một mục đích giúp cho điạ cầu thức tỉnh, và để đánh thức địa cầu thì chúng ta phải đánh thức chính mình. Đấy là không muốn nói tới một số cư dân nguyên thủy của trái đất cũng là người tâm linh.

Làm thế nào bạn có thể tìm ra nguồn gốc của mình là thế này hay thế kia? Bạn chỉ có thể biết được trong nội tâm qua trực giác. Nhưng như một giả định chung chung, tôi sẽ nói rằng bạn là avatar nếu bạn có tâm cởi mở đối với những giáo lý này, trừ khi bạn có trực nhận mạnh mẽ bạn là thế khác. Cuốn sách này là một cuốn tiểu thuyết, và nó được viết ở ngôi thứ nhất, tức là “tôi đã trải nghiệm điều này”, “tôi đã làm công việc kia”. Tất nhiên, tên tôi được in ngay trên bìa sách, nhưng không có nghĩa cuốn sách là một tự truyện. Tôi không xem là mình đã trải qua tất cả mọi điều mô tả trong sách, nhưng tôi cảm thấy tôi đã trải qua một số, và quyển sách là một bản trích yếu tất cả những trải nghiệm của nhiều avatar khi họ đến đây.

Trong sách có mô tả một số hành tinh nơi không hề có chiến tranh, bạo động hay đủ loại thị hiện khác, cho nên chúng có tên là hành tinh “tự nhiên”. Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên như thế, trực tiếp xuống một hành tinh như địa cầu. Cho nên như tôi vừa nói, có một số người khác từ một số hành tinh không phải là hành tinh tự nhiên cũng đã đầu thai ở đây. Nói cách khác, nếu hành tinh đó ở một mức thấp hơn hành tinh tự nhiên, và khi hành tinh đó thăng lên, người đó đã được chuyển sang địa cầu vì đã không nhảy vọt lên theo, thì những người như vậy không phải là avatar. Họ đến từ hành tinh khác nhưng không phải là avatar.

Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên nơi không có chiến tranh, bạo lực, sát hại hay hỗn loạn. Điểm này vô cùng quan trọng, vì như các chân sư đã giảng qua những bài truyền đọc và bây giờ qua sách, bạn không thể nhảy thẳng từ một hành tinh tự nhiên xuống một hành tinh như địa cầu mà không trải nghiệm khủng hoảng và chấn thương. Cho nên để chữa lành, nhiệm vụ của mỗi avatar bây giờ là: thứ nhất, hoàn thành sứ mạng mà bạn đã đến đây để thực hiện, và thứ hai, rời khỏi nơi đây.

Chúng ta phải nhìn nhận là chấn thương có đó, rồi chúng ta phải chữa lành. Bởi vì nếu không, chúng ta sẽ bị kẹt mãi trong khuôn nếp đó. Như được mô tả trong cuốn sách, nhân vật chính phải chạm trán với sa nhân, bị sa nhân đối xử tệ hại, và rồi anh ta đã bắt đầu phản ứng lại sa nhân, rơi vào chu kỳ phản ứng khi anh giao chiến với sa nhân, và với ý định cao thượng nhất, anh đã cố gắng ngăn cản chúng giết hại và gây đau khổ cho người khác. Anh ta tưởng rằng cách duy nhất để ngăn chặn chúng là phải tiêu diệt chúng.

Nhưng ngay cả khi chúng ta không chiến đấu trực diện với sa nhân, thì cũng có một số khuôn nếp phản ứng khác mà chúng ta có thể mắc phải. Chẳng hạn như khi chúng ta nghĩ mình không thể thách đố chúng, rằng mình phải quy phục chúng, hay đứng ngoài và im miệng không thốt lên lời nào có thể khiến chúng nổi giận. Và còn có nhiều khuôn nếp phản ứng khác nữa, và khi nào chúng ta còn khuôn nếp phản ứng lại sa nhân thì chúng ta sẽ không thể thăng thiên. Và bởi chúng ta đến từ mức đó cho nên chúng ta phải ý thức được khuôn nếp, phải giải quyết và thăng vượt khuôn nếp.

Tầm nhìn tâm linh về phương pháp thụ tinh nhân tạo IVF

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con xin hỏi thày về phương pháp thụ tinh nhân tạo (IVF – in-vitro fertilisation). Xin thày giảng điều gì xảy ra trong quy trình này từ một quan điểm tâm linh? Với phương pháp này, có mấy cái phôi được tạo ra một cách nhân tạo, xong một số phôi không cần thiết sẽ bị loại bỏ. Điều gì xảy ra cho các tế bào khi các phôi đó bị giết chết? Có sinh thể nào khác đi vào hiện thân qua quy trình này không? Liệu chúng có mang ngọn lửa ba nhánh? Các đệ tử cả nam lẫn nữ trên đường tu tâm linh có nên chấp nhận quy trình này không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Con yêu dấu, có một sự hiểu lầm trong câu hỏi về IVF hay ngay cả về việc mang thai nói chung. Con yêu dấu, không phải là với mỗi quả trứng được sinh sản trong cơ thể người mẹ thì sẽ có một linh hồn được chỉ định cho quả trứng đó. Chỉ sau khi sự thụ tinh đã thành công và có triển vọng sống còn thì một linh hồn mới được chỉ định. Thậm chí điều này có thể không xảy ra ngay sau khi trứng thụ tinh mà có thể xảy ra chậm hơn. Có nhiều lý do khiến cho một linh hồn có thể muốn chờ thêm trước khi lấy quyết định có đầu thai hay không trong lần thụ thai này.

Cho nên không có vấn đề gì khi có mấy phôi được tạo ra rồi một số bị loại bỏ, vì vào thời điểm đó chưa có linh hồn nào được chỉ định, và vì vậy điều này không tạo ra vết thương hay gánh nặng cho linh hồn. Nhưng này con, một linh hồn bước vào hiện thân qua phương pháp IVF không khác gì một linh hồn bước vào hiện thân qua sự thụ tinh tự nhiên. Thật không có gì quan trọng vì như ta vừa trình bày, linh hồn chỉ được chỉ định sau khi thai có triển vọng sống còn.

Vậy thì IVF chỉ đơn giản là một kỹ thuật được cống hiến cho rất nhiều phụ nữ không thể thụ thai vì một số lý do thể chất. Cho nên đây là một kỹ thuật đã đơn giản phát xuất từ nền công nghệ mà Saint Germain đang truyền rải trong khuôn khổ Thời Hoàng kim.

Con cần nhận ra ở đây là sa nhân – ít ra một số sa nhân – đã quyết định hạn chế dân số loài người. Và chúng đã đưa ra đủ mọi cách để giảm mức sinh, giảm khả năng sinh nở của phụ nữ hầu giảm dân số và ngăn cản trẻ em được chào đời. Cho nên có một số phụ nữ vì lý do thể chất – có thể do một số thực phẩm mà họ ăn vào hay bất kỳ vấn đề nào khác – đã không thể thụ thai một cách tự nhiên. Và vì vậy đây chỉ là một phương thức để vượt qua trở ngại này và giúp cho trẻ em ra đời.

Tuy nhiên, những điều nói trên không áp dụng cho phôi được nuôi trong ống nghiệm vì ống nghiệm là một môi trường hoàn toàn nhân tạo không có sự tham gia của con người. Cho nên tuy ta sẽ không nói một cách tuyệt đối là sẽ không bao giờ có tình trạng trẻ em được sinh ra trong một môi trường hoàn toàn nhân tạo, nhưng trong hiện tại thì điều này không được các thày hỗ trợ. Đó là vì, do nhiều lý do khác nhau, sự tương tác giữa trường năng lượng của đứa bé sắp ra đời với trường năng lượng của người mẹ là một điều thật quan trọng. Cho nên đây không phải là lời nói cuối về những em bé được gọi là “em bé ống nghiệm”, nhưng trong hiện tại thì các thày có sự phân biệt rõ ràng giữa IVF và ống nghiệm.

Khác biệt trong tiến trình thăng thiên giữa các avatar và cư dân nguyên thủy của địa cầu

Hỏi: Xin có câu hỏi về sự khác biệt trong tiến trình thăng thiên giữa các avatar và các cư dân nguyên thủy của địa cầu.


Trả lời của chăng sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 6/9/2019.

Chỉ có khác biệt nhỏ giữa tiến trình thăng thiên của các cư dân nguyên thủy của địa cầu với tiến trình của các avatar, nhưng đó là một sự khác biệt rất phức tạp, theo nghĩa là các cư dân nguyên thủy cảm thấy gắn bó hơn với địa cầu, và do đó việc rời bỏ địa cầu trong tình trạng tối tăm, dày đặc hiện nay sẽ thực sự khó khăn hơn đối với họ.

Nói vậy không có nghĩa là không có một cư dân nguyên thủy nào đã thăng thiên, nhưng có rất nhiều người hơn đã đạt đến một mức phát triển tâm linh nào đó rồi lại không sẵn lòng thăng thiên bởi vì họ cảm thấy trọng trách đối với trái đất và không thể bỏ nó lại đằng sau.

Chúng tôi đã có giải thích là khi thăng thiên, con người bỏ lại địa cầu cũng như mọi thứ trên địa cầu một cách vĩnh viễn. Tất nhiên, con có thể trở thành một chân sư thăng thiên để tiếp tục làm việc với trái đất nhưng con phải thực sự buông bỏ mọi mong muốn nhìn thấy bất kỳ thay đổi nào trên trái đất. Điều này khó hơn cho các cư dân nguyên thủy do tinh thần trách nhiệm của họ.

Đối với một avatar, con đến địa cầu như chúng tôi đã giải thích, với một ý muốn cụ thể muốn nhìn thấy thay đổi. Nhưng con cũng nhìn nhận rằng đây không phải là một hành tinh mà con đã góp phần đồng sáng tác ngay từ buổi đầu. Không phải con đã góp phần đưa địa cầu xuống mức thấp kém hiện tại, và do đó con không cảm thấy cùng gánh nặng trách nhiệm hay gắn bó đối với trái đất.   

Và đó là tại sao con thực sự nhìn ra rằng ý muốn nguyên thủy của con không phải là cao nhất có thể có. Nhưng con có thể từ bỏ ý muốn này và sau đó con có thể ra đi, khi con nhận ra là con muốn bước tới trên đường phát triển của con, hay thậm chí là con thực sự có thể đóng góp cho địa cầu từ cõi thượng thăng nhiều hơn là trong kiếp đầu thai. Nhưng ngay cả khi con có khả năng thăng thiên như một avatar, tất nhiên là con vẫn có thể quyết định ở lại trong đầu thai, vì ở đây con có thể neo trụ ánh sáng và là một cánh cửa mở, và con có thể nêu gương cho người khác.

Cho nên tiến trình thăng thiên không khác nhau trên bản chất, nhưng nói thật, một lần nữa, con cần hiểu rõ thế nào là tiết lộ tuần tự. Trong quyển sách của đợt truyền pháp trước, những lời dạy được đưa ra đã được điều chỉnh để thích nghi với trình độ tâm thức tập thể thời đó cũng như trình độ của các học trò, và do đó lời dạy đã đơn giản hóa tiến trình thăng thiên phần nào.    

Con cũng có thể nói là những lời dạy hôm nay về sự thăng thiên cũng đã được điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức tập thể và trình độ học trò ngày hôm nay, và do đó cũng đã được đơn giản hóa. Điều này không có nghĩa là lời dạy cũ hay lời dạy hôm nay là sai lầm, mà chỉ có nghĩa là nhiều chi tiết hơn có thể được cung cấp do hành tinh đã tiến bước. Những gì được đưa ra bây giờ sẽ tạm đủ cho một số học trò thăng thiên, và khi hành tinh được nâng lên cao hơn nữa, một số lời dạy khác sẽ được đưa ra để giúp cho một số đông học trò hơn cũng thăng thiên. 

Ta cần nói thêm ở đây là đối với các cư dân nguyên thủy của địa cầu, có một yếu tố phức tạp phụ trội. Nếu con là một avatar, con xuống hành tinh này, con tương tác với sa nhân khiến con rơi vào nhị nguyên. Nhưng bởi vì sa nhân biểu lộ một hình thức cùng cực của nhị nguyên, cho nên phần nào con sẽ dễ dàng hơn thấy được cách hành xử của họ là xấu xa, và con biết nhất định phải có một cách hành xử cao hơn. Trong nghĩa đó đối với một avatar, việc rút ra khỏi tình trạng nhị nguyên và thăng thiên sẽ dễ dàng hơn.

Đối với một cư dân nguyên thủy của địa cầu, cũng tương đối dễ dàng để họ thấy được cách cư xử của sa nhân là không tốt. Nhưng con hãy nhớ những gì chúng tôi đã giải thích, trước khi sa nhân được phép xuống địa cầu thì các cư dân ở đây đã tạo ra một vòng xoáy hướng hạ rồi, và đã trở nên đui mù do tâm thức nhị nguyên rồi. Họ đã tự làm chuyện đó chứ không phải sa nhân đã hướng dẫn hay ép buộc họ làm. Đó là sự lựa chọn của các cư dân nguyên thủy, và chính vì vậy mà việc thấy được và vượt qua các chọn lựa hạn chế của mình là điều khó khăn gấp bội.

Trong tương lai tất nhiên, đến lúc chúng tôi sẽ đưa ra một số lời dạy mới, qua vị sứ giả này hay một sứ giả nào khác, tùy theo thời điểm, để giúp cho các dòng sống trên địa cầu thăng hoa dễ dàng hơn. Chúng tôi đã có gợi ý về điều này nhưng cho tới giờ vẫn chưa thực sự đưa ra lời dạy nào đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đặc biệt của họ.

Tầm nhìn tâm linh về cái chết tự nguyện

Hỏi: Con xin hỏi về cái chết tự nguyện (euthanasia)


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 6/9/2019.

Một lần nữa, con yêu dấu, một đề tài phức tạp với nhiều khía cạnh tinh tế. Nếu con muốn đơn giản hóa, con có thể nói là con đang sống trên một hành tinh nơi quyền tự quyết ngự trị tối cao. Cho nên một người có quyền quyết định là mình muốn chấm dứt đời mình và không trải qua một quá trình bệnh tật quá đau đớn. Điều này dựa trên ý chí tự do là tối thượng, nhưng tất nhiên câu hỏi luôn luôn đặt ra là chọn lựa mà họ lấy sẽ tự do đến chừng nào. Và đây chính là điểm chúng ta chạm đến những khía cạnh tế nhị hơn, khi trong hoàn cảnh lý tưởng, người bệnh có biết đến một số sự thật về bản chất tâm linh của mình.

Họ sẽ biết đến luân hồi, biết đến nhu cầu giải quyết tâm lý của họ, nhu cầu khắc phục một tầng tâm thức nào đó, và biết đến sự kiện một chứng bệnh vật lý có thể là cách biểu hiện của một trình độ tâm thức đặc thù. Họ sẽ biết là thật ra khi một người mắc bệnh vật lý, họ có khả năng trải qua một sự xoay chuyển tâm thức, và vì vậy, có thể sẽ lợi lạc cho sự phát triển dài hạn nếu họ trải nghiệm căn bệnh cho đến giờ phút chót. Bởi vì chính bằng cách trải qua tiến trình nhận biết là cơ thể mình đang chết, họ có thể giải quyết được nhiều câu hỏi, nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm mà họ chưa từng nghĩ đến trong đời.

Cho nên con thấy ở đây là từ một góc độ đơn giản, con có thể nói là một người có quyền tự do quyết định, nhưng một lần nữa, trong nhiều trường hợp nếu họ chỉ quyết định là họ muốn tránh đau đớn thì kỳ thực họ đang cản trở sự tăng triển của họ, và họ đang tạo ra một tình trạng sẽ đem lại nhiều giới hạn hơn trong kiếp sống tới. Và họ có thể mắc phải cùng chứng bệnh sẽ tái phát, và họ cũng có thể bước vào kiếp tới mà chưa giải quyết xong vấn đề mà họ đã có thể giải quyết nếu họ sống tiếp cho đến cuối.

Tất nhiên, một trong những khó khăn xuất hiện gần đây là ngành y học hiện đại đã chế tạo một số công nghệ cho phép con người – cho phép cơ thể vật lý – được duy trì sự sống một cách nhân tạo. Cho nên nếu con nhìn vào tình huống cách đây một trăm năm chẳng hạn khi người ta không có công nghệ hiện đại, nếu có ai đó bị mắc bệnh thì họ sẽ bước vào một tiến trình mà chúng ta có thể gọi là tự nhiên – cho dù không bệnh nào đúng nghĩa là tự nhiên – nhưng họ kinh qua một tiến trình có thể vô cùng cá nhân, họ được trao cho một cơ hội để xoay chuyển tâm thức của họ.

Con sẽ thấy là chẳng hạn, có những người bệnh đạt tới điểm họ có thể nói: “Tôi an bình rồi, tôi có thể ra đi bây giờ”, và trong một số trường hợp họ vui lòng bỏ lại thân xác đằng sau vì họ đã đạt đến một sự giải quyết nội tâm là họ muốn ra đi – tuy rằng cũng có những người không đạt được điểm đó. Nhưng một chứng bệnh có thể là một cơ hội cho con người giáp mặt với những vấn đề mà họ chưa từng giáp mặt trước đó. Cho nên có thể nói là thuở trước, tiến trình bệnh tật gọi là tự nhiên được thích ứng để trao cho người bệnh cơ hội tối đa để họ xoay chuyển tâm thức.

Như vậy con có thể nói là nếu không có sự can thiệp của y học hiện đại thì người đó đã có một thời điểm tự nhiên để qua đời. Điều chúng ta chứng kiến ngày nay là trong ngành y khoa hiện đại, có một tư duy cho rằng việc quan trọng nhất là phải bảo tồn sự sống vật lý, cho nên người ta chế tạo ra đủ loại quy trình và công nghệ nhằm kéo dài tuổi thọ vật lý càng lâu càng tốt. Và điều này có nghĩa là có những trường hợp tuổi thọ kéo dài hơn tự nhiên. Nói cách khác, lý tưởng nhất từ một góc độ tâm linh là người đó chết sớm hơn, nhưng bây giờ y học nhân tạo lại giữ họ lại – giữ cơ thể vật lý lại – cho sống lâu hơn để họ tiếp tục bị ràng buộc với cơ thể.

Điều này cũng có nghĩa là trong một số trường hợp khi người bệnh bị giữ trong một tình trạng đau đớn lâu hơn bình thường, điều xây dựng hơn là họ có được sự hòa điệu trực giác để nói: “Tôi cảm thấy đã đến lúc ra đi, tôi không muốn cơ thể của tôi bị giữ sống lâu hơn, tôi không cảm thấy mình cần trải nghiệm cơn đau này, hay tôi không muốn được an thần với thuốc giảm đau, vậy hãy để yên cho xác thân tôi ra đi.” Đây là một cách ứng xử hoàn toàn có giá trị, và khi đó, họ không tìm cách trốn chạy khỏi nỗi đau hay tránh né không đương đầu với các vấn đề của nỗi đau. Vậy một lần nữa trong hoàn cảnh lý tưởng, người đó biết đến đời sống tâm linh, họ đã giải quyết được nhiều vấn đề trong đời mình, đã phát triển trực giác của mình, và giờ đây họ biết: “Đã đến lúc tôi ra đi, hãy để yên cho chuyện này xảy ra.”

Nhưng nếu mọi người không có được tầm nhìn như vậy về cái chết tự nhiên, nhiều vấn đề sẽ ngóc đầu lên, và một câu hỏi khó hơn hẳn sẽ được đặt ra: “Xã hội có nên hợp pháp hóa cái chết tự nguyện hay không?” Và đây là một vấn đề phải được mỗi quốc gia quyết định vì nó tùy vào tâm thức quần chúng của nước đó. Nó trở thành một thách thức cho tâm thức quần chúng vì cách ứng phó với những vấn đề sống chết như vậy luôn luôn là một thách thức cho xã hội.

Lý tưởng là mỗi xã hội nên đối mặt với nhiều vấn đề, nhưng luôn luôn có xu hướng là người ta muốn chọn con đường dễ dãi và làm ngơ các vấn đề. Nhưng có một số vấn đề sống chết mà hầu hết ai ai cũng cảm thấy không thể làm ngơ được, và thường thường đây là nguồn tăng trưởng lớn nhất – không phải vì nó cần phải như vậy mà là vì người ta hay trốn tránh. Cho nên điều quan trọng trong thời buổi này là mỗi quốc gia nên có một cuộc thảo luận về vấn đề này và những việc gì có thể được cho phép.

Ngay bây giờ chúng ta đang ở đất Hòa Lan, có lẽ là nơi có luật pháp tự do nhất trên hành tinh về vấn đề này, và ta có thể nói với con là trong trường hợp này, Hòa Lan quá tự do về nhiều mặt, quá ít tôn trọng sự sống do thiếu hẳn sự nhận biết tâm linh. Cho nên người Hoà Lan vun bồi một tâm thức xem mình là đi tiên phong, là vô cùng cấp tiến. Nhưng các con không tiến bộ như các con tưởng vì các con không coi trọng cái nhìn tâm linh, vì vậy mới có xu hướng muốn đóng vai Thượng đế. Và điều này con thấy rõ nhất trong giới thẩm quyền y học tại Hoà Lan khi nhiều bác sĩ cảm thấy họ phải được quyền quyết định khi nào một người nên qua đời, bởi vì họ có khả năng lấy quyết định đó.

Nhưng con yêu dấu, nếu con tiếp cận cuộc sống một cách duy vật, con không thể có khả năng – dù dưới hình thức hay cách thức nào – quyết định khi nào một người phải chết. Con hãy tin ta, con yêu dấu, con có thể tạo ra nghiệp chướng to lớn khi làm vậy, và các thày thì không muốn bất cứ ai tạo nghiệp một cách không cần thiết. Cho nên đây là một vấn đề mà thực sự các thày không thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng về những gì một quốc gia nên làm, và lý do là vì cho dù các nhà lập pháp của nước đó sẵn lòng lắng nghe các chân sư thăng thiên đi nữa, thì các thày cũng sẽ không muốn đưa ra trả lời vì các thày muốn nước đó kinh qua tiến trình thảo luận rồi tự đi đến kết luận của mình.

Và như vậy, nếu các thày có được sự lắng nghe của quần chúng tại một quốc gia, các thày sẽ vẫn để yên cho họ thảo luận, xong ở một thời điểm nào đó có thể các thày sẽ nhập cuộc và đưa ra một số hướng dẫn nếu các thày thấy họ gặp khó khăn và có tiềm năng vươn lên cao hơn. Và đó là những nhận xét ta muốn trao cho con lúc này, vì tất nhiên đây không phải là lời cuối về vấn đề này.

Cách đối phó với tin giả và các thuyết âm mưu

Hỏi: Ngày nay có rất nhiều chuyện được phơi bày qua các phương tiện truyền thông ngoài mạch. Rất nhiều chuyện vô cùng đau lòng và đáng phẫn nộ. Con biết một số điều đó không thực. Để xác định đâu là thật và đâu là giả, phải cần cảm nhận trong trái tim. Chúng con làm gì đây khi mình cảm thấy trong tim rằng một số chuyện như thế có thật? Chúng con làm gì đây trên phương diện tình cảm? Làm thế nào đối diện và đối phó và với tất cả những chuyện đáng phẫn nộ được lật tẩy về giới thượng lưu, những chuyện mà họ làm giấu giếm sau lưng mọi người? Không chỉ trong chính trị mà gần như tất cả mọi thứ đang được phơi bày. Làm thế nào con có thể chịu đựng được những chuyện đó một cách quân bình trong cảm xúc và không bị quá ám ảnh? Đây là những câu hỏi cho chúng con đang học tập giáo lý của các chân sư thăng thiên. Làm sao chúng con xử lý được đây? Nhưng còn có những người khác không đang học các chân sư, thì làm thế nào để họ xử lý? Với bao nhiêu chuyện được khui ra, chúng con phải cư xử thế nào?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 5/9/2019.

Con yêu dấu, ta sẽ nói khích con một chút. Con có biết chăng – tất cả các con – là ở một số quốc gia có trẻ em đang chết đói? Con có phẫn nộ về chuyện đó đến độ con mất ngủ ban đêm hay không, phẫn nộ đến độ con phải liên tục đọc tin về chuyện đó trên internet? Xong con tự hỏi xem tại sao con lại phẫn nộ với mấy bản tin giả và thuyết âm mưu được đăng trên internet? Ta đang cố cho con thấy một bài học tích cực qua sự nói khích của ta.

Ta đang cố cho con thấy là trên địa cầu này có rất, rất nhiều sự việc không lý tưởng chút nào. Nhưng mặc dù con biết rõ những sự việc đó đang xảy ra, con đã tìm được cách sống một cuộc sống tương đối quân bình. Và nếu con có thể tìm được cách sống quân bình trong khi biết rằng trẻ con đang chết đói tại châu Phi, tại sao con không thể sống được quân bình khi con biết có một số thuyết âm mưu nào đó trên internet? Tại sao con lại có một nhu cầu gần như không thể cưỡng nổi để tìm tòi, nhập tâm những tài liệu đó, cho phép chúng xâm nhập vào tâm thức của con và bỏ sức ra cho những chuyện đó?  

Con thấy điều ta muốn nói chứ? Con đang sống trên một địa cầu vô cùng khó khăn, một địa cầu rất thấp về tâm thức, một địa cầu với đủ mọi loại biểu hiện bất toàn cần phải thay đổi – và với thời gian chúng sẽ thay đổi. Con không thể cho phép mình tập trung vào tất cả mọi chuyện như vậy vì con không thể sống quân bình cách đó. Và lý do ta đã phải nói khích con là vì cách duy nhất để con thực sự đối diện với vấn đề này là con phải lấy quyết định là con sẽ không đặt chú ý vào những chuyện đó nữa. Nếu con tự quan sát, con sẽ thấy có rất nhiều trang web trên mạng đã được cố tình lập ra để gây sự phẫn nộ và những phản ứng cực kỳ khích động nơi con – gần như là chúng cố ý tạo ra tình thế cho con bị ghiền những loại tin đó.        

Phải, chúng có thể đưa ra một số bản tin có thật, nhưng nhiều trang cũng đưa ra rất nhiều điều không đúng sự thật, bởi vì một cách để chúng thu hút chú ý và năng lượng của người đọc chính là trình bày những bản tin giả như là thật, hầu khơi lên phản ứng động cảm. Vì vậy, con phải nhìn nhận là một số những trang web đó đã thực sự khiến con nghiện ngập, bởi vì khi con bị xúc động, con sẽ luôn luôn suy nghĩ về nó và không thể để nó yên. Con không thể buông nó ra. Con cứ phải trở lại và đọc nhiều thêm. Và đọc càng nhiều thì phản ứng con sẽ càng bị kích thích. Con tưởng là con hiểu biết nhiều hơn nhưng kỳ thực trong nhiều trường hợp, con chỉ càng bối rối hơn mà thôi. Và sự chú ý của con ngày càng phân tán.

Do đó, giải pháp ở đây là con phải nhìn nhận một điều ta đã nói trước đây. Chúng tôi, các chân sư, không yêu cầu các con, mỗi cá nhân các con, nhìn vào địa cầu, nhìn vào tất cả những vấn đề trên địa cầu và cố giải quyết tất cả mọi vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các con chọn lấy một vấn đề nào đó, một đề tài nào đó mà con tha thiết nhất. Hãy chú tâm vào đó. Cố gắng tự giáo dục. Sử dụng trực giác của con. Thỉnh cầu để các chân sư thăng thiên nhập cuộc. Nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề để con có thể đưa ra những lời thỉnh ngày càng chính xác hơn hầu các chân sư có thể bước vào lãnh vực đó. Khi đó, con yêu dấu, con chọn lựa lãnh vực mà con sẽ tập trung – đó có thể là nhiều hơn một lãnh vực, nhưng chỉ một số lãnh vực giới hạn mà thôi – và con quyết định bỏ sang một bên tất cả mọi lãnh vực còn lại. Con cần nhận ra là con luôn luôn phải tìm được một sự quân bình.

Khi tâm thức được nâng lên, các sa nhân sẽ luôn luôn tìm cách làm điều mà chúng vẫn thường làm trong thời đại này. Như chúng tôi đã có trình bày, sa nhân sẽ vui mừng biết mấy nếu chúng đã có thể ngăn cản sự phát minh của internet. Nhưng bây giờ chúng không thể ngăn cản được thì chúng biết thừa là những thông tin chính xác sẽ được lan truyền. Vì vậy chúng phải tìm cách dùng internet để lan truyền tin giả hầu đẩy con người đến một điểm, là hoặc con người bị bối rối đến độ không còn biết đâu là thật và đâu là giả, hoặc con người bị kéo vào những phản ứng động cảm, lúc bị lôi lên thật cao, lúc bị đẩy xuống thật thấp, cứ thế lặp đi lặp lại cho tới khi ai nấy không còn muốn đụng vào những chuyện đó nữa.   

Vì thế, chúng tôi nỗ lực đem lại cho các con những thông tin chân thực và chính xác trước hết. Nhưng chúng tôi cũng cố đưa thông tin về những điều mà các con có khả năng thay đổi, có khả năng kêu gọi, là những thông tin sẽ có tác dụng và tác động. Vừa rồi các con vừa đọc một bài thỉnh về những chuyện cỏn con dựa trên một bài truyền đọc của ta hồi năm ngoái. Tuy tin giả và thuyết âm mưu có nhiều, nhưng trong nhãn quan những gì sẽ đem lại Thời đại Hoàng kim, đó chỉ là những chuyện cỏn con. Chúng hoàn toàn không quan trọng. Chúng có thể thật hay không thật, nhưng chúng hoàn toàn không đáng kể trong công cuộc đem lại Thời đại Hoàng kim.  

Cho nên một lần nữa, nếu con là một học trò của chân sư thăng thiên đã chấp nhận giáo lý của chân sư, con hãy nắm lấy những vấn đề mà chúng tôi đã nêu lên cho con. Hãy tập trung vào đó. Hãy học tập và tự giáo dục bản thân. Hãy cầu thỉnh, rồi bỏ qua những chuyện khác. Con không ở đây để giải quyết mọi vấn đề. Cá nhân con không có trách nhiệm đối phó, hay giải quyết, hay hiểu biết về mọi vấn đề trên trái đất. Con cần tìm được sự quân bình của con, và điều này không khó lắm đâu khi con đã có sẵn các giáo lý của chân sư. Đối với những người không có giáo lý của chân sư, nhiều khi con không thể làm gì để giúp họ được. Vì họ sẽ phải đi cho hết chu kỳ cho tới khi họ chán ngấy và tự động ngừng lại. Thật là không có giải pháp nào khác hơn là bỏ ngoài tai tất cả những chuyện đó, và không cho phép mình bị lôi cuốn vào phản ứng động cảm thái quá.       

Tuy chúng tôi truyền dạy giáo lý cho các con, nhưng chúng tôi cũng biết qua kinh nghiệm là cách giảng dạy của chúng tôi bình thường sẽ không gây động cảm lớn lao trong tâm mọi người. Đó là vì, tất nhiên, chúng tôi không có lý do gì để đánh cắp năng lượng của con. Chúng tôi có dư năng lượng mà chúng tôi cần trực tiếp từ nguồn cội. Cho nên khi con đọc tin tức và cảm thấy mình bị kích động dữ dội – thường là nơi luân xa đám rối dương do nó bị quấy động và bắt đầu quay nhanh hơn hoặc quay ngược chiều – thì hẳn con phải biết là tin đó không đến từ một nguồn gốc thiện lành. Và con cần lấy quyết định đơn giản là con sẽ không tham gia, không thích thú với nó, để con tập trung vào những vấn đề mà chúng tôi đã nêu lên với con.  Bởi vì đâu sẽ là giải pháp cho tất cả mọi thuyết âm mưu và mọi sự thao túng các sa nhân đang tung ra trên hành tinh này?  

Phải, đó là làm thế nào để có được một túc số cần thiết những người đã nâng cao tâm thức mình lên tới tâm Ki-tô, và điều đó sẽ cho phép chúng tôi loại bỏ một số sa nhân khỏi hành tinh. Đồng thời, các con cũng đóng vai trò những người đi tiên phong để nâng tâm thức tập thể của nhân loại hầu, một lần nữa, sa nhân có thể được loại bỏ khỏi hành tinh. Cho nên thay vì con tập trung vào các thuyết âm mưu và tin giả, con hãy tập trung vào quả vị Ki-tô, tập trung vào việc nâng cao tâm thức và tập trung vào những vấn đề chúng tôi đã nêu ra. Giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng cho các con qua sứ giả này về các sinh thể sa ngã, tự nó là thuyết âm mưu lớn nhất, nhưng đó lại là sự hiểu biết xây dựng mà con thực sự có thể sử dụng đề cầu thỉnh, để tự giải thoát khỏi cái tâm thức khiến con bị thao túng, và vì vậy nó giúp con tăng triển.      

Nhưng ngược lại, những thuyết âm mưu được đăng tải đây đó không nhằm giúp con giải thoát. Chúng nhằm mục đích kéo con vào phản ứng động cảm khiến con bị nghiện ngập, và trong dài hạn sẽ khiến con cảm thấy mình vô vọng, bất lực, mặc dù con có cảm tưởng con biết nhiều chuyện hơn một người bình thường. Nhiều người rơi vào trạng thái tự kiêu tâm linh vì họ cảm thấy họ biết đủ mọi thứ chuyện mà người khác không biết tới, họ càm thấy sao mình quá tài giỏi đến độ mình có thể xét đoán và đánh giá mọi chuyện. Và họ sử dụng các thuyết này để xét đoán mọi chuyện họ đọc được trên các bản tin loại đó. Và nó trở thành thêm một vòng xoáy nghiện ngập sẽ không đưa họ tới đâu.

Cho nên điều vô cùng quan trọng con cần nhận ra là khi con ở trên địa cầu và bước đi trên đường tu, con cần trải qua một tiến trình lựa lọc, loại bỏ và con nói rằng: “Ta sẽ không chú tâm vào điều này. Điều này không thiết yếu cho con người mà ta là, và đường tu tâm linh của ta. Ta chọn lựa một cách cố tình.” Không phải con đang phủ nhận những chuyện khác. Con không rơi vào sự phủ nhận. Ngay cả nhắm mắt bỏ qua, con cũng không làm. Con chỉ chọn lựa một cách ý thức là con sẽ không chú tâm vào đó bởi vì như thày Saint Germain có nói: “Con chú tâm vào đâu thì năng lượng của con sẽ đi vào đó.” Nó sẽ kéo bốn thể phàm của con khiến con phải đi theo. Cho nên con chọn lựa những gì quan trọng cho con, và con bỏ sang một bên, con lọc lựa và con không chú tâm vào vô số những đề tài kia.

Làm thế nào nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình

Hỏi: Maitreya có đề cập trong cuốn sách của thày, “Chìa khoá chỉ đạo cho tự do tâm linh” (Master keys to spiritual freedom), rằng chúng con bị chứng mất trí nhớ khiến chúng con quên mất Sứ vụ Thiêng liêng của mình khi đầu thai. Chúng con có thể làm gì để khắc phục bệnh này và nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 5/9/2019.

Con hãy đọc hết cuốn sách đi. Hiển nhiên các thày đã trao cho các con rất, rất nhiều dụng cụ tu tập, và có nhiều việc các con cần làm để nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình, trong đó tất nhiên có việc cầu thỉnh nhằm biến hóa năng lượng nơi bốn thể phàm của con đang ngăn chặn sự liên lạc thông suốt với Hiện diện TA LÀ của con, việc học hỏi các giáo lý hầu con ngày càng lãnh hội sâu sắc hơn, việc tăng triển khả năng trực giác của con, vân vân… Nhưng điều vô cùng quan trọng mà con cần nhận ra là trong khi con còn hiện thân, sẽ không bao giờ có một điểm con bỗng nhiên đứng đó và thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình hiện ra toàn bộ trước mắt. Đó chính là mục đích mà con phải hiện thân.

Sứ vụ Thiêng liêng không hề được khắc trên đá, nó không định ra từng bước bất di bất dịch mà con phải đi qua trong kiếp đầu thai. Trong Sứ vụ Thiêng liêng có rất, rất nhiều hoàn cảnh mà con cần phải lấy quyết định lựa chọn bởi vì chỉ như vậy con mới tăng trưởng được. Vì vậy đó không phải là một bản hoạch định đường thẳng vạch ra từng bước mà con phải đi, hết bước này rồi tới bước sau.

Sứ vụ Thiêng liêng của con dẫn con tới một tình huống nào đó nơi con có một loạt những chọn lựa mở ra cho con. Con chọn một trong số chọn lựa đó – và nó dẫn con tới một tình huống mới nơi Sứ vụ Thiêng liêng lại đưa ra một loạt chọn lựa trong tình thế mới. Điều này có nghĩa là khi con có những chọn lựa trong đời, Sứ vụ Thiêng liêng của con sẽ lần hồi chuyển mình, để khi con có chọn lựa cao thì đường con đi sẽ cao hơn, và nếu con có chọn lựa thấp thì đường con đi sẽ không thể cao được như vậy.

Cho nên Sứ vụ Thiêng liêng không được khắc trên đá mà có thể nói đó là một loại kế hoạch tác động qua lại, tương tự như khi con chơi một trò chơi trên máy tính, những quyết định của con ở một tầng dưới sẽ định đoạt con sẽ được chơi tiếp ở tầng nào sau đó. Sứ vụ Thiêng liêng của con không ngừng chuyển đổi, và tất nhiên, nếu con biết trước đâu là chọn lựa cao nhất trong một hoàn cảnh nào đó thì con sẽ không thể học hỏi bằng cách đi theo Sứ vụ Thiêng liêng.   

Con sẽ tăng trưởng khi con chọn lựa dựa theo tình thế trước mặt, dựa theo những gì con có thể nhìn thấy rồi con học hỏi từ đó và con nâng cao tâm thức của con. Nếu con cứ nhắm mắt đi theo một kế hoạch sẵn có, con sẽ không tăng trưởng và con sẽ trải qua nguyên một kiếp sống mà không tăng trưởng. Đây là điều xảy ra cho nhiều người mà các chân sư khác có nói đến và ta cũng đã có đề cập trước đó. Những người này rơi vào một trạng thái hôn mê tâm linh khi họ không phát triển trong nguyên một kiếp đầu thai. Lý do là vì họ không dám chọn lựa dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp mà họ đang có.

Thậm chí còn có những hành giả tâm linh, ngay cả các học trò của chân sư thăng thiên, cũng đã sử dụng giáo lý của các thày để lý giải tại sao họ phải đi theo một chương trình vỏ ngoài nào đó mà không cần lấy những chọn lựa sẽ giúp họ tăng trưởng tâm Ki-tô. Và điều này, tất nhiên, không phải là điều các thày mong muốn chứng kiến. Các thày mong muốn học trò của mình ngày càng sẵn sàng chọn lựa – không xem sự chọn lựa như một tiến trình phải chọn giữa đen và trắng, mà đơn giản học hỏi từ mỗi chọn lựa, và mỗi lần như vậy, bước lên cao hơn trong tâm thức.

Buông bỏ sự vướng mắc vào những quyết định sai lầm quá khứ

Hỏi: Con đang đau khổ vì những quyết định sai lầm của con trong quá khứ nhưng con vẫn không từ bỏ được sự vướng mắc cứ mãi ám ảnh con. Con muốn biết làm thế nào con có thể buông bỏ các vướng mắc này một cách hiệu quả.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, ta hiểu đây quả thật là khiá cạnh khó khăn nhất trên đường tu tâm linh, cho nên ta sẽ không coi nhẹ vấn đề của con. Ta hiểu rất rõ sự khó khăn của tất cả chúng ta khi mình còn đầu thai để buông bỏ bám mắc. Đáng tiếc thay, con yêu dấu, chỉ có một cách để buông bỏ bám mắc mà thôi, đó là… buông bỏ, thế thôi. Con thấy không, con yêu dấu, nếu có ai ném cho con một quả bóng và con chụp lấy nó, con nắm quả bóng trong tay và có thể con sẽ cầm lấy nó thật chặt. Và con có thể có ý tưởng nảy ra trong đầu là vì con đã nắm quả bóng thật chặt rồi, nên con sẽ phải ra sức cố gắng thì mới nhả được nó ra. Và có thể con phải tập trung vào động tác nhả bóng đến độ, trong tiềm thức, con đã bóp chặt quả bóng mạnh hơn nữa. Rồi sau đó con nghĩ rằng con sẽ cần một nỗ lực siêu phàm, một sức mạnh cơ bắp phi thường để con có thể buông bóng ra.  

Nhưng tất nhiên, con càng siết chặt cơ bắp lại thì con sẽ càng khó mở tay ra để đánh rơi quả bóng. Bây giờ nếu con bỗng nhận ra là người ta không ném một quả bóng cho con mà một cục than nóng đỏ, thì ngay khoảnh khắc con cảm thấy tay con bị cháy bỏng, con sẽ – do bản năng và trong tiềm thức – con sẽ mở tay ra và buông cục than xuống. Đây thực sự là cách duy nhất mà con có thể buông bỏ một sự bám mắc. Đó không phải là một quyết định của cái tâm vỏ ngoài. Đó là cái mà chúng ta có thể gọi là một quyết định tự phát, hay một quyết định nội tâm. Con không cưỡng ép con từ bỏ, và con không cố tình quyết định với cái tâm vỏ ngoài rằng con phải từ bỏ.  

Động tác đó trở nên tự phát, nó tự nhiên vì con thấy được là sự bám mắc đang làm hại con, nó không đem lại ích lợi gì cho con. Cho nên khi con có điều gì mà con không thể buông bỏ, thực sự cách duy nhất là con phải bắt đầu làm việc trong con để đạt tới điểm con nhìn thấy được rõ ràng hơn. Con thấy được vấn đề tâm lý sâu xa bên dưới, con thấy được khuôn nếp của nó, con thấy được quyết định mà con đã lấy. Con thấy được nó đang hạn chế con như thế nào, và khi con thấy được hạn chế đó, con sẽ tự động buông bám mắc.

Đó là lý do chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con tất cả những dụng cụ mà chúng tôi đã trao. Luôn luôn có một lượng năng lượng tha hóa nào đó trong bất cứ bám mắc nào. Nó khởi lên một phản ứng động cảm sẽ lôi kéo cảm thể của con, cho nên con có thể sử dụng những bài chú và bài thỉnh của chúng tôi để làm tan biến năng lượng tình cảm này. Và một khi con cảm thấy phản ứng cảm xúc đã bớt đi, con có thể bắt đầu nhìn thấy rõ hơn với lý trí của con, hầu con thấy được những mô thức cứ lặp đi lặp lại. Và con thấy được là con phải lấy một quyết định sâu hơn nữa trong nội tâm.

Và khi con giải tỏa được các năng lượng trong cõi lý trí và thấy được rõ ràng trong cõi đó, thì con có thể đi vào cõi bản sắc. Khi đó, con sẽ có thể tìm ra là có một thời điểm khi con đã quyết định trở thành một loại người nào đó, và chính quyết định này đã hình thành bám mắc – bởi vì chính con đã khiến cho con tin là mình bị hạn chế. Và khi con nhìn thấy được điều này, khi con thấy được nó đang hạn chế con như thế nào, đó là lúc con có thể tự động buông bỏ bám mắc. Nhưng việc này thường đòi hỏi con đã có một nỗ lực thật cố tình, thật ý thức thì con mới đến được điểm đó.   

Điều mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây là việc này không phải là một nỗ lực của trí óc, không phải là sự cưỡng ép tâm trí, mà là chính con làm việc trong con để giải thoát con khỏi năng lượng và đạt được sự minh mẫn, hầu con tự phát thấy được tại sao con muốn buông bỏ, và sau đó thì con tự phát buông bỏ bám mắc. Cuối cùng thì không tốn sức gì đâu.  

Bốn thể phàm và quả vị Ki-tô

Hỏi: Có đúng là bốn thể phàm của dòng sống luôn luôn hiện hữu cùng một lượt, ngay cả khi dòng sống không đang hiện thân trong cõi vật lý? Khi dòng sống bắt đầu ngừng đồng hóa với bốn thể phàm của mình, liệu bốn thể này có ngừng hiện hữu hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, con cần phân biệt giữa xác thân vật lý như một vật thể, và khía cạnh đó của tâm kết nối chặt chẽ nhất với xác thân. Các chân sư giảng là khi con bước vào một kiếp hiện thân vật lý, con khoác vào một thân xác vật lý được tạo ra đặc biệt cho kiếp sống đó. Nhưng con đã mang sẵn trong bốn thể phàm của con một khía cạnh của tâm được thiết kế để nối kết trực tiếp với thân xác vật lý mà con mặc vào trong kiếp đó, và tất nhiên khía cạnh này của tâm thì con mang từ kiếp này sang kiếp khác.

Khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai, hiển nhiên thân xác vật lý của con sẽ giải thể, cho nên con không mang thân xác này theo con. Nhưng con mang theo khía cạnh của cái mà chúng ta có thể gọi là tâm vật lý, tức khía cạnh vật lý của tâm, cùng một lúc với các khía cạnh khác ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Như vậy cả bốn tầng này của tâm – chứ không phải thân xác vật lý – đi cùng với nhau khi con bước ra ngoài hiện thân, và tùy theo mức tâm thức của con, con vẫn làm việc với chúng khi con ở ngoài hiện thân.

Trên địa cầu có nhiều dòng sống chưa thức tỉnh đường tu tâm linh, cho nên họ không thể thực sự làm việc một cách ý thức với bốn thể phàm khi ở ngoài hiện thân. Họ thường bỏ hết thì giờ của họ ngoài hiện thân để nghỉ ngơi, hay để kinh qua một số trải nghiệm tác động đến sự tăng triển liên tục của họ. Nhưng đối với những ai đang bước chân trên đường tu tâm linh, đặc biệt nếu con đã đi vào các giai đoạn quả vị Ki-tô, thì con có khả năng làm việc ý thức với bốn thể phàm của con giữa hai kiếp đầu thai. Con có thể làm nhiều việc khác nhau. Con có thể thanh lọc chúng, con có thể chữa lành chấn thương hay thương tích ở nơi chúng, và tùy theo mức chứng đạt của con, con có thể tạo ra một số mô thức trong bốn thể phàm.

Cách mô tả hay nhất không phải là bảo rằng một khi con bắt đầu đạt đến quả vị Ki-tô thì bốn thể phàm không còn hiện hữu nữa, bởi vì chừng nào con còn hiện thân thì con vẫn cần đến chúng. Con nối kết trực tiếp với thân xác vật lý qua khía cạnh thấp nhất là tâm vật lý, nhưng Hiện diện TA LÀ của con, ánh sáng của Hiện diện TA LÀ vẫn tuôn chảy qua mọi tầng, từ tầng bản sắc vào lý trí, rồi vào cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Cho nên con luôn luôn cần đến bốn thể phàm khi con còn đầu thai.

Điều xảy ra khi con gần đến quả vị Ki-tô là tất nhiên, con đã thanh lọc bốn thể đó, con đã nâng cao nhận biết, nên như các thày có nói nhiều lần, con đã bỏ ý thức cá nhân khỏi đời con, và điều này có nghĩa là con không còn cho phép chúng giới hạn chính con lẫn cách biểu đạt của con. Con không bị lôi kéo vào các khuôn nếp thương tích trong bốn thể phàm.

Cho nên có thể nói, khi con đến gần hơn với quả vị Ki-tô, bốn thể phàm sẽ càng ngày càng ít những tác động giới hạn con trên cách con cảm giác, cách con nhìn cuộc sống cũng như khả năng con biểu đạt chính mình. Nói cách khác, chúng sẽ không còn kháng cự lại như khi con ở mức thấp hơn.

Nhiều người mang nhiều khuôn nếp, nhiều năng lượng tích tụ, đến độ có một lực cản trong bốn thể phàm. Và khi con cố gắng, chẳng hạn, hình dung ra một ý tưởng để thay đổi đời mình và con muốn dồn chú tâm cùng năng lực vào đó, thì bốn thể phàm sẽ phản kháng lại, khiến nỗ lực sáng tạo của con bị suy giảm. 

Khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, lực kháng cự này ngày càng ít đi, và sẽ tới một điểm khi đơn giản con không còn giới hạn nào nữa. Thật sự con rất ít chú ý đến bốn thể phàm, hoặc đôi khi con nhận thấy một phản ứng từ cảm thể trước một sự cố hay một phóng chiếu từ ngoài, nhưng con đủ ý thức để quyết định mình sẽ không bị lôi kéo vào với nó, sẽ không nuôi nó bằng năng lượng của mình, sẽ không để nó lớn mạnh thành một sinh thể riêng rẽ rồi biến thành một xoáy ốc tự lực tự cường, lấy đi mất năng lượng của mình.

Cũng tương tự như vậy trong trí thể của con: Trong tâm thức tập thể có thể có một số tin tưởng , và con có thể ở trong tình huống phải giáp mặt với những tin tưởng đó, hoặc tin tưởng đó được phóng chiếu vào con, ví dụ bởi một nhóm người, nhưng con đủ ý thức để nhìn ra đó không thực là điều mình muốn tin hay là cách mình muốn nhìn cuộc sống, và do đó con tránh nuôi sống nó bằng năng lượng của con. Con không bắt buộc phải chạy theo ý tưởng đó, hay kéo dài ý tưởng đó, hay nghĩ rằng nó có ý nghĩa gì đối với con.

Tất nhiên ở tầng bản sắc cũng vậy: Biết bao nhiêu lần người ta phóng chiếu vào con, bảo con phải xử sự giống như mọi người hay phải là một người bình thường, nhưng khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, con sẽ ngày càng ít chú ý hơn đến những chuyện đó. Con tập trung để là con người mà con là, tập trung vào sứ vụ thiêng liêng của mình, vào Hiện diện TA LÀ của mình. Con tập trung để làm cánh cửa mở hầu con có thể sống tự nhiên thanh thoát trong mỗi khoảnh khắc.

Đương nhiên, nếu con có rất nhiều khuôn nếp trong bốn thể phàm cứ lôi kéo con vào đủ loại phản ứng khác nhau, thì con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ hay cho các chân sư thăng thiên. Cho nên đây là một phần của công việc từ bỏ ý thức cá nhân trong đời con, khi con không còn lực kháng cự này trong con nữa, hay con không còn bị bốn thể phàm đánh lạc hướng khỏi những gì con đã đến đây để thực hiện.

Vai trò tâm linh của Ấn độ

Hỏi: Vai trò tâm linh của Ấn độ là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con nhìn nhận, con yêu dấu, là chúng ta đang nói chuyện về một quốc gia có 1,3 tỷ người, cho nên thật không có câu trả lời dễ dàng và đơn giản nào cho một câu hỏi như thế, vì lẽ tự nhiên, vai trò tâm linh của bất kỳ quốc gia nào cũng là việc thúc đẩy sự tăng triển tâm thức của người dân sinh sống ở đó.

Hiển nhiên con cũng biết Ấn độ đã có một truyền thống rất lâu đời trong cái mà các chân sư thường gọi là mối quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Con có một lịch sử rất lâu đời những vị đạo sư Ấn độ – một số thì hoạt động độc lập, trong khi một số khác thì thuộc về một hệ phái và tỏ lòng tôn kính đối với hệ phái đó. Thật sự con sẽ thấy là tương đối chỉ có một số ít – hay đúng hơn, rất ít – những vị đạo sư đó nhận ra được các chân sư thăng thiên trong khuôn khổ hệ phái của họ.

Đây thực sự là yếu tố chính đang kìm hãm sự phát triển tâm linh của dân tộc Ấn. Điều này mang nhiều hệ quả cho nước Ấn, trong đó có hệ quả là Ấn độ có một niềm tự hào dân tộc muốn mình tự đủ, và thường khi điều này ngăn cản người Ấn học hỏi từ các dân tộc khác. Thậm chí nếu con biết rõ cuộc đời của Gandhi, có một thời điểm trong nhóm của ông có một nhà truyền giáo Cơ đốc rất tốt, nhưng ông lại yêu cầu vị này rời khỏi nhóm vì ông cảm thấy nhân dân Ấn độ phải đứng ra hành động một mình. Đây chính là một cách biểu lộ niềm tự hào dân tộc đó, bởi vì nói thật, có dân tộc nào trên địa cầu mà lại đứng được một mình hay không? Liệu có dân tộc nào đứng riêng rẽ khỏi tâm thức tập thể của toàn bộ nhân loại? Chắc chắn là không.

Con có thể nhìn vào từng quốc gia riêng lẻ và có xu hướng xem họ là những đơn vị tự đủ, độc lập, tách biệt, nhưng không phải vậy, vì tất cả đều là một phần của tâm thức tập thể của nhân loại, và con không thể nào thực sự hiểu được vai trò của bất kỳ dân tộc nào mà không nhìn thấy chỗ đứng của dân tộc đó như một thành phần của tổng thể.

Như ta vừa nói, Ấn độ có một truyền thống lâu đời tôn kính con đường tâm linh, đã giáo dục được nhiều người về con đường tâm linh mà mỗi cá nhân có thể bước theo, nhưng họ cũng có một truyền thống vô cùng lâu đời là tách rời con đường tâm linh ra khỏi cuộc sống vật chất thường nhật.

Nhiều khi truyền thống đó còn xem thường những ai sống một cuộc đời thế tục, và một lần nữa, điều này lại nằm trong niềm tự hào dân tộc, qua đó nhiều người tâm linh bị cuốn vào ý niệm kiêu hãnh vi tế đó, và họ cho rằng bởi vì họ đang bước chân trên đường đạo tâm linh, bởi vì họ sinh trưởng trong một quốc gia có truyền thống tâm linh lâu đời thì một cách nào đó, họ là những con người tiến hóa hơn người dân các xứ khác.

Giê-su đã nói gì? Rằng “Quả vị Ki-tô mà không được biểu lộ qua việc phụng sự tổng thể, không phải là quả vị Ki-tô”. Con có thể thấy được là suốt rất nhiều thế kỷ, ngay cả trước khi người Anh đến Ấn độ, thì một đằng, nước Ấn đã có một truyền thống tâm linh giúp cho nhiều người cất bước trên đường đạo và đạt được một mức tâm thức nào đó. Nhưng đằng khác, họ lại có mức nghèo đói cao nhất và những điều kiện vật chất trong số thiếu thốn nhất, với biết bao người phải sống trong tình trạng cùng khổ.

Làm thế nào hai điều đó lại có thể sống chung với nhau trong một quốc gia? Ấy, chỉ là vì những người tâm linh đã không bước lên mức quả vị Ki-tô đó, nơi thay vì đi theo một con đường cá nhân nhằm nâng tâm thức riêng của mình cho ngày càng cao hơn, thì giờ đây họ sử dụng sự chứng đạt của mình để cải thiện hoàn cảnh của người khác.

Phải, tất cả những vị đó đều có lý do riêng của họ. Nhiều vị đạo sư và đệ tử đó, ta đã có quen biết rất rõ vì ta đã từng sống một thời gian tại Ấn độ trong một số tiền kiếp, thậm chí còn có một tu viện nhập thất tại Darjeeling nơi ta đã đồng điệu với những gì xảy ra nơi quốc gia đó. Thật sự nhiều vị đạo sư và đệ tử này đã không sẵn lòng bước lên một mức nơi họ có thể quên mình để phụng sự toàn thể và nhìn nhận rằng chuyện nâng cao tâm thức của riêng mình không thể nào đủ được nếu mọi người chung quanh vẫn còn khổ đau.

Chúng ta có thể dùng một từ thông dụng trong vùng này và nói rằng họ đã không bước lên tầng mức của lý tưởng Bồ tát, mặc dù nhiều người trong số họ sẽ phản đối lời nhận định này và nhìn sự việc khác hơn. Con yêu dấu, con không thể có một quốc gia nơi 95 hay 98% dân chúng phải sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Tất cả những vị đạo sư kia ngồi trong đạo tràng quy tụ đệ tử quanh mình, nhưng họ lại tự cô lập và từ chối nhìn thấy những điều kiện cùng khổ chung quanh.

Thử thách mà dân tộc Ấn phải đối mặt ngay lúc này là liệu họ có khắc phục được khuynh hướng vô cùng lâu đời đó hay không. Liệu họ có thể nào bước lên cao hơn và làm hòa nhiều hơn với cõi vật chất? Thay vì nhìn xuống và coi thường cõi vật chất và tưởng rằng mình phải tự cô lập khỏi cõi đó, liệu họ có thể nào nhìn ra là việc cải thiện điều kiện sống cho người khác chính là một việc làm tâm linh và là một phần của đường tu tâm linh?

Chúng ta có thể nói là hiện nay, sự phát triển của dân tộc Ấn không do các đạo sư cùng các đệ tử của họ thúc đẩy, mà nó được đẩy mạnh do những người đang ra tay làm những biện pháp tích cực hầu cải thiện một số khía cạnh của xã hội – cho dù đó có thể là việc kinh doanh cạnh tranh mà động cơ bề mặt có vẻ là cạnh tranh, nhưng tuy vậy nó vẫn đang giúp nâng cao mức sống, vẫn tạo ra tăng trưởng kinh tế, vẫn xây dựng cơ sở hạ tầng, và do đó nó đang kéo nước Ấn đi lên để có thể trở thành một quốc gia tân tiến.

Nếu ta hoàn toàn thành thật và thẳng thắn với con – và ta khó lòng nào mà không hoàn toàn thành thật – thì ta phải nói là yếu tố chính yếu đã cầm giữ nước Ấn không phát triển được để trở thành một quốc gia hoàn toàn hiện đại, đó chính là các đạo sư.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có đề cập đến sự kiện tại Ấn độ có một hàng ngũ bóng tối gồm những đạo sư giả tìm cách gài bẫy người ta vào con đường giả trá, và nhiều người đã bị chúng đánh bẫy mà đeo đuổi một con đường họ tưởng là phát triển tâm linh. Nhiều người như vậy đã có thể đạt được một số trải nghiệm tâm linh cao cấp nào đó, nhưng liệu đó có phải là tăng triển tâm linh đích thực hay không? À, thế nào là tăng trưởng tâm linh đích thực chứ con? Có phải là con cứ mãi mãi tìm cách nâng cao tâm thức riêng của mình mà phớt lờ mọi người khác? Không, con yêu dấu. Bởi vì sẽ tới một điểm khi sự tăng triển tâm linh có nghĩa là con ý thức nhận diện được nhu cầu bước vào sự hợp nhất, trước hết là hợp nhất với một cái gì vượt ra khỏi cõi vật chất – Hiện diện TA LÀ của con cùng các chân sư thăng thiên – xong sau đó con hợp nhất chiều ngang với mọi người ở dưới đây hầu con tìm cách nâng cao toàn thể.    

Con đường giả trá là khi người ta tìm cầu những trải nghiệm ngày càng cao hơn, và cái họ đạt được không phải là trải nghiệm tâm linh chân chính. Làm sao ta có thể nói như vậy? Tại vì nơi tu viện nhập thất của ta tại Darjeeling bên Ấn độ, một phần vai trò của ta trong tư cách chân sư thăng thiên là làm việc với những đệ tử tâm linh cao cấp tại Ấn, những người đã thể hiện được một mức độ quả vị Ki-tô nào đó. Vì vậy ta là đại diện chủ yếu của Ki-tô cho dân tộc Ấn, và điều này có nghĩa đơn giản là khi có ai bước lên một mức nào đó của quả vị Ki-tô thì người đó sẽ nhận ra ta. Họ nhận ra là ta đang hiện hữu, ta là sinh thể sẽ đưa họ lên cao hơn. Nếu họ không nhận diện được vai trò của ta trong đại đoàn chưởng giáo thì họ đã chưa bước lên quả vị Ki-tô – thật giản dị như vậy đó, con yêu dấu.

Những ai không nhận ra Ki-tô nơi Giê-su đã chưa bước lên một mức nào đó của quả vị Ki-tô cho dù họ có tuân thủ đủ loại nghi lễ vỏ ngoài trong các hội thánh Cơ đốc. Những ai trong số các đạo sư “tự phát triển” (self-help) trong thời hiện đại mà chưa bước lên và nhận diện được các chân sư thăng thiên, thì họ cũng chưa bước lên quá một mức quả vị Ki-tô nào đó, cho dù họ có quy tụ được nhiều đệ tử đến đâu đi nữa xem họ là những đấng giác ngộ.

Giác ngộ có nghĩa là gì – nếu từ này mang bất kỳ ý nghĩa nào? Nó có nghĩa là con nhận diện được con là ai, và một khi con nhận ra mình là ai thì con cũng nhận ra con là một phần của tổng thể, và khi đó con nhìn ra tổng thể đó. Vậy tại sao lại có quá nhiều đạo sư tại Ấn chưa nhận ra các chân sư thăng thiên? Họ chưa bước lên mức đó của quả vị Ki-tô. Trong các thời đại trước, điều này có thể không làm được vì chúng tôi không được phép tiết lộ công khai sự hiện diện của mình, nhưng ngày nay thì chắc chắn điều này có thể làm được.

Cầu cho người quá cố

Hỏi: Tại Hàn quốc, nhiều người tổ chức cúng lễ để đưa linh hồn người thân và tổ tiên đã khuất về nơi an nghỉ tốt đẹp ở cõi trời. Các buổi lễ này thường do những người tu hành tôn giáo hay tâm linh cử hành, nhưng họ lại đòi những số tiền to lớn để làm lễ. Nhiều người thường hoài nghi không hiểu nghi lễ như vậy có thật đưa người thân của mình lên cõi phúc lành hay không. Cho nên những ai phải bỏ ra quá nhiều tiền làm lễ tất nhiên sẽ bất bình hay nghi ngờ người hành lễ gian lận. Tổn phí to lớn của cúng tế và cách hành xử gian lận của người hành lễ đang gây vấn đề trong xã hội. Liệu chúng con có thể đọc những bài cầu nguyện tràng hạt hay bài cầu thỉnh của các chân sư thăng thiên thay vì bỏ nhiều tiền ra để đưa tổ tiên và thân nhân chúng con về nơi cực lạc?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, ta có thể nói thật rõ ràng ở đây. Người hành lễ đòi càng nhiều tiền thì sự gian lận của họ càng lớn, bởi vì họ chỉ muốn kiếm tiền chứ không có ý giúp gì những vị đã khuất. Một người hành lễ đích thực trong tinh thần tâm linh có thể sẽ tính tiền để duy trì sinh hoạt nghi lễ thay vì phải kiếm sống bằng cách khác, nhưng họ sẽ tính giá phải chăng chứ không cố làm giàu qua việc phụng sự tâm linh.   

Nói vậy rồi thì ta phải nói thêm, nhiều người hành lễ có chủ tâm rất tốt nhưng sự hiệu nghiệm của những buổi lễ này rất thấp. Lý do là vì như chúng tôi đã nói nhiều lần, một buổi lễ chủ yếu trong cõi vật lý không làm sao hữu hiệu bằng một nghi lễ tâm linh. Cho nên con yêu dấu, tất nhiên là con có thể dùng những bài chú và bài thỉnh để cắt những sợi dây, giải thoát tổ tiên và thân nhân mình khỏi mọi điều kiện trong cõi trung giới. Bài chú cho Astrea rất hữu hiệu để giải thoát thân nhân con khỏi các ràng buộc, chẳng hạn, của cõi trung giới.      

Con có thể nhìn vào cuộc đời của thân nhân con và con có thể – càng nhiều càng tốt vì con biết rõ họ – lượng định xem những vấn đề tâm lý mà họ đã có thể gặp phải. Rồi con hãy tìm bài cầu thỉnh nào thích hợp nhất để giải quyết những vần đế này và con đọc cầu thỉnh cho họ. 

Một lần nữa, việc này không thể vi phạm quyền tự quyết của họ, bởi vì họ cần phải thấy được vấn đề ở trong họ hầu thoát ra khỏi vấn đề. Nhưng chắc chắn con vẫn có thể cầu gọi để giúp họ cải sửa vấn đề đó dễ dàng hơn ở bất cứ nơi nào mà họ đã thăng lên sau cái chết của cơ thể vật lý. Dĩ nhiên, nếu họ đã đi xuống một nơi thấp hơn trong cõi trung giới, con có thể tìm cách giải vây họ bằng cách cầu gọi Đại thiên thần Michael và Astrea và Ngọn lửa Tím. Và điều này sẽ tạo cơ hội cho họ nhìn lại khuôn nếp tâm lý của mình một cách hoàn toàn mới mẻ, một điều mà họ chưa từng, hoặc chưa muốn, làm khi còn sống.

Một lần nữa, con không thể gạt bỏ quyền tự quyết của họ nhưng ít ra con có thể cố cho họ một cơ hội để bước vào ánh sáng, đi theo các chân sư thăng thiên để đến nơi cư trú nơi họ có thể học hỏi, hoặc có cơ hội tốt nhất để học hỏi, hầu họ được hiện thân tốt đẹp hơn trong kiếp đầu thai kế tiếp. Chắc chắn là con không bao giờ muốn thân nhân của con bị rơi vào cõi trung giới và bị kẹt ở đó, khiến họ sẽ phải tái đầu thai trong một tình cảnh khó khăn hơn kiếp trước.

Con có thể làm rất nhiều để họ có cơ hội chọn bước theo các chân sư vào cõi cao hơn nơi họ được các chân sư chỉ dạy. Khi con biết nhiều hơn về giáo lý các chân sư, con sẽ hiểu là con không cần tốn tiền trả cho những người hành lễ đó, và dĩ nhiên con hãy cứ tùy tiện nói chuyện với gia đình con về khả năng này nếu gia đình cởi mở.  

Nhưng ta sẽ để cho cá nhân con toàn quyền thẩm định điều này, bởi vì đây thực sự là vấn đề: liệu gia đình con đã chán chê trả tiền cho người hành lễ hay chưa và đã sẵn sàng giúp đỡ thân nhân mình một cách ý nghĩa hơn hay chưa. Con yêu dấu, con có thấy tại sao một tập tục như vậy đã khởi sự hay không? Một phần đó là vì nền văn hóa của các con không nhất thiết chủ trương cúng tế tổ tiên, mà là một nền văn hóa kính trọng tổ tiên cao độ.   

Đối với nhiều người, điều này đã trở thành một gánh nặng, một bổn phận, một ý thức trách nhiệm, chứ không phải vì tình yêu thương. Họ làm vậy vì họ cảm thấy bắt buộc phải làm vậy. Cho nên có một cơ chế tâm lý được tạo ra ở đây: một số người không muốn bỏ thì giờ ra tự làm lấy nhưng họ lại cảm thấy phải làm một cái gì đó, và đối với cộng đồng chung quanh, họ phải đưa ra bộ mặt là đã làm một cái gì. Cho nên sẽ dễ dàng hơn nếu họ có thể trả tiền cho một ai đó cử hành buổi lễ để họ có thể nói: “À nhưng tôi đã trả tiền nhiều như thế đó cho người này để người ta làm lễ cho mẹ tôi”, và do đó họ là một đứa con có hiếu đã làm tròn bổn phận của mình. Và mọi người trong cộng đồng chung quanh sẽ bảo: “Đúng vậy, anh ta là một đứa con có hiếu, anh ta đã làm tròn bổn phận”. Và sau đó thì họ có thể bỏ chuyện này ra khỏi tâm trí và cảm thấy mình đã làm những gì mình phải làm.    

Và đấy là tại sao tập tục này đã khởi đầu. Người ta bỏ tiền ra mua lấy một cảm giác nhẹ nhõm là mình đã làm điều mình phải làm. Hoặc nữa, người ta cũng có thể bỏ tiền ra mua một địa vị nào đó trong cộng đồng, vì họ hiểu ra là nếu họ càng bỏ nhiều tiền để cúng lễ thân nhân thì địa vị của mình trong cộng đồng càng cao hơn. Số tiền bỏ ra chứng tỏ địa vị mình đang có.

Cho nên con thấy trong tập tục này có một tâm lý khá phức tạp. Con có thể bảo gia đình con là việc bỏ tiền ra thật sự không cần thiết, nhưng rất có thể gia đình con sẽ không chấp nhận ý kiến này chính vì cơ chế tâm lý đó. Nếu vậy, con hãy để yên cho gia đình làm theo ý muốn. Còn con, con hãy làm lễ riêng con, và biết rằng mình đã làm tất cả những gì có thể cho thân nhân mình.

Trẻ em nghiện trò chơi máy tính

Hỏi: Về câu hỏi hôm qua liên quan đến công nghệ, chúng con muốn hỏi thêm về vấn đề con em chúng con nghiện chơi công nghệ này. Chúng chơi trò chơi trên máy tính kể cả những hình thức dữ tợn hơn. Chúng chơi suốt ngày suốt đêm thay vì các trò chơi hoạt động cơ thể. Chúng bị nghiện máy tính.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 3/9/2019.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, đây là một mối quan tâm chính đáng khắp thế giới. Quả thật, ngành công nghệ mới này đang đẩy rất nhiều trẻ em vào một thế giới ảo giác nơi chúng bị cắt đứt khỏi cái mà chúng ta thường gọi là thế giới “thật”. Vấn đề này thật ra đã đẩy mạnh khuynh hướng của nhiều người không chịu nhận trách nhiệm về đời mình, bởi vì họ sẵn có một lối thoát quá dễ dàng để không phải lấy những quyết định khó khăn cho bản thân.

Vậy con có thể làm được gì đây? Tất nhiên, con có thể cầu thỉnh về chuyện này. Con có thể đặt ra giới hạn cho con cái về thời gian mà chúng được dành ra cho công nghệ đó. Con cũng có thể dùng lý lẽ với chúng về vấn đề sử dụng công nghệ, nhưng ta phải nói với con là hiện nay có một thế hệ trẻ em đã đầu thai cùng thời điểm khi công nghệ này xuất hiện. Và đối với rất nhiều đứa trong số đó, giản dị là chúng có một nhu cầu muốn trải nghiệm tối đa công nghệ giả tạo này cho tới khi chúng chán ngấy, thì lúc đó chúng mới sẽ tự ý bắt đầu mong muốn một cái gì cao hơn là cái thế giới nhân tạo mà chúng đã bỏ gần hết thời gian ra để trầm mình trong đó.

Cho nên điều ta muốn nói là con có thể có một số biện pháp. Con có thể cố giúp con mình bằng nhiều cách, nhưng nếu con không thể giúp chúng bằng lý lẽ thì con không nên tìm cách ép buộc chúng quá đáng, bởi vì làm như vậy sẽ chỉ tạo thêm xung đột giữa cha mẹ và con cái. Và điều đó sẽ khiến chúng càng rút xa hơn khỏi con và do đó cũng rút xa hơn khỏi thế giới thật.

Nói cách khác, nếu con thấy con không thể ngăn cản chúng đi vào đường này, điều quan trọng đối với con là cần giữ vững mối quan hệ với con cái, hầu ít ra chúng còn có một điểm tựa, một điểm neo trong thế giới thật – để chúng không rút lui khỏi con rồi bị cuốn hút thêm vào thế giới ảo mộng do mong muốn trốn thoát khỏi con. Cho nên con sẽ muốn duy trì một quan hệ và sự nối kết tối đa, để đến khi nào chúng hoàn toàn chán ngấy thì chúng còn một điểm tựa có khả năng kéo chúng ra khỏi thế giới ảo mộng và trở về.

Mẹ Teresa đã thăng thiên hay chưa?

Hỏi: Câu hỏi này là về Mẹ Teresa. Theo một câu trả lời trước, Mẹ Teresa đã không thăng thiên sau khi Mẹ từ trần. Vậy bây giờ thì sao?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 17/9/2018.

Dòng sống của Mẹ Teresa đã không thăng thiên mà đã tái đầu thai. Điều này sẽ khiến cho nhiều người ngạc nhiên vì họ sẽ nghĩ là một vị đã từng phụng sự tha nhân một cách vô vị lợi suốt từng nấy năm trời nhất định phải đã thực hiện rất nhiều việc thiện lành và hội đủ tư cách thăng thiên.

Nhưng con hãy lắng nghe những gì các chân sư đã trình bày trong hội nghị này, kể cả sự kiện là con có thể hội đủ những điều kiện thăng thiên bằng cách đi theo một con đường tu tập khổ hạnh, nhưng nếu con chưa hoàn thành được mọi mong muốn của con trên địa cầu thì con thực sự chưa thể thăng thiên và bỏ địa cầu lại đằng sau.

Trên trang mạng này có nhiều lời day chi tiết về Mẹ Teresa cũng như cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ [chưa dịch sang tiếng Việt], và nếu con tìm hiểu các bài giảng đó, con sẽ thấy là mặc dù Mẹ Teresa đã hoàn thành rất nhiều công việc từ thiện cho tha nhân, Mẹ vẫn chưa làm đủ về mặt tâm lý để giải quyết tâm lý của Mẹ. Đó là lý do vì sao Mẹ chưa sẵn sàng thăng thiên.

Điều mà con không thấy là quan điểm truyền thống của đạo Cơ đốc hoàn toàn không đúng khi cho rằng con có thể hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách thực hiện nhiều công việc thiện lành. Thật sự con có thể hiểu được điều này nếu con nhìn vào lời dạy của Giê-su khi thày giải thích rằng Vương quốc Thiên đàng không đến qua sự tuân thủ những luật lệ và giáo lý vỏ ngoài của một tôn giáo. Lý do là vì Nước Trời nằm ngay trong con và đó chính là nơi con phải tìm Nước Trời. Điều này có nghĩa là con phải giải quyết những vấn đề trong tâm lý của con đang ngăn cản con đứng trong Nước Trời.

Trẻ em bị chứng dị ứng

Hỏi: Ở khắp mọi nơi đột nhiên có nhiều trẻ nhỏ mắc phải các triệu chứng dị ứng đủ loại. Người ta bảo đó là do chích ngừa, nhưng có lẽ chăng các chứng bệnh tương tự xuất hiện do một tâm thức tập thể nào đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 17/9/2018.

Việc nâng cao tâm thức là một tiến trình qua đó con càng ngày càng nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm về bản thân mình. Nhiều người chưa đạt tới mức có ý muốn hay có khả năng làm được điều này. Khi con không nhận trách nhiệm về bản thân thì khi có chuyện gì xảy ra mà con không ưa, mà con không chấp nhận, mà con không muốn, cách phản ứng tự động của con là tìm xem con có thể đổ lỗi cho một ai khác hay một lý cớ nào khác. Con tìm kiếm một cách giải thích tương đối giản dị là có một lực bên ngoài nào đó đã gây ra chuyện này và do đó con không cần phải sửa đổi chi hết.

Đây là cơ chế tâm lý chính yếu khi người ta nhận thấy càng ngày càng có nhiều trẻ em bị dị ứng thế rồi họ nghĩ nhất định phải có một thủ phạm để họ đổ tội, và kìa, đúng rồi! thủ phạm chính là việc chích ngừa cùng tất cả những thuyết âm mưu (conspiracy theory) mà họ có thể tin theo. Và các thuyết âm mưu làm gì chứ? Chúng bảo rằng có một thủ phạm bên ngoài với một âm mưu bí mật, chứ chính con thì không có lỗi gì hết cho nên con không cần phải xem xét lại bản thân. Sự thật ở đây là hiện nay đang có nhiều trẻ em đầu thai với cả bệnh tật lẫn dị ứng.      

Dị ứng là gì, con yêu dấu? À, nó có thể là hai thứ. Nó có thể do con ở một trạng thái tâm thức thấp hơn, con không có mức nhận biết để tránh khỏi tác động của một điều kiện vật lý nhất định. Có một số khía cạnh của thế giới vật lý ảnh hưởng đến con do tâm thức con không đủ cao. Những ai không bị dị ứng có thể là vì họ đã thăng vượt tâm thức gây ra chứng đó, cho nên mặc dù họ tiếp xúc với cùng loại phấn hoa chẳng hạn, họ không bị phấn hoa này ảnh hưởng. Đây là một trường hợp.

Trường hợp kia là nhiều trẻ em đang bước vào hiện thân vì chúng có mức tâm thức cao hơn, cho nên chúng cũng nhạy cảm hơn. Trong kịch bản lý tưởng nếu muốn tránh hiện tượng trẻ em đầu thai với dị ứng, thì tâm thức tập thể tại một số khu vực cần được nâng cao. Nhưng vì điều này đã không xảy ra, cho nên các dòng sống tiên tiến này khi bước vào đầu thai bị nhạy cảm đến độ chúng phản ứng lại, không phải với một chất vật lý, mà thật ra với mức tâm thức chưa nâng cao. Chẳng hạn có những em được chẩn đoán là dị ứng với phấn hoa, nhưng kỳ thực các em không dị ứng với phấn hoa, mà có một khía cạnh nào đó của tâm thức tập thể đúng lý đã phải được chuyển hóa nhưng chưa chuyển hóa.

Lý tưởng thì khía cạnh này cần được chuyển hóa trước khi các em đầu thai để các em không bị dị ứng. Nhưng vì điều này đã không xảy ra cho nên mới có tình trạng này, qua đó các dòng sống đó vẫn sẵn lòng đầu thai mặc dù phải chịu gánh nặng này trong cơ thể mình.

Sinh thể nơi các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc

Hỏi: Các sinh thể nơi các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc trải nghiệm cuộc sống như thế nào? Hơn nữa, liệu chúng có thấy được loài người? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 11/9/2018.

Điều đó tùy thuộc vào loại sinh thể mà con đề cập, vì trong ba cõi đó có rất nhiều loại sinh thể khác nhau. Như các chân sư đã có nói, hiện có sinh thể sa ngã ở những tầng thấp của cõi bản sắc, ở mọi tầng của cõi lý trí, và ở hầu hết mọi tầng của cõi tình cảm.

Nhiều sinh thể sa ngã trong những cõi này có thể thấy được con người, và tất nhiên, chúng tìm cách chi phối và khuynh loát con. Chúng nhìn cuộc sống như thế nào? Điều này tùy thuộc nơi chúng cư ngụ. Nhiều sinh thể sa ngã hay ngay cả sinh thể bóng tối, chẳng hạn như quỷ hay tà thể nơi cõi trung giới và cõi tình cảm, có cái nhìn vô cùng đen tối, vô cùng tiêu cực về cuộc sống.

Chúng không có hiểu biết tinh xảo lắm đâu. Chắc chắn là chúng không có được sự hiểu biết của các con mà các chân sư thăng thiên đã trao cho con. Chúng vô cùng chú tâm vào bản thân, cho nên tầm nhìn của chúng vô cùng hẹp hòi. Chúng thường ở trong trạng thái cực kỳ bồn chồn khích động, cực kỳ nóng giận, thường xuyên rối loạn, đứng ngồi không yên, và luôn luôn tìm cách bộc lộ động cảm. Chúng ở những tầng thấp của cõi mà chúng tôi gọi là trung giới và nhiều người xem là địa ngục. Các sinh thể này không nhìn thấy con người vì chúng ở trong một tâm trạng quá tiêu cực, chỉ biết có chính mình, đến độ chúng chỉ nhìn thấy được ngay trước mắt.

Ở cõi lý trí thì khác, nhiều sinh thể sa ngã nơi đây có trải nghiệm về cuộc sống không đến nỗi tiêu cực như vậy, nhưng chúng vẫn có một tư duy vô cùng hạn hẹp. Chẳng hạn, chúng chỉ tập trung vào một vấn đề, một đề tài, một ý thức hệ hay một tôn giáo nhất định nào đó. Đây là trường hợp nhiều sinh thể sa ngã nơi cõi lý trí hoàn toàn chú tâm vào chủ nghĩa khoa học duy vật, luôn tìm cách truyền bá cái nhìn duy vật về cuộc sống. Trong thời kỳ cộng sản, nhiều sinh thể sa ngã nơi cõi lý trí đã tập trung vào chủ thuyết cộng sản hầu thúc đẩy người ta tin vào chủ thuyết này qua những cách giải thích, biện minh, bênh vực, v. v… 

Con sẽ thấy nhiều sinh thể sa ngã ở cõi lý trí rất, rất bận tâm với chuyện phải nghĩ ra những lập luận vô cùng công phu, phức tạp để biện minh cho tư duy duy vật. Thậm chí có nhiều người trong cõi vật lý đã bắt được những ý tưởng đó để viết thành sách, và trong sách, họ đưa ra những luận cứ cực kỳ rắc rối về lý do tại sao, ví dụ, tôn giáo là một lỗi lầm của dòng tiến hóa nhưng vẫn có khả năng sống sót tạm thời, và tại sao tôn giáo sẽ bắt buộc phải tiêu vong. Và còn nhiều đề tài và vấn đề khác như vậy nữa liên quan đến khoa học.

Rồi đến cõi bản sắc, thì ở đây con có một số sinh thể sa ngã sẽ cực lực phản đối con gọi chúng là sinh thể bóng tối hay tà ác, vì chúng tin chắc là chúng hiểu biết về vũ trụ cao trội hơn mọi người, và vũ trụ phải vận hành hay không được vận hành như thế nào. Theo một nghĩa nào đó và trong khuôn khổ tư duy của chúng, thì chúng có một cái nhìn tích cực nào đó về cuộc sống do chúng cho là mình đang hành xử rất đúng. Chúng tin là với thời gian, chúng sẽ chứng minh được là quyền tự quyết là một lỗi lầm, và Thượng đế sẽ phải nhìn nhận lỗi lầm đó rồi nâng chúng lên địa vị tân lãnh đạo, vân vân và vân vân. Đương nhiên, đây là một ảo ảnh, nhưng chúng đã đồng hoá với ảo ảnh này đến độ chúng thực sự rút ra được một trải nghiệm tương đối tích cực. 

Song song, như chúng tôi đã có đề cập nhưng chưa thực sự bàn rộng, cũng có rất nhiều Hiện diện TA LÀ đã gửi phần nối dài của mình vào các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Rất nhiều sinh thể thường được người ta xem là thiên thần chính là những sinh thể này đây. Tất nhiên, thiên thần có thể nhìn thấy rõ con người, vì đó chính là những sinh thể đã được các Hiện diện TA LÀ tạo ra hay gửi vào ba cõi cao đó để phụng sự cho những con người đang hiện thân vật lý.

Trong một số trường hợp, một Hiện diện TA LÀ có thể gửi một phần nối dài vào ba cõi cao đó để trợ giúp cho chính phần nối dài của nó đang đầu thai trong cõi vật lý. Trong một số trường hợp khác, Hiện diện TA LÀ cũng gửi xuống những sinh thể với chức năng phụng sự rộng lớn hơn. Những sinh thể này, cũng như trên, có một cái nhìn tích cực về cuộc sống và cảm thấy mình đang phục vụ sự sống. Ở một mức độ nào đó, chúng vẫn nối kết với Hiện diện TA LÀ của chúng, và đôi khi chúng không có một hiểu biết tinh tường về cuộc sống như những giáo lý mà các chân sư đã trao truyền cho các con, vì chúng quan tâm nhiều hơn đến các trách vụ đặc thù mà chúng đã được gửi xuống để thực hiện. 

Con yêu dấu, đây là một đề tài thật phức tạp. Nhiều lời dạy khác nữa có thể được đưa ra. Có lẽ trong tương lai, một số giáo lý mới có thể được ban ra khi nào chúng tôi nhận thấy đến lúc con cần biết nhiều hơn về đề tài này. Nhưng thật sự con không cần đặt quá nhiều trọng tâm vào chuyện này vì nó có thể sẽ khiến tâm con bị choáng ngợp bởi lượng thông tin. Vậy xin con hiểu điều ta vừa nói, con đã sẵn bị quá tải thông tin từ thế giới vật chất rồi, và chúng tôi luôn luôn gặp phải thử thách là làm thế nào tránh cho con cũng bị quá tải bởi lượng giáo lý mà chúng tôi ban ra ngày càng nhiều hơn về những chủ đề ngày càng phức tạp hơn.

Căng thẳng và áp lực trong trí thể

Hỏi: Câu hỏi là liệu có bao nhiêu người thời nay cảm thấy một áp lực tinh thần rất lớn và khó lòng giữ được sự bình tĩnh, an bình của mình. Người đặt câu hỏi cho biết là anh thường nghe nhạc hay theo dõi chương trình phát thanh để ”kềm chế” áp lực tinh thần dồn dập. Câu hỏi của anh cho các chân sư thăng thiên là liệu đây có chỉ là một vấn đề cá nhân hay là một vấn đề phổ biến trong xã hội gắn liền với sự bất an trong trí thể.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 11/9/2018.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có đề cập đến vấn đề mà chúng tôi gọi là sự quá tải trong trí thể, hay quá tải thông tin. Hiển nhiên có rất nhiều nguyên do khiến cho con người cảm thấy căng thẳng nhiều hơn trong trí thể của mình, nhưng một nguyên do chủ yếu là cái thiết bị nho nhỏ mà tất cả các con đều mang trong túi cho phép con truy cập tức thì tin tức từ khắp mọi nơi trên thế giới. Bỗng nhiên trí thể của con bị yêu cầu phải đối phó với một khối lượng thông tin và một chiều rộng thông tin to lớn mà con không hề có trong các thời đại trước. Chỉ riêng việc phân loại và cất giữ thông tin này thôi cũng đã là một nỗ lực đáng kể cho tâm trí.

Thêm vào đó tất nhiên, còn có một lý do chung chung là thế giới trong thế kỷ qua đã trở nên ngày càng duy lý, ngày càng tập trung vào nhiững chuyện đầu óc. Mọi người đều biết nhiều hơn và họ cũng đòi hỏi muốn biết nhiều hơn. Thế giới say mê nền công nghệ dựa trên việc tiếp cận kiến thức một cách đường thẳng và khoa học, đến độ trí thể con người bị tràn ngập bởi thông tin.

Nếu chẳng hạn con thử nhìn một người trung bình cách đây một trăm năm phải biết bao nhiêu điều so với ngày nay, thì con sẽ thấy khối lượng thông tin bây giờ nhiều hơn gấp bội. Ngoài ra, người ta chú trọng nhiều hơn đến cách suy nghĩ duy lý trí, và điều này một lần nữa là một thách đố mà trí thể phải đương đầu.

Có biết bao người thời nay đặt câu hỏi về cuộc sống. Có những câu hỏi cơ bản sâu xa về cuộc sống, nhưng cũng có nhiều câu hỏi khác về đời sống thực tiễn thường nhật. Vì con người không được dạy dỗ hay không được chỉ bảo về khả năng trực giác của mình, cho nên họ không thể sử dụng trực giác để tìm ra câu trả lời, vì thế họ phải cố tìm trả lời qua trí thể. Và như chúng tôi đã từng đề cập, có một giới hạn nào đó cho những gì họ có thể hiểu được về sự sống qua tâm đường thẳng phân tích.

Có nhiều người đã nâng cao tầm nhận biết của mình đến một mức nơi một số câu hỏi về sự sống trở nên quan trọng đối với họ. Họ không thể bác bỏ hay làm ngơ trước những câu hỏi này. Họ không thể dồn nén chúng xuống, gạt chúng sang một bên hay hoàn toàn không để ý đến chúng. Cho dù họ không hẳn ý thức là họ đang suy nghĩ về chúng, trí thể của họ vẫn không ngừng xử lý những câu hỏi như thế, cố sức tìm ra một lời giải đáp duy lý, đường thẳng. Nhưng vì không thể có một lời giải đáp như vậy, cho nên một sự căng thẳng liên tục được tạo ra trong trí thể.

Tất nhiên có một số cách thức để đối phó với vấn đề này. Một cách là qua sự tỉnh thức – một phong trào đã trở nên thịnh hành trong những năm gần đây. Một cách khác là yoga. Và hiển nhiên, một cách khác nữa là các giáo lý của chân sư thăng thiên, các bài thỉnh, bài chú. Nhưng thật sự, cách hay nhất để con giải quyết vấn đề này là ngộ ra rằng có những câu hỏi mà lý trí không thể trả lời, nhưng nếu con có khả năng trực giác thì con có thể nhận được trả lời từ một tầng mức cao hơn.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một số câu hỏi về sự sống, tựa như “Tôi là ai?” không thể nhận được trả lời ổn thỏa từ lý trí, từ tâm trí thức đường thẳng. Con có thể cảm nhận được phần nào con là ai qua thể bản sắc của con, nhưng thể bản sắc này không đến nỗi đường thẳng, duy lý, phân tích như trí thể. Con cần vô hiệu hóa tâm phân tích thì con mới có thể nối kết với thể bản sắc, và tất nhiên là cuối cùng, con sẽ cần nhận được lời giải đáp từ một cõi vượt khỏi vật chất để biết được mình là ai, tại sao mình lại ở đây. Và một lần nữa, điều này có nghĩa là con cần sử dụng các khả năng trực giác của con, các khả năng không đường thẳng, không phân tích của con.

Trên cơ bản, khi con không làm được vậy thì con sẽ cảm thấy sự căng thẳng gia tăng. Nhiều người đã nâng tầm nhận biết của mình đến một mức họ có thể – một cách tự nhiên – đương đầu với các câu hỏi đó và tìm được lời giải đáp, nhưng nếu họ không thể làm được thì đúng vậy, chỉ còn lại sự căng thẳng mà thôi.

Khóa nhập thất của chân sư ở cõi ether

Hỏi: Xin các chân sư tiết lộ nhiều hơn về các khóa nhập thất ở cõi ether?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 11/9/2018.

Tôi nghĩ tôi có thể cho bạn một ít dữ kiện về đề tài này vì các chân sư đã có giảng dạy cho tôi. Trên căn bản, các chân sư có mặt ở đây là để giúp chúng ta bằng nhiều cách. Nhưng trong hầu hết trường hợp, các thày không được phép đi xuống hiện thân vật lý hay đầu thai vật lý. Có những trường hợp hiếm hoi khi người ta đã trông thấy các thày, nhưng thật là hiếm có. Nói chung, các thày không được phép đi xuống thấp hơn tầng bản sắc, cũng được gọi là cõi ether trong một số giáo lý. Các chân sư khi phát biểu qua tôi thường gọi đó là cõi bản sắc để tương ứng với bốn thể của chúng ta. Nhưng cõi này cũng có thể gọi là cõi ether.

Các chân sư có cho biết cõi ether có tất cả 33 tầng, và trong 11 tầng thấp nhất có thể có sự hiện diện của các sinh thể sa ngã. Cho nên không có khóa nhập thất nào ở dưới tầng này. Các khóa tu của các thày diễn ra ở 22 tầng cao của cõi ether. Khoá học có nhiều mục đích, và một trong số đó là thật khó khăn cho chúng ta du hành trong các thể tinh tế của mình lên cõi tâm linh. Nhưng mỗi chúng ta đều có một thể bản sắc đã vốn nằm sẵn trong cõi bản sắc, và tùy theo chúng ta tập trung vào tầng bản sắc nào, việc du hành vào khoá tu của các thày không đến nỗi phải vượt qua một khoảng cách quá lớn.     

Chúng ta có thể đến đó và học hỏi một số bài học cụ thể. Chúng ta không cứ là sẽ nhớ được một cách ý thức, tuy rằng cũng có người nhớ được. Nhiều người chiêm nghiệm, ngay trước khi họ thức dậy, cái mà họ gọi là giấc mơ sáng suốt (lucid dream), một giấc mơ tương đối rõ ràng là họ đã tham gia vào một môi trường học hỏi nào đó. Tôi đã từng trải nghiệm điều này mấy lần trong đời tôi, một cảm giác mình đang đi học với một số người khác. Đó là một ví dụ nhớ lại một cách ý thức mình đã tham gia vào một khóa tu ở cõi ether. Nhưng ngay cả khi bạn không nhớ trong ý thức, bạn vẫn có thể đã ghi lại những bài học bạn đã học. Đôi khi bạn có thể thức dậy với một cái hiểu sâu sắc mà bạn không hề có khi đi ngủ tối hôm trước, và bạn chợt hiểu một điều gì đó. Hoặc trong ngày, bạn đột nhiên hiểu ra một điều gì, và đó có thể là kết quả của việc tham gia khoá học.  

Thêm vào đó, tất nhiên, các chân sư có thể truyền rải ánh sáng qua trung gian các lớp nhập thất này ở cõi ether vào các cõi khác: lý trí, cảm xúc, vật lý. Đây là một mục đích khác của khoá tu. Bạn có thể tìm thấy nhiều bài mô tả các khoá nhập thất đó trong giáo lý của những đợt truyền pháp trước. Có một phong trào có tên là “I AM Movement” có giữ một số bài tường thuật, chẳng hạn về Hang Biểu tượng (the Cave of Symbols) mà thày Saint Germain phụ trách trên tiểu bang Wyoming tại Hoa Kỳ. Có lời tường thuật rất tỉnh táo trong cuốn sách “Unveiled Mysteries”.

Cũng có một cuốn sách rất hay do Summit Lighthouse xuất bản tựa là “The Masters and their Retreats” với danh sách tất cả các chân sư, tất cả các khóa nhập thất cùng địa điểm vật lý với bài tường trình ngắn, hay có khi dài, về các khoá này. Nếu bạn muốn tìm hiểu đề tài này, cuốn sách đó là nguồn tài liệu hàng đầu cho bạn.

Liệu con sẽ chết nếu tự ngã chết?

Hỏi: Con yêu Thượng đế và các chân sư thăng thiên hơn nữa, và con hoàn toàn hàng phục Thượng đế. Khi con thiền quán và cảm thấy năng lượng dâng lên trong thân con, con bỗng lo sợ tự ngã con sẽ chết. Con lo sợ điều gì sẽ xảy ra nếu tự ngã của con chết hoàn toàn. Nhưng con muốn khắc phục nỗi sợ hãi này và hoàn toàn yêu thương Thượng đế cùng các chân sư. Con có nghe nói là nếu tự ngã của con chết, con sẽ không chết mà sẽ nở rộng ra. Nhưng con không thể buông nỗi sợ hãi của con. Xin thày khuyên con như thế nào.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2017. Đăng ngày 19/12/2017.

Nỗi sợ hãi liên quan đến sự phát triển tâm linh luôn luôn là một sự cấy ghép hay một cái móc trong hào quang của con mà các sa nhân và tà lực đã cài đặt nơi cõi tình cảm. Trước tiên, con phải lấy quyết định nhìn ra là con đang bị tà lực tấn công. Con cần kêu gọi sự bảo vệ tâm linh từ Đại thiên thần Michael, con cần kêu gọi Astrea chặt đứt mọi sợi dây ràng buộc con với các thế lực này. 

Sau đó, con cũng cần làm điều mà chúng tôi, các chân sư, đã dặn bao nhiêu lần: nhìn vào các khuôn nếp tâm lý của con. Vào một thời điểm nào đó, con đã quyết định một điều gì đó sẽ xảy ra nếu tự ngã con chết. Con có một lý do nào đó để nghĩ rằng con không thể sống còn mà không có tự ngã, và con cần khám phá quyết định này. Có nghĩa là trước hết, con phải giải hóa cái gánh nặng năng lượng sợ hãi khiến con bị đau đớn hay bị khó khăn khi con xem xét quyết định đó. Sau đó, con cần nỗ lực đạt sự minh mẫn hầu con nhìn thấy quyết định và tháo gỡ nó ra. Đây KHÔNG phải là một điều sẽ xảy ra tự động, nhưng tất nhiên, những bài thỉnh mà chúng tôi đã ban ra chắc chắn sẽ giúp con về mặt này.

Con có những cuốn sách đã được dịch sang Hàn ngữ, chẳng hạn cuốn sách về sự giao tiếp từ trái tim, cuốn này nói về cả bảy tia sáng và đây là cuốn sách đầu lòng rất tốt. Nếu không, có nhiều cuốn sách khác của chúng tôi có kèm theo bài chú cũng sẽ rất hữu ích để con tự chữa lành. Sẽ cần một thời gian để giải quyết một vấn đề như thế này, bởi vì con cần khám phá ra cái quyết định sâu xa đã khiến con hoài nghi là con không thể sống sót nếu tự ngã của con chết đi.  

Điều con cũng cần suy xét là toàn bộ tự ngã của con sẽ không thể tự dưng chết ngay lập tức. Nó chỉ có thể chết đi từng phần. Không một ai trong chúng ta có thể nhảy một bước khổng lồ đến độ toàn bộ tự ngã chết đi trong một tình cảnh duy nhất. Ta biết có một số người bảo rằng họ trải qua một sự chứng nghiệm to lớn và sau đó thì họ giác ngộ, và họ diễn giải là họ không còn tự ngã nào nữa. Nhưng ta chỉ muốn chỉ ra cho con một sự thật rất đơn giản, con yêu dấu. Nếu con còn đang đầu thai, nếu con còn đang hiện thân trong một thể xác vật lý, thì con vẫn còn sót lại một số phần tử của tự ngã, bởi vì nếu không thì con đã không thể cầm giữ được xác thân con.

Con không nên ngây thơ nghĩ rằng con có thể chứng ngộ vượt bực đến mức toàn thể tự ngã của con tan mất và con giải thoát khỏi mọi tự ngã và được giác ngộ cho tới cuối đời. Chỉ có một mảnh của tự ngã chết đi mà thôi. Nếu con cho phép con tưởng rằng con không còn tự ngã, gần như chắc chắn con đã tệ hơn sau khi con có trải nghiệm đó. Con nên nghĩ rằng chỉ một phần nhỏ của tự ngã của con chết đi, và điều này sẽ giúp con tránh được nỗi sợ hãi dễ dàng hơn.

Tầm quan trọng của sức khỏe thể xác đối với người tầm đạo

Hỏi: Xin các chân sư cho ý kiến về tầm quan trọng của tuổi thọ. Người ta có cần quan tâm nhiều hơn, đặt trọng tâm nhiều hơn đến tuổi thọ của cơ thể vật lý trong Thời Hoàng kim? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2017. Đăng ngày 18/11/2017.

Khi con bước trên con đường tâm linh và mong muốn nâng cao tâm thức, con đang làm điều quan trọng nhất mà con có thể làm cho tuổi thọ của cơ thể vật lý. Hiển nhiên điều này không có nghĩa là chúng tôi bảo con bỏ qua mọi lời khuyên về sức khỏe hay con không nên chú ý đến cơ thể mình. Đó không phải là điều chúng tôi muốn nói, nhưng chúng tôi xin nói, điều quan trọng là con nên có một ý niệm ưu tiên khi con bước trên đường tu. Tất nhiên, con có thể dùng nhiều phương thức mà con cảm thấy hấp dẫn dựa trên trực giác của con.

Con yêu dấu, chúng tôi đã không đưa ra nhiều lời khuyên về sức khỏe và lý do rất giàn dị. Mỗi con người là một cá nhân với một cơ thể cá nhân. Hơn thế nữa, cơ thể vật lý của con là sự biểu hiện của ba thể cao của con, và tất cả các con đều là những cá nhân trong ba thể cao này.

Cơ thể vật lý không phải là một thiết bị máy móc mặc dù chủ nghĩa duy vật có tuyên bố thế nào đi nữa. Con không thể đơn giản nói rằng giờ đây chúng ta đã khám phá phương pháp chữa trị này sẽ chữa bệnh cho nhiều người và do đó nó cũng phải hiệu nghiệm cho tất cả mọi người. Cũng vậy, con không thể bảo rằng việc ăn hoặc không ăn một loại thực phẩm nào đó có tác dụng đối với nhiều người cho nên nó cũng phải có cùng tác dụng đối với mọi người.

Thật sự đó là trách nhiệm của con khi con dùng trực giác của mình để hòa điệu với những gì quan trọng đối với con. Con nên đặt bao nhiêu chú ý vào cơ thể của mình? Một số các con sẽ cần chú ý nhiều hơn đến cơ thể và điều này sẽ là điều phải cho con, trong khi đối với người khác, con không nên chú ý nhiều như vậy đến cơ thể mà nên dành nhiều chú ý hơn cho tâm lý và sự tăng triển tâm linh.

Đó là một vấn đề rất cá nhân, nhưng nếu con đang bước trên đường tu tâm linh và đang chuyên cần tu tập, thì con đang làm công việc quan trọng nhất mà con có thể làm cho tuổi thọ của cơ thể. Ngoài chuyện đó ra, tất nhiên con cũng nhận ra là khi trực giác của con nhạy bén hơn, con sẽ nhận được lời nhắc nhở từ trực giác về những việc cụ thể mà con cần làm. 

Con cũng cần lưu ý rằng tuổi thọ của cơ thể vật lý tự nó không thực sự là một mục tiêu hay một mục đích. Cơ thể của con có mặt ở đây để hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Sự tập trung vào việc sống lâu một cách nhân tạo trong thân xác không thật là cách tiếp cận cao nhất. Tương tự như vậy, có một số người rất tâm linh đã dồn hết tâm trí vào khái niệm bất tử, hay tìm cách sống đời đời trong cơ thể vật lý hiện tại của họ. Đây cũng không phải là điều chúng tôi giảng dạy, bởi vì ngay cả khi con đạt đến quả vị Ki-tô trọn vẹn, vẫn không có nghĩa là con có thể duy trì cơ thể một cách vô hạn định. Có một vài nhà yoga đã có thể duy trì cơ thể rất lâu, họ đã làm vậy cho một mục đích đặc thù, và điều này không có nghĩa là mọi người nên nỗ lực làm theo hoặc tất cả mọi sinh thể Ki-tô cũng nên làm theo như vậy.  

Một lần nữa, có một thời điểm là thời điểm tự nhiên để con bỏ lại đằng sau xác thân vật lý. Khi con đạt đến một mức quả vị Ki-tô cao hơn, con có thể thực sự hòa điệu với điều đó và con sẽ biết được khi nào là thời điểm của con. Ta cũng nói thêm rằng con hiểu là chúng tôi luôn luôn tìm cách giúp con đạt được sự quân bình. Ta không đang bảo con bỏ bê thân xác của mình, nhưng ta thực sự muốn lưu ý con rằng nhiều người, kể cả rất nhiều người tâm linh, đã tập trung một cách mất quân bình trên cơ thể.

Những người đó đã bước vào tư duy cho rằng một cơ thể mạnh khỏe là điều kiện cần thiết để tiếp tục tăng triển tâm linh. Điều này không nhất thiết là đúng. Không phải là một cơ thể mạnh khỏe sẽ cản trở sự phát triển tâm linh, nhưng con yêu dấu, nếu con đặt quá nhiều trọng tâm vào cơ thể, đó chính là mất quân bình. Một hậu quả có thể xảy ra là vì họ chú tâm quá nhiều vào cơ thể cho nên họ sẽ không nhìn vào tâm lý của họ. Tất nhiên, việc xem xét tâm lý của mình là chìa khóa đích thực cho tăng triển tâm linh. Một hậu quả khác là họ có thể bước vào tư duy đặt trọng tâm trên cơ thể, dựa trên niềm tin tiềm thức cho rằng cơ thể có thể cản trở bước tiến tâm linh, hoặc cơ thể có thể trợ giúp bước tiến tâm linh, nghĩa là bước tiến tâm linh của họ tùy thuộc vào tình trạng của cơ thể.

Hẳn là có những tầng cấp thấp hơn trên đường tu nơi hiển nhiên con cần chú ý đến cơ thể nếu con mang một tình trạng vật lý đặc thù, chẳng hạn như bệnh tật. Nhưng khi đạt đến một tầng cao hơn của đường tu, con nhận ra là kỳ thực con bước vào một trạng thái có thể gọi là sự “hờ hững nhân từ đối với cơ thể” (benevolent neglect of the body) qua đó con nhận ra cơ thể có những ý muốn riêng của nó. Nếu con cho nó sự chú ý của con, nó có thể giống như một đứa trẻ nhỏ: nó chỉ muốn được thêm chú ý. Thật ra trong tâm con có thể có một khía cạnh sẽ chế tạo ra nhiều vấn đề thể xác hơn vì nó biết nó có thể thu hút sự chú ý của con theo cách đó. Dĩ nhiên cũng có đủ loại ma quỷ và tà thể tìm cách phóng chiếu những vấn đề vật lý vào bốn thể phàm của con hầu bòn rút năng lượng của con. Trên đường tu sẽ tới một điểm khi con cần quyết định rằng cơ thể không điều khiển được cuộc sống của con. Cơ thể không điều khiển con đường tâm linh của con, mà người cầm trịch là chính con.

Cho nên con bước vào tư duy là con sẽ không chấp nhận cho cơ thể cản trở bước tiến tâm linh của mình cho dù tình trạng sức khỏe có thế nào đi nữa. Khi con xoay chuyển như vậy trong tâm, cơ thể vật lý dần dần sẽ bắt đầu tuân theo. Có thể sẽ cần một thời gian, sẽ đòi hỏi một số nỗ lực, những nỗ lực chữa lành đủ loại. Nhưng sự xoay chuyển trong tâm có thể đưa con đến một điểm khi các vấn đề thể xác không cản trở bước tiến tâm linh hay sự thoải mái dễ chịu của con, chỉ vì con đã quyết định – nếu có thể nói như vậy – đặt cơ thể vào vị trí xứng đáng của nó là người phục vụ chứ không là người chủ.

Điều gì xảy ra vào lúc lâm chung?

Hỏi: Xin thày giải thích về tiến trình chết? Điều gì xảy ra vào lúc lâm chung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 28/4/2017.

Đây là một đề tài phức tạp mà ta không thể bàn sâu rộng ở đây. Nói ngắn gọn, điều xảy ra là khi thân xác ngừng hoạt động – bình thường khi tim ngừng đập và hơi thở cũng ngừng – con sẽ bắt đầu tách rời khỏi thân xác. Con càng có nhận thức tâm linh, càng hiểu biết các giáo lý của chân sư, càng đã từng cầu gọi để giải quyết tâm lý mình và vượt qua càng nhiều dính mắc vào mọi thứ trên địa cầu, thì sẽ càng dễ cho con bỏ lại thân xác đằng sau.

Có rất, rất nhiều người trên địa cầu bị dính mắc vào thân xác vật lý và cuộc sống mà họ đã sống. Những người đó sẽ rất khó lòng bỏ lại thân xác đằng sau. Đó là lý do có khi họ trở thành điều mà chúng tôi gọi là những hồn không xác. Vì họ không thể rời bỏ thân xác, họ cũng không thể rời bỏ cõi vật lý và do đó không thể bước vào ánh sáng, là ánh sáng mà nhiều người trải qua kinh nghiệm cận tử đã nhìn thấy. 

Nếu con đã đọc sách về các trải nghiệm cận tử, con sẽ biết là người “chết” chiêm nghiệm thấy mình đi vào một đường hầm, đi tiếp trong đường hầm rồi bước ra một vùng sáng nơi đôi khi họ được đón tiếp bởi những thân nhân đã qua đời, hay những sinh thể tâm linh mà họ đã cảm thấy gần gũi trong kiếp đã qua. Điều lý tưởng, tất nhiên, là họ cứ đi tiếp để rồi nhận được sự hướng dẫn hầu tìm ra điểm cư ngụ thích hợp nơi họ có thể tăng triển cho đến lúc họ lại tái đầu thai.    

Là một người tâm linh, điều quan trọng là con cần nhận ra thân xác chỉ là một cỗ xe để con sử dụng trong một thời gian. Cuộc đời mà con đang sống không phải là cứu cánh mà chỉ là một phần trong nguyên tiến trình của dòng sống không ngừng tăng triển và tỏ lộ. Đặc biệt nếu con biết cái chết sắp cận kề, điều thật quan trọng là con cải sửa các dính mắc của con với kiếp sống này. Con cần cầu gọi, đồng thời cũng cần tu tập một cách ý thức. Hãy nhìn xem mình còn dính mắc chỗ nào, nhìn xem mình còn những ham muốn nào chưa thỏa mãn, rồi từ bỏ chúng càng nhiều càng tốt. Khi cơ thể ngừng hoạt động, con sẽ không còn ràng buộc với nó nữa, con không cố ở lại với nó nữa. Con quay đầu nhìn lại và con nhận ra sự kết liễu dứt khoát của một kiếp sống, và bây giờ đã đến lúc con bước đi tới giai đoạn kế tiếp của tiến trình tăng trưởng, hành trình tiến hóa có ý thức của con. Sau đó, con bước vào đường hầm nói trên, con cứ bước tiếp cho tới điểm cư ngụ thích đáng của con, và con theo chân những sinh thể tâm linh đang tiếp đón con và hướng dẫn con về điểm cư ngụ này giữa hai kiếp sống.        

Phải chăng một số sinh thể tâm linh khi sinh ra đã đặc biệt?

Hỏi: Theo một số giáo lý, Mahavatar Babaji sinh ra duy bằng quyền năng của tâm, và Padma Sambhava sinh ra từ đóa Hoa Sen trong tâm. Những câu chuyện về đản sanh như vậy có thật hay chăng, hay đó chỉ là những biểu tượng với ý nghĩa khác hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 28/4/2017.

Con yêu dấu, có rất, rất nhiều giáo lý được tìm thấy khắp thế giới có khuynh hướng đặt riêng ra một số sinh thể, dựa trên sự kiện các vị đó được sinh ra một cách đặc biệt. Như con thấy, tất nhiên, có Giê-su được sinh hạ đồng trinh, có Phật Gautama cũng sinh ra một cách rất đặc biệt, và cũng có một số câu chuyện khác về những sinh thể sinh ra chỉ qua uy lực của tâm. Không có lời dạy nào trong số đó là đúng cả, con yêu dấu.

Khi một sinh thể tâm linh hiện thân hay thị hiện một sự hiện diện vật lý trên điạ cầu, thì toàn bộ mục đích của việc đó là gì? Không phải là để chứng minh là mình cao trội hơn người, mà để bày tỏ con đường mà tất cả mọi người đều có khả năng bước chân theo hầu đạt đến trạng thái thăng thiên. Sinh thể đó càng đặc biệt bao nhiêu, cho dù là qua cách sinh ra đời hay bất kỳ cách nào khác, thì mục đích nói trên càng mất đi hiệu nghiệm.    

Con thấy đó, toàn bộ ý tưởng cho rằng có một số sinh thể sinh ra một cách đặc biệt đến độ không ai khác có thể lặp lại được, thật là không đúng. Nó là con đẻ của tâm thức sa ngã, và mong muốn của tâm thức này là biến một ai đó thành một người đặc biệt, để những ai xem mình là người bình thường không tài nào bước chân theo được. Con hãy nhìn xem đạo Cơ đốc đã sử dụng khái niệm sinh nở đồng trinh như thế nào để biến Giê-su thành đặc biệt, khiến cho biết bao người tin rằng mình sẽ mang tội báng bổ nếu mình dám nghĩ mình có thể đi theo con đường quả vị Ki-tô.      

Con nhận ra là vấn đề ở đây không phải là không thể có sinh thể nào thị hiện trong một cơ thể vật lý qua uy lực của tâm. Chuyện đó khả thi, nhưng nó không ích lợi gì, và thật ra nó cũng không được Hội đồng Nghiệp quả – là hội đồng cai quản quá trình tiến hoá trên địa cầu – cho phép. Do đó, nó không xảy ra trong thực tế. Những ai muốn nhập vào một cơ thể vật lý trên địa cầu để đầu thai phải đi qua một tiến trình sinh nở gian nan theo cách bình thường như mọi người khác.    

Mẹ Mary trả lời thêm:

Tất nhiên quy luật nào cũng có ngoại lệ, như trường hợp những chân sư thăng thiên nhận được đặc miễn để thị hiện trong một xác thân vật lý trong một thời gian, mà không đi qua tiến trình sinh nở vật lý và khôn lớn đến tuổi trưởng thành. Điều này đã xảy ra cho Saint Germain cũng như cho Giê-su sau khi sứ vụ của thày tại Galilee kết thúc. Tuy nhiên đó là những ngoại lệ hiếm hoi.

Babaji đã sinh ra trong hoàn cảnh bình thường, nhưng ông đã duy trì được cơ thể vật lý của ông lâu dài hơn bình thường. Padma Sambhava sinh ra theo cách bình thường trong kiếp đầu thai chót của thày.

Động vật có thể tái sinh làm người?

Hỏi: Liệu con người có thể đầu thai làm động vật do nghiệp quả? Động vật có thể nào tiến hóa và sinh ra làm người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 26/4/2017.

Không, con yêu dấu, một người không thể đầu thai làm động vật. Giáo lý này không đúng, đó là hiểu lầm đường đạo. Con người không giống động vật ở chỗ động vật là một sinh thể tiến hóa qua một tiến trình lần hồi. 

Thày Maitreya có giải thích điều này sâu xa hơn trong sách của thày (Master Keys to Spiritual Freedom) nhưng sự thật là trên địa cầu có hai đường tiến hóa song song. Trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa, một tiến trình tuần tự lần hồi được hướng dẫn bởi những sinh thể có tâm thức nhưng chính tiến trình đó thì lại phần nào vô thức. Điều này Charles Darwin đã quan sát chính xác, cụ thể là trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa vô thức nào đó. Điều mà ông không nhìn ra, và cho tới nay vẫn chưa được người ta nhìn nhận, là điểm này không áp dụng cho con người.

Một con người phát xuất từ một cõi cao hơn và đi xuống từ đó. Nhiều người sẽ gọi đó là linh hồn đi xuống, nhưng chúng tôi, các chân sư, nay đã đưa ra những giáo lý đặc thù để phân biệt giữa linh hồn – tức là bốn thể phàm của con người – với cái Ta Biết. Dù sao thì đúng là có một cái gì đó đã đi xuống từ trên, và đây là lý do con không thể đầu thai với tư cách con người ở mức của động vật.  

Là một con người, con có thể tiến hóa ngược – nếu có thể gọi như vậy – và lùi xuống một tâm thức thấp kém đến nỗi con không thể hiện thân trên địa cầu được nữa. Nếu vậy con sẽ đi vào cõi trung giới, và con có thể đi xuống thấp hơn và thấp hơn trong cõi trung giới cho đến khi con không thể tiếp tục ở lại địa cầu được nữa. Con sẽ phải đi tới một nơi với tâm thức thấp hơn cả địa cầu, cho dù càng ngày sẽ càng có ít nơi như vậy trong vũ trụ.

Liệu một động vật có thể tiến hóa đến mức con người hay chăng? Đây là một câu hỏi phức tạp do cách con người nhìn động vật. Loài người có xu hướng nhìn một con thú vật như là một cá thể riêng lẻ nhưng điều này không đúng. Ta biết nhiều người nuôi thú vật trong nhà, đặc biệt là chó, mèo và đôi khi cả ngựa, mà họ có mối quan hệ rất thân thiết, và họ cảm thấy con thú của họ có sự nhận biết, có một cá tính. Thậm chí có thể con đã từng nuôi mấy con thú mà con có cảm giác là cùng một sinh thể, cùng một tâm thức mà con có thể nhận ra.

Con yêu dấu, cảm giác này của con không sai ở chỗ có một cái gì đó mà con cỏ thể liên hệ và cảm nhận, nhưng con cần hiểu là cái đó không phải là con thú trong hình tướng vỏ ngoài của nó, mà cái đó là tinh linh (elemental) đã tạo ra hình tướng. Các sinh thể tinh linh có khả năng tiến hóa về mặt tâm thức cho tới mức chúng có khả năng nhận được một ngọn lửa ba nhánh và khi đó hiện thân làm người. Trong nhân loại hiện đang đầu thai, có một số người đã khởi sự là tinh linh như thế.

Sẽ quá đơn giản nếu con có thể nói rằng, à đây là một người hiện thân lần đầu tiên làm người, vậy thì trước khi đầu thai làm người, sinh thể này đã là một con mèo hay một con chó. Chó với mèo đã được tinh linh phóng chiếu ra thành hình tướng chó mèo, chứ không phải cái sinh thể chó mèo đó đã tiến hóa thành hình tướng con người. Chính tinh linh đã đạt được một trình độ nhận biết khiến nó không còn hoàn toàn đồng hoá với một con mèo hay một con chó bởi vì nó đã mang một số phẩm chất giống người qua sự tương tác với con người. Do đó, một tinh linh muốn đầu thai làm người cần thăng vượt hình tướng động vật và bỏ nó lại đằng sau.     

Kinh Pháp Hoa và con đường nội tâm dẫn đến quả vị Phật

Hỏi: Kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra) được xem là một trong những quyển kinh quan trọng nhất của Phật giáo Hàn quốc. Kinh nói rằng mỗi người đều có Phật tánh và khả năng trở thành Phật. Con tò mò muốn biết kinh Pháp Hoa có thực là của đức Phật Gautama hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 24/4/2017.

Đúng vậy, con yêu dấu, bản kinh đó là do ta. Tuy vậy, ta cũng muốn nói rõ là đại đa số những người đọc kinh này không tin những gì nói trong đó. Họ không hoàn toàn chấp nhận là họ có Phật tánh nơi họ và do đó họ cũng có thể là Phật. Nếu chúng ta có thể giúp cho mọi người chấp nhận điều này thì chúng ta có thể tiến rất xa. Đạo Phật có thể bước lên một giai đọan mới nơi mọi người có thể bắt đầu nhìn nhận một cách công khai là mình có tiềm năng thực sự biểu hiện Phật tánh. Và tất nhiên, càng có nhiều người thể hiện Phật tánh thì con sẽ càng thấy sự thay đổi trong xã hội và tâm thức tập thể được nâng cao.  

Phải nói là khi ta dùng thuật ngữ Phật tánh vốn có trong mỗi người, con cần hiểu điều này không mâu thuẫn với lời dạy của Giê-su rằng Ki-tô ở trong mỗi người và mỗi người đều có tiềm năng trở thành Ki-tô. Không có đối nghịch gì ở đây. Hai khái niệm này không loại bỏ nhau mà chỉ đơn giản là những lời dạy được đưa ra ở những thời điểm khác nhau cho những văn hóa khác nhau. Tất nhiên là cũng có chút khác biệt về sắc thái mà chúng ta có thể thảo luận, và như ta đã có giảng trước đây, tâm thức Ki-tô là một giai đoạn trên đường đạo khi con vươn ra ngoài để giúp đỡ người khác, và sau đó là giai đọan tâm thức Phật – hay cái mà ở phương Đông thường xem là tâm thức Phật – khi con trụ vững hơn trong nội tâm, và ngay cả con có thể rút khỏi thế gian như con thấy ta đã rút về một đạo tràng để giảng dạy. Trong khi đó thì con thấy Giê-su đã đi ra ngoài xã hội để giúp mọi người nơi họ sinh sống.     

Một lần nữa, đây không phải là những điều gạt bỏ lẫn nhau mà chỉ là hai giai đọan khác nhau, và có những người đã sẵn sàng cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Phật. Tuy nhiên cũng có những người khác sinh ra tại phương Đông nhưng chưa thực sự sẵn sàng cất bước trên đường quả vị Phật, bởi vì họ cần đi qua một vài giai đọan trước đã. Họ sẽ cần đi hết con đường quả vị Ki-tô trước khi thực sự sẵn sàng cho con đường quả vị Phật.

Hiển nhiên đây là một trong những vấn đề lớn luôn luôn gặp phải khi giảng đạy giáo lý. Bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng được ban ra cho một trình độ tâm thức đặc thù nào đó. Người nào không ở trình độ đó thì sẽ không thể nắm bắt ý nghĩa bên trong của giáo lý, và đấy là lúc họ sẽ đem giáo lý biến nó thành một tôn giáo vỏ ngoài. Như ta đã có dịp đề cập, ngay cả đạo Phật cũng bị chìm trong nghi lễ và truyền thống bề nổi đến độ người ta cho rằng khi mình tuân thủ đủ các nghi thức như vậy thì mình sẽ tự động tinh tấn.        

Không cứ là không thể tinh tấn được bằng cách đó, nhưng nếu con tuân thủ tất cả mọi giáo lý vỏ ngoài của Phật giáo và cứ tiếp tục mãi như thế, con sẽ không tự động đến được điểm mà con sẵn sàng chấp nhận Phật tánh của con. Tất nhiên điều này cũng tương tự như trong đạo Cơ đốc khi các tín hữu không thấu hiểu con đường bên trong của quả vị Ki-tô cũng đã tạo ra một tôn giào vỏ ngoài. Và một lần nữa như Giê-su đã dạy nhiều lần, nếu con chỉ theo đúng cách hành đạo bề ngoài của Cơ đốc giáo như người ta vẫn làm thời nay, thì con sẽ không đến được điểm sẵn sàng bước vào con đường bên trong.  

Điều vô cùng cần thiết là mọi người phải nhận thức rõ hơn về nhu cầu nhìn xa hơn giáo lý công truyền, nhìn xa hơn nghi lễ vỏ ngoài, và thâm nhập vào thông điệp bên trong của con đường nội tâm. Đây chính là điểm mà thời nay chúng tôi, các chân sư, đang giảng dạy, rằng đường đạo có nhiều cấp độ khác nhau, và ở mỗi cấp độ con cần những giáo lý khác nhau. Cho nên ở phương Đông, có nhiều người lớn lên trong một văn hoá Phật giáo thực sự sẽ được hưởng lợi lạc rất lớn nếu họ học tập các giáo lý mà chúng tôi đang ban ra thời nay về con đường quả vị Ki-tô. Điều này sẽ giúp họ bước đi từng bước trên một con đường tuần tự giúp họ sẵn sàng hơn cho con đường quả vị Phật. 

Mặc dù ta đã cố đưa ra Bát chánh đạo như là một kim chỉ nam cho đời sống bên ngoài, nhưng việc đi theo một hệ thống bên ngoài sẽ không bảo đảm con mở tâm ra với con đường bên trong. Đây phải là một nhận biết ý thức, một quyết định ý thức, rằng con muốn bước đi trên con đường tâm truyền. Đó là tại sao cách tiếp cận cao nhất cho con không phải là nghĩ rằng bởi vì con sinh ra trong một văn hoá Phật giáo mà con sẽ sẵn sàng cho con đường nội tâm chân truyền của Phật.

Tốt hơn là con nên cởi mở và khiêm tốn để không có khoảng cách nào giữa nơi con đang đứng và nơi con nghĩ là Phật đã đứng. Đây là một điều mà con có thể thấy được nơi quá nhiều Phật tử, cũng như nơi quá nhiều tín hữu Cơ đốc, tức là họ thấy một khoảng cách giữa họ và Giê-su giống như con thấy khoảng cách giữa con và tâm thức Phật. Trong tôn giáo vỏ ngoài thì không có cách gì lấp được khoảng cách đó. Con chỉ có thể vượt qua khoảng cách bằng con đường tâm truyền, nhưng con phải nhậy bén thấy được nơi con đang đứng về mặt tâm thức và con cần làm gì để tiến lên bước kế tiếp trên đường tu của con.

Điều đã xảy ra trong quá nhiều tôn giáo và nền văn hóa là người ta đã tước mất con đường bên trong, và như vậy tôn giáo vỏ ngoài đã tạo ra khoảng cách đó. Các sa nhân, dĩ nhiên, làm đủ mọi cách để làm tha hóa cách hành đạo vỏ ngoài hầu người ta không thể lấp được khoảng cách và tìm thấy con đường bên trong. Ngày nay, điều các chân sư cố làm là giúp cho mọi người biết đến con đường bên trong và sự cần thiết phải đi theo con đường này.  

Nhà thơ Rumi có đã thăng thiên?

Hỏi: Nhà thơ của phái Sufi, Jalal ad-Din Rumi, có đã thăng thiên và đạt đến hợp nhất với Thượng đế hay chưa? Ông có viết một bài về cái Một và tình yêu Thượng đế.


Trả lời của chân sư thăng thiên Kuthumi qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 22/4/2017.

Nhà thơ Rumi đã không thăng thiên nhưng không phải vì ông không có khả năng thăng thiên, mà vì ông đã chọn tái đầu thai.

Có một số lý do phức tạp, nhưng trên hết, ông đã tăng triển tới mức ông có khả năng cầm giữ một sự cân bằng tâm linh cho địa cầu, và do đó ông đã quyết định duy trì một xác thân vật lý.

Ông chọn không là một người được công chúng biết đến, mà ông sống ẩn danh, hay sống ẩn dật, để ông có thể cầm giữ một sự cân bằng tâm linh trong khi thế giới bên ngoài hoàn toàn không biết đến ông. 

Các chân sư thăng thiên có xuất thân từ một số nước?

Hỏi: Không hiểu trong lịch sử Hàn quốc hay lịch sử châu Á có chân sư thăng thiên nào hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 19/4/2017.

Câu hỏi được đặt ra là liệu các thày, những sinh thể hiện là chân sư thăng thiên, đã từng đầu thai ở nhiều nước khác nhau hay không. Con cũng biết là các thày đã tiết lộ cho các con một số kiếp hiện thân của mình, và trong nhiều trường hợp, các thày đã tiết lộ như vậy qua trung gian các sứ giả ở phần Tây của thế giới. Các sứ giả này nhắm chủ yếu vào một cử tọa người phương Tây hầu thu hút và giúp họ hiểu là các thày cũng từng đầu thai y như họ. Ý định của các thày là cho con sự cảm nhận là chính các thày đây cũng đã từng đầu thai, cho nên cũng đã trải qua tất cả những gì con trải qua.

Tất nhiên, con không thể vô hiệu hóa ảnh hưởng của tự ngã con người, và điều này đã khiến nhiều người chụp lấy các kiếp hiện thân đó rồi thần tượng hóa các thày. Và họ tin rằng bởi vì các thày đã từng đầu thai là người đặc biệt như vậy trong quá khứ, cho nên các thày vượt xa hơn con, và ngay cả khi còn đầu thai thì các thày đã vượt xa hơn con rồi.

Điều ta mong muốn con nhận ra là mặc dù các thày đã nói cho con biết một vài tiền kiếp của mình, hầu hết các thày nay đang là chân sư thăng thiên đã hiện thân trên trái đất trong một thời gian rất dài, có khi đến cả hai triệu năm trên trái đất. Con yêu dấu, hiển nhiên là khi mình đã hiện thân từng nấy lần trên trái đất thì không phải lúc nào mình cũng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử. Con cần nhận ra là cho dù bây giờ các thày đã thăng thiên, nhưng đã có rất, rất nhiều kiếp các thày là người hoàn toàn vô danh hay tầm thường – tùy theo con muốn gọi là gì cũng được.

Điều vô cùng quan trọng là con không dùng những truyện kể về tiền kiếp để thần tượng hóa các thày và khiến con tin rằng con không thể thăng thiên sau kiếp này nếu ngay lúc này con không là một nhân vật lịch sử quan trọng, bởi vì con có khả năng thăng thiên sau kiếp này. Con hiểu chứ, rất nhiều nhân vật lịch sử quan trọng mà con đọc được khi con học lịch sử, thật ra đều là sa nhân đầu thai, vì chúng mới là những kẻ mang tham vọng giành lấy địa vị quan trọng trong xã hội. Con cần vô cùng cẩn thận để khỏi lẫn lộn mà cho rằng một người quan trọng trong xã hội cũng là một người chứng đạt tâm linh.

Có nhiều người trong số các con ngồi trong phòng này có sự chứng đạt tương tự như nhiều chân sư thăng thiên trong kiếp đầu thai chót của họ trên địa cầu. Cho nên con cũng có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, bất kể con có được người đời công nhận hay không, bất kể địa vị của con trong xã hội là gì. Đây không phải là yếu tố định đoạt tiềm năng thăng thiên của con, mà trạng thái tâm thức của con.

Nhưng như ta vừa nói, tất cả các thày đều đã sống rất rất nhiều kiếp, và trong nhiều kiếp như vậy, các thày không là người đặc biệt gì hay có địa vị đặc biệt gì. Nhiều các thày đã từng hiện thân ở nhiều quốc gia khác nhau trong nhiều nhóm người khác nhau. Chính ta đã từng đầu thai ở gần như mọi quốc gia đang hiện hữu ngày nay – mặc dù khi ta đầu thai ở đất hiện gọi là Hàn quốc chẳng hạn, thì Hàn quốc thuở đó không mang tên là Hàn quốc vì thời đó rất xa xưa. Dẫu sao thì ta muốn con hiểu rằng hầu hết mọi quốc gia trên địa cầu đều đã từng có người đầu thai ở đó trở thành chân sư thăng thiên ngày nay. Đây là điều con cần ghi nhớ, và chắc chắn đã có người từng đầu thai ở Hàn quốc hiện đã thăng thiên – cũng giống như hầu hết mọi nước khác.

Thực tế là khi một linh hồn đầu thai trên một hành tinh như địa cầu thì sẽ có một số giai đoạn. Đa số linh hồn đi qua một giai đoạn trầm mình vào cuộc sống trên trái đất, rồi sau một thời gian đồng hóa sâu đậm với cuộc sống trên trái đất, con bắt đầu nhận biết nhiều hơn, xong con cất bước trên con đường hướng thượng sẽ dẫn con đến thăng thiên. Khi con kinh qua giai đoạn tu tập này hướng đến thăng thiên, con thường hay chọn hiện thân ở nhiều khu vực khác nhau, nhiều loại xã hội và nền văn hóa khác nhau, vì điều này sẽ giúp con khắc phục sự đồng hóa với trái đất.

Nếu con chỉ đầu thai trong cùng một nền văn hóa, có thể với cùng một nhóm người mang cùng nghiệp chướng trong một thời gian dài, con sẽ bị kẹt hơn vào tư duy cho rằng đây là cách duy nhất để là một con người trên trái đất. Con trở nên đồng hóa nhiều hơn với văn hóa đó, với quốc gia đó. Khi con biết con đang nỗ lực tiến tới thăng thiên, con sẽ cố tình chọn đầu thai trong nhiều loại hoàn cảnh khác nhau để đập vỡ cảm nhận đồng hóa với mọi thứ trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là trong nhiều trường hợp, con sẽ đầu thai như một người nam trong một vài kiếp, rồi một người nữ trong một vài kiếp. Ta cũng biết đề tài này sẽ khiến nhiều người cảm thấy bối rối, nhưng sự thật là trong nhiều trường hợp, những vị hiện đang là nam chân sư đã từng là người nữ trên địa cầu trong nhiều kiếp sống. Và những vị hiện là nữ chân sư đã sống nhiều kiếp như người nam khi còn hiện thân.

Con chỉ thăng thiên bằng cách khắc phục sự đồng hóa với bất kỳ vai trò nào trên trái đất. Con cũng hiểu là địa cầu không phải là một hành tinh cao lắm, mà là một hành tinh bị tâm thức nhị nguyên tác động dữ dội. Tất nhiên con không thể thăng thiên mà chưa tự giải thoát khỏi tâm thức nhị nguyên, và điều này có nghĩa là rất nhiều các vai trò, rất nhiều các bản sắc mà con người đã tạo dựng ở đây trên trái đất đều dựa trên nhị nguyên, đều bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng. Hầu khắc phục sự đồng hóa với các vai trò này, sẽ vô cùng hữu ích nếu con đầu thai trong nhiều loại hoàn cảnh khác nhau.

Đó là tại sao các thày đã nói với con trong hội nghị này là các thày không nhìn con như là người Hàn quốc mà nhìn con như là sinh thể tâm linh. Các thày không nhìn người Mỹ như là người Mỹ, các thày nhìn họ như là những sinh thể tâm linh, và tất nhiên mọi người khác cũng vậy. Các thày không nhìn tấm áo choàng mà con đang mặc dưới dạng bản sắc quốc gia hay ngay cả bản sắc gia đình con. Các thày nhìn con như con là, một sinh thể tâm linh với một lịch sử lâu đời, và đồng thời cũng là một cá thể thiêng liêng. Và vì thế, đây là khía cạnh các thày cố tiếp cận làm việc hầu có thể giúp con vượt qua sự đồng hóa với môi trường chung quanh con.

Các thày đã từng nói điều này – và nó thật quan trọng để con ghi nhớ – là khi con đầu thai trên địa cầu, con không thể tránh khỏi quên mất Sứ vụ Thiêng liêng mà con đã lập ra trước khi đầu thai. Con quên mất con là ai như một sinh thể liên tục, không ngừng sống. Khi con sinh ra, con dần dần đồng hóa với gia đình, với văn hóa, với quốc tịch của con, nhưng để thực sự bước chân trên đường tu tâm linh, con cần kinh qua một giai đoạn xem xét và ngộ ra mình không phải là bản sắc vỏ ngoài đó. Con không phải là con người đó mà đó chỉ là một cỗ xe con đã chọn cho kiếp sống đặc thù này, và con cần nhìn xem yếu tố nào trong cỗ xe này có thể giúp con tăng triển.

Luôn luôn sẽ có một số điểm tích cực mà con có thể học hỏi từ nền văn hóa và dân tộc của con, nhưng cũng có một số điều con cần khắc phục, cần thăng vượt, cần lánh xa và nhận ra: “Ồ, thật sự tôi không phải là loại sinh thể hạn chế đó mà văn hoá của tôi bảo tôi là.” Bất kỳ nền văn hóa nào cũng có một số giới hạn mà nó áp đặt lên các thành viên. Hiển nhiên hầu hết mọi nền văn hóa trên địa cầu ngày nay khiến cho các thành viên đồng hóa thành những con người với khả năng rất hạn hẹp. Con cần nhận diện đây chỉ là một tấm áo choàng mà con đang mặc, và con cần cởi nó ra, nối kết lại với sinh thể mà con là với một lịch sử vô cùng lâu đời.

Tất cả các con đã hiện thân trên trái đất lâu đời hơn bất kỳ quốc gia nào đang có mặt ngày hôm nay. Cho nên nếu con đang sống kiếp hiện thân chót của mình, con không thể đồng hóa với một dân tộc hay một văn hóa đặc thù nào. Thậm chí cả giới tính của cơ thể, con cũng không thể đồng hóa với một sinh thể chỉ là nam hay chỉ là nữ. Con là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi đặc tính vỏ ngoài đó.

Cho nên đúng vậy, đúng là đã có những chân sư thăng thiên xuất thân từ lịch sử Hàn quốc, nhưng các vị đó không được biết đến dưới danh tính họ từng mang khi họ đầu thai ở Hàn quốc. Bây giờ họ được biết đến dưới một danh tính phổ quát hơn.

Quan hệ nghiệp tạo với cha mẹ

Hỏi: Liệu trong đời con có một số mạng mà con phải sống qua? Chẳng hạn, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái có phải là một thành phần của số mạng, và ý nghĩa của mối quan hệ này là gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 10/4/2017.

“Số mạng” là một từ đã bị lạm dụng bởi nhiều nền văn hóa và nhiều dân tộc. Không hề có số mạng theo cách hiểu bình thường mà nhiều người vẫn có về số mạng, tức là một điều gì đã được sắp đặt sẵn, hoặc là không thể tránh khỏi, hoặc là đã được hoạch định phải xảy ra như vậy. Trong bát cung vật lý, khi con đi vào hiện thân ở nơi đây, tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con người.

Đương nhiên, chúng tôi các chân sư thăng thiên đã giảng dạy là con có một Sứ vụ Thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai. Rõ ràng điều con mong muốn là tăng triển sự hòa điệu của con với Sứ vụ Thiêng liêng hầu con có thể nhớ nó lại một cách ý thức.

Nhưng có rất ít người có thể nhớ được Sứ vụ Thiêng liêng của mình sau khi sinh ra đời trong một thân thể vật lý, vì độ dày đặc của cõi vật lý (cùng với độ dày đặc của cả bốn cõi trong vũ trụ vật chất) khiến cho việc ghi nhớ vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, sự khác biệt ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con, như chúng tôi giảng dạy, là một điều mà con đã tự ý chọn lựa khi con đi vào đầu thai. Con không hề bị Sứ vụ bắt buộc con phải làm gì, mặc dù tất nhiên khi con lập ra Sứ vụ của mình, con đã xem xét nghiệp cũ và các tiền kiếp mà con đã sống qua, con đã xem xét tâm lý mình cùng những động lực mà con đem theo, và con đã quyết định mình sẽ khắc phục những gì, sẽ muốn tăng trưởng như thế nào trong kiếp này. Con cũng đã quyết định con sẽ đem lại món quà gì cho địa cầu.  

Đó là những điều mà con đã tự ý chọn lựa chứ không được áp đặt lên con. Các chân sư không bao giờ ép buộc con chọn lựa Sứ vụ của con mà chỉ hướng dẫn và trợ giúp con quyết định những gì tốt nhất cho con. Thật vậy, rõ ràng là trong Sứ vụ của con có việc chọn lựa cha mẹ cùng những người thân, như anh chị em và có khi cả những người mà con sẽ gặp, chắc chắn cả những người mà con sẽ kết hôn cùng những đứa con mà con có thể sẽ có.

Con có thể nói là khi con hiện thân, tất nhiên là các mối quan hệ với những người đó mang sẵn một tiềm năng nào đó. Về phần cha mẹ, đa số mọi người đang đầu thai hiện nay đã chọn cha mẹ của mình dựa theo nghiệp chướng mà họ mang với cha mẹ. Điều này có nghĩa là con không cần nhìn cha mẹ mình như là những sinh thể sẽ có mối liên hệ lâu dài với con, theo nghĩa là con sẽ muốn ở lại với các vị đó sau kiếp này. Trong nhiều trường hợp, tiềm năng cao nhất của con là con biến hóa nghiệp chướng trong kiếp này để con không còn phải tái đầu thai với cùng những vị đó nữa.

Ta không bảo rằng tất cả mọi người đều chọn cha mẹ mình dựa theo nghiệp quả. Chắc chắn có những trường hợp mà con đã quen biết các dòng sống đó trong quá khứ và giữ được một động lượng tích cực với họ, cho nên trong kiếp này con chọn làm con trai hay con gái của họ. Nhưng nói chung, điều gần như chắc chắn là con mang một số nghiệp nào đó với cha mẹ cũng như với thân nhân. Do đó, điều quan trọng là con sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh khác của chân sư để tiêu hủy nghiệp chướng này hầu con được tự do – hoặc là con không phải tái đầu thai với họ trong tương lai, hoặc là con đầu thai nhưng không còn nghiệp chướng và nhờ vậy con có khả năng quan hệ với họ một cách tích cực hơn.

Điều cũng có thể xảy ra là con sẽ cân bằng nghiệp quả với cha mẹ trong kiếp này, và như vậy con không còn liên quan gì đến các vị ấy nữa, theo nghĩa là con không còn nghiệp chướng nào phải cân bằng. Khi đó, con hoàn toàn có thể thay đổi mối quan hệ của con với họ, con nhìn cha mẹ con một cách khác và con quyết định là con muốn quan hệ với họ tích cực như thế nào. Điều cũng có thể xảy ra là con nhìn vào mối quan hệ và con cảm nhận trong trực giác là mình đã cân bằng xong nghiệp quả với cha mẹ, cho nên bây giờ con có thể tự do bước tới trong cuộc đời. Khi đó, điều có thể chấp nhận là con quyết định không còn mối quan hệ mật thiết với cha mẹ cho hết phần còn lại của kiếp này.

Ta đặc biệt nói điều này là vì có biết bao người lớn lên tại Á châu đã được dạy dỗ để nghĩ rằng mình phải giữ hiếu với cha mẹ mãi mãi, ít ra là cho đến hết kiếp này, hay có thể cả nhiều kiếp sau nữa. Điều quan trọng mà con cần nhận ra là nhiều khi con đầu thai với những người mà con có một vòng xoắn ốc nghiệp tạo, nhưng bằng cách sử dụng các dụng cụ tâm linh, con có khả năng biến hóa năng lượng đó và vòng xoắn ốc đó. Khi làm vậy, con sẽ đạt được tự do để bước tới và đầu thai với những người mà con không mang nghiệp. Hay con có thể tự do thăng thiên sau kiếp này, và nếu vậy thì tất nhiên, điều cần thiết là con phải cân bằng nghiệp quả mà con đang có với tất cả những người thân đó.

Việc thờ cúng tổ tiên

Hỏi: Tại Hàn quốc, chúng tôi có một nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ tổ tiên đã khuất. Ý kiến của ông về điều này sa sao?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 30/3/2017.

Theo tôi, đây là một nghi lễ phần nào thuộc về quá khứ và không thuộc về Thời đại Bảo bình. Nghi lễ này tạo sự ràng buộc với tổ tiên cùng những cách sinh hoạt cũ. Làm thế nào một xã hội thăng vượt được nếu quá ràng buộc vào quá khứ? Theo ý tôi, đìều này sẽ lần hồi phai nhạt đi trong Thời đại Bảo bình. Tôi nghĩ có thể các chân sư sẽ muốn bình luận gì thêm, nhưng nếu bạn nhìn vào vấn đề một cách lô-gíc, bạn có hai hướng suy nghĩ. Hoặc bạn có thể từ bỏ tập quán này và nói: “Chúng ta không thấy cần thiết nữa”. Hoặc bạn có thể tự vấn: “Đâu là tổ tiên đích thực của chúng ta?”  Đó không phải là cha mẹ hay ông bà chúng ta bởi vì trước cha mẹ và ông bà thì có ai? Nếu bạn đi ngược lên mãi, sẽ tới điểm bạn tìm ra đó là các chân sư thăng thiên. Các chân sư là tổ tiên thật sự của chúng ta, chúng ta khởi nguồn từ đó vì chúng ta là những sinh thể tâm linh.

Tôi thiển nghĩ một xã hội sẽ rất, rất khó lòng tăng triển nếu mình quá ràng buộc vào tổ tiên mình. Tôi thiết nghĩ nếu mình cho rằng tổ tiên đang chú tâm nhìn mình, theo dõi và phán đoán từng động thái trong đời mình, thì điều này phần nào không lành mạnh. Tôi cho rằng nó có thể không lành mạnh cho chính linh hồn của tổ tiên, bởi vì nếu bạn có sự ràng buộc tình cảm mạnh mẽ thì cũng giống như bạn đang muốn giữ chân cha mẹ mình ở lại với mình, và điều này sẽ gây trở ngại cho cha mẹ rời bỏ thế gian mà tiến về những chân trời mới.  

Đã có khá nhiều sách viết – tôi không rõ là sách có bán tại Hàn quốc hay không, nhưng bên Mỹ chẳng hạn thì đã có – về những người đã có trải nghiệm cận tử. Liệu ở Hàn quốc có quan niệm này không? Đây là những người đã qua đời về mặt vật lý, tuy nhiên họ vẫn có trải nghiệm và tỉnh lại để kể lại câu chuyện của họ. Họ kể rằng khi thân xác qua đời, mỗi người sẽ vẫn sống tiếp, sẽ bước vào cõi bản sắc rồi thường sẽ có một thời gian để nghỉ ngơi và học hỏi trước khi tái đầu thai trong một kiếp mới. Hầu có thể bước tới và đi vào ánh sáng, bạn phải có khả năng buông bỏ lại kiếp sống đã qua của mình, bỏ lại xác thân vật lý cũng như gia đình và xã hội của mình. Nếu con cháu quá bám giữ và không buông ra cho cha mẹ hay ông bà mình ra đi, thì làm sao linh hồn ra đi được đây?    

Tôi thiết nghĩ nhiều linh hồn sẽ bị vướng lại và đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là những hồn không xác, là hồn không thể nào bước đi tiếp để mà tái đầu thai. Hồn thường bị kẹt lại trong cõi trung giới hay cõi tình cảm. Nó bị kẹt ở đó và nó có cảm giác tựa như con cháu của nó đang ngăn cản nó bước tới, và vì thế nó cố ảnh hưởng ngược lại trên con cháu. Tình thế trở thành thật phức tạp, thật khó khăn. Điều lành mạnh hơn nhiều là bạn cứ để yên cho linh hồn các vị ấy siêu thoát. Linh hồn sẽ tiếp tục bước tới, và chính bạn cũng tiếp tục bước tới và giải thoát khỏi quá khứ.

Thực phẩm và chế độ ăn uống

Hỏi: Thực phẩm và chế độ ăn uống quan trọng như thế nào, và ảnh hường cơ thể chúng ta như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2016. Đăng ngày 17/3/2017.

Điều mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã thấy rất nhiều lần trong nhiều năm từ các học trò tâm linh, là các con lớn lên trong một xã hội không đặc biệt biết đến nhiều vấn đề. Thực phẩm và việc ăn uống chỉ là một trong những vấn đề đó. Xong các con trải qua một giai đoạn thức tỉnh, các con biết đến đường tu tâm linh và khám phá nhiều thứ khác. Rồi các con bước vào giai đoạn chú ý rất nhiều đến một số khía cạnh của đường tu, và tất nhiên một trong những khía cạnh này là ăn uống những gì và thực phẩm ảnh hưởng cơ thể mình ra sao. Nhiều người đi qua giai đoạn tập trung vào cơ thể, tập thể dục, điều chỉnh chế độ ăn uống, làm này làm nọ. Tất cả những thứ đó đều hoàn toàn chính đáng và là một giai đoạn tự nhiên trên đường tu. Nếu con đang ở trong giai đoạn này, con nên chú tâm vào những gì trực giác con cảm hứng.

Vấn đề mà chúng tôi thấy liên tục nơi nhiều đệ tử khi họ thức tỉnh và tìm được một giáo lý cụ thể, là họ sử dụng giáo lý đó để quyết định, với tâm vỏ ngoài, là họ sẽ sống đời mình như thế nào. Chẳng hạn trong vấn đề ăn uống. Có nhiều giáo lý tâm linh khuyến cáo một chế độ ăn uống nhất định, và họ quyết định: “À, tôi sẽ theo cách ăn uống này.” Chuyện này chính đáng trong một thời gian, vì khi con là người tương đối mới trên đường đạo, con có nhu cầu thử nghiệm nhiều thứ và tích tụ kinh nghiệm để từ đó trau dồi tính phân biện.

Trong các tổ chức trước của chân sư thăng thiên, chúng tôi có đưa ra hướng dẫn về ăn uống. Hiện nay như con đã để ý, chúng tôi không còn làm vậy nữa. Lý do là vì trên đường tu, sẽ tới một điểm khi con cần hòa điệu với cơ thể của mình, cơ thể của chính cá nhân mình. Con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ theo cách ăn uống này, và tôi sẽ theo nó suốt đời vì thày tâm linh của tôi bảo như vậy.” Điều này có thể hữu ích trong một thời gian, nhưng sẽ đến lúc con cần nói: “Nhưng cơ thể đặc thù này đang cần gì vào điểm đặc thù này của hành trình tăng trưởng của tôi?”

Trong số các con, hầu như không có ai mà có thể bảo rằng, ví dụ, “Vào tuổi 20 tôi sẽ chọn một chế độ ăn uống và nó sẽ ích lợi cho tôi cho đến chết.” Gần như không ai có thể làm được vậy bởi vì khi con là đệ tử tâm linh, con nâng cao tâm thức mình nhanh đến nỗi sẽ tới lúc cơ thể của con cần đến một chế độ ăn uống khác, hầu thích ứng với sự phát triển tâm linh của con. Ở giai đoạn truyền pháp hiện tại, chúng tôi mong muốn các đệ tử sử dụng giáo lý của chúng tôi để cải sửa tâm lý và đạt đến sự hòa điệu nội tâm. Vậy thì con hãy sử dụng hòa điệu đó để quyết định cách ăn uống nào thích hợp nhất cho mình – hoặc con không cần gì cả, vì một số trong các con không cần một chế độ ăn uống nào đặc biệt.     

Ta muốn đề cập đến một đề tài mà chúng tôi đã có nói tới, là lòng căm thù Mẹ. Chúng tôi có nói là nhiều đệ tử tâm linh đã không hoàn toàn chấp nhận là mình đang hiện thân trong cõi vật lý. Con đã không làm hoà hoàn toàn với sự kiện là con đang trong hiện thân vật lý do chấn thương nhập đời, do cơn sốc khi chạm trán với những gì xảy ra trên hành tinh này. Chúng tôi hiểu rõ điều này, chúng tôi thông cảm nỗi khó khăn đó, nhưng khi con làm việc với chấn thương nhập đời của mình, làm việc với tâm lý mình, sẽ tới một điểm khi con cần làm hòa với xác thân vật lý của con. Con cần thực sự chấp nhận là con đang ở trong xác thân vật lý. Con cần nhận ra là con chỉ ở trong xác thân này một thời gian mà thôi. Thời gian có vẻ rất dài, nhưng ta có thể cam đoan với con là một khi con đứng ngoài xác thân và nhìn từ góc độ đó – ở ngoài xác thân, dù con vẫn chưa thăng thiên – thì con sẽ thấy một kiếp sống thật sự chỉ rất ngắn ngủi trong tiến trình liên tục là bản thể của con.

Con có thể nhìn bao quát hơn và nói: “Tôi chấp nhận là tôi đang ở trong cơ thể này, và chỉ một thời gian thôi. Nhưng trong khi tôi ở đây, tôi sẽ chấp nhận nó. Tôi sẽ dùng cơ thể mà tôi hiện có tốt nhất, vì tôi muốn tiến bộ tâm linh tối đa trong kiếp này, và tôi cũng muốn thị hiện sứ vụ thiêng liêng của tôi.” Thật là quan trọng khi con đạt tới điểm con hoàn toàn chấp nhận cơ thể của con. Và cũng quan trọng là con vượt xa hơn điểm đó, và con đạt tới mức con thực sự yêu thương cơ thể của mình. Liệu con có thể yêu thương mỗi phần trong cơ thể? Liệu con có thể yêu thương mỗi tế bào trong cơ thể của con?

Con yêu dấu, tại sao thời nay bệnh ung thư lại gia tăng? Đó là các tế bào đang tự hủy diệt, nhưng đó là vì tế bào không cảm thấy nó được thương yêu bởi người đó, bởi sinh thể đang cư ngụ trong thân xác. Con có nhu cầu thương yêu cơ thể của mình, và con yêu dấu, con hãy lưu ý, vấn đề không phải là con chỉ thương yêu nó khi nó hoàn toàn mạnh khỏe và không làm phiền con chút nào.

Thử thách thực sự là nếu con đau ốm, nếu con bị bệnh kinh niên. Nhưng con vẫn hãy cứ yêu cơ thể! Con yêu các tế bào, yêu các bộ phận, yêu thân xác này. Thật sự điều này quan trọng hơn chuyện ăn uống vật lý rất nhiều. Khi con tới mức chấp nhận và yêu thương cơ thể, con sẽ dễ hòa nhập hơn hẳn với nó. Khi con không chấp nhận cơ thể, nó gần như một cái gì mà con kháng cự lại, và con không thể nào hòa nhập với cái mà con kháng cự. Kháng cự và hòa nhập đối nghịch với nhau, cho nên khi con tới mức chấp nhận và yêu thương cơ thể, con sẽ có thể hòa điệu và hỏi: “Cơ thể của tôi đang cần gì?”

Ta cũng khuyến khích con cố gắng đạt tới điểm khi con nhận ra là, tất nhiên, trên thế giới có rất nhiều vấn đề có thể làm hại cơ thể của con, có rất nhiều loại thực phẩm, hóa chất và ô nhiễm có thể làm hại cơ thể, và con cần ý thức điều này phần nào. Con cần không dùng một số chất độc và một số chất ô nhiễm nếu con có thể tránh được. Ta muốn chỉ ra cho con là khi hoạt động ở mức công suất đáng lý bình thường, cơ thể vật lý thật sự là một dụng cụ giả kim (alchemical). Nó có khả năng hấp thụ một số chất mà không bị ảnh hưởng, vì nó có thể biến hóa những chất đó.

Điều ta muốn nói không phải là con không nên thận trọng. Ta không đang bảo con ăn bất cứ thứ gì con muốn, cho dù những nhà du già (yogi) ở một mức chứng đạt nào đó có thể ăn bất cứ gì mà vẫn không hại đến cơ thể. Ta không nói như vậy, mà ta nói: “Con hãy cẩn thận, nhưng con đừng cẩn thận quá đáng. Đừng cực đoan về chuyện ăn uống.” Trên hết, ta muốn con xem xét câu hỏi sau đây: “Con đang sống trong một vũ trụ thù địch hay một vũ trụ thân thiện?”

Con có thể nhìn vào hành tinh địa cầu, con có thể nhìn thấy tất cả những điểm bất toàn cuả nó, con có thể nhìn thấy vấn đề này hay ô nhiễm kia hay độc chất nọ, và con có thể rơi vào một tâm trạng cho rằng cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù địch của con. Nó đang tìm cách hãm hại con, nó cố tình muốn làm hại cơ thể của con.

Điều ta khuyến khích con nên làm là đi theo lời dạy của thày Saint Germain để chuyển hóa tâm thức mình như trong thuật giả kim, chấp nhận Thời đại Hoàng kim, chấp nhận cách Thời đại Hoàng kim sẽ thị hiện như thế nào. Con hãy tự hỏi: “Thời Hoàng kim có thể nào thị hiện trong một vũ trụ thù địch?” Không, nó cần một vũ trụ thân thiện. Rồi con có thể chuyển hóa giả kim trong tâm thức như thế này: “Tôi đang sống trong một vũ trụ thân thiện. Tôi đang sống trong cõi của Mẹ, và cõi Mẹ sẽ không làm hại tôi khi tôi cẩn trọng. Có thể có một số thức mà một số người ăn vào sẽ bị tổn hại, nhưng tôi không cần quan tâm quá đáng vì cơ thể của tôi có khả năng biến hóa thức ăn đó.”

Con thấy đó, con bước vào một trạng thái của tâm không dựa trên sợ hãi, không dựa trên ngờ vực, nhưng con bước vào một trạng thái sống thênh thang trong một vũ trụ thân thiện. Con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống, và con cho phép mình thật sự tận hưởng cuộc sống. Thậm chí con có thể bước vào một trạng thái nơi con bắt đầu có khả năng lượng định – khi con gặp một cách ăn uống hay một quan điểm về thức gì nên ăn hay không nên ăn – con có khả năng trụ nơi trái tim, hòa điệu với Bản thể của ta, và con có thể hỏi ta một câu rất đơn giản: “Mẹ Mary, liệu thức ăn này có tốt cho con hay không?” Nếu con hòa điệu, con sẽ biết được nó sẽ tác động con tốt như thế nào, con sẽ cảm thấy luân xa nơi tim con như dâng lên. Còn nếu không, con sẽ có một cảm giác chìm nghỉm nơi luân xa tim. Nếu một việc gì đó không có tác động nào thì con lo lắng làm gì?

Con cũng có thể đạt tới một điểm khi con hòa điệu với cơ thể đến độ con không cần đến tâm vỏ ngoài, con không cần một chương trình cứng nhắc để quyết định mình nên ăn gì hay không được ăn gì. Con chỉ giản dị hòa nhập: “Cơ thể tôi đang muốn ăn gì đây?” Như con cũng biết, nhiều phụ nữ khi mang thai, thèm ăn một số loại thức ăn. Trong một số trường hợp, đó có thể chỉ là một thèm khát thấp kém, nhưng trong đa số trường hợp, đó là vì người mẹ hòa điệu với linh hồn đứa con đang nhập vào. Linh hồn, để hội nhập nhiều hơn vào cõi vật lý, cần đến sự rung động của một số loại thực phẩm. Và điều này cũng xảy ra ở mọi lúc. Có những giai đọan khi vì một lý do mà con không nhất thiết biết rõ bằng tâm ý thức, con cần ăn một loại thực phẩm nào đó vì cơ thể con đang cần đến nó để phát triển tới một mức nào đó.

Con yêu dấu, con có hiểu không, nguyên nhân của sự lão hóa là do cơ thể không tuân thủ tiến trình tự nhiên. Chúng tôi có giảng là lý tưởng nhất, tiến trình tự nhiên cho tâm con, cho tâm hồn của con, phải là chính con nâng cao tâm thức của mình trong suốt đời mình. Trạng thái tự nhiên của cơ thể con cũng vậy, cơ thể luôn luôn cần được biến hóa vào trạng thái ngày càng cao hơn. Trong một thế giới lý tưởng – mà hiện nay việc thị hiện vẫn còn rất xa – nhưng trong một thế giới lý tưởng, cơ thể của con sẽ không lão hóa một chút nào. Không nhất thiết là nó sẽ trẻ ra, nhưng nó luôn luôn được biến hóa một cách tích cực suốt đời con, đồng bộ nhịp nhàng với sự nâng cao tâm thức của con.

Thay vào đó, mọi người lại đi tin vào ảo tưởng do sa nhân tạo ra là cơ thể bắt buộc phải già đi và phải chết do bệnh tật hay già yếu. Rất nhiều khi, con không ý thức được là cơ thể con không phải là một đơn vị cố định bắt buộc phải hư hỏng đi, mà cơ thể thực sự là một tiến trình có khả năng tăng trưởng không ngừng. Nó sẽ đi qua một số giai đoạn, và ở một giai đoạn nào đó, con có thể cần đến một loại thực phẩm hay một chế độ ăn uống nào đó. Cho nên con hãy cho nó thức ăn đó, thay vì dùng tâm bác bỏ chiều hướng của nó.

Con có thể đạt tới điểm khi con nhận ra là đôi khi, vì một lý do mà con không cần phân tích, con cảm thấy muốn ăn một thức nào đó. Rồi con ăn và cảm thấy thú vị. Điều gì khiến cho con thú vị rất ít khi làm hại cơ thể của con trừ khi nó chứa độc chất mà con không ý thức. Chúng tôi khuyến khích con nên tiếp cận chế độ ăn uống cho bớt cứng nhắc, trực giác nhiều hơn. Quá nhiều người nhìn chuyện ăn uống một cách trí thức, phân tích. Khi con nâng cao nhận biết, con có thể có được một cái nhìn trực giác về ăn uống, và điều này chúng tôi biết con có khả năng làm được khi con sử dụng các dụng cụ và giáo lý mà chúng tôi đã trao cho con.

Tại sao bệnh tâm thần ngày một gia tăng

Hỏi: Con có một câu hỏi về bệnh tâm thần trong thế giới hiện đại. Chúng ta sống trong một thế giới mà hậu quả của chứng trầm cảm và rối loại tâm lý là một căn bệnh vô hình ảnh hưởng rất nhiều người, và nó dường như đang xảy ra với những người ngày càng trẻ hơn. Y học hiện đại hình như chỉ làm được rất ít để giúp những người gặp vấn đề và mang triệu chứng. Con tự hỏi liệu có hy vọng nào cho những người mắc bệnh trầm cảm và tâm thần ngoại trừ phải lặng lẽ đau khổ suốt đời?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2016. Đăng ngày 21/2/2017.

Những chữ chủ yếu trong câu hỏi của con là “căn bệnh vô hình”. Nhưng con có thấy không, con yêu dấu, bệnh tâm thần chỉ vô hình bởi vì khoa học muốn nhìn mọi chuyện từ một góc độ duy vật. Từ góc độ của ta là đại diện cho Mẹ Thiêng liêng, bệnh tâm thần vô cùng hữu hình, và ta có thể dễ dàng thấy được khi nào hiện ra những mô thức trong các thể tình cảm, lý trí hay bản sắc đang tạo điều kiện cho người ta mắc bệnh tâm thần.

Đáng lý ra khoa học cũng có thể nhìn thấy được như thế nếu khoa học nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật và khám phá ra công nghệ đã sẵn có ở đó để nhìn thấy các thể cao hơn. Người ta có thể khiến cho những thể này hiện ra trên một màn ảnh máy tính, học hỏi cách chẩn bệnh và nhìn xem khi nào cảm thể có những vấn đề cần được chữa trị. Nhưng tất nhiên, muốn làm điều này thì khoa học phải vượt ra ngoài hệ tư tưởng máy móc cứ cho rằng mỗi hiệu ứng hữu hình đều phải có một nguyên nhân cơ học cần phát hiện, và phải dùng thuốc hóa học để thay đổi nguyên nhân cơ học đó hầu đạt được kết quả cơ học, vật lý trên cơ thể.  

Con yêu dấu, có nghĩa lý gì khi người ta bàn chuyện bệnh tâm thần mà chỉ thấy được giải pháp duy nhất là một nguyên liệu hoá học, vật chất? Điều này chẳng hợp lý chút nào. Cũng không hợp lý chút nào khi có một hình thức tâm lý học chối bỏ bất cứ điều gì vượt khỏi thế giới vật chất, và cứ cắm đầu tìm cách chữa trị một căn bệnh trong tâm tiềm thức duy bằng những phương tiện trong tâm ý thức. Rồi lại cố làm cho tiềm thức hiện ra, mà trong nhiều trường hợp là điều không thể thực hiện nếu trước đó đã không giải tỏa năng lượng trong các thể cảm xúc hay lý trí.    

Điều khiến cho ngày càng nhiều người hơn không thoát được bệnh tâm thần là sự bướng bỉnh của khoa học cứ cố bám mãi vào hệ thuyết duy vật. Sự gia tăng của bệnh tâm thần, sự gia tăng trong giới trẻ ngày càng bị nhiều hơn, là kết quả trực tiếp của hệ thuyết duy vật đã đi quá thời điểm hữu dụng của nó. Con cũng hiểu là khi con đi ngược trở lại thời Trung cổ mê tín dị đoan, thì quả thật tinh thần khoa học đã là một bước tiến đáng kể giúp cho con người vượt qua tình trạng trì trệ, đặc biệt là tại Âu châu. Nhưng điều đó đáng lý không được khiến cho tinh thần khoa học bị biến thành hệ tư tưởng duy vật ngày hôm nay, cũng đàn áp sự tiến bộ không kém gì hệ tư tưởng của giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ.      

Nhưng ngay cả thái độ đó cũng có thể dung thứ được trong một thời gian bởi vì nó cũng vẫn đem lại một số tíến bộ. Cho nên chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vẫn thường nói khi có tư tưởng mới hoặc xu hướng mới xuất hiện trong xã hội: “Thôi được, chúng tôi sẽ để cho con người thử nếm mùi trải nghiệm này một thời gian nữa”, và chúng tôi đã cố kềm giữ lại một số hậu quả do thái độ đó tạo ra, và nhờ vậy con người đã chứng kiến những tiến bộ công nghệ lớn lao. Nhưng tới một điểm thì chúng tôi phải nói: “Không, như vậy là đủ rồi, nhân loại đã có đủ thì giờ sống qua trải nghiệm cụ thể này là muốn ép uổng mọi thứ vào trong cái quan điểm duy vật đòi hỏi mọi vấn đề phải có một giải pháp cơ học. Đã đến lúc người ta phải hiểu ra là thái độ đó có giới hạn, đã đến lúc phải bắt đầu nhìn xem bước kế tiếp là gì. Và nếu họ không chịu bước tới, chúng tôi sẽ không thể kềm giữ hậu quả mãi mãi.”      

Và như vậy, những hậu quả sẽ bắt đầu biểu hiện phần nào qua điều mà con chứng kiến là sự tăng gia trong độ trầm trọng và số người mắc bệnh tâm thần. Và con sẽ thấy điều này đặc biệt xảy ra ở những vùng phát triển trên địa cầu, vì đó là nơi có những con người đầu thai đã đạt tới một mức tâm thức khiến họ không còn đi tìm thách thức trong thế giới vật chất hay trong cuộc sống kiếm kế sinh nhai và sống còn nữa. Thay vào đó, thách thức chủ yếu của họ bây giờ là khởi sự làm việc trên tâm lý họ vì họ nay có dư thì giờ rảnh rỗi để cải sửa tâm lý.         

Nhưng vì không ai trao cho họ sự hiểu biết này suốt những năm tháng lớn lên, họ không đang tự nguyện cải sửa tâm lý của họ. Có nghĩa là con sẽ chứng kiến những biểu hiện của bệnh tâm thần bắt buộc họ phải có biện pháp gì đó cho tâm lý họ. Tất nhiên họ đã không tự nguyện cải sửa tâm lý họ do ý thức hệ duy vật, và bây giờ chính ý thức hệ này đang ngăn cản họ giải quyết bệnh tâm thần của họ. 

Ta hoàn toàn hiểu được là điều này gây ra muôn vàn đau khổ. Ta sẵn lòng giúp đỡ mọi người giảm dịu đau khổ này, nhưng ta không thể làm được nếu họ không chịu nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật, nhận lấy trách nhiệm cho bản thân và nhìn nhận mình là những sinh thể tâm linh. Tất nhiên là mọi loại vấn đề tâm lý đều có hy vọng giải quyết được và đó là mục đích những giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng và những dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã ban ra.

Chúng tôi không hề nói là các giáo lý và dụng cụ cùng các kỹ thuật mà chúng tôi đã phổ biến qua trung gian sứ giả này là cách duy nhất để đối phó với vấn nạn này. Còn nhiều thứ khác là những phương thức mà chúng tôi đã đưa ra, nhưng còn rất nhiều điều nữa vẫn đang chờ dịp thuận tiện khi ngày càng có nhiều người khởi sự nhìn xa hơn mô hình duy vật. Nếu mọi chuyện diễn ra như ta trù liệu, sẽ cần đến hai hay ba thập niên nữa, và khi đó bệnh tâm thần sẽ trở thành một chuyện hiếm hoi. Nhưng nó sẽ chỉ hiếm hoi, tất nhiên, khi hầu hết mọi người được dạy dỗ ngay từ khi còn nhỏ để nhìn cuộc sống như một tiến trình liên tục cải sửa tâm lý mình. Miễn là mọi người đều lo cải sửa tâm lý thì cuộc khủng hoảng mà con gọi ngày nay là bệnh tâm thần sẽ không còn nhu cầu xuất hiện nữa.

Trong thực tế, đó không phải là bệnh tâm thần. Phần lớn những gì ngày nay con coi là bệnh tâm thần là vì con có cái nhìn méo mó về bệnh tật. Con nghĩ là người ta có một trạng thái bình thường, và khi có điều gì xảy ra ngoài bình thường, con coi đó là một bệnh tật cần phải giao chiến với nó. Nhưng kỳ thực, rất nhiều chứng bệnh thể xác, và chắc chắn đa số những bệnh tâm thần, đều là dấu hiệu nói cho con biết là đã tới lúc con phải thay đổi tâm thức của con. Vì con không thay đổi, càng ngày con càng nhận được lời nhắc nhở nghiêm khắc hơn là đã đến lúc con phải bước lên một mức tâm thức cao hơn.  

Đó thực sự là một cơ chế mà nhiều người đã tự mình tạo ra, để nếu họ quên mất chuyện phát triển tâm linh khi họ đầu thai, thì họ muốn có một cơ chế để nhắc nhở về nhu cầu theo đuổi đường tu. Điều con thấy được là rất nhiều người trẻ đã tham gia vào cơ chế này, phần nào vì họ muốn tinh tấn bản thân, phần khác vì họ mong muốn thúc đẩy sư thay đổi trong xã hội hầu xã hội từ bỏ hệ thuyết duy vật. Một cách cho điều này xảy ra là bệnh tâm thần sẽ lan tràn thành dịch bệnh rộng lớn đến độ xã hội cuối cùng phải thấy rõ là không thể đối phó với vấn nạn này mà vẫn duy trì mô hình duy vật. Và như vậy điều tuyệt đối cần thiết là xã hội phải tìm kiếm một giải pháp mới lạ.     

Và đây cũng là một điểm chúng ta đã từng bàn đến: Sự tiến bộ có thể xảy ra qua đổ vỡ khi con người phải đối diện với một cuộc khủng hoảng bắt buộc mình phải tìm cách thay đổi. Hoặc tiến bộ cũng có thể xảy ra một cách tự nguyện khi ngày càng có nhiều người thức tỉnh và khởi sự làm gì đó để sửa đổi hiện trạng. Chính các con, trong nhiều trường hợp, cũng là ví dụ những người đã từng có vấn đề tâm lý, nhưng các con đã đủ can đảm để sử dụng đường tu tâm linh, sử dụng các giáo lý tâm linh, để giải tỏa tâm lý. Các con có thể là những tấm gương và những người thày cho người khác, thậm chí còn có thể phụng sự một cách trực tiếp như những nhà trị liệu hầu giúp cho người khác đối phó với những vấn đề này. Một số các con cũng có thể giúp cho xã hội hiểu biết hơn về nhu cầu phải chuyển hướng, rời khỏi hệ tư tưởng duy vật và tìm kiếm một cách tiếp cận hoàn toàn mới.   

Giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ

Hỏi: Con tò mò muốn khám phá chấn thương nhập đời đầu tiên của con là gì, và như một trong các chân sư có đề cập hồi nãy, đôi khi có điều gì đó xảy ra trên thế giới làm mình xao động. Riêng con, hình như tình hình tại Do thái – cách đối xử đối với người Palestine – khiến con chú ý nhiều hơn hầu hết mọi vấn đề khác. Khi các chân sư trình bày về việc trở ngược lại chấn thương nhập đời và nhìn lại nó, nhưng giữa việc ở đây và trở lại với chấn thương nhập đời, con cần tìm lòng can đảm để đối diện với nó. Lý tưởng nhất con nên đi theo quy trình nào vì con muốn giải quyết chấn thương nhập đời đó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2016. Đăng ngày 11/2/2017.

Đây là một tiến trình tế nhị vì đối với đa số các con, chấn thương nhập đời đã xảy ra rất lâu trước đây. Nó cũng bị chôn vùi tận đáy tiềm thức của con vì nỗi đau quá dữ dội đến nỗi con phải che phủ nó dưới hết lớp này tới lớp khác.

Có một loại cơ chế kỳ lạ xảy ra khi con phải đối diện với nỗi đau toàn diện của chấn thương nhập đời. Nó giống như con tự nhủ: “Tôi không bao giờ muốn trải qua nỗi đau toàn diện như thế này nữa.” Bỗng nhiên điều này có nghĩa là bất kỳ nỗi đau nào nhẹ hơn một nỗi đau toàn diện đều có thể chịu được so với nỗi đau toàn diện. Và con nghĩ: “Tôi thà kinh qua nỗi đau này còn hơn là nỗi đau nguyên thủy.”

Điều này có nghĩa là có thể có nhiều lớp chấn thương khác nhẹ hơn đang che phủ chấn thương nhập đời. Tất nhiên, tiến trình thật sự để làm điều này là bước theo đường tu tâm linh và sử dụng những dụng cụ và những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra. Con có một số bài cầu thỉnh được thảo ra đặc thù để làm việc này. Khuôn Hàn gắn của Bài ca Sự sống (The Song of Life Healing Matrix) cũng rất hiệu nghiệm.

Như ta có nói, các sa nhân rất tài giỏi bắt sóng bản thân con để thấy đâu là trường hợp xấu nhất mà con có thể hình dung trên trái đất. Chẳng hạn, điều gì sẽ mang lại cho con cảm giác bất công lớn nhất, điều gì không được quyền xảy ra và không một ai phải chịu đựng.

Nếu trên thế giới có một tình trạng nào khiến con phản ứng thật mạnh mẽ, thì con cần nhận ra là chấn thương nhập đời nguyên thủy của con, tất nhiên, không do tình trạng này tạo ra, chẳng hạn giữa người Do thái và người Palestine, là một tình trạng của thế giới hiện đại. Chấn thương đó có thể là do một tình trạng tương tự trong quá khứ xa xôi, chẳng hạn như khi con chứng kiến một nhóm người bị đàn áp thô bạo.

Sau đó con cần khám phá ra chính xác điều gì là thành tố tâm lý đã làm con xao động. Rồi con tìm xem khía cạnh tổng quát nhất trong đó. Con cần lánh xa những chi tiết quá cụ thể, vì nếu con tập trung vào chi tiết cụ thể (và nghĩ rằng con phải đi giải quyết tình huống vỏ ngoài đang xảy ra ngày hôm nay) thì con sẽ không phát hiện được chấn thương nhập đời.

Chấn thương nhập đời đã xảy ra quá lâu trước đây trong một hoàn cảnh khác. Con cần nhìn xa hơn sự kiện cụ thể và khám phá cơ chế phổ quát trong tâm lý của con đã khiến con phản ứng lại. Đó đã là chấn thương tồi tệ nhất mà con có thể trải nghiệm, là chứng kiến một tình thế như vậy mà cảm thấy mình bất lực không làm được gì.

Rất nhiều khi, chấn thương hiện ra là vì con đã đến địa cầu với ý định cao thượng nhất muốn tạo thay đổi tích cực cho địa cầu. Khi con trải nghiệm tất cả những chuyện trên hành tinh này, con rất dễ bị kéo hút và tập trung vào những điểm tiêu cực, và con tưởng con có thể tạo thay đổi tích cực bằng cách loại bỏ tiêu cực, rất có thể là giao chiến với những kẻ đang tạo ra tiêu cực.

Trong nhiều trường hợp, điều xảy ra ở ban đầu là con không tính giao tranh với ai hết. Con chỉ tính bảo vệ những người mà con thấy đang phải chịu sự bất công. Nhưng rồi các sa nhân rất tài tình đặt con vào một tình thế nơi chúng tạo ra sự bất công tối đa dưới mắt con. Rồi con cảm thấy mình hoàn toàn bó tay bất lực. Con gần như cảm thấy chuyện xảy ra là lỗi của con, rằng con đã có thể ngăn cản được hay đáng lý con đã phải ra tay ngăn cản.

Đây là điều đem lại nỗi đau lớn nhất cho con: Một sự thể đã xảy ra và con bó tay không làm gì được. Đó là lúc con cần thực sự làm việc để nhận ra quyền tự quyết, nhận ra loại hành tinh nơi con đang sinh sống. Con cũng cần nhận ra là điều đã gây ra chấn thương nhập đời chính là phản ứng của con, nhưng con đã phản ứng lại một tình thế do sa nhân cố tình tạo ra để phá hỏng mục đích đến địa cầu của con.

Cho nên con cần cương quyết không để chúng làm chuyện đó, không để chúng thành công. Con sẵn sàng xem xét chấn thương nhập đời và tìm xem con đã có thể phản ứng cách nào khác hay không. Ta không nói là con đã có thể phản ứng cách khác vào lúc đó – con đã không thể, và vì vậy con đã phản ứng như vậy. Nhưng ngày hôm nay, với kinh nghiệm mà con đã thu thập trên hành tinh này, với sự tinh tấn trong tâm thức mà con đã gặt hái, con có thể phản ứng một cách khác.

Đó là tại sao con có thể cho phép con trải nghiệm lại tình huống đó. Giờ đây, con chọn lựa trong ý thức một cách phản ứng khác sẽ không gây chấn thương cho con, vì con thấy được đây chỉ là một khía cạnh trong vô vàn khía cạnh khác của quyền tự quyết đang trải bày. Điều này đang diễn ra ở mọi nơi và mọi lúc trên hành tinh này. Con không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh, bởi vì nếu con cố giải quyết, con sẽ phát điên. Đây là điều con phải nhìn nhận.

Tất cả chúng tôi, các chân sư, đều đã thăng thiên vì tới một điểm, chúng tôi đã nhận ra mình không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh này. Thật ra chúng tôi không phải giải quyết bất kỳ vấn đề nào xuất phát từ tiến trình trải bày quyền tự quyết. Vì vậy, chúng tôi nhìn nhận là tất cả những gì mình có thể làm được là nâng cao tâm thức của mình và làm gương. Sau đó, chúng tôi tới điểm nhận ra là đã đến lúc chúng tôi có thể bước lên một mức phụng sự cao hơn nữa, là phụng sự từ cõi thăng thiên (ta không bảo là con không thể phụng sự khi còn đầu thai).

Con thăng thiên khi con đạt tới điểm nhận ra là con không còn muốn phụng sự bằng cách là người hiện thân. Con muốn phụng sự hết sức mình từ cõi thăng thiên. Và đó là khi con thăng thiên, nhưng tất nhiên, con không thể thăng thiên trước khi con giải quyết chấn thương nhập đời. Điều này thực sự có nghĩa là con phải có khả năng nhìn vào tình trạng đó, hay một tình trạng tương tự đang diễn ra ngày nay trên thế giới, và con hoàn toàn không có phản ứng nào.

Con tự nhủ: “Tôi đã không tạo ra nó, tôi đã không thể ngăn cản nó, tôi không ở đây để giải quyết nó.” Con thấy rõ đó là quyền tự quyết đang trải bày ra, và ngay cả những người có vẻ là nạn nhân cũng vẫn trải bày quyền tự quyết của mình, bởi vì nếu không, chuyện đó đã không thể xảy đến cho họ. Khi con thấy được điều này, con có thể quyết định là con không còn muốn bị ràng buộc bởi chuyện đó nữa. Con chỉ được tự do khỏi nó khi con không còn mong muốn giải quyết vấn đề đó nữa.

Rồi khi con thăng thiên, con có nguyên một loạt những chọn lựa khác nhau để gửi năng lượng của ánh sáng xuống hành tinh và làm việc với loài người đang đầu thai. Lúc đó con có thể làm một cái gì, không phải giải quyết vấn đề đặc thù đó, mà làm một cái gì với tâm thức nằm ở đằng sau, hầu con nâng cao tâm thức tập thể để những loại thị hiện đó không thể tiếp tục xảy ra.

Ta có thể nói với con là rất nhiều người trong số các con – đa số các con – đã hiện thân trên trái đất rất, rất lâu. Con có thể nhìn vào thế giới ngày nay và thấy một số điều kiện vô cùng khủng khiếp. Đối với các con đã hiện thân từ một hai triệu năm trên hành tinh này, ta có thể cam đoan là trong những thời đại trước (mà lịch sử chính thức đã lãng quên từ lâu), con đã chứng kiến những điều kiện còn tồi tệ hơn gấp bội hiện nay.

Điều này có nghĩa là những gì đã gây ra chấn thương nhập đời nguyên thủy của con còn tồi tệ gấp bội những gì con đang chứng kiến hôm nay. Hành tinh đã có tiến bộ, có nghĩa là con có thể tới mức nhận ra là con không phải giải quýêt chính cái vấn đề đã gây chấn thương nhập đời cho con. Vì vậy, con không phải giải quyết mọi vấn đề tương tự đã khiến con có phản ứng. Con không phải giải quyết mọi vấn đề khiến con phản ứng. Kỳ thực, con không bao giở giải quyết được vấn đề gì bằng cách phản ứng lại. Con chỉ có thể làm một cái gì đó khi con không còn phản ứng.

Thật là một điều tự nhiên, gần như không thể tránh được, khi con xuống đầu thai và trải nghiệm các điều kiện trên trái đất, và con phản ứng lại lúc ban đầu. Mọi người trong chúng ta đều đã từng làm y như vậy khi xuống đầu thai, kể cả Giê-su. Không một ai từng hiện thân ở đây mà đã không phản ứng lại các điều kiện đó vì chúng thật là khủng khiếp. Tiến trình thăng thiên là khi con đạt tới điểm nơi con không còn cho phép bất cứ gì trên địa cầu quy định con là gì hay phải phản ứng lại điều gì.

Quá khắt khe với bản thân

Hỏi: Nếu mình quá khe khắt với bản thân, nếu mình tự phê phán quá mức, liệu mình có phải hoá giải sự tự phán này nếu mình muốn tiến bước? 


Trả lời của ông Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan. Đăng ngày 14/12/16.

Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều quá khắt khe với chính mình vì chúng ta đã lớn lên như vậy. Hãy nhìn vào hình ảnh Thượng đế mà chúng ta đã được dạy dỗ, một vị quan tòa ở trên trời, và nếu chúng ta phạm phải lỗi lầm, chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục mãi mãi. Rồi chúng ta bị trừng phạt và phải chịu đau khổ đời đời.

Rất nhiều người đã được nuôi lớn trong hình ảnh đó. Ngay cả khi không bị vậy thì cũng có một tâm thức tập thể khiến chúng ta tự phán xét gay gắt khi mình phạm lỗi. Khi tôi mới cất bước trên con đường tâm linh và ngay cả khi tôi đã tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên, tâm thức này vẫn bám theo tôi. Tôi mường tượng các chân sư giống như Thượng đế nóng giận trên trời. Các thày không nóng giận tuy nhiên dường như các thày vẫn phán xét. Tôi phải toàn hảo. Tôi phải làm mọi công tác vỏ ngoài cho tươm tất, và trong một tổ chức mà tôi là thành viên, người ta đặt trọng tâm to lớn trên những công tác vỏ ngoài, như phải mặc đúng loại quần áo nào, không được lái xe màu đỏ, tất cả những chuyện vỏ ngoài như thế. 

Tôi đã nhận ra là thử thách thực sự trên đường tâm linh là mình tự chấp nhận mình là phần nối dài của Thượng đế. Làm thế nào chấp nhận được điều này? Bạn tự chấp nhận bằng cách nhận ra là Thượng đế thương yêu bạn vô điều kiện. Thế gian thì bảo rằng có thể có một Thượng đế và Thượng đế này có thể thương yêu bạn nếu bạn hội đủ một số điều kiện nào đó. Đó thật là một năng lượng ác ý và hăm doạ của thế gian muốn chúng ta phải tin vào điều đó. Điều này cũng gắn liền với chủ đề của hội nghị về phản tình thương, bởi vì thế gian nhất định muốn chúng ta tin là chúng ta phải hội đủ một số điều kiện.

Đó là lý do tôi nghĩ mình hay tự phán xét – vì chúng ta cho rằng mình không toàn hảo, và nếu mình không hội được những điều kịên đó, Thượng đế sẽ không còn thương yêu mình nữa, hoặc bất kỳ biện pháp nào mà mình có thể tưởng tượng. Tôi nghĩ thử thách lớn nhất trên đường tu là mình thực sự chấp nhận tình thương vô điều kiện. Tôi đã từng chứng nghiệm điều này một lần, và tôi đã viết lại câu chuyện đó. Một lần tôi chứng nghiệm được sự hiện diện của Thượng đế, và có lẽ tôi mất thêm ba năm trời để nghiền ngẫm và thể nhập chứng nghiệm đó. Cuối cùng một hôm, một ý nghĩ bỗng lóe ra trong tôi: Nếu tình thương Thượng đế vô điều kiện thì tôi phải hội những điều kiện gì để xứng đáng với tình yêu đó? Câu trả lời thật hiển nhiên – không thể nào có điều kiện gì mà tôi phải hội được hầu nhận được tình thương vô điều kiện. 

Chỉ có một điều kiện thôi, đó là tôi phải đón nhận tình thương đó. Tôi phải chấp nhận tình thương đó. Và tôi phải nhìn lại chính mình và tự hỏi: “Tin tưởng nào trong tôi đang ngăn cản tôi đón nhận món quà mà Thượng đế đang cho tôi một cách vô điều kiện bất cứ lúc nào?” Tôi thiển nghĩ, cho tới khi nào mình chưa thấy được điều này một cách ý thức, chưa thấy được sự lừa dối và ngụy biện của thái độ phán xét thì mình chưa được giải thoát khỏi nó. Mình sẽ vẫn tiếp tục đuổi theo đống vàng ở cuối cầu vòng, và càng đuổi thì cầu vòng sẽ càng chạy đi xa hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ tới được cho đến khi chúng ta nhận ra là cuộc chạy đuổi này hoàn toàn vô ích.  

Làm thế nào biết các chân sư thăng thiên có thật

Hỏi: Nếu con được thấy các chân sư trong hiện thân vật lý – nếu có thể nói như vậy – thì con sẽ an tâm là các thày có thật, nhưng điều này cũng sẽ cản trở sự thật rằng chúng ta không chỉ là con người vật lý. Cho nên con phải vượt qua giác quan vỏ ngoài. Nhưng con sẽ an tâm biết mấy nếu con có thể nhìn thấy các thày tận mắt. Như con đây, con không nhìn thấy các thày. Con luôn tự hỏi là mọi người khác nhìn các thày như thế nào, và trong hội nghị này con nhất định sẽ mở mắt ra thật to để mà nhìn, nếu có thể nói như vậy.


Trả lời của ông Kim Michaels tại một hội nghị ở Hòa Lan. Đăng ngày 7/12/2016.

Vâng, tôi hiểu điều bạn nói. Khi bạn trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, bạn đang đi ngược lại tâm thức tập thể vốn phủ nhận các chân sư thăng thiên hay cõi tâm linh là thực. Hoặc cũng có thể họ không phủ nhận nhưng họ bảo – như Giáo hội Công giáo chẳng hạn: “Người bình thường không thể nào có trải nghiệm đó. Chỉ có các tu sĩ và những bậc thật đặc biệt mới có thể nhìn thấy trực tiếp, cho nên bạn chỉ cần tin theo những gì chúng tôi nói với bạn.” Và đó là điều chúng ta đã lớn lên và được dạy dỗ.

Bạn đang thực sự đi ngược lại tâm thức tập thể, cho nên tất nhiên, sẽ rất tuyệt nếu bạn nhận được một sự chứng thực nào đó. Riêng tôi cảm thấy chính mình đã nhận được rất nhiều sự chứng thực là các chân sư thăng thiên có thật, nhưng không ở tầng cấp giác quan vật lý. Tôi nghĩ có lẽ hầu hết các bạn ở đây cũng đã nhận được một lời xác nhận nội tâm vượt khỏi giác quan vật lý mà các bạn vẫn biết rõ là thực. Tôi cảm thấy đây là một phần quan trọng trong giai đoạn của địa cầu mà chúng ta đang sống qua.

Tôi nghĩ có thể sẽ đến một thời trong tương lai khi các thày sẽ hiện thân vật lý hay có thể nhìn thấy trong cõi vật lý. Tuy nhiên, điều này sẽ xảy ra một khi hầu hết mọi người không còn cần đến nó nữa vì tâm thức loài người đã được nâng cao. Thử thách ngay bây giờ cho chúng ta những người tâm linh là chúng ta cần chứng tỏ là mình sẵn lòng đi xa hơn những loại chứng cớ vật lý, đi xa hơn giác quan vật lý mà vẫn chấp nhận được là có điều gì rất thực.

Điều này khiến tôi nhớ lại một câu chuyện cũng na ná như vậy. Tại Đan Mạch có một quyển sách vừa được phát hành vào mùa xuân năm nay, tựa đề là: “Tôi đã gặp Giê-su.” Đây là một phụ nữ Đan Mạch, một nhà báo. Bà đã lớn lên trong một gia đình theo chủ nghĩa Mác phủ nhận mọi điều tâm linh. Bà chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ và cũng chưa bao giờ để ý đến tâm linh. Rồi trong một chuyến công tác tại Tây Ban Nha, bà bước vào một nhà thờ cổ, và đột nhiên bà thấy Giê-su hiện ra đứng ngay bên cạnh mình. Đó là một khải tượng. Giê-su không đang ở đó trong vật lý, nhưng thày rất thực. Như thể bà đang nhìn thấy thày tận mắt, giống như một cửa sổ mở ra và bà nhìn thấy thày đứng đó trên đất Israel trong trang phục của thời đó. Giê-su nói chuyện với bà bằng tiếng Aramaic. Chỉ sau này bà mới biết đó là tiếng Aramaic, và tuy bà không hiểu được ngôn ngữ nhưng bà vẫn nắm được những gì thày cố truyền đạt cho bà.

Mặc dù bà đã được nuôi dạy để chối bỏ mọi thứ tâm linh, nhưng bà không thể phủ nhận những gì mắt bà nhìn thấy. Trong mấy năm đầu, bà không thổ lộ với ai về trải nghiệm của mình. Là một ký giả, bà đi khắp mọi nơi phỏng vấn tất cả các chuyên gia về hóa học não bộ hay cách vận hành của bộ óc. Mặc dù bà không nói rõ trong sách của bà, cá nhân tôi cảm thấy là bà chỉ muốn tìm được ai đó sẽ nói với bà: “Ồ, đó chỉ hoàn toàn là một ảo giác. Hãy bỏ qua chuyện đó đi.” Nhưng bà ngạc nhiên không thấy ai nói với bà như vậy.

Mọi người đều nói là người ta chưa hiểu hết mọi điều về não lẫn về tâm. Một số còn bảo rằng trong tâm phải có nhiều hơn là những gì người ta có thể giải thích về bộ não vật lý. Dường như ai ai cũng đưa đẩy tới mức rốt cuộc bà nói: “Thôi được rồi, tôi phải viết trải nghiệm của tôi thành sách.” Thế là bà viết sách và được một nhà xuất bản nổi tiếng phát hành. Sách trở thành một cuốn bán chạy nhất.

Tôi thấy câu chuyện này rất thú vị ở chỗ nó mang cùng động lực như câu hỏi của bạn. Bà ấy đã có một trải nghiệm nội tâm nhưng nó quá thực đến độ bà không thể phủ nhận được. Bà đã cả gan đứng trước mặt tất cả những người hoài nghi. Bà chờ đợi là người ta sẽ tấn công mình, nhưng bà ngạc nhiên khi không ai tấn công. Tôi nghĩ lý do là vì bà quá thành thật về trải nghiệm của bà. Bà không cố giảng đạo cho bất cứ ai. Bà không nói gì về ý nghĩa trải nghiệm của bà, mà bà chỉ nói: “Tôi đã có trải nghiệm này và tôi không thể phủ nhận nó. Nó đã ảnh hưởng tôi như thế này và tôi đã cảm thấy như thế đó.” Bà mô tả nguyên quá trình mà bà kinh qua.

Tôi cho rằng, theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là những gì tất cả chúng ta đang kinh qua. Chúng ta ở đây để chứng tỏ cho người khác. Chúng ta không nhất thiết ở đây để thu hút, lôi kéo người khác vào giáo lý của chân sư thăng thiên hay vào một nhóm, một triết lý, một vị thày hay bất cứ gì khác. Nhưng chúng ta ở đây để làm chứng cho sự thật rằng vượt quá cõi vật lý có một cái gì rất thực, một cái gì quý báu đối với chúng ta.

Chúng ta có đang sống trong một thời đại đen tối về tình cảm?

Hỏi: Người ta nói là chúng ta đang sống trong thời đại đen tối nhất. Nhiều người có vấn đề rất lớn khi đương đầu với cảm xúc của mình, đem lại biết bao đau khổ trong cuộc sống. Rất nhiều người trong chúng ta đã không được dạy dỗ đúng đắn về mặt cảm xúc. Xin các chân sư thăng thiên nói về cách các thày hình dung vấn đề này trong tương lai sẽ ra sao? Sẽ có chăng những thay đổi cải thiện được tình thế? Và làm sao cho những thay đổi đó xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 28/11/2016.

Về câu hỏi thay đổi sẽ xảy đến như thế nào, con yêu dấu, ta chì có ba chữ cho con: ĐỌC BÀI THỈNH [Tiếng cười trong cử tọa]. Thật sự, những dụng cụ mà ta đã ban cho con, ít ra là rất nhiều trong số đó, được thảo ra để giúp con người thăng vượt những khuôn nếp cảm xúc cũ. Tất nhiên, các chân sư sẽ tiếp tục ban truyền những dụng cụ như vậy một khi tâm thức được nâng cao hơn và con người có khả năng nắm bắt lấy.

Đúng là con có thể nói hành tinh đang ở trong một thời đại đen tối về mặt tình cảm, nhưng nguyên do không phải vì đó là một thời đại đen tối. Nguyên do là vì càng ngày càng có nhiều người có khả năng làm được điều mà thày Saint Germain chủ trương – tách ra khỏi cõi vật lý – và họ đang bắt đầu làm công việc này trên ba thể cao của tâm phàm. Có những người đang làm việc trên cả ba thể cao đó, và bởi vì cảm thể là thể ở ngay trên thể vật lý, hiện nay có rất nhiều người đang ở đó. Số đông những người này không phải là người tâm linh một cách công khai, và họ đang khởi sự cải sửa cảm xúc của mình.

Phần nào họ bị buộc phải làm vậy do những biến lọan, xáo trộn mà sa nhân đã gây ra. Và tất nhiên, sa nhân đang cố tạo ra một tình trạng khiến cho những ai đang khởi sự giải phóng bản thân khỏi cõi vật lý, giải phóng khỏi trọng tâm vào thế giới vật lý, bị kẹt lại ở cõi tình cảm. Những người này sẽ bị tổn thương, tình cảm của họ sẽ bị phân tán, đến độ họ không thể với lên cao hơn mức cảm thể, do họ cứ chạy lòng vòng, chạy quanh quẩn trong cảm xúc của mình mà không tài nào thoát ra được. Đây là lý do tại sao các bài thỉnh, bài chú và các dụng cụ khác của chân sư, và ngay cả các bài truyền đọc, đã được thiết kế để giúp mọi người thoát khỏi những vòng tròn kín mít đó, những chu kỳ luẩn quẩn đó, những vòng xoáy ốc kéo con người đi xuống trong cõi tình cảm. Chắc chắn sự thể này sẽ thay đổi trong tương lai, và thay đổi đã bắt đầu.

Mặc dù ta hiểu ý con nói là con người đang sống trong một thời đại đen tối về mặt tình cảm, nhưng đây không thật là một thời đại đen tối. Kỳ thực, đây là một chỉ dấu tích cực cho thấy càng ngày càng có nhiều người khởi sự thanh lọc cảm thể của mình cũng như cảm thể của hành tinh. Cái có vẻ là xáo trộn hay hỗn loạn từ một góc nhìn, thật ra là một dấu hiệu tiến bộ. Con cũng hiểu là trước khi tiến bộ có thể xảy ra, những khuôn đúc cũ phải được phá vỡ, khuấy động, thách đố hay thăng vượt, và điều này sẽ tạo ra một lượng xao động nào đó.

Trong chính đời mình và trong nhiều trường hợp, các con hẳn đã trải nghiệm mình sống một cuộc đời tương đối thoải mái trước khi tìm thấy con đường tâm linh, rồi khi con tìm thấy đường tu, đột nhiên mọi chuyện trong đời như bị xao động. Quan hệ tan vỡ, mất việc, đau ốm, bị trộm xe, hay bất cứ chuyện gì khác… tất cả những biến cố đó có thể xảy ra là vì cái khuôn cũ phải bị đập vỡ để con có thể vươn lên cao hơn. Con cũng hiểu là tự ngã luôn luôn tìm cách kiểm soát và duy trì một cảm giác thoải mái nào đó. Đôi khi ngay cả một sự xáo trộn vô cùng khó chịu cũng vẫn có thể, trong một nghĩa nào đó, là một ơn phúc ẩn mặt. Nó giúp cho con tự giải phóng khỏi ý tưởng rằng tự ngã phải luôn luôn nắm quyền kiểm soát, rằng chính con phải luôn luôn nắm quyền kiểm soát, hoặc cuộc sống phải luôn luôn thoải mái, an toàn. Trước khi con có thể bước lên cao hơn trên đường tu, con phải đạt đến mức sẵn lòng không thoải mái trong ngắn hạn để nhận được lợi lạc trong dài hạn.

Tất nhiên, một khi con thành công và bước lên cao hơn, như ta đã cố giải thích qua các bài truyền đọc ở đây, con có khả năng đạt được an bình. Con có khả năng không bị dính mắc vào tinh trạng hỗn tạp bên ngoài. Con có khả năng không dính mắc vào chính phàm ngã của con. Con có khả năng thương yêu phàm ngã đó, thậm chí thương yêu cả các điều kiện ngoại cảnh cho dù là gì đi nữa. Ở những mức cao hơn của đường tu, điều này sẽ đem lại an bình nội tâm cho con. Nhưng trước khi con đạt đến mức đó, đúng vậy, con sẽ gặp nhiều khó khăn. Sẽ khó khăn dù con là người tâm linh hay là một người không tâm linh bị buộc phải đương đầu với cảm xúc của mình, Các thày có lòng từ bi bao la đối với nỗi khó khăn đó, nhưng với mức tâm thức hiện thời thì không có cách nào khác hơn là để cho hỗn loạn này phải xảy ra.

Tất cả các loài động vật rồi sẽ biến mất

Hỏi: Con có câu hỏi về thiên nhiên. Với Thời Hoàng kim sẽ thị hiện và tâm thức được nâng cao, liệu sẽ có thay đổi gì không trong thiên nhiên và thế giới động vật? Chẳng hạn, con luôn luôn thắc mắc tại sao các loài rắn độc hay bọ cạp lại hiện hữu.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 26/11/2016.

Đúng vậy, sẽ có những thay đổi lớn lao trong thiên nhiên cũng như trong thế giới động vật. Một lần nữa như thày Saint Germain có nhắc, chúng tôi phần nào cần để ý đến – và đây là minh triết của Mẹ – mức tâm thức hiện thời của con người, để ý đến những gì con người có khả năng chấp nhận cũng như khả năng tách ra khỏi các điều kiện hiện thời. Con hiểu được sự cân bằng tế nhị mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, phải đối mặt khi trả lời câu hỏi này.

Con người đã tạo ra các điều kiện hiện hữu trên địa cầu qua chính tâm thức của mình, nhưng vì họ không ý thức điều này, vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức vô cùng dày đặc, cho nên họ không nhìn ra là họ đã đồng sáng tạo, trong những kiếp trước hay những thời đại trước, rất nhiều những điều kiện mà con thấy ngày nay trên trái đất. Dần dần, họ đã xem những điều kiện này là tự nhiên, là do Thượng đế tạo ra, hay là kết quả của một quá trình tiến hóa. Họ nghĩ rằng các điều kiện này không thể tránh được, và họ không có quyền năng thay đổi chúng. Và dĩ nhiên, nhiều người cũng đã nảy sinh ra một sự gắn bó, một sự dính mắc tình cảm đối với mọi chuyện đang diễn ra trên trái đất.

Chúng tôi đã từng giảng dạy là nhiều loài động vật đã được sinh tạo qua tâm thức nhị nguyên. Chúng được tạo ra sau cuộc Sa ngã khi loài người bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Các loài rắn, động vật có nọc độc, côn trùng độc đều là sự biểu hiện của những khía cạnh thấp kém của tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là thật ra, rất nhiều động vật mà con thấy trên trái đất là những hình thể có mặt trong cõi trung giới đã vượt xuyên qua lằn ranh để đi vào cõi vật lý. Lần hổi với thời gian, do loài người kéo thấp tâm thức mình xuống, hay thậm chí khoác vào một số khuôn đúc, cho nên các hình thể đó cũng đã bị kéo xuống và thị hiện trong cõi vật lý.

Nếu con hiểu lời ta vừa giải thích trong câu trả lời trước về hiện tượng xuyên chéo đó giữa cõi trung giới và cõi vật lý – liên quan tới các vật thể bay không xác định (UFO), rồng hay kỳ lân – thì khi con người, rất đông người, có thể hòa đồng tâm thức của mình với cõi trung giới đến một mức độ mà họ có khả năng kéo một hình tư tưởng từ cõi trung giới xuống mức rung động của cõi vật lý, thì hình tư tưởng này sẽ thị hiện ra như một con thú vật lý.

Đây là một lời dạy mà chúng tôi đã ban ra trước đây, nhưng phần nào chúng tôi đã không nói rõ bao nhiêu loài động vật trên trái đất đã được tạo ra theo cách đó. Chúng tôi đã để cửa ngỏ cho người ta có thể tin rằng ít nhất có một số động vật có thực tại cao hơn và do đó sẽ không bị loại bỏ khi trái đất thăng thiên. Một lần nữa, đó là vì chúng tôi phải lượng định những gì con người sẵn sàng chấp nhận được.

Nhưng tất nhiên bây giờ với câu hỏi của con, và vì loài người cũng đã đạt được một mức hiểu biết cao hơn, ta có thể nói rõ thực tế cho con: 100% những động vật mà con hiện thấy trên địa cầu sẽ biến mất khi địa cầu nâng lên cao hơn. Tuyệt đối không có động vật, không có chim chóc, không có hình thể động vật, và gần như không có loài thực vật nào đang ở trong trạng thái thuần khiết đủ để duy trì dạng hiện thời của chúng khi độ rung của địa cầu được nâng cao.

Ta không đang nói đến cuộc thăng thiên chót của bầu cõi này nơi con đang sinh sống. Ta chỉ đang nói tới sự nâng cao lần hồi của địa cầu. Sẽ có những thời điểm khi một số loài động vật sẽ bị tuyệt chủng khi trong nhân loại có đủ túc số những người thăng vượt được chính cái tâm thức đã tạo ra hình tư tưởng trong cõi trung giới và kéo nó xuống cõi vật lý. Tại sao loài khủng long lại bị tuyệt chủng? Rất có thể là có sự đóng góp của một số nguyên nhân vật lý mà khoa học có thể chỉ ra, nhưng nguyên nhân thực sự là một túc số con người đã thăng vượt tâm thức đã thị hiện ra loài thú đó. Và sự thể này cũng sẽ xảy ra cho các loài động vật hiện hữu. Rất nhiều những sự mất cân bằng mà con thấy trong thiên nhiên sẽ không còn nữa. Rồi sẽ đến một điểm khi ngay cả vật chất cũng sẽ trở nên bớt dày đặc và trong suốt hơn.

Ta không muốn khiến cho con buồn phiền, nhưng con cần biết là con không thể dính mắc vào bất cứ điều gì. Con không thể dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào đang hiện hữu trên trái đất khi con thực sự muốn tinh tấn tối đa trên đường tâm linh. Con cần sẵn lòng tra vấn mọi hình tướng mà con nhìn thấy.

Như chúng tôi đã có nói trong những bài truyền đọc này, con cần tránh không dính mắc vào một hình tướng đến độ nó khiến con đui mù mà không thấy được hình tướng cao hơn đã có mặt ở đó trong cõi bản sắc, nơi những tầng cao của cõi bản sắc, và đang chờ con góp phần đưa nó xuống xuyên qua cõi bản sắc, đi vào cõi lý trí, cõi tình cảm rồi cõi vật lý. Con hiểu được đây là cách thức mà địa cầu sẽ được nâng cao – khi những người nhạy cảm và tâm linh nhất hòa điệu với các hình tư tưởng cao hơn, rồi qua sự chú ý của mình, họ đưa những hình tư tưởng này xuống cõi vật lý.

Liệu chúng ta có phán xét sa nhân?

Hỏi: Thày Giê-su bảo rằng: Đủ rồi, như vậy là đủ rồi. Và chúng con đọc nhiều bài thỉnh để phán xét và nói: Đủ rồi, như vậy là đủ quá rồi. Và chúng con kêu gọi để các sa nhân bị loại bỏ. Liệu chúng ta có cần phán xét chúng không, hay là chúng có sự chọn lựa, hoặc bước vào ánh sáng, hoặc ở lại trong bóng tối? 


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 6/11/2016.

Tôi xin trả lời câu này vì nội dung đã được trả lời trong một bài truyền đọc trước. Vâng, các sa nhân có sự chọn lựa. Trước đây, một số người cho rằng loại bỏ sa nhân có nghĩa là dùng vũ lực để kết liễu chúng, nhưng chúng luôn luôn được phép chọn lựa là chúng có sẽ đáp ứng với ánh sáng hay không.  

Nếu chúng không đáp ứng thì đây không thật sự là một sự trừng phạt. Điều thực sự xảy ra là nếu chúng không thấy được là địa cầu đang nâng cao và chúng không muốn cùng lên cao với địa cầu, thì đây sẽ không còn là một môi trường thích hợp để chúng thăng tiến nữa. Và chúng sẽ chỉ tạo thêm nghiệp quả cho chúng thôi.    

Kỳ thực, việc loại bỏ chúng ra và đưa chúng đến một môi trường khác là một việc làm từ bi, vì ở một môi trường khác chúng sẽ có cơ hội thăng tiến tốt hơn là ở đây. Nhưng đồng thời, chúng cũng không thể kìm hãm sự thăng tiến của mọi người khác trên địa cầu.  

Cách cầu nguyện cho người thân

Hỏi: Khi cầu nguyện sự phù hộ cho người khác, các chân sư có thể giúp người đó tới mức nào? Quyền tự quyết của người đó sẽ tác dụng thế nào khi họ không biết họ đang chịu sự ảnh hưởng của các thế lực ma quỷ? Nói cách khác, làm thế nào người thân của chúng con có thể thoát khỏi những hồn bóng không xác, những tà thể và ma quỷ khi chúng con cầu nguyện để họ được chữa lành?


Trả lời của chân sư thăng thiên Astrea, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles. Đăng ngày 28/9/2016.

Quyền tự quyết là bảng chỉ dẫn tối hậu cho mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không thể đọc bài nguyện, bài thỉnh hay bài chú mà đi ngược lại quyền tự quyết của người thân. Con cần phải rất thận trọng khi cầu gọi để không phóng chiếu vào người thân một điều gì vi phạm quyền tự quyết của ho. Tất nhiên chúng tôi, các chân sư, sẽ không làm điều gì để vi phạm quyền tự quyết của những người con cầu nguyện, mà rất có thể chính con, khi con có ý định khiến họ thay đổi đời họ, đã phóng chiếu năng lượng lên họ, gây gánh nặng cho họ và cũng gây nghiệp cho con. 

Đúng như con nói, tất nhiên là khi một người bị các tà thể hay ma quỷ ám, người đó sẽ không còn khả năng tự quyết và không thể có chọn lựa tự quyết. Điều con có thể làm là kêu gọi chính ta hay các chân sư khác để buộc và cắt đứt – buộc các tà thể và ma quỷ đó lại, và cắt đứt những sợi dây đang trói buộc người đó. Điều này sẽ cho người đó một khoảng thời gian để sử dùng quyền tự quyết của họ.  

Tuy nhiên con cần lưu ý rằng trong nhiều trường hợp khi họ ở trong tình trạng khó khăn, chẳng hạn như nghiện ngập, họ sẽ không sẵn sàng chọn lựa một cách tự quyết, cho nên mặc dù họ được giải phóng trong chốc lát, họ sẽ không sử dụng cơ hội này để lựa chọn tốt hơn. Họ sẽ chỉ thu hút thêm tà thể hay ma quỷ khác mà thôi. Đây là điều mà thày Giê-su đã chứng tỏ khi thày xua đuổi ma quỷ khỏi một người rồi nói rằng thày chỉ đuổi được một con nhưng lại có thêm bảy con nữa kéo tới, còn tệ hơn con đầu. Bởi vì thiên nhiên – trong đó có cả cõi trung giới – không thích sự trống vắng.

Vậy con có thể làm gì cho người thân của con? Con có thể cầu gọi, và con nên cầu gọi. Nhưng con cần phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của họ. Ta biết điều này rất khó khăn đối với người mà con thương yêu, nhưng đây là một yếu tố cần thiết trên con đường sẽ đưa con vượt qua những trò chơi điều khiển người khác vốn là phản tình yêu. Như Đại thiên thần Michael có nói, những gì mà con người phải đương đầu để thức tỉnh đến một mức tâm thức cao hơn có thể cực kỳ phức tạp. Con có thể nhìn vào một người và nghĩ: “Những gì mà họ phải trải qua, những đau khổ mà họ phải chịu đựng lúc này, không thể nào giúp ích cho sự phát triển tâm linh của họ.” Và trong nhiều trường hợp, điều con nghĩ rất đúng bởi vì chuyện nghiện ngập không thể nào giúp ích gì cho sự phát triển tâm linh của họ ngay lúc này. 

Nhưng mặt khác, rất có thể người đó cần trải nghiệm tình cảnh đó để – như Mẹ Mary có nói – biết rõ những gì những người trong tình cảnh này trải qua để rồi minh chứng cách thăng vượt hầu giúp được người khác. Hay cũng có thể người thân của con bị kẹt trong nghiện ngập và sẽ không thoát ra được trong kiếp này vì họ chưa sẵn sàng lấy những quyết định để nhận trách nhiệm tăng trưởng tâm thức mình. 

Ta hoàn toàn hiểu được điều này rất khó khăn để con nhìn vào. Nhưng một lần nữa, đây là lúc con bước lên một hình thức yêu thương cao hơn và con hoàn toàn chấp nhận cách vận hành của quyền tự quyết. Con có thể nhìn vào hoàn cảnh và nói: “Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể làm cho người này”, cả việc đọc bài nguyện và bài chú, và cả những cách thức khác để cố giúp họ. Nhưng con thấy con đã làm hết sức con và con cần phải hàng phục mà buông nó ra.

Thậm chí con có thể cần quyết định xem con có muốn người này trong đời con nữa không, bởi vì đó không là điều xây dựng cho đường tu của con. Nhưng con hãy cẩn thận khi lấy quyết định này. Con cần tự xem xét mình, con cần xét xem con có dính mắc với ý muốn thay đổi người đó hay không, hay là con có một vết thương mà hành vi của họ đang khấy động lên và con muốn thay đổi họ để khỏi phải đương đầu với chính vết thương của con. Trong trường hợp đó, con cần bước lên cao hơn và sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý con, bởi vì dù con có giảm bớt căng thẳng khi con lánh xa họ, điều này sẽ không giúp con tăng trưởng. 

Một lần nữa, toàn là những vấn đề tế nhị. Không có câu trả lời hay giải pháp trắng đen nào mà chỉ có, như Mẹ Mary nói rất nhân từ, một cơ hội để con xin sự hướng dẫn thiêng liêng, sự giúp đỡ, sự dẫn dắt, để con sử dụng khả năng trực giác của con và để con hòa điệu. Và luôn luôn cũng có cơ hội để con tự hỏi: “Tôi có đang đáp ứng trong một tâm thức yêu thương hay một tâm thức sợ hãi, một vết thương?”

Quan Âm sẽ ở lại với địa cầu

Hỏi: Đức Quan Âm sẽ ở lại với chúng con bao lâu nữa? Thày có thể đi nơi khác, nhưng thày có quyết định gì hay đã cân nhắc ở lại với chúng con hay không? Thày đã hứa là sẽ ở lại địa cầu và giúp chúng con.  


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels (tháng 7, 2013). Đăng ngày 10/11/2015.

Quan Âm sẽ ở lại với chúng ta trong tương lai tiên đoán được. Lý do duy nhất một sinh thể thăng thiên rời khỏi địa cầu là nếu không còn ai trên trái đất hiện thân được ngọn lửa, hay những đặc tính tâm linh, mà vị đó cầm giữ cho địa cầu. Cho nên khi nào mà còn người hòa điệu với trái tim của Quan Âm và nỗ lực làm cánh cửa mở cho ngọn lửa Từ bi và Tha thứ, thì hiển nhiên Quan Âm sẽ còn tác động được hành tinh một cách hữu ích.

Có những trường hợp khi một sinh thể thăng thiên nhận ra là không còn ai trên trái đất là cánh cửa mở cho mình nữa, thì vị đó có thể quyết định đi đến một hành tinh khác nơi vị đó có thể phụng sự các dòng sống ở đó nhiều hơn là các dòng sống trên trái đất. Nhưng trường hợp của Quan Âm thì khác. Thày có quá nhiều người theo thày ở phương Đông, và ngay cả ở phương Tây cũng vậy, đến độ thày sẽ ở lại địa cầu trong một thời gian rất dài.

Đức Dalai Lama có quyền ra đi

Hỏi: Đức Đalai Lama có phải là hiện thân cuối cùng của ngài Lama, hay là ngài sẽ vẫn là hiện thân tới của Dalai Lama?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels (tháng 7, 2013). Đăng ngày 7/11/2015.

Truyền thống Dalai Lama (Đạt lai Lạt ma) sẽ tiếp tục, một phần là vì dân tộc Tây tạng chưa sẵn sàng, hoặc chưa muốn, từ bỏ truyền thống này. Tuy nhiên, vị Dalai Lama hiện tại đã bày tỏ mong muốn được nhìn thấy một sự chuyển vọt trong dân tộc Tây tạng. 

Nhưng rất có thể là dân tộc Tây tạng sẽ không sẵn lòng tiến lên một bước trong tâm thức như Dalai Lama đã bước và chứng tỏ cho dân tộc của ông được thấy. Dân tộc Tây tạng còn quá gắn bó với truyền thống đến độ nếu dòng sống đang là Dalai Lama hiện tại không tái hiện thân trong một xác thân Tây tạng, thì họ cũng sẽ “tìm ra” một hiện thân khác mà họ tin là Dalai Lama đích thực.

Thật ra đã không có sự nối tiếp không gián đoạn của một dòng sống duy nhất hiện thân suốt chiều dài lịch sử xứ Tây tạng. Mấy lần rồi đã có sự đổi thay và rất có thể là sẽ có thêm thay đổi trong tương lai.

Mọi sự đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con người. Cho nên Đalai Lama hiện thời đã có bày tỏ ý muốn tái đầu thai như là một phụ nữ tại phương Tây trong kiếp tới. Tất nhiên đây là quyền quyết định của ông, nhưng ta cũng muốn nói thêm là vị Dalai Lama hiện tại đã hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Liệu ngày nay vẫn có người thăng thiên?

Hỏi: Liệu ngày nay có ai đạt được mức sẵn sàng thăng thiên hay không? Chúng con biết qua một đợt truyền pháp trước là những người đạt được mức thăng thiên rất hiếm hoi. Thời nay có ai thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, tháng 7 năm 2013. Đăng ngày 25/10/2015.

Nếu con nhìn vào dân số trên địa cầu và con số những người thăng thiên, thì quả thực con có thể nói việc hội đủ tư cách để thăng thiên là một điều rất hiếm hoi. Nhưng con cũng biết trong thời gian qua đã có một yêu cầu là mỗi năm phải có ít nhất một người thăng thiên từ địa cầu.

Trong khoảng hai hay ba thập niên vừa qua, số người thăng thiên đã gia tăng. Một phần là bởi vì vào thời đại này – khi chúng ta đang chuyển tiếp tâm thức từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình – nhiều người ở những mức trưởng thành tâm thức cao độ đã tình nguyện đầu thai trong lúc này để tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển tiếp.

Vì vậy trong những năm qua đã có nhiều người thăng thiên hơn, và cũng có nhiều người hơn trên điạ cầu đã đạt đến một mức tâm thức hội đủ tư cách cho họ thăng thiên, hoặc họ có khả năng hội đủ trong kiếp này. Quả thực có khá nhiều người đã theo giáo lý của các chân sư thăng thiên từ mấy thập niên rồi và cũng đã siêng năng tu tập và đọc chú – và trên hết, họ đã sử dụng giáo lý để chuyển vọt tâm thức của họ – thì những người này cũng đã hội đủ, hoặc gần đủ, điều kiện để thăng thiên.   

Nhớ lại tiền kiếp

Hỏi: Việc nhớ lại tiền kiếp có quan trọng không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles.

Đối với nhiều người, không có sự cần thiết phải nhớ lại mình là ai trong một tiền kiếp hay mình đã làm gì. Điều quan trọng hơn là hòa điệu với những cảm giác và những tin tưởng trong tiền kiếp để mà giải quyết và không nhất thiết nhớ lại từng chi tiết. Con thấy đó, khả năng quên lãng thực sự là một cơ năng quan trọng trên một hành tinh dày đặc và bạo lực như địa cầu. Đối với tuyệt đại đa số con người, kể cả những người tâm linh, việc nhớ lại tiền kiếp của mình sẽ vô cùng khuấy động vì con cũng sẽ nhớ lại bao nhiêu lần con từng bị tổn thương, bị giết hại hay bị tra tấn. Đóng lại bức màn của ký ức giữa các kiếp sống quả sẽ giúp cho hầu hết mọi người dễ dàng khởi sự lại từ đầu với tâm hồn trẻ thơ. Điều này quan trọng cho tất cả mọi người.  

Điều cũng quan trọng là không nên quá háo hức muốn nhớ lại tiền kiếp, đồng thời cũng không bác bỏ sự hiểu biết nếu con cần hiểu biết. Nhưng có nhiều người trở nên quá phấn khích muốn nhớ lại tiền kiếp đến độ họ sẽ tìm cách “đoạt thiên đường bằng vũ lực”, và điều này trong nhiều trường hợp sẽ không cho con những ký ức chính xác về kiếp trước. Có rất, rất nhiều người có ấn tượng mình là một người nào đó trong một tiền kiếp nhưng thật là không chính xác. Lý do có thể đơn giản là họ đã bị lừa gạt bởi một con quỷ hay một thày giả ở những cõi cao hơn – cõi cảm xúc hay cõi lý trí – hoặc họ đã bắt được làn sóng của một khuôn mẫu tâm lý do một người trong quá khứ phóng chiếu ra.

Con biết rõ, con có thể vào thăm một viện tâm thần và tìm thấy ít nhất một người tin rằng mình đã từng là Napoleon chẳng hạn. Nhưng đó là vì Napoleon, trong một cách nhìn nào đó, là một nguyên mẫu phóng chiếu ra một khuôn nếp tâm lý mà nhiều người có thể tự nhận mình trong đó.    

Đối với một số người, có thể họ cần tin rằng họ từng là người đó để họ bắt đầu xem xét khuôn nếp của họ. Một số khác thì tin rằng họ là người đó rồi bị mắc kẹt trong khuôn nếp và không bao giờ làm gì hơn. Nhưng đối với con là người tâm linh, điều quan trọng là con không bị mê hoặc mà cố nhớ lại tiền kiếp, hoặc nếu con có nhớ lại thì con cũng không nhất thiết phải tin rằng con thực sự là người đó. 

Điều quan trọng là con nhìn vào tâm lý của người đó, nhìn vào cái khuôn nếp của nguyên mẫu, và xét xem nó áp dụng với con như thế nào và làm thế nào con có thể thăng vượt được tâm lý đó. Con không nhất thiết cần tin rằng con là người đó và vì vậy con không bị vướng mắc.  

Một số các con hiển nhiên đã từng là những khuôn mật công chúng trong tiền kiếp. Biết được điều này có thể quan trọng đối với con. Nhưng ta vẫn đề nghị là bằng cách nhìn vào khuôn nếp tâm lý, tu tập sự không dính mắc và giải quyết khuôn nếp cũ, con sẽ ở trong tâm trạng thích hợp hơn để có một ấn tượng chính xác về con người con đã từng là trong tiền kiếp cũng như tầm quan trọng của hiểu biết này.  

Cần tránh loại nhạc nào?

Hỏi: Làm thế nào chúng con định được loại nhạc nào cần tránh? Phải chăng chỉ là vấn đề tránh loại nhạc khiến mình buồn bã hay xao động, hay chúng con cần xem đến cách hòa âm, nhịp điệu, phong cách hay cách trình bày – chẳng hạn nhạc điện tử hay nhạc cực lớn như trong rạp chiếu phim? Liệu có tiêu chuẩn nào không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles.

Con yêu dấu, cách giản dị nhất để lượng định âm nhạc là rèn luyện khả năng cảm nhận trong tim mình, xem tiếng nhạc có nâng cao năng lượng của con hay kéo năng lượng xuống thấp. Con có thể xác định được điều này bằng cách hòa điệu vào luân xa tim của con. Điểm này không chỉ áp dụng cho âm nhạc mà nói chung, con có thể phát triển khả năng nhạy cảm đủ để cảm nhận mọi điều mà con gặp trong cõi vật lý. Con có thể đi vào một nhà hàng, và nếu con hoà điệu với luân xa tim, con có thể xem qua thực đơn và cảm được món nào nâng lên hoặc kéo xuống rung động của con. Nếu không có món nào nâng cao rung động của con, con có thể bước ra và tìm một nhà hàng khác. Với âm nhạc cũng vậy.

Nhiều người có quan điểm là họ bắt buộc phải nghe nhạc, nhưng quan điểm này đến từ đâu nếu không từ ngành công nghiệp muốn bán nhạc nhiều hơn? Con không bắt buộc phải nghe nhạc. Con chắc chắn không bắt buộc phải nghe nhạc một cách liên tục. Tại sao con lại sợ im lặng? Im lặng có thể là bối cảnh mà con đang cần để nghe thấy cái ta tâm linh của con hay các chân sư. Nhưng thôi được, nếu âm nhạc và một số loại nhạc nào đó tạo cảm hứng cho con và nâng cao năng lượng của con, mở rộng tâm thức của con, thì bằng mọi cách con hãy lắng nghe. Nhưng con có thể dễ dàng cảm được nhạc đó tác động thế nào trên con. Và cũng tùy theo mỗi người, mỗi người nghe nhạc với tâm thức khác nhau.

Ta cũng biết trong quá khứ, chúng tôi đã nói một số loại nhạc cần tránh. Lời dạy này, phần lớn, vẫn còn giá trị và giá trị cho nhiều người. Tuy nhiên, bất cứ gì cũng có ngoại lệ, cho nên vào thời buổi hôm nay, chúng tôi không muốn đưa ra những lời dạy cứng nhắc, cố định, về những điều cần tránh hay cần nghe. Tất nhiên có những loại nhạc mà hầu hết mọi người phải tránh: tất cả những gì kéo thấp năng lượng, có nhịp giựt lệch lạc khiến năng lượng bị đẩy xuống luân xa gốc và do đó khuấy động luân xa đó lên, làm phát sinh mơ tưởng và ham muốn tình dục quá độ.

Nhưng cũng có một số loại nhạc mà nhiều người tâm linh gọi là âm nhạc tích cực, hưng phấn, không nhất thiết sẽ đưa năng lượng xuống thấp và cũng không đưa lên cao. Rất có thể loại nhạc này sẽ kéo sự chú ý của con khỏi việc lắng nghe trái tim. Vậy điều quan trọng là như sau: Con hãy cảm nhận âm nhạc đang tác động thế nào trên năng lượng của con, liệu nó nâng cao hay kéo thấp, và con hãy quyết định dành ra một thời gian để con lắng nghe sự im lặng.

Có cách cân bằng nghiệp quả khác hơn là cách “đường thẳng”

Hỏi: Con có một câu hỏi về cái Chết Thứ nhì. Khi một dòng sống trải qua tiến trình cái Chết Thứ nhì, trong trường hợp người đó không còn cơ hội đầu thai trên hành tinh này nữa do nghiệp quả quá nặng nề và phải đầu thai ở tầng tâm thức thấp nhất, thì làm thế nào người đó chuyển hóa nghiệp quả của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 28/8/2014.

Ta sẽ bắt đầu với một vài nhận xét về những dòng sống không còn cơ hội đầu thai trên địa cầu. Điều xảy ra là những dòng sống đó sẽ di đến một số hệ hành tinh khác còn có tâm thức tập thể thấp hơn cả địa cầu hiện thời nữa. So với tổng số hành tinh trong vũ trụ vật chất nơi sự sống trí năng hiện diện, thì số hành tinh này không nhiều lắm. Tuy nhiên vẫn có một số mà họ có thể di tới. Rất có thể là một dòng sống, sau khi không còn đủ điều kiện để hiện thân trên địa cầu, sẽ di tới đầu thai trên những hành tinh này, nơi tất nhiên họ sẽ nhận được thêm một cơ hội để giải quyết nghiệp quả của mình.  

Điều con cần hiểu là tất cả mọi chuyện đều phải tuân theo luật tự quyết. Đôi khi có xu hướng, nhất là nơi những người rành rẽ về các giáo lý phương Đông, cho rằng nghiệp quả là một cái gì chắc nịch như đã khắc vào đá, là sự tiền định đã được sắp sẵn cho nguyên một kiếp sống, và một người có rất ít khả năng thay đổi hay khắc phục được.

Điều này, tất nhiên, không phải như vậy. Nhiều lần ta đã từng giảng dạy là nếu con thật sự chuyển vọt tâm thức mình, nếu con sẵn sàng học được bài học và nhận ra tâm thức con hạn chế con như thế nào, và nếu con sẵn lòng thực sự bước ra ngoài yếu tố này của tâm thức nhị nguyên, thì con có khả năng quân bình nghiệp quả của mình rất nhanh chóng. Điều này có nghĩa là những dòng sống nào phải đầu thai trong những cõi thấp kém vẫn có cơ hội quân bình nghiệp quả của mình, quân bình khá nhanh chóng.    

Nghiệp quả không phải là một hình phạt. Không phải là Hội đồng Nhân quả sẽ xem xét nghiệp quả của một dòng sống, ghi lại thành một hồ sơ “đường thẳng”, rồi bảo rằng bởi vì người đó đã gây ra nghiệp quả như thế này thì họ sẽ phải bỏ ra một thời gian như thế kia trước khi họ có thể trả hết nghiệp. Nói cách khác, công việc của Hội đồng Nhân quả không giống như một quan tòa trên địa cầu đưa ra bản án nhất định là bao nhiêu năm tù cho một tội trạng nhất định nào đó. 

Hội đồng Nhân quả chỉ có một quan tâm duy nhất, đó là giải phóng các dòng sống để họ có thể tiến bước trong tiến trình tự thăng vượt bản thân. Điều này có nghĩa là nếu họ đã thực sự thăng vượt một mức tâm thức nào đó thì họ sẽ nhận được sự trợ giúp để quân bình nghiệp quả rất mau chóng. Trong một vài trường hợp, thậm chí một chân sư thăng thiên có thể gánh vác và quân bình dùm nghiệp quả cho người đó, hay nói cách khác, vô hiệu hóa những xung lực năng lượng cấu tạo nên nghiệp chướng.

Hiển nhiên, một điều tương tự cũng áp dụng cho những dòng sống không thể hiện thân trên hành tinh vật lý mà sẽ đi vào cõi trung giới, tức là cõi của tình cảm. Có những dòng sống gắn bó với địa cầu, và cũng có những dòng sống gắn bó với những hành tinh khác bị kẹt trong cõi tình cảm này. Và ngay cả những người này vẫn có cơ hội chuyển vọt tâm thức mình một cách ngoạn mục.

Sự chuyển đổi tâm thức này chỉ có thể xảy ra một cách duy nhất mà thôi. Đây là những dòng sống đang học tập trong Trường đời Cay đắng, và những điều cay đắng sẽ ngày càng đắng cay hơn, bởi vì cõi tâm thức của họ là nơi tất cả mọi dòng sống khác có tâm thức thấp như họ cũng đang sinh sống, và mọi người bắt buộc sẽ va chạm, đụng độ với nhau. Vấn đề chỉ được giải quyết khi dòng sống đạt tới một điểm khi họ nói: “Thôi thế là đủ rồi, tôi không muốn cứ tiếp tục hoài như thế này nữa. Hãy cứu giúp tôi!” Khi cầu khẩn sự cứu giúp, dòng sống sẽ luôn luôn nhận được cứu giúp. Nếu họ sẵn sàng xem xét tâm thức mình và chuyển đổi tâm thức đó, thì một lần nữa, họ sẽ có thể vươn lên tương đối nhanh chóng, và thậm chí còn có thể quân bình một số rất lớn nghiệp chướng trong một thời gian ngắn hơn là nếu họ ở lại tâm thức thấp cũ.   

Con hiểu điều ta vừa nói chứ? Có nhiều người biết rõ là mình đang mang nghiệp quả và tìm cách quân bình nghiệp quả đó qua một số hành động vỏ ngoài. Chẳng hạn, nếu con là một tín đồ Cơ đốc giáo ngoan đạo hay một Phật tử thành tâm, luôn cư xử theo đúng các quy luật vỏ ngoài của tôn giáo mình, con sẽ không tạo thêm nhiều nghiệp quả mới như nếu con sống một cuộc đời ích kỷ, hiếu thắng. Nếu con tuân thủ một số quy tắc tu tập, như cầu nguyện hay tụng niệm, con có thể quân bình một số nghiệp quả. Tuy nhiên con sẽ không quân bình nhanh chóng như nếu con thực sự chuyển vọt tâm thức của con.

Điều ta muốn nói là con có hai cách đề quân bình nghiệp quả của con. Cách đầu là cách đường thẳng, con quân bình một cách lần hồi. Còn cách kia cách mạng hơn khi con thực hiện một cuộc cách mạng trong tâm thức mình, và như thế con có thể quân bình nhanh hơn vì con đã nâng tâm thức lên cao hơn hẳn cái tâm thức đã tạo nghiệp.

Ngay cả một dòng sống đang đi qua tiến trình có thể dẫn tới cái Chết Thứ nhì, tức là đang trình diện trước Tòa án Lửa thiêng, cũng sẽ được chỉ dẫn để làm sao chuyển vọt tâm thức mình đáng kể. Bất kỳ một dòng sống nào, dù cho tới giây phút chót, cũng có khả năng chuyển vọt tâm thức, quay đầu lại, nâng cao tâm thức mình và lấy quyết định mình sẽ thực sự mong muốn cải sửa. Không có gì là không thể tránh được, ngay cả trong tiến trình hay những giai đoạn chót của tiến trình dẫn tới cái Chết Thứ nhì.

Nhưng nếu dòng sống không lấy quyết định tự cải đổi và do đó sẽ bị xóa bỏ trong cái Chết Thứ nhì, thì nghiệp quả của dòng sống đó cũng sẽ được các chân sư thăng thiên xóa bỏ nhờ các thày có sẵn động lượng hướng thượng. Nói cách khác, nơi cõi thượng thăng có rất nhiều những đấng với động lượng hướng thượng mạnh mẽ khiến cho việc xóa bỏ nghiệp quả của một dòng sống đi vào cái Chết Thứ nhì không là một vấn đề quá lớn. Con có thể thấy một dòng sống, như Hitler chẳng hạn, đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp trong kiếp hiện thân chót của ông ta, nhưng thật sự địa cầu là một hành tinh khá nhỏ, và ngay cả lượng nghiệp quả to lớn nhất mà người ta có thể tạo ra cũng chỉ rất nhỏ so với động lượng hướng tượng vĩ đại của số đông các đấng thượng thăng.  

Ánh sáng tâm linh và sự phán xét con người

Hỏi: Con muốn biết làm thế nào ánh sáng tâm linh đem lại sự phán xét đối với con người. Có thật là trong Thời đại Bảo bình, nhiều ánh sáng hơn sẽ được rải xuống để đem lại phán xét đối với một số người hầu loại trừ họ khỏi kiếp hiện thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE. Đăng ngày 7/8/2014.

Thật ra không phải là ánh sáng đem lại sự phán xét mà những chọn lựa của chính cá nhân dòng sống. Một lần nữa, chúng ta thấy ở đây cái tâm thức cũ cứ phóng chiếu lên hình ảnh một Thượng đế xa vời ở trên trời.

Từ bao nhiêu ngàn năm nay, con người cứ lý giải rằng nếu có điều gì xảy ra cho họ thì đó phải là sự trừng phạt của Thượng đế. Nhưng như chúng tôi, các chân sư, đã cố giảng giải, chúng tôi không trừng phạt hay phán xét một ai; chúng tôi chỉ để yên cho Luật Tự quyết đảm nhiệm công việc này tùy theo những chọn lựa của mỗi người.

Điều chúng tôi làm là chúng tôi có quyền thách thức những ai đã bước xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp kém. Một trong những cách mà chúng tôi thách thức nhân loại là phóng ánh sáng tâm linh xuống đến độ con người không thể làm ngơ được nữa và phải hoặc chấp nhận ánh sáng hoặc từ chối ánh sáng.

Điều hoàn toàn đúng là trong Thời đại Bảo bình, chúng tôi sẽ phóng ra một luồng ánh sáng gia tốc, nhưng việc này sẽ được thực hiện lần hồi một cách thận trọng hầu thích ứng với cách phản hồi của con người. Và thật vậy, đúng là ánh sáng của Thời đại Bảo bình sẽ thách thức rất nhiều cá nhân còn bám mắc vào cách xử sự của Thời đại Song ngư. Ánh sáng sẽ thách thức cả nhiều cấu trúc, và như luôn luôn, ngay cả trong thiên nhiên nữa, những ai không thể thích ứng với hoàn cảnh thay đổi sẽ phải tuyệt diệt.

Sẽ có những dòng sống rất có thể sẽ không chấp nhận ánh sáng của Bảo bình và do đó sẽ bị loại ra khỏi hiện thân. Hầu hết những dòng sống đó sẽ bị loại bỏ ở cuối kiếp sống bình thường của họ, nhưng một số khác sẽ bị lấy đi sớm hơn nếu họ lạm dụng nghiêm trọng quyền tự quyết của người khác.   

Đau đớn khi sinh nở

Hỏi: Vì lý do gì mà người mẹ, và đứa bé cũng vậy, cảm thấy đau đớn đến thế khi sinh nở?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 5/8/2014.

Có thể con đã nghe từ các đợt truyền pháp trước là đã có một thời khi hành tinh địa cầu thanh khiết đến độ con người không cần có quan hệ tình dục vật lý, hay không cần dùng đến thể xác vật lý để sinh con, vì trẻ em có thể được sinh tạo bằng tâm. Tuy nhiên, từ khi con người sa ngã xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, vật chất đã bị cứng đặc lại cho nên việc mang thai và sinh nở qua thể xác vật lý mới trở nên cần thiết.

Điều đó đã cần thiết vì nhiều lý do. Một lý do là vì cách duy nhất để tăng trưởng dân số loài người đến mức hoạch định là thiết lập một cách thức để cho một người nam và một người nữ có thể có con mà không cần có sự hài hòa với nhau. Con thấy đó, để sinh ra một đứa bé hoàn toàn do uy lực của tâm, vẫn cần phải có hai đối tác, một sinh thể đại diện cho thái cực nam và một sinh thể cho thái cực nữ. Nhưng để sinh ra một đứa bé qua uy lực của tâm, cả hai người cần ở trong một trạng thái hài hòa toàn diện với nhau.

Tất nhiên, con biết rõ là với xác thân vật lý của con người ngày nay, sinh nở vẫn có thể xảy ra cho dù người nam và người nữ không trong trạng thái hài hòa. Điều này có nghĩa là nếu phải hài hòa để có con thì hiển nhiên sẽ có rất ít trẻ em ra đời, nhất là trong các thời đại đã qua. Hầu bảo đảm dân số sẽ tăng trưởng, việc sinh nở qua thân xác vật lý trở thành một điều cần thiết.

Hiển nhiên, sự thể này có liên quan đến vòng xoáy ốc nghiệp chướng hướng hạ mà loài người đã tạo ra sau lần sa ngã đầu tiên. Sự đau đớn đã hiện diện suốt nhiều ngàn năm trời, và đã không có phương cách nào từ công nghệ để làm dịu cơn đau. Vì vậy chúng ta có thể nói là nỗi đau thể xác mà cả người mẹ lẫn đứa trẻ phải chịu đựng là một lời nhắc nhở về một thuở khi con người hoàn toàn có khả năng thụ thai và sinh con một cách khác.

Có những cách để sinh con qua cơ thể vật lý với đau đớn tối thiểu. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận khác hơn trong việc mang thai và sinh nở – khác hơn với cách tiếp cận của xã hội hiện đại sau khi xã hội trở nên duy vật và công nghệ hơn. Đây là một điều mà các chân sư sẽ giảng dạy trong tương lai, nhưng tốt hơn là ta nhường lại phần này cho các nữ chân sư. Việc giảng dạy cũng sẽ cần đến một vị sứ giả phái nữ, vì sứ giả hiện tại trong kiếp này không có khung nền cần thiết để đưa ra lời dạy.

Đau đớn có mục đích tâm linh nào không?

Hỏi: Mục đích của đau đớn là gì? Đau đớn có mục đích tâm linh nào không? Đó có phải là một lời cảnh báo rằng chúng ta đang không đi theo đúng hướng tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE. Đăng ngày 5/8/2014.

Hãy để ta bắt đầu với đau đớn thể xác. Tất nhiên, đó là tín hiệu cho thấy cơ thể, các dây thần kinh trong cơ thể, cảm nhận được khi một bộ phận nào đó của cơ thể bị tổn thương. Dây thần kinh sau đó sẽ gửi lên bộ não một tín hiệu, và đây là tín hiệu cho thấy tâm ý thức của con cần chú ý tới khu vực đau đớn và cần làm gì đó để né tránh nguyên nhân cơn đau hoặc chữa lành. Vì vậy, ở cấp độ thể chất, đau đớn chỉ đơn giản là một tín hiệu cảnh báo của cơ thể.

Ở cấp độ cảm xúc, đúng là đau đớn cảm xúc là một tín hiệu cho thấy con đã mất quân bình và do đó con đang không đi đúng hướng. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận quyền tự quyết vận hành như thế nào trong cõi vật lý. Thật vậy, người khác có thể vi phạm cơ thể vật lý của con cũng như các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con.

Trong trường hợp đó, đau đớn không luôn luôn có nghĩa là con đang đi sai hướng. Con có thể hoàn toàn vô tội trong một tình huống và con đang bị đối xử tồi tệ bởi những người lạm dụng quyền tự quyết của họ. Điều này vẫn có thể khiến tình cảm con bị đau đớn và cảm giác này là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, khi con khởi lên cảm xúc tiêu cực, một cái nhìn tiêu cực về tình huống thay vì đáp ứng một cách chấp nhận hơn, thì con sẽ khuếch đại nỗi đau. Và điều này có thể gây sự tổn thương cho linh hồn mà con sẽ đem theo từ kiếp này sang kiếp khác.

Con nhận thấy là khi con bỏ lại xác thân vật lý trong cái mà hầu hết mọi người gọi là cái chết, khi con bước vào kiếp sống kế tiếp, con sẽ gần như luôn luôn không còn giữ lại vết tích gì trên cơ thể mới của con về nỗi đau mà con đã cảm nhận trên cơ thể cũ. Điều này có nghĩa là dù con có phải đau đớn trong cảm thể trong kiếp này, nếu con phản ứng một cách vô tư và chấp nhận, thì con cũng sẽ không tạo ra trong cảm thể một vết hằn nào mà con sẽ mang từ kiếp này sang kiếp khác. Nhưng nếu con không thể phản ứng được như vậy, con có thể sẽ tạo ra một vết hằn trong cảm thể sẽ gây đau đớn trên cơ thể vật lý ngay cả trong kiếp tới. Cơ thể sắp tới mà con khoác vào sẽ phần nào phóng hiện ra những vết hằn trong ba thể cao hơn.  

Đau đớn không có một chức năng hay một giá trị gì cao cả hơn. Chúng tôi không xem đau đớn là một phương tiện giáo dục mà chúng tôi sẽ sử dụng. Con hoàn toàn có khả năng bước đi trên đường tâm linh và hội đủ tư cách để thăng thiên mà không phải cảm thấy đau đớn, dù là đau đớn trên phương diện tình cảm, lý trí hay bản sắc. Đau đớn chỉ là dấu hiệu cho thấy con đã bước vào Trường đời Cay đắng trong kiếp này hay trong một tiền kiếp.

Điều ta muốn nói là đau đớn không phải là điều gì chúng tôi muốn, hoặc sẽ muốn bắt các học trò chúng tôi phải chịu đựng. Chúng tôi không sử dụng đau đớn như một phương tiện dạy dỗ. Tuy nhiên, con phải cẩn trọng và nhìn nhận một thực tế khó thấy là khi con mang những vết thương và vết hằn từ những kiếp trước mà con chưa giải quyết, rất có thể một vị thày tâm linh đích thực – dù là thày đang hiện thân hay chân sư thăng thiên – sẽ phải thách thức những ảo tưởng đã gây ra vết thương đó. Và tất nhiên, điều này có thể khiến con cảm nhận nỗi đau khi con mang theo những năng lượng mà con chưa biến hóa. 

Vì vậy có rất nhiều người, trong quan điểm của họ, đã trải qua kinh nghiệm cảm xúc bị đau đớn do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, hoặc do một đạo sư hiện thân như Guru Ma. Nhưng con hãy lưu ý, đó chỉ là kinh nghiệm của họ. Không phải chúng tôi đã cố tình hay cố ý gây ra đau đớn, cũng không phải chúng tôi xem đó là một phương tiện giáo dục, mà đó chỉ đơn giản là khi con bắt đầu xem xét một ảo tưởng, con sẽ chạm vào năng lượng chưa biến hóa mà ảo tưởng đã tạo ra và do đó con cảm thấy nỗi đau.

Nếu có thể, chúng tôi sẵn lòng giúp mọi người tránh được nỗi đau. Với mục đích đó, chúng tôi đã ban ra những bài nguyện tràng hạt và bài chú để con có thể biến hóa phần lớn năng lượng của con trước khi con xem xét đến ảo tưởng. Chúng tôi chỉ có tình thương vô bờ bến đối với học trò chúng tôi và chúng tôi sẽ vui mừng biết mấy nếu các con có thể đối mặt với những động lực và ảo tưởng của quá khứ mà không cảm thấy đau đớn. Đây là điều khả dĩ nếu các con đã chuyển hóa đủ số năng lượng và chuyển vọt tâm thức mình, như chúng tôi đã chỉ dạy nhiều lần.

Cái nhìn quân bình về tiền bạc

Hỏi: Thưa vâng, con đồng ý là tốt hơn hết nên cất giữ kho báu của mình trên thiên đàng thay vì đeo đuổi của cải vật chất. Nhưng điều con nhận thấy là những người chân chính bước theo chân Giê-su Ki-tô đều rơi vào vòng kiểm soát và thao túng của những kẻ có tiền. Họ bị ràng buộc vào năng lượng tiêu cực của những kẻ này vì họ cần sự giúp đỡ vật chất từ những loại người đó. Con biết điều gì đang xảy ra: những dòng sống tốt thiện bị chúng lạm dụng. Cho nên có quan trọng hay chăng là chúng con có một nguồn thu nhập và tài lực vật chất phải chăng để chúng con không phải tuân theo luật lệ của người khác và bị thao túng trong cõi vật lý? Người ta hay bảo: “Chủ nhân trong nhà mới có quyền đặt luật lệ trong nhà mình, v.v…” và người đó cũng kiểm soát mọi năng lượng trong nhà. Nếu một hành giả tâm linh có một nguồn vật chất nào đó, liệu nó có sẽ bảo vệ cho người đó không bị kẻ khác xâm phạm quyền tự do cầu nguyện theo ý mình trong ngôi nhà của mình?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đồng ý với những gì con nói. Con đã đưa ra một số điểm hữu lý. Nhiều tín hữu Cơ đốc đã hiểu lầm lời dạy của ta rằng con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng.

Tiền bạc tự thân nó không có gì sai trái. Tiền bạc chỉ đơn giản là biểu tượng vật chất  cho năng lượng của Thượng đế. Ý định của Thượng đế là năng lượng phải lưu thông, và tiền bạc cũng vậy.

Điều sai trái là sự dính mắc vào tiền bạc. Sự dính mắc vào tiền bạc đã ảnh hưởng sâu xa hầu hết mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này. Khi con người dính mắc với tiền bạc, thực sự họ sẽ rất khó lòng bỏ dính mắc để theo đuổi sự phát triển tâm linh.

Hãy cho phép ta nhắc lại một lời dạy của ta: “Trước hết hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, và mọi thứ khác sẽ được thêm vào cho con.” Ngoài những ý nghĩa khác, câu này còn có nghĩa là con không bao giờ được đặt bất cứ khía cạnh nào của đời sống trước sự phát triển tâm linh. Nhiều người, dù là họ có tiền hay không có tiền, bị vướng mắc vào tiền bạc, hoặc những thú vui của thế gian có thể mua được bằng tiền bạc, đến độ họ đặt mục tiêu kiếm tiền lên trên mục tiêu tăng trưởng tâm linh.    

Ta không có vấn đề gì với những người tâm linh sở hữu một số tiền vừa phải hầu mang lại sự độc lập và tự do cá nhân cho họ. Tuy nhiên, ta phải cảnh báo mọi người rằng điều cực kỳ quan trọng là phải kiếm tiền mà không vi phạm các quy luật và chuẩn mực tâm linh. Điều này vô cùng khó khăn trong thế giới hiện nay vì toàn bộ hệ thống tài chánh đã bị thao túng tới một mức độ mà việc sở hữu tài sản lớn lao khó lòng nào không vi phạm quy luật của Thượng đế. Hơn nữa, việc sở hữu một số tiền lớn gần như luôn luôn dẫn đến sự dính mắc với tiền bạc.

Vì vậy, tốt hơn là con nên có it tiền hơn là kiếm tiền mà làm tổn hại đến sự phát triển tâm linh của con. Điều này không có nghĩa là ta muốn mọi người phải sống nghèo đói, mà đơn giản là ta không muốn mọi người đặt việc kiếm tiền cao hơn việc tìm kiếm tâm linh.

Ta thấy nhiều tín hữu Cơ đốc giáo đã bước vào tâm thức gạt sang một bên sự tìm kiếm tâm linh cá nhân và thay vào đó họ đã tập trung vào việc kiếm tiền và của cải vật chất. Nhiều người đi lễ nhà thờ mỗi chủ nhật một cách siêng năng, và họ nghĩ rằng một cách nào đó khi họ đi lễ, đóng góp vào quỹ chung hay tặng tiền cho cộng đoàn, họ có thể bù lại sự thiếu vắng tâm linh trong tim họ.

Hãy để ta nhắc con lời dạy của ta rằng một người không lợi lộc gì khi nắm được cả thế giới mà lại đánh mất linh hồn của mình. Hãy để ta nhắc con câu chuyện ngụ ngôn của người đàn ông kia đi dự tiệc cưới mà không mặc quần áo cưới. Tiệc cưới biểu tượng cho tâm thức Ki-tô, quả vị Ki-tô cá nhân mà mọi người phải đạt được trước khi bước vào Nước trời.

Nếu con nghĩ là con có thể bỏ qua nhu cầu khoác lên quả vị Ki-tô cá nhân của con và mua được vé vào cửa thiên đàng bằng cách tặng tiền cho một giáo hội vỏ ngoài, thì ta phải nói với con là con đang làm hại dòng sống của con. Thượng đế không tôn trọng cá nhân, bất kể địa vì mà cá nhân đó nắm giữ trong một tổ chức hay một hệ thống nào của con người. Con không thể mua vé vào cửa thiên đàng. Thật không may, nhiều người giàu có đã quá quen thói mua chuộc bất cứ gì mà họ ham muốn trên trái đất đến độ họ cũng tưởng là tiền bạc sẽ mở cửa thiên đàng. Điều này hoàn toàn không đúng. Đây thật sự là một trong những ảo tưởng  nguy hiểm nhất trong thế giới này.

Một lần nữa, như ta đã nói nhiều lần trên trang mạng này, sự quân bình là chìa khóa cho sự phát triển tâm linh đích thực. Có những con đường có vẻ đúng đắn cho con người nhưng lại là con đường dẫn đến sự chết. Thật ra có hai con đường có vẻ đúng đắn cho con người, đó là hai đối cực do cái tâm nhị nguyên tương đối tạo ra. Tâm nhị nguyên khiến cho con người suy nghĩ theo cách trắng đen rồi đẩy mọi thứ đến cùng cực.

Trong lãnh vực tiền bạc, cả hai con đường nghèo đói khốn khổ lẫn giàu có thừa thãi đều là cực đoan. Nhiều tín hữu Cơ đốc đã dùng lời dạy của ta về con lạc đà với người giàu có để đeo đuổi sự nghèo túng tột cùng. Nghèo đói sẽ không nhất thiết đưa con vào thiên đàng, y hệt như tiền bạc cũng không đưa con vào, hoặc ngăn cản con vào thiên đàng.

Điều sẽ đưa con vào thiên đàng là tâm thức Ki-tô. Đối với một số người, sự nghèo khó có thể là một con đường để đạt tâm thức Ki-tô bởi vì khi không có tiền của, nó có thể cho mình cảm giác tự do không bị ràng buộc vào vật chất. Tuy nhiên, nếu con có của cải vừa phải, nếu con không bị vướng mắc, nó cũng cho con sự tự do để con theo đuổi phát triển tâm linh.

Con đường chân chính là con đường trung đạo. Đó là khi con người cố gắng chu toàn những bổn phận thế gian của mình mà không bị bám mắc vào tiền bạc hoặc các thú vui của thế gian. Con hãy đi tìm trung đạo trong mọi thứ, kể cả mọi thứ liên quan đến tiền bạc.

Khi ta còn bước chân trên mặt đất, ta đã có nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống.” Thừ thuở đó, ta đã tăng trưởng, và hôm nay ta nói: “Ta là trung đạo, sự thật và sự sống.”

Giáo hoàng John Paul đã, hay sắp, được thăng thiên?

Hỏi: Kính thưa Giê-su, Giáo hội Công giáo đang đẩy nhanh tiến trình phong thánh cho cố Giáo hoàng John Paul II. Nhưng trên trang mạng này, hình như thày không xem những việc làm thế gian như vậy có tầm quan trọng trong cõi tâm linh. Liệu John Paul II đã hội đủ điều kiện để thăng thiên, và liệu ông đang là, hay sắp là, một chân sư thăng thiên?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Hãy để ta cho con một tầm nhìn để con có thể so sánh. Sau kiếp hiện thân là Moses (Môi-se), Moses đã không thăng thiên ngay. Ông đã phải tái đầu thai để quân bình một số nghiệp quả mà ông đã tạo ra, và ông cũng cần vượt qua khuynh hướng hay phản ứng nóng giận trong một số tình huống. Thánh Paul (sứ đồ Phaolô) đã không thăng thiên ngay sau kiếp đó mà phải tái đầu thai để giải quyết một số vấn đề tâm lý và quân bình nghiệp quả.

Ta nói những điều này để con thấy là nhiều người được xem là lãnh tụ lớn lao, hay những bậc thánh, đã không nhất thiết thăng hoa ngay sau kiếp đầu thai làm nhân vật lịch sử nổi tiếng. Lý do là vì khi con lãnh đạo một tổ chức rộng lớn hay một quốc gia, những quyết định của con ảnh hưởng đến hàng triệu hay hàng tỷ người, và con dễ dàng tạo ra những nghiệp chướng sẽ cần thời gian để quân bình. 

Con cũng dễ dàng bị cuốn hút vào trách vụ của con đến độ con không còn thì giờ hay chú tâm để giải quyết những vấn đề tâm lý của con. Và thật vậy, một số dòng sống lý luận rằng vì họ được giao phó một địa vị quan trọng trong xã hội loài người thì họ không cần phải tu sửa tâm lý của họ. Một số người khác thì gạt các vấn đề tâm lý sang một bên vì sứ mạng thế gian của họ có vẻ quan trọng hơn sứ mạng tổng quát là thực hiện sự thăng thiên.

Trong trường hợp của John Paul II (Gioan Phaolô đệ nhị), quả là sứ vụ thiêng liêng của ông có bao gồm việc lãnh đạo Giáo hội Công giáo và cố gắng trở thành giáo hoàng. Tuy nhiên, sứ vụ thiêng liêng của ông cũng bao gồm việc tiếp tục tiến trình đưa Giáo hội Công giáo vào thế kỷ thứ 21 mà Giáo hoàng John 23 đã khởi đầu.  

Nếu con nghiên cứu cuộc đời của John 23, con sẽ thấy ông có viễn kiến thật rõ ràng rằng cơ cấu lãnh đạo tập quyền của Giáo hội Công giáo đã lỗi thời và cần được cải tổ. Ông cũng biết là có nhiều học thuyết của đạo Công giáo cần được duyệt sửa, không chỉ để phản ánh thời đại mới mà phản ánh sự thật trong giáo lý tâm truyền của ta mà ông thấu hiểu. Con thấy được là John 23 thật sự đã bị các phần tử bảo thủ trong giới lãnh đạo Giáo hội bài bác là người chuộng tân thời. Kỳ thực, ông gần gũi với giáo lý chân truyền của ta – và nhu cầu kiến tạo một giáo hội hiện đại phản ánh những gíáo lý đó – hơn giới lãnh đạo Công giáo bảo thủ rất nhiều.

Ta không có ý nói là ta hay Mẹ Mary đồng ý với tất cả những gì xảy ra trong hội nghị mang tên Cộng đồng Vatican II, nhưng ta nói rằng hội nghị này là một bước đầu cần thiết trong một tiến trình đã có thể dẫn tới việc cải tổ toàn bộ Giáo hội Công giáo và biến Giáo hội thành một tổ chức sống động, bền vững với tiềm năng đóng góp trong chu kỳ tâm linh kế tiếp.

Nếu tiến trình này đã được tiếp tục trong tinh thần của Giáo hoàng John 23 thì đến nay rất nhiều tiến bộ đã có thể đạt được.Con đã không phải chứng kiến số lượng tín hữu suy giảm trầm trọng như đã xảy ra trong những thập niên qua. Đáng lý con cũng đã được thấy một giáo hội có khả năng gấp bội để giải quyết vụ tai tiếng lạm dụng tình dục, thay vì che đậy và mong rằng vấn đề sẽ biến mất nếu mình cứ ngồi ì làm ngơ.

Ta phải nói là Mẹ Mary đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Giáo hoàng John 23 và các nỗ lực của ông nhằm cải tổ Giáo hội Công giáo. Ta cũng có thể nói thêm là John 23 đã thăng thiên sau kiếp đầu thai đó – không hoàn toàn là do những gì ông đã thực hiện trong kiếp đó, mà do ông đã chứng đạt cao độ trước kiếp đầu thai cuối cùng này. Ông đã thể nhập các giáo lý tâm truyền của ta cũng như Ngọn lửa Hòa bình của Thượng đế nơi chính ông, đến độ nhiều người cảm được sự Hiện diện của Hòa bình bao quanh ông.     

Ta nói với con những điều này để con có một tầm nhìn về John Paul II và triều giáo hoàng của ông. Con sẽ thấy ông là một giáo hoàng vô cùng bảo thủ. Trong cuộc sống riêng tư, ông có những khuynh hướng thần bí, nhưng ông cảm thấy rất khó mà chuyển cảm hứng thần bí thành hành động nhằm hiện đại hóa Giáo hội cho theo đúng giáo lý chân truyền của ta.

Một phần do vụ mưu toan ám hại và phần khác do ông đã lớn lên trong một cộng đồng bảo thủ tại Ba lan, ông quyết định giữ kín những khuynh hướng thần bí này, và ông tự biến mình thành một nhà quản lý tiếp nối chủ trương mà các tấm gương bảo thủ của ông coi là chủ trương chính đáng duy nhất cho Giáo hội. Ông cũng sử dụng nhu cầu chống lại chủ nghĩa cộng sản như là cái cớ để không cải tổ Giáo hội, và như vậy ông đã làm mồi cho cái xu hướng ngàn đời là cho phép một kẻ thù vỏ ngoài đánh lạc hướng mình để không còn chiến đấu kẻ thù bên trong. Điều này vô cùng đáng tiếc, và rõ ràng là không đúng với sứ vụ thiêng liêng mà ông cùng với các vị thày tâm linh của ông đã thảo ra trước khi ông đầu thai. Tuy rằng các hành động của Giáo hoàng đã có tác động vỏ ngoài là đẩy mạnh sự chống đối đối với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nguyên nhân thực sự cộng sản đã sụp đổ một phần là do các mâu thuẫn nội tại của chính chủ nghĩa cộng sản, và phần khác là do sự cầu nguyện kiên trì của rất nhiều học trò của Saint Germain.    

Mặc dù John Paul có một đời sống tâm linh tốt đẹp, mặc dù ông hoàn thành được nhiều điều tốt đẹp, nhưng trong kiếp hiện thân đó, ông đã tạo ra nhiều nghiệp quả hơn là ông đã cân bằng. Con thấy không, nghiệp không nhất thiết là những việc con làm mà người đời xem là tốt hay xấu, mà con có thể gây ra nghiệp do sự thiếu sót, tức là con không làm xong một công việc quan trọng mà con có tiềm năng hoàn thành.     

John Paul thực sự đã có tiềm năng lớn lao – lớn lao hơn bất cứ một cá nhân nào khác trong lịch sử cận đại – để chuyển đổi Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh hiện đại, nhưng ông đã không làm được trên hầu hết các phương diện. Điều này tạo ra một cái nghiệp khiến ông phải trở lại thế gian để quân bình. Thêm vào đó, ông tạo ra nghiệp quả nghiêm trọng khi trong tư cách người lãnh đạo tối cao của Giáo hội, ông đã không đối phó với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục một cách công khai và quyết liệt.

Vì ông là người độc nhất có quyền hạn chỉ đạo chủ trương của Giáo hội về vấn đề này, nên ông phải gánh chịu một phần lớn nghiệp chướng mà mỗi linh mục tạo ra. Mặc dù cá nhân ông không phạm lỗi lạm dụng nhưng ông đã có thể ngăn chặn, và có thể làm nhiều hơn để ngăn chận những vụ lạm dụng tương lai. Ông cũng đã có thể làm rất nhiều hơn trong cách xử lý vấn đề hầu cải thiện hình ảnh của Giáo hội thay vì phá tan phần lớn uy tín của Giáo hội.   

Do đó John Paul sẽ không trở thành một chân sư thăng thiên cho tới khi ông tái đầu thai và quân bình nghiệp quả. Thêm vào đó, dòng sống của ông mong muốn mãnh liệt được chuộc lỗi và được có cơ hội thứ nhì để cải tổ Giáo hội Công giáo.   

Mặc dù John Paul đã dang tay đón nhận người đạo Do Thái, ông không hoàn thành được tiềm năng của triều giáo hoàng của ông để biến cải Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh phổ quát hơn. Làm như vậy sẽ đòi hỏi phải cải tổ toàn diện các học thuyết Công giáo cũng như cơ cấu lãnh đạo, trao quyền tự quản cho các lãnh đạo Công giáo địa phương để họ có thể thích ứng với điều kiện ở mỗi quốc gia.

Vì vậy mà John Paul đã không thăng thiên được. Ta nói cho con những điều này để con thấy thực tế là con không thể đánh giá mọi người theo cùng một tiêu chuẩn. Mỗi người đều có một sứ vụ độc nhất, và tùy theo sứ vụ của con, nhiều khi một cuộc sống gọi là tốt thiện vẫn chưa đủ. Đó là tại sao ta đã nói, trừ khi đạo đức của con vượt trội đạo đức của các thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không vào được thiên đàng.   

Ta không muốn nói là John Paul là một thày thông giáo, một người Pha-ri-si hay một kẻ đạo đức giả. Ông quả thực là người chính trực trong các vấn đề vỏ ngoài, nhưng ông không có chính trực để luôn luôn trung thực với viễn quan nội tâm cao nhất của ông. Và ông không mở tâm ra để nhớ lại trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình. Sự mở tâm này là cách duy nhất để bảo đảm kiếp sống này của con đạt được tiềm năng cao nhất.

Ta hiểu là khi một dòng sống bước vào những năng lượng dày đặc của địa cầu, thật là dễ dàng quên đi sứ vụ thiêng liêng của mình. Tuy nhiên, bất kỳ dòng sống nào cũng có thể, bằng cách giữ cho con tim và tâm trí mình mở rộng, tái khám phá sứ vụ thiêng liêng của mình. Vấn đề là khi mình dùng một hệ thống tín ngưỡng vỏ ngoài để nhận lấy những niềm tin đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng, mình thường không muốn biết sứ vụ đó là gì. Lý do là nếu mình nhớ lại sứ vụ thì mình sẽ phải thay đổi cuộc sống một cách lớn lao đến nỗi những gì mà tâm vỏ ngoài đã chọn làm sự thật tuyệt đối có thể bị tổn thương. Vì vậy, thường là trong tiềm thức, dòng sống thà là bịt tai không biết, để mình không phải có những thay đổi to lớn mà mình không mong muốn. Đây là trường hợp của John Paul và đó là lý do khiến ông đã không hội đủ điều kiện để thăng thiên.  

Ta biết những tiết lộ này sẽ gây ngạc nhiên, thậm chí buồn phiền, cho một số người, nhưng ta hy vọng là những người còn lại sẽ sử dụng thông tin này để mở rộng hiểu biết về tầm quan trọng to lớn của việc ghi nhớ trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình, cũng như dồn mọi nỗ lực và khả năng để hoàn thành sứ vụ đó. Không những con sẽ tạo thêm nghiệp quả khi con không hoàn thành sứ vụ, mà con còn tạo cho dòng sống của con một cảm giác tiếc nuối cơ hội đã mất, khiến con rất khó từ bỏ địa cầu.  

Nói cách khác, không hoàn thành được sứ vụ có thể khiến dòng sống của con mong muốn mãnh liệt trở lại địa cầu để sửa lỗi, đến nỗi con không còn muốn thăng thiên. Cho nên ta hy vọng con sẽ sử dụng các dụng cụ tu tập được đăng tải trong Hộp Dụng cụ, kể cả các bài nguyện tràng hạt của Me Mary và bài chú Đại chỉ đạo Thiêng liêng, hầu con có thể tái phát hiện sứ vụ thiêng liêng của mình và hoàn thành đầy đủ.

Con hãy nhớ là con phải hoàn thành sứ vụ cá nhân dành riêng cho con. Cho nên con đừng để ác quỷ dụ dỗ rằng, “Kìa, nếu một người tâm linh như đức Giáo hoàng mà không hội đủ điều kiện để thăng thiên thì tôi có hy vọng gì?” Thật sự không một ai biết được mức chứng đạt của mình, và do đó con luôn luôn phải sống như thể con có cơ hội thăng thiên trong kiếp này. Đừng rơi vào cái bẫy nghĩ rằng con phải làm được điều công ích gì, hay việc vỏ ngoài gì lớn lao để được thăng thiên. Con hãy nhờ lời ta dạy rằng chỉ những ai trở thành trẻ nhỏ mới vào được thiên đường. Hãy tập trung hoàn thành sứ vụ thiêng liêng cá nhân của con. Hãy dùng tấm gương của người khác để tự khích lệ, nhưng đừng dùng ví dụ của người khác để khiến mình nản lòng. Con đường của con là độc nhất, và con chỉ có thể biết được sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách đi vào bên trong và liên lạc với cái ta Ki-tô của con.

Hitler đã lên thiên đàng?

Hỏi: Con đọc được tài liệu từ người đồng bóng có nội dung rằng Hitler đã lên thiên đàng. Điều này con cảm thấy là không phải, nhưng con xin thày cho biết ý kiến.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu con muốn dùng thuật ngữ hoàn toàn kỹ thuật, con có thể nói là câu trên chính xác. Sau cái chết của cơ thể vật lý của ông ta, dòng sống của Adolf Hitler quả là đã được đem lên thiên đàng. Tuy nhiên, dòng sống đó được đưa tới một tầng cấp của cõi tâm linh gọi là Tòa án Lửa thiêng. Đây là nơi mà những dòng sống nhận được sự phán xét cuối cùng. Phán xét cuối cùng là cơ hội chót để quỳ gối trước thực tại của Thượng đế.   

Phán xét này chỉ được ban ra cho những dòng sống đã liên tục phủ nhận Thượng đế nơi chính mình cũng như nơi người khác, và đã nổi loạn chống lại ý muốn của Thượng đế suốt nhiều kiếp sống. Dòng sống được ban cho một bản duyệt xét thật minh bạch về cuộc nổi lọan đó chống lại Thượng đế và một cơ hội cuối cùng để quỳ gối rồi cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn nó trở về Thượng đế. 

Nếu dòng sống từ chối quỳ gối, nó sẽ bị xóa sạch bởi ngọn lửa thiêng. Đây là điều mà Sách Khải huyền gọi là hồ lửa. Dòng sống của Adolf Hitler quả là đã từ chối quỳ gối và đã bị xóa sạch trong ngọn lửa thiêng. Vì vậy, dòng sống đã từng là Adolf Hitler trong kiếp đầu thai chót của nó trên địa cầu, không còn nữa. Ta cho rằng đây không hẳn là cách diễn giải mà hầu hết mọi người nghĩ tới khi đọc câu nói rằng Hitler đã lên thiên đàng. 

Ghi chú: Xin xem một câu trả lời khác ở đây.

Lời dạy của Eckhart Tolle về tự ngã

Hỏi: Con muốn biết thày Giê-su nghĩ gì về những lời dạy của Eckhart Tolle. Con cũng hiểu có lẽ thày đã nhận được rất nhiều câu hỏi về vị thày này hay giáo lý kia, nhưng con xin hỏi cụ thể vì trong thông điệp thày Giê-su gửi ra tại Thụy điển, thày có khuyên chúng con học tập những giáo lý khác về tự ngã. Và Eckhart Tolle đã viết hai cuốn sách, “Quyền nâng của Ngay bây giờ” (The Power of Now) và “Một Địa cầu Mới” (A New Earth). Cả hai quyển đều nói rất nhiều về tự ngã và tâm thức nhị nguyên.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta xem Eckhart là một vị thày tâm linh đích thực. Ông đang làm những gì mà ông rất nên làm, tức là giảng dạy dựa trên xuất thân, kinh nghiệm và trạng thái tâm thức của ông. Nếu độc giả của trang mạng này cảm thấy có sự nhắc nhở nội tâm muốn tìm hiểu sách của ông thì tất nhiên các con nên đi theo tiếng gọi đó. Tuy nhiên, sẽ không tới mức ta khuyên nhủ mọi người đọc sách của ông, và ta sẽ trình bày tại sao một số người cần tiếp cận sách một cách thận trọng.

Eckhart mô tả khi ông có một sự chứng ngộ tâm linh tự dưng phóng ông vào một trạng thái tâm thức cao hơn. Ông giảng dạy dựa theo kinh nghiệm này, và trên căn bản, ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tuần tự, có hệ thống. Ông cố gắng đưa độc giả của ông kinh qua một trải nghiệm giống như ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ những sáng ngộ mà ông đã có sau trải nghiệm đột phá của ông.

Giả thuyết cơ bản là nếu mọi người nhận được những sáng ngộ đúng đắn, họ cũng sẽ có một sự tỉnh ngộ tự phát như ông đã có. Điều này quả là có thể xảy ra, nhưng chỉ với những người đã đạt gần tới mức tâm thức mà Eckhart đã có trước khi ông ngộ. Nhưng đại đa số con người trên hành tinh này chưa ở mức đó, và vì vậy không có khối lượng sáng ngộ nào có thể đánh thức họ một cách “tự phát”.

Hãy cho ta nói rõ là ta không bảo mọi người đừng đọc sách của Eckhart. Đơn giản, ta chỉ nói rằng ta chờ đợi các độc giả của trang mạng này sẽ sử dụng những nội giác mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu bất cứ giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ cố gắng hết sức để lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu giữ sự cân bằng. Nếu con chưa thấy được là ta rất thường giảng về cân bằng thì ta khuyên con nên đọc lại trang mạng này và lưu ý ta thường mô tả cân bằng là điều kiện tiên quyết để thực sự phát triển tâm linh. Ta đặc biệt khuyên con đọc hai bài giảng của ta về tự ngã, có nói đến tư duy trắng đen và tư duy xám.   

Nói vậy rồi, thật không thể chối cãi Eckhart đã ban ra nhiều hiểu biết rất giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Các hành giả ở mọi trình độ có thể được lợi ích từ những hiểu biết này, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ dở cách phát triển tâm linh có hệ thống, hơn là đuổi theo một chứng ngộ kỳ diệu sẽ thình lình biến con thành một sinh thể giác ngộ. Tốt hơn con nên tiếp tục tu tập cho có phương pháp rồi để mặc cho sự khai ngộ tự dưng xảy đến – tự dưng. Cố gắng chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực chưa bao giờ đưa ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

Sách “Bắt chước Ki-tô” của Thomas a Kempis

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con đang đọc quyển “Bắt chước Ki-tô” (The Imitation of Christ) của Thomas a Kempis và con xin thày vui lòng cho biết quyển sách này có còn xác đáng trong bối cảnh những giáo lý mà thày ban ra hiện nay.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một quyển sách tuyệt diệu, và thực sự Thomas a Kempis đã là một trong những sứ giả của ta. Trong sách có quá nhiều lời dạy vượt thời gian đến mức nó vẫn xác đáng cao độ ngay cả ngày hôm nay.

Một trong những chủ đề chính của quyển sách là bất cứ ai cũng đều có khả năng hiệp thông trực tiếp với Thượng đế. Đây chính là thông điệp mà ta đang nỗ lực trình bày trên trang mạng của ta. Hiển nhiên đó không phải là điều ngẫu nhiên. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã cố gắng giúp con người hiểu được cùng thông điệp đó từ hàng ngàn năm rồi. Trong Thời đại Bảo bình, điều quan trọng hơn bao giờ hết là con người cần hiểu thông điệp này, bởi vì con người trong thời đại mới có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để hiệp thông trực tiếp với Thượng đế.

Khi con đọc “Bắt chước Ki-tô”, con hãy đừng quên rằng sách đã được viết cách đây sáu thế kỷ. Sách được viết ra vào một thời kỳ chủ yếu Công giáo và được viết cho nền văn hóa đó. Vì vậy trong sách có nhiều điều không thể nói ra được vì sẽ vượt quá xa học thuyết của giáo hội. Vào thời điểm đó, làm như vậy đã có thể khiến cho tác giả bị đàn áp và nhiều người quá sợ hãi sẽ không dám đọc. Thật ra, hồi đó đã có một số người cho rằng quyển sách cấp tiến quá mức. Và ngày nay một số người đạo Cơ đốc vẫn còn nghĩ như vậy.

Và con cũng nên nhớ là sách được viết vào thời gọi là Thời đại Đen tối. Đó là một thời kỳ khi cuộc sống khó khăn hơn nhiều so với hầu hết mọi người đang sống tại phương Tây ngày nay. Vì thế, sách có xu hướng tập trung vào sự khổ đau và những vất vả trong đời sống nhiều hơn là thời nay.

Dù sao đi nữa, quyển sách là một ví dụ cho thấy một người có khả năng nâng cao tâm thức mình và phụng sự trong vai trò sứ giả cho các chân sư thăng thiên. Đó là một nguồn cảm hứng tuyệt vời sẽ giúp cho bất cứ ai hiệp thông với Thượng đế.

Âm nhạc để phát huy tâm linh

Hỏi: Con đang có chút mâu thuẫn về nhạc rock. Con chơi đàn guitar và thấy đó là một phương tiện biểu đạt rất sáng tạo. Con vẫn vô cùng thích thú khi chơi những bản nhạc nổi tiếng như của The Who, Led Zeppelin, The Rolling Stones, The Doors và Kiss. Con thấy khi chơi, con cảm thấy vui sướng và hạnh phúc. Con chỉ thắc mắc làm thế nào việc liên tục lắng nghe những ban nhạc này sẽ giúp con phát triển tâm linh (qua Ki-tô). Thày có cảm nghĩ gì về nhóm nào hay loại nhạc nào có thể làm trì trệ sự tăng trưởng tâm linh của con?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con nói là con có mâu thuẫn về nhạc rock. Lý do là vì khả năng trực giác của con đang nói với con rằng có điều gì đó mà con chưa hiểu hay chưa nhìn thấy về loại nhạc này cũng như về tác động của âm nhạc nói chung. Ta thực sự khuyên con nên lắng nghe sự nhắn nhủ nội tâm này. Con hãy nỗ lực mở rộng trực giác của con và tham gia học hỏi về âm nhạc và sự tác động của âm nhạc.

Nhiều nền văn hóa cổ xưa có lời dạy về tác động của âm nhạc, cả tốt lẫn xấu. Một số văn hóa cổ xưa tin rằng cách nhanh chóng nhất để phá nát một xã hội là chơi loại nhạc sai lầm. Ngay cả khoa học hiện đại cũng bắt đầu hiểu ra là âm nhạc có tác động sâu xa trên con người. Nghiên cứu khoa học cho thấy trong khi nhạc cổ điển có thể giúp cây cối phát triển tốt hơn thì nhạc rock lại có tác đụng ngược lại. Con cũng có thể tìm thấy những nghiên cứu về tác dụng của âm nhạc trên việc học vấn.

Bằng cách tìm hiểu về các loại tác động của âm nhạc, con sẽ cho trực giác của con cơ hội hoạt động và đó sẽ là nền tảng để con nhận được thêm trực nhận từ bên trong.  

Tuy nhiên ta sẽ cho con mốt số gợi ý để con suy ngẫm. Như được trình bày khắp trang mạng này, ngay cả khoa học hiện đại cũng công nhận rằng mọi thứ đều là năng lượng. Như chúng tôi mô tả, chung quanh cơ thể con người có một trường năng lượng. Trường năng lượng này được kết nối với tâm. Thật không khó khăn gì để thấy được là sóng âm thanh do âm nhạc phát ra là những sóng năng lượng và chúng có thể ảnh hưởng lên trường năng lượng của con người.

Trong trường năng lượng của con người có một số trung tâm năng lượng, thường gọi là luân xa. Có cả thảy bảy trung tăm năng lượng chính, nằm dọc theo cột sống. Trung tâm năng lượng thấp nhất là luân xa gốc, cao nhất là luân xa đỉnh đầu, và ở giữa là luân xa tim.

Dòng sống của con, và ngay cả cơ thể vật lý, được nuôi dưỡng bởi một dòng năng lượng chảy xuống từ cái ta tâm linh vào trường năng lượng. Năng lượng này đi vào trường qua luân xa tim và một phần năng lượng chảy xuống luân xa gốc. Điều gì xảy ra cho năng lượng sau đó được định đoạt do sự chú ý của con. Chính sự chú ý hướng dẫn dòng chảy của năng lượng qua năng trường của con.

Cái gì kiểm soát sự chú ý của con? Chú ý bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những sở thích cá nhân của con. Nói cách khác, con yêu thích gì nhất thì con sẽ tập trung chú ý vào đó nhiều nhất, và vì thế nó sẽ nhận được nhiều năng lượng nhất của con. Hiển nhiên luân xa tim là trung tâm tình yêu trong con người con. Do đó, luân xa tim của con là chìa khóa kiểm soát năng lượng sẽ đi về đâu. Con cần phải bảo đảm con yêu thích những thứ sẽ giúp con tăng triển. 

Nếu con yêu thích những đồ vật của thế gian, năng lượng của con sẽ biểu đạt chủ yếu qua ba luân xa thấp, qua đó con sẽ trao cho năng lượng một rung động gần với độ rung của vũ trụ vật chất. Điều này cuối cùng sẽ tạo ra một vòng xoáy năng lượng mà từ lực sẽ lôi kéo các ý nghĩ và cảm xúc của con về đó. Nói cách khác, con càng đổ nhiều năng lượng vào những ham muốn đồ vật thế gian thì năng lượng đó sẽ càng kéo mạnh ý nghĩ và cảm xúc, buộc chặt con hơn với đồ vật thế gian.  

Ta không nói rằng điều này nhất thiết là sai trái. Một dòng sống có thể có ham muốn chính đáng trải nghiệm những sinh hoạt của vũ trụ vật chất. Tuy nhiên chúng ta đều biết nhiều người bị mê mải trong đủ loại ham muốn vật chất đến độ cả đời họ bị tiêu hao trong nghiện ngập.

Một dòng sống thường trải qua nhiều kiếp sống đeo đuổi các ham muốn đồ vật thế gian. Tuy nhiên hầu hết mọi dòng sống cuối cùng đều sẽ đạt tới một điểm khi họ cảm thấy cuộc đời không chỉ là chuyện hưởng thụ thế giới vật chất mà phài là gì nhiều hơn. Đây là điểm khi nhiều dòng sống khởi sự tiến trình thức tỉnh tâm linh. Và ở điểm đó, con có thể đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm linh của con bằng cách nhận thức rõ hơn con sử dụng năng lượng như thế nào. Nói cách khác, nếu con tiếp tục đổ năng lượng vào vòng xoáy đang buộc chặt con vào thế giới vật chất, con sẽ làm trì trệ bước tiến tâm linh của con. 

Nếu con muốn đẩy mạnh phát triển tâm linh, con cần khởi sự yêu thích những thứ của Tánh linh. Khi yêu thích những “đồ” tâm linh, con sẽ hình thành một cục nam châm trong luân xa tim, và nó sẽ lôi kéo năng lượng lên qua luân xa tim và biểu đạt những năng lượng này qua ba luân xa cao. Điều này cuối cùng có thể sẽ mở luân xa đỉnh đầu, là chìa khóa cho sự giác ngộ tâm linh.

Khi con bắt đầu hiểu hơn về dòng năng lượng, con thấy rõ là nếu con thực sự muốn tăng trưởng tâm linh, con cần nghe và chơi những loại nhạc sẽ khiến năng lượng con chảy qua các luân xa cao thay vì các luân xa thấp. Ta nghĩ hầu hết mọi người, bằng cách nỗ lực gia tăng trực giác và nhậy cảm, sẽ có khả năng cảm nhận được năng lượng của mình đang chảy về đâu khi họ nghe hay chơi nhạc. Ta nghĩ đại đa số sẽ nhanh chóng nhận ra là nhạc rock, nhạc jazz, nhạc rap và những hình thức nhạc nghịch tai khác sẽ ép buộc năng lượng chảy xuống các luân xa thấp, đặc biệt là luân xa gốc.    

Xin con hiểu một điểm quan trọng. Biểu đạt năng lượng qua các luân xa thấp sẽ dễ dàng mang lại cho con một cảm giác thích thú. Tuy nhiên, việc mang lại cảm giác vui sướng và sảng khoái không nhất thiết có nghĩa là sinh hoạt đó đang gia tăng sự phát triển tâm linh. Điều làm con cảm thấy dễ chịu chỉ là năng lượng tuôn qua luân xa. Cho nên cảm giác dễ chịu không nhất thiết có nghĩa là con đang thăng tiến tâm linh. Nói cách khác, con cần mở mang một khả năng phân biện nào đó hầu con có thể xác định xem năng lượng đang chảy lên luân ca cao hay chảy xuống luân xa thấp. 

Về mặt này, ta phải nói là tại hầu hết các quốc gia Tây phương, có một thành kiến cho rằng nếu có điều gì cảm thấy dễ chịu thì điều đó không thể sai trái. Ta hy vọng là con thấy điều này không cứ là đúng đối với một người quan tâm đến phát triển tâm linh. Nói cách khác, sự kiện một số loại nhạc khiến con vui vẻ hạnh phúc không nhất thiết có nghĩa là nhạc đó sẽ giúp con tiến triển tâm linh. Cho nên nếu sự phát triển tâm linh là quan tâm chủ yếu của con, con cần phải tìm những loại nhạc đưa năng lượng con đi lên thay vì đi xuống.

Ví dụ loại âm nhạc đó là rất nhiều các soạn giả cổ điển, như Mozărt, Beethoven và Handel. Cũng có một số loại nhạc Thời mới nâng năng lượng lên cao. Ấn độ có một truyền thống âm nhạc cổ xưa nhằm giúp hành giả có trải nghiệm tâm linh.

Ta có thể nói với con là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vô cùng mong muốn mang đến những thể nhạc mới sẽ hấp dẫn giới trẻ như nhạc rock ngày nay nhưng lại khiến cho năng lượng của con người chảy lên thay vì tập trung xuống các luân xa thấp.

Ta khuyên con nên gia nhập một chương trình tìm hiểu âm nhạc và tăng trưởng khả năng nhậy cảm của con. Nếu con có thắc mắc gì thêm, con hãy cứ tự nhiên hỏi ta vì đây là một chủ đề rất quan trọng, không những cho cá nhân con mà cho nhân loại nói chung. Con nên cần nhắc xem con có thể hướng dòng sáng tạo của con về loại âm nhạc giúp nâng năng lượng vào các luân xa ở trên.

Một kỹ thuật thiết thực để nâng năng lượng tình dục lên tim

Hỏi: Giê-su yêu dấu, xin thày chỉ con một số kỹ thuật để chuyển hóa năng lượng tình dục. Chẳng hạn, để sử dụng năng lượng tình dục hầu mở tim.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Để mở đầu, ta xin nói là ngược với lời phán của rất nhiều giáo hội kể cả nhiều giáo hội Cơ đốc giáo, không có gì tội lỗi hay sai trái trong sự kết hợp tình dục giữa một người nam và một người nữ. Quan hệ tình dục trong tình yêu tinh khiết không phải là tội lỗi và cũng không làm tha hóa năng lượng của Thượng đế.

Nói như vậy nhưng ta cũng phải nhấn mạnh là trong thế giới ngày nay, thật là khó lòng giữ được cho quan hệ tình dục trong sạch. Đó là vì ngành quảng cáo mà một số tà lực ảnh hưởng và hỗ trợ mạnh mẽ, đã không ngừng tràn ngập nhân loại với những hình ảnh, những khêu gợi và ngay cả những năng lượng tinh vi nhằm gia tăng lòng ham muốn tình dục nơi con người. Hơn nữa, do hệ quả của sự lan tràn này cùng nhiều hình thức lâp trình xã hội khác, nhiều người đã nảy sinh ra thái độ cho rằng mình có quyền có quan hệ tình dục một cách vô giới hạn.    

Vì vậy, nếu con muốn giữ cho quan hệ tình dục của con được trong sạch, hay nếu con không có quan hệ tình dục, con cần phải tự vệ, con cần phải bảo vệ trường năng lượng của con cũng như trí thể và cảm thể của con chống lại chiến dịch công kích liên tục của năng lượng và khêu gợi tình dục.

Vòng đai phòng thủ của con phải bắt đầu với một quyết định. Con phải nhận ra là con đang bị công kich một cách dữ dội, thâm độc, bởi các khêu gợi tình dục, và con phải lấy quyết định là con sẽ không để cho người ta lập trình con bằng cách đó. Do đó, con phải quyết định là con sẽ lánh xa khỏi các khêu gợi đó khi có thể.  

Điều cực kỳ quan trọng là con sử dụng các dụng cụ tâm linh thích hợp để bảo vệ trường năng lượng cá nhân của con (trường năng lượng bao quanh cơ thể con) bằng cách xây dựng một lá chắn làm bằng năng lượng tâm linh cao tần bao quanh. Các chân sư đã có trao cho các con một số kỹ thuật bảo vệ, và có một kỹ thuật khác rất hữu hiệu là bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael.

Khi ta bảo là tự thân tình dục không có gì sai trái, ta không hề muốn nói là người ta có thể có tình dục một cách vô hạn mà không phải trả giá. Sống trong vũ trụ vật chất, con phải quyết định sử dụng tốt nhất các nguồn năng lực luôn luôn giới hạn mà con có. Nếu con dành thời gian cho một hoạt động nào đó, con sẽ không thể dành cùng thời gian đó cho một hoạt động khác. Nếu con bỏ thời gian và sức lực vào tình dục, con sẽ không thể bỏ thời gian và sức lực vào những hoạt động nhằm tinh tấn tâm linh.

Một trong những nhìn nhận quan trọng nhất về tình dục là ham muốn tình dục gồm có hai loại. Cái tâm thấp kém, cũng gọi là tâm phàm phu hay tâm xác thịt, giống như một cái máy tính điều hành cơ thể vật lý. Một trong những chức năng của máy tính xác thịt này là bảo đảm sự sống còn của cơ thể, trong đó có cả việc truyền giống. Vì vậy, tâm xác thịt đã được lập trình để luôn luôn muốn quan hệ tình dục.

Nhiều người đã đầu hàng trước ham muốn này và nguyên cuộc đời của họ chỉ xoay quanh tình dục. Hoặc là họ đang có quan hệ tình dục, hoặc họ đang tìm cách có quan hệ, hoặc họ đang cảm thấy ham muốn quan hệ. Điểm mấu chốt là  ham muốn tình dục của tâm xác thịt là một ham muốn vô độ. Cho dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa thì vẫn không đủ cho nó.

Nếu con nhượng bộ ham muốn vô độ này, con sẽ mở toang cánh cửa trường năng lượng cá nhân của con ra cho những khêu gợi của thế giới bên ngoài. Con cũng sẽ làm mồi cho một số thế lực thấp kém đang tìm cách xâm nhập trường năng lượng của con. Ta đã mô tả chi tiết hơn những tà thể đó trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is Born in You). Những thế lực này có những ham muốn tình dục không bao giờ có thể thỏa mãn và chúng sẽ cố phóng chiếu ham muốn này lên con. Nếu con nhượng bộ, đời con sẽ bị tiêu hao bởi ham muốn tình dục vô hạn.

Loại thứ hai, khi một dòng sống lần đầu tiên giáng xuống vũ trụ vật chất, con có mong muốn trải nghiệm rất nhiều thứ với thề xác vật lý của con, và điều này bao gồm cả tình dục. Tự thân nó, ham muốn này không có gì là sai trái hay tội lỗi. Tuy nhiên, điều thiết yếu cần nhận ra là ham muốn tình dục của dòng sống là một ham muốn khã dĩ thoả mán được. Nói cách khác, một dòng sống thực sự có thể cảm thấy mình đã đủ quan hệ tình dục và quyết định mình muốn dành ra thời gian và sinh lực để theo đuổi những mục đích tâm linh hơn.

Thật là bình thường nếu trong chiều dài cuộc đời, dòng sống dần dần mất đi khao khát tình dục của mình và bắt đầu chuyển trọng tâm vào các sinh hoạt tâm linh. Cũng có nhiều dòng sống đã vượt qua ham muốn tình dục trong những kiếp trước và vì vậy họ sẵn sàng từ bỏ một cách vĩnh viễn.

Điều quan trọng nhất trước khi con tìm cách chuyển hóa năng lượng tình dục là con phải lấy quyết định về thái độ của con trong vấn đề này. Một khi con đã có một quyết định nội tâm cương nghị về thái độ trước tình dục, cũng như con đã quyết định là con có muốn quan hệ hay không, thì con mới có hy vọng thoát được những công kích từ bên ngoài cùng những ham muốn vô hạn của tâm xác thịt.

Một trong những sai lầm to lớn mà quá nhiều người có đạo phạm phải, đặc biệt nhiều vị tu sĩ, nữ tu và linh mục của Giáo hội Công giáo, là họ không bao giờ có một quyết định tiên khởi như thế. Họ chỉ đơn giản suy nghĩ với cái tâm vỏ ngoài của họ là bởi vì giáo hội đã phán rằng tình dục là tội lỗi, cho nên họ sẽ phải cố gắng dồn nén mọi thèm muốn tình dục xuống. Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là một trận chiến cực kỳ cam go và một số sẽ bị đánh bại. Điều này được thể hiện rõ ràng qua các vụ lạm dụng tình dục của các linh mục Công giáo.

Điều ta muốn nói ở đây là trước khi con làm bất cứ gì để sử dụng một kỹ thuật chuyển hóa năng lượng tình dục, con phải nỗ lực đi đến một trạng thái minh mẫn nội tâm về thái độ của con đối với tình dục. Để đạt được minh mẫn nội tâm này, con hãy dùng kỹ thuật hòa điệu nội tâm mà ta đăng tải trên trang hộp dụng cụ tâm linh. Con hãy cố gắng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và với chính ta. Đừng sợ đến với ta và hỏi ta về tình dục. Ngược với những gì bao nhiêu tín đồ Cơ đốc có vẻ tin tưởng, thái độ của ta đối với tình dục hoàn toàn tự nhiên và thoải mái. Không có đề tài nào cấm kỵ đối với ta. Con có thể hỏi bất cứ điều gì và ta sẽ trả lời. Cái ta Ki-tô thiêng liêng của con, và chính ta, sẽ vô cùng vui mừng giúp con rọi sáng và giải quyết thái độ của con với tình dục.  

Một khi con đã sáng suốt trong nội tâm, con hãy áp dụng kỹ thuật sau đây để nâng năng lượng tình dục lên mức của trái tim.

Một kỹ thuật

Như đã nêu ở nhiều nơi trên trang web này, khoa học đã chứng minh là mọi thứ đều tạo bằng năng lượng. Trường năng lượng của con có một số trung tâm, thường gọi là luân xa. Khi con biểu hiện năng lượng lý trí hay tình cảm, con biểu hiện qua các trung tâm năng lượng này. Một trong các trung tâm nằm ở gốc cột sống ở cùng độ cao với bộ sinh dục, thường gọi là luân xa gốc trong các giáo lý bí truyền.

Khi con tiếp xúc với những năng lượng khêu gợi từ bên ngoài, năng lượng thường đi vào và làm ô nhiễm luân xa gốc của con. Cũng vậy, các ham muốn của tâm xác thịt cũng có thể làm ô nhiễm luân xa gốc. Điều này có thể khiến cho luân xa gốc bị đổi màu, và đối với nhiều người, luân xa sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ hay màu cam. Khi luân xa gốc thuần khiết, nó phát ánh sáng trắng tinh.

Mỗi khi con cảm thấy có kích thích vật lý, kích thích này khởi đầu ở luân xa gốc. Nó khởi sự quay và phát ra năng lượng tình dục tha hóa, khiến cho các bộ phận vật lý bị kích động. Nói cách khác, sự kích động vật lý luôn luôn khởi sự với năng lượng ở luân xa gốc. Nếu con muốn chuyển hóa năng lượng tâm linh, con phải làm cho năng lượng dâng từ mức luân xa gốc lên đến trung tâm năng lượng ở giữa ngực, thường gọi là luân xa tim.  

Kỹ thuật hình dung:

Ngay sau khi con cảm thấy bất kỳ loại kích thích tình dục nào, con hãy lấy quyết định chặn đứng năng lượng chảy vào cơ quan sinh dục.

Tập trung sự chú ý vào luân xa gốc và hình dung nó bắt đầu quay nhanh hơn và ném bật ra mọi năng lượng bất toàn, và nó bắt đầu phát ra ánh sáng trắng tinh. Để giúp con hình dung, con có thể hình dung chính ta, hay Mẹ Mary, đứng trên luân xa gốc. Một số chân sư thăng thiên có liên hệ với một số loại ánh sáng tâm linh, và Mẹ Mary thì dụng công với ánh sáng màu trắng, cũng gọi là Ánh sáng Mẹ, của luân xa gốc. Cho nên Mẹ Mary sẽ vô cùng sẵn sàng giúp con hoán chuyển năng lượng tình dục.

Khi con cảm thấy luân xa gốc phát ra ánh sáng màu trắng, con hãy hình dung ánh sáng trắng này dâng lên tới luân xa tim, được biểu đạt qua luân xa này như là ánh sáng màu hồng của tình thương. Con có thể hình dung luăn xa tim như một đóa bông hồng với 12 cánh hoa. Bông hồng quay tròn, tỏa ra một ánh hồng dịu rất đẹp.

Con hãy chú tâm vào một đấng tâm linh, có thể là Thượng đế, Mẹ Mary, chính ta hoặc một đấng tâm linh nào khác tùy ý con, và con hãy gửi tình yêu mãnh liệt về đấng ấy.

Con hãy hình dung là con bắt liên lạc với vị thày tâm linh và thiết lập một dòng chảy hình số 8 giữa con và vị thày. Con đang nâng năng lượng từ luân xa gốc lên mức của luân xa tim, và con gửi năng lượng này lên vị thày. Vị thày sẽ gửi trả năng lượng lại xuống luân xa tim của con nơi nó sẽ nối kết thành một dòng chảy hình số 8 xuống đến luân xa gốc.

Con hãy hình dung dòng chảy hình số 8 này giữa con và vị thày cho tới khi con cảm thấy mọi năng lượng ô uế đã được thanh lọc.

Một khi con bắt đầu thực tập kỹ thuật này đều đặn, nó sẽ trở thành gần như tự động. Con sẽ có thể thực hiện ở mọi nơi chỉ trong vài giây, và con sẽ ngạc nhiên trước kết quả đạt được. Tuy nhiên, không một kỹ thuật tâm linh nào có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Do đó, trước tiên con phải làm rõ thái độ của con đối với tình dục và có một quyết định nội tâm cương quyết đối với mối quan hệ của con với tình dục. Đây là một quyết định mà chỉ có con lấy được.

Những ham muốn chính đáng không dẫn đến nghiện ngập

Hỏi: Thưa Giê-su, xin thày vui lòng nhận xét về những ích lợi sức khỏe tiềm tàng của việc uống rượu đỏ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta có biết về một số nghiên cứu khoa học cho thấy uống rượu vang đỏ có thể ngăn ngừa bệnh tim. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó có xem xét đến hậu quả tiêu cực của việc uống nhiều rượu trên cơ thể trong những khía cạnh khác hay không?

Trên địa cầu có rất nhiều loại thực vật được Thượng đế đặt sẵn ở đây để con người dùng làm thuốc. Con người sẽ được ích lợi rất nhiều nếu sử dụng những phương thuốc tự nhiên này để chữa bệnh và chấm dứt sự tham lam của ngành dược phẩm.

Điều ta muốn nói là trong nho đỏ có những chất hóa học rất lợi ích cho sức khỏe. Vấn đề là để hưởng những ích lợi này, con phải tiêu thụ thật nhiều nho đỏ. Nếu con uống rượu để cung cấp đủ lượng nho, chất rượu sẽ làm hại sức khỏe của con. Nó cũng có thể gây ra nghiện ngập và chắc chắn sẽ tác động tiêu cực trên những khả năng tâm linh của con. Vì vậy, ta thực sự khuyên con nên ăn nho tươi, nho khô hay uống nước ép nho.

Ta biết là một số người đã ham uống rượu từ lâu và họ luôn tìm những lý do chính đáng để có thể thoả mãn ham muốn của họ. Xu hướng con người nói chung là luôn tìm cách bào chữa cho những việc mình làm do lòng ham muốn. Và những người đó sẽ dùng các nghiên cứu khoa học để biện minh cho việc uống rượu của mình.

Lời khuyên của ta là nếu con ham muốn uống rượu, con nên công nhận lòng ham muốn này thay vì tìm cách che đậy và nói rằng con chỉ uống bởi vì lợi ích cho sức khỏe. Một khi con nhìn nhận ham muốn uống rượu thì con mới có thể khởi sự có được những sự chọn lựa trí tuệ về lòng ham muốn đó.

Một chọn lựa mà con có là nhìn nhận rằng có nhiều ham muốn không phải là của con. Những ham muốn này đã được phóng chiếu vào tâm và cảm thể của con bởi những thế lực của thế gian, với động lực không trong sáng trong nhiều trường hợp. Ta có thể cam đoan với con là Thượng đế đã không đặt rượu vào hành tinh này. Ngược với sự cả quyết của một số người, rượu không bao giờ có thể phát huy sự phát triển tâm linh của con. Thật ra, ngay cả một lượng rượu rất nhỏ cũng sẽ làm cùn các khả năng tâm linh. Nó sẽ làm giảm trực giác của con, khiến con khó chiêm nghiệm nội giác và cảm quan tâm linh.

Cho nên một người tầm đạo thực tâm sẽ khôn ngoan kiêng cữ tất cả mọi loại rượu. Điểm này cũng áp dụng cả cho việc dùng rượu thánh trong nghi lễ. Thuở xưa, người ta thật khó bảo quản nước nho ngoài mùa nho, và do đó rượu là cách thực tiễn duy nhất. Thời nay nhờ công nghệ, nước ép nho có thể được dọn ra bất cứ khi nào trong năm, và do đó không còn lý do gì để dùng rượu trong những lễ thánh.

Ta không đang nói là mọi người phải kiêng rượu. Nhiều người có mong muốn trải nghiệm một số thú vui của thế gian, kể cả thức ăn ngon kẻm với rượu vang. Đây có thể là một ham muốn chính đáng. Nhưng ta phải nói với con là một ham muốn như vậy không bao giờ dẫn đến nghiện ngập. Không ai có mong muốn say túy lúy rồi thức dậy với cơn đau đầu, hay lãng phi đời mình trong nghiện ngập. Vì vậy, nếu con uống rượu vì lòng ham muốn, con sẽ uống chừng mực.

Một khi con vượt qua lằn ranh vi tế giữa việc thưởng thức rượu và nghiện rượu, con có thể chắc chắn là con không còn đi theo một ham muốn đích thực ở bên trong nữa. Thay vào đó, dòng sống của con đang bị lợi dụng bởi những thế lực của thế gian muốn ngăn cản sự phát triển tâm linh của con.

Một ham muốn đích thực là một ham muốn có thể thỏa mãn. Con có thể cảm thấy thoả thuê, no đủ, khi con thưởng thức rượu trong một bữa cơm mà không bị xỉn. Và ham muốn này cũng có thể thỏa mãn trong dài hạn bằng cách vĩnh viễn bỏ lại mọi ham muốn uống rượu một khi con đã ngộ ra là việc gìn giữ khả năng tâm linh cho nhậy bén quan trọng hơn là việc hưởng thụ những thú vui giác quan.

Điều ta muốn nói là ở một mức nào đó trên đường phát triển của dòng sống, việc thưởng thức rượu một cách chừng mực có thể chấp nhận được. Nhưng khi dòng sống trưởng thành hơn, điều tự nhiên là nó sẽ bắt đầu tập trung chú ý nhiều hơn vào thế giới tâm linh. Và khi làm vậy, nó sẽ buông bỏ một cách tự nhiên mọi ham muốn dùng rượu.

Nguyên nhân tâm linh của béo phì

Hỏi: Người béo sẽ có xuống địa ngục không? Tham ăn là gì? Con biết tham ăn là sai trái, một cái tội, nhưng một người tham ăn cụ thể là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một số người béo sẽ xuống địa ngục, và một số người béo sẽ lên thiên đàng. Hay nói cách khác, số cân của một người không phải là yếu tố quyết định người đó sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục.

Và nhân tiện đang nói, địa ngục không phải như đa số các tín hữu đạo Cơ đốc hình dung. Địa ngục là một trạng thái tâm thức phát xuất từ ảo tưởng cho rằng người ta có thể tạo ra một nơi tách biệt khỏi Thượng đế. Vì vậy địa ngục không có thực. Nó chỉ có thực cho tới khi nào dòng sống còn tiếp tục làm tha hóa năng lượng của Thượng đế nhằm duy trì ảo tưởng rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế.  

Ta định nghĩa tham ăn là một chứng rối loạn, là một sự mất cân bằng tâm lý nằm ở mép ranh giới với bệnh tâm thần, và có khả năng trở thành bệnh tâm thần thực thụ. Cho nên người tham ăn là một người đã mất kiểm soát việc ăn uống và không thể ngừng ăn, ngay cả khi nó tàn phá cơ thể vật lý của mình.

Ngược với kiến thức thông thường, bệnh béo phì hay tham ăn không phải là một tình trạng di truyền, mặc dù một người có thể có khuynh hướng béo phì do di truyền. Tất cả mọi sự xảy ra trong cơ thể vật lý đều có một đối tác tâm lý, vì thế tham ăn cũng có một nguyên nhân tâm lý. Có hai lý do chính khiến một người có xu hướng ăn quá nhiều.

Một lý do là vì người đó mang những vết thương tình cảm và vì vậy cảm thấy mình có nhược điểm dễ bị ngoài đời tấn công. Trong một nỗ lực của tiềm thức nhằm cách ly bản thân khỏi thế gian, dòng sống thầm mong mình lên cân trong tiềm thức. Thêm cân tạo ra một lớp cách nhiệt và trong tiềm thức dòng sống cảm thấy an toàn. Điều này khiến cho dòng sống đó cảm thấy như mình có thể chui vào trong vỏ của mình và ẩn nấp khỏi thế gian.  

Dạng béo phì này, hay tham ăn, có thể được khắc phục qua việc trị liệu tâm lý, qua những hình thức trị liệu truyền thống, hoặc một số liệu pháp mới vừa xuất hiện trong mấy thập niên qua. Nếu nỗ lực một cách nghiêm túc, bệnh nhân có thể khắc phục ý muốn cách ly bản thân với thế giới, dẫn đến sự giảm cân đáng kể. Một kết quả khác là chế độ ăn uống sẽ lành mạnh hơn, hỗ trợ cho tiến trình giảm cân.     

Tuy nhiên, những trường hợp tham ăn nghiêm trọng là một hình thức nghiện ngập. Như bất cứ bệnh nghiện hóa học nào khác, nó rất khó bỏ. Một lần nữa, một bệnh nghiện, ngay cả hóa học, cũng không khởi đầu do một nguyên nhân vật lý mà một nguyên nhân tâm lý, và khi bệnh nghiện hóa học đã bám chắc thì nó mới tràn xuống cơ thể vật lý.  

Trong bệnh tham ăn, nó bắt đầu với mong muốn được bảo vệ như ta vừa mô tả ở trên. Tuy nhiên trong những trường hợp nghiêm trọng, nó không chỉ là dòng sống mang vết thương tâm lý. Điều có thể xảy ra là những vết thương tâm lý này đã khiến cho dòng sống kéo hút những tà thể ở bên ngoài, có thể dưới dạng những hồn không xác – tức là những người đã qua đời nhưng dòng sống chưa bước vào cõi ánh sáng như hầu hết các dòng sống khác. Con có thể tìm thấy một số cuốn sách mô tả hiện tượng này, như một số sách về các trải nghiệm cận tử (near-death experiences). Dòng sống cũng có thể bị ám bởi một tà thể ác ý, chẳng hạn như một con quỷ.  

Đối với những người mắc bệnh tham ăn trầm trọng, hay béo phì trầm trọng, ta khuyên họ nên tìm hiểu hiện tượng này một cách sâu xa và khách quan, và áp dụng những kỹ thuật đúng đắn để khắc phục mọi sự can thiệp từ bên ngoài cũng như những vết thương của mình. Việc này gồm có cả việc bảo vệ tâm linh, như được trình bày trong trang Hộp Dụng cụ. 

Giáo lý nền tảng về tình dục và đồng tính luyến ái

Hỏi (Kim Michaels): Thưa thày Giê-su, gần đây người ta chú ý rất nhiều đến vấn đề đồng tính luyến ái, kể cả sự kiện một số tiểu bang tại Hoa kỳ có thể công nhận hôn nhân đồng tính, giáo hội Episcopal có thể bầu lên một vị giám mục đồng tính và Tối cao Pháp viện có thể bác bỏ luật chống dâm loạn của tiểu bang Texas. Gần đây, có một tham dự viên đặt câu hỏi là liệu linh hồn của anh đã được Thượng đế sinh tạo ra như một linh hồn đồng tính hay không. Một số khuôn mặt đồng tính nổi tiếng có tuyên bố rằng Thượng đế đã sinh tạo ra họ như là người đồng tính. Thày có nhận xét gì về điều này?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đón nhận cơ hội được bình luận về một đề tài đã gây rất nhiều bối rối và chia rẽ trong xã hội. Sự chia rẽ và hiềm khích thật là không cần thiết và chỉ có thề xoa dịu được qua sự hiểu biết đúng đắn. Ta có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là Thượng đế không bao giờ tạo ra linh hồn nào là một linh hồn đồng tính luyến ái. Lý do là vì Thượng đế không tạo ra linh hồn.

Để hiểu được điều này, con cần suy ngẫm những giáo lý của ta về mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và cỗ xe 4 lớp hay cỗ xe linh hồn. Một khi con lãnh hội những giáo lý này, con sẽ thấy Hiện diện TA LÀ không chỉ là nam hay là nữ mà mang sẵn cả hai phẩm cách. Cũng vậy, cái Ta Biết không là nam hay nữ bởi vì nó là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không mang một sự phân biệt nào cả – nó đã được tạo ra để làm cánh cửa mở, làm tấm kính trong suốt cho Hiện diện TA LÀ.

Cho nên toàn bộ vấn đề tình dục của con người chỉ hiện diện ở cấp độ của cỗ xe linh hồn gồm có 4 lớp. Và như ta đã giải thích, cỗ xe này không do Thượng đế tạo ra: nó do cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu đạt qua trung gian một thân xác vật lý. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, cỗ xe linh hồn được con người tạo ra do họ đã chọn bước vào tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con chỉ có thể xem mình là một sinh thể tách biệt bằng cách bước vào tấm màn của nhị nguyên – có nghĩa là bây giờ con nhìn mọi thứ như là những đối cực nhị nguyên hay những cặp đối lập với nhau.    

Ở đây con cần bén nhậy mà nhận ra một sự phân biệt vi tế. Chúng tôi đã có giảng rằng hầu tạo ra thế giới hình tướng khác biệt, Đấng Sáng tạo nhất nguyên đã tự biểu hiện thành hai thái cực. Chúng tôi đã gọi đó là lực lan ra và lực co lại, nhưng để mọi người có thể nắm bắt khái niệm này dễ dàng hơn, chúng tôi cũng có gọi đó là nam và nữ. Con cần lưu ý, ngôn từ trên địa cầu không phải lúc nào cũng có khả năng bộc lộ đầy đủ những khái niệm tâm linh như thế, có nghĩa là con không thể chuyển bừa bãi khái niệm tình dục của con người vào hai thái cực cơ bản của Thượng đế. Và đương nhiên, Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm giới tính của con người.       

Con cũng cần lưu ý rằng bản chất của tâm thức nhị nguyên và tự ngã là luôn luôn muốn ép uổng đặc tính của con người vào Thượng đế. Tự ngã sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng một tâm ảnh về thế giới, rồi phóng chiếu tâm ảnh đó lên mọi thứ. Tự ngã tìm kiếm sự minh chứng tối hậu cho tâm ảnh của nó bằng cách phóng chiếu tâm ảnh này lên Thượng đế, và nó bảo rằng chính Thượng đế đã tạo ra tâm ảnh đó, hay rằng tâm ảnh không phải là tâm ảnh mà chính là thực tại của Thượng đế. Đây chính là cơ sở của hầu hết mọi tôn giáo cũng như của mọi xung đột giữa các tôn giáo.

Cho nên quả thực là có hai thái cực, nhưng tự ngã và tâm thức nhị nguyên không thể nhìn ra được hai thái cực đó trong dạng thuần khiết. Tâm thức nhị nguyên chỉ làm được một chuyện là làm tha hóa hai phẩm cách đó, nghĩa là thay vì bổ sung cho nhau thì bây giờ cả hai có vẻ chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Rồi tự ngã phóng chiếu hai đối cực tha hóa này lên nguyên bản mà cứ tưởng đó thật sự là bản chất của Thượng đế.    

Vì vậy, đúng là có hai thái cức thiêng liêng, nhưng cả hai đều vượt khỏi và vượt lên trên mọi ý niệm giới tính của con người. Điều này có nghĩa là con không thể hiểu được trọn vẹn tình dục con người trừ khi con cũng hiểu biến cố sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, và sự sa ngã này đã tác động sâu đậm như thế nào lên mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu.

Như chúng tôi có giảng dạy, ở nguyên thủy, địa cầu do các Elohim tạo ra vốn ở một trạng thái cao hơn, tinh khiết hơn so với bây giờ. Ngay cả vật chất cũng không dày đặc, nghĩa là những thể mà các con gọi là vật thể vật lý cũng không dày đặc như bây giờ. Khái niệm Vườn Eden biểu tượng cho một trạng thái nơi các dòng sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của mình duy qua quyền năng của tâm mình. 

Trong trạng thái nguyên thủy đó, xác thân không có bộ phận sinh dục. Xác thân nguyên thủy được tạo bằng năng lượng cao tần hơn cơ thể vật lý của các con, và xác thân được làm bằng năng lượng tuy là vẫn có thể chất. Vào thời đó không có nhu cầu tạo ra xác thân mới ở cùng một độ rung, bởi vì “vật chất” – hay thể chất – rất thanh nhẹ, và vì vậy chỉ cần vận dụng quyền năng tâm trí là có thể tạo ra xác thân mới. Các dòng sống trong Vườn Eden vẫn khác biệt trong phẩm cách nam và nữ, tuy nhiên điều này vượt ngoài mọi giới tính vật lý.    

Sau khi sa ngã vào nhị nguyên, vật chất đặc lại – theo đúng nghĩa đen như vậy. Cùng lúc, các dòng sống đi vào nhị nguyên cũng đánh mất quyền năng tâm trí đang cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu sinh sống cho mình. Sự kiện này được phác họa qua câu chuyện của Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Địa đàng, và thay vì được tha hồ hái quả trên cây thì bây giờ họ phải “đổ mồ hôi trán” mà tự nuôi lấy thân mình.      

Quá trình sa ngã này khá phức tạp, cho nên để khỏi lạc đề, ta sẽ nói giản dị là chỉ sau khi bị sa ngã vào nhị nguyên, con người mới phải khoác lấy cái xác thân dày đặc mà ngày nay các con gọi là cơ thể vật lý. Xác thân này có bộ phận sinh dục do quá trình tiến hóa, như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày. Nói cách khác, chỉ do sự sa ngã vào tâm thức nhị nguyên mà cơ thể vật lý mới được tạo ra nơi cõi vật lý, và do đó sự sinh sản vật lý mới trở nên cần thiết.

Sự thay đổi này tác động sâu xa đến tình trạng của cái Ta Biết, bởi vì bây giờ nó phải tạo ra một cỗ xe linh hồn thì nó mới hội nhập được với cơ thể vật lý dày đặc đó. Trước khi sa ngã, hoàn toàn không có nhu cầu một cỗ xe linh hồn mang giới tính nam hay nữ. Nhưng sau cuộc sa ngã thì sự phân biệt thành cơ thể nam hay nữ trở thành yếu tố định đoạt cơ thể con người.    

Như ta có giảng dạy, con có bốn tầng của tâm, bốn thể phàm. Thể cao nhất là thể bản sắc nơi con xác định ý niệm cơ bản về cái ta của con trong thế giới vật chất. Cho nên sau khi sa ngã, sự phân biệt giữa nam và nữ đã nằm sẵn ngay nơi tầng bản sắc. Hệ quả là ngay khi dòng sống bước vào hiện thân vật lý, nó bắt đầu tự nhận diện nó thuộc về giới tính nào rồi. Chẳng hạn, một dòng sống có thể sống nhiều kiếp trong một cơ thể nam giới. Có nghĩa là đối với một dòng sống tương đối “mới”, giới tính sẽ trở thành một thành phần chủ yếu trong bản sắc của nó, và nó thường sẽ tự nhận mình là một linh hồn có giới tính nam hay nữ.

Con hãy ghi nhận một điểm sâu sắc ở đây. Sự kiện cơ thể có sự khác biệt giữa nam và nữ có thể là một điểm gợi ý cho con về tâm thức nhị nguyên. Như ta đã nói, tâm thức nhi nguyên đã làm tha hóa hai thái cực thiêng liêng nguyên thủy, tạo ra sự mất cân bằng. Sự tha hóa này được thể hiện trong cơ thể qua bộ phận sinh dục nam và nữ, và sự sống mới chỉ có thể ra đời khi cả hai cơ thể nam lẫn nữ kết hợp với nhau. Ý nghĩa sâu kín là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con trở thành một sinh thể không trọn vẹn. Trong nhị nguyên, con sẽ không bao giờ được trọn vẹn, và đó là lý do người ta luôn luôn cảm thấy lẻ loi, thiếu sót. Sự kiện con phải kết hợp với một cơ thể khác phái để tạo ra sự sống mới là biểu tượng cho con thấy con phải tìm được một sự cân bằng thiêng liêng giữa hai phẩm cách nam và nữ hầu đạt đến trạng thái viên mãn tạo sinh ra sự sống mới trong tâm thức Ki-tô. Con cần kết hợp lại hai thứ mà con hiện xem là đối cực và giải quyết sự xung đột giữa cả hai. Cho tới khi nào con còn thiếu cân bằng thì con sẽ không thể thăng vượt đươc cõi vật lý, là nơi con phải làm lụng “đổ mồ hôi trán”.

Mục đích cuộc sống là tăng trưởng tâm thức, dẫn đến những tầng ngày càng cao hơn trong tâm thức Ki-tô, cho đến khi con sẽ thượng thăng vĩnh viễn khỏi địa cầu. Một khía cạnh của tiến trình tăng trưởng này là con phải thăng vượt ý niệm bản sắc thế phàm, tất nhiên kể cả tình dục con người. Ta cũng biết chúng tôi thường hay hiện ra là chân sư thăng thiên nam hay nữ, và nói chung chúng tôi hay chọn biểu hiện những đặc tính chủ yếu là nam hay nữ. Tuy nhiên những đặc tính này của chúng tôi vượt khỏi mọi giới tính nơi trần thế, và điều này có nghĩa là con phải thăng vượt tình dục nhị nguyên của con người thì con mới thăng thiên được.

Nói cách khác, con có thể khoác một cơ thể nam trong kiếp chót của con trước khi thăng thiên, nhưng con sẽ không thăng thiên được nếu con tự xem mình là một linh hồn phái nam. Con sẽ chỉ thăng thiên khi nào con đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa hai phẩm cách thiêng liêng nam và nữ hầu con không đồng hóa với một phẩm cách nào. Vậy thì làm thế nào con sẽ đạt được sự cân bằng này? Phải rồi, bằng cách con thăng vượt mọi khái niệm nhị nguyên thế phàm của nam lẫn nữ.

Khi dòng sống trưởng thành hơn, y sẽ phải tu thân để khắc phục sự đồng hóa nguyên thủy của y với một giới tính. Có nghĩa là một dòng sống đang trưởng thành sẽ sống qua một giai đoạn khi y sẽ luân phiên đầu thai trong cơ thể nam và nữ. Một số dòng sống sẽ thay đổi giới tính mỗi kiếp đầu thai, trong khi đó thì một số khác sẽ đầu thai ba kiếp liền trong một giới tính rồi mới thay đổi. Nhưng con nắm được vấn đề chứ, phải không? Mục đích là để giúp con vượt qua sự tự đồng hóa với tình dục con người hầu con không định nghĩa bản sắc của mình dựa trên giới tính nữa, mà con xem mình là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi giới tính con người – mặc dù con vẫn tự biểu đạt qua trung gian một cơ thể nam hay nữ.  

Vấn đề là đối với một số dòng sống, việc vượt qua giới tính của mình tương đối dễ dàng, trong khi đối với một số khác, việc này khó hơn nhiều. Thật ra đối với một số dòng sống, đó sẽ là việc cuối cùng họ sẽ phải vượt qua trước khi thăng thiên. Có nghĩa là, chẳng hạn, sẽ có khả năng một dòng sống khoác lấy một cơ thể nam trong khi chưa buông bỏ được sự đồng hóa với một linh hồn nữ. Nói cách khác, họ mang cơ thể nam nhưng vẫn duy trì sự hấp dẫn tình dục đối với cơ thể nam mà họ đem theo từ tiền kiếp. Điều này dẫn đến một số vấn đề mà họ gặp phải trong tình dục, từ lưỡng tính (bisexuality), đổi giới tính (transsexuality) cho đến đồng tính (homosexuality).    

Điều khiến cho toàn bộ cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái trở nên rắc rối là vì trong một thời gian rất dài, những người theo tôn giáo đã định nghĩa đồng tính là một tội lỗi. Điều này khiến cho một số dòng sống phải cố bênh vực sự đồng tính của mình, một phần vì họ nhận ra là họ đã sinh ra với khuynh hướng đó, và phần khác là do lòng tự ái không muốn buông bỏ tình trạng này. Nhưng điều ta muốn nói ở đây là để tăng trưởng tâm linh và thăng thiên, con phải vượt lên trên TẤT CẢ mọi loại tình dục của con người. Cho dù con đồng tính hay dị tính (heterosexual), thì con vẫn phải bỏ lại đằng sau cái xu hướng tự nhận diện mình theo giới tính của cơ thể vật lý. Và khi nào con còn tìm cách biện hộ cho tình dục của con trong một cuộc tranh cãi nhị nguyên chống lại người khác – và những người này thì cũng bị kẹt trong nhị nguyên y như con – con sẽ không thể bỏ nó lại đằng sau.  

Con không thể thăng vượt một cái gì mà con cố bênh vực. Con chỉ có thể thăng vượt được một cách mà thôi, là buông bỏ tất cả mọi sự đồng hóa với một điều kiện nào đó. 

Kim Michaels: Đây là một lời giải thích vô cùng thâm sâu về một vấn đế đã khiến cho rất nhiều người đạo Cơ đốc bị bối rối. Vì họ nghĩ rằng linh hồn là do Thượng đế tạo ra, cho nên họ không thể hiểu được tại sao họ lại đồng tính nếu quả thật ngài đã không tạo ra người đồng tính? Điều này cũng giải thích tại sao nhiều người tin rằng họ có thể sinh ra là người đồng tính.

Giê-su: Sự lầm lẫn này bắt nguồn từ sự kiện giáo hội Cơ đốc chính thống cách đây 1500 năm đã quyết định nghiêm cấm và xem là tà giáo ý tưởng bảo rằng linh hồn đã tồn tại từ trước. Cho nên suốt 1500 năm trời, nền văn hóa phương Tây đã bị chi phối bởi một hệ tư tưởng, một hệ tín ngưỡng, bác bỏ luân hồi và đầu thai. Như ta có giải thích ở nhiều nơi trên trang mạng này, đây là một quyết định chính trị sai lầm đã gây ra biết bao nhầm lẫn trong thế giới phương Tây. Sự thật giản dị là nếu con không chấp nhận linh hồn đã tồn tại rất lâu trước khi nó hiển thị trong kiếp đầu thai này, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi mà con không thể tìm được lời giải đáp ổn thỏa. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong vô số những câu hỏi như thế.

Có một sự hiểu lầm rất phổ biến về đồng tính cũng như về rất nhiều điều kiện khác của con người, cho rằng – trong một nghĩa nào đó – con người là nạn nhân của các điều kiện đó. Quá nhiều người tin rằng điều kiện đó là kết quả của một số yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, là điều kiện bị áp đặt từ bên ngoài, và bây giờ mình không có chọn lựa nào khác hơn là phải chung sống với nó.

Đây là một lời ngụy biện. Đây là một lời gian dối. Đây là một trong những lời gian dối hiểm độc nhất có thể tìm thấy trên địa cầu – là lời gian dối rằng con người là nạn nhân của một số thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thay vì chính mình là tác giả của số phận của mình.   

Một trong những điểm chủ yếu mà ta cố gắng trình bày trên trang mạng này là chính con người do sự chọn lựa của mình đã tạo ra những điều kiện hiện tại. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết, đơn giản là ngài sẽ không thể thay đổi được tình trạng khốn khổ hiện nay trên địa cầu. Nổi khốn khổ này chỉ có thể được xóa bỏ một khi con người, một cách ý thức và cố tình, khởi sự có được những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ.

Rõ ràng, hầu hết mọi người đều không ý thức được những chọn lựa mà mình đã có trong quá khứ, và do đó họ không thấy được là họ đã tạo ra hoàn cảnh hiện thời của họ. Ta vô cùng thương cảm loài người và ta hiểu rõ tại sao con người lại cảm thấy mình là nạn nhân. Tuy nhiên mục đích của trang web này – cũng như của mọi giáo lý tâm linh chân truyền khác – là để giúp con người bước lên cao hơn trong tâm thức. Sự thật tàn bạo là con không thể tăng triển tâm linh khi nào con vẫn còn xem con là nạn nhân.    

Con chỉ có thể tăng triển bằng cách nhận ra rằng con có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Nhưng sự công nhận này chỉ đến được khi nào con chấp nhận rằng hoàn cảnh của con là kết quả những lựa chọn đã qua bởi cái Ta Biết của con. Chỉ khi nào con chấp nhận điều này thì con mới có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Con có thể làm được chuyện này bằng cách lựa chọn tốt hơn, và chìa khóa để chọn lựa tốt hơn là giải quyết những tin tưởng lầm lạc cùng những vết thương tâm lý đã khiến con có những chọn lựa gây giới hạn trong quá khứ.  

Kim Michaels: Như vậy có phải chăng là thày nói rằng nếu không chấp nhận luân hồi và đầu thai thì sẽ không thể giải thích được nguyên nhân của đồng tính?

Giê-su: Đồng tính luyến ái phát xuất từ một lựa chọn của cái Ta Biết. Lựa chọn này đã không xảy ra trong bụng mẹ hay ngay cả trong kiếp này, mà đã xảy ra cách đây rất lâu, và đối với hầu hết mọi dòng sống, lựa chọn đó đã xảy ra ngay sau khi dòng sống nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn luôn luôn là một tiến trình lần hồi. Nó lần hồi đến độ đa số dòng sống không nhận thức được là nó đang diễn ra. Thực tế là một số dòng sống hiện vẫn chưa nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên, nhiều dòng sống sẽ trải qua một giây phút sáng ngộ khi họ nhận ra rằng họ đã đánh mất một cái gì đó mà trước kia họ vốn có. Họ có một “kinh nghiệm chấn động” khi họ nhận ra là họ đã bị rớt khỏi trạng thái ân sủng, và vấn đề giờ đây là họ phải cần làm gì để đáp ứng lại trải nghiệm đó.     

Khi một dòng sống nhận ra làm mình đã sa ngã, y có thể phản ứng nhiều cách. Một số dòng sống sẽ nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và họ cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn họ tới một trạng thái tâm thức cao hơn nơi họ bắt được liên lạc ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đây chính là con đường tâm linh mà ta mô tả suốt trang mạng này.

Một số dòng sống khác sẽ từ chối nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình, khiến họ phản ứng lại bằng hai cách, và cả hai cách đều có thể dẫn đến đồng tính luyến ái. Trong cách thứ nhất, một số đổ lỗi cho khía cạnh nữ trong bản chất của mình đã khiến cho mình sa ngã. Một trong những đặc tính của khía cạnh nữ là giúp con thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, thế nhưng khi con thích nghi quá trớn, con có thể làm tổn hại đến cá thể thiêng liêng của con, và đây chính là lý do khiến cho nhiều dòng sống rơi vào nhị nguyên. Sự thể này phát triển thành sự thù ghét khía cạnh nữ của Thượng đế, thù ghét Mẹ, và được trình chiếu ra thành sự thù ghét phụ nữ nói chung, hay một hình thức nhẹ hơn là sự cảm nhận tiêu cực về phụ nữ.

Sự thù ghét khía cạnh nữ này khiến cho cỗ xe linh hồn bị vỡ đôi. Linh hồn không thể viên mãn và quân bình được nếu không có sự phân cực đúng đắn giữa hai yếu tố nam và nữ trong bản chất của nó.   

Một số dòng sống dần dần cảm thấy ghê tởm nữ giới và họ thường chọn đầu thai làm người nam giới đồng tính. Một số khác nảy sinh mong muốn trừng phạt hay khuất phục nữ giới, và họ thường đầu thai làm những người nam dị tính có khuynh hướng săn lùng tình dục hoặc đề cao phái nam quá đáng. Trong những trường hợp cùng cực, họ có thể trở thành kẻ hiếp dâm hay thậm chí kẻ giết người hàng loạt. Hoặc đỡ hơn một chút, họ trở thành những kẻ săn lùng tình dục, sử dụng phụ nữ làm nô lệ cho mình – không cứ là để thoả mãn tình dục tức thì mà để trừng phạt phụ nữ. Xuyên qua các thời đại, tệ trạng này đã gây ra không biết bao nhiêu sự lạm đụng đối với phụ nữ.    

Trong cách thứ nhì, một số dòng sống cũng nhận ra rằng chính khía cạnh nữ của họ đã sa ngã, nhưng họ lại đổ lỗi cho khía cạnh nam của họ. Họ cho rằng khía cạnh nam này đáng lý đã phải ngăn chặn được khía cạnh nữ chạy theo thế gian. Và họ trở nên căm thù Cha, hay khía cạnh nam củaThượng đế. Họ đeo đuổi mong muốn trừng phạt khía cạnh nam, và điều này thường biểu hiện qua ý muốn trừng phạt phái nam hay bắt đàn ông phải nhận lỗi.

Một số những dòng sống này chọn đầu thai trong một cơ thể nữ và trở thành đồng tính nữ. Họ biểu lộ lòng căm thù đối với phái nam bằng cách quan hệ tình dục với phái nữ. Nhưng cũng có một số khác chọn đầu thai làm người nữ dị tính, và họ bỏ ra cả đời tìm cách trừng phạt hoặc khuất phục đàn ông. Họ thường sử dụng tình dục hay một số phương thức tâm lý nào khác để khiến cho đàn ông cảm thấy mình thấp kém hơn, hay mình có lỗi. Suốt dòng lịch sử, tệ trạng này đã gây ra rất nhiều thù nghịch giữa hai phái cũng như rất nhiều lạm dụng, chủ yếu là sự lạm dụng tâm lý đối với phái nam.     

Con cần lưu ý là nhiều dòng sống đã cư ngụ trên địa cầu này từ rất lâu đời, cho nên họ đã cơ hội phát triển những nét tâm lý vô cùng phức tạp, qua đó họ đã chôn vùi phản ứng của họ đối với biến cố sa ngã dưới nhiều lớp tin tưởng và vết thương tâm lý. Cho nên khi một người tự xem mình là đồng tính thì điều này cũng có thể mang nhiều yếu tố khác nữa. Và như ta giải thích ở trên, yếu tố thông thường nhất là sự bối rối, lầm lạc của dòng sống đối với bản sắc giới tính của mình, phát xuất từ một bản sắc đã bị đông cứng lại từ nhiều tiền kiếp.   

Nguyên nhân của đồng tính phức tạp hơn mọi điều có thể được trình bày trừ khi viết ra thành nguyên một bộ sách. Cho nên mục đích chính của ta ở đây là chỉ ra cho con thấy rằng cái tiến trình khiến cho một dòng sống tự xem mình là đồng tính đã khởi đầu từ rất lâu trước kia khi y lần đầu tiên phản ứng lại sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.   

Kim Michaels: Vậy có vẻ như đồng tính luyến ái đã không do Thượng đế sinh tạo và do đó không phải là một điều tự nhiên. Thày nghĩ gì khi nhiều người theo Cơ đốc giáo chính thống gán cho đó là một tội lỗi, một chuyện ghê tởm, và họ còn cố khiến cho người đồng tính cảm thấy mình có tội?

Giê-su: Một trong những diễn biến đáng buồn nhất trong 2000 năm qua là sự kiện có quá nhiều giáo hội Cơ đốc đã quên mất – và rời bỏ – một trong những tinh túy trong giáo lý tâm linh của ta, đó là tình thương vô điều kiện. Ta đã chẳng bảo mọi người đạo Ki-tô phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình hay sao? Ta đã chẳng khuyên họ hãy đừng phán xét? Vậy thì tại sao nhiều tín hữu Cơ đốc lại phán xét anh chị em của mình và gán cho họ một tội nặng hơn cả mọi tội khác?    

Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, Giáo hội Công giáo sơ khai đã không đi đúng chủ ý cùng giáo lý nguyên thủy của ta. Vì lý do chính trị, rất nhiều điểm đã bị loại bỏ khỏi giáo lý nguyên thủy của ta, và vì thế Giáo hội không còn khả năng giải đáp rất nhiều câu hỏi mà các tín hữu đặt ra về cuộc sống tâm linh. Các giáo điều chính thống, tự nhận là không thể sai sót, thật sự đã không đem lại được nhiều câu trả lời cho người tầm đạo. Vì lý đo đó, Giáo hội đã rời xa viễn kiến ban đầu của ta về một giáo hội sẽ đem lại những lời giải xác thực và chân chính cho mọi người. Thay vào đó, Giáo hội chỉ đưa ra được một số giáo điều, rồi lại tìm cách doạ nạt để không ai còn dám đặt ra những câu hỏi mà giáo điều chính thức không có khả năng giải thích.

Dần dà, tình trạng này dẫn đến một không khí sợ hãi đầy mặc cảm tội lỗi trong giáo hội. Hiển nhiên điều này đã có nhiều tác dụng tiêu cực, và trong bối cảnh đó, hậu quả là các giáo hội Cơ đốc đã không có phương cách hữu hiệu nào để giúp đỡ người đồng tính. Thay vào đó, giáo hội chỉ còn cách gắn một cái nhãn tội lỗi tày trời cho họ, rồi tìm cách dùng sợ hãi và mặc cảm tội lỗi để khiến họ phải bỏ đi những hành vì đồng tính vỏ ngoài của mình. Tất nhiên, cách trấn áp như vậy không làm gì để giúp cho người đồng tính giải quyết sự mất cân bằng nội tâm đã gây ra đồng tính.

Như ta trình bày ở trên, vấn đề chủ yếu với đồng tính luyến ái là dòng sống không đạt được sự quân bình đúng đắn, sự phân cực đúng đắn, giữa hai khía cạnh nam và nữ, và như vậy, y tự nhận diện mình dựa trên giới tính của cơ thể vật lý. Đúng là đồng tính là một tình trạng bất thường không được Thượng đế tạo ra, và do đó, việc lợi ích nhất cho dòng sống là cố gắng chữa lành. Tuy nhiên sự chữa lành đích thực chỉ có thể xảy ra một khi có sự hiểu biết, tức là khi dòng sống khởi sự tìm hiểu quá trình đã dẫn đến trạng thái tâm thức hiện tại rồi lấy một quyết định ý thức rằng mình sẽ nhận trách nhiệm về tình trạng đó và có những chọn lựa để mà cải thiện tình trạng.   

Ngược lại với chủ ý nguyên thủy của ta, hầu hết mọi giáo hội Cơ đốc đã không có khả năng đem lại được một sự hiểu biết cao hơn về cuộc sống tâm linh, do đó đã không làm sao giúp chữa lành tín hữu của mình, cho dù là trong vấn đề đồng tính hay bất cứ một vấn đề mất cân bằng nào khác gây đau khổ cho con người – kể cả những khổ đau nơi những người bị mất cân bằng trong tình dục dị tính. Thay vào đó, các giáo hội Cơ đốc đã tung đòn sợ hãi pha trộn với mặc cảm tội lỗi, khiến cho con người phải kìm nén sự mất cân bằng của mình, hay thậm chí phủ nhận cả sự mất cân bằng đó.    

Hãy cho phép ta nói thật rõ như ta vẫn làm suốt trang mạng này: con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi là dòng sống phải đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Để đạt được tâm thức này, y phải vượt qua những vết thương tâm lý cùng những tin tưởng sai lầm đã tạo ra vết thương đó ở ban đầu. Công việc này chỉ có thể hoàn thành qua sự hiểu biết ý thức, mà nhờ đó y có thể có những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ. Sự hiểu biết ý thức này, tiến trình chữa lành ý thức này, không có hy vọng nào xảy ra khi nào y vẫn còn làm ngơ hay phủ nhận những mất cân bằng của mình.

Hàng triệu tín đồ đạo Cơ đốc đã khiến mình tin rằng họ sẽ tự động được cứu rỗi bằng cách gia nhập một hội thánh vỏ ngoài, tin tưởng vào một giáo lý vỏ ngoài và tuân thủ các lề lối của giáo hội. Đây là một lời gian dối. Như ta đã giải thích nhiều lần, không hề có sự cứu rỗi nào xảy ra một cách tự động.  

Thực tế đáng buồn là hàng triệu tín đồ Cơ đốc cũng mang cùng những mất cân bằng giữa khía cạnh nam và nữ y hệt như những người công khai đồng tính luyến ái. Rất nhiều những tín đồ này đã chỉ đơn giản dồn nén hay phủ nhận những mất cân bằng đó. Ta đã nhìn thấy quá nhiều nam tín hữu đạo Cơ đốc lên án kịch liệt sự đồng tính nơi người khác, nhưng chính họ lại không nhận ra sự căm ghét phụ nữ ở nơi họ khiến họ đã lấn át hay thậm chí ngược đãi vợ mình. Họ cho rằng bởi vì họ có một đời sống ngoan đạo bề ngoài thì họ không hề mang tội lỗi. Nhưng sự thật là chính họ cũng mang cùng sự mất quân bình như những người mà họ lên án.   

Ta thấy nhiều phụ nữ đạo Cơ đốc cũng công khai lên án người đồng tính, thế nhưng họ cũng bị mất quân bình khi họ khuynh đảo chồng mình qua mặc cảm tội lỗi hay sự từ chối chiếu cố tình dục. Quả thật đây là một ví dụ của những kẻ không thấy được cái xà trong mắt mình.

Kim Michaels: Còn phe bên kia cuộc tranh luận thì thế nào, chẳng hạn như phong trào đòi quyền cho người đồng tính, hay người tranh đấu để xã hội công nhận đồng tính luyến ái là bình thường, hợp pháp?

Giê-su: Ta đã nỗ lực giảng giải qua sự hiểu biết cao hơn và không sử dụng sợ hãi hay mặc cảm tội lỗi, rằng đồng tính không phải là do Thượng đế tạo ra. Vì vậy, đồng tính không là chuyện tự nhiên, và sẽ thật là đáng tiếc nếu đồng tính trở thành một chuyện bình thường trong xã hội, hay xã hội xem đó là chuyện bình thường.

Sự thật đơn giản, một sự thật mà không một luận lý nào của con người có thể thay đổi được, là dòng sống sẽ được lợi ích nhất nếu y chữa lành sự mất cân bằng đã tạo ra tình trạng đồng tính (cũng như mọi sự mất cân bằng khác).

Việc tranh đấu cho đồng tính luyến ái được công nhận là một lối sống bình thường hay tự nhiên, sẽ không giúp cho dòng sống chữa lành. Nó sẽ chỉ khiến cho y càng trở nên cố định trong lối sống của mình và đi giật lùi trên con đường tâm linh. Ta là một vị thày tâm linh, và ta không tán thành bất kỳ biện pháp nào sẽ ngăn trở bước tiến tâm linh của con người.

Kim Nichaels: Thày nghĩ gì về lời tuyên bố của một số tín hữu Cơ đốc cho rằng đồng tính là một cái tội sẽ bị Thượng đế trừng phạt?

Giê-su: Nếu con đọc kinh Cựu ước, con sẽ tìm thấy trong đó có những nhóm người đã đánh mất sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về các Quy luật của Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, Thượng đế đã phải phái xuống một vị tiên tri để đánh thức họ dậy hầu họ nhìn thấy cách cư xử điên rồ của họ, nhưng bởi vì trạng thái tâm thức của con người thời Cựu ước không cao lắm, cho nên vị tiên tri thường phải bảo rằng nếu họ không thay đổi cách sống thì họ sẽ bị Thượng đế trừng phạt.

Như ta có giải thích ở nơi khác, đời sống tâm linh trên hành tinh này đã có tiến bộ, và con người thời nay lẽ ra phải hiểu biết rành mạch hơn về các quy luật tâm linh cũng như vật chất mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo vũ trụ. Nếu con người phát triển được hiểu biết này thì họ cũng sẽ nhận ra rằng Thượng đế không hề trừng phạt con người. Chính con người tự trừng phạt mình do đã vi phạm luật của ngài. Và con người vi phạm các quy luật này vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi họ không còn nhận rõ được các quy luật này nữa. Họ không thấy được là lợi ích lớn nhất cho họ – là chính tư lợi của họ nếu họ sáng suốt – là họ cần tuân thủ các quy luật đó.

Nhưng vì họ đã bước xuống nhị nguyên, họ cứ tưởng rằng họ có thể định đoạt mọi thứ theo cách nhìn tương đối của họ. Họ mất hẳn liên lạc với các quy luật thiêng liêng mà cứ đinh ninh rằng mình sẽ không bị hề hần gì khi mình vi phạm luật của Thượng đế. Khi con người chìm sâu hơn vào trạng thái tâm thức này, họ thường bắt đầu dựng lên một hệ tư tưởng đi ngược lại quy luật Thượng đế, và họ cảm thấy hệ tư tưởng này cũng hữu lý lắm chứ. Nhưng hệ quả cùng cực là khi họ khiến cho xã hội phải chính thức công nhận một hệ tư tưởng không phù hợp với quy luật Thượng đế.   

Con cần lưu ý, chuyện này có thể xảy ra cho bất kỳ nhóm người nào. Chẳng hạn, một quy luật của Thượng đế là luật yêu thương. Như ta trình bày ở trên, nhiều tín hữu Cơ đốc đã quên mất và đi lạc khỏi quy luật này, và vì vậy họ đã dựng lên một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, mặc cảm và xét đoán. Nhưng ở phía bên kia cũng có một nhóm người tuy hiểu được quy luật yêu thương, nhưng lại không hiểu rõ một số quy luật khác, để rồi nhân danh tình thương, họ bắt đầu tin rằng xã hội phải dung thứ hầu hết mọi loại hành vi cư xử.  

Điểm ta muốn nói là đồng tính luyến ái không phải là tự nhiên, và do đó nó không phù hợp với các quy luật củaThượng đế. Hiển nhiên, một xã hội có thể đi ra ngoài quy luật Thượng đế để mà ban hành những đạo luật dân sự vi phạm trực tiếp luật của Thượng đế. Phải, điều này đã từng xảy ra với rất nhiều xã hội trong quá khứ, tuy nhiên ta cần nói rõ với con rằng tất cả mọi xã hội làm như vậy đã đều tự hủy diệt. Con không thể xây dựng một xã hội ổn định và lâu dài trừ khi xã hội đó hòa hợp với quy luật của Thượng đế. Nếu con đi ngược lại thì chắc chắn có ngày con sẽ phải thức tỉnh để đối mặt với một sự thật phũ phàng, và xã hội của con sẽ bắt đầu tự hủy – hoặc từ bên trong, hoặc từ bên ngoài do kẻ ngoại xâm. Đây chính là lý do mà nhiều xã hội chẳng hạn như Đế quốc La Mã, đã phải sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi nó lạm dụng quy luật và năng lượng của Thượng đế.   

Tuy nhiên con cũng cần lưu ý quy luật cơ bản nhất của Thượng đế, là quyền tự quyết. Mọi dòng sống đều bước đi trên con đường trở về với Thượng đế. Họ bước đi bằng cách thực hiện quyền tự quyết của mình, và đối với một số dòng sống, họ đã dùng quyền tự quyết để tự nhận mình là người đồng tính. Như ta đã giải thích, đây là một tình trạng mất quân bình, nhưng hầu hết mọi người khác cũng đều ở trong một tình trạng mất quân bình nào đó. Cho nên ta sẽ không như hầu hết người đạo Cơ đốc định nghĩa đồng tính luyến ái là một tội lỗi – chứ chưa nói đến một tội tày trời.

Một lần nữa, mọi người đều có toàn quyền đi những bước mà họ cần đi để vượt thăng một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu một dòng sống cần xem mình là người đồng tính trong một hay vài ba kiếp, thì điều này không có gì tệ hơn hay tốt hơn rất nhiều những sự mất cân bằng khác của con người. Tự ngã luôn luôn định nghĩa những ai khác mình đều là xấu cả, và cho tới khi mình nhìn thấu được và vượt qua xu hướng này thì con người không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là tại sao ta bảo mọi người đừng nên xét đoán dựa trên vẻ ngoài. Đồng tính luyến ái chỉ đơn giản là một vẻ ngoài mà cái Ta Biết đã chọn khoác lên, và rốt cuột thì hầu hết mọi dòng sống cũng sẽ có ngày chọn cởi nó ra.   

Kim Michaels: Vậy thì hình như thày đang nói rằng cả hai bên đều không nắm được sự thật trọn vẹn trong vấn đề này?

Giê-su: Như ta có giải thích trong bài giảng về sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, gần như bất kỳ cuộc tranh luận nào cũng bị phân ra làm hai đối cực. Trong nhiều trường hợp, cả hai đối cực đều do các thế lực muốn thao túng xã hội định đoạt. Vấn đề là rất nhiều người tốt lành lại bị rơi vào bẫy của một trong hai đối cực, và điều quan trọng là con cần hiểu tại sao.

Ta muốn nói thật rõ là ta không hề lên án hay xét đoán một ai cho dù cách cư xử bề ngoài hay những tin tưởng của họ có là gì đi nữa. Do đó ta không lên án hay phán xét những ai tham gia vào cuộc tranh luận này, bất kể họ đứng bên phe nào. Nhưng ta cũng thấy rất rõ rằng cả hai bên đều tiếp cận vấn đề này một cách mất quân bình. Sự thể này xảy ra là vì có quá nhiều người không đạt được sự quân bình đúng đắn giữa ba phẩm cách cơ bản của Thượng đế, là quyền năng, minh triết và tình thương.

Ta đã có nói về sự kiện nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đi trệch ra ngoài quy luật của tình thương. Điều xảy ra cho nhiều người là họ đã phát triển một sự hiểu biết và một lòng tôn sùng khía cạnh quyền năng của Thượng đế. Họ tôn sùng các quy luật của Thượng đế và họ mong muốn xã hội phải tuân thủ các quy luật này y như cách của họ nhìn xuyên qua giáo lý hiện thời của đạo Cơ đốc. Nhưng tiếc thay, họ không nhận ra là giáo lý này thật thiếu sót, và trong nhiều trường hợp lại còn không phù hợp cả với quy luật của Thượng đế, mà rõ ràng nhất là tình yêu của Thượng đế. Những tín hữu này thấy rõ đồng tính vi phạm luật Thượng đế – một quan điểm đúng đắn – nhưng bởi vì họ không đủ tôn sùng tình yêu Thượng đế, cho nên họ biến quan điểm của họ thành một thái độ phán xét đối với những ai công khai nhìn nhận xu hướng đồng tính của mình.

Ở bên kia cuộc tranh luận, con cũng tìm thấy nhiều người tốt lành đã phát triển một sự hiểu biết sâu xa và sự tôn sùng khía cạnh tình yêu Thượng đế. Họ thực sự hiểu được nhu cầu phải yêu thương người lận cận như chính mình. Thế nhưng vì không đủ lãnh hội khía cạnh quyền năng của Thượng đế, cho nên họ cũng rơi vào cái bẫy là cứ đinh ninh rằng tình thương vô điều kiện có nghĩa là sự chấp nhận bừa bãi mọi cách hành xử trong đời. Họ nghĩ rằng họ phải dung thứ mọi người cho dù người đó đang rõ ràng vi phạm quy luật Thượng đế.

Cách duy nhất có tiềm năng kéo cuộc tranh luận ra khỏi hai đối cực nói trên và đưa trở về điểm thăng bằng là phải có nhiều người hơn phát triển được sự tôn sùng đối với khía cạnh minh triết của Thượng đế. Chính qua khía cạnh này mà con người mới có khả năng phát triển một sự hiểu biết cho phép họ đứng ngoài cả hai cực đoan. Vì thế mới có câu vô cùng quan trọng: “Hãy sử dụng mọi thứ mà con có để được sự hiểu biết” (Proverbs 4:7).

Một cách tiếp cận cân bằng cho vấn đề này là nhìn nhận đồng tính luyến ái là một điều không tự nhiên. Đó là một tình trạng gây ra bởi sự mất quân bình nơi dòng sống. Không một dòng sống nào có thể đạt được hạnh phúc tối hậu và sự viên mãn tâm linh khi còn duy trì sự mất quân bình đó. Vì vậy, một dòng sống chân thành nỗ lực phát triển tâm linh cần phải nhìn nhận là mình có nhu cầu chữa lành sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ của mình. Một khi đã nhìn nhận và chấp nhận, con cũng sẽ nhận ra cùng sự mất quân bình đó nơi nhiều dòng sống khác chứ không cứ chỉ nơi những người đồng tính công khai. Thật ra, nhiều dòng sống không có khuynh hướng đồng tính cũng bị mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ.   

Một khi con hiểu ra điều này, con cũng sẽ hiểu là việc kiến tạo một xã hội nơi đồng tính luyến ái được công nhận hay hợp pháp hóa, không phải là việc đúng đắn. Tuy nhiên con cũng nhận ra rằng một xã hội phán xét, lên án hay phân biệt đối xử đối với các xu hướng tình dục của con người, cũng không đúng đắn. Nói cách khác, một xã hội lý tưởng sẽ không hợp pháp hóa và cũng không phân biệt đối xử người đồng tính.  

Ta thừa biết việc kiến tạo một xã hội như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng nó khó khăn chỉ vì còn quá nhiều người bị mắc kẹt trong cái nhìn tương đối của tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, là một vị thày tâm linh, ta phải chỉ ra cho con thấy rằng giải pháp đích thực duy nhất cho các vấn đề mà nhân loại đang phải đối diện là phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự sống cũng như về bản chất tâm linh của mỗi con người. Sự hiểu biết cao hơn này là hy vọng duy nhất để xây dựng một thời đại tốt đẹp hơn, và đồng thời cũng ngăn cản nhân loại hủy diệt chính mình.

Kim Michaels: Con hiểu được quan tâm của thày là nhiều người bị rơi kẹt vào hai cực đoan. Tuy nhiên đối với con, dường như vấn đề trong cuộc tranh luận này không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết. Hình như có những người trong cả hai phe đều không sẵn lòng muốn đạt được hiểu biết cao hơn.

Giê-su: Đúng là như vậy. Quả thực là có những người không muốn thay đổi quan điểm cũng như lối sống của mình. Một số người sùng đạo không sẵn lòng thay đổi ý muốn phán xét mọi người theo tiêu chuẩn mà họ đã định ra. Họ tin như đinh đóng cột rằng tiêu chuẩn của họ là tiêu chuẩn của Thượng đế, vì thế cho nên họ hoàn toàn có lý khi phán xét mọi người theo tiêu chuẩn đó. Đây là cùng những người đã đóng đinh ta 2000 năm trước đây. Họ là những kẻ đặt luật không chịu bước vào con đường trung đạo của tâm thức Ki-tô, đồng thời lại muốn ngăn cản người khác bước vào.

Ta có thể nói cho con là có một số dòng sống đã từng giữ những chức vụ quyền lực trong đạo Do thái cách đây 2000 năm và đã sử dụng quyền lực nảy để đóng đinh ta. Ngày nay, cùng những dòng sống đó đang giữ chức vụ quyền lực trong các giáo hội Cơ đốc, và bây giờ họ sử dụng cách diễn giải của họ về giáo lý của ta để biện luận cho thái độ phán xét của họ.

Còn ở phe bên kia cuộc tranh luận, con sẽ tìm thấy những người biết rõ rằng đồng tính vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng họ không hề có ý muốn thay đổi lối sống hay đạt được sự hiểu biết cao hơn. Ngược lại là đằng khác, họ chọn lối sống đống tính như một hành vi thách thức Thượng đế, và họ muốn tiếp tục lối sống đó. Họ còn tuyển mộ thêm người mới vào làm miếng mồi ngon cho cuộc săn lùng tình dục của họ. Rồi họ muốn xã hội phải công nhận là họ được quyền sống công khai như vậy và trưng bày sự đồi trụy tình dục của họ.

Ta dư biết có những người như vậy, và ta dư biết tâm lý cùng phương thức hoạt động của họ. Ta cũng biết rõ ta không có nhiều hy vọng chạm được những người đó qua trang mạng này. Cho nên quan tâm lớn nhất của ta qua trang mạng này là cố chạm được những dòng sống có thể chạm được, là những dòng sống sẵn lòng đi tìm một sự hiểu biết cao hơn.  

Kim Michaels: Luật Tự quyết liên quan thế nào đến điều đó? Ý con muốn nói là, liệu một linh hồn có được quyền do Thượng đế ban cho để chọn lối sống đồng tính luyến ái?

Giê-su: Ta có nói suốt trang mạng này rằng Luật Tự quyết là định luật tối thượng cho vũ trụ vật chất. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho mọi người, và do đó họ có quyền làm bất cứ gì họ muốn, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con chỉ có quyền tự quyết nếu con có thể hoàn toàn tự do chọn lựa bất cứ điều gì mà con có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, Luật Tự quyết không đứng một mình. Luật Tự quyết được ban ra trong thế thái cực với một định luật khác, là Luật Nhân quả. Đây là quy luật mà trong Kinh thánh có nói đến qua câu “người nào gieo gì thì sẽ gặt nấy”. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả.  

Theo Luật Tự quyết, một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Theo Luật Nhân quả, không một người nào có thể thoát khỏi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Như ta vẫn cố giải thích trên trang mạng này, mọi hành vi con làm đều được làm với năng lượng của Thượng đế. Mỗi khi con bước vào một ý tưởng, một cảm xúc hay một hành động, thì con cũng đang thay đổi phẩm chất, con đang tô màu năng lượng thuần khiết đó, con đang thay đổi độ rung của năng lượng Thượng đế.

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình” (Save Yourself), ta có giảng dạy sâu sắc hơn về ý nghĩa thực sự của tội lỗi. Ta khuyên con nên tìm hiểu lời dạy đó. Ở đây, ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ “tội lỗi” là “bắn hụt đích, thiếu tiêu chuẩn” (missing the mark). Có nghĩa là nếu con thay đổi năng lượng Thượng đế khiến cho độ rung xuống thấp hơn một mức nào đó, thì năng lượng sẽ “bắn hụt”, sẽ không đủ tiêu chuẩn, và không thể thăng vượt để trở về Thượng đế. Bất kỳ một năng lượng nào đi xuống thấp hơn một độ rung nhất định đều là một “tội lỗi”, cho dù năng lượng đó được tạo ra do đồng tính luyến ái hay bất kỳ loại hành vi nào khác của con người.

Cho nên một dòng sống được quyền – là quyền do Thượng đế ban cho – để thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên điều không thể tránh được là y sẽ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và sẽ gặt hái hậu quả, tức là nghiệp quả của hành động của y. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng đồng tính là một việc đúng đắn hay có thể chấp nhận. Đồng tính là một vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng bởi vì dòng sống có quyền tự quyết, y vẫn có quyền vi phạm luật Thượng đế và trải nghiệm hậu quả của chọn lựa đó.

Kim Michaels: Vậy xã hội có nên công nhận quyền thực hành đồng tính luyến ái hay không?

Giê-su: Đây là một câu hỏi phức tạp. Trong một xã hội lý tưởng, đồng tính luyến ái sẽ được nhìn nhận là một tình trạng mất cân bằng. Tuy nhiên xã hội đó cũng sẽ có một nền văn hóa cho phép người ta công khai nhìn nhận khuynh hướng đồng tính của mình mà không bị lên án. Song song, những người này cũng sẽ được giúp đỡ để đạt sự hiểu biết và giải quyết khuynh hướng của mình hầu tiến bước trên con đường phát triển tâm linh cá nhân. Họ cũng sẽ nhận được giúp đỡ để hiểu rõ hậu quả của sự chọn lựa lối sống đồng tính, trên phương diện nghiệp quả cũng như tác động tâm lý và tâm linh. Nếu họ từ chối được giúp đỡ thì họ vẫn được phép thực hành đồng tính trong nhà riêng của họ, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.   

Một xã hội lý tưởng sẽ không công nhận trong luật pháp quyền thực hành đồng tính. Đó sẽ chỉ là một điều mà người ta có thể làm nơi nhà riêng của mình, và xã hội sẽ không can thiệp vào đời sống riêng tư đó miễn là nó diễn ra trong sự đồng ý của những người trưởng thành. Miễn là nó được giữ trong phạm vi nhà riêng, xã hội sẽ cho phép lối sống đồng tính mà sẽ không lên án cũng như không công nhận trong luật pháp.   

Nhưng tất nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới hiện là một xã hội lý tưởng, cho nên không thể có giải đáp dứt khoát nào cho từng quốc gia trong từng thời điểm để giải quyết vấn đề đồng tính. Giải pháp này sẽ được định đoạt trong khuôn khổ nền văn hóa của xã hội đó, bởi vì không một xã hội nào có khả năng nhìn ra ngoài nền văn hóa hiện tại của mình.   

Nhưng quan tâm hàng đầu của ta không phải là định ra cho xã hội phải giải quyết vấn đề đồng tính như thế nào. Quan tâm hàng đầu của ta là giúp cho mọi xã hội đạt đến một nền văn hóa tâm linh, mà qua đó xã hội sẽ dễ dàng giải quyết được mọi vấn đề trong sự hài hòa với quy luật của Thượng đế. Điều mà ta mong muốn được thấy là mọi xã hội đều tiến tới một sự hiểu biết sân sắc hơn về bình diện tâm linh của cuộc sống, rồi sử dụng sự hiểu biết này để ảnh hưởng cách giải quyết bất kỳ vấn đề nào gặp phải.     

Kim Michaels: Xin thày giải thích đồng tính luyến ái làm tha hóa năng lượng như thế nào?

Giê-su: Thượng đế đã tạo ra hai thái cực cơ bản, là hai yếu tố lan ra và co lại, nam và nữ, dương và âm. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hoà, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh này của Thượng đế. Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự biểu đạt của một nguyên lý tâm linh.

Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của chúng ta đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.   

Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ. Ta cũng biết là một số cặp đồng tính có cảm giác là họ đạt được kết hợp như thế, và ta cũng biết là một số cặp đồng tính yêu thương nhau thanh khiết. Nhưng ta phải nói với con rằng tình dục đồng tính không bao giờ có thể tạo được kết hợp tâm linh đích thực. Cho nên điều không thể tránh được là tình dục đồng tính sẽ bắt buộc làm tha hóa năng lượng Thượng đế.

Đương nhiên, nếu hai người đồng tính thương yêu nhau thanh khiết, độ tha hóa sẽ không đến nỗi nghiêm trọng như trong một quan hệ với lý do thấp kém. Tuy vậy, nếu hai người đồng tính thực sự yêu nhau thì có thật là họ cần đến quan hệ tình dục vật lý để biểu lộ tình yêu đó hay không? Quan hệ khác giới có khả năng sử dụng đúng đắn năng lượng của Thượng đế, nhưng quan hệ đồng tính sẽ đơn giản không có tiềm năng đó, tương tự như hai cơ thể cùng phái không thể nào sinh tạo một đứa bé. Sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra trong kết hợp hài hoà giữa hai thái cực nam và nữ. Điều này cũng giải thích tại sao một dòng sống không thể đạt được phát triển tâm linh tối đa cho đến khi y cân bằng được hai yếu tố nam và nữ.

Kim Michaels: Một số người cho rằng người đồng tính thường là người tâm linh hơn. Một số cũng nói rằng chỉ khi nào họ nhìn nhận sự đồng tính thì họ mới có thể tinh tấn tâm linh. Một số còn cho rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại nhất khắp các thời đại đều là người đồng tính. Thậm chí một số vị thày tâm linh còn bảo rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn, và là một chặng đường cần thiết trên hành trình tâm linh của linh hồn. Xin thày có bình luận gì không?

Giê-su: Nếu con lãnh hội những gì ta đã giải thích ở đầu lời giải đáp này, thì rõ ràng đồng tính không phải là một giai đoạn phải có trên hành trình phát triển tâm linh. Ta cũng biết là có những giáo lý tâm linh tìm cách tôn vinh hay biện minh cho đồng tính. Nhưng đó chỉ là một sự hiểu lầm vô tình họăc là một âm mưu cốt ý để đánh lừa mọi người.

Như ta giải thích ở trên, một dòng sống tân lập thường hiện thân trong những cơ thể cùng giới tính suốt nhiều kiếp sống, và điều này có nghĩa là y sẽ lần hồi tự nhận diện là một dòng sống nam hay nữ. Khi dòng sống già dặn hơn, y có nhu cầu phải vượt qua sự đồng hoá đó, có nghĩa là y sẽ bắt đầu hiện thân trong cả hai loại cơ thể nam và nữ. Cho nên nếu chỉ dựa trên nhận xét này thì quả thực cũng đúng là nhiều người đồng tính là những dòng sống già dặn hơn người bình thường.

Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém là một dòng sống không cần phải trở thành đồng tính để thăng vượt sự đồng hóa với giới tính của cơ thể. Thật ra, hầu hết dòng sống đều có thể thực hiện việc này mà không cần trở thành đồng tính. Ta cũng biết là có một số vị thày tâm linh dạy rằng đồng tính luyến ái là điều tự nhiên, hoặc là một giai đoạn cần thiết trên đường phát triển của dòng sống, tuy nhiên đây đơn giản là một lời dạy sai lầm.

Mặc dù thật là không sai khi nói rằng nhiều người đồng tính trưởng thành hơn những kẻ lên án đồng tính, tuy nhiên họ không thật sự trưởng thành trong ý nghĩa là họ vẫn còn mang một sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ. Thật ra, nếu một người đồng tính thật sự trưởng thành tâm linh, thì người đó sẽ cố gắng thăng vượt mọi tình dục thay vì bênh vực đồng tính. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng người ta không nên cố giúp xã hội vượt qua nạn kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên, một dòng sống già dặn tâm linh sẽ nỗ lực đem lại sự khoan dung đối với người đồng tính chứ sẽ không cố tâng bốc đồng tính lên địa vị cao thượng.       

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình”, chúng tôi có giảng rất chi tiết về lý do một dòng sống thường chọn đầu thai trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lý do chính là vì những tình huống như vậy có thể bắt buộc y phải đương đầu với một số bế tắc tâm lý. Chỉ bằng cách giải quyết các bế tắc này mà y mới có thể tinh tấn tâm linh. Ta có giải thích là đồng tính luyến ái là một sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống. Một số dòng sống đã đạt đến một điểm khi họ không thể tiến thêm cho tới khi họ giải quyết được sự mất cân bằng này. Do đó, đúng là một số dòng sống sẽ chọn đầu thai làm người đồng tính để tự buộc mình phải giải quyết vấn đề tình dục và sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ. Tuy nhiên, họ làm điều này không phải vì họ tin rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn hay tâm linh hơn. Họ làm như vậy giản dị như là một phương cách để giúp mình giải quyết các mối mất cân bằng và nhờ vậy vượt qua mọi ý niệm tình dục con người.

Ta có thể nói thật rõ ràng là trên thiên đàng không có người đồng tính nào cả – mặc dù một số người có vẻ tin như vậy. Con không thể bước lên thiên đàng khi con vẫn còn sự mất cân bằng giữa hai khiá cạnh nam và nữ trong dòng sống của con. Khi nào còn đạt được sự cân bằng đúng đắn, con sẽ vượt thăng mọi ý niệm tình dục phàm thế.

Cho nên cũng đúng là một số người đồng tính là người tâm linh hơn bình thường. Tuy nhiên, họ không là người tâm linh bởi vì họ đồng tính. Họ đã chọn đầu thai làm người đồng tính vì ý chí mãnh liệt muốn tiến bước trên đường tu tâm linh, và họ nhìn ra điều đang ngăn chặn bước tiến của họ là sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ.

Điều này cũng đúng cho những nhà thần bí đã bước vào đời như người đồng tính. Con sẽ thấy đa số những nhà thần bí này rốt cuộc đã tiến vượt khỏi mọi vấn đề tình dục. Đơn giản, nhu cầu biểu hiện tình dục vật lý dần dần tan biến và họ khởi sự tập trung toàn bộ sự chú ý vào phương diện tâm linh của cuộc sống.

Và cũng đúng là nếu dòng sống đã đầu thai làm người đồng tính với mục đích dứt khoát chữa lành, thì y sẽ không thể chữa lành bằng cách làm ngơ hay phủ nhận khuynh hướng đồng tính của mình. Chỉ khi nào mình nhìn nhận vấn đề một cách ý thức thì mình mới có hy vọng giải quyết được. Tuy nhiên ta cũng phải đưa ra một lời cảnh báo về điểm này.

Trong thế giới ngày nay, con tìm thấy một số địa hạt, lãnh vực hay nền văn hóa xem đồng tính là một chuyện bình thường hay tự nhiên. Có những thế lực rất hùng hậu đang tìm cách đưa đẩy xã hội công nhận đồng tính là chuyện bình thường, và cho tới nay họ đã xâm nhập sâu rộng vào giới truyền thông. Vấn đề với hoạt động này là những dòng sống đã đầu thai với ý định chữa lành có thể bị lôi kéo vào văn hóa đó. Và họ có thể cho rằng khuynh hướng đồng tính của họ là bình thường và do đó họ nên thực hành đồng tính thay vì cố giải quyết.

Nói cách khác, một nền văn hóa chấp nhận đồng tính một cách thiếu phân biện và thiếu sự hiểu biết về nguyên nhân tâm linh của đồng tính, có rủi ro làm thui chột cơ may của dòng sống đạt được mục tiêu tăng trưởng tâm linh. Y có thể bắt đầu tự nhận mình là một linh hồn đồng tính, rồi từ chối đương đầu với sự mất cân bằng của mình. Nói cách khác, thay vì tăng trưởng tâm linh, dòng sống ngày càng chai cứng hơn trong sự mất cân bằng. Và dưới góc nhìn của một vị thày tâm linh, điều này là điều đáng tiếc hơn cả.

Mặc dù cũng đúng là một số dòng sống sẽ tăng triển tâm linh khi nào đã nhìn nhận một cách ý thức khuynh hướng đồng tính của mình, nhưng thật là không đúng khi bảo rằng y nhất thiết phải hành sự đồng tính. Con hoàn toàn có khả năng giải quyết sự mất cân bằng đã gây ra đồng tính mà không cần đeo đuổi lối sống đồng tính.   

Thật ra, nếu con thật muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con tránh hẳn bước vào một quan hệ đồng tính. Nếu con có quan hệ đồng tính, con sẽ khiến cho năng lượng Thượng đế bị tha hóa, và nó sẽ tạo ra một từ lực – trong nghĩa đen – lôi con ra khỏi sự tăng trưởng tâm linh của con. Việc bước vào một mối quan hệ đồng tính cũng khiến con càng mong muốn bênh vực cách hành xử cuả mình rồi càng lún sâu vào một trạng trái tâm thức mất quân bình.  

Cho nên lời khuyên của ta là nếu con có những khuynh hướng đồng tính, con nên nhìn nhận khuynh hướng này. Tuy nhiên, thay vì tìm cách tự biện minh hay tham gia vào một quan hệ đồng tính, con nên tìm cách giải quyết qua những phương tiện tâm lý và tâm linh.

Có nhiều kỹ thuật tâm lý có thể giúp con giải quyết sự mất cân bằng trong cỗ xe linh hồn. Trong những thập niên qua, nhiều kỹ thuật mới đã được trao truyền nhưng chưa được giới chức năng trong ngành tâm lý chính thống công nhận. Thế nhưng bất cứ ai với tâm mở rộng cũng sẽ tìm được những kỹ thuật sáng giá có khả năng thực sự chữa trị sự mất quân bình tâm linh. Đối với những người thiên về tâm linh, có nhiều kỹ thuật tâm linh có thể trợ giúp họ, chẳng hạn cụ thể là kỹ thuật hoà điệu nội tâm với cái ta Ki-tô của mình.  

Có một nguyên tắc giá trị rộng khắp là nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con phải thăng vượt khuynh hướng của tâm phàm là biện hộ cho những điều bất toàn, mà ngược lại con hãy nương theo chân tâm để nâng mình lên sự toàn vẹn.   

Kim Michaels: Con chắc chắn sẽ có một số người đặt vấn đề là làm thế nào thày có thể dạy về tình thương vô điều kiện mà đồng thời lại có lập trường kiên quyết như vậy chống lại đồng tính luyến ái. Họ sẽ cảm thấy rằng nếu thày yêu thương người đồng tính một cách vô điều kiện thì thày cũng nên thể hiện sự khoan dung đối với hoạt động tình dục của họ.

Giê-su: Tất nhiên là sẽ có những người nghĩ như vậy, và lý do là bởi vì họ bị kẹt trong sự tương đối và những điều kiện của tâm thức nhị nguyên. Kết quả là họ không lãnh hội, không thể nhập được tình thương vô điều kiện.  

Yêu thương vô điều kiện không có nghĩa là chấp nhận mọi điều kiện một cách mù quáng. Ta yêu thương mọi dòng sống trên địa cầu với một tình yêu vô điều kiện. Bởi vì tình yêu của ta vô điều kiện cho nên ta muốn thấy mọi dòng sống đều trở về nhà cùng Thượng đế. Tuy nhiên, bởi vì ta không mắc kẹt trong sự tương đối của tâm nhị nguyên, ta thấy rõ vô số những điều kiện đang ngăn cản dòng sống trở về nhà Thượng đế. Hơn vậy nữa kìa, ta thấy rõ những điều kiện này là mối đe doạ đem lại cái chết cho rất nhiều dòng sống trên trái đất.  

Liệu đó có phải là tình thương vô điều kiện nếu ta cứ đứng dõi nhìn một dòng sống bước tới hủy diệt mà không tìm cách báo động? Ta không nghĩ vậy. Làm thế nào ta có thể báo động dòng sống đó mà không chỉ rõ cho y thấy được những điều kiện sẽ dẫn đến hủy diệt? Làm thế nào ta có thể yêu thương vô điều kiện mà đồng thời lại dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống?

Tình thương vô điều kiện hoàn toàn không nhân nhượng khi tận tụy lo cho sự tăng triển và cứu rỗi của dòng sống. Chỉ có tình thương có điều kiện mới rơi vào một trong hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là định ra một loạt những lề lối vỏ ngoài rồi bảo rằng bất cứ ai không làm đúng lề lối đó không xứng đáng được yêu thương. Và cực đoan thứ hai là dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống mà lại gọi sự thông đồng đó là tình yêu đích thực. Cả hai cực đoan này chính là tình thương có điều kiện, và nó khởi lên từ sự tương đối của trạng thái tâm thức thấp kém. Chỉ một tình thương dựa trên nền tảng của phân biện Ki-tô mới có thể vô điều kiện.

Tình yêu vô điều kiện có nghĩa là ta yêu thương dòng sống cho dù y đã có làm gì hay đang có trạng thái tâm thức như thế nào. Nhưng chính vì yêu thương mà ta không muốn nhìn thấy dòng sống cứ mắc kẹt hoài trong trạng thái tâm thức đó. Ta muốn thấy dòng sống tiến bước về phía tâm thức Ki-tô bởi vì đó là cách duy nhất để dòng sống đạt đến cứu rỗi.

Bởi vì ta yêu thương vô điều kiện cho nên ta mới tận tụy một cách không nhân nhượng đối với sự tăng trưởng của dòng sống. Và do đó ta cũng không nhân nhượng đối với bất kỳ điều kiện nào sẽ khiến cho sự phát triển của dòng sống bị thui chột.

Thượng đế không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta hoàn toàn không muốn thấy dòng sống nào xem mình là người có tội, hay có mặc cảm tội lỗi về một số chọn lựa mà y đã có trong quá khứ. Chúng tôi chỉ có một mong muốn là nhìn thấy dòng sống rời khỏi tình trạng tâm thức hiện tại và tiến bước về một thế cân bằng, toàn vẹn.

Chúng tôi không lên án người đồng tính. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ chấp nhận đồng tính là bình thường hay tự nhiên. Chúng tôi nhìn thấy đó là một trong rất nhiều sự mất cân bằng đang ngăn cản dòng sống trở về nhà. Chúng tôi mong muốn mọi dòng sống giải quyết được những điều mất cân bằng đang ngăn cản họ trở về căn nhà nơi họ sẽ ôm chầm lấy vòng tay yêu thương của Thượng đế Cha/Mẹ.

Chính vì yêu thương vô điều kiện mà ta mới phân biện rõ ràng giữa dòng sống và hiện trạng tình dục nhất thời của dòng sống. Cho nên ta sẽ không bao giờ rơi vào lỗi lầm đồng hóa dòng sống với hiện trạng tình dục của y – cho dù là đồng tính hay dị tính. Yếu tố đã khiến cho dòng sống tự đồng hóa với tình dục của mình là vì y đã đánh mất tình yêu vô điều kiện. Và trong tình yêu có điều kiện của y, dòng sống thường sẽ phóng chiếu ra là tình yêu của ta đang đặt ra một số điều kiện bởi vì tình yêu của ta không ăn khớp với hình ảnh nhị nguyên mà y có về tình yêu. Thế nhưng là một vì thày tâm linh, ta không thể giúp cho mọi người giải thoát bằng cách chiều theo tâm ảnh của họ – ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thách thức tâm ảnh của họ.

[Đọc thêm về bài giảng về cách thức thăng hoa năng lượng tình dục]

Tại sao có quá nhiều người lãnh phúc lợi?

Hỏi: Khi con dọn đến Anh quốc, con nhận thấy một vấn đề xã hội. Có một nhóm người không muốn đi làm mà chỉ muốn nhận trợ cấp phúc lợi. Con không hiểu có phải là do chính trị toàn cầu, bởi vì thật sự các cơ quan chính quyền khuyến khích những người đó nhận phúc lợi. Có phải là chính trị toàn cầu chủ trương khiến họ trở thành lệ thuộc vào chính quyền hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây quả thực là một hậu quả của nền chính trị toàn cầu, cụ thể là triết lý duy vật khoa học, khiến cho cả một thế hệ được nuôi lớn để tin rằng cuộc sống hoàn toàn không có mục đích hay ý nghĩa gì hết. Cho nên con mới thấy những người lớn lên và tin rằng việc nỗ lực thăng tiến bản thân chẳng có ich gì. Thật là ích gì nếu mình chỉ là một con thú tiến hóa một ngày kia sẽ biến mất khỏi mặt đất khi cơ thể vật lý tắt thở?

Con không thể tìm thấy mục đích của cuộc sống trừ khi con có một tầm nhìn tâm linh. Và cũng không thể thấy được mục đích cuộc sống trừ khi con có sự hiểu biết vững chắc về thực tế của luân hồi. Khi đó con mới nhận ra là dòng sống của con có khả năng vươn lên ngày càng cao hơn trong những kiếp sống liên tiếp để cuối cùng thăng thiên vĩnh viễn vào cõi tâm linh.

Cho nên tại các nước giàu có nhất trên thế giới, con thấy cuộc sống đã trở nên vật chất, thế tục hơn. Trong dân số có một tỷ lệ ngày càng to lớn những người không còn ý niệm gì về mục đích và ý nghĩa cuộc sống. Bởi thế cho nên họ mới tận dụng hệ thống phúc lợi xã hội. Họ sống một cuộc đời có thể gọi là không hơn gì động vật hay thực vật.  

Vấn đề ở đây là giai cấp thượng lưu quyền lực không muốn tình trạng này thay đổi. Chiến lược vĩ đại của họ là giam giữ mọi người trong tư duy duy vật để họ dễ dàng thao túng, và họ sẵn sàng chấp nhận tổn phí này – nếu có thể gọi như vậy – để tài trợ một hệ thống xã hội hầu nuôi thân một phần dân số.   

Họ thừa biết đây là một vấn đề mà chính họ đã tạo ra qua chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa duy vật. Nhưng họ cũng tin rằng tríết lý của họ đúng đắn. Hay ít nhất, họ sẵn sàng sử dụng triết lý đó cũng như bất kỳ triết lý nào khác có thể áp chế toàn thể dân chúng. Như vậy đối với họ, hệ thống phúc lợi chỉ giống như một tổn phí hoạt động kinh doanh – là tổn phí để giữ cho toàn bộ xã hội bị nhốt chặt trong chủ nghĩa duy vật.  

Tất nhiên đây là một sự thể mà các chân sư thăng thiên rất mong muốn thay đổi. Tuy nhiên, ưu tiên lớn nhất không phải là cắt đứt phúc lợi cho người dân, mà là cắt đứt chủ nghĩa duy vật khỏi toàn thể xã hội vì đó mới là nguyên nhân.

Trong một nền văn hóa tâm linh phổ quát, mọi người sẽ thấy được giá trị của việc cải tiến bản thân. Mọi người sẽ thấy được giá trị khi mình sống trọn vẹn đời mình, khi mình ngày càng hiểu biết chín chắn hơn và đạt được nhiều hơn là khi mình mới bước vào đời. Khi mọi người thấy rõ mục đích và phương hướng sống của mình, không ai sẽ muốn ở lại trong cùng một trạng thái tâm thức suốt đời.

Giáo lý trên trang mạng này có là giáo lý huyền bí?

Hỏi: Kính thưa thày Giê-su, con đã nói chuyện với nhiều người và cho họ thông tin về những cuốn sách cùng trang mạng này. Con đã rất cởi mở và trung thực với họ nhưng hầu hết đều nói với con là con đang đọc bài vở liên quan đến huyền bí. Trong hầu hết các giáo phái đạo Cơ đốc, huyền bí bị xem là thuộc về Sa-tăng và nên tránh xa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu ra câu hỏi rất quan trọng này. Ta xin khởi đầu bằng một số định nghĩa thông dụng của từ “huyền bí” (occult) trong từ điển:

Huyền bí:

  • Liên quan đến, hoặc giao tiếp với, các ảnh hưởng hay hiện tượng siêu nhiên.
  • Vượt ra ngoài lãnh vực nhận thức hay lãnh hội của con người.
  • Chỉ những người đã nhập môn mới có thể truy cập.
  • Che khuất khỏi tầm nhìn bình thường, ẩn giấu, bí mật.

Nếu con đọc Tân Ước với định nghĩa trên, con sẽ thấy mọi khía cạnh của giáo lý ta như được ghi lại trong Kinh thánh, đều liên quan đến siêu nhiên. Phần lớn những lời của ta vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của con người và không thể được lãnh hội bằng lý trí nhị nguyên tương đối, là trạng thái tâm thức bình thường của hầu hết mọi người. Con cũng thấy được là ta đã trao cho các môn đệ của ta một số giáo lý cao cấp mà ta không tiết lộ cho đại chúng [Mark 4:34].  

Cho nên, người ta rất có thể nói rằng tất cả mọi điều đã được ghi lại về ta trong kinh điển chính thức đều có thể được sử dụng để gọi ta là một vị thày huyền bí. Đây chính là nhãn hiệu mà những người đạo Do Thái chính thống đã gán cho ta khi họ đưa ta ra xét xử và đóng đinh ta trên thập tự giá. Tất nhiên là họ dùng những từ khác, nhưng cốt lõi của lập luận của họ là ta đã vượt ra ngoài các giáo lý chính thống và do đó ta không thuộc về sự thật, không thuộc về ánh sáng, không thuộc về Thiên Chúa. Kết quả là họ buộc tội ta là thuộc về quỷ.

Ta có thể cam đoan với con là nếu thuật ngữ này đã có vào thời đó, thì những người đạo Do Thái chính thống đã gọi ta, Giê-su Ki-tô, là tên cầm đầu một môn phái Thời Mới (New Age) vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ tìm thấy rất nhiều “chứng cớ” trong những lời ta đã nói để kết tội ta. Như khi ta bảo tín hữu phải rời bỏ công việc và gia đình để đặt ta trên hết và trước hết. Như khi ta bảo tín hữu phải sẵn sàng bỏ đời sống vì ta. Con có thấy không, hẳn các phong trào chống đối các môn phái sùng tín (anti-cult movements) thời nay sẽ quá đỗi vui mừng mà chụp lấy những lời tuyên bố đó của ta? Và con có thấy họ sẽ tố cáo ta và gán ghép cho ta tội làm bạn với ma quỷ như thế nào không?

Con cũng thấy đó, ngay cả những chức sắc của đạo Cơ đốc chính thống hay chính mạch, là những người tự nhận là đại diện của ta trên trái đất, đã sử dụng tư duy sợ hãi để dựng lên ý tưởng rằng bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đạo Cơ đốc chính thống đều là huyền bí, và tất cả mọi điều huyền bí đều thuộc về quỷ. Thật là sai lầm khi bảo rằng mọi điều huyền bí thuộc về quỷ. Huyền bí chỉ đơn giản là điều gì đó vượt khỏi khả năng hiểu biết bình thường của con người, và điều này cũng áp dụng cho Thượng đế. Con có cho rằng Thượng đế thuộc về quỷ hay không?

Kỳ thực, đạo Cơ đốc đã bị biến thành cùng một loại tôn giáo phát xuất từ sợ hãi y như đạo Do Thái chính trống khi trước đã đóng đinh ta trên cây thập tự. Cái nhìn sợ hãi này được đẩy xa đến độ nếu ngày hôm nay ta hiện ra trong một xác thân vật lý và giảng dạy giáo lý tâm truyền chân thực của ta, thì nhất định ta sẽ bị những người đạo Cơ đốc chính thống trù dập. Họ sẽ gán tội cho ta là của quỷ hay bôi nhọ ta là một tên cầm đầu môn phái sùng tín. Và thật vậy, đây là cách mà một số người trong số họ đã gọi những lời dạy của ta đưa lên trang mạng này.

Như ta có trình bày trong quyển sách “Cái đến thầm kín của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ), những ai có cái nhìn sợ hãi về tôn giáo sẽ bác bỏ bất cứ điều gì vượt ra ngoài giáo lý chính thống. Họ làm vậy bằng cách tạo ra một nhãn hiệu giả tạo, rồi tuyên bố bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đều mang nhãn hiệu đó, và do đó ta thuộc về quỷ.   

Đây là một cách nhìn thật thiếu chín chắn về tôn giáo, và nó bắt nguồn từ sợ hãi. Nó cũng bắt nguồn từ sự từ chối trách nhiệm để trở thành một người với tâm Ki-tô, hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình, hầu phân biện được thế nào là của Thượng đế và thế nào không của Thượng đế. Thật đáng buồn khi nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc chính thống cho rằng họ đại diện ta trên trái đất, rằng họ đang bước chân theo ta, nhưng họ lại từ chối khoác vào tâm Ki-tô và phân biện giáo lý tâm truyền chân thực cùa Giê-su Ki-tô với những tín điều công truyền trông chằng khác gì những nấm mồ được tô trắng nhưng chứa đầy xương người chết.   

Khi con khoác vào tâm Ki-tô, con sẽ dễ dàng phân biện được cái gì là của ánh sáng và cái gì là của bóng tối. Điều này sẽ cho phép con nhìn xuyên thấu các giáo điều nhân tạo nông cạn. Người tìm kiếm tâm linh chân thành cần phải nhận ra là ác quỷ có một mục tiêu rõ ràng. Nó tìm cách đánh lừa những kẻ phụng sự tốt nhất của ta trên trái đất. Nó không quan tâm gì đến những người hoàn toàn bị bao trùm trong tâm nhị nguyên bởi vì những người này đã nằm trọn trong tay nó rồi. Quan tâm chủ yếu của ác quỷ là đánh lừa những ai đã hé thấy được chân lý nhưng chưa thể hiện được tính phân biện Ki-tô sẽ giúp họ nhìn thấu qua những dối gian vi tế của ác quỷ.    

Đây chính là loại người mà con gặp trong đạo Cơ đốc chính thống. Họ đã thấy được sự thực trong giáo lý của ta và họ có tiềm năng vươn lên một tầm mức cao hơn. Nhưng vì họ không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ hãi của mình, họ vẫn bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi đó. Điều này tất nhiên là cái mà ác quỷ mong muốn. Cách duy nhất để con người tìm được tự do là sẵn sàng trải qua một giai đoạn khó khăn tìm cách thiết lập sự hòa điệu nội tâm trực tiếp với ta và cái ta Ki-tô của họ. Và hiển nhiên, toàn bộ mục đích của trang mạng này là giúp họ thực hiện được điều này.

Thực tế đáng buồn là nhiều người đạo Cơ đốc từ chối sử dụng khả năng phân biện của mình, từ chối đoái nhìn tới bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý chính thống. Điều này có thể là khôn ngoan đối với một số người, vì nếu họ chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đường tâm linh của họ và dồn hết sức đào sâu sự hoà điệu với cái ta Ki-tô, thì họ chưa có khả năng nhìn thấu dối gạt của ác quỷ, và vì vậy họ có thể sẽ an toàn hơn nếu họ tạm thời ở lại với tôn giáo truyền thống. Nếu con xem bài giàng của ta về các cấp độ tinh tấn, con sẽ hiểu rằng một số dòng sống bị bối rối và tổn thương đến mức họ cần đến sự ổn định bên ngoài của một hệ thống tín ngưỡng truyền thống hầu được chữa lành.

Tuy nhiên, thời nay cũng có nhiều dòng sống nếu muốn tiến bước xa hơn sẽ cần phải nâng tâm thức mình lên cao hơn. Những người này cần bước vào giai đọan làm người tầm đạo tâm linh, mở tâm mình ra những ý tưởng vượt ngoài học thuyết chính thống. Nếu họ không thực hiện bước này, họ sẽ ngừng lại và sẽ trở thành tù nhân của ác quỷ mà chính họ đã tìm cách trốn tránh bằng cách trú ẩn trong một giáo hội Cơ đốc. Nói cách khác, sẽ tới một điểm khi dòng sống không thể tiến lên khi họ ở lại với một tôn giáo bị bao phủ bởi sợ hãi. Nếu muốn tiến bước, họ sẽ phải nhận lấy rủi ro và mở tâm ra những tư tưởng mới. Tất nhiên là có nguy cơ mở tâm ra với những ý tưởng sai lầm, thế nhưng thực tế cốt yếu của cuộc sống là nếu con sợ té ngã thì con sẽ không bao giờ biết đi. Trong một bài giảng vô cùng quan trọng, ta có giải thích là mọi tôn giáo có thể trở thành một cái bẫy ngăn chận con tìm được cứu rỗi.  

Dĩ nhiên ta hiểu rõ nhiều dòng sống đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà con thấy nơi những người bạn đạo của con. Họ cần phải tiến về phía trước và mở tâm mình ra để hiểu biết cao hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, nhưng họ không thể hoàn toàn ngừng bám vào cái nhìn đầy sợ hãi của tôn giáo. Đó là tại sao họ phải níu lấy đạo Cơ đốc chính thống dường như đang cho họ một nơi trú ẩn an toàn. Đó là tại sao ta đã phát hành trang web này cùng các cuốn sách. Mục đích của ta là cung cấp cho những tín đồ Cơ đốc đó một lối thoát hầu họ có thể mở tâm ra đón nhận ý tưởng mới mà không phải tiếp xúc với những ý tưởng giả trá. Dĩ nhiên là các chân sư thăng thiên cũng đang dùng một số phương pháp khác để đem vào thế giới nhiều loại giáo lý tâm linh chân thực cho thời đại này.  

Tiếc thay, trong vũ trụ vật chất này không thể có gì bảo đảm được kết quả. Tình thế khó xử của ta rất dễ hiểu. Để giúp cho mọi người nâng cao tâm thức, ta phải cho họ những giáo lý đi xa hơn giáo điều chính thống. Nhưng chính vì trang mạng này và các cuốn sách của ta chứa đựng những ý tưởng đi xa hơn giáo điều chính thống mà ta có thể đoán trước được một số tín đồ Cơ đốc sẽ gọi giáo lý này là huyền bí, thậm chí còn thuộc về quỷ. Ngay cả ta cũng không có giải đáp cho bài toán này. Ta chỉ có thể cúi mình tôn trọng quyền tự quyết của mỗi người và chờ cho đến khi họ có được một quyết định sáng suốt hơn.   

Nếu con cảm thấy có sự thúc giục nội tâm muốn tìm cách giúp những người bạn của con mở tâm ra với sự hiểu biết cao hơn, kể cả đưa cho họ xem lời dạy mà ta vừa cho con, thì chắc chắn ta sẽ biết ơn sự giúp đỡ của con trong vấn đề này. Chỉ có một điều là con phải chắc chắn là con không bị vướng mắc vào kết quả của việc làm của con, như ta đã giải thích trong phần chót của quyền “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is born in you). Con hãy trình bày sự thật trong khả năng của con, xong hãy để họ tự do chọn lựa hướng đi của họ. Là một người đại diện cho Ki-tô, con không bao giờ được tìm cách ảnh hưởng sự chọn lựa của người khác. Đó là cách làm của ác quỷ và nó đã làm vậy từ khi nó nổi loạn chống lại Thượng đế, nhưng đó chưa bao giờ là cách của Ki-tô.

Con có thấy chăng là ác quỷ có thể chiến thắng bằng hai cách? Một là đánh lừa con đi theo con đường tay trái tà đạo. Và cách kia là khiến con sợ ác quỷ đến nỗi con không dám mở tâm ra cho bất cứ gì mới. Nếu con sợ huyền bí đến độ không dám nhìn ra ngoài giáo điều chính thống thì con đã cho phép ác quỷ kiểm soát con qua sự sợ hãi. Nếu các đệ tử của ta thời đó cũng có cái nhìn sợ hãi như nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay thì làm thế nào đạo Cơ đốc đã ra đời? Những người đạo Do Thái chính thống đã có thể giết nó ngay khi họ giết ta!  

Hành động tàn ác của con người có làm tan vỡ tim Thượng đế?

Hỏi: Vài năm trước đây, khi học sinh tại Dunblane, Scotland, bị giết hại dã man, con có nghe ai nói, “Thượng đế đã làm gì để ngăn cản chuyện này?” thì có một người khác trả lời, “Tim Thượng đế là trái tim đầu tiên bị tan vỡ.” Câu nói đó có đúng không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Câu nói rằng tim Thượng đế là trái tim đầu tiên bị tan vỡ, giản dị là không đúng. Ta biết điều này nghe có vẻ khắc nghiệt, vì vậy con cho phép ta giải thích. Trước hết, như ta có giảng khắp trang mạng này, Thượng đế đã không tạo ra những đau khổ mà con thấy trên địa cầu. Đau khổ là do con người tạo ra khi con người lạm dụng quyền tự quyết của mình và rơi vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết của ngài, cho nên ngài đã cho phép sự thể này diễn ra. Và mặc dù các hành động tàn ác hoàng toàn không phù hợp với ý muốn Thượng đế cũng như ý định của ngài cho hành tinh này, giản dị là ngài phải chờ cho đến khi nào con người quyết định ngừng tạo ra những điều kiện dẫn đến đau khổ.     

Khi con nghĩ về Thượng đế trong ý nghĩa cao nhất, đơn giản là Đấng Sáng tạo không nhìn thấy những điều kiện bất toàn trên hành tinh địa cầu. Như Kinh thánh có viết, Thượng đế không thể bị nhạo báng [Galatians 6:7] và mắt ngài không thể nhìn vào sự gian ác [Habakkuk 1:13]. Tuy nhiên, các vị đại diện của ngài, tức là chúng tôi các chân sư thăng thiên, quả là thấy được mọi điều kiện diễn ra trên trái đất.   

Xin con hãy cố hiểu, khi chúng tôi trở thành chân sư thăng thiên, chúng tôi đã bỏ lại tự ngã phàm phu và tâm nhị nguyên. Do đó, chúng tôi cũng bỏ lại phía sau những cảm xúc thấp kém, nhị nguyên và vị kỷ khởi lên từ các khía cạnh đó của tâm phàm. Ta không đang nói là các chân sư thăng thiên không có cảm xúc, nhưng cảm xúc của chân sư khác với cảm xúc của con người. Vì lẽ đó mà trái tim của chân sư không thể tan vỡ ra. Chúng tôi không cảm thấy sự mất mát không thể cứu vãn mà con người cảm thấy khiến trái tim con người như muốn bể ra tan tành. Đó là vì khi là chân sư thăng thiên thì cũng biết rõ thật sự chẳng có mất mát nào là không thể cứu vãn.

Con hẳn cũng biết đằng sau mọi hình dáng bên ngoài trải bày trên trái đất, có thực tại vô biên của Thượng đế. Sự thể trên địa cầu có vẻ trông như thật, nhưng nó không thật một cách tối hậu và nó không thường hằng. Nó chỉ là sự thị hiện tạm thời mà tâm thức tập thể của nhân loại đã phóng chiếu lên màn ảnh của cuộc sống. Nếu con thay đổi cuộn phim trong máy chiếu – tức là tâm con người – con cũng sẽ thay đổi hình dạng trên màn ảnh.

Ta hy vọng con thấy được là các chân sư thăng thiên có nhiệm vụ giúp mọi người tăng triển lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Phần quan trọng nhất của nhiệm vụ làm thày tâm linh là không bao giờ, không bao giờ được cho rằng các điều kiện bất toàn là thực và thường hằng. Cho nên khi chúng tôi nhìn vào một tai họa xảy ra trên trái đất, chúng tôi biết là nó đang xảy ra nhưng chúng tôi cũng khẳng định, về mặt tối hậu, rằng nó không thực và không thường hằng.

Do đó mối quan tâm đầu tiên và trên hết của chúng tôi là giúp cho con người bỏ lại các điều kiện bất toàn đó để xích lại gần hơn với sự toàn hảo của Thượng đế, có nghĩa là sự toàn hảo của tâm thức Ki-tô. Chúng tôi không bao giờ cho phép mình cảm thấy đồng tình với con người, vì sự đồng tình sẽ chỉ đơn giản khuếch đại các cảm xúc bất toàn. Nhưng chúng tôi cảm thấy thương yêu và từ bi, trong ý nghĩa là chúng tôi nhận rõ con người đang trải qua đau khổ. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng nhận ra là cho dù các điều kiện có vẻ khó khăn tới đâu thì con người vẫn có tiềm năng vươn lên khỏi mọi điều kiện.

Thêm vào đó, chúng tôi liên tục trụ neo trong tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, và nhờ vậy, chúng tôi chứng nghiệm thực tại hằng sống – thực tại như đang hít thở – rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có tiềm năng tiêu hủy tất cả mọi điều kiện và cảm xúc bất toàn trên địa cầu. Chúng tôi không ngừng cống hiến tình yêu vô điều kiện này cho loài người, không ngừng nỗ lực làm cánh cửa mở, làm chiếc cầu, để tình yêu vô điều kiện có thể chảy xối qua vào trái tim và tâm trí con người.

Do đó, ta hy vọng con hiểu được là chúng tôi không nhìn các hành động tàn bạo đó giống như con người nhìn. Điều này không có nghĩa là chúng tôi không nhạy cảm, hoặc chúng tôi mong cho nó xảy ra, mà có nghĩa là chúng tôi có một sự nhạy bén cao hơn cho phép chúng tôi luôn luôn cảm được tình thương vô điều kiện. Cho nên chúng tôi không ngừng với tay ra từng người để giúp người đó nâng cao tâm thức của mình.     

Vì vậy khi một diễn biến xảy ra, chẳng hạn một vụ tấn công khủng bố, các chân sư thăng thiên không phán xét con người như con người phán xét. Nói cách khác, chúng tôi quan tâm đến việc trợ giúp cả các nạn nhân cũng như kẻ khủng bố như nhau, để họ đều vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Tiếc thay, thường thì cả hai bên đều từ chối sự trợ giúp của chúng tôi.  

Các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố thường cảm thấy oán giận Thượng đế vì họ đặt vấn đề là tại sao ngài lại để cho chuyện đó xảy ra. Thậm chí, họ không sẵn lòng xét xem là có thể chính họ đã đồng sáng tạo những điều kiện gây ra diễn biến. Vì vậy, họ không thể mở tim ra để tiếp nhận tình yêu và sự tha thứ vô điều kiện mà chúng tôi sẵn sàng đổ vào tâm họ bất cứ lúc nào. Kết quả là họ thường bị kẹt lại trong những cảm xúc tiêu cực ngăn cản họ tiến bước tâm linh. Ước gì họ có thể mở trái tim và tâm trí ra thì chúng tôi đã có thể tràn ngập họ với tình yêu vô điều kiện, và họ sẽ tức khắc tha thứ được và bước tới.

Con thấy đó, tha thứ là chìa khóa cho tự do tâm linh. Cho đến khi nào con còn giữ nỗi hằn học đối với bất kỳ dạng sống nào hay đối với Thượng đế, đơn giản là con sẽ không thể thoát khỏi quá khứ và bước về phía trước. Con không thể rời khỏi địa cầu và nhập vào vương quốc thiên đàng – vì ở đó không thể có hiềm khích hoặc bất kỳ một cảm xúc tiêu cực nào. Chỉ khi nào con đã hoàn toàn tha thứ bản thân con, tha thứ mọi người khác cũng như Thượng đế, thì con mới được tự do bước lên cao hơn trong tâm thức.

Vì vậy bằng cách không tha thứ, con đang làm hại chính con. Đây là điểm mà nhiều người không hiểu được, và đó là tại sao họ không thể tuân theo lời dạy của ta là hãy tha thứ bảy mươi lần bảy. Con hãy suy ngẫm ta đã bảo mọi người phải thương yêu kẻ thù mình ra sao. Ta có nói, nếu con chỉ thương được những ai thương con, thì có gì đặc biệt đâu? Bất cứ ai cũng làm được chuyện đó. Nếu con chân thành bước trên đường tu tâm linh, con phải học cách yêu thương những ai thù ghét con và tha thứ những ai làm hại con.

Ta hoàn toàn cảm thông gia đình các nạn nhân cảm thấy vô cùng đau buồn trước vụ thảm sát cũng như sự mất mát những người thân yêu. Thế nhưng một khi sự kiện đã xảy ra, thì không đau buồn nào hay cảm xúc tiêu cực nào có thể quay ngược được bánh xe thời gian. Chính những cảm xúc tiêu cực đó sẽ luôn luôn kìm hãm sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên nếu con thực sự muốn tăng triển tâm linh, điều quan trọng nhất là con hãy bỏ lại những cảm xúc tiêu cực đó và vươn lên cao hơn trong tâm thức.

Đáng buồn thay, rất nhiều nạn nhân các sự kiện tàn ác không sẵn lòng vươn lên cao hơn; họ muốn ở lại trong cảm xúc tiêu cực của oán giận, trách cứ, đau buồn hay tủi thân. Tất nhiên, đây là chon lựa của họ, nhưng là chân sư thăng thiên thì chúng tôi không thể cho phép mình cảm thấy đồng tình với những ai có chọn lựa như vậy. Chúng tôi có thể cảm thấy từ bi, và chúng tôi có thể thông cảm nỗi khó khăn để họ buông bỏ. Tuy nhiên, thật là dễ cảm thương cho một người cứ bám vào một đồng xu khi có người đứng bên cạnh trao tận tay cho họ một triệu đô la. Thật là dễ dàng làm sao để cảm thương cho những ai cứ bám lấy một đồng xu đau buồn nhân thế khi chúng tôi đang sẵn lòng trao cho họ một triệu đô la là tình yêu và tha thứ của Thượng đế.      

Đương nhiên, những kẻ khủng bố cũng sẽ khó lòng chấp nhận tha thứ để bước lên cao hơn. Thường thường, họ sẽ lo bám giữ ảo tưởng là hành động khủng bố của họ đúng đắn và chính đáng dưới mắt Thượng đế, thậm chí họ sẽ không thể chấp nhận họ cần được tha thứ. Nếu họ không thể xin tha thứ thì làm sao họ có thể chấp nhận tha thứ? Hệ quả đáng tiếc khi cả hai bên của cuộc xung đột đều không sẵn lòng nhận lấy sự tha thứ vô điều kiện của Thượng đế, là cả hai bên đều tạo ra một vòng xoáy ốc nghiệp báo với nhau. Chuyện này có thể tiếp diễn hàng thế hệ hay hàng thế kỷ. Thực tế là vụ khủng bố tại Madrid vừa rồi là hậu quả của vòng xoáy nghiệp báo đã được tạo ra giữa người Hồi giáo và người Tây ban nha vào thời người Hồi chiếm đóng Tây ban nha cũng như các cuộc Thập tự chinh.   

Chúng tôi các chân sư thăng thiên không mong muốn gì hơn là được chứng kiến những vòng xoáy đó tan biến, tiêu hủy bởi tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Tuy nhiên muốn cho điều này xảy ra, phải có một túc số đủ những người ở cả hai bên của vòng xoáy nghiệp báo chấp nhận tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, hầu cho phép tình yêu đó tuôn chảy vào tim mình và tiêu hủy mọi sổ sách của quá khứ cũng như mọi cảm xúc tiêu cực.  

Tình yêu vô điều kiện của Thượng đế giống như hạt mưa rơi đổ xuống người công chính lẫn người bất chính. Nếu con có thể chấp nhận trọn vẹn sự tha thứ của Thượng đế ngay giây phút này cho bất kỳ lầm lỗi nào mà con đã phạm, thì tức khắc con sẽ được tha thứ. Sẽ vẫn còn một số năng lượng tha hóa nào đó, hay nghiệp quả, cần được tiêu hủy. Tuy nhiên, tự thân sự tha thứ thì sẽ xảy ra tức thì ngay khi con chấp nhận tha thứ. Đây là sự thật mà hầu hết mọi người không tài nào chấp nhận nổi, và đó cũng chính là lý do tại sao ai nấy cứ tiếp tục tạo ra nghiệp quả thay vì bỏ lại đằng sau mọi bất toàn của con người.   

Giáo lý nền tảng về các khía cạnh tâm linh của tình dục

Hỏi: Giê-su thân yêu, sự sa ngã của loài người đã xảy ra khi giống dân gốc thứ tư hiện thân, tức là luân xa gốc trên sống lưng. Rõ ràng hành tinh này đang gặp rất nhiều vấn đề với tình dục bị lạm dụng. Không hiểu thày có lời khuyên gì về việc khắc phục các năng lượng bị lạm dụng? Làm thế nào con người có thể khắc phục sự nghiện ngập tình dục, đặc biệt là khi nó quá phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đã có nhận xét về vấn đề này khi trả lời một số câu hỏi khác trong phần này, và lời nhận xét của ta vẫn xác đáng. Ta cũng khuyên con nên xem câu trả lời của ta về cách chiến đấu một chứng nghiện kéo dài suốt đời. Tuy nhiên, ta muốn nhân cơ hội này giảng dạy sâu xa hơn về vấn đề tình dục. Ta hiểu rõ đây là một vấn đề cho nhiều người thực sự tâm linh, cho nên hãy để ta cho con một số lời giảng có thể giúp con hiểu sâu hơn.

Như ta đã giải thích ở nơi khác, dòng sống của con được sinh tạo ở ban đầu bởi cha mẹ tâm linh của con. Con được tạo ra là một cá thể của Thượng đế, và cá thể độc đáo của con được biểu lộ và neo trụ nơi cái ta tâm linh của con, hay Hiện diện TA LÀ. Ở một thời điểm nào đó, dòng sống của con đã quyết định là nó muốn trải nghiệm vũ trụ vật chất từ bên trong, và nó muốn đóng góp vào việc đồng sáng tạo khía cạnh này của tạo vật Thượng đế. Sau đó dòng sống của con đã tạo ra một phần nối dài của chính nó, là cái Ta Biết.

Điều quan trọng cần hiểu trong bối cảnh này là cái Ta Biết không bao giờ được tạo ra để lẻ loi một mình. Nó được tạo ra như là một phần nối dài của cái ta tâm linh, và trong nghĩa đen, nó được trù hoạch là một hành tinh quay quanh mặt trời của cái ta tâm linh của con. Tuy nhiên, cái Ta Biết được phú cho một ý niệm hiện hữu cá nhân, và cái Ta Biết có quyền tự quyết. Do đó, cái Ta Biết có thể thay đổi ý niệm bản sắc hầu nó không tự xem mình là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Đây chính là điều đã xảy ra trong tiến trình mà Kinh thánh mô tả là sự Sa ngã của con Người, và như ta có giải thích khắp trang mạng này, đó là sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Để dùng một ẩn dụ thiên văn, người ta có thể ví như hành tinh của cái Ta Biết đã ngừng quay trên trục của nó. Con cũng biết là nếu trái đất ngừng quay, có một mặt của trái đất sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Nếu con sống trên mặt đó của hành tinh, rất có thể con sẽ không có ý niệm gì về ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt kia. Đây chính là điều đã xảy ra trong nghĩa đen cho hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu. Họ đã quên mất mặt trời của cái ta tâm linh.

Tuy nhiên, sự lãng quên này chỉ hiện hữu trên bề mặt của tâm thức. Cái Ta Biết không bao giờ có thể quên được là nó đã được tạo ra như là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Cho dù cái Ta Biết có thể xây dựng một ý niệm bản sắc tách biệt, nó không bao giờ có thể cảm thấy trọn vẹn và toàn vẹn trong ý niệm bản sắc đó. Cái Ta biết chỉ có thể cảm thấy trọn vẹn khi nó nối kết với Hiện diện TA LÀ một cách ý thức. Do đó, cho dù cái Ta Biết đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi sâu thẳm nó vẫn khát khao được trọn vẹn, nó vẫn mang một cảm giác sâu sắc là cuộc sống của nó thiếu sót một cái gì.

Khi con hiểu điều này, con nhận ra là hầu hết ý nghĩ, cảm xúc và hành vi mà con người khoác vào trong cuộc sống, đều liên quan đến cảm nhận sâu sắc của cái Ta Biết là mình lẻ loi, hay mình thiếu sót, thiếu trọn vẹn. Nếu con xem bài giảng của ta về các trình độ phát triển tâm linh, con có thể nói là khi con người càng xuống thấp trong tâm thức bao nhiêu thì họ sẽ càng cảm thấy lẻ loi bấy nhiêu. Thế nhưng vì họ không thể, hay không muốn, nhìn nhận đời sống tâm linh của mình, họ không có cách nào giải quyết cảm nhận lẻ loi này. Thay vào đó, họ chỉ có chọn lựa duy nhất là che đậy cảm nhận lẻ loi và thiếu sót đó.   

Và điều này dẫn đến đủ loại niềm tin và hành vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của mình khỏi cảm giác trống rỗng sâu sắc bên trong. Nó cũng dẫn đến một số tin tưởng được trù liệu để khiến cho con người cảm thấy mình không cần thay đổi đời mình, rằng mình vẫn yên ổn, tốt đẹp, hay mình không có cách nào thoát ra khỏi cảm giác trống rỗng đó. Những tin tưởng và hành vi như vậy có thể rất nhanh chóng dẫn đến đủ loại những chứng nghiện ngập đủ thứ đồ vật của thế gian, từ chất hóa học cho đến của cải, quyền lực và tình dục.

Nhân tiện cũng cần nói là rất nhiều những chứng nghiện này được khuyến khích, thậm chí được bày ra, bởi một số tín ngưỡng chính thống hay cực chính thống. Những hệ thống tín ngưỡng khép kín như vậy được thiết kế để ngăn cản con người không thể nhận ra và giải quyết sự trống rỗng nội tâm của mình, để giữ cho con người bị kẹt lại trong thế giới vật chất thay vì thăng vượt thế gian và kết hợp lại với cái ta tâm linh của mình.

Bất cứ loại hệ thống tín tưởng hay hệ thống hành xử nào mà đưa con người vào một tình trạng nghiện ngập, dù là về mặt tình cảm hay vật lý, luôn luôn nhận được sự hỗ trợ và củng cố từ các thế lực bóng tối đang tìm cách kiểm soát loài người. Đó là tại sao việc phá bỏ một chứng nghiện thật là một trận chiến sống còn – sống còn tâm linh – của dòng sống. Điều ta cố giải thích ở đây là đối với những ai đã rơi sâu xuống tư duy nhị nguyên, nghiện ngập như vậy chủ yếu là do đã từ chối không chịu đối mặt với nhu cầu tái nối kết cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Người đó cố gạt sang một bên nhu cầu cải sửa bản thân một cách đích thực và biến đổi tâm linh.

Khi con người vươn lên những tầng nhận biết cao hơn, họ sẽ bắt đầu nhìn nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Họ ý thức hơn là dòng sống của mình không trọn vẹn và cần phải tìm lại trọn vẹn. Kết quả là họ bắt đầu nhận ra là thế gian này không giúp cho mình cảm thấy trọn vẹn. Lần hồi, điều này giúp họ khắc phục sự nghiện ngập đối với những thứ vỏ ngoài, và họ bắt đầu chú tâm hơn vào các nhu cầu tâm linh của dòng sống. Họ không còn cảm thấy phải che đậy cảm nhận lẻ loi nữa, mà cảm được nhu cầu phải thật sự giải quyết nỗi lẻ loi đó. Thế nhưng ở những bước đầu của tiến trình tăng trưởng này, gần như không thể tránh được là dòng sống sẽ lý luận rằng vì mình cảm thấy không trọn vẹn, cho nên mình phải cần đến một thứ gì đó từ ngoại cảnh, từ bên ngoài mình, để trở thành trọn vẹn. Vì vậy, dòng sống sẽ xả thân đi tìm một thứ gì đó màu nhiệm sẽ tự dưng biến mình thành toàn vẹn.

Một trong những tìm kiếm này là đi tìm một người bạn đời toàn hảo, kể cả một người bạn tình toàn hảo. Trong giao phối tình dục, nhiều người trải nghiệm được những thoáng hiện của sự trọn vẹn nội tâm. Đây là một tiến trình tự nhiên, và nếu sử dụng đúng đắn, nó có thể giúp cho dòng sống hàn gắn cảm nhận lẻ loi của mình. Rất tiếc, như ta đã có giải thích trong một bài giảng khác, bất cứ gì trong thế gian này cũng là con dao hai lưỡi. Cho nên điều gì có thể là một dụng cụ giải thoát dòng sống cũng có thể trở thành một cái bẫy cho dòng sống, và điểm này đặc biệt đúng trong vấn đề tình dục.

Vấn đề sẽ xảy ra khi người tầm đạo bắt đầu tin rằng sự kết hợp tình dục là cần thiết cho trải nghiệm trọn vẹn. Nó có thể dẫn tới sự dính mắc tình cảm đối với tình dục, và nó có thể trở thành một bệnh nghiện tâm linh. Ta cũng biết đây là một sự phân biệt tinh tế, nhưng cái mà ta gọi là nghiện ngập vỏ ngoài là một hành vi nhằm che đậy cảm nhận thiếu toàn vẹn của dòng sống. Nói cách khác, nó khiến dòng sống bị tê cóng, mất cảm giác. Còn nghiện ngập tâm linh là khi dòng sống cảm thấy sự toàn vẹn của mình tùy thuộc vào một hoạt động nào đó. Nhân tiện, hoạt động tôn giáo cũng có thể trở thành một loại nghiện ngập tâm linh như thế, nhưng vì chủ đề ở đây là tình dục cho nên ta sẽ không bàn thêm về chuyện này.

Ý ta muốn nói là đối với rất nhiều người thật sự tâm linh, tình dục trở thành một chứng nghiện tâm linh. Họ thực sự bắt đầu tin rằng chìa khóa cho sự trọn vẹn nội tâm là tìm ra người bạn đời toàn hảo, và điều này khiến cho nhiều người suốt đời đi tìm một người phối ngẫu toàn hảo và tình dục toàn hảo. Hầu hết những người này không bị nghiện tình dục theo nghĩa nghiện vật lý. Họ không thật sự nghiện tình dục theo nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, họ có ham muốn sâu sắc được cảm thấy trọn vẹn, nối kết, và họ tin tình dục là phương cách – có lẽ phương cách duy nhất – để thực hiện ham muốn này.

Đây là một điểm tinh tế có thể cần chút suy ngẫm. Khi dòng sống tăng trưởng tỉnh giác tâm linh, y sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn là mình không trọn vẹn, và y sẽ phát triển ý muốn khắc phục cảm giác này. Nếu y chưa hiểu được hoàn toàn là sự trọn vẹn tối hậu chỉ có thể trải nghiệm trong kết hợp với Hiện diện TA LÀ, thì y có thể tin rằng bí quyết để trọn vẹn là trải nghiệm kết hợp với một phần khác của sự sống, tức là với một người khác.

Hiển nhiên, kết hợp tình dục là một cách mãnh liệt để trải nghiệm hợp nhất với một người khác. Vì dòng sống mong muốn trọn vẹn rất mạnh mẽ, y có thể phát triển mong muốn kết hợp tình dục cũng mạnh mẽ như vậy. Những người như vậy muốn càng nhiều tình dục càng tốt, có khi với nhiều bạn tình khác nhau. Có những người mong muốn kết hợp với sự sống mạnh mẽ đến độ họ muốn kết hợp với bất cứ ai có vẻ hấp dẫn đối với họ. Họ tin rằng tình dục sẽ đưa họ đến gần hơn với trọn vẹn. Nói cách khác, tình dục không được dùng để che đậy hay đánh lạc hướng mong muốn trọn vẹn, mà bây giờ nó được dùng như một công cụ để tạo ra cảm giác trọn vẹn.

Và sau đây là điểm thực sự tinh tế. Ở một số giai đoạn trên đường tu tâm linh, điều này có thể đem lại một số tác dụng hữu ích. Nếu dòng sống tham gia vào tình dục với ý muốn chân chính đạt được trạng thái trọn vẹn, thì tình dục quả là có thể giúp cho y chữa lành. Qua kết hợp tình dục, đặc biệt là trong tình yêu và quan tâm đích thực đối với người bạn tình, dòng sống có thể được chữa lành và vượt qua cảm giác lẻ loi. Y cũng có thể bớt tập trung vào bản sắc nhị nguyên đã được xây dựng sau cuộc sa ngã. Đây thật sự là tiềm năng có được một hôn nhân thành công, qua đó cả vợ lẫn chồng đều đạt đến kết hợp tâm linh cao nhất.

Tuy nhiên khi dòng sống tiến xa hơn trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi y cần thăng vượt cách hiểu và sử dụng tình dục như một công cụ kết hợp. Như ta đã nói, ở những giai đọan đầu tiên của đường tu, gần như không thể tránh khỏi dòng sống sẽ tin là mình cần một điều gì đó từ bên ngoài để trở thành trọn vẹn. Điều này có phần đúng theo nghĩa là dòng sống sẽ chỉ đạt được trọn vẹn qua sự kết hợp với Hiện diện TA LÀ. Ảo tưởng vô cùng tình tế ở đây khiến cho nhiều người thực sự tâm linh bị mắc bẫy là họ tin rằng Thượng đế, hay cái ta tâm linh, nằm ở đâu đó bên ngoài bản thân họ. Ảo tưởng này chính là ảo tưởng khó khắc phục nhất đối với bất kỳ người tầm đạo nào.

Nhiều dòng sống đã tinh tấn rất nhiều trên đường tu tâm linh, nhưng tiếc thay, họ tới một ngưỡng cửa mà nếu không vượt qua thì họ sẽ rất khó lòng bước tiếp. Cách duy nhất để vượt xa hơn ngưỡng cửa này là phải ngừng tìm kiếm cái gì đó bên ngoài chính mình. Con cần khắc phục mọi sự dính mắc, mọi ràng buộc, mọi lệ thuộc vào bất cứ gì mà con nhận thức là ở ngoài con. Con cần nhận ra bí quyết của sự trọn vẹn được tìm thấy bên trong chính con.  

Như ta đã nói ở trên, cái Ta Biết được tạo ra như phần nối dài của cái ta tâm linh. Một phần nối dài của cái ta tâm linh không đứng riêng rẽ, không tách biệt khỏi cái ta tâm linh. Đây là vấn đề của thế giới hình tướng, vì trong thế gian này, con thấy hình tướng khác nhau là tách biệt. Ngay cả ẩn dụ mà ta vừa cho con về cái Ta Biết như một hành tinh quay quanh mặt trời cũng đề cao cái nhìn tách biệt này. Cho nên chúng ta có thể nghĩ đến một mô thức khác hơn, là cái Ta Biết được xem như một con sóng trên đại dương của cái ta tâm linh. Nói cách khác, cái Ta Biết không bị tách rời khỏi cái ta tâm linh y như con sóng không thể tách rời khỏi đại dương.

Điểm cốt yếu ở đây là con không thể đạt tới sự trọn vẹn tối hậu khi nào con còn nghĩ sự trọn vẹn tùy thuộc vào một cái gì bên ngoài chính con. Chìa khóa của trọn vẹn là ngừng xem mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình, nghĩa là cả cái ta tâm linh lẫn Thượng đế. Cảm nhận tách biệt chỉ hiện hữu trong tâm con, cho nên nơi duy nhất mà con khắc phục được nó là trong tâm con. Con phải vượt qua ảo tưởng là mình đã từng tách rời khỏi cái ta tâm linh của mình. Con phải nhìn ra chìa khóa để tiếp xúc với cái ta tâm linh, chìa khóa để đạt đến kết hợp với cái ta tâm linh đó, là hướng sự chú tâm vào bên trong chính mình và ngừng hướng nó ra ngoài. Con phải ngừng đi tìm hòn đá giả kim, hay chiếc gậy thần sẽ bỗng nhiên khiến con cảm thấy mình là một với Thượng đế. Hòn đá giả kim không hiện hữu bên ngoài con, nó nằm ngay trong con – đó là cái ta Ki-tô của con.

Cho nên điều ta muốn nói là đối với nhiều người thực sự tâm linh, kết hợp tình dục rốt cuộc có thể trở thành một cái bẫy ngăn cản họ nhìn vào bên trong chính họ, vì sự chú ý của họ luôn hướng về người bạn đời. Nhiều người tâm linh trực nhận một mục đích chính đáng đằng sau ham muốn kết hợp tình dục, và điều này khiến họ rất khó lòng khắc phục ham muốn tình dục. Họ cảm thấy là họ sẽ đánh mất một cái gì đó thật quan trọng nếu họ bỏ hẳn, và điều này tạo ra một xung đột nội tâm khiến cho chuyện khắc phục ham muốn tình dục gần như là vô phương.

Con hãy lưu ý một điểm thiết yếu. Khi nào mà con còn một mâu thuẫn nội tâm về bất cứ khía cạnh nào của đường tu tâm linh, con sẽ không thể bước tới trên đường tu. Con sẽ kẹt lại ở bước đó cho tới khi con giải tỏa mâu thuẫn và đạt được sự rõ ràng bên trong và mục đích nhất quán. Điều này chỉ có thể đạt được qua viễn quan của con mắt đơn thuần trong tâm Ki-tô. Hẳn con có nhớ lời nói của ta là nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con tràn đầy ánh sáng. Một nhà bị phân rẽ lẫn nhau không thể tiến bước trên đường tu.

Để vượt qua bế tắc, con cần đạt tới điểm nhận ra là việc từ bỏ tình dục không phải là một mất mát, vì thay vào đó, con sẽ thu được một cái gì quan trọng và thoả nguyện hơn gấp bội. Con cần xem xét nội tâm và quyết định ưu tiên thực sự của mình là gì. Con mong muốn sự toàn vẹn bên trong của cái Ta Biết đến chừng nào? Con cần quyết định là cho dù tình dục có tuyệt vời đến đâu thì con vẫn muốn một cái gì khác nhiều hơn. Con khao khát một điều gì sâu xa hơn, đó là cảm giác hòa nhập với cái ta tâm linh của mình, và ta có thể cam đoan với con là nó tuyệt diệu và đầy ắp hơn tất cả những gì con có thể trải nghiệm trong tình dục. Con phải ngừng săn đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng, và thay vào đó, hướng chú tâm vào bên trong.

Đây là điểm mà ta đã cố giảng trong câu nói thuở trước, là trước tiên con hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, thì sau đó mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con. Vương quốc Thượng đế chính là tâm thức Ki-tô, mà con sẽ chỉ đạt được qua sự kết hợp với cái ta Ki-tô của con, là vị trung gian giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô nằm bên trong chính con, và bí quyết để giữ liên lạc với cái ta Ki-tô là hướng chú ý của mình vào trong. Khi con bắt được liên lạc với cái ta Ki-tô cùng sự công chính – có nghĩa là sử dụng đúng đắn quyền tự quyết và sự chú ý của mình – thì tất cả mọi thứ khác, có nghĩa là ý thức kết hợp tối thượng với cái ta Ki-tô, sẽ được bồi thêm cho con. Thật sự đó là niềm vui của Thượng đế ban cho con vương quốc của sự hợp nhất tâm linh. Nhưng chìa khóa của vương quốc là ở trong con.

Cho nên điểm cơ bản của bài giảng dài dòng này là cách tối hậu để khắc phục nghiện ngập tình dục là một chiến lược gồm hai mũi dùi:

  • Con hãy sử dụng mọi dụng cụ mà con có để tự giải phóng khỏi các thế lực bên ngoài đang tìm cách đánh bẫy con vào chứng nghiện tình dục, như được mô tả ở nơi khác.
  • Một khi con đã có nỗ lực chân thành để vươn lên khỏi sức kéo hướng hạ của các tà lực và tâm thức tập thể, con hãy nhìn nhận rằng mong muốn kết hợp tình dục của mình khởi lên từ mong muốn toàn vẹn của cái Ta Biết. Nhìn nhận rằng mong muốn đó không thể được thỏa mãn qua kết hợp tình dục, và do đó, con hãy hướng chú ý tìm kiếm sự kết hợp với cái ta Ki-tô, thay vì kết hợp với một người khác.

Sự nghiện ngập tình dục có thể khởi lên từ một mong muốn đích thực, là mong muốn toàn vẹn nội tâm, thế nhưng vì con tìm nó trong tình dục, con sẽ bảo đảm mục tiêu đó sẽ không bao giờ hiện thực. Không một người nào – không một cái gì từ thế gian này – có thể thay thế được cái ta tâm linh của con. Có rất nhiều vật thay thế có thể che đậy cảm giác thiếu trọn vẹn, nhưng không một vật thay thế nào có thể thực sự đem lại cho con sự trọn vẹn. Do đó, con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế.

Con không là một sinh thể tình dục mà một sinh thể tâm linh

Câu hỏi 1: Giê-su thân yêu, con biết không có đề tài nào là cấm đoán và thày sẵn sàng trả lời về bất cứ vấn đề nào,,, cho nên con mới xin hỏi… một số người bảo rằng thủ dâm là một tội lỗi (vì đó là một dạng dục vọng, điều thày gọi là ngoại tình) trong khi có người lại bảo rằng chuyện đó tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng… Con sẽ biết ơn nếu thày có thể cho con biết quan điểm của thày từ góc cạnh một vị thày tâm linh. Vậy thủ dâm có ích lợi, hay ngay cả cần thiết, cho sự tăng triển của dòng sống hay không? Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào để loại bỏ căng thẳng? Con sẽ rất mừng nếu thày vui lòng nhận xét về chủ đề gây tranh cãi này.

Câu hỏi 2: Xin thày giúp chúng con với vấn đề sau đây vì con chưa rõ ràng về một khía cạnh của tình dục là thủ dâm. Con xin có câu hỏi này: Có thật là khi thủ dâm, năng lượng bị làm cho tha hóa hay không? Nếu như con có quan hệ tình dục trong hôn nhân và có quan hệ trong sự yêu thương, con được học là trong trường hợp này, con không làm tha hóa năng lượng. Vậy đâu là sự khác biệt? Xin thày giải thích tại sao một dòng sống lại bị thu hút bởi cách thỏa mãn này đến như vậy? Xin thày cho chúng con một lời dạy cặn kẽ sẽ làm rõ toàn bộ vấn đề này cùng những sáng ngộ để giúp chúng con giải quyết khía cạnh này của cuộc sống.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Chắc chắn không có câu hỏi nào là cấm kỵ, mặc dù có những người sẽ muốn ta không đề cập đến một số đề tài. Việc không sẵn lòng xem xét một đề tài nào đó thường là do người đó không sẵn sàng xét lại quan điểm của mình về đề tài đó. Trong bài giảng của ta về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái, ta đã có đưa ra lời dạy sau đây:

[bắt đầu trích dẫn] “Thượng đế có một bản chất kép, tức là yếu tố nam và nữ, âm và dương. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hòa, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

“Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh đó của Thượng đế. Điều này thấm xuống tới cõi vật chất, và đó là tại sao một dòng sống con người có một khía cạnh nam và một khía cạnh nữ, và tại sao cơ thể con người có nam và nữ.

“Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự trải bày của một nguyên lý tâm linh.

“Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của con đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng lên trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

“Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.

“Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ.” [kết thúc trích dẫn]

Ta nghĩ, điều hiển nhiên trong những lời nói trên cũng áp dụng cho việc thủ dâm. Khi không có hai thái cực nam và nữ, sẽ không có khả năng cho năng lượng tuôn ra có thể được phú cho một rung động cao hơn. Nói cách khác, thủ dâm luôn luôn làm tha hóa năng lượng.

Thêm vào đó ta cũng có nói: “Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết.” Yếu tố quyết định ở đây là liệu hai đương sự đang cố nhận vào hay là cho ra? Liệu họ có tìm cách thỏa mãn cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên, hay là họ tìm cách thỏa nguyện dòng sống? Liệu họ tìm sự thoả mãn cho phàm ngã hay cho cái ta rộng lớn hơn?

Một dòng sống có thể mong muốn kết hợp tình dục một cách chính đáng. Tuy nhiên, mong muốn này không tập trung vào cơ thể vật lý và không bị kích động bởi tâm nhị nguyên. Đó thực sự là một mong muốn kết hợp với cái gì đó ở ngoài nó, và để trải nghiệm kết hợp này, dòng sống phải nhìn ra ngoài bản thân.

Điều ta muốn nói là mặc dù dòng sống có thể mong muốn kết hợp với một người khác phái, mong muốn này sẽ không biểu đạt qua ham muốn thủ dâm. Do đó, thủ dâm luôn luôn bị kích động bởi cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên. Nó luôn luôn là một mong muốn tập trung vào chính mình, tìm thỏa mãn cho chính mình mà không có sự hiến dâng của cái ta. Có thể nói là dòng sống không hề có mong muốn thủ dâm, nghĩa là khi một người cảm thấy mong muốn như vậy, đó là vì dòng sống đã rút đi và tâm ý thức của người đó đã đầu hàng dục vọng của cơ thể và cảm thể.

Trên thế giới có nhiều người gần như sống trọn đời chỉ để đi tìm thỏa mãn cho các ham nuốn thấp kém. Nhưng đối với người bước trên đường tu tâm linh, điều quan trọng là vươn lên trên ham muốn thấp kém đó. Con phải làm im bặt tíếng gọi inh ỏi của ham muốn trần tục và nhị nguyên để con nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của mong muốn đích thực của dòng sống.

Hãy để ta nói thật rõ là thủ dâm không cần thiết, và nó không lành mạnh cho sự tăng triển của dòng sống. Vấn đề ở đây là khi con nhượng bộ các ham muốn nhị nguyên, con tự đặt mình trên một cầu tuột, và trọng lực của tâm thức tập thể sẽ không ngừng kéo con tuột xuống thấp hơn. Nhiều người cứ tuột xuống ngày càng sâu hơn trong suốt một kiếp, nhưng con là người tầm đạo tâm linh, con không thể cho phép mình làm điều đó. Cốt lõi của phát triển tâm linh là con đi lên hướng kia, con khắc phục trọng lực của tâm thức tập thể. Tâm thức này vô cùng mạnh mẽ về mặt tình dục, và con người có thể làm gần như bất cứ gì để biện minh cho ham muốn tình dục của mình.

Ý tưởng bảo rằng thủ dâm là “tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng” là một ví dụ điển hình của loại “biện minh” đó khởi lên từ tâm thức tập thể. Cách nó lý luận là bảo rằng vì Thượng đế đã sinh tạo chúng ta với bộ phận sinh dục, thì sẽ chỉ là tự nhiên nếu chúng ta bày tỏ dục tính của mình, và nếu mình không có bạn tình thì thủ dâm là một cách tự nhiên để giải tỏa căng thẳng. Lời gian dối ở đây là sự kiện ham muốn nhị nguyên sẽ không bao giờ chấm dứt, nó giống như một lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy. Cho nên con có thể bỏ ra nguyên một kiếp người để cố thỏa mãn ham muốn nhị nguyên mà vẫn không làm được. Đó là một cuộc tìm cầu vô vọng rốt cuộc sẽ nuốt trọn sự sống của con.

Thật ra thủ dâm có thể giảm căng thẳng một cách nhất thời, nhưng về lâu về dài, nó sẽ chỉ củng cố chính cái ham muốn nhị nguyên đã tạo ra căng thẳng. Nói cách khác, một khi con nhượng bộ ham muốn nhị nguyên, thì con tạo ra một vòng xoáy tự nó bồi thêm sức mạnh sẽ kéo con đi xuống tới mức mà con cho phép nó kéo con xuống. Nếu nỗ lực giảm bớt căng thẳng của con chỉ dẫn đến nhiều căng thẳng hơn thì sự giải tỏa nằm ở đâu? Trên thực tế, nó dẫn đến nghiện ngập thay vì tự do.

Ta cũng biết hầu hết người trẻ đều có thời điểm khi họ bắt đầu khám phá cơ thể của mình, và họ rơi vào thủ dâm. Đây không nhất thiết là một quan tâm lớn của ta, nhưng vấn đề là một khi con bắt đầu trượt xuống cầu tuột, thủ dâm sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện. Cơ thể con bắt đầu bảo con là nó không thể sống tiếp mà không có tình dục, và nó làm đời con khốn khổ nếu nó không được thỏa mãn.

Thực tế sinh học là nếu con không ăn, không uống hay không ngủ, cơ thể con sẽ chết. Nhưng con có khả năng sống nguyên một kiếp mà không có quan hệ tình dục. Điều ta muốn nói là tình dục không phải là một nhu cầu sinh tồn, và quả thật con có thể sống mà không có chút nào. Ta chỉ muốn nói là khi con là người tâm đạo tâm linh, con cần nhìn thật rõ là con không được cho phép các ham muốn tình dục khởi lên từ tâm nhị nguyên cai quản đời con. Con cần điều ngự cơ thể và tâm nhị nguyên thay vì để cho chúng điều khiển đời con.

Công việc này bắt đầu với một quyết định cương quyết, và con đã từng có nhiều quyết định có thể giúp con. Chẳng hạn, ta tin tưởng là đối với những ai cởi mở với trang mạng này, việc cưỡng dâm không phải là một cách chính đáng để giảm bớt căng thẳng của ham muốn tình dục. Cho nên con đã từng có những quyết định cương quyết về những cách cư xử mà con không thể chấp nhận để thỏa mãn tình dục. Đơn giản, con chỉ cần thêm thủ dâm vào danh sách đó. Ta không có vấn đề gì với những cặp sống với nhau trong một mối quan hệ cam kết, nơi cả hai người đều thoả mãn ham muốn tình dục của nhau một cách yêu thương và cân bằng. Do đó, ta khuyến khích mọi người hãy quyết định cách đó là cách duy nhất có thể chấp nhận được để toại nguyện ham muốn tình dục của mình.

Hậu quả của quyết định này là nếu con không đang ở trong một mối quan hệ bền chặt thì con sẽ không thể toại nguyện ham muốn tình dục của con, và do đó con cần tìm những cách khác để giải quyết các ham muốn đó – và ta sẽ nhận xét về điểm này trong phần sau. Điểm ta muốn nói ở đây là một khi con lấy được quyết định chắc chắn thì con đã đi được hơn nửa đường. Lý do hầu hết mọi người không ngừng bị quấy rầy bởi cám dỗ tình dục là vì họ chưa lấy quyết định chắc chắn, cho nên thật là quá dễ cho tâm nhị nguyên và tà lực cám dỗ họ. Và một khi ho mở tâm ra cho cám dỗ ấy, áp lực sẽ không ngừng gia tăng cho đến khi họ không thể chịu được nữa. Một cái gì đó bị gẫy, và thường thường đó là ý chí của họ. Con cần tránh đến gần điểm đó, điểm không thể quay trở về.

Điều này dẫn đến môt câu hỏi khác của con: “Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào loại bỏ căng thẳng?” Cách tốt nhất để đối phó với căng thẳng là không để nó tăng trưởng tới điểm tới hạn – có nghĩa là khi đó, con không thể kiểm soát được nó nữa. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con sống được là vì con nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Năng lượng này, sinh lực này, nhập vào trường năng lượng của con qua Căn phòng Mật thất ở luân xa trái tim. Từ đó nó được phân phối ra các luân xa khác, kể cả trung tâm năng lượng thường gọi là luân xa gốc.    

Dòng chảy tự nhiên của năng lượng là dòng sinh lực dâng lên qua cả bảy luân xa chính, nhưng năng lượng có thể được chuyển hướng tới bất kỳ luân xa nào. Chẳng hạn khi một người có một ham muốn tình dục trụ vào bản thân và cơ thể, một phần sinh lực sẽ được đưa về luân xa gốc. Một ham muốn vị kỷ luôn luôn khiến cho luân xa quay ngược chiều và năng lượng bị giảm độ rung, dẫn đến năng lượng bị tồn đọng trong luân xa. Đó chính là cảm giác kích thích nơi các cơ quan sinh dục, nhưng khi năng lượng tích tụ thêm, cảm giác kích thích biến thành sự căng thẳng, và căng thẳng có thể trở nên rất khó chịu.

Khi năng lượng dồn thêm, luân xa bị đổi màu sắc, và đó là tại sao con thấy nhiều giáo lý tâm linh và Thời mới vẽ hình luân xa gốc màu vàng cam hay đỏ sẫm. Khi luân xa gốc quay đúng chiều và tinh khiết, nó tỏa ra ánh sáng màu trắng.

Là người tầm đạo tâm linh, con cần học cách nhận diện cảm giác khi năng lượng tích tụ trong các luân xa của mình, và đối với luân xa gốc, điều này rất dễ học hỏi vì nó có triệu chứng vật lý. Bước đầu tiên dẫn đến việc kiểm soát trường năng lượng của mình là tránh mọi chuyện có thể dẫn đến kích thích tình dục. Nói cách khác, nếu con là người tầm đạo tâm linh, con không vui thú trong phim ảnh khiêu dâm và con tránh những trò chuyện lộ liễu tình dục. Ta phải nhìn nhận là trong xã hội Tây phương ngày nay, con liên tục bị truyền thông và quảng cáo dội bom với những hình ảnh khiêu dâm lộ liễu, thế nhưng con có thể học cách để cho chúng lướt bay qua mà không ảnh hưởng được con. Đơn giản là con từ chối cho chúng sự chú ý trực tiếp, vì chính sự chú ý của con sẽ phóng đại ham muốn tình dục. Điều ta muốn nói là nếu con muốn tránh bị phỏng thì con không cố tình đổ dầu vào lửa.

Con cũng sẽ đạt được nhiều kết quả bằng cách thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, và bài chú Đại thiên thần Michael là đề nghị hàng đầu của ta. Con hãy kêu gọi sự bảo vệ cho cảm thể và luân xa gốc của con. Có vô số thế lực bóng tối tìm cách thổi phồng ham muốn tình dục của con để lừa gạt con vào chuyện làm tha hóa năng lượng. Các thế lực này đứng trực tiếp sau lưng toàn bộ ngành công nghiệp tình dục, kể cả ngành làm phim và quảng cáo. Cho nên con cần kiên quyết bảo vệ trường năng lượng của con chống lại mọi xâm phạm của chúng.

Ta cũng khuyên con dùng bài chú để Astrea để cắt con ra khỏi mọi ràng buộc với tà lực và thanh tẩy luân xa gốc của con. Tất nhiên, con cũng có thể dùng các bài thỉnh Mẹ Mary hay ngọn lửa tím để biến hóa mọi năng lượng tha hóa đã sẵn tồn đọng trong luân xa gốc và cảm thể. Có thể con cũng muốn xem lại những bài giảng của ta về cách làm thế nào đương đầu với nghiện ngập, bởi vì đối với nhiều người, ham muốn tình dục đã trở thành một chứng nghiện suốt đời.

Bước kế tiếp là không những con học cách cảm thấy dòng chảy của năng lượng qua các luân xa, mà con cũng học cách kiểm soát dòng năng lượng đó. Đây là một khả năng thiết yếu cho mọi người tâm đạo nghiêm túc, và một lần nữa, năng lượng tình dục là cách tu tập toàn hảo. Con cần học cách ngăn chặn một cách ý thức để không cho sinh lực chảy xuống luân xa gốc và các cơ quan tình dục. Và con cần học cách lật ngược dòng chảy sau khi nó đã bắt đầu chảy sai chiều.

Đối với một người có trực giác, việc trên không khó khăn như nó có vẻ. Nhưng sẽ hữu ích cho hầu hệt mọi người nếu họ sử dụng một kỹ thuật, và ta đã ban truyền một kỹ thuật như vậy ở một nơi khác. Tuy nhiên, con cũng có thể dùng nhiều hình thức của Yoga và Tai Chi cho mục tiêu này.

Hãy để ta kết thúc và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lấy quyết định rõ ràng. Hầu hết mọi người đều lớn lên với một cái nhìn mơ hồ và mâu thuẫn về tình dục. Nếu con có thể giải tỏa phần nào sự bối rối đó – và trong bài này ta đã cho con một số lời dạy có thể giúp con – con có thể đạt tới mức là con lấy quyết định cương quyết mình sẽ biểu lộ tình dục như thế nào. Một khi con nối kết với mong muốn của dòng sống về tình dục, con sẽ có nền tảng tốt đẹp nhất để làm chủ những ham muốn tình dục khởi lên từ cơ thể và cảm thể.

Như luôn luôn, ta khuyến khích con có một thái độ sống tích cực. Đối với nhiều người tâm linh, tình dục đã là một nguồn hổ thẹn, bối rối và nhiều cảm xúc tiêu cực khác, và thường khi điều này ngăn trở phát triển tâm linh. Thay vào đó, con hãy dùng tình dục để phát huy sự tăng trưởng tâm linh và học cách điều khiển năng lượng chảy qua các luân xa. Một khi con điều ngự được các năng lượng đó, con sẽ nhận chân được cái đẹp của cơ thể con người mà không cảm thấy ham muốn tình dục. Nói cách khác, tình dục không còn sai khiến đời con nữa. Cái hướng dẫn đời con là cuộc tìm kiếm tâm linh của con. Con đã quyết định là đối với con, sự tinh tấn tâm linh quan trọng hơn nhiều so với sự thỏa mãn tình dục. Con đã khám phá ra rằng con không phải là một sinh thể tình dục mà là một sinh thể tâm linh.

Nhân loại đã tạo ra mọi sự mất quân bình trong thiên nhiên như thế nào

Hỏi: Chỉ bây giờ những thay đổi trên trái đất mới bị coi là thảm họa khi nhà cửa bị phá hủy. Bỗng nhiên Thượng đế muốn chúng ta chú ý. Đó là những dấu hiệu, là quả báo? Làm sao có thể như vậy được khi thiên tai đã từng xảy ra trên địa cầu trước khi cả có nhân loại để mà chứng kiến? Nếu chúng ta nhìn sang Mộc tinh, có một đám mây đỏ khổng lồ bao chung quanh, đó chính là một trận bão khổng lồ. Rồi trên Hoả tinh cũng có bão táp, còn Kim tinh thì nóng và độc hại… Những chuyện đó xảy ra khắp nơi trong thiên nhiên, thậm chí chúng ta còn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chúng… nhưng trời đất, chúng ta xây lên một căn nhà xong nó bị tàn phá, thì chúng ta gọi ngay đó là Thượng đế đang muốn lôi kéo sự chú ý của chúng ta để bảo chúng ta là xấu ác. Không hiểu sao chứ có lẽ chúng ta chưa có đủ công nghệ để xây cất nhà cửa cho vững chắc hầu chịu được những thay đổi liên tục đó, chứ chuyện này thật sự chẳng dính dáng gì tới đạo đức với tâm linh gì hết.      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một trong những mục đích của ta với trang mạng này là tạo cảm hứng cho những ai có tâm cởi mở về mặt tâm linh nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên. Trạng thái tâm thức này khiến cho con người xem mình là những sinh thể tách biệt khỏi tổng thể mà họ là thành phần. Trong tâm họ, họ tạo ra đủ loại những ngăn tủ được chia cách bởi hàng rào, và điều này cho họ một cái cớ để họ chối bỏ trách nhiệm của họ.

Chẳng hạn, những người bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên đã tạo ra một ngăn tủ gọi là “Thiên nhiên” và một ngăn khác gọi là “Hoạt động con người”. Họ coi hai cái ngăn đó là tách biệt, với rất ít hoặc không có chút tương tác nào với nhau. Cho nên khi một trận động đất xảy đến, họ sẽ bảo đó là kết quả của một “tiến trình thiên nhiên”, và vì vậy các hoạt động, cách hành xử hay trạng thái tâm thức của họ không thể nào liên quan gì tới động đất. Nó cho họ một cái cớ để cứ tiếp tục lối sống cũ mà không chịu xét xem liệu họ có cần thay đổi chính bản thân họ hay không.

Trong tư duy tách biệt đó, họ đã tạo ra những công nghệ cô lập họ khỏi thiên nhiên. Rồi khi một trận động đất xảy đến tàn phá căn nhà của họ, họ lại đi tìm một công nghệ nào khác để bảo vệ họ tốt hơn – và như vậy họ lại càng tự cô lập thêm nữa với thiên nhiên – thay vì suy nghĩ rồi có lẽ hiểu ra là mình cần thay đổi cách nhìn của mình và làm việc với Mẹ Địa cầu thay vì làm việc chống lại Mẹ Địa cầu.

Cũng trong tư duy tách biệt, có những người khác đã tạo ra một ngăn tủ gọi là Thượng đế, mà họ xem là một ông thần giận dữ ở trên trời. Cho nên họ chỉ có khả năng lý luận là nếu một thiên tai đem theo một thông điệp, thì đó nhất định phải là một thông điệp từ ông thần giận dữ kia ở trên trời đang cố nói với họ là họ xấu ác. Họ sẽ không thấy được Thượng đế đích thực ở ngay trong chính họ, chỉ đang cố dẫn dắt họ đến mức nhận ra ích lợi lớn nhất của họ trong giác ngộ. 

Chừng nào con người còn bị kẹt trong cách nhìn cuộc sống với những ngăn tủ cứng ngắc như vậy, chừng nào họ còn từ chối tìm hiểu các nguyên nhân sâu xa hơn – để rốt cuộc ngộ ra tính tương kết của mọi sự sống – thì ta sẽ không thể giúp họ được. Thế nhưng đối với những ai sẵn lòng nhìn sâu hơn dáng vẻ bề ngoài, ta sẽ có thể gợi ra một cách thức để họ lần hồi mở rộng tâm ra.

Khoa học đã chứng minh rằng tất cả mọi thứ đều là năng lượng, và điều này đã thiết lập khả năng có sự kết nối giữa tâm và vật chất, kết nối giữa các tiến trình tự nhiên và các hoạt động của con người. Để dễ suy luận, chúng ta hãy thử lấy ví dụ là có một tiến trình tự nhiên nào đó đã gây ra căng thẳng trong vỏ trái đất. Sự căng thẳng này không chỉ là căng thẳng vật lý, mà còn có một tầng cấp nhân quả sâu xa hơn, cụ thể là sự tương tác giữa các sóng năng lượng với nhau.   

Theo thuyết tương đối của Enstein, trên lý thuyết hoàn toàn có khả năng là các sóng năng lượng do tâm con người sản xuất có thể tương tác với những sóng năng lượng đang tạo ra căng thẳng trong vỏ trái đất. Như vậy, các làn sóng tư tưởng có tiềm năng gia tăng lực căng thẳng hiện hữu, với kết quả là nó gây ra động đất ở một thời điểm hay một địa điểm nào đó. Nó có thể gia tăng cường độ của một trận động đất, hoặc thậm chí nó có thể kích họat một trận động đất thay vì chỉ lần lần giải tỏa lực căng thẳng mà không gây ra bất kỳ thiệt hại nào trên mặt đất.

Đúng là cái gọi là những tiến trình tự nhiên đã hiện hữu từ hàng triệu năm rồi, nhưng đâu là bằng chứng cho thấy chúng đã tàn phá dữ dội như ngày nay? Làm sao con biết được những tiến trình như vậy đã không diễn ra một cách lần hồi đến độ chúng không gây ra nhiều tàn phá trên mặt đất? Nếu một tiến trình đủ chậm, rất có thể nó sẽ không phá sập một căn nhà. Hoặc người ta sẽ có thì giờ dọn đi nơi khác hay điều chỉnh cách khác để không ai bị thiệt mạng. Liệu có khả năng hay chăng là những gì người ta gọi là thiên tai đã không hề xảy ra khi loài người chưa có mặt?

Mặc dù đó không phải – chưa phải – là khoa học chính mạch, chuyện này không vượt ra ngoài tầm hiểu của những người có khuynh hướng tâm linh, đặc biệt những người cởi mở đối với các giáo lý Thời mới. Nếu các ý tưởng này mới mẻ đối với con, có thể con sẽ cần một chút thời gian để tâm trí con thích nghi với thế giới quan rộng mở này. Có thể con cũng cần thời gian để cảm xúc của con chấp nhận phần trách nhiệm lớn hơn khi con nắm được hiểu biết này. Con phải sẵn lòng chấp nhận rằng các ý tưởng, cảm xúc và hành động của con có những hậu quả vô cùng xa rộng, và điều này có thể là một bài học rất khó nuốt đối với một số người đến độ họ sẽ kháng cự lại với tất cả lòng xúc động của họ.     

Nhưng một khi con làm quen hơn với thế giới quan rộng mở đó, con sẽ có thể đưa nó đi xa hơn nữa. Bằng cách chứng mình rằng tất cả mọi thứ được cấu tạo bằng năng lượng, Einstein cũng chứng minh là mọi thứ nối kết với nhau. Nói cách khác, ở tầng cấp của vật chất hữu hình, thiên nhiên và con người có thể có vẻ tách biệt, nhưng ở tầng cấp sâu hơn của năng lượng, cả hai đều là thành phần của một tổng thể rộng lớn – tấm thảm liên tục của năng lượng.  

Như nhiều người có ý thức về môi trường và tâm linh đã bắt đầu nhận ra, con người không thể đơn giản vứt bỏ trách nhiệm của mình và cho rằng mình có thể làm bất cứ gì mình muốn trên hành tinh này. Nhiều người đang ngộ ra rằng các hành động của con người có thể mang hệ quả toàn cầu, nhưng ta có thể cam đoan với con là tâm con người còn có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn thế rất nhiều trên hệ năng lượng của hành tinh trái đất.

Sẽ tới một ngày khi các nhà khoa học chấp nhận – như một số đã nhận ra rồi – rằng tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ tâm thức. Các nhà vật lý lượng tử đã hiểu ra rằng tâm thức có khả năng ảnh hưởng tầng cấp cơ bản nhất của vật chất, tức các hạt cơ bản. Họ đang nghiêm túc xem xét câu hỏi: “Liệu vũ trụ có mặt hay chăng khi không có ai nhìn?” Nói cách khác, tâm thức là thực tại nền tảng, nó đứng đằng sau cả năng lượng.

Một ngày kia người ta sẽ nhìn nhận sự thật hiển nhiên rằng những viên gạch cơ bản của vũ trụ vật chất là thông tin. Chính thông tin nói rõ cho sóng năng lượng thuần khiết cách hình thành hạt cơ bản, và nó nói rõ cho hạt cơ bản cách hình thành nguyên tử. Nó cũng nói rõ cho nguyên tử cách hình thành phân tử, và nó nói rõ cho phân tử cách hình thành mọi thứ có mặt trong quang phổ vật chất. Do đó, căn nguyên tối hậu của mọi hiệu ứng vật chất mà chúng ta thấy trong thiên nhiên chính là những gì xảy ra ở tầng cấp tâm thức.

Không có gì có thể hiện hữu như một “vật” mà không hiện hữu trước tiên như một ý tưởng – tức là một số thông tin có sự tổ chức – trong một cái tâm có khả năng tự nhận biết. Một ngày kia điều này sẽ trở thành hệ thuyết cơ bản của khoa học, và các nhà khoa học bấy giờ sẽ nhìn lại triết lý duy vật ngày hôm nay chẳng khác gì chính con nhìn lại triết lý xưa kia cho rằng trái đất này bằng phẳng.

Một khi con điều chỉnh thế giới quan của con với thực tại rằng tất cả đều là tâm thức, con sẽ bắt đầu khắc phục được cái nhìn cuộc sống chia ra thành từng ngăn tủ. Con sẽ nhận ra là các tình huống vật lý vỏ ngoài mà con gặp chỉ đơn giản là những cái quả của cái nhân trong chính tâm con. 

Có thể con sẽ bắt đầu chấp nhận là con thu hút về phía con những hoàn cảnh phản ánh trạng thái của tâm con, nhưng sẽ tới một điểm khi con bắt đầu nhìn ra là thật sự chính con là người tạo ra thực tại của con. Điều này sẽ mở ra cho con cái biết – như các giáo lý Thời mới đã diễn tả theo nhiều cách khác nhau – rằng tập thể loài người đã tạo ra các điều kiện hiện hành trên trái đất.  

Con sẽ chịu đưa hiểu biết này đi bao xa? Liệu con sẽ chấp nhận là các vị đại diện của Thượng đế đã tạo ra một hành tinh xinh đẹp, hoàn toàn cân bằng, hài hòa và trù phú trong thiên nhiên, nhưng sau đó loài người – bằng cách chìm xuống tâm thức tách biệt và nhị nguyên – đã tạo ra TẤT CẢ những sự mất cân bằng đã dẫn đến những tai họa thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thậm chí cả bệnh tật?

Liệu con sẽ chấp nhận là ở ban đầu, trái đất đã được tạo ra từ những năng lượng không dày đặc như vật chất ngày nay, và chính sự “dày đặc hóa” của tâm thức nhân loại đã khiến cho năng lượng cũng bị dày đặc theo, để trở thành cái mà ngày nay hiện ra như vật chất rắn đặc? Liệu con sẽ chấp nhận là tiến trình này đã diễn ra trên một thời gian rất dài và các sinh thể tự nhận biết đã tác động lên hành tinh này từ những thuở xa xưa mà khoa học chưa biết đến?   

Kỳ thực, các dòng sống tương tự như những dòng sống mà các con đang hiện thân trong cơ thể vật lý, đã từng ảnh hưởng hành tinh này trước cả khi cơ thể con người được thành hình. Trong quá khứ xa xôi, các dòng sống đó đã hiện thân trong những cơ thể thanh nhẹ hơn, và đó là tại sao người ta không tìm ra vết tích hóa thạch nào về họ hay về những nền văn minh của họ.

Lịch sử tác động của tâm các sinh thể tự nhận biết đó – mà con có thể gọi là con người hay một cái tên nào khác – trên hành tinh này đi trở ngược về một quá khứ vô cùng xa xôi. Thật là ngây thơ nếu cho rằng những sinh thể như thế chỉ mới sống trên hành tinh này trong vòng 10 hay 30 ngàn năm qua. Thời gian thực sự, như thày Maitreya giải thích trong sách của thày, là 2,5 tỷ năm.

Tương tự như vậy, các điều kiện được thấy trên các hành tinh khác cũng đã được tạo ra bởi các sinh thể tự nhận biết ở đó. Hiện nay các sinh thể này không hiện hữu trong cùng một quang phổ tần số như loài người. Nhưng dù sao đi nữa, các điều kiện vật lý ở các hành tinh đó vẫn là do các sinh thể tự nhận biết tạo ra khi họ sử dụng quyền năng sáng tạo của họ trong quan hệ với hành tinh của họ.

Tất cả những ý tưởng nói trên sẽ rất khó chấp nhận đối với những ai còn bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nhưng đôi khi các nhà khoa học có sử dụng một lập luận để chứng minh sự hiện hữu của những loài sinh thể thông minh ngoài trái đất, và lập luận này cũng hữu ích ở đây. Họ bảo rằng nếu loài người là loài thông minh duy nhất trong nguyên vũ trụ bao la thế này, thì thật là một sự phí phạm không gian khủng khiếp. Nếu theo các nhà khoa học, địa cầu đã 4,5 tỷ năm tuổi, và nếu con người mới chỉ hiện diện ở đây được 30 ngàn năm, thì quả thực đó cũng là một sự phí phạm thời gian khủng khiếp.

Ngay từ khởi đầu, địa cầu đã được thiết kế như một môi trường học hỏi cho sự sống thông minh, tự nhận biết. Một số sinh thể đã tới đây, đã học xong bài học của họ và đã thăng lên những tầng cõi cao hơn. Một số khác đã tới đây, đã không học được bài học, và thay vào đó, đã kẹt lại ở đây. Vậy bài học đó là gì?  

  • Con là một vị đồng sáng tạo cùng với Thượng đế.
  • Con có quyền tự quyết để sáng tạo bất cứ gì con muốn.
  • Con sáng tạo qua quyền năng của tâm con. Các hình ảnh mà con cầm giữ trong tâm được phóng chiếu lên năng lượng cấu tạo vật chất.
  • Con không thể tránh khỏi việc trải nghiệm những gì con đã sáng tạo vì vũ trụ vật chất sẽ trình chiếu ra những hình ảnh mà con giữ trong tâm. Tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu về con các tâm ảnh đó dưới dạng vật chất.
  • Nếu con tạo ra sự mất cân bằng trong quang phổ vật chất, con sẽ không thể đi đâu khác cho tới khi con phục hồi cân bằng.
  • Con không thể phục hồi cân bằng cho đến khi con vươn lên cao hơn mức tâm thức đã khiến con tạo ra sự mất cân bằng.   

Con người đã tạo ra tất cả những khốn khổ hiện có mặt trên hành tinh này, kể cả các thiên tai cùng tất cả mọi sự mất cân bằng trong thiên nhiên. Bằng cách từ chối nhận lãnh trách nhiệm của mình, họ sẽ ở lại trong tâm thức tách biệt và sẽ tiếp tục tạo thêm nhiều khốn khổ hơn nữa. Nhưng bằng cách vươn lên cao hơn trạng thái tâm đó, họ có khả năng tạo dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và phục hồi sự cân bằng nguyên thủy cho hành tinh đang cung cấp cho họ một môi trường thăng tiến tâm linh. Con phải chọn giữa Là hay Không Là. Con hãy chọn sự sống!

Duy trì hay phá vỡ vòng xoắn bạo động trong xã hội

Hỏi: Với ý muốn mở toang biên giới phía Nam của người tổng thống mới của nước Mỹ (và Quốc hội) để khuyến khích ân xá, nhiều người Mỹ đã bị đả thương, tra tấn tàn bạo, hãm hiếp hay giết chết. Và ngay cả bị bắt cóc.

Sự kiện mới nhất là tin tức hàng đầu trên truyền thông là vụ việc “hai côn đồ” xâm nhập một căn hộ ở Oklahoma để hãm hiếp và cướp một phụ nữ. Bà la lên. Và bà bị bảo là nếu la thêm một lần nữa thì sẽ chết. Nạn nhân có súng trong ví tiền mình, bà lấy được ví và bắn hai kẻ xâm nhập nhà mình. Một người bị chết và người kia bị thương.

Bà sau đó được một nhà báo phỏng vấn, và giải thích gia đình bà là một gia đình tin vào sự tự cường và can đảm. Bà nói “tôi chọn giấu trong mình một khẩu súng, vì cho dù tôi biết ơn vô vàn sự bảo vệ của cơ quan cảnh sát, tôi nhận ra là họ không phải là Thượng đế, do đó họ không thể nào có mặt ở mọi nơi cùng một lúc.”

“Hoàn cảnh đưa tới tử vong có thể xảy ra trong nháy mắt”, bà nói. “Nếu bạn không chủ động chuẩn bị trước… bạn có thể là một mục tiêu yếu ớt quá dễ tấn công.”

Là một thành viên tài trợ cho Hội Súng trường Quốc gia (National Rifle Association NRA), bà nói bà mang súng trong người hơn bán thập niên qua, nhưng bà chưa bao giờ mường tượng rằng bà phải dùng nó để bảo vệ mạng sống mình. Nhưng bà mừng là bao nhiên năm luyện tập đã giúp bà đúng lúc tự cứu được mình không bị thương tích hay bị chuyện khác có thể tồi tệ hơn nữa.

Với chính quyền mới ở D.C. Giê-su có ý kiến gì – quy luật gì – cho những người công dân có trong tay vũ khí để tự bảo vệ trong chính nhà mình? Câu hỏi đặc biệt liên quan đến những người có ý thức tâm linh và có “vũ khí” nhưng cũng có ý thức về lời dạy “chìa má bên kia”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 18 tháng 11 năm 2012.

Con đường tu có nhiều giai đoạn. Ở các giai đoạn thấp, có thể chấp nhận được – và cũng không thể tránh được – là người học viên lấy một số hình tư tưởng đè lên con đường tu, thậm chí đè lên giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con phải bắt đầu ở một chỗ nào đó, và con bắt đầu bằng cách con nhìn con đường tu qua phin lọc của trạng thái tâm thức hiện thời của con. Tuy nhiên, làm như thế chỉ dẫn con tới một mức nào đó, và sẽ tới một điểm trên con đường tu của tất cả mọi người khi con phải tự hỏi mình một câu hỏi quan trọng: “Tôi có muốn thăng thiên trong kiếp này chăng, hay tôi muốn ở lại chỗ thoải mái này trong vô số kiếp tương lai nữa?”

Nếu con quyết định muốn thăng thiên, thì con phải nhận ra rằng con không thăng thiên được nếu con còn bám giữ các hình tư tưởng của con. Điều giản dị là con không thể mang cái hộp tư duy của con vào trạng thái tâm thức thăng thiên, vì thăng thiên chính là tiến trình thăng vượt tất cả những hình tư tưởng khiến con thấy dường như con tách biệt khỏi vương quốc Thượng đế. Do đó, nếu con thật sự muốn thăng thiên, con phải vượt lên trên những hình tư tưởng yêu quý nhất của con và nối kết mình với THỰC TẠI của các chân sư thăng thiên.

Đối với hầu hết mọi người, điều này đòi hỏi họ phải đi qua một tiến trình chất vấn một cách hệ thống các hình tư tưởng của mình và so sánh chúng với THỰC TẠI mà chúng tôi giảng dạy. Một phần không tránh khỏi của tiến trình này là con phải đi tìm những mâu thuẫn trong chính các tin tưởng của con hay mâu thuẫn giữa các tin tưởng của con và giáo lý của chúng tôi. Khám phá ra – và nhìn nhận – những mâu thuẫn đó có thể khó khăn và nó cũng có thể làm con đau lòng. Nhưng sự khó khăn và đau lòng tương ứng với mức độ dính mắc với các hình tư tưởng hiện hành của con.

Điều ta muốn nói ở đây là sẽ có một khúc quanh nơi con phải chuyển từ con đường tu vỏ ngoài để bước vào con đường tu nội tâm. Con đường tu vỏ ngoài là khi con học hỏi giáo lý của chúng tôi và con hiểu nó bằng trí năng. Có nhiều học viên trên con đường tu vỏ ngoài đã học hỏi giáo lý của chúng tôi nhiều thập niên – và họ có một kiến thức xuất sắc về nó – nhưng họ không có khả năng áp dụng giáo lý trong chính cuộc sống họ. Do đó, những học viên này tin chắc họ là một trong những học viên xuất sắc nhất của chúng tôi, trong khi chúng tôi thấy rõ sự thực là họ vẫn còn kẹt cứng trong con đường tu vỏ ngoài.

Tại sao một số người bị kẹt trong con đường tu vỏ ngoài? Vì họ không chịu công nhận là có sự khác biệt giữa những hình tư tưởng khiến họ cảm thấy thoải mái và thực tại của giáo lý của chúng tôi. Và do đó, họ không chịu nhận ra sự thực sâu xa là nếu họ muốn bước vào con đường tu nội tâm, họ phải bỏ lại đằng sau ước muốn các chân sư thăng thiên xác nhận các hình tư tưởng của họ. Các con phải bỏ lại đằng sau ước muốn Thượng đế và các chân sư thăng thiên tuân theo cái hộp tư duy của các con.

Như ta đã chứng minh 2000 năm trước đây – cũng như các anh chị em của ta cũng đã chứng minh như thế trong kiếp sống của họ – chúng tôi sẽ KHÔNG BAO GIỜ tuân theo hộp tư duy của con người. Bởi vì làm sao chúng tôi có thể giải thoát các con khỏi hộp tư duy của các con khi chúng tôi tuân theo nó? Cách DUY NHẤT để chúng tôi giải thoát các con là cho các con một khung tham chiếu cho con thấy rằng – nếu con có mắt để thấy – thực tại nằm bên ngoài cái hộp tư duy của con và nó không tuân theo hộp tư duy này.

Nếu một học viên chịu đau lòng và nhìn nhận những mâu thuẫn trong các hình tư tưởng của mình thì học viên đó sẽ rốt cuộc nhận ra điểm chuyển đổi từ con đường tu vỏ ngoài sang con đường tu nội tâm. Đó là sự nhận biết khuynh hướng lấy hình tư tưởng của mình đè lên Tánh Linh chính là tâm thức sa ngã. Và không ai có thể thăng thiên được, mà cũng không được nhận là học trò chân chính của các chân sư thăng thiên khi người đó còn dính vào – và thêm nữa, dụ chúng tôi xác nhận – tâm thức sa ngã.

Con hãy lưu ý điểm vi tế ở đây. Con đầu thai trên trái đất để con thử nghiệm khả năng đồng sáng tạo của con. Con đồng sáng tạo bằng cách nào? Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành một hình tư tưởng và con dùng khả năng của tâm để phóng chiếu hình đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật được kiến tạo như một môi trường an toàn – một bãi chơi cát tâm linh – nơi con có thể thử nghiệm mà không gây tổn thương nặng nề cho chính mình, cho người khác hay cho bãi cát. Do đó, con được quyền lấy hình tư tưởng đè lên Ánh sáng Mẫu-Vật, ngay cả những hình tư tưởng hình thành dựa trên tâm thức nhị nguyên. Ánh sáng Mẫu-Vật đã nguyện sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào mà con phóng chiếu lên nó để con được phản hồi điều con đã sáng tạo.

Nói cách khác, con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con sẽ chịu những quả mà con đã gieo, nhưng con không vi phạm Quy luật Tự Quyết hay Quy luật Nhất nguyên. Điều PHẠM luật là khi con bắt đầu phóng hình tư tưởng của mình lên những sinh vật có tự nhận biết và quyền tự quyết khác. Tìm cách ép buộc người khác tuân theo hình tư tưởng của mình chính thực là tâm thức sa ngã, và ta đã đề cập tới tâm thức này khi ta nói với Peter: “Satan, hãy đứng lui ra đằng sau ta, ngươi xúc phạm đến ta. Vì ngươi không thưởng thức những điều của Thượng đế mà chỉ thưởng thức những điều của con người.”

Khi con lấy hình tư tưởng của mình đè lên giáo lý của các chân sư thăng thiên, của Thượng đế, thì con vi phạm Quy luật Nhất nguyên, được thể hiện qua lời răn cơ bản nhất của Thượng đế, là con không được có thần nào khác trước Thượng đế thực. Và khi con chấp nhận một hình tư tưởng – hình này đương nhiên do tâm thức sa ngã tạo ra – thì hình tư tưởng đó trở thành vị thần hay thượng đế của con. Con KHÔNG BAO GIỜ có thể nâng tâm thức của mình lên cao hơn hình tư tưởng mà con có về Thượng đế. Con sẽ là thần dân của “thượng đế” của con, dù đó là một hình tư tưởng hay Thượng đế thực.

Tinh túy của tâm thức sa ngã là nó là một sự hủ hóa của khía cạnh Alpha và Omega của Thượng đế. Nó hủ hóa khía cạnh Alpha qua tính ngạo mạn tâm linh khiến con người nghĩ rằng Thượng đế sẽ tuân theo hình tư tưởng của họ. Và nó hủ hóa khía cạnh Omega bằng cách áp đặt hình tư tưởng của họ lên người khác, thậm chí còn nghĩ rằng nếu họ có thể khiến cho tất cả mọi người xác nhận các niềm tin của họ, thì ngay cả Thượng đế cũng phải chấp nhận họ.

Ta tin rằng một số các con sẽ hiểu ý của ta, trong khi một số khác sẽ tiếp tục bị tâm thức sa ngã làm cho mù quáng và lấy cách giải thích trí năng của họ đè lên trên lời ta nói và khiến cho HỌ cảm thấy không cần phải nghe theo lời của ta. Và như vậy họ lại đi thêm một chu kỳ nữa trong tâm thức sa ngã thay vì thật sự thể nhập giáo lý của ta rằng chỉ có ai trở thành trẻ thơ mới có thể bước vào vương quốc. Trở thành trẻ thơ có nghĩa là khắc phục được mong muốn lấy hình tư tưởng của mình đè lên trên vị thày tâm linh, bắt thày mình công nhận những tin tưởng hiện hành của mình thay vì để cho vị thày giúp mình vượt thăng chúng. Nó có nghĩa sẵn lòng đặt câu hỏi mở, đặt câu hỏi để tìm hiểu thực tại con là ai thay vì phóng chiếu một hình tư tưởng qua câu hỏi.

Một ví dụ về tâm thức này là câu hỏi ở trên. Trước tiên, có một số luận cứ phơi bày rõ ràng các tin tưởng hiện hành của vị này, cho rằng việc mang súng trong người là cần thiết và phải lẽ. Sau đó, ở đoạn cuối có một câu hỏi ngắn, nhưng hiển nhiên là câu hỏi CHỈ để ta xác nhận kết luận đã có sẵn của người hỏi. Đâu rồi tính ngây thơ của trẻ nhỏ chỉ đơn thuần hỏi trước khi có câu kết luận sẵn? Các chân sư thăng thiên có thể dạy được một người như thế chăng? Nó tùy thuộc xem vị ấy có sẵn sàng chịu nỗi đau đớn khi nhận ra thế giới quan của mình đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã. Điều này giải thích sự mâu thuẫn lớn dù chỉ trong một lá thơ ngắn.

Hãy để ta chỉ ra một mâu thuẫn quá hiển nhiên mà đa số phải thấy được. Trước tiên hết, chúng ta được giải thích là có một phụ nữ bị đe dọa. Bà rút súng và bắn hai người, một người bị tử vong. Tuy thế, ở đoạn cuối chúng ta có câu hỏi: “Câu hỏi này đặc biệt liên quan tới những người có ý thức tâm linh và có “vũ khí” nhưng ý thức về lời dạy “chìa má bên kia.”

Điều này ngụ ý là trong tâm người hỏi, người ta có thể mang súng trong người và đồng thời chìa má bên kia, thậm chí là người phụ nữ bắn hai người thực sự đang chìa má bên kia khi hành động như thế.

Khi đối mặt với chuyện như thế này, ta cảm thấy muốn nói có những lúc chân sư thăng thiên giản dị muốn bỏ trái đất và cất bước tiến lên những tầng vô biên của Bản thể Thượng đế. Và điều này có thể xảy ra đặc biệt khi chúng tôi thấy có học viên không thể nhập được những lời dạy cơ bản nhất của chúng tôi. Làm sao một người vừa có thể mang súng vừa chìa má bên kia được? Làm sao KHÔNG thấy được mâu thuẫn này? Lẽ dĩ nhiên, ta không sắp sửa bỏ trái đất lại đằng sau, nhưng ta muốn nói rằng ngay cả chân sư thăng thiên cũng có tình cảm, dù tình cảm này không giống tình cảm mà chúng tôi có khi còn hiện thân.

Bây giờ ta hoàn toàn nhìn nhận rằng con người có quyền tự quyết. Con có quyền mang súng (nếu quốc gia của con cho phép điều đó). Nhưng nếu con làm thế, thì sau kiếp này con đừng tìm ta hỏi tại sao con không thăng thiên? Con thấy chăng, nếu muốn thăng thiên, con phải hoàn toàn thể nhập và sống lời răn dạy của ta là con không chống lại tà ác nhưng con chìa má bên kia. Ta muốn dạy gì qua lời răn này? Ta muốn dạy là một trong những điều chính ngăn cản con người thăng thiên là khi họ bị mắc kẹt vào những vòng xoắn nghiệp quả cứ được lặp đi lặp lại hoài. Trong trường hợp này, người phụ nữ mang súng đã bị mắc kẹt vào nhiều vòng xoắn như thế trong những kiếp trước, ngay cả với hai người tấn công bà – và không phải kiếp nào bà cũng là nạn nhân. Bà đạt được gì khi rút súng bắn hai người mà bà đã tấn công trong một kiếp trước? Bà chỉ tiếp tục vòng xoắn nghiệp quả và sẽ phải đầu thai gặp lại hai người này nữa.

Vòng xoắn này phải kéo dài bao lâu nữa, làm sao con có thể phá vỡ vòng xoắn nghiệp quả? Vòng xoắn sẽ tiếp tục hoài cho tới khi một bên lấy quyết định ĐÁP ỨNG LẠI BẠO ĐỘNG BẰNG BẤT BẠO ĐỘNG.

Con hiểu ý thày chưa? Nếu con thực sự muốn thăng thiên, thì con PHẢI phá vỡ các vòng xoắn nghiệp quả của con, và cách DUY NHẤT để phá vỡ là con không chống lại tà ác mà chìa má bên kia. Lời răn dạy của ta không nói cho những ai không quan tâm đến chuyện thăng thiên lên cõi tâm linh. Ta nói cho những ai muốn thăng thiên và sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần làm để có thể thăng thiên.

Có phải là ta đang nói là con phải sẵn lòng để người khác giết hay đả thương mình? Đúng vậy, đó chính là điều ta muốn nói, và đó chính là điều ta đã nói 2000 năm trước. Sự kiện Ki-tô giáo nói chung không hiểu lời ta nói không có nghĩa là nó không có giá trị. Nếu con thực sự muốn thăng thiên, sự an toàn, sự thoải mái và ngay cả mạng sống vật lý của con trở nên thứ yếu. Con thực sự sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần làm để phá vỡ vòng xoắn nghiệp quả và tiến gần hơn tới thăng thiên. Con sẵn lòng mất mạng sống mình để tìm được sự sống vĩnh hằng.

(Lưu ý là ta không nói ở đây rằng trong ví dụ cụ thể này, người phụ nữ sẽ hội đủ điều kiện thăng thiên nếu bà không dùng súng của bà. Bà sẽ phá vỡ được vòng xoắn nghiệp quả đó, nhưng bà còn phải đi một đoạn đường dài trước khi có thể thăng thiên.)

Bây giờ, khi ta nói con phải SẴN SÀNG mất mạng sống mình, ta không nhất thiết nói là con SẼ mất mạng sống mình. Bởi vì nếu con thật sự sống lời răn không chống lại tà ác, thì con sẽ làm gì? Con sẽ phóng vào tấm gương vũ trụ một xung lực bất bạo động, và tấm gương sẽ phản chiếu lại cho con điều gì? Trừ phi con có nghiệp quả rất nặng từ các kiếp trước, chuyển đổi tâm thức như vậy sẽ bảo đảm con không phải rơi vào những hoàn cảnh giống như được mô tả. Như thế, chúng ta có thể nói nhại theo câu nói xưa của Henry Ford; “Dù bạn nghĩ bạn cần cây súng hay bạn không cần cây súng – bạn đều đúng!”

Hãy lưu ý là người phụ nữ đã mang súng hơn nửa thập niên và lưu ý tới văn hóa gia đình bà. Bà đã gửi xung lực gì vào tấm gương vũ trụ? Và tấm gương đã phản chiếu lại gì: đúng y điều bà nói bà muốn. Như vậy, trong câu hỏi ở trên, con thấy được môt mâu thuẫn khác cho thấy người hỏi chưa thâm nhập giáo lý sâu rộng của chúng tôi về tấm gương vũ trụ.

Điểm rộng lớn hơn mà ta muốn nói ở đây là khi con bị dính mắc vào ý muốn quan điểm của mình được công nhận – và không sẵn sàng chịu xem xét mình một cách lương thiện – tâm con trở thành một hệ thống đóng kín và con sẽ không tránh được có mâu thuẫn trong đó.  Con sẽ không nhìn thấy các mâu thuẫn đó, thậm chí còn thấy chúng được một số ý tưởng và sự việc xác nhận – và do đó con dần dà bị giam chặt hơn vào hộp tư duy của mình cho tới khi điều duy nhất giải thoát được con là định luật thứ hai của nhiệt động học tạo ra một khủng hoảng ghê gớm đến độ con phải quyết định mở tâm ra và hỏi như một em bé nhỏ.

Con có thấy chăng là đối với những kẻ đã đi vào tư duy cuồng đại và coi thế giới như một nơi nguy hiểm, thì họ sẽ nhìn một sự vụ kể trên như một xác nhận tâm thức cần mang súng là đúng? Và điều đó sẽ củng cố thông điệp mà những người như thế gởi tới tấm gương vũ trụ. Nó sẽ khiến cho tâm họ đóng kín thêm, như con thấy trong ví dụ người phụ nữ bắn hai người kia. Thày có thể bảo đảm với con rằng không người nào có thể giết một người khác mà không cảm thấy phải tra vấn động lực và hành động của mình. Trong trường hợp này, động lực quán xét mình có thể bị dẹp qua bên vì văn hóa gia đình của người phụ nữ và vì triết lý của Hội Súng trường Quốc gia NRA.

Người phụ nữ cũng cho chúng ta một ví dụ rõ ràng là con người sẽ dán nhãn người khác là tồi tệ để biện minh cho hành động của mình. Có bằng cớ nào cho thấy là hai người đàn ông thực sự có ý định hãm hiếp người phụ nữ? Có bằng cớ nào cho thấy là họ sẽ thật sự thực thi lời đe dọa giết bà? Có vẻ là hai người đàn ông không có súng, bởi nếu họ có súng họ đã có thể bắn người phụ nữ trước khi bà bắn cả hai người. Như vậy câu chuyện mà chúng ta có ở đây là một người phụ nữ sống trong một trạng thái lo sợ thường trực. Chính nỗi sợ của bà đã kết đọng thành hoàn cảnh khiến bà cảm thấy bị đe dọa. Nhưng thay vì dùng hoàn cảnh này để đối mặt – và qua đó khắc phục – nỗi sợ của mình, bà hành động theo nỗi sợ của mình và bắn hai người đàn ông không có súng. Qua đó bà chứng minh là trong tâm tràn đầy sợ hãi của bà, việc giữ tài sản vật chất của mình quan trọng hơn giữ mạng sống của hai người đồng loại của mình.

Con có thấy chăng những người cùng một thái độ có thể bị cuốn hút chung với nhau vào một nhóm nghiệp quả tạo nên một vòng xoắn tiêu cực trong đó họ củng cố các hộp tư duy của nhau cho đến khi tất cả đều bị giam kẹt cứng và chỉ thoát ra được khi trường đời cay đắng cho họ đúng cái gì họ đòi – một cuộc đụng độ bạo động với những người bị giam trong cùng tâm thức cuồng đại như họ? Hội Súng trường Quốc gia NRA là một ví dụ rõ ràng – giống như nhiều hội khác trong xã hội Mỹ – của một nhóm được thành lập để biện minh – và do đó duy trì – vòng xoắn nghiệp quả bạo động đã kéo dài, trong trường hợp này, từ thời Atlantis. Nó dính tới vòng xoắn những người tân bảo thủ (neo-conservatives) đã duy trì cuộc chiến tranh ở Iraq đồng thời cảm thấy cuộc chiến này hoàn toàn chính đáng để lan truyền tự do và dân chủ – và ngay cả Cơ đốc giáo – trên thế giới.

Con thấy được chăng là BẤT CỨ nỗ lực lan truyền tự do và Cơ đốc giáo bằng bạo lực không thể đến từ ta hay không thể nào được ta ủng hộ?

Dù ta tin rằng ta đã trình bày được ý đại cương của ta, hãy cho phép ta nêu ra một số câu hỏi mà mọi người có thể đặt ra khi nhìn vào hoàn cảnh giống như thế này. Con hãy xem câu nhận xét sau: “Nếu ta không chủ động chuẩn bị trước… ta có thể là một mục tiêu yếu ớt quá dễ tấn công.” Đây là ví dụ điển hình của cách suy nghĩ đen trắng đã là nguyên nhân của hầu hết các vòng xoắn nghiệp quả. Trong tâm người này, thế gian là một chốn nguy hiểm có kẻ xấu ác ẩn náu rình rập ở mỗi đầu ngõ. Do đó, chỉ có hai chọn lựa: hoặc ta phải sẵn sàng giết người khác hoặc ta mời người khác giết mình.

Nhưng sự thật sâu xa của tấm gương vũ trụ là chính khi mình cảm thấy bị đe dọa là lúc mình sẽ bị đe dọa. Nói cách khác, sự đe dọa bắt đầu trong tâm và mình phải khắc phục nó trong tâm. Khi con cảm thấy có nhu cầu phải “chủ động chuẩn bị trước” là con biến mình thành mục tiêu bị tấn công, vì con đang nói cho tấm gương vũ trụ là con muốn sống trong một thế giới nơi đó tà ác ẩn náu rình rập ở mỗi đầu ngõ.

Bây giờ hãy xem câu nói này: “Tôi chọn giấu trong người một cây súng, vì dù tôi rất là biết ơn sự bảo vệ của cơ quan cảnh sát, tôi biết là họ không phải là Thượng đế, do đó không thể có mặt ở khắp mọi nơi cùng một lúc.” Tuy bà có vẻ nói là bà tin nơi Thượng đế, nhưng Thượng đế này không thể có mặt khắp mọi nơi cùng một lúc. Bởi vì nếu bà tin vào sự bảo vệ của Thượng đế, tại sao bà lại cần mang súng trong người? Lẽ dĩ nhiên, ý nghĩa sâu xa là nếu con thực sự tin vào sự bảo vệ của Thượng đế con sẽ không cảm thấy cần mang súng trong người. Và khi con thật sự tin tưởng như vậy, con sẽ khiến Thượng đế có thể bảo vệ con, trong khi hành động mang súng trong người sẽ ngăn không cho Thượng đế bảo vệ con. Lý do là khi mang súng con đang gián tiếp nói là con không muốn sự bảo vệ của Thượng đế, vì con muốn dựa vào các phương tiện vật chất để bảo vệ mình. Có nghĩa là con thật sự nói là con không tin Thượng đế có thể bảo vệ con chống lại một mối đe dọa vật chất.

Ta tin rằng ta đã nói rõ ràng là nếu con là một người có ý thức tâm linh và con đã thể nhập giáo lý chìa má bên kia, con không thấy có nhu cầu mang súng trong người hay bất cứ khí giới có thể giết người nào. Và con cũng không thấy có nhu cầu giữ súng trong nhà mình để tự vệ.

Sau khi đã nói những điều trên, các chân sư thăng thiên chúng tôi cũng có cái nhìn thực tế và thực tiễn. Do đó, chúng tôi biết có một số môi trường tập trung nhiều người có tâm lý xáo trộn nặng hay ý đồ không trong sạch. Và tuy ta khuyên những người có ý thức tâm linh nên tránh xa những môi trường như thế, ta biết rằng có những trường hợp nhiệm vụ tâm linh của con đòi hỏi con phải làm việc trong một môi trường như thế. Do đó, lời khuyên của ta là trước hết con phải khắc phục được mọi nỗi sợ hãi và thật sự sống với tâm thức chìa má bên kia. Một khi con đã trở nên thực sự bất bạo động trong tâm của con – đặc biệt là trong thể tình cảm – có thể là con sẽ có sự thôi thúc từ nội tâm phải mang trong người một vũ khí phòng thủ không gây chết người hoặc con cần học một phương pháp tự vệ không gây chết người.

Ta tin rằng một số các con thấy được điểm vi tế mà ta truyền tải. Ta đưa ra quy luật chung là không mang trong người bất cứ loại vũ khí gây chết người nào. Nhưng ta KHÔNG nói rằng một người có ý thức tâm linh không được bảo vệ mình. Ta cũng muốn nói rất rõ rằng tự vệ trong trạng thái sợ hãi sẽ tạo nghiệp. Tuy nhiên, một khi con đã vượt thăng nỗi sợ hãi, con có quyền dùng một kỹ thuật tự vệ không gây chết người, vì như thế con có thể dạy người kia một bài học mà không tạo nghiệp cho mình. Tuy nhiên, nếu con muốn tránh tạo nghiệp thì con phải thoát khỏi nỗi sợ hãi, vì như thế con có thể nhận được chỉ thị rõ ràng từ cái ta cao hơn của con thay vì nghĩ rằng một sự thôi thúc dựa trên sợ hãi đến từ cái ta cao hơn của con. Nói cách khác, chỉ khi nào con sẵn sàng lúc nào cũng chìa má bên kia, thì con mới có được sự phân biện lúc nào con không phải chìa má bên kia. Những ai không sẵn lòng buông bỏ mọi khuynh hướng phản ứng bằng bạo lực sẽ giản dị không có được khả năng phân biện này và do đó họ sẽ tạo nghiệp khi dùng bất cứ hình thức bạo lực nào.

Ta muốn nói rõ là ngoại trừ những trường hợp đặc biệt kể trên, tốt hơn hết là những người có ý thức tâm linh nên tu tập để vượt lên trên tâm thức dựa trên sợ hãi và tin rằng họ sẽ không gặp những hoàn cảnh bạo động. Và nếu con có phải gặp hoàn cảnh như thế, thì con hãy xem đây là nghiệp quả của con và đó là cơ hội để con chứng minh là con đã vượt lên trên tâm thức sợ hãi đã khiến con thấy cần dùng bạo lực để đáp trả bạo lực. Với thời đại bảo bình ló dạng, thì việc từ bỏ tư duy “ăn miếng trả miếng, mắt trả mắt, răng trả răng” của Cựu ước kinh càng quan trọng hơn nữa. Và như đã nói ở trên, điều này CHỈ làm được bằng cách thực sự chìa má bên kia.

Đề cập tới thời đại Bảo bình, ta sẽ để huynh đệ của ta, thày Saint Germain, đưa ra lời kết luận.

Câu trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels

Con đâu có thực sự tin rằng trong Thời đại Hoàng kim người ta có nhu cầu mang súng trong người phải không? Chắc chắn là Thời đại Hoàng kim sẽ đưa đến một xã hội trong đó không còn những mối đe dọa khiến con người cảm thấy cần tự vệ. Và điều này có nghĩa là chúng ta đang nói tới một xã hội đã vượt thăng tội phạm.

Hiện tại ta có thể nghĩ chuyện nhân loại vượt thăng được tội phạm là điều không thể làm được. Nhưng thực ra điều này rất khả thi. Một trong những tiến bộ lớn giúp loại bỏ tội phạm là công nghệ cho phép xã hội đọc được hồ sơ Akasha. Hồ sơ này lưu trữ những “hình ảnh” hay dữ liệu ghi lại mọi hành động đã xảy ra, và khi xã hội có thể đọc được, thì không ai có thể chạy tội được nữa, vì hành động phạm tội sẽ được phơi bày trên màn ảnh cho tất cả mọi người thấy. Và khi khả năng chạy tội không còn nữa, thì động cơ phạm tội lẽ tự nhiên sẽ sút giảm rất nhiều.

Tuy nhiên công nghệ nào cũng có thể bị lạm dụng, do đó ta sẽ không gửi xuống công nghệ này cho tới khi tâm thức được nâng cao đáng kể. Như Giê-su đã giải thích rất hùng hồn, mọi vấn đề được tạo ra trong tâm con người, và do đó mọi đáp án cũng phải bắt đầu trong tâm.

Vậy thì chúng tôi trông cậy vào ai để là những người tiên phong cho việc xoay chuyển tâm thức tập thể? Lẽ dĩ nhiên là những người có ý thức tâm linh, đặc biệt là những người sẵn lòng đi xa hơn ý thức tâm linh để đi tới tỉnh giác. Do đó, nếu xã hội muốn xoay chuyển vượt lên tội phạm, thì một số người phải bắt đầu xoay chuyển tâm thức cá nhân của họ vượt lên trên tâm thức kết đọng nên tội phạm. Và điều đó có nghĩa là một số người phải dám sống như không có mối đe dọa từ tội ác.

Một số người phải sẵn lòng trở nên hoàn toàn không bạo động, không hung hãn, không mạnh bạo trong tâm để cho người khác một khung tham chiếu khác xa tư duy duy trì bạo lực. Ta tin rằng một số trong các sẽ thấy đây là một phần sứ vụ của mình. Và ta tin rằng một số trong các con sẽ thấy là khi cần chứng minh cụ thể đáp ứng lại bạo động bằng bất bạo động, thì các con sẽ đón mừng cơ hội làm chuyện này. Và bất kể chuyện gì xảy ra trong thế giới vật chất, con sẽ nhìn quá các hooàn cảnh vật chất và chú tâm để cho ánh sáng rọi chiếu xuyên qua con, ngay cả trong những trường hợp hầu hết người khác sẽ khóa dòng ánh sáng – để cho tâm thức sa ngã thuyết phục họ là trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh nọ, con người không thể hay không nên là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế.

Thời đại Hoàng Kim sẽ là một thực tại hiển bày khi đủ túc số người sẵn lòng chứng minh là KHÔNG có hoàn cảnh nào mà con người không thể hay không nên là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế.

Một lời nói cuối, nếu Hoa Kỳ muốn trở nên một trong những nước tiên phong cho Thời đại Hoàng kim, thì các đạo luật hiện hành về súng ống phải được thay đổi. Không có quốc gia dân chủ nào khác cho phép người dân tự do có súng như Hoa Kỳ. Và không có quốc gia dân chủ nào khác trong đó người dân nghi ngờ chính quyền của họ như Hoa Kỳ – nghĩa là người dân nghĩ rằng họ cần có súng để bảo vệ họ khỏi chính chính quyền của họ. Có một sự liên quan ở đây là Hoa Kỳ sẽ không có được một chính phủ khá hơn nếu người dân còn cư xử như họ là đối thủ của chính quyền và thay vào đó họ quyết định xem họ là một phần của chính quyền. Người dân phải xem mình là một phần của đáp án thay vì phóng chiếu là vấn đề chỉ hiện hữu ở bên ngoài họ.

Do đó, không tránh được là sẽ có lúc các đạo luật về súng ống tại Hoa Kỳ sẽ chặt chẽ hơn, như con thấy ở hầu hết các quốc gia dân chủ khác. Ta thấy người có ý thức tâm linh không cần phải tốn tài nguyên (tiền bạc và năng lượng tâm trí) để chống lại xu hướng này. Lẽ dĩ nhiên, con có thể tìm thấy những thí dụ có người thoát chết hay không bị tổn thương nhờ mang súng, nhưng con cũng có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp người dùng súng hành động điên rồ. Do đó, hãy trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar và trả lại cho Thượng đế những gì thuộc về Thượng đế.

Điều ta muốn nói là các con tập trung tài nguyên tâm trí của mình nơi con có thể gặt hái được hiệu quả mạnh nhất – đó là vượt thăng tâm thức dựa trên sợ hãi và bước vào tâm thức thời đại hoàng kim. Trong trạng thái tâm này, Thời đại Hoàng kim là một thực tại hiển thị và con sống một cách tương xứng, nghĩa là con tin ánh sáng sẽ chu toàn mọi nhu cầu của con, thay vì nghĩ rằng có một số việc trong đó phương tiện vật chất quan trọng hơn Ánh sáng của Thượng đế. Tâm thức thời đại hoàng kim nghĩa là con sẽ không bao giờ cho phép bất cứ điều gì thuộc về thế giới vật chất có quyền lực trên Tánh linh của con.

Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên?

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày nói về Mẹ Teresa. Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên hay chưa, theo nghĩa là dòng sống của Mẹ đã hoàn tất cuộc hành trình trong đời hay chưa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một dòng sống phải hội đủ một số yêu cầu trước khi có thể đi qua nghi thức thăng thiên. Một số yêu cầu này cần được hoàn thành khi dòng sống còn đang hiện thân vật lý, và Mẹ Teresa quả thực đã hoàn tất các yêu cầu này. Do đó, dòng sống của Mẹ Teresa không phải trở lại một kiếp đầu thai mới.

Nhưng vẫn còn một số yêu cầu có thể được hoàn tất nơi cõi tâm linh, và dòng sống của Mẹ Teresa hiện đang nỗ lực chu toàn các yêu cầu này. Khi nào hội đủ, dòng sống của Mẹ sẽ bước vào nghi thức tâm linh của thăng thiên. Ta tiên liệu điều này có thể xảy ra trong một chục năm nữa hay ít hơn.

Điều mà Mẹ Teresa chưa hoàn tất là các yêu cầu về việc giải quyết tất cả mọi vết thương, hay niềm tin gây giới hạn, trong tâm lý. Nói cách khác, có những nghiệp quả mà con mang đối với người khác, được tạo ra qua những việc con đã làm trong kiếp này hay những kiếp trước. Mẹ Teresa đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này do Mẹ đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự tha nhân.

Nhưng thêm vào đó còn có những nghiệp quả đối với chính mình, tức là trạng thái tâm thức của mình. Một số nghiệp này có thể được giải tỏa trong lúc dòng sống không đang đầu thai vật lý, và Mẹ Teresa chưa hoàn tất xong phần này vì Mẹ chưa giải quyết được mối quan hệ của Mẹ với Thượng đế. Sự thể này phần nào là do Mẹ đã tuân thủ giáo lý Công giáo một cách nghiêm ngặt, và khi làm vậy thì rất khó lòng giải quyết quan hệ của mình với Thượng đế.

Quả thực Mẹ Teresa đã nêu một tấm gương sáng ngời của một người đã hiện thân được lời dạy của ta, là yêu thương người lân cận như chính bản thân mình. Mẹ đã hoàn thành sứ vụ cá nhân cũng như thiên hướng của mình, và Mẹ đã làm đúng những gì Mẹ cần phải làm trong đời mình. Kết quả là Mẹ đã hội đủ những đòi hỏi vỏ ngoài của thăng thiên và không cần trở lại địa cầu.

Tuy nhiên, một điều rất quan trọng mà con cần hiểu là không phải ai ai cũng có cùng sứ vụ hay cùng loại sứ mệnh như Mẹ Teresa. Nói cách khác, một số người sẽ hành xử phải lẽ nếu họ tích cực noi gương cuộc đời của Mẹ, nhưng đối với một số người khác, làm như vậy sẽ không phải. Mỗi người đều có sứ vụ riêng và cần đi theo con đường riêng của mình.

Chẳng hạn, hãy cho ta nêu ra là nếu mọi người đều có cùng một cách tiếp cận giáo hội vỏ ngoài giống như Mẹ Teresa thì Giáo hội Công giáo sẽ có rất ít hy vọng đổi mới. Như đã được giải thích khắp trang mạng này, đặc biệt bởi Mẹ Mary yêu dấu của ta, thực sự Giáo hội Công giáo đang có một nhu cầu cải cách rất cấp bách.

Mẹ Teresa đã không tham gia vào bất kỳ nỗ lực nào để cải tổ Giáo hội, và nếu Mẹ làm vậy thì Mẹ đã gây thiệt hại cho sứ mạng cá nhân của Mẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là người khác không nên theo đó mà suy luận rằng họ cũng phải chấp nhận Giáo hội như Mẹ đã chấp nhận.

Nếu con phân tích kỹ lưỡng cuộc đời của Mẹ Teresa, con sẽ thấy là Mẹ đã sẵn sàng đi theo tiếng gọi của Thượng đế khi ngài nhủ thầm bên trong tim Mẹ. Nếu Mẹ không đi theo tiếng gọi nội tâm đó thì Mẹ đã trở thành một nữ tu Công giáo chẳng khác gì mọi nữ tu khác và Mẹ cũng đã không bao giờ khởi xướng được sứ vụ của Mẹ tại Calcutta. Chính trên đường lên núi Himalaya mà Mẹ đã nghe thấy tiếng gọi của Thượng đế bảo Mẹ đến Calcutta phục vụ cho những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo. Trong một trường hợp như vậy thì nhiều tín hữu Công giáo chính thống, hoặc sẽ làm ngơ trước lời gọi đó, hoặc sẽ phản ứng với lòng sợ hãi và gán cho đó là lời của ác quỷ. Nhưng Mẹ Teresa thì không – Mẹ đã có can đảm nghe theo tiếng gọi, và đó là tại sao Mẹ đã hoàn thành được sứ mạng cá nhân của mình.

Tiếng gọi Thượng đế mà Mẹ Teresa nghe được chính là lời gọi của một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên là vị thày cá nhân của Mẹ. Thày được biết đến trong một số tổ chức tâm linh dưới danh xưng El Morya hay Chân sư MORE.

Khi suy ngẫm về cuộc đời của Mẹ Teresa, ta mong muốn mọi người rút tỉa được bài học là họ cần đi theo giọng nói nơi nội tâm của riêng mình. Thay vì suy luận rằng họ phải sống cụôc đời vỏ ngoài như Mẹ Teresa đã sống, họ nên học hỏi từ tấm gương của Mẹ là đi theo tiếng gọi bên trong. Nếu tiếng gọi bên trong bảo con đi đến Calcutta và phục vụ những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo, thì bằng mọi cách, con hãy làm điều đó. Nhưng nếu tiếng gọi bên trong bảo con làm gì khác thì con hãy bước theo hướng đó.

Và nếu giọng nói nội tâm bảo con nên lên tiếng chống lại hiện trạng trong Giáo hội Công giáo và biến đổi Giáo hội thành một giáo hội hằng sống, thì con hãy làm theo tiếng gọi đó bằng mọi cách. Nếu không có ai đứng lên phản đối những sự lạm dụng quyền lực đang diễn ra trong Giáo hội Công giáo thì sẽ rất ít hy vọng cải hóa được Giáo hội. Và như Mẹ Mary đã giải thích, sự phán quyết của Thượng đế có thể vô cùng nhanh chóng.

Ghi chú: Mấy năm sau câu trả lời nói trên, chân sư thăng thiên Mẹ Mary đã ban ra một câu trả lời cập nhật hơn. Xin đọc ở đây.

Ngoài ra còn có một loạt đối thoại giữa chân sư Giê-su và ông Kim Michaels về “bóng tối nội tâm của Mẹ Teresa” mà bạn có thể tham khảo (chưa dịch sang tiếng Việt)

Ý định sát nhân đối với Công nương Diana và sự cưỡng chống thay đổi tại Anh

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con xin thày nhận xét về cái chết của Công nương Diana đã tác động mạnh mẽ lên nhiều người, và câu hỏi chưa được giải tỏa là liệu Công nương đã bị giết hại hay đã thiệt mạng do tai nạn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ở thời điểm này ta không mong muốn bình luận liệu Công nương Diana có bị ám hại hay gặp tai nạn. Điều ta sẽ nhận xét là mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý đều là sự diễn bày của một điều kiện trong tâm thức. Cho nên điều con sẽ thấy là Công nương Diana đã trở thành biểu tượng cho một yếu tố mà các chân sư khác đã có đề cập, đó là khả năng đổi mới chế độ quân chủ. Và như vậy, ta có thể cam đoan với con là tại Anh có một thiểu số tự tôn quyền lực – không chỉ là chế độ quân chủ mà là cả những người tự xem mình thuộc tầng lớp quý tộc cũ. Họ sẽ vui mừng muốn thấy Diana biến mất vì bất cứ lý do nào.

Điều mà nhiều người đã bắt mạch, đã trực nhận được là khi họ cảm thấy quả thực có một ý định sát nhân đối với Diana. Có một thực tế ở đây: Nếu ý định sát nhân này không có mặt thì có thể Diana đã vẫn còn sống. Nhưng con thấy đó, một ý định sát nhân trong tâm thức có khả năng thị hiện trong cõi vật lý qua nhiều cách khác nhau. Và không nhất thiết phải có một âm mưu cố tình giết hại một ai đó, vì ý định này có thể dễ dàng kết tụ thành một tai nạn.

Cho nên ấn tượng mà ta muốn trao cho con là như sau: Có thật sự quan trọng lắm hay không nếu đó là một cuộc ám hại hay một tai nạn? Câu hỏi lớn hơn cần được đặt ra là ý định ám sát đó phát xuất từ đâu. Xong con cần tra vấn xem gốc rễ của ý định đó có thể nào được phép lẩn trốn lâu thêm nữa hay không, hay nó phải được phơi bày ra để mọi người thấy rõ nó là gì – một thế lực phản ứng đang tìm cách giam giữ người dân Anh trong cái bẫy của truyền thống quá khứ, thay vì cho phép tất cả các thể chế cùng cơ chế của xã hội Anh được đổi mới.

Các con là những người tâm linh, các con đừng trở nên dính mắc hay bị mù quáng bởi dáng vẻ vật lý. Hãy nhìn vượt lên trên và nhận ra là con KHÔNG đang chiến đấu chống lại một số người nào đó trong thiểu số thượng lưu quyền lực, mà con đang cố gắng giúp mọi người khắc phục một trạng thái tâm thức nhất định. Đây chính là muc đích của con – một sự chuyển hóa trong tâm thức.

Và khi con tìm kiếm trước tiên vương quốc của Thượng đế – TỨC LÀ sự chuyển hóa trong tâm thức – thì mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con, kể cả những thay đổi trong cõi vật lý. Cho nên trong tư cách là người tâm linh, con đừng tự buộc mình vào tất cả những vấn đề đang chiếm trọn tâm trí của những ai chưa thức tỉnh tâm linh. Con hãy lánh xa khỏi chúng và tập trung vào việc chuyển đổi tâm thức.

Cho phép tự ngã lừa mình chối bỏ lời dạy sẽ giải thoát mình khỏi tự ngã

Hỏi: Một người tầm đạo chín chắn cần đáp ứng thế nào khi gặp những lời dạy trên trang mạng này thách đố các niềm tin sẵn có của mình và người đó không đồng ý với lời dạy? Con nhận thấy là những người bạn mà con đã giới thiệu trang mạng này, thường chụp lấy một chi tiết nhỏ nhặt nào đó mà họ không thích rồi sử dụng để bác bỏ toàn bộ trang mạng. Xin thày vui lòng bình luận về cách hành xử này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con hãy cho phép ta nói thật rõ là những ai đọc trang mạng này KHÔNG NÊN hiểu lầm những lời giảng của ta ở đây là những điều mà họ phải chấp nhận không suy xét, và họ cũng không nên đọc từng chữ như thể đó là thánh thư bất khả sai lầm. Như ta đã cố giải thích, mục đích của bất kỳ lời dạy chân truyền nào cũng là trao cho học trò một bàn đạp để giúp họ vươn lên trên giáo lý vỏ ngoài hầu chạm được Tánh linh của Sự Thật – các chân sư thăng thiên – mà từ đó lời dạy đã đi ra. Lời dạy tựa như một sợi dây cứu sinh nhằm dẫn con đến cội nguồn của lời dạy.

Ý ta muốn nói là con nên luôn luôn cố gắng vượt xa hơn từ ngữ vỏ ngoài của lời dạy để chạm được một hiểu biết nội tâm sẽ đưa con lên cao hơn lời dạy. Nhiệm vụ của một vị sứ giả là truyền đạt một lời dạy thuần khiết nhất có thể. Còn nhiệm vụ của đệ tử là vượt ra khỏi lời dạy vỏ ngoài, và khi làm vậy, đệ tử cũng thăng vượt những nét thiếu thuần khiết trong lời dạy. Chừng nào con nối kết với nguồn cội thì tất cả những bất toàn đó trong lời dạy đều không quan trọng. Nhưng nếu con không tìm đến nguồn cội thì ngay cả một lời dạy toàn hảo – nếu có gì có thể toàn hảo được – cũng sẽ không đảm bảo được sự cứu rỗi của con.

Như luôn luôn, nguy cơ tiềm tàng cho con chính là hai đối cực của tự ngã:

  • Một là đệ tử với tư duy đen-trắng sẽ thần tượng hóa sứ giả cũng như giáo lý, cho rằng đó là giáo lý cao nhất và luôn luôn đúng. Vì vậy họ không bao giờ được cả gan nghĩ xa hơn những gì được trình bày trong giáo lý.   
  • Hai là đệ tử vẫn còn bị chi phối bởi lối tư duy xám. Họ sẽ bảo rằng không một lời dạy nào có thẩm quyền gì đặc biệt, cho nên họ sẽ nghĩ ra một cách diễn giải riêng của họ để khiến lời dạy có vẻ nói lên những gì họ muốn nghe.  

Cách thoát ra khỏi hai đối cực đó là nhận ra điều mà ta vừa nói ở trên. Con phải sử dụng lời dạy duy như một bàn đạp, một bực thang để với lên nguồn cội của lời dạy. Các chân sư thăng thiên đứng trên tư duy đen-trắng lẫn tư duy xám. Cho nên nếu con không nhìn xa hơn trạng thái tâm thức hiện thời của con, thì đơn giản con sẽ không thể nào liên lạc được với chúng tôi. Con sẽ bị kẹt lại trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con sẽ dùng cách diễn giải của con về lời dạy vỏ ngoài để biện minh tại sao con đã không bước lên cao hơn.

Về điểm này, con hãy cho phép ta nói lên một điều thật rõ ràng. Nếu con thấy mình cứ phân tích, xét đoán hay chỉ trích một giáo lý hoặc vị sứ giả truyền đạt giáo lý đó – đặc biệt nếu con cứ nghĩ là mình biết rõ giáo lý phải được trình bày ra sao – thì ngay lập tức con nên xem đó là một dấu hiệu hiểm nghèo. Con có thể LUÔN LUÔN chắc chắn là những ý tưởng như vậy xuất phát từ tự ngã của con cùng các tà thể mà ta đã mô tả trong một câu trả lời khác, tức bọn Phá rối (the Spoilers). Cho nên con cần nhận ra yếu tố khiến con dễ bị năng lượng của bọn Phá rối tấn công chính là một số tin tưởng nhị nguyên mà con có. Con càng dính mắc vào các tin tưởng này thì phản ứng động cảm của con đối với lời dạy sẽ càng dữ dội.

Người đệ tử thiếu minh triết sẽ sử dụng các điểm bất toàn mà họ thấy nơi người khác (thật ra là những điều mà chính tự ngã của họ đã phóng chiếu lên người khác) để không thay đổi bản thân. Còn đệ tử minh triết sẽ luôn luôn tìm kiếm cái xà trong mắt mình, chào đón bất kỳ cơ hội nào để nhìn thấy nó và nhổ nó ra. Cho nên khi người đệ tử minh triết tìm thấy một lời dạy trên trang mạng này hay bất kỳ một giáo lý tâm linh nào khác thách đố niềm tin cố hữu của mình, thì người đó sẽ cân nhắc câu hỏi: “Có phải sự kháng cự của tôi đối với lời dạy này phát xuất từ sự dính mắc vào một ảo tưởng nào hay chăng?” Nếu phát hiện được một dính mắc như vậy thì người đó sẽ luôn luôn phơi bày nó rồi buông nó ra. Nhưng một đệ tử thiếu minh triết sẽ tim thấy sai khuyết nơi sứ giả cùng thông điệp của sứ giả để rồi sử dụng như một lý cớ mà bỏ qua dính mắc của mình.

Là một đệ tử minh triết, con cần luôn luôn cố gắng phơi bày tự ngã, và một trong những cách tốt nhất là xét xem có những mâu thuẫn hay bất nhất nào trong các niềm tin, lời nói hay hành động của mình. Lý do là vì tự ngã luôn luôn phóng chiếu quan điểm của nó lên người khác, và do vậy, nó thường hay chỉ trích sai lầm mà nó thấy nơi người khác chính vì nó đang mang sai lầm đó nơi nó. Tự ngã sẽ buộc tội người khác có những hành xử mà chính nó đang hành xử với người khác – cũng như với con.   

Chẳng hạn, có một số đệ tử tâm linh đã tập trung vào một hình ảnh sai lầm về tình thương khi xem tình thương là phải luôn luôn dịu dàng nhu hòa, và họ nghĩ họ không bao giờ được thách đố một ý tưởng hay quan điểm nào. Thế nhưng họ không nhìn ra là họ đã trở nên phê phán đối với những người thẳng thắn hơn họ.

Những ai bị mù quáng bởi tư duy xám rất dễ rơi vào kiểu phê phán đó. Chẳng hạn, họ khoác vào thái độ cho rằng một vị thày tâm linh chân chính phải tỏ ra yêu thương độ lượng đối với mọi hoàn cảnh con người. Họ thật sự tin rằng cách duy nhất để là một người yêu thương là không bao giờ được thách thức một ai vì làm như vậy là phê phán. Nhưng điều mà họ không nhìn thấy là chính họ mới đang vô cùng phê phán đối với những ai không tuân theo cách định nghĩa của họ về thế nào là thương yêu. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo chân thành cho rằng họ hoàn toàn yêu thương, nhưng họ lại rất phê phán đối với những ai họ dán nhãn là không yêu thương.

Đây rõ ràng là một sự mâu thuẫn, và một người đang bắt đầu vượt lên trên tư duy xám sẽ phải có khả năng sử dụng những lời dạy này để nhanh chóng buông bỏ các trò chơi đó của tự ngã. Do đó, những người tầm đạo già dặn hơn phải có khả năng vượt trên xu hướng của tự ngã vốn cứ chọn ra một chi tiết mà nó không ưa, rồi sử dụng như cái cớ để khiến con bác bỏ toàn bộ giáo lý.

Trang web của chúng tôi thực sự có những lời dạy có thể giúp mọi người thoát tự ngã của mình. Nhưng nếu con cho phép tự ngã đánh lừa con gạt bỏ lời dạy thì hiển nhiên lời dạy không thể giải thoát được con. Ta đã chứng kiến những người tâm linh làm vậy từ thời ta bước trên địa cầu 2000 năm trước đây. Riêng bản ngã thì con không lạ gì nó. Các luận cứ mà nó dùng có thể thế này hay thế khác, nhưng cái cơ chế thì luôn luôn không thay đổi.

Động đất ở Trung quốc có là quả báo cho việc chiếm đóng Tây Tạng?

Hỏi: Thưa thày Giê-su, nữ diễn viên người Mỹ Sharon Stone đã đưa ra nhận xét trong liên hoan điện ảnh Cannes rằng trận động đất xảy ra gần đây ở Trung quốc [năm 2010] có thể là quả báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với dân tộc Tây Tạng. Xin thày cho biết quan điểm của thày về việc này. Ngoài ra, tại sao lời tuyên bố của cô Sharon Stone lại gây ra quá nhiều tức giận và chế nhạo đến vậy?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước tiên, hãy để ta nói cho thật rõ: Để có thể có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể thì điều tuyệt đối cần thiết là những ai ở một địa vị được công chúng lắng nghe phải có can đảm lên tiếng, phải can đảm đưa ra những nhận xét tạo xốc hầu mọi người có thể suy nghĩ vượt ra khỏi hộp tư duy hiện thời. Trong nhãn quan này, thật không mấy quan trọng nếu các lời tuyên bố có thể được xem là chính đáng và thận trọng hay không – cho dù chúng có thể xác thực theo một nghĩa tối hậu nào đó. Bởi vì mục đích của lời tuyên bố là để lay chuyển mọi người, lay chuyển những ai có tâm chưa hoàn toàn khép kín để họ suy nghĩ một cách mới mẻ về một vấn đề.

Cho nên ta phải khen ngợi Sharon Stone và một số diễn viên danh tiếng khác như Richard Gere và Harrison Ford, đã có can đảm hỗ trợ đức Đạt lai Lạt ma cùng chính nghĩa của người Tây Tạng, đến độ họ phải chịu thiệt hại trong sự nghiệp cùng thu nhập của họ. Thật là một thực tế đáng buồn trên hành tinh này khi những ai có điều gì quan trọng để nói lên thường khó lòng được giới truyền thông lắng nghe, trong khi một số nhân vật nổi tiếng khác lại được báo chí đăng tải rầm rộ những lời nói nông cạn nhất. Vì vậy thật vô cùng cần thiết và đáng khen khi có những người đã đạt được tư thế nổi danh lên tiếng về một chính nghĩa có thể đem lại sự thay đổi.

Bây giờ hãy để ta trả lời câu hỏi, liệu trận động đất gần đây có phải là quả báo cho cách chính quyền Trung quốc đối xử với người Tây Tạng hay không. Trước hết, Sharon Stone đã can đảm bày tỏ công khai ý tưởng rằng một thảm họa thiên nhiên quả thực có thể là hậu quả của hành vi con người – một ý tưởng rất dễ đoán trước là cô ta sẽ bị người ta chế nhạo tại phương Tây. Bởi vì như Mẹ Mary có giảng, nhân loại rất cần thức tỉnh nhìn ra sự thật là có một mối liên hệ giữa trạng thái tâm thức loài người và các tai họa “tự nhiên”.

Tất nhiên một quốc gia có thể phải nếm mùi thiên tai do hành vi của kẻ lãnh đạo quốc gia đó, như được thấy qua ví dụ trận bão Katrina ở Hoa Kỳ [năm 2005]. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể này, thật không chính xác khi bảo rằng trận động đất này là quả báo cho cách hành xử của Trung quốc chống lại Tây Tạng. Đây là một trường hợp mà cô Sharon Stone, mặc dù ý định của cô rất tốt, đã quá chú mục nhìn thế giới từ góc cạnh của cô và đặt dân tộc Tây Tạng ở ngay trung tâm cái nhìn đó.

Sự thật là trận động đất gần đây ở Trung quốc không phải là quả báo cho cách hành xử của chính quyền đối với dân tộc Tây Tạng mà đối với một tập thể khác – một tập thể thường bị phương Tây lãng quên khi nhìn vào Trung quốc. Và nếu con bị khó khăn không nhận diện ra tập thể này, thì điều đó càng chứng minh điểm ta muốn nói. 

Sự thật là trận động đất vừa rồi là nghiệp báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với chính dân tộc Trung quốc!

Hiển nhiên chính quyền Trung quốc đã đàn áp người dân Tây Tạng, nhưng chẳng phải là họ cũng đã đàn áp chính nhân dân họ ở cùng một mức độ hay sao? Liệu người dân Trung quốc không xứng đáng được thương xót và giúp đỡ một cách bình đẳng để họ tự do hay sao?

Nếu điều này đã rõ thì ta sẽ nhận xét thêm về câu hỏi, liệu có bất công hay không khi người dân Trung quốc phải hứng chịu hậu quả những hành vi của chính quyền họ – khi chính quyền này áp bức họ. Thực tế là ở mọi quốc gia, chính quyền là sự thể hiện của tâm thức quần chúng. Cho nên một nước không thể có chính quyền áp bức trừ khi trong tâm thức quần chúng cũng có một xu hướng phục tùng, không chịu lãnh trách nhiệm về cuộc sống của mình lẫn về đất nước của mình.

Do đó ngay cả ở các quốc gia độc tài nhất vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa kẻ cai trị áp bức và quần chúng chấp nhận áp bức. Chỉ khi nào có một túc số tới hạn những con người quyết định nhận lãnh trách nhiệm về vận mạng của mình – và họ vươn lên cao hơn cái tâm thức đã khiến cho kẻ áp bức nắm được chính quyền – thì mới có một sự xoay chuyển quyết định trong hình thức chính quyền.

Và chót hết, ta sẽ nhận xét thêm về lý do tại sao lời tuyên bố của Sharon Stone lại gây ra nhiều tức giận tại Trung quốc và nhiều chế nhạo tại phương Tây đến như vậy. Lý do thật giản dị là vì ở cả hai vùng này của thế giới, có một tỷ lệ rất cao đã được nuôi dạy trong triết lý duy vật, một triết lý phản tâm linh. Theo đó, con người có thể tránh né hậu quả việc làm của mình, hoặc hành động của một người không có hậu quả gì hết ngoại trừ những gì thấy được ngay lập tức.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày [Master Keys to Spiritual Freedom], việc phủ nhận hậu quả như vậy là sự biến thái tha hóa cùng cực của quyền tự quyết. Thượng đế đã cho phép địa cầu – do độ dày đặc của vật chất ở đây – trở thành một hành tinh nơi con người có thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài, và qua đó cũng phủ nhận các định luật của ngài. Điều này là để cho phép những dòng sống nào muốn tách biệt khỏi Thượng đế có cơ hội làm như vậy, với hy vọng là rốt cuộc họ sẽ chán chê chuyện đó và quay trở về với thực tại.

Thế nhưng một số những người đó đã tự thuyết phục mình – và cũng đang nỗ lực thuyết phục mọi người khác trên địa cầu – rằng thật ra không có Thượng đế, cho nên họ mới có cái mà họ tưởng là tự do tối hậu, tức là tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải gánh chịu bất kỳ hậu quả nào. Tuy nhiên như thày Maitreya giải thích, nếu không có hậu quả thì cũng không có quyền tự quyết, bởi vì nếu chọn lựa của con không mang lại hậu quả thì kỳ thực con đã không chọn lựa gì hết.

Vì vậy thực tế trên địa cầu là sẽ có một thành phần trong quần chúng bác bỏ kịch liệt sự kiện hành vi của con người có thể đem lại hậu quả cho thân thể của hành tinh, hoặc hành tinh có thể đáp trả lại hành vi của con người qua các thiên tai. Những người đó sẽ chế nhạo một cách ác độc bất cứ ai lên tiếng phản đối thế giới quan ích kỷ và tương đối của họ, và họ càng ích kỷ bao nhiêu thì sự chế nhạo sẽ càng cuồng nhiệt bấy nhiêu. Bởi vì CHỈ CÓ lòng ích kỷ mới có thể khiến cho con người từ chối xét xem hành động hay trạng thái tâm thức của mình có thể đem lại hậu quả tác động đến những thành phần khác của sự sống. Tất nhiên, chỉ có lòng ích kỷ đã khiến cho các dòng sống đó muốn tách rời khỏi Thượng đế cùng Thân thể của ngài.

Nhưng những ai đã bắt đầu khắc phục được lòng ích kỷ của mình cũng đã bắt đầu nhìn ra là mọi người trên trái đất đều là một phần của cùng một tổng thể rộng lớn, cho nên họ đang vượt ra khỏi tâm thức của Cain để nhìn nhận rằng quả thực họ là người canh giữ cho anh em mình. Và do đó, thật là chính đáng để có một phong trào “Tây Tạng tự do”, nhưng cũng chính đáng không kém là có một phong trào “Trung quốc tự do”. Bởi vì nếu con có thể giải phóng dân tộc Trung quốc khỏi cái tâm thức áp bức-phục tùng kia, thì con có nghĩ là vấn đề Tây Tạng cũng sẽ được giải quyết cùng một lượt hay không?

Về khía cạnh này, điều vô cùng quan trọng là người tâm linh cần nâng cao cách hiểu của mình về nghiệp quả để vượt ra khỏi truyền thống xem nghiệp quả là sự trừng phạt. Nếu con có một quả bóng và cứ thổi thêm hơi vào quả bóng thì cuối cùng nó sẽ nổ tung, nhưng liệu quả bóng nổ có phải là sự trừng phạt của một Thượng đế tức giận hay không? Không. Kỳ thực nhân loại đang không ngừng đổ thêm năng lượng ở tần số thấp vào trường năng lượng của thân thể hành tinh, và một khi áp suất trở nên quá lớn thì một cái gì đó phải nổ tung để giải áp. Vì nếu áp suất không được giảm bớt một cách lần hồi qua các pháp tu tâm linh – ví dụ như các bài chú hay bài thỉnh của Mẹ Mary – thì nó sẽ bùng nổ dữ dội và nhiều người sẽ bị thiệt hại.

Và mặc dù người ta có chiều hướng chú tâm vào những thiệt hại cho con người, đây vẫn không phải là một sự trừng phạt. Đây chỉ là kết quả không thể tránh khỏi của hành vi con người. Và vì vậy nghiệp quả luôn luôn là một vị thày – nghiệp quả chỉ duy nhất là một vị thày. Nghiệp quả là một nỗ lực nhằm dạy dỗ con người rằng mọi hành động, kể cả những “hành động” tâm lý, đều mang hậu quả. Cho nên luôn luôn có sự mong mỏi là một khi con người nếm mùi hậu quả thì họ sẽ thức tỉnh, sẽ nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và quyết định thay đổi.

Tất nhiên trong nhiều trường hợp, chính cái tâm thức đã khiến cho con người tạo nghiệp sẽ ngăn cản họ thấy được nghiệp báo như một bài học. Khi nào con người còn bịt tai không muốn nghe các vị thày tâm linh của mình, thì không còn cách nào khác để dạy cho họ ngoài việc cho phép họ gặt hái nghiệp báo – hết lần này tới lần khác cho đến khi họ bắt đầu tự hỏi: “Không hiểu có cách nào khác hay hơn chăng? Có phải chính tôi là người phải thay đổi? Đâu là cái xà trong mắt tôi mà tôi chưa nhìn thấy?”

Nhận xét của Giê-su về phim của Mel Gibson “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”

Hỏi: Thưa thày Giê-su, thày có thể cho con sáng ngộ gì về bộ phim mới của Mel Gibson được phát hành năm 2004 “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”? Liệu thày có xem phim này là một cản trở cho thông điệp của thày vì thày sẽ trở thành thần tượng cho hàng triệu người? Hay liệu phim này cần thiết để tăng cường cho thông điệp của thày? Đây có phải là một mô tả chính xác về sự Đóng đinh của thày hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu ta được yêu cầu làm cố vấn cho một bộ phim về đời ta, điều đầu tiên ta sẽ làm là đổi tiêu đề từ “Khổ nạn” thành “Phục sinh”. Chắc chắn ta không hài lòng là đạo Cơ đốc chính thống đã đặt chú ý và trọng tâm quá đáng như vậy vào sự kiện ta bị đóng đinh, và do đó đã bỏ qua sự kiện quan trọng hơn rất nhiều là ta đã phục sinh.

Phải, ta đã bị đóng đinh và hành quyết. Tuy nhiên, hàng ngàn người khác cũng đã bị hành quyết tương tự như vậy mà hầu như chẳng có ai chú ý. Lý do là vì, tất nhiên, việc một người bị đóng đinh chẳng quan trọng gì trong lịch sử thế giới. Vậy tại sao lại xem trọng sự kiện ta bị đóng đinh? Nó thật chẳng quan trọng gì hơn việc đóng đinh một người nào khác bị hành quyết theo lối ác độc này. “Hễ các người đã làm chuyện này cho một kẻ hèn mọn này là anh em của ta, thì các người cũng đã làm cho chính ta” (Matthew 25:40). Cho nên khi con bỏ qua sự hành quyết ác độc đối với từng nấy người, thì con cũng bỏ qua nỗi khổ của họ, là chính nỗi khổ của ta.

Điều ta cố giúp mọi người nhìn ra ở đây là việc ta bị đóng đinh không quan trọng hơn, hay kém quan trọng hơn, hàng ngàn người khác bị đóng đinh. Trải nghiệm của ta chỉ khác hơn ở chỗ là ta đã được phục sinh sau khi bị đóng đinh và ta đã hiện ra trước mặt các tông đồ trong một cơ thể phục sinh. Điều này quan trọng vì khi được hiểu chính xác, nó chứng minh là mọi người đều có thể bước trên một con đường sẽ dẫn họ đến tâm thức Ki-tô. Và khi họ đạt đến tâm thức Ki-tô đó, họ có thể chiến thắng mọi thế lực của vũ trụ vật chất, kể cả chính cái chết.

Thông điệp chủ yếu của đời ta không phải là lời tuyên bố được nhắc đi nhắc lại là ta đã chết trên thập tự giá để trả thay cho tội lỗi loài người, mà thông điệp chủ yếu là mặc dù người ta đã giết chết thân thể vật lý của ta, họ đã không thể giết được ta vì ta là nhiều hơn cơ thể và ta có thể sống còn sau khi cơ thể qua đời. Đây quả thực là thông điệp đáng lý phải được “hô lớn từ mọi mái nhà” cũng như trên màn hình chiếu phim.

Mọi con người đều có tiềm năng bước theo chân ta và làm những công việc ta đã làm. Và chìa khóa để bước theo chân ta là áp dụng cùng một cách tiếp cận đối với tôn giáo mà ta đã chứng tỏ trong suốt đời mình, là đi muốt tiến trình biến hóa tâm thức mà ta đã trải nghiệm. Đó mới đúng là thông điệp chủ yếu của đạo Cơ đốc, và như ta đã từng nói, ta mong muốn mọi hình ảnh của Ki-tô bị đóng đinh được gỡ bỏ khỏi các nhà thờ Cơ đốc và được thay thế bằng hình ảnh của Ki-tô phục sinh.

Cho nên đúng vậy, bộ phim này có tiềm năng là một cản trở cho thông điệp mà ta muốn gửi ra trong thời đại này. Nếu phim này trở nên thịnh hành trong quần chúng, quả là nó có thể tăng cường cho sự trọng tâm quá mức dành cho việc ta bị đóng đinh và đau đớn trên thập tự giá, một trọng tâm đã được củng cố suốt 2000 năm qua. Ta đã có bình luận về chủ đề “Chúa hiến thân cho loài người” ở một nơi khác cho nên như vậy cũng đủ rồi.

Khi con xem một bộ phim, con rất nên chú ý đến mức độ năng lượng của mình trước và sau khi xem phim. Nếu con nhận thấy mức năng lượng giảm xuống, con có thể chắc chắn là phim đã hút cạn năng lượng tích cực của con. Đại đa số các nhà làm phim không nhận thức rõ về sản phẩm của mình, nhưng những loại phim như vậy luôn luôn bị tà lực ảnh hưởng vì tà lực dùng bộ phim để đánh cắp năng lượng tích cực của người xem. Điều này đặc biệt đúng với các loại phim gây sốc cho khán giả qua các hình ảnh khủng khiếp, tình dục hay bạo lực.

Ta nghĩ người xem phim “Cuộc Khổ nạn” nếu họ chú ý đến mức năng lượng của mình, sẽ nhận thấy họ bị rút cạn hết năng lượng sau khi xem phim. Lý do thật đơn giản. Phim này chú tâm quá đáng vào nỗi đau đớn của ta trước và trong khi bị đóng đinh. Nói thật, ta thà không có tín hữu Cơ đốc nào nhìn thấy những hình ảnh của một người bị đóng đinh với thân thể đầy máu được trình bày là Giê-su Ki-tô.

Đó thật không phải là một cách mô tả chính xác về cách hành quyết này. Hiển nhiên là có chút máu nhưng không nhiều lắm. Những hình ảnh như vậy chỉ nhằm tạo chấn động cho người xem khiến họ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, rồi năng lượng này bị bọn quỷ dữ, tà thể cùng các linh hồn không xác hút lấy, vì chúng sống còn nhờ năng lượng tha hóa. Thẳng thắn mà nói, các rạp chiếu phim thường là vùng sinh sôi cho những loại sinh thể thấp kém đó, đặc biệt những rạp chiếu các bộ phim kinh hoàng, phim khiêu dâm và phim bạo lực giết chóc. Ta lượng định phim này là một loại phim nửa chừng giữa phim bạo lực và phim kinh hoàng.

Cho nên, không, bộ phim này không phải là một mô tả xác thực về sự đóng đinh. Đương nhiên, việc ta bị xét xử công khai và bị đóng đinh không là một trải nghiệm thú vị gì. Chính vì vậy mà vào buổi tối trước đó, ta đã băn khoăn đến độ xin Thượng đế lấy chén khỏi tay ta. Dẫu sao thì khi ta quy phục Thượng đế qua những lời: “Dẫu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con,” (Luke 22:42) thì ta đạt được một trạng thái an bình nội tâm sẽ theo ta trong suốt trải nghiệm.

Con sẽ nhận thấy là những ai trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt tột cùng thường có một cảm giác bình an nội tâm với rất ít đau đớn, khó chịu. Các nhà khoa học giải thích sự kiện này là do các hóa chất trong bộ não tạo ra. Đúng là hóa chất có một vai trò nào đó, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là trạng thái an bình nội tâm của dòng sống. Chính sự an bình nội tâm giúp cho hóa chất được phóng thích, chứ không phải hoá chất chế tạo được sự an bình nội tâm. Cho nên ta ở trong một trạng thái an bình như vậy trong toàn bộ cuộc trải nghiệm, và vì vậy ta đã không đến nỗi bị đau đớn như nhiều tín hữu Cơ đốc tưởng tượng. Chắc chắn ta đã không đau đớn như được mô tả trong phim.

Trong thời gọi là Thời kỳ Tăm tối [khoảng từ năm 500 đến 1000 SCN], việc người ta đồng cảm với nỗi khổ của Ki-tô là một chuyện tự nhiên, vì đời sống của họ thật cùng khốn, đau khổ. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, các chân sư thăng thiên luôn luôn cố gắng tiếp cận con người qua một thông điệp tâm linh có khả năng giúp họ vươn lên cao hơn, và để chạm được họ, các thày phải đến gần họ với một thông điệp phù hợp với trạng thái tâm thức của họ lúc đó. Nếu họ đang trải qua nhiều đau khổ và nếu họ thấy được một vị sáng lập tôn giáo cũng phải nếm đau khổ, thì điều này quả thực có thể giúp họ mở tim ra nhận lấy thông điệp tâm linh.

Đó là một cách phải chăng để con người mở tim ra với Ki-tô trong những thời kỳ họ phải chịu rất nhiều khổ đau. Tất nhiên trong thế giới ngày nay vẫn còn những người bị khổ suốt đời, và họ có thể được giúp qua việc nếm trải khổ nạn của ta trên thập tự giá. Nhưng dẫu sao, thông điệp chính yếu vẫn nên là: qua việc nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, con sẽ vượt qua đau khổ, sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con và đem lại vương quốc Thượng đế trên trái đất. Không bao giờ thông điệp của các chân sư là con người phải tiếp tục đau khổ cả đời mình rồi sau đó mới được hưởng vương quốc Thượng đế sau khi chết. Mục đích của các thày là chấm dứt đau khổ ngay trên trái đất và đem Nước Trời vào thế gian này.

Ta hoàn toàn thông cảm là trong thế giới hôm nay có nhiều người đã trải qua rất nhiều đau khổ, kể cả chính Mel Gibson. Rồi điều này khiến họ nhận diện chính họ trong ta, vì ta cũng đã đau khổ. Tuy nhiên, điều xảy ra cho nhiều người là đau khổ tạo ra những vết thương cảm xúc trong cỗ xe linh hồn. Cho nên nếu họ tập trung vào khổ nạn của ta trên thập tự giá mà không hiểu thông điệp rằng họ có khả năng vươn lên khỏi đau khổ, thì việc tham gia đạo Cơ đốc sẽ không giúp họ tăng triển tâm linh.

Trái lại, việc tham gia vào đạo Cơ đốc có thể làm thui chột sự tăng triển tâm linh của họ, khiến họ cảm thấy mình phải chịu khổ đau vì chính ta đã khổ đau. Thật là một cách suy luận méo mó xuyên tạc đến độ nó thách thức khả năng hiểu của ta. Vậy mà vẫn có những dòng sống bị thương tích quá nặng đến mức họ không chịu buông những vết thương đó ra. Họ bám lấy vết thương vì vết thương đã trở thành một phần trong ý niệm bản sắc của họ, và họ không thể tưởng tượng là họ có thể được chữa lành khỏi vết thương. Cho nên một cách nào đó, họ biến khổ nạn của ta trên thập tự giá cùng cái chết của ta do khổ nạn đó thành một lời biện minh là họ không được chữa lành vết thương và bước lên một tầng cao hơn. Thậm chí họ còn cố dùng tấm gương của ta để xúi giục người khác thương xót họ, thương xót nỗi đau của họ.

Như ta vừa nói, thông điệp ở trung tâm cuộc đời của ta là: Con không phải khổ đau. Khi con bước theo chân ta và để cho cái tâm ở trong Giê-su Ki-tô bước vào trong con, con có thể khắc phục đau khổ con người và đạt được an bình nội tâm. Thậm chí con có thể thay đổi cả những hoàn cảnh vỏ ngoài đã tạo vết thương trong con. Con nghĩ tại sao ta đã chữa lành người bệnh tật và vực người chết sống lại nếu không phải là để minh chứng tâm thức Ki-tô có quyền năng trên mọi điều kiện vật lý? Con nghĩ tại sao ta đã chứng tỏ là một người với tâm thức Ki-tô có thể chinh phục chính cái chết nếu không để minh chứng là mọi người đều có tiềm năng chinh phục cái chết?

Cho những ai đang đọc dòng chữ này, hãy để ta đưa ra một lời khuyên nhủ. Xin con đừng cảm thấy mình có nghĩa vụ đi xem phim này chỉ vì dường như đây là một bộ phim về Giê-su Ki-tô và con cảm thấy mình phải biết rõ ta đã phải khổ đến chừng nào vì con. Con tuyệt đối không có bổn phận đi xem một bộ phim trưng bày nỗi khổ mà ta không hề trải nghiệm, một bộ phim mô tả việc ta bị đóng đinh thật thiếu chính xác. Và như vậy ta cho phép con được tự do không có bất kỳ cảm giác nghĩa vụ nào mà con có thể có.

Ta làm vậy vì ta biết rõ nhiều tín hữu Cơ đốc sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải xem phim này chỉ vì bộ phim nói về ta. Nhưng như ta đang cố giải thích, phim này thực sự không phải về ta. Phim này là về một hình ảnh sai lạc đã được đạo Cơ đốc truyền thống củng cố từ 2000 năm qua. Và những hình ảnh được trình chiếu suốt bộ phim không phát xuất từ một viễn quan chân chính mà từ sự hư cấu của những người mang một quan niệm mất cân bằng về đau khổ.

Ta cũng biết là nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc, kể cả Tòa thánh Vatican, sẽ tuyên bố là phim này trình bày sự kiện đóng đinh đúng y như thực. Một số sẽ nói như vậy vì họ tin thật như thế. Một số sẽ nói như vậy vì họ nhìn thấy một cơ hội chính trị để quay sự chú ý của mọi người về cái họ tin là quan điểm đúng đắn duy nhất về Ki-tô, tức chính quan điểm của họ.

Ta buồn là Vatican đã bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với bộ phim, nhưng ta không ngạc nhiên. Rõ ràng, như đã được giải thích nơi khác, là Giáo hội Công giáo đã che khuất thông điệp đích thực của ta cho nên ta không ngạc nhiên khi chính đức Giáo hoàng cầm giữ một hình ảnh không thật về việc ta bị đóng đinh. Dù sao thì ta cũng không thấy được lý do tại sao người Công giáo phải có bổn phận đi xem phim này.

Ta không đang nói là con không nên xem phim, mà ta nói là con nên thoát ra khỏi mọi bó buộc phải xem phim. Con cần lắng nghe các sáng ngộ từ cái ta Ki-tô của con. Nếu con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm muốn xem phim, bằng mọi cách con hãy làm theo.

Tuy nhiên, ta rất khuyên con nên sử dụng các bài tập về sự bảo vệ tâm linh trước khi xem phim. Ta cũng rất khuyên con nên hình dung một quả cầu ánh sáng trắng tinh bao bọc con trong suốt thời gian xem phim, và con rất cẩn thận để không rơi vào những loại cảm xúc tiêu cực do xem phim.

Con hãy quan sát thật kỹ bộ phim làm thế nào để gia tăng tác động gây hết cơn sốc này đến cơn sốc khác cho đến khi người xem không còn khả năng giữ được tâm an bình nữa. Họ bị rơi vào một trạng thái chấn động lẫn chấn thương khiến họ mở toang ra với các thế lực muốn đánh cắp năng lượng của họ.

Con hãy dùng sự nhận biết của mình để tránh trở thành một nạn nhân cho sự thao túng tinh vi của phim này. Hãy tránh bị làm mồi cho mong muốn thương xót ta – vì nói cho cùng, dường như ta đang làm tất cả những chuyện này vì con – đến độ con bị đánh lừa và cảm thấy con phải mở tâm ra cho các hình ảnh hung bạo trong phim. Đây rõ ràng là một mưu toan lợi dụng tình yêu chân thực mà một số người có đối với ta, cùng ý thức bổn phận sai lạc mà nhiều người hơn nữa có đối với ta. Nó đánh lừa con để con mở tâm tiềm thức ra đón nhận thông điệp ẩn giấu bên dưới của bộ phim, và ta khuyên con chú ý đến thông điệp này. Con sẽ ngạc nhiên trước những tiết lộ mà cái ta Ki-tô của con có thể cho con nếu con lắng nghe nó với tâm cởi mở.

Ta không bảo là Mel Gibson đã làm việc này một cách ý thức. Ông chỉ đơn giản chạm vào mạch, và bị mắc bẫy, cái động lượng từ ngàn năm nhằm đưa ra một hình ảnh sai lạc về Ki-tô hầu ngăn cản mọi người bước theo gương của ta. Kết quả là bộ phim mang một thông điệp rất phá hoại. Đó là một thông điệp giả dối, và ta khuyên con nên coi chừng nó và tránh bị nó đánh bẫy.

Cho nên nếu con muốn coi phim này, con hãy xem đó như một trải nghiệm giáo dục. Con lắng nghe cái ta Ki-tô của con để học được bài học cụ thể mà cái ta Ki-tô muốn con học từ việc xem phim. Bài học này sẽ hơi khác đối với mỗi người.

“Khóa học về Phép lạ” có đến từ các chân sư?

Hỏi: Cách đây vài năm, con bắt đầu quan tâm đến việc đọc và tìm hiểu quyển Khóa học về Phép lạ (A Course in Miracles), rồi đột nhiên con mất hứng thú và quyết định không theo đuổi lời dạy này nữa. Về sau có một đệ tử của chân sư thăng thiên nói cho con biết là lời dạy đó chỉ chính xác (hay xác thực) được 90%. Vậy trên thực tế, liệu khóa học đó có chứa đựng những lời dạy chân truyền của các chân sư thăng thiên không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Khóa học về Phép lạ (KHPL) quả thực có chứa đựng những ý tưởng chân chính, tương tự như rất nhiều lời dạy tâm linh hay tôn giáo khác. Nhiều người, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, đã dùng khóa học này để phát triển một tầm hiểu biết sâu sắc hơn về con đường tâm linh cũng như về các giáo lý tâm truyền đích thực của ta. “Nhờ trái mà con biết được cây”, và KHPL đã có giúp được nhiều người.

Con nói đúng, khóa học không chính xác 100 %, nhưng ta có thể nói với con là không một giáo lý tâm linh nào được tìm thấy trong thế giới vật chất chính xác 100 %.

Môt lời dạy tâm linh luôn luôn được ban ra qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai. Cho nên không thể tránh khỏi lời dạy sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức của người giữ vai sứ giả. Trong một số trường hợp như đã giải thích ở nơi khác, ý định cá nhân của sứ giả có thể tô màu lời dạy tâm linh hay thậm chí bẻ cong thông điệp. Tuy nhiên, ngay cả khi sứ giả không mang hậu ý thì nội dung của tâm thức người đó cũng sẽ ảnh hưởng đến lời dạy.

Chẳng hạn khi ta phát biểu qua trung gian ông Kim Michaels, ta phải dùng những từ cùng khái niệm có sẵn trong vốn từ vựng và tâm thức của ông. Ta sẽ rất khó lòng ban ra xuyên qua ông một bài giảng đầy ý nghĩa về một đề tài mà ông không hiểu biết gì. Nói cách khác, sứ giả càng hiểu rõ một đề tài thì lời dạy tâm linh được truyền đạt qua sứ giả sẽ càng sâu sắc và phong phú. Và sứ giả càng không có ý định cá nhân thì lời dạy sẽ càng thuần khiết.

Vị sứ giả đã truyền đạt Khóa học về Phép lạ không phải là một người quan tâm đến tâm linh. Hệ thống tin tưởng của bà dựa trên chủ nghĩa duy vật khoa học. Đây không nhất thiết là một bất lợi vì nó khiến cho khóa học hấp dẫn hơn đối với những người trong cùng tâm thái đó. Tuy nhiên vì sứ giả không có kiến thức vỏ ngoài, hay một tầm hiểu biết nội tâm sâu xa về các khái niệm tâm linh, cho nên bà bị giới hạn trong những gì có thể truyền đạt. Ta không hề nói điều này để chỉ trích vị sứ giả, bởi vì bà thực sự xứng đáng được khen ngợi do đã cống hiến khóa học này, đã sẵn sàng bỏ qua một bên lòng hoài nghi của mình để vẫn đưa ra tài liệu này. Ta chỉ đơn giản nói lên một sự thật hiển nhiên.

Mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng là đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Nếu sứ giả KHPL đã hoàn toàn đón nhận sự chuyển hóa tâm thức này, thì khóa học đã có thể sâu sắc và thuần khiết hơn. Cho nên điều quan trọng cho những ai học KHPL là nhận ra sự cần thiết phải vượt xa hơn KHPL – như nhiều người quả thực đã làm.

Điều ta muốn nói ở đây là một số ý tưởng trong KHPL không hoàn toàn chính xác hay đầy đủ. Có một số phần thiếu sót có thể gây bối rối nơi các học trò thiếu kinh nghiệm. Thêm vào đó, điều quan trọng là phải nhận ra rằng KHPL tự thân nó không hoàn chỉnh. Đây chỉ là thêm một trường hợp tiết lộ tuần tự, và các học trò KHPL có thể sẽ được lợi lạc nếu họ học hỏi từ những nguồn khác.

Lấy ví dụ một ý tưởng không mấy chính xác khi KHPL nói rằng thế giới vật chất không có thật, rằng nó không do Thượng đế tạo ra vì Thượng đế vượt khỏi thời gian lẫn không gian. Vì vậy theo KHPL, thế giới là sản phẩm của nhận thức, của tự ngã tin rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế. Mặc dù có một sự thật trong ý kiến bảo rằng thế giới bị chi phối bởi nhận thức con người, nhưng thật không chính xác khi nói rằng thế giới hoàn toàn do nhận thức của tự ngã tạo ra.

Hành tinh địa cầu đã được bảy sinh thể tâm linh tạo dựng, mà Kinh thánh gọi là các Elohim. Các Elohim đã tạo ra một hành tinh cân bằng hoàn hảo, và khuôn đúc cơ bản của các Elohim đã không hề suy xuyển trong bản chất. Tuy nhiên sau khi loài người rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn thì con người – qua trung gian quyền năng sáng tạo của tâm – đã tạo ra một lớp phủ bất toàn che lấp phần lớn khuôn đúc nguyên thủy của các Elohim.

Nói cho cùng, lớp phủ này không thực, vì nó không khế hợp với các định luật của Thượng đế cho nên nó không thể bền vững. Nhưng trong tạm thời, nó vẫn thực theo nghĩa là nó được tạo ra từ năng lượng tha hóa. Năng lượng này sẽ không tự dưng biến mất cho dù mọi người đột nhiên đạt được tâm thức Ki-tô. Các điều kiện bất toàn hiện thời đã được dựng lên qua thời gian bởi việc tha hóa năng lượng và vì vậy cũng sẽ cần thời gian lẫn nỗ lực để thay đổi độ rung của năng lượng và trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy.

Nói cách khác, mặc dù điều thiết yếu cho mọi người là thoát khỏi cảm nhận tách biệt khởi lên từ tự ngã, nhưng điều này sẽ không khiến cho thế giới vật lý biến mất, và tự thân nó sẽ không đưa địa cầu trở về trạng thái thuần khiết ban đầu. Thế giới vật lý đã được Thượng đế sinh tạo như phần nối dài của Bản thể ngài. Nó được trù hoạch để trở thành phần nối dài của Vương quốc Thượng đế, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi các cá thể của ngài – chẳng hạn như con người – trở nên hoàn toàn ý thức về vai trò dự trù của mình là đồng sáng tạo cùng với Thượng đế. Nói cách khác, mục đích của sự tăng triển tâm linh không phải để khiến thế gian biến mất mà là nâng cao thế gian – bằng cách nâng cao sự rung động – để nó trở thành một cơ ngơi xứng đáng trong căn nhà của Cha.

Về phần sau trong câu hỏi của con, mục đích thực sự của một lời dạy tâm linh là giúp con thiết lập mối liên lạc với vị thày nội tâm của con, cái Ta Ki-tô của con. Một khi con bắt được liên lạc, con nên cho phép cái Ta Ki-tô hướng dẫn con đến những giáo lý tâm linh khác sẽ giúp con tiến bước. Chừng nào con bước theo sự chỉ đạo nội tâm thì con sẽ tiến bộ tối đa. Chỉ khi nào con cho phép mình dính mắc với một giáo lý vỏ ngoài thì bước tiến của con sẽ chậm lại hay thậm chí dừng lại.

Con mô tả là đầu tiên con đã quan tâm đến KHPL xong con đã mất hứng thú. Câu hỏi cốt yếu ở đây là liệu sự quan tâm sơ khởi của con đến từ nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài, và sự mất hứng thú đó của con đến từ chỉ đạo nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài? Như ta vừa nói, con hãy luôn luôn cố gắng bước theo sự thôi thúc từ bên trong.

Cũng hãy cho phép ta nói rằng việc gán ghép một con số chắc nình nịch để lượng định độ thuần khiết hay độ xác thực của một lời dạy tâm linh là một chuyện rất khó khăn. Nó tùy thuộc phần lớn vào tiêu chuẩn mà con sử dụng để đánh giá lời dạy. Dẫu sao thì một học trò chưa kinh nghiệm sẽ lợi lạc hơn nếu học hỏi một giáo lý có độ thuần khiết và xác thực cao. Lý do là vì người đó chưa phát triển đủ khả năng phân biện để có thể phân biệt giữa một tư tưởng chân chính với một quan điểm đã bị bóp méo hay sai lạc. Cho nên giáo lý càng thuần khiết bao nhiêu thì nó sẽ càng hữu ích bấy nhiêu cho học trò.

Đến khi học trò đã chín chắn hơn và bắt đầu phát triển được khả năng hòa điệu nội tâm, vấn đề giáo lý thuần khiết cũng bớt quan trọng. Giờ đây học trò đã phát triển phần nào sự phân biện nội tâm, cho nên có khả năng học hỏi một lời dạy mà vẫn tách ra được những lời chân lý, rút tỉa ra các ý tưởng chân chính hữu dụng trong khi bỏ lại mọi ý kiến không xác thực.

Tà lực dùng tình dục ngoài hôn nhân như thế nào để đánh cắp năng lượng?

Hỏi: Thày và huynh yêu dấu, tình dục ngoài hôn nhân có hậu quả như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Như ta có giải thích ở một nơi khác, hôn nhân là một lời hứa thiêng liêng với sự chứng giám của Thượng đế và do đó cần được coi trọng. Khi con kết hôn, con hứa là mình sẽ chung thủy với người bạn đời của mình, và chỉ với người đó mà thôi – hay ít ra đó là ý nghĩa lời hứa mà con cần hứa. Nếu con có quan hệ tình dục bên ngoài hôn nhân thì rõ ràng con đang bội ước, và do đó con sẽ tạo ra nghiệp quả.

Như ta giải thích trong câu trả lời trước, hầu hết mọi người không hiểu rõ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả về những điều xảy ra ở mức năng lượng khi con có quan hệ tình dục. Suốt trang mạng này, ta đã giải thích rằng trong mọi việc mà con làm, con đều sử dụng năng lượng, cho nên mọi khía cạnh đời sống cần được hiểu như là một sự trao đổi năng lượng. Ai ai cũng biết là quan hệ tình dục có tiềm năng lây truyền bệnh tật như thế nào, thế nhưng tiềm năng trao truyền năng lượng còn lớn hơn như vậy nữa.  

Khi có quan hệ tình dục, trường năng lượng của cả hai người trở nên hòa quyện với nhau rất chặt chẽ. Ở điểm cực khoái, ánh sáng được phóng ra từ các trung tâm năng lượng trong năng trường của con, đặc biệt là từ trung tâm năng lượng thấp, thường được gọi là luân xa gốc. Con cảm thấy khoái lạc vì luân xa được thiết kế đề truyền năng lượng. Cảm giác thích thú thường khiến cho khả năng trực giác bị cùn nhụt đi, và nó ngăn cản con nhận thấy hai năng trường gắn chặt với nhau đang mở cửa ra để con nhận năng lượng từ người kia, thậm chí nhận cả năng lượng từ bên ngoài. Cảm giác thích thú có thể khiến con đui mù trước những nguy cơ tiềm tàng, hay nó khiến con không muốn thừa nhận những nguy cơ đó.    

Ai ai cũng biết là nếu con có quan hệ tình dục chỉ với một người duy nhất, con sẽ ít khả năng lây nhiễm bệnh tật hơn là khi con quan hệ với nhiều người, và điều tương tự cũng xảy ra đối với năng lượng. Nếu con có quan hệ với nhiều hơn một người, nguy cơ nhận năng lượng ô uế sẽ nhân lên. Đương nhiên khi hai người đều chung thủy với nhau, nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật sẽ tối thiểu, và năng lượng ô uế cũng thế. Trong một hôn nhân chung thủy, cả hai người đều có khả năng xây dựng một bức tường năng lượng bao bọc quanh mình, và điều này giúp cho hai vợ chồng có thể có quan hệ mà không tạo sơ hở cho các năng lượng ô nhiễm từ ngoài.    

Tuy nhiên nếu con không giữ được lời hứa của con, có nhiều xác suất con sẽ đem năng lượng ô uế vào hôn nhân, và điều này sẽ phá vỡ vòng đai bảo vệ hôn nhân. Năng lượng đó cũng có thể được truyền sang người phối ngẫu của con, và nếu người đó tin rằng con chung thủy, người đó sẽ không đề phòng và, trong tiềm thức, sẽ mở cửa ra để nhận lấy năng lượng đó. Đây là một sự xâm phạm quyền tự quyết của người phối ngẫu, và khi làm vậy, con sẽ tạo nghiệp. Thêm vào đó, trong tiềm thức, người bạn đời của con sẽ cảm thấy có điều gì không ổn, dẫn đến những hậu họa phức tạp khi lòng tin cậy là nền tảng của mọi quan hệ thành công bị phá vỡ.    

Cũng trong câu trả lời trước, ta có giải thích là hôn nhân có tiềm năng tạo ra sự kết hợp thiêng liêng giữa vợ chồng. Nhưng khi con phá vỡ lòng tin cậy qua một cuộc ngoại tình và cài đặt những năng lượng “ngoại lai”, con tiêu diệt tiềm năng này. Giản dị là con không thể có sự kết hợp cao nhất với hai đối tác cùng một lúc, cho nên rất có thể con sẽ không có kết hợp tối ưu với cả hai người.  

Con cũng nên khôn ngoan nhìn nhận là con đang sống trong một thế giới chất chứa năng lượng ô uế khắp chung quanh. Con hãy hình dung năng trường của con như một quả cầu ánh sáng bảo vệ con khỏi năng lượng ô uế đó. Nếu năng trường con có lỗ hổng, năng lượng chung quanh sẽ được dịp xối vào trong năng trường. Có nhiều loại sinh hoạt có khả năng mở năng trường con ra, đặc biệt là quan hệ tình dục. Điều phải hiển nhiên với con là khi hai năng trường được hòa quyện vào nhau trong hành động tình dục, nó có thể khiến cho con mở cửa ra để tiếp nhận năng lượng từ ngoài, với hệ quả nhiều hay ít tùy theo thái độ và cảm xúc của con khi con có quan hệ.

Khi con quan hệ ngoài hôn nhân, gần như bắt buộc con sẽ có những cảm xúc ô uế – có thể là trong tiềm thức mà con không nhận ra. Con dư biết là con đang vi phạm lời hứa hôn nhân của con, và điều này sẽ mở trường năng lượng của con ra cho năng lượng ô uế. Sẽ tồi tệ hơn nữa nếu con có quan hệ chỉ để thỏa mãn một thèm muốn thể xác, hay vì con đang bực dọc người phối ngẫu và đổ lỗi cho người đó không đáp ứng được nhu cầu của con. Sự thật đơn giản là ngoại tình luôn luôn khiến con trở thành con mồi cho năng lượng ô uế. Gần như ai ai cũng đều biết rõ – ở mức nội tâm – rằng việc bội ước lời hứa hôn nhân là sai trái, cho nên để có thể bội ước, con phải bịt miệng tiếng nói của cái ta Ki-tô của con, và hành động này sẽ vô hiệu hóa sự bảo vệ mà cái ta Ki-tô bình thường cung cấp cho con.       

Tất nhiên, nó sẽ khiến con dễ bị các thế lực bóng tối thao túng. Các tà lực này tìm cách đánh cắp năng lượng tích cực của con, và chúng sẽ cố gắng cài đặt năng lượng tiêu cực vào năng trường của con hầu khuynh loát con thêm nữa. Con cần biết sự thật đơn giản là hầu hết mọi người sẽ không bội ước hôn nhân của mình trừ khi bị tà lực thao túng.

Như ta đã giải thích trong bài giảng về các tầng cõi của vũ trụ, các tà lực hoạt động ráo riết nhất ở mức độ cảm thể con người. Tình cảm con người thường rất linh hoạt và do đó việc thao túng cảm thể là chuyện dễ dàng. Con thấy rõ, giữa cảm thể và thèm khát tình dục, có một sự nối kết rất sâu xa.

Ta có thể cam đoan với con là các tà lực trên hành tinh này sử dụng rất nhiều phương thức để kích động thèm muốn tình dục một cách giả tạo. Điều này được chúng ra tay thực hiện, một cách công khai và ngang nhiên, trong nhiều hình thức quảng cáo cũng như nhiều lãnh vực khác của đời sống. Mục đích của chúng là khuynh loát cho con người luôn luôn thèm khát và không bao giờ no đủ. Trước tiên, tà lực sẽ đưa vào trí thể con niềm tin rằng mình có quyền có quan hệ tình dục và những quan hệ này hoàn toàn không mang hậu quả tiêu cực nào hết. Một khi con tin vào điều này rồi thì thật quá dễ dàng để hướng năng lượng tình dục vào cảm thể của con và tạo ra một ham muốn tình dục vô độ không bao giờ thỏa mãn được.

Ta cũng có giải thích khắp trang mạng này là hầu hết mọi người trên địa cầu đều đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và ở mức đó, mọi thứ đều có vẻ tương đối. Điều này phát sinh ra một loạt những ham muốn nhị nguyên mà bản chất khác hẳn với những mong muốn đích thực của dòng sống. Nói cách khác, dòng sống có thể có mong muốn chính đáng được trải nghiệm sinh hoạt của thế gian, kể cả tình dục. Tuy nhiên, các mong muốn của dòng sống luôn luôn có hạn và do đó có thể được thỏa mãn trọn vẹn, có nghĩa là việc kết hôn và quan hệ tình dục với người phối ngẫu có khả năng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tình dục của dòng sống.  

Nhưng rõ ràng đây không phải là điều mà các tà lực muốn chứng kiến. Chúng không muốn con được thỏa mãn trong hôn nhân vì như vậy chúng sẽ không thể thao túng con. Cho nên chúng sẽ khơi dậy trong cảm thể con những thèm khát nhị nguyên vô độ không thể thỏa mãn. Những thèm khát này, trong nghĩa đen, là những cái hố không đáy, không thể nào đổ đầy. Con có thể hình dung thèm khát nhị nguyên giống như một cơn bão xoáy trong cảm thể đang cuốn hút tất cả vào với nó. Dù cho con có đổ bao nhiêu năng lượng vào bão xoáy, con cũng không bao giờ lấp đầy nó được. Nói cách khác, một khi con cho phép sự thèm khát tình dục tích tụ và bành trướng trong năng trường của con, con sẽ không bao giờ có được cảm giác con đã thỏa mãn. Dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa, con vẫn sẽ luôn luôn cảm thấy mình cần nhiều hơn. Nhiều người đã bỏ ra cả đời và sinh lực của mình để chạy đuổi theo trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh.

Tất nhiên, đây chính là điều mà tà lực mong muốn vì bây giờ chúng có thể thao túng con và bòn rút năng lượng của con. Điều ta muốn nói là con bị các tà lực liên tục dội bom với đủ loại kích thích tố nhằm tạo ra cơn bão xoáy tình dục trong cảm thể của con. Con hẳn cũng biết câu nói quen thuộc rằng “tình dục bán hàng rất chạy”, và thật vậy, tình dục được ngành quảng cáo sử dụng một cách thiện nghệ và vô lương tâm để bán sản phẩm đủ mọi loại. Nhưng đằng sau hoạt động kinh doanh là thực tế phức tạp của những tà lực sử dụng sự thèm khát tình dục vô độ để thao túng loài người.

Chính sự thèm khát tình dục vô độ này, một sự thèm khát giả tạo được dựng lên qua sự khuynh loát, khiến cho nhiều người cảm thấy nhu cầu tình dục của mình không được người bạn đời của mình thỏa mãn. Và điều này phát sinh ra ham muốn ngoại tình. Và như ta đã cố giải thích, nếu con nhượng bộ ham muốn này, con sẽ mở cửa ra cho tà lực vào thao túng con, và chúng sẽ không ngừng vắt kiệt năng lượng của con cho tới khi con không còn một giọt, hoặc cho tới khi con quyết định là con đã chán ngấy.     

Đâu là cách hay nhất để con tự bảo vệ khỏi hình thức bóc lột này? Đó là quyết định kiên quyết rằng khi con kết hôn với người bạn đời của con, con đã có một lời hứa thiêng liêng là mình sẽ chung thủy với người đó. Nếu quyết định của con kiên quyết, các tà lực sẽ khó lòng tìm được một lối vào trong tâm thức của con. Quyết định này sẽ thiết lập một vòng đai bảo vệ tâm linh chung quanh hôn nhân của con khiến cho tà lực rất khó lòng thao túng con lẫn người phối ngẫu của con. Và tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ gia tăng xác suất cuộc hôn nhân của con sẽ hạnh phúc.

Ta không nói rằng tự thân quyết định chung thủy sẽ đủ để bảo vệ hoàn toàn cho con khỏi tà lực, nhưng đó là một bước vô cùng quan trọng để con thiết lập sự bảo vệ này. Thêm vào đó, con nên sử dụng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh, như được đăng tải trong phần dụng cụ tâm linh của trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng có thể được dùng để bảo vệ hôn nhân của con. Trong thế giới ngày nay, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con xem như mọi khía cạnh đời sống của con đều đang bị các tà lực tấn công, trong đó có hôn nhân của con. Do đó điều thận trọng là con nên kêu gọi sự bảo vệ cho con, người bạn đời của con cùng sự kết hợp thiêng liêng là hôn nhân của con.  

Tất nhiên, dù con có kêu gọi bất kỳ sự bảo vệ tâm linh nào, thì việc ngoại tình sẽ phá vỡ ngay lớp bảo vệ đó. Do đó, ta hết sức khuyến khích con hãy chung thủy với lời hứa của mình. Sẽ thật là đáng tiếc nếu con phá vỡ cuộc hôn nhân chỉ vì một ham muốn tình dục nhị nguyên. Con hãy bảo vệ quyền có mối quan hệ thiêng liêng với người bạn đời của con mà không bị tấn công bởi các thế lực cám dỗ bên ngoài. Con hãy sử dụng các dụng cụ tâm linh để không cho phép các ham muốn tình dục sai khiến đời mình, như ta chỉ dẫn ở đây.  

Tại sao người xấu có tiền và người tốt thì không?

Hỏi: Con thấy trên thế giới đang có sự thể này xảy ra. Tại sao những người bước đi theo Giê-su Ki-tô bằng cả trái tim, tâm trí lẫn tâm hồn và đang sống một cuộc đời trong sạch đạo đức, lại rất khó khăn chu toàn một nếp sống thịnh vượng về mặt vật chất? Trong khi đó, những kẻ đi ngược lại đạo đức và sống một cuộc đời không đẹp lòng Thượng đế lại giàu có? Sự thể này tạo ra sự xung đột giữa các dòng sống về các quy luật của Thượng đế. Con có biết tới luật nghiệp quả và sự thật về đầu thai và tiền kiếp. Còn có lý do nào khác để giải thích tại sao sự thể này lại xảy ra?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta hoàn toàn hiểu được tại sao những tình trạng mà con mô tả khiến cho nhiều người bị bối rối, thậm chí bực dọc. Tuy nhiên, lý do khiến cho bao nhiêu người bị bối rối là vì các tôn giáo chính trhống trên thế giới đã không trình bày các quy luật của Thượng đế một cách trọn vẹn. Do đó nhiều người đã lớn lên với một sự hiểu biết thiếu sót về quy luật của Thượng đế.

Đúng như con mô tả, một phần lớn những tình cảnh đó là do các hành vi của mỗi người gây ra trong tiền kiếp. Con cũng nói đúng khi con cho rằng đó không phải là lời giải thích đầy đủ.

Quy luật tối thượng của vũ trụ này là Luật Tự Quyết. Thượng đế đã ban cho mọi con người quyền tự quyết, và cả Thượng đế lẫn các chân sư thăng thiên sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết. Điều mà hầu hết mọi người không hiểu là có nhiều người trên điạ cầu, cũng như nhiều tà lực ở các tầng thấp của vũ trụ do Thượng đế sinh tạo, không hề có mảy may ân hận nào khi họ xâm phạm quyền tự quyết của con người. Những thế lực đó thường sử dụng những người đang đầu thai, cụ thể là những ai sẵn sàng “bán linh hồn” của mình hầu đoạt được mối lợi tạm thời trong thế gian.  

Trong một thời gian rất dài, thế liên minh vô đạo này giữa những con người đang đầu thai và những tà lực không xác đã tạo ra một tình thế trên địa cầu khác rất xa với viễn quan và ý định ban đầu của Thượng đế. Con phải hiểu rằng mỗi con người luôn không ngừng sáng tạo. Con sáng tạo qua quyền năng của sự chú tâm. Có một dòng năng lượng tâm linh tuôn xuống từ Hiện diện TA LÀ vào tâm thức phàm nhân của con. Con hướng năng lượng tâm linh này qua quyền năng sự chú tâm của con. Và như thế, con tạo ra những hình ảnh và hình tướng mà chú tâm của con sẽ ngụ lại trong đó. Nói cách khác, Thượng đế đã không tạo ra sự bất công hiện thời trên địa cầu mà con người đã tạo ra các điều kiện đó.

Từ hàng ngàn năm nay, những thế lực không nể nang gì tới các quy luật của Thượng đế đã thao túng để khiến con người chú tâm vào những hình ảnh và hình tướng bất toàn. Một khía cạnh của sự thể này là quần chúng nói chung đã bị thao túng để mà chấp nhận ý tưởng là một nhóm thượng lưu ít ỏi có quyền tích lũy một số của cải và quyền lực to lớn quá độ. Và một khía cạnh khác là nền kinh tế đã bị thao túng tới độ con khó lòng nào phát đạt được nếu con lương thiện, đạo đức. Nhiều người thường cảm thấy bị bắt buộc phải vi phạm các quy luật tâm linh nếu muốn tiến thân trong cuộc sống.  

Do đó, con hiện có một tình trạng trên trái đất là con người đã tạo ra một thực tế nơi một số quy luật của Thượng đế đã bị tạm thời đình chỉ. Nhưng không ai có thể nhạo báng Thượng đế, vì Thượng đế biết rõ là mọi năng lượng được sử dụng trên trái đất cuối cùng sẽ biến hoá trở lại trạng thái thuần khiết của nó. Tuy nhiên trong khi chờ đợi, một số người và một số thế lực đã thành công tạo ra một thế giới nơi các quy luật và công lý của Thượng đế không được biểu hiện một cách trọn vẹn.

Qua sự thao túng này, các tà lực đã tránh được một số hậu quả của hành vi của chúng, vì chúng đã thao túng để quần chúng nói chung phải nhận chịu một số những hậu quả này, một số những nghiệp quả này. Chẳng hạn, điạ cầu đang chứng kiến của cải và quyền lực bị tập trung trong tay một số rất ít người. Sự tập trung của cải và quyền lực như thế không phù hợp với quy luật hay ý định của Thượng đế. Thế nhưng nếu một phần lớn nhân loại cứ lựa chọn là mình sẽ chấp nhận tình trạng hiện nay thay vì hành động để thay đổi hiện trạng, Thượng đế sẽ không thể nào can thiệp vào các chọn lựa tự quyết của con người. Một bất công rõ ràng khác là một số quốc gia đã tập trung của cải và quyền lực khổng lồ trong khi nhiều quốc gia khác lại có người phải chết đói hay sống cảnh nghèo khổ cùng cực. Đương nhiên, điều này không phù hợp với viễn quan và công lý của Thượng đế.

Cách duy nhất để thay đổi tình trạng này và đưa trái đất trở về trong khuôn khổ quy luật và công lý của Thượng đế là có đủ số người trong nhân loại nâng cao tâm thức của mình bằng cách bước trên đường quả vị Ki-tô cá nhân. Đây là điều mà ta mong muốn chứng kiến trong những thập niên sắp tới và cũng là lý do ta đã cho thiết lập trang web của ta và phát hành quyển sách về quả vị Ki-tô cá nhân.  

Nếu có đủ túc số những người này – và chúng ta nói đến hàng triệu người – nỗ lực chân thành để thể hiện quả vị Ki-tô cá nhân cao độ, họ sẽ trở thành, trong nghĩa đen, những cánh cửa mở mà qua đó Thượng đế sẽ có thể “phế bỏ những kẻ có quyền khỏi ngôi của họ và nâng cao những kẻ ở dưới”. Hành động này sẽ tái lập công bằng của Thượng đế.

Còn một nguyên nhân nữa đã dẫn đến tình trạng mà con mô tả. Nó liên quan đến lời dạy của ta rằng con có thể nhận phần thưởng trên thiên đàng hoặc là con nhận phần thưởng dưới thế gian. Matthew 6:1 có viết: “Hãy lưu ý rằng các con không bố thí trước mặt người ta để cho người ta thấy mình, bởi vì nếu không, con sẽ không nhận được phần thưởng từ Cha con ở trên trời”.

Một số người đã rơi vào trạng thái tâm thức duy vật và họ không hiểu gì về Nước Trời. Họ đã tập trung tất cả chú ý của họ vào việc giành lấy những thú vui của thế gian. Trải qua bao nhiêu kiếp sống, các dòng sống đó đã phát triển các kỹ năng thu thập của cải vật chất hay quyền lực và vì thế, họ có vẻ thành công phát đạt trong thế gian.  

Ngược lại, những ai đã đạt đến trạng thái tâm thức tâm linh thì chủ yếu không quan tâm đến việc hưởng thụ vui thú thế gian. Vì thế những dòng sống này đã không thu hoạch được kỹ năng cần thiết và họ thường không thành tựu trong thế giới kinh doanh hay tung hoành nơi các hành lang của quyền lực. Thế nhưng, như câu thành ngữ quen thuộc vẫn nói, con không thể đem nó theo sang thế giới bên kia. Dù con có thu thập bao nhiêu của cải hay quyền lực, con cũng sẽ không thể mang nó theo con khi con rời cõi đời này. Trái lại, con mang theo được những thành tựu tâm linh mà con đã lãnh hội.

Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho con người. Nếu một dòng sống chọn cách sử dụng năng lượng và chú tâm của mình để trở nên giàu có và quyền lực, nó sẽ bỏ ra tất cả sức lực của nó để cố đoạt được những thứ đó. Và như vậy, các thú vui đó là sẽ là phần thưởng duy nhất của nó. Nếu nó sử dụng toàn bộ năng lực của nó để đeo đuổi của cải vật chất, nó sẽ không thể tích lũy kho báu trên thiên đàng và nó sẽ không nhận được phần thưởng nào trong cõi tâm linh.

Ngược lại, nếu dòng sống tập trung chủ tâm của mình vào đời sống tâm linh, chắc chắn nó sẽ tích tụ kho báu trên thiên đàng. Vì thế phần thưởng của nó sẽ ở trên cõi thiên đàng. Nó sẽ ở một vị trí tốt đẹp trong vương quốc của Cha ta hơn là những kẻ không có của cải gì trên thiên đàng.

Con nghĩ tại sao ta lại nói rằng kẻ giàu có sẽ khó vào Nước Trời hơn là con lạc đà chui qua lỗ kim? Là vì những kẻ bám mắc vào vật chất của thế gian sẽ không có khả năng sử dụng quyền tự quyết của mình để chọn con đường tâm linh dẫn đến tâm thức Ki-tô. Và đương nhiên, những kẻ như thế sẽ kẹt lại trong thế gian suốt nhiều kiếp sống.

Chắc con còn nhớ câu ta nói rằng kẻ đứng đầu sẽ là kẻ sau chót và kẻ sau chót sẽ là kẻ đứng đầu? Trong cõi tâm linh, những ai đứng đầu trong thế gian vật chất sẽ đứng chót, và những ai đứng chót trong thế gian vật chất – tức là những người tâm linh – sẽ là kẻ đứng đầu trong cõi thiên đàng.

Tất cả đều quay trở lại câu này: “Ngay hôm nay, con hãy chọn con sẽ phục vụ cho ai”. Con không thể phục vụ hai người chủ. Con không thể cùng một lúc phụng sự Thượng đế (phát triển tâm linh) và thế gian (các thú vui trần thế). Mỗi dòng sống sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng của mình. Vấn đề duy nhất là con muốn loại phần thưởng nào, con muốn phần thưởng trên địa cầu hay trên thiên đàng. Nếu con muốn phần thưởng cao nhất thì con hãy cất bước ngay trên con đường quả vị Ki-tô và theo chân ta.  

Ăn thịt có sai quấy không?

Hỏi: Ăn thịt có sai quấy không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/20212.

Như ta có giải thích ở nơi khác, sẽ có một ngày khi tâm thức tập thể của nhân loại tăng triển tới một mức độ chỉ còn một số ít người dùng thịt mà thôi. Tuy nhiên, điều kiện này còn lâu nữa mới đạt được. Do đó ngay bây giờ, điều không thể tránh khỏi và cũng là điều cần thiết, là một phần lớn của nhân loại tiếp tục dùng thịt. Vậy nếu nhìn lý tưởng thì phải nói ăn thịt là điều sai trái. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện tại, việc ăn chay không thích hợp cho mọi người.   

Chế độ ăn uống là một vấn đề rất cá nhân. Đối với một số người, ăn chay là đúng đắn, nhưng đối với những người khác, việc ăn chay có thể là một chế độ ăn uống quá khắt khe cho mức phát triển tâm linh hiện thời của họ. Đối với một số người đã tiến cao về tâm linh, điều này có thể phản tác dụng và ngăn cản họ hoàn thành một cách hữu hiệu những công việc mà họ đã đến đây để thực hiện.   

Muhammad, một tiên tri đích thực bị một văn hóa hiếu chiến ảnh hưởng

Hỏi: Con đã đọc rất nhiều về đạo Hồi và con muốn biết Muhammad có phải là một vị tiên tri đích thực do Đấng Cao nhất gửi xuống?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta đã có nhận xét về đề tài này ở một nơi khác. Câu trả lời ngắn gọn là Muhammad là một vị tiên tri đích thực nhận được giáo lý từ Đại thiên thần Gabriel. Tuy nhiên ngay từ đầu, giáo lý tâm linh của đạo Hồi đã bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa hiếu chiến. Yếu tố này đã biến đạo Hồi thành một tôn giáo hiếu chiến, và đó không bao giờ là ý định của các chân sư thăng thiên.

Hãy để ta bàn thêm một chút về cụm từ “tiên tri đích thực”. Nhiều người có khuynh hướng thần tượng hóa khi họ nhìn các vị lãnh đạo tâm linh, kể cả chính ta. Họ cho rằng nếu có ai là một vị lãnh đạo tâm linh chân chính thì hẳn vị đó phải là một người đặc biệt. Vị đó khác hẳn mọi người khác đến độ không ai có thể sánh bằng, không ai có thể làm được những gì vị đó đã làm. 

Theo ta, định nghĩa của một tiên tri đích thực là một người có khả năng nâng cao tâm thức của mình vượt lên trên tâm thức thấp hơn là tâm nhị nguyên. Bằng cách tiếp xúc với cái ta Ki-tô, người đó có thể phụng sự như một công cụ để đem lại giáo lý tâm linh trực tiếp từ các chân sư thăng thiên.

Như ta có giải thích ở nơi khác, chúng tôi, các chân sư, sẽ không chiếm đoạt tâm trí của một ai. Do đó, khi chúng tôi phát biểu qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai, điều không thể tránh khỏi là thông điệp của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức người đó. Sự thể này không nhất thiết có gì sai trái, nhưng thông điệp hẳn là sẽ bị tác động. 

Ít nhất, thông điệp sẽ phải diễn đạt qua những ngôn từ, khái niệm và hình ảnh quen thuộc với người tiên tri. Điều này có thể thấy rõ trong số các vị tiên tri của Kinh Cựu ước. Riêng ta cũng vậy, con có thể dễ dàng nhận thấy ta giảng dạy bằng những lời nói và hình ảnh quen thuộc với người dân sống trong một nền văn hóa và một thời điểm đặc thù. Điểm chính yếu mà ta muốn con hiểu là ngay cả khi một người là một nhà tiên tri đích thực, con không bao giờ nên nghĩ rằng thông điệp được gửi qua vị đó là chân lý duy nhất về Thượng đế, hoặc là cách duy nhất để biểu đạt một lời dạy tâm linh.   

Suốt các thời đại, một số chân sư thăng thiên đã cộng tác với nhiều người đang hiện thân để truyền rải giáo lý tâm linh. Những giáo lý này luôn luôn được điều chỉnh để phù hợp với tâm thức của người nhận giáo lý. Điểm quan trọng là chúng tôi, các chân sư, đã không bao giờ tìm cách đưa ra một “tôn giáo đích thực duy nhất”.

Ý niệm có một tôn giáo đích thực duy nhất là một sự áp đặt của tâm thức phàm phu, của tâm thấp kém. Ý niệm này không phát xuất từ cõi tâm linh mà nó phát xuất từ con người cũng như từ những sinh thể phi vật chất đang mưu chống lại ý muốn của Thượng đế. Do đó, bất cứ khi nào có một tôn giáo nào tự xưng mình là tôn giáo đích thực duy nhất, thì lời tuyên bố đó không phát xuất từ các chân sư thăng thiên.

Ta biết rằng hàng triệu người, từ nhiều tôn giáo khác nhau, sẽ phản đối câu nói vừa rồi của ta. Nhưng không có luận lý nào của con người có thể thay đổi được thực tại của Thượng đế. Thượng đế không thể bị nhạo báng và ngài không vị nể một ai.

Bây giờ ta xin bàn về câu con hỏi là Muhammad có do “Đấng Cao nhất” gửi xuống không. Vì sùng bái thần tượng cho nên con người có khuynh hướng cho rằng một tiên tri đích thực phải nói lời nói trực tiếp của Thượng đế, và toàn bộ cuộc đời của vị tiên tri đã được định trước bởi một quyền lực cao hơn.  

Trong thực tế, Muhammad là một người đàn ông, và tương tự như bất kỳ tiên tri nào khác (kể cả chính ta), ông đã phải nâng cao tâm thức mình hầu phụng sự như một tiên tri. Để nâng cao tâm thức, ông phải trải qua một tiến trình tăng trưởng tâm linh. Ta không nói rằng bất cứ ai cũng đã có thể làm được như Muhammad, tuy nhiên không có gì bảo đảm là ông sẽ thành công đi muốt được tiến trình trở thành tiên tri. Ông đã phải có những quyết định để nâng cao tâm thức, và trong tiến trình này ông phải sẵn sàng bỏ lại một số tin tưởng cố hữu. Đây là một tiến trình hoàn toàn tùy thuộc vào quyền tự quyết của ông.

Mặc dù Muhammad quả là đã nâng cao tâm thức nhưng ông đã không hoàn toàn từ bỏ được một số yếu tố văn hóa, và điều này đã tác động đến các giáo lý được truyền dạy qua ông. Ảnh hưởng này đã phần nào dẫn đến sự kiện đạo Hồi trở thành một tôn giáo hiếu chiến. Tuy nhiên, phần lớn những điều được thêm vào sau này không phải là trách nhiệm của ông. Tương tự như vậy, người ta cũng đã thêm vào nhiều thứ trong đạo Cơ đốc mà ta không yêu cầu cũng như không muốn chịu trách nhiệm.     

Một cái nhìn xây dựng hơn về sự tức giận

Hỏi: Con đã đi trị liệu để chữa lành một số sự việc đau buồn mà con đã trải qua khi còn nhỏ. Con đi khám một bác sĩ trị liệu gestalt rất giỏi. Cũng như con, bác sĩ này đồng ý với rất nhiều giáo lý trên trang mạng này. Gần đây, con đã nhận được một số thông điệp lẫn lộn từ vũ trụ. Rất nhiều những kỹ thuật hiện đại được dùng để chữa trị tâm lý khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và cảm nhận sự giận dữ đã bị kìm nén trong nhiều năm. Con nghe nói, đôi khi sự tức giận là điều lành mạnh, đó là một phần của cuộc sống làm người. Cũng có sự cần thiết cho những người đã làm mình tổn thương biết rằng mình tức giận về hành vi của họ một cách lành mạnh. Nhận thức hiện tại của con hoàn toàn phù hợp với điều đó. Tực giận thực sự là gì? Nếu tức giận không lành mạnh thì tại sao cảm xúc này lại “dính chặt” vào bản thể mình? Nói cách khác, tại sao chúng ta là con người lại có tức giận nếu đó là một cảm xúc không lành mạnh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy cho ta bắt đầu với lời khen ngợi con đã đi trị liệu. Như ta đã nói trước đây, nếu những hình thức trị liệu hiện đại đã có 2000 năm trước đây thì ta đã bảo tất cả các môn đệ của ta gia nhập một hình thức trị liệu nào đó rồi. Những chướng ngại và vết thương trong tâm lý là một trong những cản trở chính yếu trong việc phát triển tâm linh, cho nên nếu mình đã có sẵn các phương tiện để chữa lành những vết thương đó thì tại sao lại không dùng? Không dùng cũng giống như từ chối uống thuốc penicillin để chữa bệnh viêm phổi vậy. 

Ta hiểu sự bối rối của con về sự tức giận, vì vậy hãy để ta chia sẻ một số suy nghĩ về đề tài này với con. Trước hết, các kỹ thuật trị liệu hiện đại khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và tiếp xúc với nỗi tức giận bị kềm nén, đó là một điều đúng đắn. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần nhớ rằng tất nhiên mục đích để làm như vậy không phải là để khiến cho người đó trút giận lên người khác. Nói cách khác, mục đích của các hình thức trị liệu này không phải để khiến con nổi cơn thịnh nộ và hành hung bất cứ ai con gặp, mà để giúp con chạm được những cảm xúc bị đè nén bên trong hầu con nhận diện chúng và từ đó giải quyết chúng một cách xây dựng. Có một sự khác biệt hiển nhiên giữa việc trút giận lên đầu người khác và việc cho họ biết là mình tức giận hành vi của họ.

Cảm giác, hay cảm xúc, có thể được mô tả như là năng lượng đang chuyển động. Nếu con học tập bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy ta nói về cảm thể. Cảm thể có chức năng lấy xuống những ý tưởng được hình thành trong trí thể và khiến chúng chuyển động hầu chúng có thể thị hiện trong cõi vật chất. Do đó, chức năng của cảm xúc là tuôn chảy, và nếu con cố kềm nén cảm xúc lại, con sẽ làm nghẽn dòng chảy tự nhiên của năng lượng qua tâm thức con. Điều này sẽ chắc chắn tạo ra một số vấn đề tâm lý khác nhau, và người bệnh sẽ hưởng lợi rất nhiều nếu sử dụng kỹ thuật trị liệu để bước vào bên trong và giải hóa những điểm tắc nghẽn hầu năng lượng cảm xúc tuôn chảy lại tự nhiên. 

Vấn đề với cảm xúc là chúng chỉ đơn giản tạo ra sự chuyển động cho bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Nói cách khác, cảm thể không phân biệt, nó không phân biện là điều đó có tốt hay xấu, đúng hay sai, xây dựng hay hủy hoại bản thân. Cảm xúc chỉ đơn giản tác động bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Đó là tại sao con cần phải có một sự kiểm soát nào đó, bằng cái tâm ý thức, trên cảm xúc của con.

Trong một số tình huống, sự biểu lộ tức giận có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, và do đó việc kềm chế tức giận trong trường hợp này là giải pháp ít tệ hơn. Vấn đề xuất hiện khi người ta liên tục kềm chế tức giận thay vì tìm cách giải quyết nguyên nhân của tức giận trong trí thể, và có thể cả trong bản sắc thể là thể ether nơi neo giữ bản sắc của con.

Sự thật đơn giản là cho dù tức giận là một cảm xúc nhưng tức giận không phát xuất từ cảm thể. Nó phát xuất dưới hình thức những ý tưởng trong trí thể, đặc biệt là những ý tưởng khiến con nghĩ rằng cuộc sống phải như thế này hay như thế khác, và nếu tình huống bên ngoài không đúng như mong đợi thì nhất định phải có điều gì đó không ổn. Những ý tưởng này có thể khiến con nghĩ rằng nếu thế gian không đối xử với con theo cách mà con nghĩ con phải được đối xử, thì một sự bất công đã xảy ra và có ai đó phải là người đáng trách. Rồi điều này tạo ra ý tưởng là có người nọ là người đáng trách, và cảm xúc tức giận được xối ra khiến con muốn trừng phạt hay tìm cách trả đũa người đó.    

Vấn đề là hầu hết mọi người không hiểu cảm xúc xuất phát từ ý tưởng như thế nào. Họ chưa học cách tiếp cận với trí thể và khám phá tiến trình hình thành ý tưởng. Họ chưa nỗ lực xem xét những tin tưởng và thái độ nền tảng của họ đối với đời sống và nhìn xem những thái độ này khởi sinh ra ý tưởng cụ thể như thê nào, là những ý tưởng sẽ gây ra một số cảm xúc nhất định, ví dụ như tức giận. Nói cách khác, hầu hết mọi người đều không hiểu rõ những gì xảy ra ở mức tiềm thức trong tâm mình, mà cả cảm thể lẫn trí thể thì đều nằm bên dưới mức nhận biết ý thức của đa số con người. Cho nên điều xảy ra cho hầu hết mọi người là khi họ trải nghiệm một tình huống đi ngược lại sự chờ đợi của mình, họ sẽ không thấy được những ý tưởng đã kích hoạt cảm xúc. Họ chỉ đơn giàn trải nghiệm cảm thể của họ nổi lên đùng đùng và họ cảm thấy tức giận.  

Nhưng ngay lúc đó, cơn giận đã được sản sinh, ngọn lửa đã bùng lên và con chỉ còn cách cố gắng dập tắt ngọn lửa. Tâm ý thức của con nay sẽ phải chọn lựa nó sẽ làm gì với cơn tức giận. Một số người không đủ tự chủ để tránh khỏi bộc lộ cơn tức giận qua hành vi, vì vậy họ sẽ phản ứng đủ mọi cách. Hành vi của họ sẽ gây ra phản ứng tiêu cực từ người khác, phản hồi lại trên họ. Điều này có thể tạo ra một vòng xoáy tiêu cực ngày càng tạo thêm tức giận. Khi năng lượng động cảm không ngừng chồng chất, một xoắn ốc năng lượng hình thành trong trường năng lượng của con, trong cảm thể của con. Rốt cuộc, xoắn ốc này có thể mãnh liệt đến nỗi nó sẽ áp đảo mọi nỗ lực của con nhằm kiểm soát nó, và đó là khi con hoàn toàn mất tự chủ. Đây là nguyên nhân khiến cho một số người mắc phải bệnh tức giận kinh niên mà họ không làm sao kềm giữ.    

Một số người khác, thường noi theo lời dạy và thái độ của tôn giáo mình, tin rằng việc có cảm xúc hay biểu lộ cảm xúc tức giận luôn luôn là điều sai trái. Do đó họ vận dụng tất cả sức mạnh ý chí của họ để cố kìm nén tức giận. Một số sẽ làm điều này thành công trong một thời gian, nhưng một lần nữa, một xoắn ốc năng lượng lại bắt đầu hình thành trong tâm tiềm thức và cuối cùng nó sẽ trở nên mãnh liệt đến độ chính ý chí có ý thức của họ cũng không thể cầm giữ được. Một số người có khả năng tự chủ mạnh mẽ đến mức họ có thể kềm nén sự tức giận suốt một đời người, thế nhưng làm như vậy sẽ tác động lên tinh thần và cơ thể họ bằng nhiều cách. Rất nhiều bệnh tật chỉ đơn giản là hiệu ứng vật lý của những cảm xúc bị đè nén, kể cả tức giận. Điều ta muốn nói là cách đối phó của nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, cụ thể là kềm chế mọi sự tức giận, không phải là cách lành mạnh nhất. 

Có hai điều con có thể làm để có được một cách tiếp cận xây dựng đối với sự tức giận. Điều đầu tiên là sử dụng một số kỹ thuật trị liệu hiện đại để phơi bày nỗi tức giận bị kềm nén và giải tỏa những cảm xúc này vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là con biểu lộ tức giận cách nào để không gây ra vòng xoáy tiêu cực giữa con và người khác. Nói cách khác, trút giận lên người khác thật là không lành mạnh, trong khi điều lành mạnh là bày tỏ niềm tức giận trong một khung cảnh được quản lý. Một số kỹ thuật chữa bệnh hiện đại, kể cả trị liệu gestalt, có thể giúp con chạm được nỗi tức giận của mình và bày tỏ ra trong một cách khả dĩ tái lập lại dòng chảy năng lượng xuyên qua cảm thể của con.    

Vấn đề với những kỹ thuật trị liệu đó là mặc dù việc biểu lộ tức giận có thể giúp con tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn, nỗi tức giận vẫn phóng ra một khối năng lượng tha hóa. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, có một dòng năng lượng xối chảy liên tục từ cái ta tâm linh của con xuống các tầng cấp của tâm con. Khi con bước vào những ý tưởng và cảm xúc tiêu cực, con làm cho năng lượng bị tha hóa và năng lượng này sẽ ở lại trạng thái tha hóa này cho tới khi con làm gì đó để khiến nó thanh khiết trở lại.    

Chính năng lượng tha hóa này tích tụ trong trường năng lượng của con tạo ra cái xoắn ốc tiêu cực khiến cho dòng chảy năng lượng bị tắc nghẽn. Vì vậy khi việc điều trị giải toả được chỗ nghẽn này thì đó là một điều rất tốt, tuy nhiên việc biểu lộ tức giận không hề biến hóa năng lượng tiêu cực. Do đó, điều sẽ vô cùng ích lợi cho con, cho nhân loại nói chung và cả cho toàn thể hành tinh, nếu các nhà trị liệu hiện đại hiểu biết hơn về nhu cầu phải biến hóa năng lượng tiêu cực. Đây chính là lý do tại sao các chân sư thăng thiên đã ban ra một số kỹ thuật tâm linh để biến hóa năng lượng, kể cả Ngọn lửa Tím và những bài cầu nguyện tràng hạt mà con có thể tìm thấy trong trang dụng cụ tâm linh. Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo mọi người nên phối hợp việc trị liệu với các kỹ thuật nhằm biến hóa năng lượng. Làm vậy sẽ đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành bệnh và đem lại kết quả tốt đẹp hơn.    

Bây giờ ta sẽ nói đến bước thứ nhì của tiến trình chữa lành bệnh. Như ta đã trình bày, cảm xúc của con phát xuất từ ý tưởng. Nếu con thực sự muốn chữa lành tâm lý mình, thật là không đủ nếu con chỉ chạm được nỗi tức giận, biểu lộ tức giận và biến hóa năng lượng tiêu cực do tức giận sản sinh ra. Sau khi con đã đi qua tiến trình giải quyết nỗi tức giận và tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn xuyên qua cảm thể, con cần bước lên tầng mức kế tiếp, đó là đi vào trí thể và phát hiện những ý tưởng và thái độ đã dẫn tới tức giận. Xong con cần nhận ra là những ý tưởng đó khởi lên từ một số quyết định mà con đã từng có về cách con nhìn bản thân mình, về cách con nhìn Thượng đế và cách con nhìn quan hệ của con với Thượng đế. Khi con phơi bày những ý tưởng này, con mới có thể khởi sự thay thế các quyết định đã gây ra giới hạn và dẫn tới tức giận bằng những quyết định tốt hơn.  

Những điều ta đang nói ở đây là một tiến trình để làm chủ moi bộ phận của bản thân con, kể cả trí thể và ý thức bản sắc của con. Tiến trình này thực sự là con đường đưa đến quả vị Ki-tô cá nhân, và khi con bước đi trên con đường này, con sẽ lần hồi thay thế mọi thái độ và tin tưởng gây giới hạn bằng những tin tưởng cao hơn. Ở cuối tiến trình đó, con sẽ hoàn toàn điều ngự được bản thân, hầu con có thể đáp ứng bất cứ điều gì xảy ra trong thế gian mà không phản ứng theo cách sai khiến của những bế tắc trong cảm thể, những quyết định gây giới hạn trong trí thể hay ngay cả cái ý thức bản sắc hạn hẹp trong thể ether. Khi đó, con sẽ thực sự sống đúng với câu nói rằng ông hoàng của thế gian cứ việc tới nhưng y sẽ không cầm được bất cứ gì nơi con hầu thao túng hay kiểm soát được con.    

Khi con đạt được sự tự do nội tại này, con sẽ không bao giờ cảm thấy tức giận phàm phu mà hầu hết mọi người đều trải qua. Đó là một hình thức tức giận luôn luôn xuất phát từ một cảm nhận bất công hay một cảm nhận trách móc. Phải có ai đó đã làm điều gì sai trái và họ xứng đáng bị trách cứ về hành vi của họ, và con sẽ cho họ biết điều đó một cách không chối cãi. Hình thức tức giận này luôn luôn nẩy sinh từ một ý muốn trừng phạt một ai đó, qua một biện pháp vật lý hay một biện pháp tình cảm để khiến họ phải đau khổ vì cách họ đã đối xử với con – kể cả việc con tự trừng phạt và tự khiến mình đau khổ vì những lỗi lầm mà dường như con đã phạm vào.     

Nhân tiện đây cũng nói thêm, nếu một nỗi tức giận không nhắm vào một người nào nhất định (chẳng hạn như vì sợ hãi) cuối cùng nó sẽ chĩa trở về con. Đó là tại sao nhiều người đã từng bị lạm dụng hồi còn nhỏ thường hay cảm thấy một niềm tức giận – thường che giấu – đối với chính mình. Những người này cần nỗ lực tha thứ bản thân mình và biến hóa nỗi tức giận.

Quả thật, con hoàn toàn có khả năng thoát khỏi sự tức giận phàm phu. Nhưng con cũng nên biết tới những nhận xét của ta về sự khác biệt giữa tức giận phàm phu và sự thịnh nộ thần thánh.

Cuối cùng, hãy cho ta nói rằng sự tức giận không “dính chặt” vào con người tâm linh của con hay vào cái Ta Biết. Nó chỉ dính chặt vào tâm nhị nguyên mà thôi. Cho nên chìa khóa để vượt qua tức giận phàm phu là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức đó, gạt bỏ con người cũ của tâm nhị nguyên và bước vào con người mới của tâm Ki-tô. Đó chính là tiến trình mà ta giảng dạy suốt trang web này.

Điều thiết yếu trong lành bệnh và cầu nguyện là sự chấp nhận

Hỏi: Con có thấy nhiều người cầu nguyện đạt được kết quả kỳ diệu cho người mà họ cầu nguyện. Tuy nhiên họ vẫn theo các tổ chức truyền thống và những tư tưởng mà thày nói là lầm lạc. Có thể nào họ vẫn nối kết được với cái ta Ki-tô bất chấp những lời dạy sai lầm, và chúng con có nên đối chất họ với những ý tưởng mới hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Nếu con nhìn vào những phép lạ của ta như được mô tả trong thánh thư, con sẽ thấy ta đã chữa lành cho những người xuất thân từ nhiều thành phần và nhiều tín ngưỡng khác nhau. Con cũng sẽ thấy rằng yếu tố chính trong việc chữa lành bệnh mà ta đã thực hiện là đức tin của người được chữa lành. Con sẽ thấy có những trường hợp ta không chữa được ai cả hoặc chỉ chữa được một vài người. Lý do là vì những người này không có đủ đức tin để đem lại sự lành bệnh trong họ.   

Điều này sẽ giúp con hiểu rằng yếu tố thiết yếu để thấy thành quả chữa bệnh là đức tin của riêng con nơi Thượng đế hay một sinh thể tâm linh nào khác. Đức tin là một trạng thái nội tâm, một phẩm chất của trái tim. Đức tin không nhất thiết liên quan tới tư cách là thành viên của một tổ chức vỏ ngoài hay sự tuân thủ những tin tưởng vỏ ngoài là những tin tưởng được lưu giữ chủ yếu trong tâm. Chắc chắn có nhiều người thuộc các giáo phái đạo Cơ đốc hay những đạo khác đã cổ xúy cho những tín điều thiếu sót, sai lầm, thậm chí giả trá. Tuy nhiên nếu họ có phẩm chất đức tin bên trong, là đức tin như trẻ thơ mà ta đã nói là chìa khoá để bước vào Nước trời, thì lời cầu nguyện của họ có thể được hồi đáp và thực sự đem lại kết quả kỳ diệu.

Hẳn con có nhớ câu trong Kinh thánh nói rằng đức tin là thực chất của những điều trông mong, là bằng cớ của những điều chưa thấy (Hebrews 11:1). Sự thật đằng sau câu đó là kết quả kỳ diệu luôn luôn đã sẵn hiện hữu như một tiềm năng tâm linh. Tuy nhiên để trở thành một hiện thực, tiềm năng tâm linh phải được đem vào vũ trụ vật chất từ cõi tâm linh. Để thị hiện trong vũ trụ này, kết quả cụ thể phải đi qua một ngưỡng cửa giữa thế giới tâm linh và thế giới vật chất. Ngưỡng cửa này chính là tâm thức Ki-tô, nhưng đối với một người chưa đạt quả vị Ki-tô, việc chữa lành bệnh có thể thông qua tâm Ki-tô của ta, của Mẹ Mary hay một vị thánh mà người đó đang cầu nguyện. Tuy nhiên, để cho thành quả được thị hiện, người đó phải giữ vai trò làm neo trong vũ trụ vật chất, và điều này có thể xảy ra qua trái tim người đó có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ.

Trong mọi lãnh vực của đời sống đều có những con người nối kết chặt chẽ với cái ta Ki-tô của mình. Con có thể tìm thấy họ trong rất nhiều tôn giáo không phải là đạo Cơ đốc, thậm chí cả trong số những người theo thuyết vô thần hay bất khả tri. Như ta có trình bày khắp trang mạng của ta, tâm thức Ki-tô không phải là kết quả máy móc của việc gia nhập một giáo hội nào hay tin vào một tín điều vỏ ngoài nào. Đó là một phẩm chất bên trong, phẩm chất của trái tim. 

Chúng ta có thể mô tả đức tin một cách khác. Như các chân sư giảng dạy, quy luật cơ bản của vũ trụ vật chất là quyền tự quyết. Do đó, ta không thể chữa lành cho một người nếu người đó không muốn, tức là không những ta không thể đi ngược lại ý chí có ý thức của họ – bởi vì có ai mà không muốn mình hết triệu chứng bệnh tật? – mà cả ý chí trong tiềm thức họ nữa. Nhiều người giống như một căn nhà bị phân rẽ, nghĩa là họ có những tin tưởng trong tiềm thức ngăn cản họ lành bệnh.   

Cho nên chúng ta có thể nói, đức tin là khi con đã khắc phục sự phân rẽ bên trong này để tim con được thuần khiết. Và từ đó con nhận biết – là sự nhận biết nội tâm vượt khỏi mọi lý luận của lý trí – rằng Tánh linh có quyền năng trên vật chất, có nghĩa là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên thực sự có quyền năng thay đổi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu.

Câu hỏi cốt lõi trong việc chữa lành là liệu con có thực sự và hoàn toàn tin rằng những gì con cầu nguyện có thể thị hiện và được thị hiện hay không. Con sẽ thấy là đôi khi ta hỏi một người: “Con có tin là ta có quyền năng làm chuyện này không?” Và chỉ khi nào họ tin như vậy thì họ mới có khả năng chấp nhận việc chữa lành có thể thành công. Ta không có thẩm quyền đi ngược lại ý chí tự quyết của con. Cho nên nếu con xin lành bệnh mà không hoàn toàn chấp nhận điều đó là khả dĩ, tâm tiềm thức của con sẽ vô hiệu hóa những lời cầu nguyện ý thức của con. Thật ra, lời cầu nguyện từ một cái tâm phân rẽ sẽ không tới được cõi tâm linh bởi vì lời đó đã bị tâm của họ bác bỏ.

Con có hỏi liệu con có nên đối chất người ta với những lời day của ta trên trang mạng này. Đây là một câu hỏi không có câu trả lời chung chung. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của cá nhân người đó. Một số người có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ khiến sự kiện họ tin vào một vài giáo điều sai lầm cũng không quan trọng lắm. Tuy nhiên đối với nhiều người khác, họ sẽ được lợi ích rất nhiều nếu họ được khai sáng và nhận được một hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới tâm linh.

Khi giao tiếp với người khác, ta khuyên con nên nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Điều ta muốn nói ở đây là con không bao giờ được quyết định với tâm vỏ ngoài rằng con có nhu cầu phải cải đạo bất cứ ai để họ theo một tín ngưỡng nào đó. Thay vào đó, con hãy đặt trung tâm vào tim con, và nếu con nhận được lời nhắc nhở từ bên trong là con nên chia sẻ một ý tưởng nào đó với họ, thì bằng mọi cách, con hãy làm, và làm trong tình thương.

Nếu con quan tâm đến việc quảng bá giáo lý, ta thực sự khuyên con nên học tập quyển “Cái đến huyền bí của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ). Quyển sách giải thích một cách tường tận sự khác biệt giữa việc tiếp cận tôn giáo trong sợ hãi hay trong tình thương. Con sẽ thấy nhiều nhà truyền giáo, kể cả những nhà truyền giáo đạo Cơ đốc, có cách rao giảng phúc âm dựa trên sợ hãi. Họ tìm cách cải đạo người khác bằng cách đánh vào nỗi sợ hãi của con người là mình sẽ bị đày xuống địa ngục hay không được cứu rỗi. Cách đó không phải là cách của ta. Ta tiếp cận trong tình yêu thương. Khi con làm như ta, con sẽ không bị thúc đẩy bởi động lực sợ hãi và do đó con không quyết định với tâm vỏ ngoài những gì người khác phải tin hay không tin. 

Con không tìm cách thuyết phục họ là con có lý. Thay vào đó, con hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, và mục đích của con là giúp họ đạt được bước kế tiếp trên con đường tâm linh của họ, bất kể bước đó là gì. Con chỉ cố giúp họ có được một hiểu biết cao hơn vượt khỏi mọi quan điểm vỏ ngoài, trí thức, phát xuất từ sợ hãi, về những điều mà họ cần hiểu. 

Rốt cuộc thì một đức tin nội tâm nơi Thượng đế phát xuất từ tình thương quan trọng hơn nhiều so với việc tuân thủ một số ý tưởng vỏ ngoài phát xuất từ sợ hãi, bất kể những ý tưởng này có đúng đến đâu. Và tất nhiên, nếu con có được cả đức tin lẫn cái hiểu đúng đắn, thì đó là điều lý tưởng cho một người tầm đạo tâm linh.

Chữa lành bằng Thánh linh hay phàm linh thấp kém?

Hỏi: Thày Giê-su có thể vui lòng cho con biết những hiện tượng chữa lành bệnh được chiếu trên truyền hình trong các chương trình Tin Lành (evangelistic) có phải là do thày chữa lành? Những sự việc đó có thật không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta không thể cho con một câu trả lời chung cho câu hỏi này. Sự thật là chính ta và một số các chân sư thăng thiên khác sẽ hợp tác với bất cứ cá nhân nào đạt được một trình độ tâm thức Ki-tô nào đó. Do đó, chúng tôi có làm việc với một số nhà truyền giáo và người chữa bệnh truyền giáo, nhưng chúng tôi không làm việc với tất cả. Ngay cả khi chúng tôi cộng tác với một người, chúng tôi cũng không nhất thiết cộng tác luôn luôn.

Ở vài nơi trên trang mạng này, ta có so sánh tâm con người như nút quay trên máy thu thanh. Con có thể quay nút và điều chỉnh tần số các đài phát thanh mà con muốn bắt, thì cũng như vậy, con có khả năng quay nút trong tâm con và hòa điệu với những tầng mức thực tại khác nhau. Một số tầng mức này ở trong cõi tâm linh, và khi con hòa điệu vào đó, con trở thành một phương tiện của các chân sư thăng thiên và có thể phụng sự các thày trong một số khả năng. Tuy nhiên, tâm con cũng có thể đồng điệu với những tầng mức thấp kém hơn không ở trong cõi tâm linh. Ở những tầng này là các sinh thể thấp kém và khi con mở cửa tâm thức con cho chúng, con có thể trở thành công cụ của chúng, như ta đã có dịp trình bày chi tiết hơn nơi khác. 

Vấn đề khiến cho nhiều người bị gạt gẫm là các sinh thể ở các cõi thấp kém dư khả năng tạo ra nhiều hiện tượng, chẳng hạn như nói ngữ kỳ lạ (speaking in tongues) hoặc chữa bệnh. Đây là một sự kiện nói chung không được các tín hữu Cơ đốc Tin lành (evangelistic Christians) biết đến hay nhìn nhận. Nhiều người trong số những tín hữu đó tin rằng bất cứ điều gì họ làm trong buổi lễ nhà thờ, bất cứ gì họ làm nhân danh ta, đều thuộc về ánh sáng. Họ tin rằng bất cứ khi nào có hiện tượng xảy ra thì đó phải là biểu hiện của một thực tại tâm linh chân chính. Không nhất thiết là như vậy.

Có một số nhà thờ truyền giáo sử dụng những kỹ thuật khác nhau, kể cả nhạc rock, để đưa hội chúng vào một trạng thái tâm thức biến đổi. Như ta đã nói, tâm con người tương tự như chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được nhiều đài khác nhau. Cho nên thật là không khó gì quay nút của tâm và sản xuất ra một trạng thái tâm thức biến đổi. Câu hỏi đặt ra là liệu người đó hòa điệu tâm mình với cõi tâm linh hay với một cõi thấp kém.

Nếu người đó không có một trình độ phân biện Ki-tô nào đó, họ sẽ vô cùng khó khăn lượng định được mình đang hòa điệu với cõi tâm linh hay một cõi thấp hơn. Sự khó khăn này càng tăng lên gấp bội nếu họ tin rằng bất cứ một trạng thái tâm thức biến đổi nào cũng đều phải thuộc về ánh sáng. Sự chấp nhận mù quáng kiểu đó thật là nguy hiểm và có khả năng tạo ra những trải nghiệm và hiện tượng không thuộc về ánh sáng. Có những nhà truyền giáo là kẻ lãnh đạo mù cho những hội thánh mù.

Hãy cho phép ta chia sẻ quan tâm chính yếu của ta về đạo Cơ đốc truyền giáo Tin Lành. Có rất nhiều giáo hội truyền giáo tuyên bố làm việc với Thánh linh (Holy Spirit), Họ tuyên bố trải nghiệm nhiều trạng thái tâm thức và hiện tượng hữu hình khác nhau và đó là biểu hiện của Thánh linh. Sự thật quan trọng nhất  mà con có thể hiểu được về Thánh linh là câu, “Thánh linh muốn thổi đâu thì thổi”.

Sự thật đằng sau câu này là Thánh linh không tôn trọng những tin tưởng và quan điểm của con người khi các tin tưởng và quan điểm này không đứng thẳng hàng với thực tại và chân lý của Thượng đế. Và con nay đã thấy được, có hai điều kiện phải hội đủ trước khi một người có thể tiếp xúc thực sự với Thánh linh. Người đó cần có chút thông hiểu về sự thật để có khả năng phân biện giữa Thánh linh và các loại linh thể thấp kém – ta muốn nói một sự thông hiểu chân lý đích thực chứ không phải một cách diễn giải nhân tạo nào đó. Và người đó cũng phải có tâm trí và con tim mở rộng hầu sẵn sàng nhập vào dòng Tánh linh. Nếu con đã có sẵn một số tin tưởng chắc nịch và cố định về Thượng đế và nếu con tìm cách ép uổng Thánh linh vào cái hộp tư duy của con, thì con không có hy vọng làm việc với Thánh linh chân thực đâu.      

Khi con áp dụng vào đạo Cơ đốc Tin Lành, con sẽ thấy nhiều người trong số đó cả quyết là họ làm việc với Thánh linh, thế nhưng đồng thời họ lại có một cách tiếp cận đạo Ki-tô vô cùng cứng nhắc, cực chính thống (fundamentalist) và hiểu kinh điển theo nghĩa đen (literal). Họ tin rằng Thánh kinh là lời Thượng đế sát từng chữ – điều này không nhất thiết là đúng đắn như ta đã có dịp trình bày ở nơi khác. Điều ta muốn nói là nhiều người trong phong trào truyền giáo đã tạo ra những cái hộp hẹp hòi trong tâm họ đến độ không còn chỗ nào cho Thánh linh thổi vào nữa.  

Nhiều người trong số đó tin mình đang làm việc với Thánh linh và họ có thể chỉ ra đủ loại hiện tượng để làm bằng chứng. Vấn đề là do những cái hộp tư duy hạn hẹp mà họ đã dựng lên chung quan tâm họ, họ không cởi mở với sự phân biện đích thực chỉ có thể đến được từ tâm Ki-tô. Vì thế họ không có phân biện chân chính và không làm sao phân biệt được Thánh linh với một phàm linh thấp kém hơn. Kết quả là rất nhiều những hiện tượng mà họ rao giảng, kể cả việc chữa bệnh, không là việc làm của Thánh linh mà của các phàm linh thấp kém đội lốt Thánh linh. 

Điều này khiến ta rất quan tâm. Lý do là vì có rất nhiều người trong phong trào truyền giáo là những người tâm linh có thiện chí thực sự và là người tìm kiếm Thượng đế. Tiếc thay, phong trào này cũng như tư duy cực chính thống của nó, khiến cho họ bị kẹt vào một hộp tư duy xơ cứng, và do những giới hạn của hộp tư duy, họ không làm sao tiếp xúc được với Thánh linh. Trong mong muốn rạo rực muốn trải nghiệm Tánh linh, họ mở cửa ra cho các loại phàm linh thấp kém. Vì họ quá ước ao Tánh linh, họ dùng vũ lực để cố chiếm thiên đàng, nhưng họ lại không chịu trải qua một tiến trình buông bỏ mọi định kiến và mọi điều tin tưởng sẵn có. Sự buông bỏ này, sự quy hàng này trước sự thật của Ki-tô – đối lại với “sự thật” nhân tạo của phàm phu – mới là điều thiết yếu để nhận được quyền năng của Thánh linh. Nếu con không để cho Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, con không thể nhận được trọn vẹn quyền năng của Tánh linh.        

Nói vậy rồi, ta xin nói rõ thêm là trong phong trào tuyền giáo Tin Lành có rất nhiều người có một mức độ tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô nào đó. Những người này đã có làm việc với Thánh linh và có thể thị hiện một số hiện tượng chân thực, kể cả chữa lành bệnh. Cũng có một số người có khả năng hòa điệu với Thánh linh trong một thời gian ngắn nhưng chưa hẳn phát triển được tánh phân biện đích thực. Cho nên thật là hên xui may rủi với họ. Đôi khi họ làm việc với Thánh linh, và có những lúc khác họ làm việc với các phàm linh thấp kém.

Ta có thể xác nhận với con là trong phong trào truyền giáo Tin Lành có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên, để tiềm năng này trở thành hiện thực và phong trào trở thành một công cụ chân chính cho Thánh linh và các chân sư thăng thiên, cần có một túc số những người sẵn lòng từ bỏ cách tiếp cận tôn giáo vỏ ngoài, từ bỏ cách tiếp cận cực chính thống. Họ cần nỗ lực sốt sắng đạt được phân biện Ki-tô sẽ cho phép họ gạt bỏ các làn sóng của phàm linh thấp kém để bắt được làn sóng của Thánh linh đích thực.

Nếu điều này xảy ra, con sẽ thấy luồng Thánh linh tuôn trào xuống mạnh mẽ, và các chân sư thăng thiên sẽ làm việc được với nhiều người trong phong trào truyền giáo. Sự thể ngày hôm nay là phong trào này mới thể hiện được khoảng 5% tiềm năng của họ để làm công cụ cho Thánh linh. Vậy con có thể phỏng đoán 95% những sự việc chữa bệnh và hiện tượng mà phong trào truyền giáo rao truyền là không xác thực và không đến từ Thánh linh. Ta mong muốn nhìn thấy con số này lật ngược, nhưng điều đó sẽ đòi hỏi một sự thay đổi tâm thức, một sự thay đổi con tim trong số các thành viên và lãnh đạo của phong trào. Có sẽ xảy ra hay không? Ta không trả lời được câu hỏi này.

Liên quan đến câu hỏi liệu việc chữa lành bệnh có thật hay không, ta xin nói là sự chữa lành đích thực đòi hỏi hai điều. Trước tiên phải có sự can thiệp của Thánh linh đích thực chứ không phải của một phàm linh thấp kém. Có thể là một phàm linh thấp hơn có khả năng loại bỏ những triệu chứng thể chất khỏi một người, nhưng theo mực của ta, đó không phải là chữa lành thực sự, Yếu tố thứ hai của việc chữa trị, người bệnh phải nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn. Khi ta chữa bệnh cách đây 2000 năm, con có thể đọc trong kinh điển rằng chính đức tin của bệnh nhân đã là yếu tố quyết định trong việc chữa bệnh. Một số người được chữa khỏi chính vì họ có đức tin rất cao.      

Nhưng như được giải thích ở một nơi khác, chu kỳ tâm linh đã quay sang một chu kỳ mới. Ngày nay, đức tin vào một quyền năng bên ngoài không còn đủ nữa. Điều cần thiết thời nay là phải hiểu biết rằng mọi điều kiện trong cuộc sống đều phản ánh những điều kiện trong tâm thức. Nói cách khác, một căn bệnh thể chất bắt nguồn từ một tình trạng trong tâm thức, và tình trạng này phát xuất từ một tin tưởng sai lầm về chính bản thân mình và Thượng đế. Để thực sự chiêm nghiệm sự lành bệnh vật lý, lành lặn các triệu chứng trong thể xác, con phải đi sâu vào tiềm thức cuả con và giải quyết tin tưởng sai lầm ở đó.  

Đây là thêm một lý do khiến cho phong trào truyền giáo Tin lành gặp phải vấn đề. Để thật sự giải tỏa tin tưởng sai lầm về Thượng đế, con phải nhìn vượt ra khỏi hầu hết những cái hộp tư duy đang trổi nổi quanh khắp thế giới ngày nay, kể cả những hộp tư duy do đạo Cơ đốc Tin lành hoặc đạo Cơ đốc cực chính thống sản xuất ra. Nếu con không sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài những hộp đó, con sẽ không thể chữa lành thật sự và rất có thể con cũng không mở tâm ra được với Thánh linh. Thay vào đó, nhiều người mở tâm ra với các phàm linh thấp kém, và các phàm linh này chẳng có vấn đề gì tạo ra một sự lành bệnh vật lý mà không giải quyết tâm thức. Lý do chỉ là vì các phàm linh thấp kém muốn giữ con người kẹt cứng vào những tin tưởng giới hạn của họ.

Sự thiếu vắng giải pháp nội tâm sẽ giúp con hiểu tại sao con thường thấy những người vừa được chữa bệnh trong buổi lễ nhà thờ lại bị bệnh tái phát ngay sau đó. Nếu con không đi vào tâm lý và giải tỏa các tin tưởng giả tạo đã gây bệnh thì việc chữa lành sẽ không thể lâu dài. Đây là một sự thật thường không được các tín hữu Cơ đốc giáo nhìn thấy, và lý do là vì họ không sẵn sàng nhìn xa hơn hộp tư duy của họ.

Cũng cho phép ta nói thêm, nhiều người mang bệnh tật như là một cách để giữ quân bình cho các điều kiện của thế giới. Một căn bệnh như vậy sẽ không nhất thiết được chữa lành, ngay cả khi người đó có liên hệ đích thực với Thanh linh và đã giải quyết mọi tin tưởng sai lầm của mình. Sự giải thích nằm ở chỗ dòng sống đó đã tình nguyện mang vào mình một số năng lượng tiêu cực của thế giới (như ta đã từng mang tội lỗi cho thế giới) và do đó căn bệnh sẽ không chữa lành qua Thánh linh. Nó có thể được chữa lành qua một số kỹ thuật tâm linh, chẳng hạn như cầu thỉnh Ngọn lửa Tím như được mô tả ở nơi khác. Khi một căn bệnh bắt nguồn từ sự tình nguyện của một dòng sống nhằm gánh vác năng lượng tha hóa cho thế gian, cách duy nhất để chữa lành là biến hóa năng lượng tha hóa trở về sự tinh khiết nguyên thủy.

Giáo lý nền tảng về nuôi con

Hỏi: Con đã nghiên cứu những cách hiểu khác nhau về cách nuôi nấng, sửa đổi, trừng phạt trẻ con. Kinh Cựu ước trong Thánh kinh chủ trương hình phạt bằng roi gậy hay thể xác. Con không tìm thấy điều gì trong Tân ước. Thưa Giê-su, lời dạy của thày về đề tài này là thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy làm cho con cái của con như con muốn con cái của con làm cho con. Đó là câu trả lời từ Tân ước.

Câu trên liên quan thế nào với hình phạt thể xác? Thực tế đơn giản là một trong những bổn phận của cha mẹ là dạy cho con mình thiết lập ranh giới trong cách cư xử của chúng. Nếu con suy ngẫm điều này, con sẽ nhận ra là một trong những đặc điểm của trẻ con là chúng phải học cách tìm sự quân bình đúng mức giữa các thèm muốn ngắn hạn vị kỷ của chúng với những ham muốn dài hạn mà sự thực hiện tùy thuộc vào khả năng hòa nhập của chúng với người chung quanh. Điều này có nghĩa là trẻ con cần học cách hạn chế ham muốn ngắn hạn hầu tránh cho ham muốn dài hạn không thể thành hình. Có thể nói đó là bài học căn bản của cuộc sống – con có muốn một phần thưởng tạm thời trong thế gian hay là phần thưởng vĩnh hằng ở thiên đàng?

Khi trẻ con còn nhỏ, chúng không thể học được bài học này qua khả năng lý luận vì các khả năng này chưa phát triển đầy đủ. Vì vậy chúng cần học hỏi nhờ cha mẹ giữ vai trò người hướng dẫn thương yêu lập ra những hạn chế nghiêm minh và thích hợp cho những cư xử ích kỷ của chúng. Con thử nghĩ xem, đây chính là điều mà con mong muốn cha mẹ mình đặt ra cho mình và vì vậy đó cũng là điều mà con cần làm đối với con cái của con.   

Sự dạy dỗ về các giới hạn phải khởi sự thật sớm, ngay từ khi đứa trẻ còn bú sữa. Con cần dạy trẻ thơ là mẹ nó không thể phục dịch cho nó 24 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên, cái khó là làm như vậy một cách yêu thương để đứa trẻ không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi. Ta hiểu đây là một điểm quân bình rất tế nhị và không thể áp dụng một quy tắc trắng đen nào được. 

Điều quan trọng nhất mà cha mẹ cần hiểu về con mình là mỗi đứa trẻ là một cá thể độc nhất. Đứa trẻ không phải là một dòng sống non nớt mà là một dòng sống đã già tuổi với một tâm lý vô cùng phức tạp được nhào nặn suốt rất nhiều kiếp sống. Do đó, con không thể đặt ra một hệ thống nuôi nấng con cái hay những quy luật trắng đen áp dụng cho mọi đứa trẻ. Đây là điều sai lầm to lớn của một số nhà giáo dục và tâm lý hiện đại về trẻ em. Họ cố đeo đuổi mục đích hão huyền để tìm ra một hệ thống giáo dục tối hậu, một loại máy điều khiển tâm trí trong đó họ có thể nhét mọi trẻ em ở đầu này rồi biến chúng thành những công dân mẫu mực ờ đầu bên kia. Một hệ thống như vậy thật sự không thể có, và lý do là vì Thượng đế đã ban cho mỗi dòng sống một sắc thái độc nhất vô nhị.

Cho nên mỗi đứa trẻ phải được đối xử như một cá thể độc đáo, và lý tưởng điều này chỉ có thể làm được khi cha mẹ có khả năng trực giác nhậy bén, nghĩa là cha mẹ đã đạt được một trình độ tâm Ki-tô tương đối. Và qua đó, cha mẹ có khả năng hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình và nhận được sự hướng dẫn nội tâm về cách đối xử với một đứa trẻ đặc thù trong một hoàn cảnh đặc thù. Như vậy cha mẹ mới làm tròn được chức năng của mình là trở thành người thày tâm linh dẫn dắt sự tiến hoá của con mình một cách trìu mến, cho tới khi nó có thể bắt đầu làm như vậy qua sự hòa điệu nơi chính nội tâm của nó.

Về vấn đề hình phạt thể xác, điều quan trọng là cha mẹ cần thiết lập những giới hạn phù hợp cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Đối với một số đứa trẻ, hình phạt thể xác sẽ cần thiết trong khi rất nhiều đứa khác thì sẽ không bao giờ cần phải đánh đòn. Nếu cần thiết, việc này có thể làm từ 2 tuổi trở đi, có khi phải sớm hơn một chút. Đây là lý do tại sao người ta hay nói đến tuổi lên 2 “khủng khiếp”, vì ở tuổi này đứa trẻ phải học cách thiết lập những giới hạn cho hành vi của nó. Nếu nó không học ở tuổi này, nó sẽ vô cùng khó khăn thiết lập ranh giới vào tuổi dậy thì – và ở tuổi đó, cha mẹ đã mất đi cơ hội dạy con về giới hạn. Một thiếu niên khó khăn ở tuổi dậy thì thường sinh ra ở tuổi lên 2.

Hiển nhiên, ta không chủ trương đánh đòn mạnh tay khi đứa trẻ còn nhỏ. Đúng hơn, ta không chủ trương trừng phạt gay gắt đối với bất cứ tuổi nào, dù là thể xác hay là không. Điều quan trọng cần hiểu rõ là vai trò của cha mẹ là thiết lập giới hạn cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Mục đích cha mẹ không được bao giờ là trừng phạt đứa trẻ.

Có sự khác biệt căn bản giữa việc thiết lập giới hạn nghiêm minh với việc trừng phạt. Việc thiết lập giới hạn đến từ một động lực trong sáng, thương yêu hầu giúp đứa trẻ phát triển. Nhưng trừng phạt đến từ một động lực không trong sáng, không thương yêu, khi cha mẹ trút hết những bực bội của mình lên đầu đứa trẻ. Điều này không bao giờ chính đáng, và ta nói rõ: KHÔNG BAO GIỜ. Cá nhân con có trách nhiệm phải học cách đương đầu với sự bực bội của chính con mà không trút lên người khác.

Ta công nhận việc nuôi dạy con cái không phải là một chuyện dễ dàng và nó thường hay gây ra bực bội. Tuy nhiên khi con đảm nhận trách nhiệm có con, con phải xem đó là một cơ hội đặc biệt để con đẩy mạnh sự phát triển tâm linh của con. Hiếm có hoạt động nào của con người mà đem lại cho con một cơ hội phát triển tâm linh lớn hơn việc nuôi con. Lý do là việc nuôi con tạo cho con một cơ hội độc đáo để con học cách bỏ tự ngã sang một bên và đặt mình vào vai trò làm kẻ phục dịch cho người khác. Đây thật sự là một cơ hội độc nhất để con tự giải phóng khỏi vòng nô lệ của tự ngã phàm phu và vươn lên quả vị Ki-tô. Ta có nói đến điều này trong những câu sau:

“Các môn đồ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn hết trong số mình. Và Giê-su biết ý trong lòng họ, bèn dẫn một đứa trẻ đến gần mình, nói rằng: Ai nhân danh ta nhận đứa trẻ này thì cũng nhận chính ta, và ai nhận chính ta thì cũng nhận Đấng đã sai ta, vì kẻ nào hèn mọn nhất trong số các người thì mới là kẻ lớn.” (Luke 9)  

Điều ta muốn nói là người ở mức tâm Ki-tô cá nhân cao nhất luôn tự xem mình là đầy tớ của mọi người, kể cả con cái của mình. Sẽ quý giá biết mấy cho các bậc cha mẹ thời nay nếu họ có những nỗ lực chân thành để bỏ hẳn cách suy nghĩ lâu đời là cha mẹ sở hữu con mình. Con cái của con không phải là tài sản của con và con không thể đối xử với chúng bất cứ cách nào.

Tuy nhiên, chúng là trách nhiệm của con. Hầu làm tròn trách nhiệm đối với con mình cũng như đối với chính mình như một hành giả tâm linh, con cần học bài học mà ta vừa đề cập là dạy dỗ con cái. Con cần học cách gạt bỏ những ham muốn ích kỷ của con và đặt ranh giới cho tự ngã của con. Hiển nhiên, điều này không có nghĩa là con tự biến mình thành nô lệ cho tự ngã của chúng, và đó là tại sao con cũng cần đặt ranh giới cho chúng. Con có thể làm được điều này bằng cách nhận ra là con sẽ phục vụ con mình tốt nhất nếu con phụng sự Thượng đế ở trong con lẫn ở trong chúng. Cho nên mục đích trong quan hệ của con với đứa trẻ phải là sự tăng trưởng tâm linh của tất cả mọi người. Người chủ của gia đình thực sự phải là tâm Ki-tô.

Nếu con có thể nuôi dạy con cái trong cách nhìn này, con sẽ tránh được rất nhiều sự bực bội của nghề làm cha mẹ. Con sẽ có thể tránh được cái bẫy nguy hiểm nhất là tích tụ những tình cảm và năng lượng tiêu cực trong mối quan hệ với con mình. Khía cạnh độc hại nhất của việc nuôi con là tạo ra một vòng xoáy ốc suy bại với đứa con, khiến con lần hồi tích tụ quá nhiều năng lượng tình cảm tiêu cực đến độ con không làm sao vượt qua được nữa để mà quan hệ bình thường với con mình.

Nhưng nếu con có thể đứng ở bên trên vòng xoáy tiêu cực – và con chỉ có thể làm được bằng cách giữ sự tỉnh thức tâm linh và sử dụng những dụng cụ bảo bọc tâm linh thích hợp cho con và con cái – thì việc nuôi con có thể là một cơ hội tuyệt vời để tăng trưởng. Hầu tận dụng cơ hội này, con cần bắt đầu với kỷ luật bản thân và học cách đặt ranh giới cho những ham muốn ích kỷ của mình. Sau đó con cần dùng nền tảng đó để thiết lập những lằn ranh cho con cái. Khi con làm được điều này thành công, con sẽ có thể tận hưởng một mối quan hệ tích cực với con mình gần như suốt đời.    

Ta không nói là người ta có thể làm cha mẹ mà không có những bực bội. Đòi hỏi như vậy quả là không thực tế trong thời đại hôm nay khi mà quá ít bậc cha mẹ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và hầu hết trẻ con sinh ra với những vết thương tâm lý từ nhiều tiền kiếp. Cho nên ta không đang cố thiết lập một lý tưởng cao vời vợi mà không ai có thể theo kịp. Ta chỉ đơn giản cố gợi ý cho con để giúp con đáp ứng các thử thách của việc nuôi con. Ta cũng xin nói là quá nhiều tín đồ Cơ đốc giáo đã tìm cách dùng cuộc đời của ta để dựng lên một thần tượng về một gia đình lý tưởng mà không một người nào có thể sánh bằng. Ta không mong muốn thần tượng này tồn tại vì ta không muốn cuộc đời của ta bị sử dụng để khiến cho nhiều người cảm thấy thiếu sót hay tội lỗi.      

Cha mẹ của ta không phải là cha mẹ toàn hảo, và ta thì không là đứa con toàn hảo. Làm cha mẹ là một kinh nghiện học hỏi, và nếu ngay từ đầu con đã toàn hảo rồi thì còn cần học gì nữa đây? Do đó con cần bước vào việc nuôi con với thật nhiều lòng tha thứ đối với chính mình và đối với con mình. Đừng kỳ vọng là mình sẽ là bậc cha mẹ toàn hảo và đừng kỳ vọng con mình sẽ là đứa con toàn hảo. Thật ra, nếu con có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn nhân tạo về cách làm cha mẹ hay cách làm con, thì con sẽ khiến cho công việc của con dễ dàng hơn gấp bội, cho con và cho con cái của con. Sự kỳ vọng chính là mầm mống của bực bội.

Cuối cùng, ta muốn nói là nhiều bậc cha mẹ chọn sinh ra đời những dòng sống mà họ đã mang nghiệp nặng từ những kiếp trước. Chính nghiệp chướng này khiến cho vòng xoáy tiêu cực có nhiều xác suất thành hình và con thấy được điều này trong rất nhiều gia đình ngày nay. Để vượt qua nghiệp quả giữa cha và mẹ cũng như giữa cha mẹ và con cái, tất cả các bậc cha mẹ cần siêng năng nỗ lực biến hóa năng lượng tiêu cực trong gia đình. Cách hữu hiệu nhất để làm điều này là sử dụng các bài thỉnh và bài chú Mẹ Mary trong trang mạng này.

Cũng cần lưu ý là trong thế giới ngày nay, gia đình đang bị công hãm một cách tới tấp tại hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở phương Tây. Cuộc tấn công này là mưu mô của các tà lực. Chúng muốn hủy diệt gia đình mà trong hàng ngàn năm đã là cột trụ của xã hội. Vì vậy, điều vô cùng quan trọng đối với tất cả các bậc cha mẹ là cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh cho bản thân lẫn cho con cái.

Tại sao con cái hư hỏng mặc dù được chăm sóc yêu thương?

Hỏi: Tại sao một số đứa trẻ trở nên hư hỏng bất kể sự chăm sóc, sự dạy dỗ tôn giáo và đạo đức cũng như tình yêu mà chúng nhận được trong đời chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Một câu hỏi rất quan trọng với những hệ quả thật sâu xa. Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi của con là một đứa trẻ là nhiều hơn một thân xác vật lý. Mỗi đứa trẻ là một dòng sống, và dòng sống đó không tự dưng xuất hiện từ hư vô vào lúc thụ thai hay khi thân thể chào đời. Như ta có giải thích ở nơi khác, dòng sống thật ra đã hiện hữu từ rất lâu bởi vì luân hồi và đầu thai là một thực tế – bất kể sự lên án của đạo Cơ đốc chính thống.  

Khi con chấp nhận thực tế của luân hồi, con hiểu ra là dòng sống của đứa con của con có thể đã rất lớn tuổi. Dòng sống này có thể đã sống rất nhiều kiếp và đã xây dựng một tâm lý vô cùng phức tạp cũng như một mạng lưới chằng chịt những nghiệp quả và năng lượng tha hóa. Con nhìn ra là dòng sống của đứa con có thể đã đầu thai trong kiếp này với một hành trang nặng trĩu những vấn đề chưa giải quyết từ tiền kiếp. Trong một số trường hợp, một dòng sống có thể nặng gánh và bị tổn thương bởi trải nghiệm quá khứ đến độ không một tình yêu nào, không sự chăm sóc và hướng dẫn nào từ cha mẹ hay từ cộng đồng xã hội sẽ hoàn toàn chữa lành được nó.

Có nhiều người hiện thân trong kiếp này với những vết thương trầm trọng đến nỗi họ có rất ít hy vọng hoàn toàn chữa lành trong một kiếp sống. Tuy nhiên, họ vẫn có cơ hội để thăng tiến và điều hay nhất con có thể làm để giúp đỡ dòng sống là tiếp tục biểu hiện tình yêu thương, tìm cách giúp nó chữa lành các vết thương tâm lý cũng như mở rộng sự hiểu biết của nó về cuộc sống. Sẽ đặc biệt hữu ích nếu dòng sống hiểu ra rằng mỗi người, rốt cuộc, là người trách nhiệm về hoàn cảnh của mình vì chính mình đã tạo ra thực tế đó. Tuy nhiên con sẽ khó lòng khiến cho một dòng sống đã tổn thương chấp nhận sự thật này như ta đã từng trình bày trong một bài giảng quan trọng trước đây.  

Điều quan trọng là phải thực tế và nhận ra rằng một số dòng sống bị tổn thương  đến mức chúng sẽ chỉ đạt được tiến bộ hạn chế hoặc không tiến bộ gì hết. Thật ra, một số dòng sống sẽ còn tăng cường thêm cái vòng xoáy đã kéo chúng đi xuống từ nhiều kiếp đã qua, và chúng sẽ không ngóc đầu thoát ra nổi cho tới khi chúng chạm tới một cái đáy. Ta hoàn toàn thông cảm những cha mẹ cảm thấy vô cùng chán nản và vô vọng khi con mình gạt bỏ mọi cố gắng giúp đỡ và hàn gắn của mình. Ta thấu cảm nỗi đau đớn của hàng triệu bậc cha mẹ đã đem đứa bé vào đời với niềm kỳ vọng to lớn nhất, đã cố hết sức thương yêu và chữa lành cho nó. Ta hiểu rõ những cha mẹ phải trải qua nỗi đau khổ nhìn thấy con mình đập tan những kỳ vọng này và không ngừng chọn con đường thấp nhất trong mỗi tình huống.

Ta cảm được điều này đã làm cho cha mẹ vô cùng đau đớn, buồn nản. Tuy nhiên, ta phải nói một điều vô cùng quan trọng là cha mẹ phải vượt qua nỗi buồn khổ này về con mình cũng như sự thất vọng khi con mình chối bỏ mình. Để vượt qua hoàn toàn sẽ đòi hỏi hai nhận thức.

Nhận thức thứ nhất là hầu hết mọi nền văn hoá thời nay đều có một sự hiểu biết hạn chế về thực tại của Thượng đế. Nếu con đã lớn lên trong một văn hóa không nhìn nhận thực tế của luân hồi, điều gần như không thể tránh khỏi là con đã được dạy dỗ một số chờ đợi và thái độ vô cùng thiếu thực tế về việc có con và nuôi con. Tại Tây phương, người ta thường cho rằng bậc cha mẹ phải yêu thương con mình bất kể đứa con xử sự thế nào.

Nói chung thì điều này cũng đúng thôi, nhưng nó chỉ đúng nếu con nhận ra tình thương đích thực là tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Tình thương này không phải là tình thương chiếm hữu và vị kỷ mà hầu hết mọi người có khả năng cảm được và thể hiện. Khi con chỉ cảm thấy tình thương vị kỷ, cha mẹ sẽ không thể tránh khỏi khởi lên một ý thức sở hữu về con mình. Từ đó dẫn đến một loạt những sự chờ đợi rằng con mình phải sống theo những tiêu chuẩn của mình và của xã hội.    

Sự thể này dẫn đến những cố gắng không cần thiết nhằm kiểm soát con mình, gây ra nhiều sự xung đột giữa cha mẹ và con cái do đứa con nổi loạn chống lại sự kềm chế của cha mẹ, với hệ quả là càng có thêm nhiều sự bực dọc và đau lòng cho cha mẹ và sự giận dữ cho con cái. Đây là một môi trường mất cân bằng và tồi tệ mà những người tâm linh phải cố thoát ra, thăng vượt.  

Điều này dẫn đến nhận thức thứ hai. Để thăng vượt môi trường tồi tệ trong quan hệ với con cái, con cần nhận ra và chấp nhận rằng đứa trẻ không phải là con của mình. Con đã không sinh tạo đứa trẻ đó ra từ chính con hay từ hư vô. Con không có quyền sở hữu nào trên dòng sống của nó. Đứa con của con là một cá nhân hoàn toàn biệt lập, và với tư cách đó, nó có quyền – là quyền tuyệt đối do Thượng đế ban cho nó – để sử dụng quyền tự quyết của nó theo cách hiểu của nó và gặt hái hậu quả từ những chọn lựa của nó. 

Khi con có thái độ sở hữu đối với con cái, con sẽ tìm cách kiểm soát những chọn lựa của dòng sống đó và con còn có thể ngăn cản nó trải nghiệm hậu quả những chọn lựa này. Khi con vượt lên trên tình yêu chiếm hữu và ôm lấy tình yêu của Thượng đế, con sẽ không cố kiểm soát đứa trẻ nữa mà chỉ cố giáo dục, hướng dẫn đứa trẻ. Nhưng con làm điều này trong tinh thần tôn trọng không khoan nhượng đối với quyền tự quyết của nó, và nếu nó không nghe theo lời khuyên của con, con sẽ cho phép nó trải nghiệm hậu quả chọn lựa của nó.

Ta không đang nói là con phải để yên cho nó làm điều gì có thể đe dọa mạng sống hay sự an toàn của nó. Điều ta muốn nói là khi đứa trẻ lớn lên, con sẽ cho nó ngày càng nhiều tự do hơn, và sẽ đến một lúc con sẽ chỉ giản dị để cho nó sống cuộc đời nó muốn. Điểm này đặc biệt quan trọng đối với một dòng sống bị tổn thương.

Điều này dẫn chúng ta đến khái niệm là với tư cách cha mẹ, con không có bổn phận phải dành toàn bộ đời mình xoay quanh con mình. Một bậc cha mẹ không bắt buộc phải chăm sóc con mình suốt đời của nó. Để hoàn toàn nắm được điều này, con cần nhận ra hai lý do căn bản vì sao cha mẹ lại chọn đem vào đời một dòng sống nào đó. 

Trước khi dòng sống của con bước vào kiếp hiện thân này của con, con đã gặp gỡ các vị cố vấn tâm linh của con nơi một cõi cao hơn và con đã lên kế hoạch cho kiếp sống tới. Trong kế hoạch này, con hoạch định những dòng sống nào mà con muốn trao cho cơ hội sống bằng cách cho chúng trở thành con mình. 

Tất nhiên, hầu hết mọi cha mẹ đều muốn nghĩ rằng con mình là đứa trẻ toàn hảo. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cha mẹ sẽ chọn, trước khi mình đầu thai, sinh ra một hay nhiều đứa trẻ đã bị tổn thương trầm trọng. Có hai lý do căn bản tại sao cha mẹ lại chọn sinh con là một dòng sống tổn thương:

  • Một lý do là vì cha mẹ có nghiệp quả với đứa trẻ trong tiền kiếp. Cha mẹ chọn đứa này như một cách để trả nợ dòng sống đó.
  • Lý do kia là cha mẹ đã từng có sự nối kết tích cực rất lâu đời với đứa trẻ. Vì vậy cha mẹ chọn sinh ra dòng sống tổn thương này vì yêu thương và muốn giúp nó. 

Trong trường hợp đầu, có thể nói là quan hệ giữa cha mẹ và đứa trẻ xem như một quan hệ trao đổi. Cha mẹ mang nợ nghiệp quả đối với đứa trẻ gần giống như nợ tiền ngân hàng vậy. Khi nợ trả xong, cha mẹ đã làm tròn bổn phận của mình với đứa con.

Điều ta muốn nói ở đây là trong một mối quan hệ như vậy, không nhất thiết phải có tình thương giữa dòng sống của cha mẹ và dòng sống của đứa con. Thật ra có thể có rất nhiều tình cảm tiêu cực mang theo từ tiền kiếp. Tiềm năng cao nhất cho tình cảnh này là cả đứa con lẫn cha mẹ đều vượt qua được những tình cảm tiêu cực đối với nhau, làm việc để giải quyết tâm lý bị tổn thương, cân bằng nghiệp quả với nhau và xây dựng một mối quan hệ tích cực, yêu thương.

Tiếc thay, điều này hiếm khi xảy ra khi đứa con là một dòng sống tổn thương. Lý do chính là sự thiếu vắng hiểu biết tâm linh trong nền văn hóa Tây phương. Vì không nhìn cuộc sống như là một cơ hội tăng triển tâm linh, cả đứa con lẫn cha mẹ thường hay tăng cường, củng cố tình cảm tiêu cực của mình. Điều này thật đáng tiếc vì nó có thể ngăn cản mọi người cân bằng nghiệp quả với nhau.

Là một bậc cha mẹ tỉnh thức tâm linh, điều tốt nhất mà con có thể làm trong tình cảnh này là con thay đổi thái độ của con đối với con cái, quyết tâm nỗ lực hàn gắn các tình cảm tiêu cực của mình cũng như những vết thương tình cảm của mình đối với nó. Rồi con cố hết sức giúp đỡ nó hầu con cân bằng nghiệp quả của con đối với nó. Việc này có thể gồm cả sự thực tập tâm linh, chẳng hạn đọc các bài chú và bài thỉnh nhằm biến hóa nghiệp chướng.

Nếu con khắc phục được các tình cảm tiêu cực của mình và cân bằng mọi nghiệp quả với đứa con, thực sự con đã làm tròn bổn phận tâm linh của con đối với nó. Nếu nó vẫn không phản hồi một cách tích cực đối với con, điều hợp lý nhất có thể là con chỉ đơn giản cắt đứt quan hệ với đứa con.

Xin con đừng hiểu lầm điều ta đang nói. Ta biết rõ có nhiều cha mẹ trốn tránh trách nhiệm đối với con mình. Xin con đừng hiểu sai và diễn giải rằng ta dung túng lối hành xử như thế. Ta không tán thành bất cứ ai trốn chạy trách nhiệm của mình trong đời sống. Điều ta muốn nói ở đây là con có thể thực sự đạt tới một điểm khi trách nhiệm của con đối với con cái đã làm xong và tốt hơn hết mỗi người nên đi đường riêng của mình.   

Nếu đứa trẻ không tỏ ra sẵn sàng bỏ lại đằng sau những tình cảm tiêu cực của nó đối với con, không chịu học hỏi từ con hay được bổ ích từ bất cứ điều gì con cho nó, thì điều hợp lý là con có thể nói: “Con hãy tự lo lấy. Bố mẹ phải sống tiếp cuộc đời bố mẹ, và nếu con không chịu bỏ những chuyện đó lại, bố mẹ sẽ bỏ con lại đằng sau.” Điểm này chính là phần nào ý nghĩa một số lời ta dạy cách đây 2000 năm khi ta đưa ra những câu nói thật thẳng thắn mà quá nhiều người lại hiểu lầm: 

“Ta đến để phân rẽ con trai với cha của nó, và con gái với mẹ của nó, và con dâu với mẹ chồng của nó” (Matthew 10:35).

“Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không xứng đáng với ta, và ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì không xứng đáng với ta” (Matthew 10:37).

Ý nghĩa đằng sau hai câu trên là mục đích cuộc đời con là bước tiếp con đường tâm linh và thể hiện tâm Ki-tô của con. Nếu con đã trả hết món nợ nghiệp chướng và nếu con cái đã trở thành một gánh nặng ngăn trở đường tâm linh của con, điều hợp lý có thể là con phải bỏ con cái lại đằng sau và tiếp tục đường con.

Ta cũng hiểu nhiều người sẽ thấy những câu trên rất khiêu khích, thế nhưng đó là sự thực. Một người tỉnh thức tâm linh sẽ không bỏ rơi một đứa trẻ. Tuy nhiên, con có thể bước đi khi con đã làm tròn trách nhiệm của con với nó vì con nay nhận ra là con cũng có một trách nhiệm đối với dòng sống của con. Nếu đứa con không sẵn lòng tiến bước về phía trước thì có ích gì con ngừng tiến bước trên đường tâm linh của con vì một ý thức giả tạo về nghĩa vụ của con với đứa trẻ? Tại sao con lại kềm hãm tiến bộ của con nếu con không giúp gì được nó? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng.     

Để hiểu điều này hoàn toàn, một lần nữa con cần nhìn vào sự kiện đứa con là một dòng sống hoàn toàn biệt lập có ý chí tự do của nó. Khi con đem nó vào đời, con có một số trách nhiệm cho nó một khởi đầu tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Nhưng sẽ đến một điểm khi đứa con phải rời tổ và nhận lấy trách nhiệm đời nó. Khi nó đủ lớn để tự quyết định, hoặc khi nó đạt đến điểm hoàn toàn nổi loạn hay chối bỏ con là cha mẹ nó, con không còn trách nhiệm về những chọn lựa của nó nữa. Về điểm này thì thật sự con chưa bao giờ trách nhiềm về chọn lựa của nó mặc dù khi nó còn nhỏ, con có trách nhiệm giúp nó có những chọn lựa cao nhất.

Điều ta nói với con ở đây là đối với một người tầm đạo, điều tuyệt đối thiết yếu là con phải nhận ra được, và hoàn toàn chấp nhận, rằng con không chịu trách nhiệm về chọn lựa của bất cứ ai. Con trách nhiệm về cuộc đời của con và những chọn lựa của con. Con không trách nhiệm những chọn lựa của người khác. Con có thể cố giúp họ lấy những chọn lựa tốt nhất nhưng con không được rơi vào cái bẫy tìm cách chọn lựa cho họ.    

Nếu tất cả mọi người đều hiểu được chân lý sâu xa của câu trên, khoảng 80 phần trăm mọi cuộc xung đột và vấn nạn mà chúng ta đang chứng kiến trên hành tinh này sẽ được giải quyết vô cùng nhanh chóng, bởi vì những vấn đề đó thật sự khởi lên do cảm nhận sai lầm là mình chịu trách nhiệm những chọn lựa của người khác. 

Trước khi ta đi lạc đề, hãy cho phép ta trở về với tình cảnh khi con chọn đưa vào đời một dòng sống bị tổn thương do lòng yêu thương dòng sống đó. Trong trường hợp này, con đã có sẵn tình yêu thắm thiết đối với nó, và điều quan trọng là con nuôi dưỡng tình yêu này cho dù đứa con bị tổn thương tới mức nó không có khả năng đáp lại trọn vẹn tình yêu của con. Trong một mối quan hệ như vậy, điều quan trọng là con không cho phép tình yêu của con biến thành ý thức trách nhiệm giả tạo mà ta vừa mô tả. Thay vào đó, con hãy cảm nhận lòng từ bi và nhận ra được là các vết thương của đứa con có thể gây ra một số hạn chế cho mối quan hệ.   

Như ta có giải thích ở trên, đứa con của con có thể quá tổn thương đến nỗi nó không có triển vọng được chữa lành hoàn toàn trong một kiếp sống. Vì vậy, rất có thể nó sẽ không có khả năng trở thành một công dân mẫu mực trong tiêu chuẩn của xã hội và nền văn hóa của con. Nếu con có thể tránh được ý thức trách nhiệm giả tạo, con có thể để yên cho nó sống cách sống hay nhất của nó mà không đòi hỏi hay kỳ vọng bất cứ gì mà nó không thể làm được do vết thương mà nó mang.  

Nhờ vậy con có thể tránh được cảm giác buồn lòng hay bị hất hủi, và thay vào đó, nhìn con mình như một dòng sống bị thương tích mà con cố yêu thương và giúp đỡ trong khả năng đón nhận của nó. Nói cách khác, con không cố ép buộc tình yêu hay sự giúp đỡ của con lên nó, mà ngược lại con chỉ ban ra những gì phù hợp với khả năng tiếp nhận hạn chế của nó.

Nếu con giữ được thái độ này, con sẽ có thể bồi đắp một mối quan hệ xây dựng với con mình kéo dài suốt cuộc đời của nó. Trong trường hợp này, con sẽ có thể lần hồi giúp nó hàn gắn vết thương và tinh tấn vượt bực trong kiếp này. Đây quả thực sẽ là một thành quả vô cùng tốt đẹp cho dù đời nó vẫn kém rất xa những tiêu chuẩn của xã hội hay mực thước tâm linh. Con thấy đó, con người không cần phải sống một cuộc đời toàn hảo để tinh tấn về tâm linh. Thượng đế không phán xét như con người phán xét.

Vượt qua nỗi ân hận đã phá thai – hoặc bất kỳ lỗi lầm nào khác

Hỏi: Xin Thượng đế phù hộ cho thày. Con đã làm theo lời dạy của Joel Goldsmith đã dẫn đường con trở về với con người thật của con – đó là một ơn phúc đã đem lại cho con một chút an bình. Tuy nhiên khi con còn trẻ, con đã một lần phá thai. Con đã cầu nguyện rất nhiều, nhưng con vẫn cảm thấy tội lỗi vô cùng về quyết định đó. Làm thế nào con có thể tha thứ cho chính mình và được tha thứ? Có thêm điều gì nữa mà con có thể làm để ăn năn?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trái tim yêu dấu của thày, cảm ơn con đã cho ta cơ hội để bình luận về cách thức vượt qua sự ân hận khi mình phạm phải bất kỳ lầm lỗi nào. Lời dạy sau đây có thể áp dụng cho mọi người cũng như bất kỳ loại lỗi lầm nào.

Quả là có thêm một điều nữa mà con có thể làm, đó là chấp nhận rằng Thượng đế thương yêu con với một tình thương vô điều kiện, và do đó ngài đã tha thứ cho con rồi!

Điều đang cản trở con trải nghiệm sự tha thứ đó là vì con đã không hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Cho nên điều con có thể làm là chấp nhận rằng ngài đã tha thứ con, và ta, Giê-su Ki-tô, cũng đã tha thứ con. Vì vậy, việc còn lại là con cần tha thứ cho chính con.

Ta biết, bảo một ai đó phải tha thứ chính mình cũng gần giống như bảo một người mù phải mở mắt ra mà nhìn. Tuy nhiên, sự thật sẽ giải phóng con, cho nên con hãy để ta chia sẻ một số ý nghĩ để con suy ngẫm, vì điều này có thể giúp con tha thứ cho bản thân.

Nếu con đọc bài giảng của mẹ yêu dấu của ta, con sẽ thấy Mẹ Mary giải thích là trên địa cầu có một thế lực thèm khát chứng minh là Thượng đế sai trái, chứng minh là Thượng đế đã sai lầm khi ban cho loài người quyền tự quyết. Thế lực này – đúng hơn, một trạng thái tâm thức – sẽ làm đủ mọi cách để khiến cho người ta lạm dụng quyền tự quyết của mình hầu tách mình ra khỏi Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban quyền tự quyết cho các dòng sống, ngài cũng phải cho họ cơ hội đề họ vi phạm quy luật của ngài – vì nếu không thì đâu phải là quyền tự quyết thực sự? Khi trao cơ hội này cho họ, ngài mong họ sẽ thử nghiệm quyền tự quyết của mình, sẽ dần dần hiểu ra lợi ích lớn nhất của họ, và cũng là tình thương cao nhất của họ, là góp phần đồng sáng tạo vũ trụ trong khuôn khổ viễn quan và hoạch định tổng thể của ngài. Quả thực, Thượng đế mong rằng sau khi gửi các dòng sống vào thế giới hình tướng, họ sẽ tự nguyện quyết định xây dựng sự hợp nhất với ngài.

Cho nên mục tiêu hàng đầu của các thế lực chống đối hoạch định của Thượng đế là khiến cho con người tách mình ra khỏi Thượng đế và bị kẹt lại trong một trạng thái tâm thức xem mình là tách biệt khỏi Thượng đế. Để thực hiện ý đồ này, chúng đã gài vô số những cái bẫy trên hành tinh địa cầu. Những cái bẫy này nhắm vào mục tiêu trên hết là khiến cho con người thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế.

Rất nhiều cái bẫy là để khiến con người vi phạm quy luật Thượng đế. Chúng thực hiện chuyện này qua vô số những lời gian dối tạo ra cảm giác rằng chuyện vi phạm quy luật Thượng đế là cần thiết, chính đáng hay có thể chấp nhận được. Chính trạng thái tâm thức này là thế lực ẩn núp đằng sau việc hợp pháp hóa phá thai. Chủ ý là tạo ra một tư duy lôi kéo giới phụ nữ tin rằng mình có quyền quyết định vận mạng của mình, và để có thể tự quyết định, việc lấy đi mạng sống của đứa con trong bụng là một điều có thể chấp nhận được. Như ta đã giải thích trong bài giảng về phá thai, việc phụ nữ quyết định vận mạng của mình quả là một điều chấp nhận được, nhưng không đến mức lấy đi mạng sống của một thai nhi.

Một trong những lập luận tinh vi được sử dụng bởi các thế lực tìm cách gài bẫy con người là bảo rằng một thai nhi chẳng qua chỉ là một cục mô. Nhưng như con đã trải qua ngay trong bản thân, rất nhiều phụ nữ đã phá thai đều trải nghiệm nhiều mức độ đau buồn, hối hận và mất mát khác nhau. Sự kiện này chứng minh một cách không thể nghi ngờ rằng một thai nhi không chỉ là một cục mô, và đó là tại sao một người mẹ nhạy cảm biết rõ việc phá thai đã lấy mất cơ hội cho một dòng sống được hiện thân.

Con có thấy được âm mưu vi tế ở đây? Mặc dù trong cuộc tranh luận về phá thai có nhiều ý đồ đen tối, nhưng chủ ý ở đây là đánh lừa người mẹ lấy đi mạng sống của đứa trẻ trong bụng qua sự thiếu hiểu biết hoặc thiếu mẫn cảm. Vậy bây giờ chúng ta hãy xét xem chuyện gì xảy ra cho một phụ nữ đã phá thai. Trên cơ bản, có hai cách phản ứng.

Ta có thể cam đoan với con là mỗi phụ nữ đã phá thai sẽ đều kinh nghiệm một giây phút sự thật khi cô ấy nhận ra là mình đã lầm lỗi. Tuy nhiên cũng có những phụ nữ hầu như không nhận ra giây phút sự thật này, hoặc họ nhanh chóng gạt nó sang một bên đến độ họ bảo là không thể nhớ rõ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là nếu chân thành xem xét nội tâm, bất kỳ người mẹ nào cũng sẽ nhận ra là mình quả thực đã có một giây phút sự thật trước khi, hay sau khi, phá thai. Điều tương tự cũng xảy ra cho bất kỳ loại lầm lỗi nào mà một người có thể phạm vào. Luôn luôn có một giây phút sự thật.

Khi một phụ nữ chối bỏ giây phút sự thật đó, cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách khoác lấy một tư duy vô cảm đối với sự sống. Cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách chối bỏ sự nối kết của mình với đứa thai nhi trong bụng mình. Cô ấy chỉ có thể chối bỏ sự nối kết này bằng cách chối bỏ nối kết với mọi sự sống, đặc biệt là với chính Mẹ Thiêng liêng. Cho nên điều ta muốn nói là qua sự chối bỏ nối kết với sự sống, cô ấy đã tách mình ra khỏi Thượng đế. Cô ấy nghĩ là mình tách biệt khỏi Thượng đế và do đó cũng tách biệt khỏi mọi sự sống. Đó là tại sao cô ấy mới có thể chối bỏ ý tưởng rằng việc phá thai lấy đi sự sống.

Một khi một phụ nữ chấp nhận phản ứng này, các thế lực bóng tối đã chiến thắng, vì cô ấy đã tự tách mình ra khỏi Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, cô ấy sẽ cố gắng bào chữa cho quyết định phá thai, và khi làm vậy, cô ấy càng khiến cho ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế trở nên kiên cố hơn. Thậm chí cô ấy có thể bỏ sức ra để thuyết phục người khác rằng việc phá thai là phải lẽ, và như vậy cô ấy sẽ khiến cho những người này xem mình là tách biệt với Thượng đế. Giản dị là cô ấy chỉ đang nuôi sống lời dối trá đã khiến mình phạm lỗi ngay từ đầu.

Bây giờ hãy nhìn đến cách phản ứng thứ nhì, là người phụ nữ quyết định nhìn nhận giây phút sự thật của mình. Cô ấy thừa nhận mình đã lầm lỗi, và đây là cơ hội cho cô ấy tự giải thoát khỏi lời gian dối cùng các tà lực. Hiển nhiên, một phụ nữ chỉ có thể quyết định như thế nếu đã nhận ra là mình có sự nối kết với sự sống. Khi công nhận sự nối kết này thì cô ấy cũng công nhận nối kết của mình với Thượng đế. Và tất nhiên, điều này hoàn toàn trái ngược với mong muốn của các tà lực. Tuy vậy. chúng chưa thua trận trong cuộc chiến giành lấy dòng sống của cô ấy đâu, mà chỉ có nghĩa là các tà lực bây giờ phải tung ra Kế 2.

Kế hoạch chủ yếu của tà lực là khiến cho con người chối bỏ sự nối kết của mình với Thượng đế và từ đó phủ nhận là mình đã từng sai lầm. Nếu tà lực không thể ngăn cản con nhìn nhận mình đã lầm lỗi, thì chúng phải thay đổi kế sách. Kế sách mới là tạo cho con một cảm giác tội lỗi, cảm nhận mình là người có tội khủng khiếp đến độ mình sẽ không bao giờ hàn gắn lại được với Thượng đế.

Đối với con là một bà mẹ đã phá thai, tà lực sẽ phóng chiếu vào tâm trí và cảm thể của con ý tưởng và cảm giác là con đã phạm một tội lỗi nghiêm trọng đến nỗi con sẽ không bao giờ, không bao giờ bù đắp được. Chúng cố tình làm vậy để khiến con cảm thấy con sẽ không bao giờ có thể được chấp nhận trong mắt Thượng đế, để con tự tách ra khỏi ngài do thấy mình không xứng đáng được kết nối với ngài. Nói cách khác, chúng cố đảm bảo rằng mặc dù con đã nhìn nhận lỗi lầm, con vẫn không bao giờ thoát ra được lỗi lầm đó.

Con có thấy điều ta nói chăng? Kế đầu của chúng là khiến cho con phạm lỗi rồi phủ nhận mình phạm lỗi, và như vậy con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm bởi mình bị kẹt cứng trong tâm thức đã khiến mình phạm lỗi. Nếu kế đó không thành công vì con đã nhìn nhận mình phạm lỗi, thì tà lực sẽ ra tay để bảo đảm là con cảm thấy tội lỗi đến mức con vẫn không thể thoát khỏi lỗi lầm của con. Chúng sẽ khiến cho con cảm thấy con không bao giờ có thể chuộc lại tội của con. Nói cách khác, âm mưu của chúng ở đây là đánh lừa con khiến con lầm lỗi và vi phạm quy luật của Thượng đế, xong rồi chúng lại đánh lừa con để con không thể thoát khỏi lầm lỗi, thoát khỏi cái tâm thức, cái lời gian dối đứng đằng sau.

Con có thấy âm mưu này tinh vi, nham hiểm đến mức nào không? Con có thấy hàng tỷ người đã bị chúng lừa gạt qua âm mưu này cùng vô số những biến thể của nó hay không? Con có thấy đây không bao giờ là hoạch định của Thượng đế khi ngài ban quyền tự quyết cho những đứa con của ngài?

Thượng đế hoàn toàn không mong muốn nhìn thấy con bị lạc lối trong một trạng thái tâm thức chối bỏ sự hợp nhất với ngài. Ngài chỉ có một mong muốn là thấy con nhận ra sự trọn vẹn của con là đứa con của ngài, một đứa con luôn mang tiềm năng là một với ngài, là người đồng sáng tạo với ngài, và là chính ngài trong vũ trụ vật chất này. Cho nên Thượng đế không bao giờ muốn con rơi vào tâm thức thấp kém xem mình tách biệt với ngài. Vì vậy, một khi con rơi vào trạng thái tâm thức đó thì ngài chỉ có một mong muốn duy nhất, đó là nhìn thấy con vươn lên khỏi tâm thức đó và chấp nhận bản sắc đích thực của mình là một đứa con hoàn toàn vô tội trước Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, ngài cũng ban cho con quyền được thử nghiệm trong khuôn khổ những quy luật tự nhiên đang giữ vững vũ trụ. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi thứ trong thế giới này đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một hình thức rung động, và rung động thì có thể được biến đổi dễ dàng. Vũ trụ vật chất giống như một bãi chơi vũ trụ bằng cát nơi con có quyền xây bất kỳ lâu đài nào con muốn. Một số lâu đài bằng cát đó sẽ không đẹp lắm, nhưng con đâu có thay đổi chất cát, con chỉ đơn giản cho nó một hình dạng xấu xí. Để xóa bỏ lỗi lầm đó, con chỉ cần san bằng lâu đài đã xây và khởi sự xây đắp một lâu đài mới đẹp hơn.

Khi con có một chọn lựa bất toàn và vi phạm quy luật Thượng đế, con đã kéo thấp rung động của một phần năng lượng của ngài xuống. Con làm chuyện này qua quyền năng của tâm con. Nhưng chính sự kiện tâm con đã có quyền năng kéo thấp độ rung của năng lượng Thượng đế cũng chứng minh cho con thấy là tâm con cũng có quyền năng nâng cao độ rung của năng lượng Thượng đế.

Nói cách khác, không có một lỗi lầm nào con có thể làm trong vũ trụ này mà không thể được xóa bỏ toàn diện. Một lỗi lầm chỉ giản dị là năng lượng bị dùng sai, và một khi con nâng độ rung của năng lượng đó lên, lỗi lầm của con được xóa sạch vĩnh viễn. Con có hiểu điều ta nói chăng? Ta đang thực sự nói rằng con người không thể nào gây ra một lỗi lầm vĩnh viễn. Mọi việc con làm trong vũ trụ tạm bợ này cũng sẽ chỉ là một thị hiện tạm bợ, và vì vậy nó có thể được xóa bỏ.

Nếu con làm lỗi, Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi vì đã mắc lỗi. Ngài muốn con nhìn nhận và thừa nhận là con đã làm lỗi, rồi con học được bài học để chọn lựa tốt hơn trong tương lai. Có nghĩa là con phải học cách nhìn thấu và vứt bỏ lời gian dối nham hiểm đã khiến con lầm lỗi.

Một khi con đã học được bài học đó và thật sự vứt bỏ niềm tin hoặc tâm thức đã khiến con làm lỗi, thì việc cảm thấy mình tội lỗi hoàn toàn không mang mục đích xây dựng nào nữa. Thượng đế đã ban cho con sự tự quyết. Ngài đã trao cho con quyền thử nghiệm sự tự quyết đó, ngay cả đến mức vi phạm những quy luật tự nhiên. Ngài làm vậy vì muốn con có cơ hội học được rằng lợi ích lớn nhất cho con là tuân theo quy luật của ngài, và thật ra đó cũng là điều mà dòng sống của con ưa thích làm. Cho nên Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi sau khi mình phạm lỗi. Ngài chỉ đơn giản muốn con cứ tiến bước và học được bài học của lỗi lầm, hầu con vươn lên cao hơn trong tâm thức.

Các tà lực đang cố sức đánh bẫy con vào một trạng thái tâm thức khiến con xem mình tách biệt khỏi Thượng đế. Một cách mà chúng sử dụng là tạo ra toàn bộ cái tâm thức tội lỗi và cảm thấy tội lỗi. Cái tâm thức bảo rằng con không bao giờ có thể được cứu chuộc sau khi đã phạm lỗi không đến từ Thượng đế, và trong bản chất, nó rõ ràng là phản-Ki-tô. Một thông điệp quan trọng nhất của sự đầu thai trên địa cầu là con người có thể được cứu chuộc và sạch mọi lỗi lầm. Con có thể sạch lỗi lầm tới độ lỗi lầm như chưa từng xảy ra bao giờ. Tiếc thay, nhiều người đã làm mồi cho tâm thức của rắn cho nên họ tưởng là mình không thể thật sự được cứu chuộc, và điều này sẽ ngăn chặn họ thực sự chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Một lần nữa, sự quỷ quyệt của tà lực vô cùng to lớn. Nếu chúng không thể gài bẫy con bằng một cách, thì chúng sẽ cố gài bẫy con bằng cách khác. Cho nên điều ta nói ở đây không có nghĩa là con người không nên xem nhẹ khi mình phạm lỗi, hoặc gạt nó sang một bên như là chuyện không đáng kể. Nếu con làm vậy, con sẽ phạm thêm nhiều sai lầm nữa, và cái tâm thức đã gây ra sai lầm sẽ chỉ ăn sâu hơn thêm. Nhưng chính đó là tâm thức đã khiến con mất liên lạc với cái ta tâm linh của con. Vì vậy, mọi người cần cảnh giác là có những chọn lựa đúng đắn cũng như có những chọn lựa không mấy đúng đắn.

Khi con chọn vi phạm quy luật Thượng đế, con đang thực sự làm hại chính con đó. Khi người ta hiểu thực sự mình đang làm gì thì không có ai lại cố tình làm hại chính mình. Thật là không có cách chi con sẽ làm hại chính con nếu con thật biết con đang làm gì. Đó là tại sao con cần cảnh giác và cần thẩm định mọi chọn lựa của mình. Con cần liên tục cố gắng mở rộng tầm hiểu biết – “Hãy dùng hết sức mình để lấy được sự thông sáng” – hầu con có thể nhận ra bằng trực giác một chọn lựa bất toàn.

Hãy cho ta phác họa kịch bản lý tưởng khi con phải đối phó với một lỗi lầm. Mỗi lần con có chọn lựa bất toàn, luôn luôn sẽ có một giây phút sự thật. Con hãy tỉnh giác và nhìn nhận là con đã làm lỗi, xong con cố đạt tới sự hiểu biết sáng suốt nhất là lỗi lầm đã xảy ra như thế nào và tại sao. Con hãy học cách nhìn thấu lời gian dối đứng đằng sau lỗi lầm. Rồi con quyết định con sẽ không lặp lại lỗi lầm. Lý tưởng là con quyết định bỏ lại phiá sau cái tâm thức, lời nói dối đã khiến con phạm lỗi.

Khi con làm như vậy, mỗi lỗi lầm của con trở thành một bực thang dẫn con đến gần hơn với tâm thức Ki-tô. Đây là điều mà Thượng đế muốn xảy ra cho con. Đây là điều chính ta cũng muốn xảy ra cho con. Ta vẫn biết, hầu hết mọi người đều đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và họ cần đi theo một con đường tuần tự dẫn họ tới tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Vì vậy, ta vô cùng mong muốn thấy mọi người có thái độ đúng đắn, nghĩa là mỗi lỗi lầm sẽ đưa họ xích lại gần hơn với tâm thức Ki-tô. Và như vậy, con sẽ chỉ có thể thắng lợi, và tà lực sẽ không còn nắm giữ được con nữa. Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không thể nắm được gì nơi con.

Quá nhiều người đã hiểu lầm câu nói đó của ta. Câu đó không có nghĩa là con phải là người toàn hảo hay phải đạt được trọn vẹn tâm thức Ki-tô thì ác quỷ mới không nắm được gì nơi con. Nó có nghĩa là con cần giữ một thái độ sẵn lòng học hỏi từ lỗi lầm và vứt bỏ lời gian dối, vứt bỏ tâm thức thấp kém là nguồn gốc của mọi lỗi lầm. Con sẵn lòng nhìn nhận lầm lỗi mà không cảm thấy tội lỗi. Giản dị là con học bài học của lầm lỗi và tức khắc bước lên cao hơn trên đường tu tâm linh. Mỗi ngày con để cho một phần của ngã pham phu chết đi, như Paul đã nói. Con bỏ lại con người cũ là tâm nhị nguyên, và con khoác vào tâm Ki-tô. Khi con giữ được thái độ này, ác quỷ sẽ không thể nắm được gì nơi con khi nó lợi dụng lỗi lầm của con để đánh lừa con. Rất có thể là con vẫn còn sót lại một số tin tưởng sai lạc sẽ khiến con lầm lỗi, nhưng mỗi lầm lỗi là một bàn đạp, một bực thang để con tinh tấn.

Con có thấy được điểm quan trọng ở đây chăng? Ta không hề nói rằng việc phá thai là một chuyện đúng đắn. Ta nói rằng phá thai là một lỗi lầm, nhưng đó không phải là một lỗi lầm mà con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Quả thực là con có khả năng tự giải thoát, và bước đầu tiên là nhìn nhận mình đã làm lỗi. Bước thứ nhì là thực sự từ bỏ cái tâm thức đã khiến con làm lỗi. Con thực sự vứt lại niềm tin sai lầm, lời gian dối đã khiến con làm lỗi. Một khi con đã nhìn thấu và bỏ lại lời gian dối đó, con phải biết rằng ngay lúc đó, Thượng đế đã tha thứ cho con rồi. Hiểu được vậy sẽ dẫn con tới bước kế tiếp, là con cần quyết định một cách ý thức là mình hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Mình sẽ bước tới mà không còn bị cảm giác tội lỗi cầm chân lại.

Sau khi đi qua tiến trình biến đổi nội tâm nói trên, con sẽ cần nhận ra là một số lầm lỗi cũng mang một số hậu quả vượt ngoài tâm con. Nếu lầm lỗi đã ảnh hưởng đến những thành phần khác của sự sống, con đã tạo nghiệp dưới dạng năng lượng tha hóa. Để con thực sự thoát khỏi lỗi lầm đó, các hậu quả của hành động của con cần được hóa giải. Nói cách khác, việc phá thai mang những hậu quả cho dòng sống đã có thể được hiện thân khi con có mang. Con có khả năng bù đắp cho sự thể này bằng nhiều cách, như ta đã có giải thích trong bài giảng về phá thai.

Có thể con sẽ mất thời gian để hóa giải những hậu quả tiêu cực đó, và một phụ nữ nhạy cảm sẽ biết được trong trực giác là mình chưa trả được món nợ của mình đối với sự sống. Điều này có thể khiến con vẫn bám lấy một cảm giác tội lỗi cho dù điều này thật là không cần thiết. Như ta đã cố giải thích, con không cần phải cảm thấy tội lỗi một khi con đã từ bỏ tâm thức, lời gian dối, đã gây ra lỗi lầm.

Một khi con đã làm vậy, con cần cho phép mình cảm thấy mình đã sạch tội. Nếu con chưa cảm thấy mình sạch tội thì điều này cho thấy con đang bị các tà lực công hãm, và chúng đang phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào tâm trí và cảm thể của con. Nếu con tìm hiểu bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy trong cảm thể của nhân loại có rất nhiều lực tha hóa. Vì thế, thật là dễ dàng cho tà lực sử dụng lỗi lầm của con để phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào cảm thể con.

Lời khuyên của ta cho con cũng như cho tất cả những ai đã lầm lỗi và tưởng không có lối thoát, là suy ngẫm những điều ta vừa nói ở đây. Ta mạnh mẽ khuyên con nên sử dụng các dụng cụ bảo vệ tâm linh trên trang mạng này để kêu gọi cho tâm trí cùng cảm thể của mình được niêm phong khỏi mọi tà lực đang phóng chiếu tội lỗi, sợ hãi cùng đủ loại cảm xúc tiêu cực khác vào con. Ta khuyên con nên sử dụng lời thỉnh cầu phán xét tà lực, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael trói chặt và tiêu hủy các tà lực đang tấn công cá nhân con. Ta cũng khuyên con nên sử dụng ngọn lửa tím để tiêu hủy mọi nghiệp chướng cùng mọi năng lượng tha hóa phát sinh từ lỗi lầm.

Chót hết, ta khuyên con nên sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để hiểu biết sâu sắc về lời gian dối đã khiến con phạm lỗi. Con cũng có thể dùng kỹ thuật đó để trao cảm giác tội lỗi của con cho ta. Giản dị là con hãy hình dung con bước vào khu vườn và ngồi xuống đối diện ta. Xong hình dung con nắm lấy cảm giác tội lỗi của mình, hoặc bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, rồi nhồi nhét nó vào một quả bóng thật chặt. Rồi con hãy hình dung con cầm bóng ném nó vào trái Tim Thánh của ta, nơi nó lập tức được tình thương vô điều kiện và vô bờ bến của ta tiêu hủy. Con hãy thực tập như thế mỗi ngày một lần, cho đến khi con hết hẳn mọi cảm giác tội lỗi. Ta cam đoan với con là việc đọc nhiều bài thỉnh Mẹ Mary cũng là một cách hữu hiệu để cân bằng nghiệp quả, biến hóa năng lượng tiêu cực, kể cả năng lượng tội lỗi.

Để kết luận, con hãy luôn luôn ghi nhớ rằng con đang sống trong thế giới là một bãi chiến trường giữa hai thế lực đối nghịch. Dòng sống của con là sợi dây thừng mà cả hai bên đều đang cố sức kéo để giành chiến thắng về phe mình. Một bên sợi dây thừng là tất cả những tà lực của địa ngục và sự chết, đang lôi kéo dòng sống của con, ngăn không cho con tăng trưởng. Bên kia là toàn thể các chân sư thăng thiên đang kéo dòng sống của con lên ngày càng cao hơn để con tăng trưởng.

Tuy nhiên, khác với trò chơi kéo co bình thường, rõ ràng có một đội mạnh hơn đội kia vô hạn. Đội của chân sư thăng thiên có năng lực kéo con lên cao bất cứ lúc nào. Vấn đề là các chân sư có một điểm bất lợi thường khiến cho sức mạnh của mình bị vô hiệu hóa, và điểm bất lợi này là những quyết định mà con lấy trong cách con nhìn bản thân con. Nếu con rơi vào lời gian dối của tà lực bảo con là một đứa tội lỗi đốn mạt phải bị dằn vặt đời đời, thì con sẽ trao cho đội kia một lợi thế thái quá cho phép chúng lôi con xuống.

Cho nên con hãy quyết định là con sẽ học cách nhìn thấu lời gian dối của chúng và cho phép các chân sư thăng thiên là anh chị của con kéo con lên cao hơn. Ta chẳng có nói là nếu ta được thăng lên, ta sẽ kéo tất cả mọi người lên với ta hay sao? Con nghĩ là ta nói đùa? Ta có uy lực kéo con lên vào vương quốc của Cha chúng mình miễn là con cho phép ta. Đơn giản, con hãy buông bỏ cảm giác tội lỗi đang buộc chặt con vào tâm thức địa ngục.

Giải thích khái niệm Thượng đế cho trẻ nhỏ

Hỏi: Thế nào là cách giản dị nhất để giải thích khái niệm Thượng đế cho một đứa trẻ nhỏ hay một người không tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Có sự khác biệt khá lớn giữa một trẻ nhỏ và một người lớn không mấy tâm linh. Khác biệt chính là hầu hết mọi đứa trẻ đều rất tâm linh, một thực tế mà, buồn thay, hầu hết người lớn đều không nhìn thấy. Nhiều người lớn thường nghĩ rằng vì trẻ nhỏ không hiểu được các khái niệm và ngôn ngữ của người lớn, chúng không có khả năng tâm linh tinh tế. Đây là một sự hiểu lầm đáng buồn mà ta đã cố chỉnh lại qua câu nói rằng trừ khi con trở thành một trẻ nhỏ, con không thể bước vào vương quốc Thượng đế.

Hầu hết trẻ nhỏ đều mang sẵn một tinh thần tâm linh khiến chúng rất dễ hiểu được và chấp nhận Thượng đế như một Hiện diện luôn luôn ở bên chúng. Cho nên ta sẽ nói thế này cho một đứa bé:

“Con hãy nhắm mắt lại và con sẽ cảm thấy Thượng đế ở với con trong tim con. Khi con đi vào trong tim con, con sẽ luôn luôn cảm được sự hiện diện của Thượng đế bên con. Thượng đế ở đây để bảo vệ con. Thượng đế ở đây để dỗ dành con. Thượng đế ở đây để chỉ cho con làm gì. Con luôn luôn tìm được Thượng đế trong tim con và ngài sẽ luôn luôn hướng dẫn bước con đi trong đời. Vậy Thượng đế giống như một người con không nhìn thấy, luôn luôn ở bên con.”

Khi con cố giải thích Thượng đế cho một người lớn không có khuynh hướng tâm linh, con đối mặt với một tình thế hoàn toàn khác. Do nhu cầu, cách diễn đạt của con phải phù hợp với những tin tưởng, hoặc sự thiếu vắng tin tưởng,  của người đó. Tuy nhiên nói chung, ta sẽ sử dụng những ý tưởng sau đây.  

Hãy đơn giản nhìn vào khoa học. Albert Einstein đã chứng minh là mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một rung động và khoa học đã cho chúng ta thấy có nhiều mức độ rung động khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta biết có ánh sáng mà mắt có thể nhìn thấy và cũng có nhiều loại tia sáng khác mà mắt không thể nhìn thấy. Einstein đã giúp chúng ta hình dung vũ trụ là một tấm thảm liên tục những tần số năng lượng khác nhau, trong đó có một số mà chúng ta không thể phát hiện được bằng giác quan hay bằng dụng cụ khoa học. 

Thật là thú vị khi nhận thấy thế giới quan này ăn khớp với những gì những người tâm linh đã nói từ hàng ngàn năm trước đây, cụ thể là có cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất. Họ gọi đó là thế gới tâm linh, hay cõi tâm linh, nhưng con cũng có thể dễ dàng gọi đó là một dải tần số nơi có những độ rung cao hơn năng lượng của thế giới vật chất. 

Nói cách khác, ngay cả khoa học hiện đại cũng đang chỉ ra một cái gì đó có thể hiện hữu vượt ngoài vũ trụ vật chất. Khoa học đã mở ra khả năng có thể có những sinh thể trí tuệ hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Những sinh thể này có thể là những gì mà người tâm linh thường gọi là Thượng đế hay thiên thần.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào các khám phá của cơ học lượng tử. Ngành vật lý này đã chứng minh là mỗi khi chúng ta quan sát điều gì, chẳng hạn một hạt hạ nguyên tử, điều mà chúng ta quan sát sẽ bị tâm thức của chính chúng ta ảnh hưởng một cách cơ bản. Nói cách khác, các nhà khoa học nay đã chứng minh là mọi điều chúng ta quan sát đều bị tâm thức chúng ta ảnh hưởng.

Thậm chí có cả những nhà khoa học tin rằng tâm thức chúng ta giúp tạo ra thực tại vật lý. Nói cách khác, một số khoa học gia suy đoán rằng nếu không có ai đang đứng nhìn thì mặt trăng không có ở đó. Họ bắt đầu hiểu ra là tâm thức của một người có khả năng ảnh hưởng vũ trụ vật chất. Lý do là vì tâm thức là năng lượng mà vật chất cũng là năng lượng. Tuy nhiên, lỡ năng lượng là một dạng của tâm thức thì sao?

Điều này không khó hiểu lắm đâu khi chúng ta nhận ra rằng tất cả đều là năng lượng. Sự kiện mọi thứ đều là năng lượng đã lật đổ cái hàng rào ngăn chia vật chất với tâm thức. Có nghĩa là cái khái niệm bảo rằng tâm ở trên vật nay đã mang một ý nghĩa mới, một ý nghĩa được ngành vật lý tân tiến nhất hỗ trợ.

Hầu hết mọi người không thể hoàn toàn chấp nhận ý tưởng đó vì họ không thể chấp nhận tâm thức con người có thể tạo ra toàn bộ vũ trụ, và do đó, hầu hết đều gạt bỏ hệ quả triết lý của các khám phá của ngành vật lý. Thế nhưng có một giải pháp khác ngoài việc gạt bỏ các ý tưởng đó. Giải pháp này là nhận ra rằng tâm thức chỉ đơn giản là một hình thức năng lượng, và do đó tâm thức đã phải đóng góp trong việc tạo ra vũ trụ vật chất. 

Tất nhiên, toàn bộ vũ trụ không thể chỉ do tâm thức con người tạo ra. Bởi vì nói cho cùng, làm thế nào con người có thể tạo ra được một hành tinh đã hiện hữu hàng tỷ năm trước khi con người đầu tiên xuất hiện? Một cách giải thích khả dĩ là vũ trụ được tạo ra bởi những sinh thể trí tuệ không hề bị giới hạn trong một thân xác vật lý. Những sinh thể này cư ngụ nơi một cõi cao hơn, một dải tần số cao hơn. Đó là những sinh thể tâm linh mà một số người gọi là Thượng đế.

Những sinh thể trí tuệ đó đã có thể dùng tâm thức của họ để tạo ra vũ trụ vật chất kể cả xác thân vật lý của con người. Những dòng sống của chúng ta sau đó đã đi vào những xác thân này và sử dụng làm phương tiện để trải nghiệm cuộc sống, học hỏi nhiều hơn về chính chúng ta cũng như mối liên hệ của chúng ta với cội nguồn tâm linh chúng ta.

Vì thế Thượng đế là một dạng trí tuệ cao hơn, một dạng tâm thức cao hơn. Tâm thức Thượng đế có thể không khác gì tâm thức chúng ta trên căn bản, nhưng Thượng đế có sự nhận biết rộng lớn hơn về bản thể của ngài và một khả năng sáng tạo rộng lớn hơn chúng ta hiện thời.

Giáo lý nền tảng về các quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Con xin thày Giê-su giúp con hiểu rõ hơn về nghiệp quả mà vợ con phải gánh chịu khi cô ấy bị chứng bệnh tâm thần được mô tả là rối loạn lưỡng cực – tên gọi chính thức là bệnh trầm cảm cuồng điên. Con cho rằng cũng có phần nào nghiệp quả của con vì con đã quyết định chăm lo cho cô ấy trong những lúc rất khó khăn… Nhiều khi con cảm thấy bất lực đến độ con không còn cách nào khác hơn là trao hết mọi tình cảm của con cho Thượng đế, và vững tin là con sẽ có dịp hiểu sâu hơn tại sao chứng bệnh đôi khi tàn hại này lại đến với gia đình con… chúng con đã quá mệt mỏi… về lý trí lẫn tình cảm… nhưng về tinh thần thì cảm ơn Chúa… có cái gì đó mà chúng con chưa hiểu được… con có thể cảm được nhưng không biết đó là gì…   

Suốt 23 năm chung sống với nhau, cô ấy đã phải nhập viện mấy lần… có lúc phải buộc chặt cả hai chân hai tay, và có những lúc con không còn nhận ra cô ấy, dường như cô ấy không còn là chính mình… không còn đối xử với chúng con như khi còn thực là cô ấy… yêu thương và từ bi… đúng hơn, cô ấy có thể đổi ngược lại hoàn toàn chỉ trong phút chốc…

Chúng con có thể làm gì để giúp cô ấy, và cô ấy có thể làm gì để tự giúp mình thoát khỏi cái vòng độc hại này? Con biết là ông (Kim Michaels) quen biết Giê-su, và con xin lỗi nếu dạo sau này con đã yếu đuối… nhưng con muốn bỏ lại và bước đi đường con… trừ khi kinh nghiệm này là để nhằm đào tạo lòng kiên nhẫn, sự kiên trì, đức tin cho những công việc lớn hơn sau này… Con chỉ mong ước được hiểu sâu sắc hơn hầu con có thể giúp ích một cách tối ưu mà không khiến cho căn bệnh trầm trọng hơn… con cảm thấy là chúng con đang làm điều đó để giữ sự bình an… nhưng điều này thực sự không phải lẽ. Bao nhiêu năm trời đi khám bác sĩ đã không giúp được gì nhiều vì bác sĩ thấy rõ tình trạng ngày sẽ càng tồi tệ hơn với tuổi tác, và họ cũng tin rằng chỉ có dược phẩm mới giữ được cho cô ấy tương đối “bình thường”… cô ấy vẫn uống thuốc đấy… nhưng thuốc lại khiến cho có lúc lên lúc xuống, chưa kể những vấn đề khác do phản ứng phụ gây ra… Con xin cảm ơn mọi sự giải thích…  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta cảm ơn sự thành thực và cởi mở của con và ta cũng cảm ơn con đã đặt một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài quan trọng.

Hãy để ta bắt đầu với vấn đề nghiệp quả. Như ta có giải thích ở một nơi khác, điều quan trọng đối với tất cả mọi người tầm đạo thời nay là phải hiểu rõ thực tế của luân hồi và nghiệp quả. Nếu con không hiểu quá khứ ảnh hưởng hiện tại của con như thế nào, làm sao con có thể vượt qua quá khứ và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn? Nhưng cũng không kém quan trọng là con cần có hiểu biết đúng đắn về nghiệp quả, và điều đặc biệt quan trọng là tránh rơi vào cái bẫy xem nghiệp quả là một hình phạt hay một điều gì không thể tránh khỏi.  

Một số người đã kết hợp hai ý tưởng lại với nhau, một là những giáo lý từ phương Đông về định mệnh và nghiệp quả, và hai là ý tưởng rằng con người phải hy sinh hay đau khổ để trả giá cho tội lỗi mà mình đã phạm. Và như vậy, họ lý giâi rằng nếu có điều gì không hay xảy ra cho họ thì nhất định lý do phải là nghiệp xấu từ những kiếp trước. Và nếu họ cứ ráng chịu đựng khổ đau thì họ sẽ trả hết nghiệp và cuối cùng sẽ được giải thoát. Đây là một ngụy biện thật nguy hại đã khiến cho biết bao hành giả tầm đạo chân thành kéo dài đau khổ của mình một cách vô ích.

Mọi thứ trong vũ trụ đều có mục đích và một mục đích duy nhất mà thôi, là giúp con tăng triển. Thượng đế không hề có ý muốn trừng phạt các lỗi lầm đã qua của con, cho nên điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra sự thật rằng nghiệp quả không phải là một hình thức trừng phạt. Nghiệp quả là một cơ hội để tăng triển và con luôn luôn phải nhìn vấn đề như thế. Con thử nghĩ xem, tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con đau khổ, và làm thế nào đau khổ lại có thể bù đắp cho những lỗi lầm đã qua? Thượng đế chỉ mong muốn con bỏ lại những lỗi lầm này đằng sau để con được tự do trở về nhà là vương quốc của ngài.

Con đã từng tạo ra nghiệp khi con có những quyết định bất toàn, và những quyết định này là kết quả của một trạng thái tâm thức giới hạn. Những quyết định đó đã tạo ra một khối lượng năng lượng tha hóa nào đó, và để tái lập quân bình cho vũ trụ, năng lượng phải được tái chế để trở lại thuần khiết như ban đầu. Trước khi con có thể thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh, con phải phục hồi tất cả mọi năng lượng mà con đã làm cho tha hóa trong mọi kiếp sống của con. Con cũng sẽ phải giải quyết mọi điều tin tưởng nhị nguyên trong tâm lý con – những tin tưởng đã khiến con làm nhơ năng lượng. Cho tới khi điều này xảy ra, nghiệp của con – gồm cả năng lượng tha hóa lẫn tâm lý chưa giải quyết – sẽ giống như một sợi dây cao su kéo buộc dòng sống của con về trái đất.

Do đó, việc hồi trả một phần nghiệp của con là một cơ hội cho dòng sống của con được giải thoát. Công việc này gồm hai phần, một là con phải thăng vượt trạng thái tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, và hai là con phải thanh lọc năng lượng.

Vượt qua trạng thái tâm thức cũ thường là công việc khó khăn nhất vì nhiều người có khuynh hướng trốn tránh trách nhiệm phải thực sự thay đổi chính mình từ bên trong. Họ thường đặt trọng tâm vào cái giằm trong mắt người khác thay vì tìm kiếm cái xà trong mắt mình. Đúng ra, nếu con thăng vượt được tâm thức cũ của con trước khi nghiệp quả quay trở lại thì con sẽ rất dễ dàng thanh lọc năng lượng và tránh được xáo trộn trong đời mình. Thậm chí còn có thể nói, chỉ khi nào một người không tỏ dấu hiệu gì muốn thăng vượt một tâm thức nhất định thì nghiệp quả mới đập trở lại với nguyên mãnh lực của nó. Điều này xảy ra như một lời cảnh tỉnh đối với những dòng sống mà không một cách nào khác có thể với tới. Khi quả báo xảy ra thì đó là nỗ lực cuối cùng để đánh thức dòng sống về sự cần thiết phải khắc phục một khiếm khuyết nào đó trong tâm lý mình.   

Về thanh lọc năng lượng, đây là một tiến trình cơ học không khó thực hiện, đặc biệt là khi con đã thăng vượt tâm thức cũ và do đó con không còn làm tha hóa thêm năng lượng. Để biến hóa năng lượng ô nhiễm, con chỉ cần đơn giản cầu thỉnh năng lượng tâm linh có tần số cao từ trên xuống hầu nó nâng cao độ rung của năng lượng ô nhiễm. Điều này có thể thực hiện qua một số nghi thức tâm linh, như được giải thích trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vươt. Tuy nhiên, con cũng có thể đạt được nhiều kết quả duy chỉ bằng cách đáp lại nghiệp quả với một thái độ tích cực, xem nghiệp quả là một cơ hội để con tăng triển và sửa đổi.

Bây giờ con có thấy được làm thế nào người ta có thể khiến cho mọi chuyện khó khăn hơn hay không? Nếu họ không sẵn sàng thăng vượt tình trạng tâm thức cũ – đặc biệt là nếu họ không xem cuộc đời là một cơ hội tăng triển – thì rất có thể họ sẽ không thấy quả báo là một lời cảnh tỉnh. Họ sẽ cưỡng lại nghiệp quả, có lẽ họ sẽ xem đó là một sự trừng phạt, hay họ có thể phản ứng tiêu cực bằng nhiều cách, và những cách phản ứng này sẽ dễ dàng trở thành cái cớ để họ không nhìn vào tâm lý của mình.

Điều này sẽ khiến cho họ đau khổ, và khi làm vậy thì họ lại tha hóa thêm năng lượng, tạo thêm nghiệp chướng trong khi không làm gì để thanh lọc năng lượng của nghiệp báo. Con có thấy điều ta muốn nói không? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng. Con không thể quân bình nghiệp cũ bằng cách cảm thấy đau khổ do nghiệp quả. Làm vậy sẽ chỉ tạo thêm nghiệp, và cứ thế nó trở thành một vòng xoáy tự bồi thêm sức mạnh, kéo con ngày càng xa hơn khỏi tâm thức Ki-tô.

Mục đích của ta khi ta dẫn con qua nguyên phần trình bày ở trên là chỉ ra cho con tầm quan trọng là con không bao giờ được nghĩ rằng con phải chịu đựng lâu dài một tình huống nào đó vì con đã mang nghiệp với một người. Cũng không kém quan trọng là con phải tránh rơi vào cái bẫy mà nghĩ rằng qua sự khổ đau, cuối cùng con sẽ trả hết nghiệp và được tự do bước đi tiếp. Ngược lại là đằng khác, con sẽ tự giam mình chặt chẽ hơn trong một trạng thái giới hạn, thường con sẽ gây thêm nghiệp mới với một người mà con đang có sẵn mối quan hệ nghiệp tạo. Mục đích của mọi tình huống là giúp con tăng trưởng qua sự thăng vượt bản thân. Do đó con hãy đừng cố chịu đựng mà con hãy cố học hỏi bài học và bước tới trong tâm thức. Chịu đựng không có ích gì. Toàn bộ mục đích là để con học được bài học.     

Bây giờ ta sẽ nói tới các mối quan hệ. Mục đích của mọi thứ trong thế gian là để tăng triển và đây cũng là trường hợp của các mối quan hệ. Vậy thì nếu một quan hệ không đem lại tăng triển ít nhất cho một bên, thì thử hỏi tiếp tục quan hệ có được mục đích gì hay không? Nếu đó là một mối quan hệ nghiệp tạo thì hai người đã ở bên nhau trong những kiếp trước. Họ tạo nghiệp với nhau do một người, hay cả hai người, ở trong một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu quan hệ hiện tại không tăng trưởng, đó là vì một hay cả hai người đã không thăng vượt tâm thức cũ. Do đó, rất có thể là cả hai sẽ tạo thêm nghiệp thay vì quân bình nghiệp. Điều ta muốn chỉ ra qua lời giải thích này là sự sai lầm của lối suy nghĩ cho rằng một mối quan hệ phải kéo dài suốt đời, hay con phải chịu đựng một mối quan hệ đã mất hết chức năng (có nghĩa là không còn tăng trưởng nữa) hầu con có thể quân bình nghiệp quả. Thật là sai lầm khi lý luận rằng con sẽ tự động quân bình nghiệp quả bằng cách kiên nhẫn và nhịn nhục lâu dài.

Nhưng ta cũng xin nói rõ là con không bao giờ được dùng lời dạy này để trốn chạy một mối quan hệ. Lời dạy này không được là cái cớ để con không chịu tu sửa bản thân hầu giúp cho mối quan hệ thành công. Nếu con đang ở trong một mối quan hệ khó khăn, con có thể chắc chắn là con đã mang nghiệp với người đó, và điều này bao gồm cả năng lượng bị tha hóa lẫn những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý của con.  

Cho nên con phải xem đây là một cơ hội để tăng triển. Muốn sử dụng cơ hội này, con phải nỗ lực một cách chân thành để khám phá ra tâm thức nào đã khiến con tạo nghiệp với người đó trong một tiền kiếp. Điều này thường tương đối dễ dàng nếu con xét xem điều gì về người đó đang làm cho con bực bội nhiều nhất – mặc dù ta luôn luôn cảnh giác mọi người là phải đi tìm những nguyên nhân sâu xa đằng sau các vẻ ngoài. Con hãy tự hỏi tại sao cách cư xử của người kia khiến con bực bội đến như vậy. Đâu là cơ chế tâm lý trong con khiến con bực bội. Đâu là cái thông điệp ẩn giấu mà đúng lý con phải học được về chính con qua việc xem xét cách phản ứng của con đối với người kia?

Một khía cạnh nữa của việc quân bình nghiệp quả là con phải cư xử với người kia với một thái độ tích cực để con không tạo thêm năng lượng tha hóa, cho dù mối quan hệ có khó khăn đến chừng nào. Nếu con đã thành thật cố hết sức để đáp ứng những yêu cầu này – như người đặt câu hỏi này rõ ràng đã chứng tỏ được – thì con cần phải xem xét sâu hơn nữa.   

Đến đây ta sẽ nói chung chung về những người đang gặp khó khăn trong quan hệ vì người bạn đời của mình mắc bệnh tâm thần trầm trọng. Bất kỳ một chứng bệnh tâm thần nào, kể cả rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder), cũng liên quan đến một sự phân chia trong linh hồn (soul division), có nghĩa là một cái gì ngoại lai đã xâm nhập vào trường năng lượng của dòng sống. Đó có thể là một tà thể ngoại lai (outside entity) hay một bản sắc giả hiệu (pseudo identity) do dòng sống tạo ra trong tiền kiếp. Ta đã có giải thích về điều này trong câu trả lời của ta về phân chia linh hồn cũng như những giáo lý về tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nghiện ngập.   

Tuy nhiên, trách nhiệm của cái Ta Biết là phải cai quản trường năng lượng của chính nó, cho nên lý do duy nhất một tà thể ngoại lai có thể xâm nhập vào dòng sống là vì cái Ta Biết đã từ bỏ trách nhiệm của nó. Nguyên nhân có thể rất dễ hiểu, chằng hạn một chấn thương trầm trọng trong một tiền kiếp, nhưng cũng có thể là một lỗi lầm nghiêm trọng hay một sự nổi loạn chống lại Thượng đế mà cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn nhận. Dù nguyên nhân là gì, vấn đề đang ngăn cản dòng sống trở lại toàn vẹn là cái Ta Biết đã rút lui, đã bỏ rơi trách nhiệm cai quản của nó, và đã cho phép một tà thể khác tiếp quản, ít ra là đôi khi.

Điều ta muốn nói ở đây là ta vô cùng thương xót những người gặp phải vấn đề này, tuy nhiên sự thương xót không thể biến thành sự đồng tình, bởi vì như vậy sẽ chỉ giúp cho người đó tiếp tục duy trì tình trạng bất toàn của họ. Lòng từ bi đích thực là sự kêu gọi hành động, để con làm hết sức con hầu giúp cho người kia khắc phục được tâm trạng tê liệt, giành lại quyền ngự trị trên trường năng lượng của mình và do đó tống khứ kẻ ngoại xâm.

Nếu con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, có thể đó là do một số nguyên nhân:

  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã gây chấn thương trầm trọng cho người đó.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó phạm vào lỗi lầm nghiêm trọng.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó nổi loạn chống lại Thượng đế hay quy luật của Thượng đế.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để tạo cơ hội tăng triển cho người đó. Con muốn giúp người đó và động lực của con là tình thương.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để học hỏi một số bài học mà con muốn học. Thường con có thể trực nhận được nguyên do tại sao như thế, nhưng điều này không thật sự quan trọng. Bất kỳ quan hệ nào cũng là một cơ hội tăng trưởng, và đối với con điều này có thể mang hai ý nghĩa:
  • Con đang có cơ hội phát triển bản thân. Do đó con phải nỗ lực học hỏi mọi bài học mà con có thể học được từ quan hệ này. Nó bao gồm việc khám phá và chữa lành những sự mất quân bình trong linh hồn con do người kia làm cho hiển hiện lên. Nhưng nó cũng bao gồm con học cách cư xử với người khác để giúp họ có năng lực tăng trưởng thay vì giúp họ cứ giữ nguyên như cũ.
  • Người kia đang có cơ hội phát triển bản thân. Nhưng sự khác biệt ở đây là con không thể ép buộc người khác phải học một bài học. Con chỉ có thể tìm cách giúp cho người đó học hỏi dễ dàng hơn mà thôi. Con có thể làm hết sức mình để tạo cơ hội cho người kia học hỏi, nhưng nếu họ bỏ qua mọi cơ hội thì sẽ tới một điểm khi mối quan hệ không còn phục vụ mục đích xây dựng nào nữa. Có thể đã đến lúc con phải bước ra đi, và nếu con là một người tầm đạo chân thành đang trung thực muốn học những bài học của mình, trực giác của con sẽ nói cho con biết đó là lúc nào. Để được trợ giúp về điểm này, con hãy nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.

Khi con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, con cần luôn luôn lưu ý điều sau đây. Người đó bị bệnh do một sự thiếu toàn vẹn trong dòng sống. Nhưng nguyên nhân là vì họ đã không sẵn sàng nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm cho hoàn cảnh của mình và giành lại chủ quyền mà mình đã đánh mất trong quá khứ. Con không thể ép buộc một người như thế trở nên toàn vẹn. Họ chỉ có thể phục hồi sự toàn vẹn qua một quyết định ý thức của ý chí. Nếu họ khăng khăng từ chối không chịu sử dụng sức mạnh ý chí của mình thì rất có thể không gì sẽ giúp họ được nữa.  

Tuy nhiên, liệu con đã làm hết sức mình để giúp người kia đạt đến bước ngoặt để họ sẵn sàng sử dụng ý chí và giành lại chủ quyền hay không? Con cần luôn nhớ rằng một người đã mất đi sự toàn vẹn sẽ dùng đủ mọi cái cớ để trốn tránh trách nhiệm và trốn tránh sử dụng ý chí. Một người như vậy thường hay dùng ý chí mạnh mẽ để tránh phải sử dụng ý chí hầu thay đổi tình trạng của mình. Nói cách khác, họ sẽ nỗ lực nhiều hơn để biện minh cho những cái cớ họ không thể tự chủ thay vì họ nỗ lực tự chủ. Trong tình trạng hiện nay của khoa học còn hiểu biết giới hạn, việc đưa ra chẩn đoán rằng đây là bệnh tâm thần có thể trở thành một cái cớ toàn hảo để họ không nỗ lực tự chủ. Người ta quá dễ dàng chấp nhận căn bệnh vượt ngoài vòng kiểm soát của bệnh nhân, và vì vậy sẽ uống thuốc để làm tê căn bệnh mà không đối diện với vấn đề cơ bản nằm bên dưới.

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự muốn giúp người đó, có thể con sẽ cần bắt buộc họ phải đối diện với vấn đề. Con có thể làm bằng nhiều cách, nhưng tất cả mọi cách đều liên quan đến quyền của con trong việc thiết lập ranh giới cho những gì con có thể chấp nhận trong một mối quan hệ. Tùy hoàn cảnh cụ thể, một điều chính đáng là con nói rõ những gì con có thể, hay không thể, dung thứ trong cách cư xử của người kia. Con có quyền yêu cầu họ làm hết sức mình, kể cả việc sử dụng những dụng cụ tâm linh mà khoa học chưa công nhận để thay đổi tình trạng này. Con có quyền yêu cầu người đó chứng tỏ là họ sẵn sàng thay đổi và sẽ nỗ lực thay đổi.

Tuy nhiên để điều này thực sự có hiệu quả, rất thường khi con không được cho người kia một lối thoát mà qua đó họ có thể trốn tránh nhận lấy trách nhiệm, lấy lại tự chủ. Cho nên nhiều khi con sẽ phải nói rõ là nếu con không thấy động thái nào giải quyết được vấn đề, kể cả phải ngừng hẳn một số hành vi cụ thể nào đó, thì con sẽ chấm dứt quan hệ và bước đi đường con.   

Ta cũng biết là trong một số trường hợp, điều này vẫn không đủ để người đó thức tỉnh, và vì thế khi con chọn cách này, có thể con sẽ phải kết thúc mối quan hệ. Nhưng nếu con đã làm tất cả những gì con có thể làm để học hỏi chính những bài học của con và giúp cho người kia học hỏi bài học của họ, thì có thể đây là kết qủa tốt nhất trong hoàn cảnh đó. Ngay cả nếu người kia không tăng trưởng qua kinh nghiệm này, riêng con vẫn có thể bước vào những cơ hội tăng trưởng mới. Và trong một số trường hợp, cách hành xử thẳng thắn này nhằm thiết lập ranh giới có thể là cách duy nhất để đánh thức một người, giúp người đó thực sự đối phó với vấn đề thay vì tìm cách che giấu các triệu chứng.  

Một số người có thể bảo rằng hành động cứng rắn như vậy là vi phạm quyền tự quyết của người kia. Tuy nhiên đó là một cách lý luận thô sơ, bởi vì người mắc bệnh tâm thần đã trao quyền tự quyết của họ cho một tà thể ngoại xâm rồi. Con không tìm cách kiểm soát người đó như tà thể ngoại xâm kia đang làm. Con chỉ cố xóc nảy lên để họ bước ra khỏi tình trạng tê liệt tâm linh hầu họ có thể tự do sử dụng quyền tự quyết của họ như trước. Thêm vào đó, chính con cũng có quyền tự quyết của con mà con có bổn phận phải sử dụng. Nếu con ở lại trong một quan hệ với một người bệnh tâm thần mà không bao giờ đặt ra ranh giới cho những gì con sẽ, hay không thể, dung thứ thì chính con đang đình chỉ quyền tự quyết của con.  

Người kia đã làm vậy rồi, thế nhưng nếu con cho phép quyết định đó của họ khiến con cũng đình chỉ quyền tự quyết của con thì con sẽ tạo nghiệp. Con không chịu trách nhiệm về những chọn lựa của người kia, nhưng con sẽ chịu trách nhiệm khi con để cho chọn lựa của họ tác động lên chọn lựa của con như thế nào. Cho nên con hãy cẩn thận đừng sử dụng tâm trạng tê liệt của người kia làm cái cớ để con bước vào, hay ở lại, trong tâm trạng tê liệt của con. Đừng bao giờ cho phép tự ngã của con sử dụng một người từ chối tăng trưởng làm cái cớ để con không tăng trưởng. Con chịu trách nhiệm về cuộc đời của con, kể cả khi con cho phép người khác tác động lên con.  

Ta cũng xin nói thêm là đối với nhiều người tâm linh, cách giao tiếp trực tiếp, thẳng thắn cũng chính là bài học mà họ đã đến đây để học trong kiếp này. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con đã đầu thai ở một thời điểm quyết định trong lịch sử địa cầu. Chúng ta đang chuyển tiếp từ thời đại Song ngư cũ sang thời đại Bảo bình mới. Để chuyển tiếp thành công, mỗi người cần tỉnh giấc để nhận ra tiềm năng tâm linh của mình. Thế nhưng nhiều người lại không chịu thức giấc bởi vì làm vậy sẽ đòi hỏi họ nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về cuộc đời cũng như về hành tinh của họ – nó sẽ đòi hỏi họ phải thay đổi. Họ thường hay cưỡng lại một cách tích cực và vì thế, cách duy nhất để đánh thức họ dậy là biểu đạt một cách trực tiếp, có khi khích động. Đó là tại sao con đã thấy ta có cách hành xử rất thẳng thừng, sống sượng đối với loại người từ chối không chịu thức giấc như các thày thông giáo và người Pha-ri-si chẳng hạn.

Có rất nhiều người tâm linh đã hiện thân trong thời điểm này vì mong muốn đánh thức con người, nhưng họ lại không hoàn thành được vai trò này chính vì họ ngại nói thẳng với những người còn đang ngủ yên về mặt tâm linh. Điều này cũng bình thường thôi. Nếu con là người tâm linh thì bình thường con rất tôn trọng người khác cũng như quyền tự quyết của họ, cho nên con ngại nói thẳng. Tuy nhiên, nói thẳng để đánh thức họ mở mắt ra với sự sống vĩnh hằng thì không phải là vi phạm quyền tự quyết. Trái lại, đó là một bước cần thiết để ngăn chặn các dòng sống bị lạc đường.

Nhiều người tâm linh có vai trò quan trọng trong sự thức tỉnh sắp tới cần học cách cư xử thẳng thắn hầu đáp ứng được lý do họ có mặt ở đây. Và điều này có nghĩa là họ phải khắc phục xu hướng nhượng bộ người khác hầu giữ hòa khí và yên ổn. Thật sự, có cả những dòng sống mong muốn học hỏi bài học này đến độ họ sẽ cố tình bước vào những quan hệ vô cùng khó khăn để buộc mình phải đối mặt với bài học đó. Đối với người hiểu biết thì một lời nói như vậy cũng đũ rồi.

Tại sao hầu hết quan hệ tình yêu lại tan vỡ

Hỏi: Chúng ta chứng kiến hầu hết quan hệ tình yêu đều thất bại. Tại sao con số thất bại lại lớn đến thế và đâu là những nguyên lý mà quan hệ trong thời đại mới nên theo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đây là một chủ đề rất rộng lớn, bao quát, và các chân sư sẽ từ từ đưa ra thêm lời dạy cụ thể về các mối quan hệ. Nhưng điều có thể nói được ở thời điểm này là sự thất bại của mọi mối quan hệ con người đều do sự mất cân bằng giữa các yếu tố nam và nữ nơi mỗi người trong quan hệ.

Vì vậy con thường thấy người ta – trong sự mù quáng của mình – bước vào phản ứng của tự ngã là đổ lỗi cho người kia. Và điều này liên quan đến những điều phải có và những điều không được có. Bởi vì khi con có sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ trong bản thân con, con cũng có một hình ảnh sai lệch về những gì phải có mặt hay không được có mặt trong mối quan hệ cũng như trong đời con.

Con tạo ra một chiếc hộp tư duy, và người đầu tiên mà con đặt vào hộp tư duy này là chính con. Do sự mất cân bằng đó, con cảm nhận là con không toàn vẹn, phần nào thiếu hụt. Và như vậy khi con bước vào một mối quan hệ, con cũng bước vào với tâm thức khiếm khuyết, thiếu sót một thứ gì đó, và con cần phải đạt được thứ đó từ mối quan hệ. Con tìm kiếm một người có thể khiến cho con toàn vẹn, để họ bù đắp cho điều mà con cảm thấy thiếu sót, khiếm khuyết nơi bản thân con. Và do đó, con dựng lên một sự chờ đợi rằng người kia phải làm hay không được làm một điều gì đó, hầu tự ngã của con cảm thấy nó trọn vẹn và an toàn.     

Thế nhưng khi con học hỏi giáo lý về tự ngã, con sẽ thấy rõ đây là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Vì tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn và an toàn được – chỉ có cái Ta Biết của con mới có thể cảm thấy trọn vẹn và an toàn. Bởi vì con chỉ có thể cảm thấy mình trọn vẹn và an toàn khi con ngừng tìm kiếm bất cứ thứ gì, kể cả người khác, trong cõi vật chất để bổ sung cho mình đầy đủ. Thay vào đó, con yêu dấu, con hãy chuyển sự chú ý của mình để nhìn ra sự trọn vẹn đến từ chính cái Ta cao hơn của con, và cái Ta này thì đã sẵn viên mãn trong cách Thượng đế tạo lập ra nó như là sự nối dài của chính ngài.

Và như vậy, con có thấy chăng là khi con cho phép con bước vào cái trường bóp méo thực tại của tự ngã, con sẽ tưởng là con bất toàn, con tưởng là người kia sẽ phải bổ sung cho con, và do đó họ phải làm chuyện này và không được làm chuyện nọ hầu con cảm thấy trọn vẹn, làm chủ được mọi chuyện. Thế nhưng trong sự mù quáng, con không thấy được là những người mà con thu hút cũng bị mắc kẹt trong tự ngã như con – bởi vì nếu con hoàn toàn trụ vững nơi cái Ta cao hơn thì con đã không thu hút những loại quan hệ như thế.

Cho nên khi con bị tự ngã làm cho đui mù, con sẽ thu hút những người cũng bị đui mù bởi tự ngã, cho nên hoặc là họ sẽ khuếch đại sự mất cân bằng nơi con – để nó hiện ra rõ hơn – hoặc họ sẽ rơi vào cực đoan đối nghịch với cực đoan của con, và như vậy sự mất cân bằng của con cũng sẽ hiện ra rõ hơn.

Một mối quan hệ dựa trên sự khiếm khuyết gần như bắt buộc phải gập ghềnh, gai góc ngay từ đầu. Và thật vậy, con sẽ thấy nhiều mối quan hệ kết thúc rất nhanh chóng khi cả hai bên đổ lỗi cho bên kia là đã không làm đủ những gì đáng lý phải làm. Và do đó, họ đã có lý khi họ cắt đứt quan hệ và đổ lỗi cho cái giằm trong con mắt của người kia thay vì nhìn vào cái đà trong mắt mình.   

Một số quan hệ đạt được một thế quân bình nào đó khi cả hai người đều học được cách không nhấn trúng cái nút của tự ngã nơi người kia, và như vậy họ bước vào một tư thế có thể gọi là thỏa hiệp đình chiến, coi như là một nền hòa bình tương đối cho phép cả hai người duy trì một mối quan hệ với nhau. Tuy nhiên, đây là loại quan hệ không đem lại tăng trưởng tâm linh, hay ít ra đem lại tăng trưởng rất chậm. Sau cả một đời quan hệ với nhau, rất có thể họ chỉ tăng triển được một phần rất nhỏ tiềm năng phát triển của họ, là tiềm năng mà họ có trong kiếp này nếu họ đã sẵn lòng hơn nhìn vào cái đà trong mắt mình.

Con là một người tâm linh cần nhận ra là khi con có xung đột trong quan hệ với người khác, con cần tìm kiếm cái đà trong mắt con. Con cần xem xét tình trạng cân bằng giữa nam và nữ trong chính con.   

Con cần sử dụng những giáo lý cùng những dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, như các bài nguyện tràng hạt và các bài thỉnh khác, về sự cân bằng hai khía cạnh nam và nữ nơi bản thân con, hầu con có thể tìm thấy một quan hệ quân bình với người bạn của con, cho dù đó là một mối quan hệ thông thường giữa người nam và người nữ, hay ngay cả quan hệ với cha mẹ, anh chị em, đồng nghiệp hoặc bất cứ ai mà con quan hệ một cách chung chung.

[Ghi chú: Bạn cũng có thể dùng Bài thỉnh để yêu thương mình, hầu chữa lành cảm giác không toàn vẹn.]

Hàng triệu người Hồi giáo đã sẵn sàng thay đổi nhưng rất ít dám lên tiếng công khai

Hỏi: Sau đây là một số điểm con đã học được từ thày về Hồi giáo:

  • Muhammad là một vị sứ giả được sắc phong từ cõi thiêng liêng cho dù chưa chứng quả vị Ki-tô,
  • Nhiều phần rộng lớn của kinh Quran đã được Muhammad truyền đạt nguyên vẹn, đặc biệt là những chương surah tiên khởi,
  • Sau khi ông từ trần, những người theo ông đã bỏ thêm nhiều điều vào lời dạy của Muhammad,
  • Đạo Hồi được dự định là một tôn giáo cho các dân tộc Ả rập chứ không phải cho thế giới nói chung.  

Những câu hỏi của con:

  1. Ích lợi ngày nay của kinh Quran là thế nào như một phương tiện hướng dẫn tâm linh?
  2. Kinh Quran ngày nay có thực sự là quyển kinh mà Muhammad đã chuyển giao? Chẳng hạn, kinh được sắp xếp theo độ dài của các chương surah chứ không theo thứ tự thời gian. Nếu một quyển sách chỉ dẫn mà sắp xếp sai lộn thì có ích gì?
  3. Liệu người đạo Hồi thời nay có cầu nguyện giống như Muhammad thuở đó hay không? Hay đây là một sáng chế của con người?
  4. Liệu thế giới Hồi giáo có thể thay đổi hay không? Dường như trong các tín đồ đạo Hồi, không có chút khả năng tự xét và tăng trưởng nào. Con nghi ngờ người đạo Hồi có thể vượt lên trên các tin tưởng hiện thời của mình và xây dựng một cách hành đạo mới mẻ, hợp thời hơn.

Con biết thày đã yêu cầu chúng con phải tự tìm lấy câu trả lời, và đây là điều con đang cố làm. Con là người đạo Hồi và con có nhiều vấn đề nghiêm trọng với đạo của con. Thay vì vứt bỏ toàn bộ một sớm một chiều, con muốn thay đổi lần hồi, vì thế con mới đặt những câu hỏi này.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2010.

Câu hỏi 1: Bất kỳ phương tiện nào cũng chỉ hữu ích tới mức mà người dùng đem ra áp dụng. Nếu có một cách thức máy móc nào đó để đưa con người vào thăng thiên, thì từ lâu người ta đã tìm ra cách này rồi. Chúng tôi là những chân sư thăng thiên đã hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách tìm kiếm con đường chân chính, là con đường luôn luôn sáng tạo ở bên trong mỗi chúng tôi. Vì vậy chúng tôi không có ý định phát triển, hay trao truyền, một con đường tu tập máy móc tự động, vì chúng tôi biết điều đó không thể làm được. Chỉ có người vô minh mới đi tìm một con đường cứu rỗi hoàn toàn bảo đảm – đó chính là giấc mơ của tự ngã nhằm đạt được đời sống bất tử mà không cần phải thăng vượt chính mình và cũng không cần cho tự ngã phải chết đi.      

Dẫn dắt tâm linh đã và sẽ không bao giờ là chuyện thảo ra một quyển kinh vỏ ngoài hay một bộ quy tắc toàn hảo. Dẫn dắt tâm linh phải đến từ bên trong, từ Hiện diện TA LÀ của con như ta đã mô tả trong bài giảng của ta. Một bộ kinh vỏ ngoài – cho dù đó là kinh Quran, Kinh thánh, những lời dạy bí truyền của thuở xa xưa hay chính trang mạng này – sẽ chỉ hữu ích tới mức nó kích thích khả năng của con bước vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của con ở đó. Khi một hành giả sử dụng một nguồn tài liệu vỏ ngoài với ý xem đó là một con đường bảo đảm, thì con đường này sẽ không bao giờ dẫn tới sự tự thăng vượt đích thực. Nó sẽ chỉ dẫn vào ngõ cụt của niềm kiêu hãnh tâm linh, nơi con tưởng rằng Thượng đế sẽ phải đón nhận con vì con đã tuân thủ một chuẩn mực được dựng ra trên địa cầu.      

Kinh Quran có tiềm năng là một nguồn kích thích để con bắt liên lạc với Hiện diện TA LÀ của con nơi nội tâm. Nhưng thực tế là đại đa số người đạo Hồi không sử dụng kinh Quran như vậy, y như đại đa số người đạo Cơ đốc cũng không sử dụng Kinh thánh theo cách đó. Tuy nhiên, đâu có lý do gì một học trò tâm linh như con lại cho phép số đông đó lôi kéo con xuống? Không một người nào đã từng thăng thiên mà lại đi theo số đông, hay ngay cả để tai nghe lời đám đông.  

Cho nên nếu con có gan đọc sự thật ở giữa những dòng chữ và cho phép kinh Quran hướng dẫn con, quả thực là nó có thể là một phương tiện hữu dụng cho con – cho dù cách sắp xếp trong đó không được hoàn hảo.

Câu hỏi 2: Không, kinh Quran hiện tại không trung thành với những gì Muhammad đã giao lại. Tuy nhiên, nó vẫn gần với sự mặc khải được trao cho Muhammad hơn là kinh Tân ước gần với lời dạy chân truyền của ta. Vì vậy, nó vẫn hữu dụng cho những ai biết vượt khỏi ngôn tử vỏ ngoài và tìm kiếm LỜI bên trong.

Chắc chắn, nếu các chương surah được sắp xếp theo đúng thứ tự nguyên thủy thì sẽ tốt biết mấy, vì như vậy người học kinh sẽ có thể bỏ qua – hoặc đọc với một con mắt phân biện cao độ – những chương surah hậu sinh vì rõ ràng những chương này đậm nét rung động nhị nguyên. Một số lãnh đạo tiên khởi của đạo Hồi vô cùng lầm lạc đã cố gắng hết sức để khiến cho việc phục hồi thứ tự này gần như bất khả thi. Nhưng một lần nữa, nếu con sẵn sàng sử dụng sự hướng dẫn nội tâm trong con, thì việc cảm nhận độ rung khác biệt giữa những chương surah trước và những chương sau sẽ không khó khăn lắm.

Ở đây, ta không bảo là ta khuyến khích mọi người chỉ học một quyển kinh Quran mà thôi. Bất cứ ai mở tâm ra để vượt ra ngoài ngôn từ vỏ ngoài không nên giới hạn tâm mình vào một nguồn học hỏi duy nhất – kể cả trang mạng này. Con luôn luôn nên nghiên cứu nhiều nguồn khác nhau, và ở mỗi thời điểm, con hãy tập trung vào nguồn học nào đánh động tâm con sâu xa nhất, rồi con cho phép con thay đổi với thời gian.

Câu hỏi 3: Trong những năm đầu tiên, Muhammad hiểu được thông điệp ở trung tâm kinh Quran – cũng như mọi kinh chân truyền khác. Thông điệp đó là Thượng đế chân thực vượt khỏi mọi hình tướng, vượt khỏi tất cả những gì mà kinh sách hay nghi thức tôn giáo có thể nắm bắt. Cho nên ông đã cầu nguyện bằng cách đi sâu vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của ông theo cách hiểu của ông. Đây là điều mà mọi nhà thần bí đích thực đã làm khắp các thời đại, và Muhammad khởi đầu như một nhà thần bí đích thực.

Khi con hiểu rằng Thượng đế chân thực duy nhất vượt mọi hình tướng, thì thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng Thượng đế chỉ có thể được tìm thấy tại một địa điểm nhất định trên địa cầu. Nếu cho rằng Thượng đế vô hình tướng có thể được gắn liền hay giới hạn trong một hình tướng, thì đó chính là khuyết điểm của chủ nghĩa độc thần. Muhammad hiểu rõ điều này, nhưng những người theo ông thì không. Họ cần một tiêu điểm vật lý để mà thờ phượng, và Mohammad sau này rơi vào lỗi lầm là “cho người ta những gì người ta muốn”. Ông nghĩ rằng làm như vậy là phụng sự Thượng đế, nhưng không phải vậy.

Bản thân ta đã không rơi vào lỗi lầm đó. Ta đã không để lại kinh điển nào, và thậm chí ta cũng không để lại cả một xác thân vật lý. Tất nhiên, những điều này được thêm vào sau này, vì vậy cho dù Muhammad không làm những việc ông đã làm, thì tín đồ của ông cũng sẽ tạo ra những biểu tượng vật lý đó.

Muhammad hiểu được trung tâm điểm của đạo Hồi là một Thượng đế vô hình tướng, và ông biết rõ sự nguy hại nếu cho phép vị tiên tri trở thành quan trọng hơn cả nguồn gốc của tiên tri. Do đó ông không muốn người đạo Hồi quá tập trung vào Mecca. Thay vì cầu nguyện hướng mặt về phía Mecca, ông mong muốn họ cầu nguyện bằng cách bước vào nội tâm, và Allah cũng vậy. Con không thể tìm thấy Allah tại Mecca mà chỉ nơi vương quốc của ngài là bên trong chính con.     

Cách cầu nguyện phức tạp của nhiều người Hồi giáo thời nay một lần nữa thể hiện ý muốn tạo ra một con đường vỏ ngoài máy móc sẽ bảo đảm sự cứu rỗi của người theo đạo. Nó cũng chẳng khác gì một số người Tây tạng tin rằng nếu họ quỳ lạy một vạn lần thì họ sẽ được bảo đảm một số phúc lợi nào đó. Đây là con đường vỏ ngoài sẽ không dẫn con đến thăng thiên. Trong khi đó thì một nghi thức thật giản dị là làm cho tâm trí mình không còn chứa một định kiến nào nữa và hoà điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, sẽ lợi ích hơn gấp bội.

Câu hỏi 4: Phải nói là thỉnh thoảng các chân sư thăng thiên cũng tự đặt câu hỏi này. Nhưng một lần nữa, chúng tôi nhớ lại chỉ cách đây vài thế kỷ, thế giới Cơ đốc giáo cũng từng khép kín đến chừng nào. Mặc dù đa số người dân tại phương Tây vẫn chưa mở tâm ra để bước vào bên trong, nhưng ít nhất xã hội Tây phương ngày nay cởi mở hơn so với 2, 3 trăm năm trước rất nhiều.   

Vì thế tất cả chúng tôi đều thấy được là với thời gian, sự thay đổi trong thế giới Hồi giáo sẽ không thể tránh được. Nếu không thì định luật thứ hai của nhiệt động học chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hỗn loạn đến độ người Hồi giáo bắt buộc sẽ phải thay đổi mà thôi. Nhưng tất nhiên, tất cả chúng tôi đều hy vọng là sự thay đổi sẽ xảy đến do sự sẵn sàng cởi mở của mọi người.

Và đây là điểm mà con và những người như con có thể đóng góp. Con hãy đừng vứt bỏ đức tin Hồi giáo của con. Thay vào đó, hãy làm tất cả những gì con có thể làm để nêu lên vấn đề và tìm kiếm những người có cùng quan tâm như con. Hãy tổ chức và giúp đỡ lẫn nhau để quảng bá một cách tiếp cận mới, cởi mở hơn.

Con có thể nghĩ là con lẻ loi một mình, nhưng ta có thể cam đoan với con là có hàng triệu người đạo Hồi chia sẻ cùng quan tâm với con cũng như nhu cầu phải thay đổi. Hàng triệu dòng sống đã, như con, tình nguyện hiện thân trong đức tin đạo Hồi là để đem lại thay đổi trong thời điểm này. Sự thay đổi này gần kề hơn là con nghĩ, cho dù nó chưa đạt được túc số quyết định sẽ khiến nó biểu hiện ra một cách công khai và không thể chối cãi.  

Con hãy tìm hiểu bài giảng của ta về những nguyên nhân kích hoạt sự thay đổi, và con sẽ nhận ra là trong số tín đồ đạo Hồi có một lớp 10% ở trên cùng với sức mạnh tiềm năng rất lớn, đặc biệt là khi họ thức tỉnh và hợp sức lại với nhau. Cho nên con hãy đừng bỏ rơi đức tin Hồi giáo, mà con hãy nâng nó lên bằng cách con nâng cao chính tâm thức của con rồi giúp người khác cũng làm tương tự như con.

Giáo lý nền tảng về hôn nhân và ly dị

Hỏi: Liệu chế độ một vợ một chồng có thích hợp cho xã hội chúng ta? Trong quá khứ, người ta thường giữ đúng lời hứa hôn nhân, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu sự hiệp thông tâm linh giữa vợ chồng phai nhạt đi theo thời gian hoặc không thể gắn bó được – hoặc thậm chí, nếu một trong hai người vẫn cảm thấy gắn bó nhưng người kia thì không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như con nói, xưa kia việc giữ lời hứa sống chung với nhau là điều thông thường hơn bây giờ. Ngày nay điều này không đúng nữa và nhiều tín hữu Cơ đốc giáo xem đây là một dấu hiệu đạo đức đã suy đồi. Tuy nhiên, vấn đề không giản dị như vậy.   

Như ta có giải thích, nhân loại đang được nâng lên một tầng tâm thức cao hơn. Trong thời đại hôm nay, lý tưởng là con người nên có sự hiểu biết hợp lý hơn về các quy luật của Thượng đế hầu họ sử dụng các quy luật này một cách ý thức và tự nguyện đứng thẳng hàng với mục đich của Thượng đế.   

Tiếc thay, đạo Cơ đốc chính thống đã không đáp ứng được tiềm năng cao nhất của mình và đã không đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về quy luật Thượng đế. Các giáo hội Cơ đốc đã đặt trọng tâm vào cái nhìn đầy sợ hãi về sự sống và cố gắng bênh vực những giáo điều của quá khứ thay vì truyền rải sự hiểu biết cao hơn cần thiết cho tương lai.

Kết quả là tình trạng hiện tại và ngày càng có nhiều người không còn thỏa mãn với sự tin tưởng mù quáng nữa. Họ không thể mù quáng tuân theo quy luật cùa Thượng đế vì họ không bao giờ được trao sự hiểu biết đích thực về con đường dẫn tới quả vị Ki-tô. Kết cuộc là họ thường nổi loạn, bác bỏ giáo lý và luật lệ của giáo hội mà không thay thế bằng một hiểu biết cao hơn do đã đích thân bước đi trên con đường Ki-tô.   

Nhiều người bây giờ rơi vào trạng thái tâm thức chối bỏ luật lệ cũ, chẳng hạn như lời thề hôn nhân, và họ cho rằng thế nào cũng được. Nói cách khác, nếu mình thích thì cứ việc làm, không có gì sai trái hết. Điều này khiến cho nhiều người, kể cả một số người thật sự tâm linh có tiềm năng biểu hiện tâm Ki-tô, trụ neo trong tâm nhị nguyên và tự ngã phàm phu thay vì nơi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ. Do đó họ không thấy được một ý nghĩa tâm linh nào trong hôn nhân và thường chấm dứt cuộc hôn nhân từ một động cơ thấp kém. Sau đây ta sẽ cố cho con một cái nhìn cao hơn về hôn nhân và giá trị của lời thề hôn nhân.    

Như ta giải thích khắp trang mạng này, cuộc sống có thể được xem như một con đường tâm linh dẫn về tâm thức Ki-tô. Khi con chấp nhận quan điểm này về đời sống, con nhận ra là tất cả mọi sự xảy đến cho con đều là một cơ hội để con tăng triển. Mỗi hoàn cảnh mà con gặp, mỗi chọn lựa mà con có, sẽ đưa con hoặc một bước gần hơn tâm thức Ki-tô, hoặc một bước xa hơn tâm thức Ki-tô.

Trong mọi hoàn cảnh thường có hai yếu tố. Một là hoàn cảnh sẽ cho con một cơ hội để cân bằng nghiệp quả từ quá khứ và nhờ vậy con thoát khỏi gánh nặng của năng lượng tha hóa đó. Yếu tố kia là hoàn cảnh cho con một cơ hội để học hỏi một điều gì đó về chính con và những trở ngại trong tâm lý con đang ngăn cản con biểu hiện quả vị Ki-tô.

Khi con áp dụng những điều trên vào hôn nhân, con sẽ thấy hôn nhân là một cơ hội tuyệt diệu để quân bình nghiệp quả với một người khác. Hôn nhân cũng là một cơ hội rất tốt để học hỏi về những giới hạn cá nhân của con, hầu con có thể giải phóng tâm lý con khỏi những chướng ngại đang ngăn con khỏi tâm Ki-tô. Nếu con thật sự nhất quyết phát triển tâm linh, con sẽ thấy hôn nhân không chỉ là một chuyện vui thú hay thiết thực, mà thực sự là một cơ hội để khắc phục nghiệp quả cũ cùng những hạn chế tâm lý của mình, hầu con bước một bước dài về hướng quả vị Ki-tô cá nhân.

Ta có thể xác nhận với con là gần như không có cuộc hôn nhân nào trên địa cầu mà hai người không có nghiệp quả với nhau. Nói cách khác, con phải coi như là con đang có nghiệp quả với người phối ngẫu, và do đó hôn nhân của con là một cơ hội để con cân bằng nghiệp quả đó và giành được tự do của con. Ta cũng có thể xác nhận là tuyệt đối không có hôn nhân nào mà không cho con cơ hội để con phơi bày những bế tắc tâm lý hầu con giải quyết một cách ý thức và bỏ lại đằng sau vĩnh viễn.

Thật ra ta cũng có thể xác nhận với con là hầu hết ai ai cũng đều chọn người phối ngẫu của mình trước khi đầu thai. Mỗi dòng sống chọn vợ hay chồng mình là người sẽ đem lại cho mình cơ hội tốt nhất để cân bằng nghiệp quả và cởi sửa những nút thắt trong tâm lý mình. Nói cách khác, sự hấp dẫn bên ngoài với nhau giản dị chỉ là sự phản ánh một nhận biết sâu xa trong nội tâm rằng con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả với người đó, và con thực sự muốn học những bài học mà con có thể khi sống chung với người đó.    

Khi áp dụng cái nhìn này về hôn nhân, con nhận ra là điều cuối cùng mà con muốn làm là chấm dứt cuộc hôn nhân trước khi con hoàn thành mục đích tâm linh mà con đã đề ra cho cuộc hôn nhân. Nói cách khác, con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con cân bằng mọi nghiệp quả với người phối ngẫu. Và con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con học xong mọi bài học tâm lý con có thể học được từ người đó. Nếu con chấm dứt quá sớm, tất cả những vấn đề này sẽ chỉ giản dị bám theo con trong quan hệ kế tiếp.

Khi con hiểu sâu sắc ý nghĩa tâm linh của hôn nhân như vậy, con sẽ thấy là rất nhiều người quyết định chấm dứt hôn nhân trước khi họ cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. Thật ra, nhiều người còn tạo ra thêm nghiệp chướng và củng cố những bế tắc tâm lý thay vì giải tỏa.   

Điều này xảy ra một phần là vì người ta không hiểu một bên của phương trình hôn nhân là tâm linh, và cũng vì họ bị neo cứng trong ngã thấp kém cũng như những nhu cầu ham muốn ích kỷ của ngã. Điều này khiến họ có nhiều tình cảm tiêu cực đối với người phối ngẫu. Một trong những tình cảm thông thường nhất là cảm thấy người kia có nợ gì đó đối với mình. Điều này không sai, vì con có quyền chờ đợi một quyền lợi gì đó từ người phối ngẫu, cụ thể là một cơ hội cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý của con. Nhưng món quà này hiện diện trong mỗi cuộc hôn nhân, với điều kiện là con sẵn lòng đón nhận nó. 

Tiếc thay, điều xảy ra cho nhiều người là họ trụ neo vào những ham muốn thấp kém của tự ngã phàm phu, và họ bắt đầu cảm thấy mình phải được hưởng một số quyền lợi vỏ ngoài từ người kia, và khi người kia không chu toàn được, họ cảm thấy bị dối gạt, đối xử tệ bạc. Và thay vì nhận trách nhiệm về con đường riêng của mình, họ đổ lỗi cho người kia. Tất nhiên, ngay khi con bắt đầu đổ lỗi cho người khác thì sự phát triển tâm linh của con sẽ dừng lại.

Như ta giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều xoay quanh quyền tự quyết của con. Điều duy nhất có thể đưa con tiến thêm một bước trên đường cá nhân của con là con nhận trách nhiệm về hoàn cảnh hiện tại của con và con có sự chọn lựa cao nhất trong hoàn cảnh đó. Khi con đổ lỗi cho người phối ngẫu về sự trì trệ hay bất mãn của con, tức khắc con cũng từ chối nhận trách nhiệm và do đó con không thể có những chọn lựa sẽ giúp con thăng tiến.

Con không thể có những chọn lựa này vì con đã đẩy con vào một trạng thái tâm thức nơi con cho rằng chỉ người kia mới cần chọn lựa. Và chừng nào người kia không thay đổi, con cũng nghĩ là con không thể thay đổi. Tất nhiên đây là sự dối gạt lớn nhất của tự ngã phàm phu, vả đó chính là dối gạt mà tự ngã của con, như kẻ thù bên trong, và các tà lực như kẻ thù bên ngoài, sẽ sử dụng để đánh bẫy con vào trạng thái tâm thức hiện thời và ngăn cản con bước được bước kế tiếp trên con đường cá nhân.

Điều ta đang cố giải thích ở đây là bất kỳ hôn nhân nào, cho dù nó có vẻ không như ý thế nào đi nữa đối với tự ngã, nó vẫn tạo cơ hội cho dòng sống của con tăng triển. Nếu con đã quyết định cưới một người, con phải chấp nhận rằng dòng sống của con có một lý do tâm linh vô cùng chính đáng để thúc đẩy tâm vỏ ngoài của con lấy quyết định đó.

Con nên tin rằng dòng sống của con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả và học hỏi một số bài học từ hôn nhân này. Do đó khi nào những mục đích tâm linh sâu xa này chưa thực hiện, con sẽ làm hại sự phát triển tâm linh của con nếu con chấm dứt hôn nhân. Điều đặc biệt nguy hiểm là nếu con chấm dứt hôn nhân do tự ngã bị thất vọng với những thiếu sót gán cho người phối ngẫu. Điều này sẽ chỉ cột con chặt hơn vào gọng kềm của tự ngã, khiến con khó phát triển hơn. Điều ta muốn nói là nếu con đã có lời thề hôn nhân, con nên giữ đúng lời thề đó bằng cách trung thành với người phối ngẫu, tận tụy nỗ lực để cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. 

Con có hỏi điều gì sẽ xảy ra khi sự hiệp thông tâm linh giữa hai người bị phai nhạt hay không còn nữa. Như ta đã nói, luôn luôn có một mục đích tâm linh trong một hôn nhân. Điều này không nhất thiết có nghĩa là hai người phải cảm thấy hiệp thông tâm linh hoặc ngay cả thương yêu và tôn trọng lẫn nhau. Cuộc hôn nhân có thể vô cùng không như ý từ một quan điểm vỏ ngoài, nhưng đó vẫn có thể là cơ hội để cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý.

Vi vậy con nên tiếp cận hôn nhân với ý định rõ ràng là con sẽ thực hiện hai mục đích nói trên. Nó sẽ giúp con chịu đựng dễ dàng hơn mọi hoàn cảnh hôn phối và những điều không như ý không thể tránh khỏi trong bất cứ mối quan hệ nào giữa con người. Nó cũng sẽ gia tăng xác suất cả hai người sẽ dần dần cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý mình. Và như thế, hai con sẽ bắt đầu hỗ trợ cho nhau và tìm được sự hiệp thông tâm linh. Nói cách khác, không một hôn nhân nào sẽ thành công nếu con không thành tâm nỗ lực để nó thành công.

Sau khi trình bày những điều trên, phải công nhận là một hôn nhân có thể đi tới một điểm không còn đáp ứng được mục đích tâm linh nữa. Trong trường hợp này, việc chia tay và đi theo hướng mới có thể là điều có lợi cho sự phát triển tâm linh của cả hai người. Ta biết điều này sẽ làm cho nhiều tín hữu đạo Cơ đốc kinh ngac vì họ còn nhớ những lời dạy của ta trong Kinh thánh. Hãy cho phép ta giải thích tường tận hơn.   

Trước hết, bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng phải thích ứng với tâm thức những người nhận giáo lý. Khi ta hiện thân 2000 năm trước đây, nhiều người đàn ông thường ly dị vợ mình khi người vợ không còn trẻ trung, đẹp đẽ nữa. Họ sẽ cưới vợ trẻ mới để thỏa mãn các đòi hỏi dục vọng. Do điều kiện xã hội vào thời đó, một phụ nữ gần như không thể tự lo liệu được kế sinh nhai của mình, và do đó nhiều phụ nữ trong hoàn cảnh đó không còn chọn lựa nào khác hơn là bán thân mình, một nghề bị xã hội cực kỳ lên án và xem là tội lỗi.  

Tình trạng này phản ánh rõ rệt thái độ ngược đãi phụ nữ trong nhiều nền văn hóa suốt bao nhiêu ngàn năm. Nhiều người đàn ông xem phụ nữ như một món hàng mà họ có thể vứt bỏ khi không còn hữu dụng. Trong khuôn khổ nỗ lực của ta nhằm phục hồi một vai trò xứng đáng cho phụ nữ – như được giải thích ở nơi khác – ta thấy cần phải lên tiếng thật mạnh mẽ chống lại ly dị. Điều này một phần là để bảo vệ phụ nữ, phần khác để giúp đàn ông tránh khỏi nghiệp quả hành hạ phụ nữ, vì điều này sẽ gia tăng sự mất quăn bình giữa hai khía cạnh nam và nữ trong chính bản thể họ và chặn đứng sự tăng trưởng tâm linh của họ.  

Thời nay, một người nữ có khả năng chu toàn cuộc sống của mình mà không cần đến chồng. Xã hội cũng có pháp luật bảo về quyền lợi của phụ nữ sau khi ly dị cũng như nhiều dịch vụ xã hội hơn. Cho nên sẽ không đúng nữa khi nói rằng ly dị đi ngược lại quy luật của Thượng đế hay lời dạy của ta. Con có thể ly dị một cách hợp pháp khi cuộc hôn nhân không còn đáp ứng mục đích tâm linh nữa. Điều này đặc biệt hữu lý khi trong hôn nhân có sự lạm dụng thể xác hay tình cảm. Về mặt này, phải nói là việc phá hoại hay ngăn trở sự phát triển tâm linh của một người khác là hình thức lạm dụng nghiêm trọng nhất.

Tuy nhiên, ta phải cảnh giác mọi người là hầu hết mọi vụ ly dị xảy ra thời nay không hợp lệ trong nghĩa tâm linh. Đa số người ta ly dị vì tự ngã mình cảm thấy bị bất mãn, tổn thương trong hôn nhân, như giải thích ở trên. Cho nên ly hôn là một quyết định nghiêm trọng chỉ nên thực hiện sau khi đã cân nhắc lâu dài, kỹ lưỡng, và tốt hơn hết nên đến từ một mặc khải trực giác từ cái ta Ki-tô.   

Ta thực sự khuyên những ai đang nghĩ tới việc ly hôn nên trước hết có những nỗ lực để bảo đảm muc đích tâm linh cuả hôn nhân được thực hiện – trong đó gồm cả việc sử dụng Ngọn lửa Tím để tiêu hủy nghiệp chướng và làm hết sức để học được bài học về tâm lý. Phần khác nữa là con nên xem đến việc tham khảo những dịch vụ tư vấn hoặc liệu pháp hôn nhân và thành tâm nỗ lực để cải tiến cuộc hôn nhân. Trước khi con lấy đuyết định dứt khoát, ta cũng khuyến cáo con nên thực hiện kinh cầu 33 ngày và cố hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.   

Bây giờ cho phép ta nhận xét về đoạn này trong Matthew 19:

3 Người Pharisi cũng đến gần để thử ngài, nói rằng: Một người đàn ông đuổi vợ mình vì bất cứ lý do gì có đúng luật không? 4 Và ngài trả lời và nóí; các người chưa đọc hay sao, rằng đấng đã tạo ra họ ở ban đầu đã tạo họ là nam và nữ, 5 Và vì lý do đó mà một người nam phải lìa cha mẹ, phải kết hợp với vợ mình, và hai người sẽ cùng là một thịt? 6 Qua đó họ không còn là hai mà chì là một thịt. Vậy điều gì Thượng đế đã kết hợp với nhau, đừng để con người phân rẽ.   

Câu chủ yếu là không người nào được phân rẽ điều gì mà Thượng đế đã kết hợp với nhau. Ý nghĩa nội tâm của câu này là con không được cho phép tự ngã và tâm nhị nguyên của con khiến con ly dị người phối ngẫu trước khi cuộc hôn nhân hoàn thành mục đích tâm linh mà dòng sống của con đã quyết định. Nói cách khác, một uy quyền cao hơn (mà ta gọi là “Thượng đế” trong câu nói) – nghĩa là dòng sống của con với sự hội ý của các vị thày tâm linh của con – đã kết hợp con với người phối ngẫu để thực hiện một mục đích nhất định. Con nên giữ lòng thủy chung với mục đích này cho tới khi nó hoàn thành. Và con không được cho phép cái tâm thấp kém và những ham muốn của tâm thấp kém (mà ta gọi là “con người” trong câu nói) khiến con đi chệch khỏi mục đích tâm linh của cuộc hôn nhân.

Con cũng hãy ghi nhận rằng chồng và vợ có thể trở thành cùng một thịt. Ý nghĩa tâm linh thực sự của câu đó là vợ chồng có tiềm năng bước lên một mức kết hợp cao hơn, một sự kết hợp tâm linh nội tại. Nếu cả hai người nỗ lực siêng năng để giải hóa nghiệp quả và tâm lý, họ sẽ có thể giúp nhau đạt được cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của bản thể họ. Khi thực hiện được cân bằng này trên phương diện cá nhân, hai người sẽ vươn lên một mức kết hợp cao hơn rất nhiều so với những gì có thể. Sự kết hợp này giữa vợ và chồng là biểu tượng cho kết hợp giữa dòng sống và cái ta tâm linh. Quả thật, nó sẽ giúp cả hai người đạt đến kết hợp nội tâm đó, và do đó một cuộc hôn nhân phát huy được tiềm năng cao nhất có thể là một lực đẩy tâm linh tuyệt vời cho cả hai người.    

Ta cần nói rõ là không phải cuộc hôn nhân nào cũng sẽ đạt được sự kết hợp cao độ đó. Nhưng ta cũng cảnh giác con là đa số các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng này. Nói cách khác, điều xảy ra rất thường là người ta hay gặp điều bất mãn trong những năm đầu mới lấy nhau. Bất mãn là do mỗi người đều không không trọn vẹn và họ kỳ vọng người kia sẽ giúp mình cảm thấy trọn vẹn. Khi cảm giác trọn vẹn không ở đó, thật là dễ rơi vào lời dối trá của tự ngã bảo con rằng con đã chưa tìm được người phối ngẫu thích hợp, và con chỉ cần tìm được người đó thì con sẽ tức khắc được hưởng hạnh phúc tràn trề.    

Nhưng đó là lời gian dối. Dù con có cưới người tâm đầu ý hợp – ngọn lửa song sinh của con – thế nhưng chừng nào nghiệp quả và những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa thì hạnh phúc đó cũng sẽ không có được. Hầu hết các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng kinh nghiệm được sự trọn vẹn đích thực, nhưng trọn vẹn này chỉ có thể đến khi cả hai người có sự trọn vẹn cá nhân, có nghĩa là đã giải quyết một số nghiệp quả và tâm lý nào đó.   

Điều ta muốn nói là có những hoàn cảnh khi con cần phải chấm dứt một cuộc hôn nhân hầu thăng tiến sự phát triển tâm linh của cả hai người, hoặc ít nhất một trong hai người mong muốn phát triển tâm linh. Tuy nhiên, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con có một nỗ lực chân thành và hết mình để giúp cho cuộc hôn nhân thực hiện được tiềm năng cao nhất của nó trước khi con quyết định ly dị. Nếu con lià bỏ người phối ngẫu trước khi giải quyết tâm lý con, có nhiều xác suất con sẽ thu hút một người phối ngẫu khác cũng lại khơi lên cùng những vấn đề tâm lý nơi con. Vậy thì tại sao con không cố giải quyết với người đầu tiên? Một khi con đã giải quyết tâm lý mình thì điều thận trọng là con có thể chia tay. Tuy nhiên, nếu con đã giải quyết tâm lý thì rất có thể cuộc hôn nhân đầu đã trở thành toại nguyện đến độ con không có lý do để chia tay nữa.  

Nói cách khác, con không bao giờ được ly dị vì tự ngã con muốn chạy trốn khỏi những điều không vừa ý. Thật là không có ich gì đeo đuổi một cái cầu vòng gọi là hôn nhân, bởi vì ta cam đoan với con là ở cuối cầu vòng không có hũ vàng nào cả. Con chỉ nên ly dị khi con biết – cái biết sâu thẳm ở bên trong – rằng đã tới lúc con phải chọn một hướng đi mới tốt đẹp hơn trong nghĩa tâm linh đích thực.

Con không cần phải đau khổ để được Thượng đế tha thứ

Hỏi: Về sự tha thứ, liệu một người có cần phải hướng về Thượng đế để được tha thứ hay không? Con biết là trong các quan hệ cá nhân của con, con cố tha thứ cho những ai đã làm hại con cho dù họ không bao giờ xin con tha thứ, hầu con có thể rửa sạch tim con khỏi mọi hiềm khích. Cho nên hình như tình thương vô điều kiện của Thượng đế cũng tha thứ chúng con trước cả khi chúng con xin ngài. Vậy thì liên quan đến câu trả lời của thày về tội lỗi không thể tha thứ, hình như chính con người mới tự giam mình trong một trạng thái không thể tha thứ khi y không cố vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng tình thương của Thượng đế thì luôn luôn đứng ở đó chờ y quay đầu về hướng ngài. Đây có phải là cách hiểu đúng đắn hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con đã thấu hiểu tinh túy của tha thứ và con đã diễn tả một cách hùng hồn. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và do đó sự tha thứ của ngài tức khắc. Con không cần phải xin, bởi vì sự tha thứ rơi xuống như hạt mưa trên người công chính lẫn kẻ bất công.

Trong một nghĩa nào đó, con không bao giờ cần được Thượng đế tha thứ, mà con chỉ cần chấp nhận rằng con đã được ngài tha thứ. Vấn đề là cho tới khi con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con hành động sai trái, con sẽ không có khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Cho nên có thể nói rằng tiến trình cứu rỗi một dòng sống là tiến trình giúp cho y vươn lên trên tâm thức đã khiến y làm tha hóa năng lượng của Thượng đế. Và khi vươn lên tâm thức đó, bước cuối cùng mà dòng sống phải bước là chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế đối với mọi hành động đã qua, hầu y có thể hoàn toàn chấp nhận là mình đã giải phóng khỏi quá khứ. Tuy nhiên, dòng sống sẽ cần làm gì để chấp nhận sự tha thứ này? Nhiều dòng sống cho rằng mình cần phải hướng về Thượng đế và xin được tha thứ, và làm vậy cũng hoàn toàn chính đáng thôi.

Khi xin được Thượng đế tha thứ, dòng sống thừa nhận mọi hành động sai trái của mình. Hiển nhiên, y không làm vậy vì lợi ích của Thượng đế, bởi vì y không thể che giấu bất kỳ hành động nào khỏi mắt ngài. Cho nên sự lợi ích ở đây là tâm lý. Bằng cách nhìn nhận hành động của mình trước Thượng đế, dòng sống cũng nhìn nhận với chính mình rằng hành động đó sai trái. Và đây là bước khởi đầu mà y phải bước để tự tách mình ra khỏi tâm thức đã khiến mình hành động như thế. Tiếc thay, việc thừa nhận lầm lỗi lại có thể làm nảy sinh ý niệm tội lỗi, và ý niệm này có thể ngăn chặn khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Vấn đề trên địa cầu là hiện có quá nhiều những lời gian dối đã khiến cho con người tin rằng mình khó lòng hoặc không thể vượt qua quá khứ – từ sự tin tưởng rằng Thượng đế là một đấng nóng giận và phán xét ở trên trời, qua tin tưởng rằng có những tội tày trời không thể tha thứ được, cho đến tin tưởng rằng để giải thoát khỏi tội lỗi, con người phải kinh qua đủ số lượng đau khổ và đau đớn nào đó.

Nhiều người tin rằng nếu mình đã gây đau khổ cho người khác, thì sự trải nghiệm khổ đau sẽ phần nào đền bù cho lỗi lầm của mình, như thể hai cái sai sẽ tạo ra một cái đúng. Suốt các thời đại, cơ năng tâm lý đã khiến cho con người cảm thấy mình phải đền đáp tội lỗi của mình qua sự khổ đau, đã làm nảy sinh một số giáo lý và nghi thức tôn giáo. Những giáo lý và nghi thức này đã được các chân sư thăng thiên trao truyền với mục đích giúp con người đánh gạt tâm trí mình hầu chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế và giải thoát khỏi quá khứ.  

Rất tiếc là con người đã quá nhanh nhẩu tạo dựng thêm nhiều giáo điều cùng nghi lễ khác nhiều khi rất kỳ lạ. Một ví dụ là cho rằng bằng cách tự trừng phạt thân xác cho nó thật đau đớn thì mình sẽ phần nào bù đắp được phần tội của mình. Hoặc nữa, họ tự giáng lên mình những nỗi khổ tinh thần hầu đền bù cho tội lỗi đã qua. Sự thật đơn giản là cả hai cách phản ứng này sẽ đều làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, vậy thì làm thế nào con có thể bù đắp cho năng lượng tha hóa của quá khứ bằng cách tha hóa thêm năng lượng trong hiện tại? Năng lượng tha hóa có bù trừ cho nhau đâu? Bởi vì chỉ có năng lượng tâm linh mới có thể xóa bỏ được năng lượng thấp kém.

Tuy nhiên có một cơ năng tinh vi ở đây khiến cho một dòng sống nhạy cảm biết được là mình đã làm cho vũ trụ bị mất cân bằng. Cho dù nhiều tín hữu Cơ đốc không hiểu khái niệm nghiệp quả, hay khái niệm năng lượng tha hóa, họ vẫn cảm nhận được là họ đã phạm tội, và dòng sống của họ cảm thấy mình sẽ không thoát được tội đó cho tới khi mình phục hồi cân bằng của vũ trụ. Ta vẫn biết là đa số người đạo Cơ đốc không ý thức rõ khái niệm nghiệp quả, nhưng đây chính là một lý do khiến họ khó lòng tự tha thứ. 

Trong sâu xa, nhiều người tâm linh muốn sòng phẳng với Thượng đế và tái lập cân bằng của vũ trụ. Cho nên họ trực nhận được là họ đã chưa hoàn toàn cân bằng mọi nghiệp quả, vì thế họ chưa tự do đối với quá khứ. Mặc dù sự trực nhận này là một dấu hiệu trưởng thành tâm linh, nhưng những tin tưởng sai lầm về tội lỗi đang lưu hành đầy rẫy trên thế giới thường khiến cho người tầm đạo cảm thấy là cho tới khi mình tái lập được cân bằng, thì mình phải tiếp tục cảm thấy có tội.

Như ta giải thích ở đầu bài, điều này thật sự không cần thiết. Nếu con đã từ bỏ cái tâm thức đã khiến con phạm lỗi, thì con không còn cần phải cảm thấy mình có tội. Nào có ích gì nếu con cứ cảm thấy tội lỗi về một chuyện mà con đã bỏ lại đằng sau? Nó sẽ chỉ buộc chặt con hơn vào trạng thái tâm thức đó và khiến con không thể buông ra hoàn toàn.  

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự thấu hiểu sự tha thứ, con sẽ nhận ra rằng việc cân bằng nghiệp quả là một tiến trình máy móc. Nếu con trả nợ đều đặn thì tại sao con phải cảm thấy tội lỗi đối với ngân hàng đã cho con vay tiền? Tương tự như thế, miễn là con tiếp tục nỗ lực cân bằng nghiệp quả thì không có lý do gì con phải cảm thấy tội lỗi do đã gây ra nghiệp quả, ít nhất khi con đã vượt qua cái tâm thức đã khiến con lầm lỡ.

Ta hiểu rằng một số dòng sống cảm thấy mình cần duy trì ý niệm tội lỗi cho đến khi nghiệp được trả hết, vì họ cho rằng làm như vậy sẽ thôi thúc họ tiến bước nhanh hơn. Tuy nhiên ta luôn mong rằng các dòng sống trưởng thành hơn sẽ thấy rõ là điều này không cần thiết. Ta mong mọi người tầm đạo sẽ chấp nhận được sự tha thứ của Thượng đế, cũng như thoát khỏi mọi ý niệm rằng mình là người có tội hay là người không xứng đáng trong mắt của Thượng đế.     

Đạo Sufi tương tự như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác

Hỏi: Trong đạo Hồi, Mohammad đã giảng dạy giáo lý công truyền qua kinh Quran. Phải chăng Ali, em họ của Mohammad, đã giảng dạy giáo lý tâm truyền? Và đâu là nguồn gốc của đạo Sufi trong Hồi giáo?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 30/12/2007. Đăng ngày 17/11/2012.

Đạo Sufi có thể so sánh như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác. Trong bất kỳ tôn giáo nào trên địa cầu quy tụ được một số tín đồ, con sẽ thấy sự kết tinh thành hai phong trào cơ bản. Một phong trào gắn bó hơn với con đường công truyền – tức là lời nói bên ngoài, kinh sách vỏ ngoài, quy tắc và luật lệ vỏ ngoài. Và một phong trào đi theo con đường nội tâm, tâm truyền, thường lấy  nguồn mặc khải trực tiếp từ cõi trên làm nền tảng.    

Khi một dòng sống còn ở mức độ nhận biết tâm linh chưa cao, y thường không có khả năng kinh nghiệm Thượng đế một cách trực tiếp, và do đó y sẽ cần tới con đường công truyền để tiến bước, cho tới khi – thường là sau nhiều kiếp đầu thai – y có được nhiều phân biện nội tâm hơn, nhiều tư tin hơn về khả năng của mình biết được cái gì là chân, cái gì là giả. Và khi đó, y sẽ mở tâm ra cho con đường tâm truyền, nơi y sẽ phải bước theo những thúc giục sáng ngộ từ bên trong, sự hướng dẫn từ bên trong, mà không con tin cậy hay tuân thủ một cách mù quáng một giáo lý hay một vị thày vỏ ngoài nữa.  

Cho nên con đường công truyền có một giá trị nhất định đối với những ai chưa sẵn sàng đi theo con đường tâm truyền, và đó là lý do bản thân ta đã từng giảng dạy ở hai trình độ khác nhau – đối với quần chúng thì ta giảng dạy bằng ngụ ngôn, còn đối với môn đồ thì ta giảng giải mọi điều. Con sẽ thấy cùng mô thức này trong nhiều tôn giáo, kể cả đạo Do thái với giáo lý Kabbalah là con đường thần bí. Cho nên đạo Sufi cũng là một con đường khả thi cho những ai xuất thân từ đạo Hồi nhưng đã tiến bước xa hơn trên đường tu.

Tuy nhiên như với bất kỳ phong trào thần bí nào, con không thể nhìn vào đó một cách đơn giản và bảo rằng mọi chuyện trong phong trào đó đều thuộc về ánh sáng. Bởi vì bản chất của thần bí là tự do phóng khoáng hơn, và thường sẽ có nhiều người đạt được – hoặc tuyên bố là họ đạt được – sự tiếp xúc với tánh linh. Và như vậy, họ sẽ bảo là họ nhận được một hình thức mặc khải nào đó từ một cõi cao hơn. Và thường sẽ có những người nhận được mặc khải chân chính và một số người khác thì không. Vì thế trong một phong trào thần bí, sự phân biện là một yếu tố thiết yếu. Và đó cũng chính là lý do tại sao những ai chưa đủ chín chắn để phân biện thường thường sẽ tránh né các phong trào thần bí, vì trong tiềm thức họ phần nào biết được là họ chưa sẵn sàng.  

Và tất nhiên, vấn đề đặt ra là trong nhiều trường hợp, các dòng sống đó sẽ trở nên gắn bó với tôn giáo vỏ ngoài, và họ có thể bắt đầu tin vào những lời dạy của tôn giáo vỏ ngoài đó, là những lời dạy phát xuất từ lòng sợ hãi. Cho nên thậm chí họ sẽ không dám sử dụng khả năng phân biện của họ. Vì vậy con sẽ thấy nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay – mặc dù trong nội tâm họ đủ trưởng thành để đón nhận khía cạnh thần bí của đạo Cơ đốc – nhưng ngoại tâm của họ thì không dám buông tin tưởng rằng họ sẽ được bảo đảm cứu rỗi nếu họ cứ mù quáng đi theo con đường vỏ ngoài. Và họ không dám buông cảm giác an toàn vỏ ngoài đó để chấp nhận giai đoạn xáo trộn mà hầu hết mọi dòng sống đều kinh qua khi họ bỏ lại con đường công truyền và cất bước trên con đường tâm truyền.

Hỏi: Vậy có phải Ali đã đem lại giáo lý tâm truyền của kinh Quran? Bởi vì một số người theo phái Shia tin rằng Ali bình thường sẽ được trao trách vụ tiên tri, và Ali đưa ra giáo lý tâm truyền, còn Mohammad thì đưa ra giáo lý công truyền?

Giê-su: Câu trả lời là có và không, theo nghĩa là ta không hề mong muốn khiến cho một phái của đạo Hồi cảm thấy hơn trội các phái khác. Đúng là Ali đã nhận được một số mặc khải nội tâm, nhưng điều này không có nghĩa là các giáo lý của Ali đều hoàn toàn chính xác. Bởi vì Ali cũng đã phần nào bị tô màu bởi những niềm tin cá nhân lẫn văn hoá của mình – y như Mohammad vậy.   

Cho nên sự thật đáng tiếc là không có một nhánh chính mạch nào của đạo Hồi là hoàn toàn thuần khiết. Có một số môn phái Sufi có một độ thuần khiết cao hơn. Nhưng thành thật mà nói với con, đạo Hồi như một tôn giáo đã không phát huy được tiềm năng cao nhất của mình. Và đối với chúng tôi là chân sư thăng thiên, khi nhìn vào tình trạng tâm thức của các nhánh chính của đạo Hồi, chúng tôi thật khó thấy được làm thế nào tôn giáo này sẽ có thể đổi mới,  

Đạo Hồi đã được trao truyền trong một nỗ lực kết hợp các bộ tộc khác nhau tại Trung Đông, là những bộ tộc đã giao chiến với nhau từ hàng ngàn năm trời. Thế nhưng con chẳng thấy hay sao, người ta đã sử dụng đạo Hồi để tạo thêm chia rẽ với nhau? Bởi vì ta có thể nói với con rằng sẽ tốt hơn nhiều nếu những chia rẽ này không còn nữa và trong thế giới Hồi giáo có một phong trào đoàn kết hơn.

Shia hay Sunni chỉ là những cách phân chia nhân tạo, giả tạo, hoàn toàn không có thực tế nào trong Thượng đế. Và do đó ta không muốn đưa ra cảm giác là có một phái thuần khiết hơn, vượt trội hơn phái kia. Bởi vì nếu họ thực sự hiểu được giáo lý đích thực đằng sau kinh Quran, thì mọi môn phái trong đạo Hồi, mọi tín đồ Hồi giáo, sẽ phải cố vươn lên cao hơn nhiều, cao hơn cả giáo lý nguyên thủy mà Mohammad đã trao cho họ. Và khi đó, con sẽ phải tự hỏi là liệu có ích gì tiếp tục tôn giáo cũ hay không, hay là nên khởi xướng một tôn giáo hoàn toàn mới dựa trên nền tảng cũ.  

Điều này, tất nhiên, cũng là một câu hỏi đặt ra cho đạo Cơ đốc và những tôn giáo lớn khác trên thế giới – nghĩa là liệu các tôn giáo đó đã trở thành xơ cứng do các tin tưởng bám giữ từ bao nhiêu thế kỷ, và có thể đổi mới được hay chăng? Hay là các tôn giáo đó phải được thay thế bởi một tôn giáo hoàn toàn mới?      

Hy vọng của ta, và cũng là một trong các mục tiêu của trang web AskRealJesus, là rốt cuộc, nhiều người tự xem mình là tín đồ Cơ đốc sẽ bắt đầu lắng nghe lời hằng sống của ta, và từ đó sẽ dùng những lời này để thay đổi đạo Cơ đốc. Nhưng ta có thể nói với con là ngay bây giờ, đó vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Liệu đạo Cơ đốc có khả năng đổi mới hay không – hay là nó sẽ chỉ ngày càng thu nhỏ lại cho tới khi nó mất hết sinh khí và được thay thế bởi một hình thái tâm linh mới phù hợp hơn với Thời đại Bảo bình.

Bệnh nặng có do nghiệp cá nhân hay không?

Hỏi: Giê-su yêu mến, khi một người bị bệnh nặng liên tục, có phải đó là kết quả của nghiệp quả cá nhân hay là người đó đang gánh chịu nghiệp quả của hành tinh? Khi chuyện này xảy ra, có hy vọng nào thay đổi được hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng thì chỉ giản dị là ánh sáng thuần khiết của Thượng đế rung động ở một tần số thấp hơn tiềm năng cao nhất của nó. Hệ quả là bất kỳ điều kiện bất toàn nào cũng được cấu tạo bởi năng lượng có tần số thấp, và vì thế mọi điều kiện có thể được thay đổi bằng cách nâng cao tần số của năng lượng. Chân sư Hiện diện của Ánh sáng Vô tận đã giải thích điều này cặn kẽ hơn trong bài giảng của thày.

Con nói đúng, có nhiều dòng sống đã tình nguyện hứng chịu một phần gánh nặng nghiệp quả của thế giới. Và rất nhiều trong số các dòng sống đó đã làm điều này bằng cách tự chuốc vào mình một căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, không có người nào phải gánh chịu toàn bộ sức nặng của nghiệp quả thế gian. Một người chỉ gánh một phần thôi, và nếu phần này được hóa giải qua những phương cách khác, thì một căn bệnh – mà tựu trung chỉ là nghiệp quả đang trải bày ra – có khả năng được chữa lành.

Cho nên ta thật khuyên những ai bị bệnh nặng hãy sử dụng các bài nguyện tràng hạt và bài chú của Mẹ Mary mỗi ngày. Ta không nói là bệnh nặng sẽ nhất thiết được chữa khỏi. Thật vậy, nhiều dòng sống mong muốn đóng góp vào bước tiến của nhân loại mạnh mẽ đến độ họ sẽ gánh thêm nghiệp quả của thế giới sau khi một số nghiệp đã được chuyển hóa. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng các dụng cụ tâm linh, một người sẽ có thể tiêu hủy nhiều nghiệp của thế giới hơn là qua căn bệnh của mình.

Một trường hợp khác có thể xảy ra là căn bệnh hiểm nghèo là kết quả của nghiệp riêng của người đó. Một số dòng sống nhận ra là họ đang có một phần nghiệp nặng nề sắp sửa kết tụ trong một tương lai gần kề. Cho nên họ quyết định đầu thai trong những hoàn cảnh khiến họ mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo. Mục đích mắc bệnh là để trả nghiệp trong một kiếp thay vì kéo dài ra trong nhiều kiếp.

Con có thể so sánh chuyện này với một người có một khoản nợ rất lớn. Một số người sẽ chọn cách trả lần hồi, mỗi tháng một chút cho tới cuối đời, trong khi một số người khác sẽ muốn đi làm hai việc một lúc trong một vài năm để sạch nợ cho nhanh, rồi được rảnh rang hưởng thụ cuộc đời sau đó. Có nhiều dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ hy sinh nguyên một kiếp sống để tinh tấn trong một kiếp, hầu họ có thể thăng thiên vào cuối kiếp đó hoặc kiếp kế tiếp. Quả thật những dòng sống như vậy có thể gánh lấy một căn bệnh ngặt nghèo hoặc một điều kiện nào khác suốt nhiều thập niên hay thậm chí suốt đời.

Hiển nhiên, mục tiêu của dòng sống là trả cho hết nghiệp, chứ không phải là chịu khổ vì căn bệnh. Cho nên nếu dòng sống có thể tìm ra cách nào khác để trả quả thì căn bệnh rất có thể sẽ được chữa lành. Một lần nữa, ta khuyến cáo việc sử dụng cac dụng cụ tâm linh để làm tiêu sạch mọi nghiệp chướng và năng lượng tiêu cực. Và đương nhiên, nếu người bệnh nặng là một người thân của con, con cũng có thể dùng dụng cụ tâm linh để chuyển hóa nghiệp đó cho người ấy.

Tuy nhiên cũng có một kịch bản thứ ba cần được xem xét. Trong nhiều trường hợp, một chứng bệnh nặng không chỉ do nghiệp của người đó, mà là hậu quả của một số tin tưởng sai lầm hoặc vết thương tình cảm nơi dòng sống. Và trong trường hợp này, việc sử dụng kỹ thuật tâm linh để chuyển hóa nghiệp quả thật là không đủ. Việc cần thiết là phải dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành tâm lý một cách thực sự. Rất nhiều khi, một căn bệnh không thể chữa khỏi cho tới khi vấn đề tâm lý nằm bên dưới được giải quyết hoàn toàn.

Điều ta muốn nói là có rất nhiều người phải chịu bệnh tật nghiêm trọng do tâm lý họ chưa giải quyết. Cho nên mặc dù họ phải chịu khổ cả đời nhưng họ không thật sự trả được chút nghiệp nào, và do đó họ không tiến bộ về mặt tâm linh. Đó chỉ đơn giản là sự khổ đau không cần thiết chẳng đem lại ích lợi cho bất cứ ai.

Trong một số trường hợp, một dòng sống lại có thể sử dụng căn bệnh như cái cớ để không chịu giải quyết các giới hạn tâm lý của mình. Một chứng bệnh nặng khiến mình bị mất khả năng cơ thể xem ra có thể là cái cớ tuyệt hảo để mình bỏ rơi mọi trách nhiệm về cuộc sống, không chịu giải quyết tâm lý hay không lấy những biện pháp cần thiết để tinh tấn trên đường tâm linh. Cho nên điều ta muốn nói là có những người mắc phải vấn đề này từ hai khía cạnh.

Khía cạnh thứ nhất của vấn đề là sự hạn chế tâm lý nằm tiềm ẩn bên dưới. Khía cạnh thứ nhì là, thêm vào sự hạn chế tâm lý tiềm ẩn, còn có một thái độ thâm căn cố đế không muốn đương đầu với vấn đề tiềm ẩn. Thậm chí dòng sống còn sẵn sàng hứng chịu và duy trì một căn bệnh trầm trọng hầu tránh không phải đương đầu với vấn đề. Giản dị, những dòng sống như vậy không chịu thay đổi chính mình cũng như cách mình nhìn cuộc sống. Họ có thể rất khó tiếp cận, và vì vậy căn bệnh có thể rất khó chữa. Cho dù họ có đọc vô số bài nguyện hay bài cầu tràng hạt thì sẽ vẫn không hết bệnh, cho tới khi họ quyết định nhận hoàn toàn trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và làm một điều gì đó để giải quyết các nguyên nhân bên dưới. 

Những dòng sống như vậy rất nên suy ngẫm về định nghĩa của Albert Einstein về sự điên rồ: Điên rồ là khi con cứ làm mãi cùng một chuyện mà lại mong kết quả sẽ khác đi.

Tha thứ là hình thức tư lợi cao nhất

Hỏi: Xin thày chia sẻ ý nghĩ của thày về sự tha thứ. Chúng ta có thể tha thứ cho người khác hay không? Hay tha thứ chỉ nhắm vào bản thân mình, vì tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương?

Sự tha thứ đứng yên
và lặng lẽ không làm gì
nó chỉ đứng nhìn
và đợi
và không phán xét.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Tha thứ là một trong những khái niệm bị hiểu lầm nhiều nhất. Ý nghĩa thực sự của tha thứ là “giải phóng”, nhưng hầu hết mọi người không hiểu ai là người được giải phóng khi mình tha thứ. Họ cho rằng khi họ tha thứ cho ai đó đã làm hại mình, thì họ đã giải phóng người đó khỏi trách nhiệm, họ đã giải thoát cho người đó khỏi bị mắc tội. Điều này đơn giản là không đúng.

Trong Kinh thánh, con tìm thấy câu sau đây: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, hãy đừng tự mình trả thù ai, mà hãy dành cho cơn thịnh nộ của Thượng đế; vì có chép lời Thượng đế phán rằng: Sự báo đền thuộc về ta, ta sẽ đáp trả.” (Romans 12:19).

Câu nói đơn giản ở trên đề cập đến một định luật của vũ trụ mà Kinh thánh chỉ giải thích phần nào. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả, và trong khoa học, đây là luật hành động và phản ứng. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, tất cả những gì con làm đều làm với năng lượng của Thượng đế. Khi con làm hại một ai đó, con làm tha hóa một lượng năng lượng nào đó của Thượng đế. Thượng đế đã lập ra một quy luật khách quan để bảo đảm rằng bất kỳ năng lượng tha hóa nào mà con từng phóng ra vũ trụ sẽ được gửi trả về cho dòng sống của con. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình. Đa số người theo đạo Cơ đốc không hiểu những hệ quả sâu rộng của luật này, và lý do chính là vì các lời dạy của ta về nghiệp quả và luân hồi đã bị cố tình xóa bỏ khỏi đạo Cơ đốc.

Đó là một trong những lý do chính yếu tại sao ngay cả nhiều tín đồ Cơ đốc không thể hoàn toàn tha thứ cho những người đã làm hại mình – cho dù ta đã dạy mọi người hãy tha thứ bảy mươi lần bảy. Họ không thể buông bỏ ý muốn trừng phạt người khác hay bắt người khác phải chịu trách nhiệm, và lý do là vì họ không hiểu bằng cách nào Thượng đế có thể đáp trả cho con người. Hầu hết đều nhận xét thấy có một số người đã làm những hành vi tàn ác tày trời mà dường như vẫn sống trọn kiếp mà không bị trừng phạt. Tất nhiên, đó là vì năng lượng tha hóa, tức nghiệp quả, không phải lúc nào cũng quay trở lại trong kiếp này, nhưng con sẽ không thể tránh trải nghiệm sự trở lại của năng lượng đó. Định luật khách quan của Thượng đế sẽ đáp trả.

Khi con hiểu định luật khách quan của nghiệp quả, con sẽ nhìn ra là Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và phán xét, luôn dõi nhìn từng hành vi của con và cố trừng phạt con bằng cách đày con xuống địa ngục. Nếu người đạo Cơ đốc thực sự hiểu được luật vũ trụ quy định rằng không ai có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình, thì họ sẽ có những bước tiến khổng lồ để khắc phục hình ảnh sai lầm và thần tượng về một thượng đế nóng giận.

Cũng quan trọng không kém, họ sẽ tiến bước vượt bực để khắc phục những khái niệm vô minh về sự tha thứ. Khi con nhận ra cách vận hành của luật Thượng đế, con thấy rõ là con tuyệt đối không có nhu cầu phải trừng phạt bất cứ ai, hay bắt họ phải chịu trách nhiệm một cách nào đó. Nói cách khác, nhiều người cho rằng bằng cách oán trách một ai đó thì chừng như họ đang buộc người đó phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Một khi con hiểu luật Thượng đế thì con thấy điều này hoàn toàn không cần thiết. Thượng đế hoàn toàn có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, và ngài không cần con giúp ngài làm chuyện đó. (Nhiệm vụ bảo vệ con người khỏi những kẻ liên tục có hành động sai trái là một vấn đề riêng biệt, và ta đã có trình bày về vấn đề này ở một nơi khác).

Ý thày ở đây là nếu con tin rằng Thượng đế không có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm và do đó con cần phải oán trách người đó hay thậm chí có biện pháp để trừng phạt người đó, thì thật sự con đang cho rằng con hiểu rõ hơn ngài, hay con đang thay mặt ngài để đóng vai “thiên thần báo thù”. Những tin tưởng đó đều sai lầm và nguy hiểm cho sự phát triển tâm linh của con.

Sự thật đơn giản là khi con giữ một hình ảnh hay một tình cảm tiêu cực đối với một người khác, con đang tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng với người đó. Nếu con suy nghĩ một cách lôgíc, con có thể tự hỏi tại sao một người có suy nghĩ lại muốn tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng giữa mình và người đã làm hại mình. Hiển nhiên, không một người sáng suốt nào sẽ muốn làm chuyện đó. Con sẽ muốn mình hoàn toàn tự do, giải phóng khỏi người đó chứ, hầu con còn bước tới trước mặt và đưa đời mình về một hướng tích cực. Chìa khóa cho tự do của con là hoàn toàn tha thứ cho người đó. Thật ra khi con tha thứ, con đang giải phóng chính con.    

Ta cũng biết rõ là có một số người bị người khác làm tổn thương đến độ họ đã phân mảnh cỗ xe tâm hồn của họ, hay họ phải mang những vết thương tâm lý trầm trọng. Như ta đã có giải thích ở nơi khác, những vết thương như vậy nơi dòng sống, hay những vết thương tâm lý như vậy không thể bỗng chốc được chữa lành. Cho nên ta không bảo là ai ai đã từng bị tổn thương cũng có khả năng tha thứ tức thì cho người đã làm hại mình.

Nếu con đã bị tổn thương nghiêm trọng, con cần dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành dòng sống hay cảm thể của con cho không còn vết thương. Nhưng điều ta muốn chỉ rõ là khi tiến trình hàn gắn này tiến triển, sẽ đến một điểm không thể hàn gắn thêm được nữa cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người kia. Có thể nói sự tha thứ toàn diện là kết quả tối hậu của tiến trình hàn gắn. Tuy nhiên, đối với những ai có khả năng tha thứ ngay từ đầu – dù là chỉ một phần – thì đó có thể là khởi sự tốt nhất cho tiến trình chữa lành.

Cho nên tóm lại, nếu con thực sự quan tâm đến sự tinh tấn tâm linh của mình, quả thật con nên tha thứ cho người khác. Con cũng nên tha thứ chính mình, và con nên tha thứ cả Thượng đế của con về bất kỳ tổn thương nào đã gây cho con, cho dù là bởi Thượng đế hay bởi các tổ chức tôn giáo hay bởi những kẻ nhân danh Thượng đế.

Con nói rằng “tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương”. Con đang đi đúng hướng với câu nói đó, nhưng ta thích nói thế này hơn: tội lỗi duy nhất là ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình, ý niệm rằng mình tách biệt khỏi tình thương. Chính sự tách biệt này đã nảy sinh ra lòng sợ hãi, và từ sợ hãi nảy sinh ra mọi tội lỗi.

Bài thơ của con thật hay, nhưng sự tha thứ cũng có một khía cạnh tích cực. Giản dị là con không thể ngồi đó chờ sự tha thứ xảy ra như trong phép lạ. Con cần tạo ra tiền đề cho tha thứ xảy ra bằng cách chữa lành những vết thương và nâng cao hiểu biết của mình. Con hãy tiếp tục tìm kiếm sự hiểu biết cho đến khi con nhận được sáng ngộ trực giác sẽ khiến con nhận ra trong loé sáng rằng tha thứ thật là hình thức tư lợi cao nhất. Con bỗng thấy được khi con tha thứ mọi người và mọi việc, con đang tự giải phóng khỏi những dây nhợ đã buộc con vào một nhà tù mà con đã tự tạo ra trong tâm mình, cũng như một nhà tù vật chất ngay trên hành tinh địa cầu này.

Tạo cảm hứng cho trẻ em

Hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể tạo cảm hứng cho trẻ em thể nhập những giáo lý tâm linh mà chúng ta trình bày cho chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trước tiên hết, qua gương của chính con. Cho nên con hãy đảm bảo là chính con đã thể nhập các khái niệm tâm linh trước khi con trình bày cho con trẻ. Nhưng con cũng cần làm thế nào mở tâm ra để khám phá những khía cạnh mới của khái niệm tâm linh.

Tiếc thay, nhiều bậc cha mẹ có thái độ xem mình là người phải dạy dỗ cho trẻ con và mình không có gì học hỏi từ con cái. Điều này đặc biệt đúng đối với những người đã lớn lên trong một văn hóa tôn giáo chính thống và có cách tiếp cận vỏ ngoài về tôn giáo. Họ có thái độ độc đoán đối với trẻ em và cho rằng con mình phải chấp nhận những tin tưởng tôn giáo của mình.

Nếu con là người đi tìm chân lý, con không phải tự xưng là người có thẩm quyền về những đề tài tâm linh, ít ra là không trong ý nghĩa truyền thống. Thay vì cảm thấy mình phải áp đặt một số niềm tin lên con mình, con hãy tự đặt mình vào vai trò một nguồn tài nguyên giúp chúng tìm ra lời giải đáp.

Con cái của con sẽ tìm đến con một cách tự nhiên với những thắc mắc về tâm linh, đặc biệt khi chúng thấy là con sẵn lòng giúp chúng mà không ép buộc bất cứ điều gì. Nhân tiện, khi con có thái độ và xây dựng mối quan hệ với con mình như vậy, con sẽ thấy với tâm hồn ngây thơ của chúng, chúng có thể dạy con nhiều điều về tâm linh đích thực. Chúng đặc biệt có thể giúp con tìm lại cách tiếp cận Thượng đế hồn nhiên và vô điều kiện.

Một cách rất hay khác để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là không bao giờ cho chúng những câu trả lời đã xác định hay hoàn chỉnh. Ngược với thái độ của nhiều người lớn đối với trẻ con, các em có dư khả năng suy luận và tự tìm hiểu mọi thứ. Không phải tâm trí các em kém khả năng hơn tâm trí người lớn, mà giản dị tâm các em nói một loại ngôn ngữ khác người lớn, cả về mặt hình ảnh, khái niệm lẫn từ ngữ.

Vì vậy cách tốt nhất để trình bày một khái niệm tâm linh cho trẻ em là luôn luôn khởi đầu bằng cách để cho đứa trẻ đặt câu hỏi. Con có thể dẫn nhập một khái niệm nào đó rồi hỏi xem nó có thắc mắc gì về khái niệm đó không. Sau đó con tìm cách giúp nó tự phát triển tiến trình suy luận và hiểu biết của nó. Nói cách khác, con cố giúp nó tự tìm lấy câu trả lời thay vì cho nó những lời giải đáp định sẵn.  

Một điều quan trọng khác con cần hiểu là khi con là người tầm đạo, con đã trải qua một tiến trình rất dài để đạt đến niềm tin và hiểu biết mà con hiện có. Thật là tự nhiên khi cha mẹ cũng muốn con mình đạt được cùng hiểu biết đó trong vòng năm phút, nhưng đương nhiên điều này không thể làm được. Vì vậy, con em của con không cần phải đạt được hiểu biết mà con đang có như một người trưởng thành. Điều hoàn toàn chấp nhận được là đứa trẻ sẽ có một cách hiểu phần nào khác lạ hay giản dị hơn về một khái niệm tâm linh, rồi khi nó lớn lên, nó sẽ lần hồi khám phá ra một cách hiểu cao hơn.

Khi con là người đi tìm chân lý, con nhận rõ tâm linh là một tiến trình. Điều quan trọng nhất mà con có thể hiểu về trẻ em là tuổi thơ cũng là một tiến trình. Điều tốt nhất con có thể giúp con cái là tăng cường khả năng của chúng tham gia vào tiến trình của cuộc sống và tự tìm lấy câu trả lời, thay vì chỉ nhắm mắt đi theo những lời giải đã định sẵn mà chính con, giáo hội hay xã hội của con xem là cách hành xử duy nhất.

Hãy cho phép con mình kinh qua tiến trình của cuộc sống. Hỗ trợ và hướng dẫn nó, nhưng đừng đóng hộp nó lại trong những giáo điều đã định sẵn. Hãy tin tưởng tiến trình cuộc sống. Giúp con mình trụ neo trên con đường tâm linh đi tìm sự thật, rồi tin tưởng là cái ta Ki-tô của nó sẽ hướng dẫn nó đến những lời giải đáp thích hợp ở thời điểm thích hợp.

Về mặt này ta cũng xin nói, một trong những cách hay nhất để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là sử dung xu hướng vui chơi tự nhiên của chúng. Nếu con có thể biến khái niệm tâm linh thành một trò chơi, thì xác suất thành công của con sẽ lớn hơn rất nhiều để giúp chúng thể nhập khái niệm đó.   

Hãy dạy dỗ con em qua truyện kể, trào phúng hay kịch ngắn. Bày ra trò chơi dựa trên khái niệm tâm linh. Sự sáng tạo không hề có giới hạn, và nhiều người cũng đã dùng óc sáng tạo của mình để hoàn thành những chương trình như vậy cho trẻ em. Một số những chương trình có sẵn này rất hữu ích cho dù là được thực hiện trong khuôn khổ một tôn giáo hay một giáo hội đặc thù. Cho nên, hiện đang có một nhu cầu vô bờ bến những loại tài liệu giáo dục cho trẻ em về con đường tâm linh toàn vũ vượt trên mọi tôn giáo.    

Sẵn lòng học hỏi từ một căn bệnh

Hỏi: Câu hỏi này liên quan đến câu hỏi trước về bệnh tật. Tại sao có những người mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối đã có thể chữa lành một cách tự nhiên ở mọi mức độ, vật lý, cảm xúc, lý trí và tâm linh, trong khi có những người khác, có lẽ bởi lý do nghiệp quả, đã không thể khỏi bệnh cho dù họ cố gắng thế nào đi nữa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Có hai lý do chính yếu, con yêu dấu. Nếu con không thể chữa lành một chứng bệnh bằng đủ mọi cách, có thể là vì có một điều kiện tâm lý nằm bên dưới chưa được giải quyết – vì con chưa nhìn ra điều mà con cần nhìn thấy. Con chưa lấy quyết định mà con cần lấy để vượt lên trên điều kiện đó.

Nhưng như Giê-su cũng giải thích trong câu trả lời trước, đôi khi con chọn mang bệnh tật thể xác để trả nghiệp cho phần còn lại của kiếp sống này. Thậm chí, có khi người ta còn chuốc lấy bệnh tật hầu trả nghiệp cho nhân loại ngoài nghiệp cá nhân của mình. Và như vậy, căn bệnh sẽ không chữa lành vì trong cái ta cao hơn của con, con biết rõ là căn bệnh không mang mục đích chữa lành – ít ra là cho đến khi có một sự giải quyết, hoặc mọi nghiệp quả được trả xong.

Cho nên một lần nữa, ta cũng biết việc mắc phải một chứng bệnh vật lý ngặt nghèo luôn luôn vô cùng khó khăn, nhưng lời dạy của Giê-su lúc nãy cũng áp dụng ở đây. Một khi con chấp nhận căn bệnh và quyết định chung sống với nó cho tốt nhất, thì niềm đau khổ sẽ giảm đi rất nhiều. Và con yêu dấu, ta cần phải nói với con là có những khi con cần phải chấp nhận một căn bệnh vật lý trước khi con có thể thực sự chữa lành. Nói cách khác, có những người chiến đấu với căn bệnh bằng tất cả nghị lực và phương thức vỏ ngoài – cho dù là qua cách trị liệu tự nhiên hay y khoa truyền thống – vì họ không thực sự chấp nhận nguyên nhân căn bệnh là do chính tâm thức mình gây ra.

Và vì vậy, họ đã không khởi đầu tiến trình lượng định lại cuộc đời mình cũng như những tin tưởng của mình. Họ đã không thực sự soi vào trong gương. Cho nên họ chỉ đơn giản cố sức loại bỏ các triệu chứng vỏ ngoài thay vì xem xét đến nguyên nhân tâm linh. Và như thế, nếu chứng bệnh là do nghiệp quả, thì đúng vậy, con cần phải học được bài học, con cần học từ nghiệp chướng đó trước khi bệnh có thể chữa lành.

Cũng có những người đã chuốc lấy một chứng bệnh hầu bắt buộc chính mình phải học hỏi một bài học nào đó. Và một lần nữa, con lại gặp tình trạng tâm vỏ ngoài của con nổi lên chống chọi lại căn bệnh và tìm cách chữa lành bằng mọi cách mà nó có trong tay, trong khi cái ta cao hơn của con thì lại không muốn chữa trị căn bệnh cho tới khi tâm vỏ ngoài đã học xong bài học.

Cho nên con càng chống chọi mãnh liệt thì căn bệnh sẽ càng kéo dai dẳng hơn. Thay vào đó, sao con không chỉ buông bỏ và nói, “Bài học con phải học từ bệnh này là gì? Cái ta Ki-tô yêu dấu, Mẹ Mary yêu dấu, hãy chỉ cho con thấy con phải làm gì để học hỏi từ căn bệnh này. Hãy chỉ cho con thấy con phải thay đổi những gì hầu vượt ra khỏi trạng thái tâm thức đã làm thị hiện chứng bệnh vật lý này.”

Tu tập quả vị Ki-tô trong khi có gia đình

Hỏi: Con tự hỏi, có thể nào theo đuổi quả vị Ki-tô cá nhân khi mình thành hôn và chăm lo cho gia đình? Con bị giằng xé bởi câu hỏi này vì một phần trong con vẫn giữ hình ảnh là mình phải rời bỏ cách sống của mình trong xã hội hiện đại, thế nhưng khi con cầu nguyện và thiền định thì dòng sống của con lại cảm thấy an bình nhất khi ý nghĩ lập gia đình đến với con. Xin thày có ý nghĩ gì cho con suy ngẫm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta đã có giải thích trên trang mạng này, hầu hết mọi người đều bị kẹt trong tâm nhị nguyên dựa trên sự tách biệt và tương đối. Kết quả là nhiều người đã tạo ra một hình tư tưởng cho rằng nếu mình là một người thực sự tâm linh thì mình phải sống theo một cách nhất định nào đó – như phải rút hẳn ra khỏi xã hội và sống trong tu viện, hay tuân thủ một số luật lệ vỏ ngoài mà tôn giáo đó đã thiết lập. Cho nên ta hiểu được tại sao nhiều người lại nghĩ rằng để theo đuổi con đường quả vị Ki-tô cá nhân, mình phải sống như một vị sư nam hay sư nữ.

Tuy nhiên như ta cũng đã cố giải thích khắp trang mạng này, không một hộp tư duy nào do tâm con người tạo ra có thể chứa được, hay giam giữ được Ki-tô Hằng sống. Thật ra, một trong những công việc chủ yếu của một sinh thể Ki-tô là chứng tỏ cho mọi người là con có thể có cách sống vượt ra khỏi những chiếc hộp tư duy của họ. 

Cho nên thật sự không có một cách sống chuẩn mực nào cho một người bước đi trên con đường Ki-tô, hay một cách chuẩn mực để biểu hiện tâm Ki-tô. Mỗi con đường đều là một con đường cá nhân, và khi con càng ngày càng đạt thêm phẩm chất Ki-tô, con sẽ bắt đầu thể hiện cá thể tâm linh chân thực của con nhiều hơn. Con sẽ bắt đầu là con người thật của mình cho dù người đời có muốn con là như thế nào.

Cho nên thật là không thể đặt ra một tiêu chuẩn rồi bảo rằng chỉ những người nào sống theo tiêu chuẩn đó mới là người có tâm Ki-tô, hay là người thật sự tu theo con đường quả vị Ki-tô. Có rất nhiều người, để đạt được và biểu hiện tâm Ki-tô của mình, đã từng phải vượt ra ngoài sự mong đợi của thế gian hoặc những quy ước của xã hội. Đó là tại sao ta đã từng thách đố rất nhiều khuôn phép, tục lệ trong xã hội nước Israel thuở trước, chẳng hạn như khi ta chữa bệnh cho một người đàn ông vào ngày sa-bát và tuyên bố là ngày sa-bát phải phục vụ con người chứ con người không phục vụ ngày sa-bát.

Một điều cần cân nhắc nữa là để thực sự đạt được quả vị Ki-tô, con cần cân bằng nghiệp quả mà con đã tạo ra trong tiền kiếp. Nghiệp quả có thể khiến cho một số người cần phải lập gia đình và nuôi con. Con cũng cần giải quyết mọi tắc nghẽn trong tâm lý mình, và cũng thế, việc lập gia đình có thể là cách hiệu quả nhất để thực hiện điều này. Hay là có thể trong sứ mạng tâm linh của con, con đã thề nguyện là mình sẽ đưa một số dòng sống nào đó đi vào hiện thân như là con mình. Nói cách khác, con đường dẫn con đến quả vị Ki-tô có thể đòi hỏi con phải tham gia vào xã hội theo rất nhiều cách khác nhau.

Cho nên điểm mấu chốt về quả vị Ki-tô là con không thể nào đặt ra một chuẩn mực vỏ ngoài nào. Vì vậy, con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài, phân tích, nhị nguyên của con là con phải bước đi như thế nào trên đường tu cá nhân của mình. Nếu con tạo ra chuẩn mực vỏ ngoài đó, như nhiều người sùng đạo thường làm, con sẽ đi theo con đường có vẻ đúng đắn dưới mắt thế gian nhưng cuối cùng sẽ là con đường chết.

Con chỉ có thể bước theo quả vị Ki-tô bằng cách vượt ra ngoài tâm nhị nguyên và nhận được sự chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô. Để nhận được chỉ đạo rõ ràng nhất, sẽ vô cùng ích lợi cho con nếu con dùng các kỹ thuật đăng tải trên trang dụng cụ, như những bài chú để cầu thỉnh sự bảo vệ đối với những can thiệp từ ngoài, kỹ thuật biến hóa năng lượng bất toàn trong năng trường của mình, cũng như một kỹ thuật hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình.

Trong những giai đoạn khởi đầu trên đường tu quả vị Ki-tô, thường con sẽ nhận được chỉ đạo nội tâm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Một cách để lượng định xem những sáng ngộ này có đúng đắn hay không là nhìn xem liệu sáng ngộ đó có đem lại cho con một cảm nhận an bình hay một cảm giác mâu thuẫn, xung đột trong tâm. Mỗi khi con nhận thấy mâu thuẫn nội tâm, con biết là con đã không nhận được sáng ngộ cao nhất, và do đó con không nên lấy quyết định dựa trên tâm trạng giằng xé này, mà thay vào đó, con nên quyết tâm để có được cái nhìn trực quan rõ ràng hơn. Khi con có sáng ngộ đúng đắn, con sẽ cảm thấy nội tâm mình an bình – không giống như cảm giác là mình có thể làm những gì mà tâm nhị nguyên muốn mình làm. Con sẽ đạt được một cái biết mạnh mẽ nơi nội tâm là mình cần làm gì.

Con nên luôn luôn nhớ rằng tâm nhị nguyên là nhị nguyên, và nó dẫn đến xung đột, phân rẽ. Còn tâm Ki-tô thì đơn nhất, và nó loại trừ xung đột, đem lại an bình cho con.  Cho nên con hãy đi tìm viễn quan hợp nhất của tâm Ki-tô. Hãy nhớ lời ta nói, rằng nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Ý nghĩa là khi con đạt được viễn quan đơn nhất của tâm Ki-tô, con sẽ tràn ngập ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này không bao giờ thất bại!

Với địa cầu bước vào Thời đại Bảo bình, một điều sẽ ngày càng quan trọng hơn là đưa tôn giáo ra khỏi những nơi thờ phượng và hội nhập nó vào cuộc sống hàng ngày của mọi người. Vì vậy có nhiều dòng sống đã có lời nguyện là mình sẽ bước trên con đường quả vị Ki-tô trong khi vẫn nuôi nấng gia đình hay tham gia vào xã hội. Hiển nhiên, sống như vậy sẽ khó khăn hơn là sống trong một môi trường bảo bọc, nhưng đây chính là một phần quan trọng của đời sống tâm linh trong thời đại mới.    

Con sẽ thành công hơn rất nhiều nếu con làm hòa với việc nuôi nấng gia đình và khắc phục sự xung đột nội tâm khi con cảm thấy đời sống gia đình cản trở sự phát triển tâm linh của con. Thay vào đó, con hãy nhìn xem tại sao con lại cảm thấy như vậy và nhận ra rất có thể đó chỉ là tàn tích của nền văn hóa Thời đại Song ngư, hoặc là tàn tích từ một tiền kiếp khi con sống đời ẩn dật hơn. Quả thực, làm thế nào con có thể đạt được quả vị Ki-tô mà không khắc phục những phân rẽ đó? Liệu một tâm lý phân rẽ với chính nó sẽ có bao giờ là Ki-tô Hằng sống được?

Khi con có thể ôm trọn ý tưởng rằng đời sống gia đình là chìa khóa cho quả vị Ki-tô của con, con sẽ tiến bước nhanh hơn đến Ki-tô trong khi vẫn có thể vui hưởng cuộc sống gia đình – và qua đó con cũng sẽ giúp cho gia đình con vui hưởng cuộc sống đó. Quá nhiều người tâm linh đã khiến cho bản thân mình cùng gia đình mình bị khổ sở khi mình sống với gia đình mà cứ nghĩ mình phải đang ở trong tu viện. Con hãy buông bỏ những ý nghĩ đó đi và hãy an bình với cuộc sống cùng nơi mình đang sống.

Đa số cần chữa lành trước khi thể hiện được quả vị Ki-tô cá nhân

Hỏi: Nhiều người đã chữa trị tâm lý qua những kỹ thuật như hơi thở toàn diện (holotropic breathwork) hay trị liệu tổng thể (gestalt therapy), cho biết là họ cảm thấy niềm vui bên trong và sự tự tin của họ gia tăng, và những hệ quả tiêu cực của chấn thương được tẩy sạch. Những liệu pháp này gọi mở trải nghiệm nội tâm, cho nên con tự hỏi, không hiểu điều đó có giúp cho người ta đến gần hơn với tâm thức Ki-tô?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Câu trả lời ngắn gọn là có. Như ta có giải thích trong bài giảng về phát triển tâm linh, trên địa cầu có rất nhiều dòng sống đã mang vết thương sâu xa và cần được chữa lành trước khi có thể thể hiện quả vị Kitô cá nhân. Tất nhiên, cho tới khi dòng sống đạt đến sự điều ngự toàn diện, người đó vẫn còn nhiều vết thương khiến việc sử dụng các loại điều trị hàn gắn tâm lý vô cùng hữu ích.

Như ta có trình bày khi trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), chấn thương có thể khiến cho dòng sống bị phân chia hay vỡ ra thành từng mảnh. Chính sự thiếu trọn vẹn này là cản trở chính yếu cho việc thị hiện tâm thức Ki-tô. Vì vậy, bằng cách sử dụng những kỹ thuật thích hợp để chữa lành vết thương, một người có thể thực sự có những bước dài tiến về việc thể hiện tâm thức Ki-tô.

Bởi vì mọi sự đều xoay quanh những chọn lựa tự quyết của cái Ta Biết, sự phân chia thành từng mảnh của dòng sống khởi đầu bằng một quyết định. Quyết định này thường xuất phát từ sợ hãi, là sợ hãi phải kinh qua một hoàn cảnh đau thương. Cho nên cái Ta Biết quyết định nó không muốn trải nghiệm chấn thương, và nó rút lui khỏi tình huống. Như khoa học hiện đại đã khám phá, mọi thứ trong vũ trụ đều nối kết chặt chẽ với nhau, kể cả thời gian. Do đó, rất có thể dòng sống có khả năng phân chia ra, và một mảnh của dòng sống bị kẹt lại ở một thời điểm nào đó trong thời gian.

Để đem mảnh đó về, cái Ta Biết cần có một trải nghiệm nội tâm nối kết nó lại với quyết định nguyên thủy đã gây ra sự phân rẽ của dòng sống. Điều này không nhất thiết có nghĩa là cái Ta Biết cần đi ngược trở lại và tái trải nghiệm chính tình huống đã gây ra chấn thương. Điều cái Ta Biết có thể làm là nó có một trải nghiệm nội tâm chứa đựng những thành phần chính yếu của chấn thương, và trải nghiệm này giúp cho cái Ta Biết quyết định mở cửa ra cho mảnh vỡ trở về.

Hiển nhiên, nếu việc vỡ ra thành mảnh nhỏ là hệ quả của chấn thương, cái Ta Biết sẽ lo sợ phải sống lại tình huống đó. Do đó, nó cần một môi trường an toàn nơi nó có thể vượt qua nỗi sợ hãi này. Sẽ rất hữu ích nếu cái Ta Biết có thể được sự hướng dẫn của một nhà chuyên nghiệp lành nghề và trải nghiệm một tình huống ít đe dọa hơn tình huống nguyên thủy đã gây ra chấn thương. Đó là tại sao một dòng sống thường có thể chữa lành bằng cách giải quyết trong kiếp này một vấn đề đã xảy ra thời thơ ấu. Vấn đề này có thể trở thành một biểu tượng hay một mối liên kết với chấn thương nguyên thủy xảy ra trong một tiền kiếp. Chẳng hạn, bằng cách để cho một tình huống trong kiếp này trải bày ra qua cách trị liệu tổng thể gestalt, cái Ta Biết có thể gắn kết lại với những “hồ sơ” cũ và mở rộng ra để một mảnh vỡ bị đánh mất trong một kiếp trước trở lại.

Như ta có giải thích trong một câu trả lời khác, điều vô cùng khôn ngoan là sử dụng các dụng cụ tâm linh để củng cố tác dụng của các loại liệu pháp. Khi dòng sống vỡ ra thành mảnh, trong cấu trúc tinh thể của cỗ xe 4 thể sẽ có một khoảng trống, và khoảng trống này có thể dễ bị các loại năng lượng bất toàn hay sinh thể thấp kém xâm chiếm. Các bài thỉnh thích hợp cho Đại thiên thần Michael có khả năng tẩy sạch những tà thể như vậy, và bằng cách sử dụng đúng đắn Ngọn lửa Tím hay các bài thỉnh Mẹ Mary, con có thể biến hóa năng lượng tiêu cực đang tràn ngập khoảng trống trong cỗ xe 4 thể. Điều này có thể đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành. Tuy nhiên nói cho cùng, một kỹ thuật tâm linh tự thân nó không thể bảo đảm các mảnh vỡ sẽ trở lại, vì điều này chỉ có thể xảy ra do một quyết định có ý thức.

Trong vài thập niên vừa qua, nhiều hình thức trị liệu khả thi đã được phát triển, và nhiều phương pháp nữa sẽ được các chân sư thăng thiên ban truyền trong những thập niên tới. Tuy vậy, không phải tất cả mọi hình thức trị liệu đều an toàn hay thích hợp. Ta thực sự khuyên con không bao giờ cho phép mình bị lâm vào thôi miên sâu, qua đó ta muốn nói đến một buổi trị liệu nơi con không có ký ức gì về những gì đã xảy ra, nơi con không có khả năng ngừng buổi trị liệu bất cứ lúc nào, hay khi nhà trị liệu đặt ý tưởng vào tâm con. Ta cũng khuyên là trước khi trị liệu, con nên thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho con cũng như cho người trị liệu. Đã từng xảy ra nhiều trường hợp bi thảm khi người trị liệu đã chuyển tải ý tưởng cùng cảm xúc từ chính tâm tiềm thức của mình vào tiềm thức của bệnh nhân. Tất nhiên, điều này sẽ không giúp ích cho sự tăng triển tâm linh của con.

Với biện pháp phòng ngừa thích hợp, ta đặc biệt khuyên mọi người tầm đạo nghiêm túc nên xem xét đến việc sử dụng một số hình thức trị liệu. Thật là đáng buồn khi có nhiều người được dạy dỗ là mình phải trở nên khùng điên trước khi mình bắt đầu bất cứ loại trị liệu nào. Đó là một thái độ vô cùng thiếu hiệu quả, cũng gíống như con bảo là con không cần bổ sung vitamin trước khi con bị đau ốm.

Thực tế đơn giản là con đang sinh sống trên một hành tinh với rất nhiều điều kiện tiêu cực, và gần như con không thể lớn lên ở bất cứ nơi đâu trên trái đất mà không gặp phải một loại chấn thương nào đó. Và bởi vì hầu hết mọi người trên hành tinh này đều đã sống qua nhiều kiếp rồi, cho nên gần như ai ai cũng có nhu cầu chữa lành dòng sống của mình. Do đó, đúng vậy, những hình thức trị liệu thích hợp có thể là phương thức hiệu nghiệm nhất để giúp con đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình.

Nguyên nhân tâm linh của sự mệt mỏi

Hỏi: Đâu là nguyên nhân của sự mệt mỏi mà con đã trải nghiệm trong mấy năm qua? Con sẽ vui mừng xem xét bất cứ điều gì thày tỏ lộ hay khuyên con làm. Con xin cảm tạ và cũng xin Thượng đế phù hộ cho cả hai [thày Giê-su và ông Kim Michaels].


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi có vấn đề về thể chất, con luôn luôn nên tìm đến chuyên gia y tế để cung cấp khuyến cáo thích hợp. Về vấn đề này, ta sẽ nói là hầu hết mọi chứng bệnh thể xác đều có liên hệ tương ứng về mặt tâm lý, và trong nhiều trường hợp, một nguyên nhân tâm lý.

Sự mệt mỏi luôn luôn là chỉ dấu năng lượng của con không đang tuôn chảy một cách tự do. Điều này thường do một xung đột trong tâm lý con liên quan đến sứ vụ của con trong cuộc sống. Các xung đột phổ biến nhất gồm có:

  • Thiếu rõ ràng về sứ vụ của con thực sự là gì.
  • Một thành phần của tâm tiềm thức bị thu hút bởi một khía cạnh của sứ vụ của con, trong khi một thành phần khác trong tâm con bị thu hút bởi một khía cạnh khác.
  • Một phần của con bị thu hút bởi sứ vụ tâm linh của con, và một phần khác bị thu hút bởi những thứ thuộc về thế gian.

Khi con bị phân rẽ giữa hai phương hướng khác nhau và không thể tập trung năng lượng của mình, con lâm vào bế tắc tâm linh. Điều này sẽ ngăn cản năng lượng của con tuôn chảy tự do và do đó nó sẽ tích tụ lại trong cơ thể vật lý, dẫn đến mệt mỏi. Con hãy dùng các dụng cụ tâm linh trên trang mạng này để biến hóa năng lượng tồn đọng.

Con có thể sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để đạt được nhiều minh mẫn hơn. Nếu con nhận biết một nỗi xung đột nhất định trong tâm lý, có thể là một vết thương, một vết sẹo tình cảm từ thuở thơ ấu hoặc trước đó nữa, con hãy đi gặp một chuyên gia để tìm cách chữa lành tâm lý.

Tất nhiên sự mệt mỏi cũng có thể xuất phát từ một lực bên ngoài khiến cho năng lượng bị tiêu hao. Điều này có thể xảy ra do một số sinh hoạt như uống rượu hay sử dụng ma túy, do chấn thương hay hoạt động gây căng thẳng. Tuy nhiên, đó cũng có thể là một sự tấn công từ tà lực không nhất thiết sẽ mang triệu chứng hay có nguồn gốc vật lý. Con hãy dùng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh mà các chân sư đã ban truyền.    

Ta khen con sẵn sàng xem xét bất cứ điều gì có thể cản đường tinh tấn tâm linh của con. Chính sự sẵn lòng này để nhìn vào bất kỳ chướng ngại nào là khí giới lớn nhất của con, và nếu con dùng những phương tiện thích hợp, con sẽ phát hiện nguyên nhân gây ra chứng mệt mỏi của con.

Một cách tiếp cận không nhằm làm nguôi bệnh tật và cái chết

Hỏi: Con xin hỏi về ý nghĩa của một cái chết kéo dài đau đớn. Người bạn của con vừa mất hôm qua do một khối u trong não. Anh ấy phát hiện ra căn bệnh cách đây bảy tuần và trong suốt thời gian đó anh đã đau đớn rất nhiều. Anh mất hết nhân tính và trở thành giống như loài thực vật. Đâu là ý nghĩa của một cái chết như vậy đối với chúng con? Và làm thế nào chúng con có thể giúp một người thân trong hoàn cảnh như vậy?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đây là một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài khác nhau. Một phần rất lớn của câu trả lời luôn luôn nằm trong vấn đề nghiệp quả. Có những người là những dòng sống can đảm muốn tiến triển nhanh chóng, và ở những tầng nội tâm của họ hoặc trước khi họ đầu thai, họ đã tình nguyện chuốc lấy một chứng bệnh trầm trọng để cân bằng càng nhiều nghiệp quả càng tốt trong phần đời còn lại, hầu trong kiếp tới họ gặp được một hoàn cảnh tốt hơn. Thậm chí còn có những người chịu đựng một căn bệnh như vậy để cân bằng nghiệp quả một lần chót và hội đủ tư cách thăng thiên.    

Tuy vậy cũng có nhiều yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng, như có những người tình nguyện nhận lấy một căn bệnh ngặt nghèo để phần nào giúp người khác khởi lên lòng từ bi hay mong muốn cứu giúp. Kẻ thù lớn nhất của sự phát triển tâm linh thực sự là lòng vị kỷ, bởi vì khi tự ngã hoàn toàn tập trung vào chính nó, nó biến thành một lỗ đen. Nó biến thành một hệ thống khép kín mà Saint Germain đã có đề cập trong bài giảng tuyệt vời của thày về định luật thứ hai của nhiệt động học.

Và do đó, các vị thày tâm linh của nhân loại đã đề ra rất nhiều phương thức để giúp con người khắc phục tính vị kỷ qua lòng trắc ẩn đối với người khác – họ bị khuấy động đến độ họ sẽ dang tay giúp đỡ người khác thay vì chỉ chú trọng đến bản thân mình. Cho nên quả thực là có những người đã tình nguyện chuốc lấy đủ loại bệnh tật – như trong trường hợp nói trên – hầu khơi lên lòng vị tha nơi người khác. 

Hiển nhiên cũng có những người đã không tình nguyện chuốc lấy bất cứ gì hết, và đơn giản nghiệp quả của họ đã trở nên nặng nề đến độ nó phải bộc lộ ra dưới hình thức một căn bệnh lấy đi mọi khả năng thân xác của họ. Những người như vậy đã không sẵn lòng lắng nghe lời dạy tâm linh – thường là suốt nhiều kiếp qua – và do đó nghiệp quả đã phải giáng xuống để trao cho họ thêm một cơ hội thay đổi hướng đi trong cuộc sống. Chúng tôi là các vị thày của nhân loại, phụng sự địa cầu phần lớn để đưa ra cho mọi người một chọn lựa khác hơn là phải học hỏi qua nghiệp quả. Tiếc thay, chúng tôi chẳng làm được gì nhiều khi người ta cứ nhất định ghi danh theo học Trường đời Cay đắng. 

Cũng có một yếu tố tâm lý nhằm chỉ ra cho mọi người thấy được sự sống là nhiều hơn cuộc sống vật lý. Và đây là một điểm tác dụng trên xã hội hiện đại. Vì con thấy gì trong ngành y khoa hiện đại? Con thấy một cố gắng nhằm tạo ra tình trạng nơi bệnh tật và đau khổ bị cất giấu khỏi con mắt người đời. Gần như con thấy chuyện này ở hai đầu của kiếp người. Đã có những xã hội xem hành vi sinh sản là một đề tài cấm kỵ – đến độ người ta tin rằng trẻ sơ sinh được cò bay đến giao tận nhà, và ngay cả thời nay vẫn có nhiều trẻ em không biết gì về chuyện sinh nở. Nói cách khác, con người bỗng dưng hiện ra trong đời, rồi một ngày kia khi họ chết đi, họ cũng bỗng dưng biến mất khỏi đời.

Nhưng thực tế, tất nhiên, là những gì con tạo ra trong tâm thức thì con cũng phải trải nghiệm trong thế giới vật lý. Bởi vì vũ trụ là một tấm gương. Và điều mà ngành y khoa hiện đại đã làm là cố tạo ra một tình trạng nơi họ có thể chữa trị mọi bệnh tật hay giảm bớt mọi cơn đau để con người không phải trải nghiệm hậu quả trạng thái tâm thức của mình. Bất kỳ chứng bệnh nào cũng là sự hiển thị của một điều kiện nào đó trong tâm thức. Và trong nhiều trường hợp, quả thực bệnh tật có khả năng đưa người bệnh tới điểm nhận ra là mình cần thay đổi, mình cần lượng định lại cuộc sống của mình. Nó có thể kích hoạt sự tăng trưởng tâm linh mà bình thường sẽ không xảy ra nếu họ vẫn luôn mạnh khỏe và chỉ lo thụ hưởng đời sống vật chất bề ngoài. 

Cho nên câu hỏi này gắn liền với một câu hỏi khác về đau khổ. Bởi vì có những người sẽ không chịu học hỏi một cách nào khác. Họ sẽ không học hỏi từ giáo lý tâm linh hay những lời gợi nhắc từ cái ta Ki-tô của họ. Và trong trường hợp đó, cõi vật lý, năng lượng của Mẹ, sẽ trở thành vị thày của họ. Và đó là tại sao cơ thể vật lý của họ bắt đầu biểu lộ ra những điều kiện tâm lý bất toàn ở bên trong.

Đối với một số người chứng kiến người khác phải trải qua sự đau đớn của một căn bệnh ngặt nghèo, họ cũng có thể nhận được ích lợi tâm lý. Hiển nhiên, chúng tôi thà là mọi người học hỏi qua lời dạy tâm linh thay vì phải thấy chính tâm thức mình trình chiếu ra một cách quá khắc nghiệt. Nhưng khi con người không sẵn lòng học hỏi thì chúng tôi phải cho phép Luật Tự quyết trải bày ra để họ thấy được cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng và họ không thể thực sự trốn tránh những hậu quả của chọn lựa của mình. Con không thể luôn luôn dùng thuốc giảm đau để làm cho mình tê dại và không còn cảm giác gì nữa.

Về câu hỏi là con có thể làm gì để giúp đỡ những người như vậy, thì câu trả lời là con hãy an bình – để khi con ở bên họ, con không rơi vào cả hai cái bẫy của nhị nguyên, một là nỗi thương xót phàm phu, và hai là niềm tê dại để mình không cảm thấy gì.

Con hãy cho phép mình cảm thấy một niềm an bình nội tâm đem lại cho con lòng trắc ẩn đích thực. Rồi con có thể giúp họ, tạo cảm hứng cho họ lượng định lại cuộc sống, miễn là họ đủ tỉnh táo để làm chuyện đó. Nếu họ đã đi quá mức để có thể tỉnh táo, con có thể, một lần nữa, giữ tâm an bình và giữ sự cân bằng tâm linh cho họ.

Và tất nhiên, chắc chắn con có thể đọc các bài thỉnh và bài chú, để nơi nội tâm, dòng sống đó có thể thức tỉnh mà học được bài học – cho dù tâm vỏ ngoài không còn khả năng học hỏi do đã mất tỉnh táo. Con cũng có thể làm việc với những người chung quanh người bệnh và tìm cách giúp họ lượng định lại đời sống của họ và có được một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống.

Khi con trải qua một trận ốm nặng hay con chứng kiến cảnh người thân phải chịu một chứng bệnh hay đau đớn tột cùng – có khi người thân của con suy yếu tới mức con không còn nhận ra họ là con người, hay chắc chắn không phải là con người mà con đã từng quen biết – thì lẽ tự nhiên cảm xúc của con sẽ bị tác động. Nhiều người bị kinh nghiệm đó gây chấn thương, đến độ họ không còn chọn lựa nào khác hơn là đóng chặt cảm xúc mình lại, và mình bị tê đi để không phải chịu đựng nỗi khổ sống qua căn bệnh hay nhìn thấy người thân đau đớn. Điều không thể tránh khỏi là khả năng suy nghĩ minh mẫn của họ sẽ bị che phủ như trong mây mù. 

Một phản ứng thông thường khác là cảm giác vô cùng mạnh mẽ, cảm giác bao trùm lên tất cả rằng mình bị bất lực, mình bị tê liệt không thể làm gì để đem lại thay đổi tích cực – cảm giác rằng chuyện này thật là bất công. Rồi tình trạng bất lực trước hoàn cảnh vỏ ngoài đó thường chuyển thành một nỗi oán hờn bên trong, hay một cơn giận ngày càng dữ dội đến độ cuối cùng nó phải trào ra ngoài và hướng về một ai đó. Một số bệnh nhân đâm ra tức giận đối với người thân hay ngay cả với những người chăm sóc cho mình. Một số khác trút nỗi giận lên Thượng đế, và trong sự phẫn nộ tột cùng, họ thường chất vấn tại sao Ngài lại để cho chuyện đó xảy ra cho họ.

Điều thày muốn nói là mặc dù cả hai loại phản ứng đều có thể hiểu được, nhưng câu hỏi thật sự là liệu cách phản ứng như vậy sẽ có giảm bớt nỗi đau và cải thiện tình trạng thể chất của mình hay không, hay nó sẽ chỉ khiến cho mọi sự tồi tệ hơn?

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không hề vô cảm trước nỗi thống khổ của loài người. Kỳ thực, trong cương vị đại diện đấng Ki-tô Toàn vũ cho địa cầu, quả thực là ta cảm được – ở một tầng nhất định trong bản thể của ta – niềm khổ đau của từng con người trên trái đất. Như ta đã nói cách đây 2000 năm: “Hễ các người làm điều gì cho một ai hèn mọn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta” (Matthew 25:40).

Nhưng ta cũng nhận biết trọn vẹn rằng ta là nhiều hơn nỗi đau khổ, và mỗi người trên địa cầu cũng nhiều hơn nỗi đau khổ. Cho nên ta thấy được rõ ràng là để con người trên trái đất thoát khỏi khổ đau, họ cần kết nối lại với thực tại rằng họ cũng là nhiều hơn vậy – một thực tại mà ta từng mô tả: “Và họ sẽ không bảo, Kìa ở đây! hay kìa ở đó! Bởi vì con hãy nhìn, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke 17:21)

Vì vậy, tuy rằng các chân sư có lòng từ bi siêu phàm đối với mọi con người đang đau khổ, nhưng chúng tôi không bao giờ bị chìm đắm trong lòng trắc ẩn và luôn luôn cầm giữ niệm tinh khôi rằng con người sẽ nâng cao tâm thức và khăc phục được những giới hạn vỏ ngoài của mình.

Chỉ bằng cách đi vào bên trong mà con mới có thể kết nối với cái ta toàn vẹn của con. Cái ta này là nhiều hơn cái ngã giới hạn bị kẹt trong thân xác vật lý, là cái thân xác đang trải qua một cơn bệnh hay đang chứng kiến một thân xác khác trải qua cơn bệnh. Đạt đến sáng ngộ này là một vấn đề nâng cao tâm thức, nâng cao tầm hiểu của con về cuộc sống. Và nó đòi hỏi một mức suy luận sáng suốt về sự tình – một điều con không thể làm được khi tinh thần con bị suy sụp về cả mặt lý trí lẫn tình cảm, hay khi con cho phép cảm xúc của mình trào ra điên cuồng trong sự nóng giận và đổ lỗi. Ta hoàn toàn hiểu được là lời dạy này sẽ không giúp được mọi người, nhưng con hãy cho phép ta gợi ra một phương thức cho những ai vẫn còn khả năng suy nghĩ thấu đáo. 

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, cảm xúc của con ở một tầng thấp hơn thể lý trí. Cho nên khi con đóng chặt cảm xúc mình lại, hay con để mặc cho nó chạy cuồng loạn, nguyên nhân thực sự nằm trong trí thể của con. Và nguyên nhân là vì con không thể nhìn ra ý nghĩa của tình huống, con không thể hiểu được – và do đó con không thể chấp nhận – tại sao nó lại xảy ra. Con cảm thấy tình huống bị áp đặt lên con một cách bất công bởi một thế lực bên ngoài, cho dù đó là cuộc sống, là số mạng hay Thượng đế.  

Hãy để ta gợi ý nguyên do tại sao quá nhiều người trong xã hội hiện đại không thể hiểu và không thể chấp nhận đau khổ, đó là vì cả hai hệ tư tưởng đang thống trị xã hội này – ta muốn nói là cả đạo Cơ đốc chính mạch lẫn nền khoa học duy vật – không có khả năng đem lại cho họ câu trả lời xác đáng. Vì họ không có câu trả lời cho nên trí thể của họ bị tê liệt và họ không thể kiểm soát cảm thể của họ.

Do đó, mặc dù họ có thể đang rất xúc động và khó lòng kểm chế cơn xúc động một khi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát, câu trả lời thực tiễn duy nhất là họ phải bắt đầu thay đổi cái nhìn của mình về bệnh tật và đau đớn. Nó đòi hỏi họ phải vượt xa hơn cái nhìn về cuốc sống mà cả tôn giáo lẫn khoa học đang đưa ra.

Bắt đầu ở đâu đây? À, không có cách bắt đầu nào hay hơn là quyển sách của Mẹ Mary nơi thày giải thích thực tại cơ bản của cuộc sống:

  • Tâm con có khả năng hình thành tâm ảnh.
  • Con đã được ban cho quyền tự quyết hình thành bất cứ tâm ảnh nào con muốn.
  • Vũ trụ được cấu tạo bằng một chất gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Chất này có khả năng khoác vào bất kỳ hình dạng nào.
  • Ánh sáng Mẫu-Vật tạo thành một loại gương vũ trụ. Bất cứ tâm ảnh nào con giữ trong tâm – ngay cả ở dưới mức ý thức – cũng sẽ được áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng vật chất tương ứng với tâm ảnh của con.
  • Cho dù con cầm giữ tâm ảnh nào trong tâm đi nữa, cuối cùng con sẽ trải nghiệm nó dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất trong đời con.
  • Chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh vật chất của con là thay đổi tâm ảnh trong tâm, nghĩa là trong cả bốn tầng của tâm con.

Ta cũng biết thế giới quan nói trên thật là đối chọi với thế giới quan mà cả tôn giáo lẫn khoa học đều đưa ra cho nhân loại. Thế giới quan mà con đã được dạy dỗ khi lớn lên đã được thiết kế để trấn an con và khiến con nghĩ rằng con không có quyền làm chủ vận mạng cũng như các hoàn cảnh vật lý của mình. Điểm này đã được giải thích tường tận hơn ở những nơi khác và ta sẽ không bàn sâu hơn ở đây.

Nếu con bị bệnh và đến tham vấn một vị tu sĩ, vị đó sẽ bảo con cầu nguyện, và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả thì dường như con không có cách nào khác nữa. Nếu con đi tham vấn một bác sĩ, vị ấy sẽ bảo con sử dụng y học hiện đại, và nếu y học không đem lại kết quả thì con cũng không có cách nào khác. Cả hai hệ thống tín ngưỡng đều nhằm trấn an con, khiến cho con nguôi dịu, bằng cách bác bỏ sự kiện con chính là kẻ mang trách nhiệm bệnh tình của mình, bác bỏ bệnh tật là cách thức mà các điều kiện trong tâm con trình chiếu ra ngoài, và con có khả năng thay đổi điều kiện vật lý bằng cách thay đổi điều kiện nội tâm.

Vấn đề là cả hai nền triết lý đó đã dạy con người rằng họ không mang trách nhiệm tối hậu về đời họ, và đây là một thông điệp mà tự ngã con người rất thích nghe. Cho nên ta hiểu rõ là nhiều người sẽ khó lòng xoay chuyển và công nhận rằng BẤT KỲ tình huống vật chất nào cũng đều do tâm tự tạo ra và do đó cũng có thể được tâm tháo gỡ bằng cách thay đổi tâm.

Con có thấy điều ta nói ở đây? Tôn giáo bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả, con sẽ không còn chọn lựa nào khác. Khoa học bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu y học không đem lại kết quả, con cũng không có chọn lựa nào khác. Cả hai đều dẫn đến sự tê liệt, và như ta vừa giảng ở trên, đau khổ là do sự tê liệt như vậy gây ra.

Thế giới quan mà ta gợi ý ở đây loại bỏ tình trạng tê liệt đó bằng cách chủ trương bất kỳ hình thức khổ đau nào cũng mang sẵn tiềm năng học hỏi một bài học quan trọng trong đời, một bài học sẽ hữu ích cho con xa hơn cả kiếp này cùng tâm trạng đau khổ hiện thời của con. Tất nhiên, cái giá con phải trả là con phải chấp nhận mình mang trách nhiệm tối hậu về cuộc đời mình. Nhưng một khi con làm điều đó, con sẽ không bao giờ cảm thấy bất lực, tê liệt nữa. Và như thế, khổ đau hoặc sẽ giảm bớt, hoặc sẽ được thay thế bởi niềm vui khi con chú tâm vào tăng trưởng tâm linh.

Hơn thế nữa, khi con chuyên tâm học hỏi và khám phá bài học ẩn giấu sau mỗi tình huống vỏ ngoài, rất có thể con sẽ khắc phục được nguyên nhân đã tạo ra căn bệnh vật chất. Và điều này có thể khiến cho căn bệnh dù trầm trọng đến đâu cũng biến mất – trong nghĩa đen – như trong phép lạ. Kỳ thực chẳng có phép lạ gì cả, mà chỉ là sự ứng dụng những định luật tự nhiên vượt ngoài mức hiểu biết hiện thời của cả khoa học lẫn tôn giáo.   

Thực tế là khi người bệnh chấp nhận một trong hai hệ thống tín ngưỡng đang thống trị xã hội hiện đại, kết quả tất yếu sẽ là sự tê liệt. Điều này sẽ ngăn chặn mọi cách giải quyết điều kiện nội tâm đã tạo ra căn bệnh, và do đó nó sẽ ngăn chặn việc chữa trị. Con thử nhìn xem biết bao người tin vào bác sĩ khi họ nghe tin bệnh tình của mình không có cách chữa. Và khi họ chấp nhận như vậy, họ cũng chặn đứng khả năng giải quyết nguyên nhân căn bệnh.

Con cần hiểu rõ là ở đây ta không nói đến niềm hy vọng hão huyền mà quá nhiều nhà truyền đạo Cơ đốc cổ võ. Việc cầu nguyện – ngay cả khi toàn thể họ đạo cầu nguyện cho con – cũng không đủ đâu. Liệu con có thấy việc đó chỉ thể hiện hệ thống tín ngưỡng nhằm trấn an con và làm cho con nguôi dịu khi bảo rằng đức Chúa Trời, đức Mẹ Mary hay chính thày sẽ phải chữa bệnh cho con qua một phép lạ? Kỳ thực, chính con mới là người đem đến “phép lạ”, tức là phép lạ của tâm khi một chuyển đổi của tâm cũng chuyển đổi các điều kiện vật chất.

Con có thấy chăng là cả khoa học lẫn tôn giáo đều bảo con thế giới vật chất là thực, và các điều kiện vật chất có một thực tại tối hậu hay chăng? Nhưng điều thày nói với con là thế giới vật chất chỉ mang một sắc diện tạm thời, và thực tại của nó không hơn gì chính thực tại mà con đã trao cho nó trong tâm con. Mọi đau khổ trên địa cầu là do tâm con người tạo ra. Và cái do tâm tạo ra có thể được tâm gỡ bỏ – nhưng chỉ khi nào tâm con chuyển hóa thành tâm Ki-tô. Điều này sẽ chỉ xảy ra khi con khám phá và chấp nhận trọn vẹn vương quốc Thượng đế nằm bên trong chính con, và vương quốc này nằm trong tầm tay của con, nghĩa là con có khả năng nâng cao tâm thức ngay bây giờ và thay đổi các điều kiện vỏ ngoài của con ngay bây giờ.

Khi đó, con sẽ có khả năng giữ lấy niệm tinh khôi, hoặc cho con, hoặc cho người khác – như Mẹ Mary có giải thích trong sách của thày. Đây là điều dũng mãnh nhất mà con có thể làm cho người khác, và nó đòi hỏi con không bao giờ chấp nhận bất kỳ giới hạn vật lý nào là thực, mà ngược lại con luôn luôn trụ tâm trong viễn quan tích cực và hiểu biết tuyệt đối – vượt khỏi mọi tín ngưỡng bình thường – rằng Ánh sáng Mẫu-Vật rốt cuộc sẽ trải bày ra hình ảnh toàn hảo mà con đã phóng chồng lên nó. Tuy nhiên, muốn giữ được niệm tinh khôi một cách trọn vẹn, con không thể là một ngôi nhà phân rẽ, và đó là tại sao con phải gắng sức giải quyết các điều kiện tâm lý đã tạo ra căn bệnh ở khởi thủy. Một khi con ngộ được điều ta mô tả ở đây – một sự chứng ngộ vượt khỏi tín ngưỡng, vì nó sử dụng chìa khóa của hiểu biết đích thực – con sẽ nắm được chân lý trong câu nói của ta, rằng đối với con người thì việc đó không thể, nhưng đối với Thượng đế thì tất cả mọi việc đều có thể. Nguyên trang mạng này chỉ nhắm mục đích giúp con khám phá và chấp nhận thực tại đó. Vậy con hãy học hỏi và đem ra áp dụng

AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế không?

Hỏi: AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế đối với người đồng tính hay không, như một số nhà truyền đạo cực chính thống tuyên bố? Con không nghĩ đó có thể là hình phạt, nhưng phải chăng Hội đồng Nhân quả đã quyết định để cho AIDS thị hiện hầu dạy cho con người một bài học về tình dục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con nói đúng khi con bảo AIDS không phải là hình phạt của Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế nóng giận và trừng phạt là một thần tượng đã được phóng chiếu vào Thượng đế vào thời Kinh Cựu ước, như ta đã giải thích ở một nơi khác. Đó là một hình ảnh giả dối, và do đó nó cũng vi phạm điều răn thứ nhì. Thượng đế chân thực là một Thượng đế của tình thương vô điều kiện. Ta đã đến địa cầu một phần là để trao cho loài người một hình ảnh mới về ngài, tức là hình ảnh một người Cha nhân từ mà mọi người đều có khả năng tiếp xúc trực tiếp.

Khi ta nói mọi người “Hãy yêu thương Chúa, Thượng đế của con, với trọn con tim, trọn tâm hồn và trọn tâm trí” (Matthew 22:37), trong cốt yếu ta muốn bảo mọi người hãy bỏ lại đằng sau hình ảnh cũ về một Thượng đế nóng giận. Làm sao con có thể yêu được một Thượng đế nóng giận sẵn sàng trừng phạt con vì một lỗi lầm dù nhỏ nhặt nhất?

Chẳng phải nói, ta buồn vì có quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc ngày nay vẫn còn bám giữ một hình ảnh về Thượng đế đã lỗi thời từ 2000 năm qua, lại còn đối nghịch trực tiếp với hình ảnh mà ta giảng dạy. Ta càng buồn hơn khi thấy quá nhiều tín hữu Cơ đốc sử dụng hình ảnh giả dối này để phán xét và lên án đồng loại của mình. Và ta buồn hơn nữa vì ta biết Luật của Thượng đế không thể bị nhạo báng, cho nên các tín hữu đó sẽ không tránh khỏi bị phán xét theo cùng tiêu chuẩn mà họ đã phán xét người khác.

Như ta đã giải thích suốt trang mạng này, Thượng đế đã tạo ra một quy luật cơ học sẽ gửi trả lại cho con mọi năng lượng mà con gửi vào vũ trụ. Điều này được ghi rõ trong Kinh thánh: “Con đừng bị dối gạt; Thượng đế sẽ không bị nhạo báng, vì người ta gieo gì thì sẽ gặt nấy” (Galatians 6:7). Có thể nói vũ trụ vận hành như một tấm gương phản chiếu lại cho con bất cứ điều gì con làm cho người khác. Đó chính là lý do ta đã dạy con: Hãy làm cho người khác những gì con muốn vũ trụ làm cho con.

Do đó, AIDS là một sản phẩm của nghiệp quả loài người, kết quả của việc họ không ngừng tha hóa năng lượng của Thượng đế. Trong trường hợp ở đây, sự tha hóa năng lượng xảy ra qua tình dục, và đó là tại sao nó được phản chiếu lại dưới hình thức một chứng bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc biệt, việc tha hóa năng lượng dẫn tới bệnh AIDS đã xảy ra qua sự chung chạ bừa bãi, qua đó ta muốn nói đến quan hệ tình dục hoàn toàn với mục đích thỏa mãn các loại cảm xúc thấp kém (vị kỷ) mà không dựa trên cảm xúc sâu xa hơn là tình thương (vị tha).

Thật ra, dạng sinh hoạt tình dục này xuất phát từ lòng khinh rẻ đối với thánh đường xác thân, không xem đó là món quà của Thượng đế, một cỗ xe để giúp dòng sống giải thoát khỏi vũ trụ vật chất. Nó sẽ chỉ buộc chặt dòng sống hơn vào vũ trụ vật chất. Kỳ thực, nhiều người tham gia vào sinh hoạt tình dục thiếu tình thương như vậy mang một nỗi oán giận đối với xác thân mà thường thường họ không nhận ra. Và bởi vì xác thân con người được tạo bằng năng lượng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – cho nên đó cũng là nỗi oán giận đối với Mẹ. Đây là cùng nỗi oán giận đã khởi đầu với sự sa ngã của Lucifer, như Mẹ Mary đã giải thích trong bài giảng của thày.

Khi thật nhiều người không ngừng tham gia vào một sinh hoạt tha hóa năng lượng, sự căng thẳng sẽ ngày càng chồng chất. Con có thể so sánh với nước dâng lên đằng sau con đập. Nước tạo áp lực trên đập và cuối cùng đập sẽ vỡ ở điểm yếu nhất của nó. Đây chỉ đơn giản là một tiến trình cơ học, và nếu con biết rõ áp suất cùng các nhược điểm trên đập, con có thể tính trước khi nào và ở điểm nào nước sẽ xối vào.

Sức căng thẳng của nghiệp quả cũng giống như vậy, nó gia tăng và chồng chất khi có nhiều người sống chung chạ. Hiển nhiên chuyện này đã tiếp diễn ra từ rất lâu, cho nên có một lượng nghiệp quả to lớn đã tới hạn xuất hiện vào cuối Thời đại Song ngư. Nghiệp quả phải được cân bằng trước khi nhân loại có thể nhảy vọt vào tâm thức của Thời đại Bảo bình, và đó là tại sao bệnh AIDS đã xuất hiện vào thời điểm đó. Trong mấy chục năm qua và bắt đầu từ thập niên 1960, đã có một sự gia tăng trong tình dục chung chạ cùng nhiều hình thức đồi bại tình dục, như hình ảnh khiêu dâm, nô lệ tình dục, xâm hại tình dục trẻ em, v. v…

Tất cả những thứ đó đã tạo sự căng thẳng, bắt đầu trong cõi cảm xúc ở ngay trên cõi vật lý về độ rung. Ta đã giải thích điều này chi tiết hơn ở một nơi khác. Khi căng thẳng đạt đến mức tới hạn, nó bắt đầu đột nhập vào cõi vật chất, và đó là khi con chứng kiến một số sự kiện vật lý, như trong trường hợp này là các đợt bùng phát đầu tiên của virus AIDS. Đương nhiên, cũng giống như đập nước, đợt bùng phát đầu tiên xảy ra nơi những điểm yếu nhất, và trong trường hợp này, đó là những khu vực nơi năng lượng tình dục đang bị lạm dụng.

Ta chắc chắn hầu hết những ai không thiên vị đều biết là lối sống chung chạ khá phổ biến trong cộng đồng người đồng tính nam cũng như tại nhiều vùng châu Phi, Sự thật là Thượng đế không hề có ý định trừng phạt một nhóm người nào, và cũng không hề có sự phán xử dựa trên chủng tộc hay xu hướng tình dục. Đơn giản chỉ có một tác động máy móc khi căng thẳng nghiệp quả đạt tới một cường độ nào đó thì nó sẽ xuất hiện trong đời sống những ai dễ bị tổn thương nhất bởi dạng quả báo này. Trong trường hợp ở đây, nguyên nhân gây ra tiềm năng tổn thương là sự từ chối hạn chế các sinh hoạt tình dục chung chạ. Tại châu Phi lẫn trong cộng đồng người đồng tính nam, có những tin tưởng văn hóa cho rằng tình dục chung chạ không mang hậu quả tiêu cực nào. Người ta bịt tai không chịu lắng nghe nhiều lời cảnh báo từ cả khoa học lẫn tôn giáo cho thấy mọi hành động đều mang hậu quả.

Con có đề cập đến Hội đồng Nhân quả. Đây là nhóm các sinh thể thăng thiên trông coi sự phát triển tâm linh của nhân loại với nhiệm vụ giúp cho con người giải thoát khỏi lực kéo hướng hạ do nghiệp quả của họ. Con nên cẩn thận đừng ghép hình ảnh Thượng đế nóng giận cho Hội đồng Nhân quả. Kỳ thực, các thành viên của Hội đồng không định đọat ai sẽ là người nhận nghiệp quả nào và vào thời điểm nào. Điều đó do một định luật hoàn toàn cơ học quy định.

Điều Hội đồng Nhân quả có thể làm là gác lại một phần nghiệp của một cá nhân hay một nhóm người để tạo cơ hội cho họ phát triển tâm linh. Nói cách khác, nếu có ai đó tỏ ra thật sự sẵn lòng cải hóa trong chiều hướng tích cực nhưng lại có nghiệp báo sắp sửa cản trở bước tiến của họ, thì Hội đồng Nhân quả có khả năng gác lại nghiệp đó cho tới mùa sau. Điều này sẽ cho phép người đó tích tụ nghiệp tốt – là điều mà ta gọi là “cất giữ của cải trên trời” (Matthew 6:19-20) – để giúp họ trả quả dễ dàng hơn. 

Thế nhưng Hội đồng Nhân quả không quyết định điều này một cách tùy tiện. Tất cả được định đoạt dựa trên khả năng của dòng sống có sử dụng được cơ hội đó hay không. Nói cách khác, Hội đồng Nhân quả lượng định xem đâu là tiềm năng lớn nhất để trợ giúp sự phát triển tâm linh của dòng sống. Nếu họ sẵn sàng thay đổi thì việc gác lại một phần nghiệp chướng thường là cách tốt nhất để giúp họ. Nhưng nếu họ không sẵn lòng thay đổi, việc cho phép họ trải nghiệm hậu quả của nghiệp chướng thường là giải pháp duy nhất để đánh thức cho họ mở mắt ra với thực tại cuộc sống, tức là để họ hiểu ra là họ sẽ gặt hái những gì họ gieo.

Trong trường hợp bệnh AIDS, chuyện đơn giản xảy ra là đã không có đủ túc số những người sẵn lòng thay đổi thái độ của mình để dẫn đến quyết định gác lại nghiệp quả. Sự thể này cũng tương tự như khi Sodom và Gomorra bị hủy diệt (Sáng thế 18). Câu chuyện này trong Kinh thánh kể lại sự kiện có dân tộc kia gây ra một nghiệp chướng rất nặng nề do lạm dụng năng lượng tình dục – năng lượng này chính là lực sống, cho nên nó tạo nghiệp to lớn khi bị lạm dụng. Nghiệp mãnh liệt đến độ nó chực tràn vào cõi vật chất.

Abraham được Hội đồng Nhân quả giao trách nhiêm làm sứ giả. Ông khẩn khoản Hội đồng hãy gác lại nghiệp quả cho thành phố nếu ông tìm được đủ số người công chính. Như con có thể đoán được từ câu chuyện, Hội đồng Nhân quả đã có thể “tha thứ” cho thành phố đó nếu có đủ túc số người công chính. Nhưng khi không tìm ra số người đó thì Hội đồng không có lý do gì đình chỉ nghiệp báo. Định luật nghiệp quả – định luật của hành động và phản ứng – đòi hỏi năng lượng phải được phép chảy theo dòng tự nhiên của nó, và các thành phố đó đã bị thiên tai tiêu diệt tan tành. Ta không nói là mọi khía cạnh của câu chuyện trên đều chính xác trong nghĩa đen, nhưng nó chứa đựng một sự thật tiềm ẩn về cách nghiệp quả phản hồi như thế nào.    

Thời nay, một lần nữa lại có nghiệp quả được phản hồi do việc lạm dụng năng lượng tình dục. Tuy nhiên nó không tập trung tại một hai thành phố mà là một vấn nạn toàn cầu. Cho nên lực nghiệp phản hồi đã khoác vào hình dạng một chứng bệnh lan truyền qua đường tình dục – và tất nhiên, nó chỉ có thể lây truyền bởi những ai chung chạ tình dục.

Ta cũng muốn nói thêm rằng virus thật ra không phải là một tạo vật của Thượng đế. Thượng đế không bao giờ tạo ra bất kỳ loại virus nào. Mọi virus đều được tạo ra một cách “nhân tạo” trong các phòng thí nghiệm của tà lực ngụ nơi cõi cảm xúc hay cõi trung giới. Rồi virus có thể được chuyển vào cõi vật chất tại những khu vực nơi độ rung đã xuống thấp đến nỗi cả khu vực rung động ở cùng tần số với cõi trung giới – và đó là một số vùng ở châu Phi cùng một số thành phố lớn nơi năng lượng tình dục bị lạm dụng trầm trọng. Một khi virus đã xâm nhập vào cõi vật chất, nó có thể lây lan qua các phương tiện vật chất, mặc dù chỉ những ai mang nghiệp lực tiềm tàng mới mắc bệnh.

Tuy nhiên trong trường hợp AIDS, ta phải nói với con là virus đã băng qua lằn ranh vật lý trước tiên tại một số phòng thí nghiệm bí mật, sau đó nó đã lây lan phần nào do một cuộc thử nghiệm không kiểm soát. Hiển nhiên, những người làm chuyện này bị đui mù bởi nghiệp chướng và lòng kiêu hãnh cho nên họ dễ rơi vào vòng khuynh đảo của tà lực. Nguyên vụ này sẽ không xảy ra nếu nhân loại đã không tạo ra nhược điểm nghiệp quả, nghĩa là không có lý do gì để đổ lỗi cho những ai đã trở thành công cụ cho virus AIDS vượt hàng rào. Họ chỉ là điểm hội tụ của nghiệp chung, và con virus đã có thể băng qua bất kể. Kỳ thực, virus đã băng qua và xâm nhập vào cõi vật chất ở nhiều địa điểm khác nhau, có nghĩa là toàn bộ dịch bệnh này không khởi phát từ một nguồn gốc vật lý duy nhất.      

Vậy làm thế nào để tự bảo vệ khỏi virus này? Rõ ràng, thay đổi cách hành xử của mình là cách bảo vệ tốt nhất. Chấm dứt mọi quan hệ tình dục chung chạ, sau đó vươn lên và thay đổi thái độ của mình đối với tình dục, tìm cách chữa lành tâm lý cho không còn bất kỳ nỗi oán giận vô thức nào đối với ánh sáng của Mẹ. Như ta vừa nói, virus lây lan là một tiến trình cơ học khi lực căng thẳng nghiệp chướng điều khiển cơ chế virus tìm ra điểm yếu nhất trong xã hội. Cho nên con cần chắc chắn con không là một trong số các điểm yếu đó qua cách hành xử và thái độ tình dục của mình.

Tất nhiên, con cũng có thể dùng bài nguyện tràng hạt cho Đại thiên thần Michael để tự niêm mình lại khỏi các năng lượng tình dục tha hóa, và bài nguyện tràng hạt cho Mẹ Mary để tẩy sạch trường năng lượng của con và biến hóa các nghiệp chướng cũ. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ hiệu quả tối đa nếu con thực lòng muốn cải sửa cách hành xử và thái độ của con. Nói cách khác, con hãy cho Hội đồng Nhân quả lý do tốt nhất để Hội đồng gác lại bất kỳ nghiệp quả nào có thể khiến con mắc bệnh AIDS. Các biện pháp nói trên cũng có thể giúp cho những ai đã nhiễm HIV tránh không biểu hiện các triệu chứng của căn bệnh, và nó cũng có thể giảm bớt các triệu chứng đã mắc phải. Điều ta muốn nói là – như mọi chứng bệnh khác – quả là có một cách trị liệu tâm linh cho bệnh AIDS.

Nguyên nhân tâm linh của bệnh trầm cảm và cách chữa trị

Hỏi: Con tưởng con đã chiến thắng được chứng trầm cảm nhưng hình như con vẫn chưa làm được. Không phải là con muốn tự vận hay con thèm hút thuốc, dùng ma tuý hay uống rượu đâu. Đơn giản là con chỉ mệt mỏi. Con đã chán ngấy tất cả mọi thứ. Con chán chường thế gian này. Nhiều khi con không muốn gì khác hơn là nổ tung ra để nhập vào cái Tất cả. Nếu Thượng đế là đại dương và con là giọt nước thì con muốn trở về trong đó. Con biết là con còn một phần vụ mà con phải hoàn tất trước khi con được phép VỀ NHÀ nghỉ ngơi, nhưng đơn giản là con chán ghét chuyện phải quay trở về nơi đây. Cho nên con tự hỏi, không hiểu thày có thể nói cho con biết chuyện gì đang xảy ra? Liệu thày có biết tại sao con phải phấn đấu như thế này? Con không muốn ai thông cảm hay thương xót con mà con chỉ muốn hiểu những căng thẳng đang giằng xé con. Con luôn cảm thấy niềm thôi thúc muốn bỏ đi đâu thật xa, và y như thày đã từng đi vào vùng hoang vắng, con cũng bị thu hút đi vào rừng rậm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đệ yêu dấu, con chỉ đang mô tả tiến trình mà hầu hết mọi dòng sống đều đi qua khi họ đạt đến những mức cao của đường tu tâm linh. Tới một lúc dòng sống bắt đầu nhận ra là y khao khát một cái gì cao hơn các thú vui của cuộc sống. Dòng sống bắt đầu nhận chân được thực tại nằm sau những câu sau đây trong Kinh thánh:

  • Phù phiếm của mọi phù phiếm – vị thày nói như thế – hư ảo của mọi hư ảo, tất cả đều là hư ảo. (Ecclesiastes 1:2)
  • Ta đã thấy mọi sự xảy ra dưới mặt trời, và kìa, tất cả đều là hư ảo, là sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 1:14)
  • Ta nhủ trong lòng rằng: Hãy đến, ta sẽ vui mừng thử xem có hưởng được thú vui, và kìa, cái đó cũng hư ảo. (Ecclesiastes 2:1)
  • Xong ta nhìn tất cả mọi việc mà tay mình đã làm cùng mọi lao khổ mà mình đã bỏ ra để hoàn thành, và kìa, tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh, chẳng có ích lợi gì dưới mặt trời. (Ecclesiastes 2:11)
  • Xong ta nhủ trong lòng rằng: Như chuyện xảy đến cho người vô minh, chuyện này cũng xảy đến cho ta, và làm sao ta lại khôn ngoan hơn được? Xong ta nhủ trong lòng rằng: Cái đó cũng là hư ảo. (Ecclesiastes 2:15)
  • Cho nên ta chán ghét đời sống, vì mọi sự dưới mặt trời đều nhức nhối cho ta, vì tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 2:17)

Đây là trạng thái tâm thức mà ta đã từng mô tả như sau: “Nếu có ai theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay chính đời sống của mình, thì người đó không thể là môn đồ của ta.” (Luke 14:26)

Khi con leo đường tu tâm linh, không thể tránh được là con sẽ đạt tới điểm không có đường quay trở lại, khi con nhận ra là con không thể tiếp tục sống như một người bình thường cứ đắm chìm trong các nỗi vui buồn của thế gian. Con muốn bỏ thế gian lại đằng sau, nhưng động lực nằm bên dưới cảm nhận này là con muốn bỏ lại cái tâm thức thấp kém của tâm nhị nguyên. Đó chính là tâm thức khiến cho mọi sự trong thế gian này hiện ra là hư ảo. Và thật vậy, chừng nào một người còn bị kẹt trong tâm nhị nguyên thì mọi sự sẽ đều là hư ảo. 

Cho nên sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi dòng sống bắt đầu “ghét” tất cả những phần của đời sống dựa trên tâm nhị nguyên, và chính ở điểm này y mới có thể thực sự vươn lên tâm thức Ki-tô. Như ta đã giảng, dòng sống không thể nào phục vụ hai vị chủ, cho nên khi nào y chưa quyết định bỏ lại tâm nhị nguyên thì y sẽ không thể là một đệ tử đích thực của tâm thức Ki-tô.

Từ rất lâu, trạng thái tâm thức này rất phổ biến trong số những dòng sống đã đầu thai trên địa cầu. Tuy họ tham gia vào đủ loại sinh hoạt mà địa cầu cống hiến, nhưng trong thâm tâm họ có phản ứng: “Tôi đã bước chân tới đây rồi, tôi đã làm chuyện này rồi.” Họ cảm thấy không còn gì thêm trên hành tinh này mà họ muốn thực hiện, và họ muốn bước đi tiếp, muốn bước ra khỏi những giới hạn bắt buộc của thế gian.

Ta có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người lại cảm thấy như vậy vì chính ta cũng đã trải qua tiến trình này 2000 năm trước đây. Hẳn con cũng biết giữa thời điểm ta xuất hiện tại Nhà thờ vào tuổi 12 và thời điểm ta xuất hiện ở tiệc cưới tại Cana, kinh Tân ước đã không ghi lại bất cứ gì về những nơi ta đã đến cũng như những việc ta đã làm. Suốt 17 năm “biệt tăm” này, quả là ta đã trải qua một giai đoạn trầm cảm sâu sắc, và ta đã phải đương đầu với chính cái tâm thức mà con vừa mô tả.

Điều đã giúp ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm đó của dòng sống – và cũng là điều đã giúp cho tất cả mọi dòng sống khác đã từng đối mặt với vấn đề này – là rốt cuộc ta đạt tới điểm nhận ra là mặc dù không còn công việc nào mình muốn làm cho cá nhân mình trên hành tinh này, nhưng vẫn còn nhiều công việc mà ta có thể làm cho tha nhân. Ta cũng có thể giúp Thượng đế đem lại vương quốc của ngài trên địa cầu.

Bạn yêu dấu, con thấy đó, như ta có mô tả trong một bài giảng khác, sẽ tới một điểm khi một dòng sống không thể tiếp tục học hỏi nếu y không bắt đầu chỉ dạy cho người khác. Và như Mẹ Mary giải thích trong bài giảng tuyệt vời của thày, một dòng sống có thể đạt tới điểm khi cách duy nhất để y tiến xa hơn là trở thành người đày tớ cho mọi người.

Khi một dòng sống lần đầu tiên bước xuống địa cầu, công việc của y là đặt trọng tâm vào bản thân mình. Đó là công việc thu thập nhiều trải nghiệm, xây dựng một ý niệm bản sắc mạnh mẽ, vững vàng. Nói cách khác, dòng sống cần tập trung vào chính mình hầu trau dồi một ý niệm bản sắc vững vàng. Quả vậy, có nhiều dòng sống trên địa cầu đang hoàn toàn chú tâm vào công việc này, và mặc dù họ có vẻ vị kỷ hay chỉ biết lo cho mình, nhưng họ đang làm đúng điều mà họ cần làm trong giai đoạn phát triển tâm linh hiện thời của họ.

Tuy nhiên khi dòng sống tiếp tục tăng triển, sẽ tới một điểm khi y đã tạo dựng được một nền tảng vững chắc, một ý niệm bản sắc vững mạnh – có thể nói là y đã lấp đầy cái khuôn đúc của cỗ xe bốn tầng, đã neo chặt vào ý niệm bản sắc của mình – thì ở điểm đó, dòng sống thật sự không có cách nào tăng triển được nếu y cứ mãi tập trung vào chính mình. Cho nên có hai chọn lựa mà y có thể đi theo:

  • Nếu dòng sống tiếp tục chú tâm vào bản thân, y sẽ không tránh khỏi chìm vào một sự vô vọng, tuyệt vọng, một cảm giác mất hết mục đích hay ý nghĩa, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến trầm cảm. Nhiều người, đặc biệt trong các giới Thời mới, đã đạt tới điểm này rồi, và họ bước vào một vòng xoắn ốc dường như bất tận luôn luôn tìm kiếm cho bản thân mình một trải nghiệm tâm linh tối hậu, khiến họ không ngừng đi theo các lớp tu học hay tìm cách trị liệu tâm lý. Nhưng cho dù họ có cố gắng đến đâu, họ vẫn không làm sao trải nghiệm được niềm thỏa nguyện cá nhân đó. Lý do là vì họ tìm kiếm cái đó trong một tinh thần vị kỷ thay vì vượt ra ngoài phàm ngã con người để vươn tới cái ta thần thánh – tức là cái ta hợp nhất với mọi sự sống và do đó cũng tìm được sự thỏa nguyện trong việc giúp đỡ tha nhân. 
  • Chọn lựa kia là dòng sống có thể thăng vượt ý niệm bản ngã hạn hẹp của mình và nhận ra là không một dòng sống nào là một hòn đảo. Một khi con đã xây dựng được một ý niệm bản sắc mạnh mẽ – tức là con biết rõ mình là ai như một dòng sống cá biệt – thì bước kế tiếp lô-gíc là con sẽ tiếp tục bồi đắp cái nền tảng đó, phát triển một ý niệm mạnh mẽ rằng con là ai trong sự nối kết với Thượng đế, cũng như trong sự nối kết với thế giới nơi con đang sống. Đó là điểm mà con có thể với tới tâm thức Ki-tô, và cuối cùng nó sẽ giúp con thấy được Thượng đế trong tất cả mọi vật đã từng được sinh tạo. Nó sẽ đem lại cho con một cảm nhận nối kết mạnh mẽ với mọi người cũng như với Mẹ địa cầu. 

Chính cảm nhận từ bi ngày càng sâu đậm này đã giúp cá nhân ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm, sống không mục đích. Chính lòng từ bi đã khiến ta trở về đất Israel và nhận lấy vai trò thể hiện Ki-tô Hằng sống trên trái đất. Chính lòng từ bi đã khiến ta sẵn lòng đi muốt con đường và dâng hiến cả mạng sống của mình cho công cuộc đánh thức loài người về sự thực của tâm thức Ki-tô.

Bạn yêu dấu, con – cũng như nhiều dòng sống khác giống như con – đã bước đến một ngã ba trên con đường tiến hóa của dòng sống của con. Con có thể tiếp tục sống trong trạng thái hiện thời của mình là chỉ chú tâm vào bản thân mình rồi trở nên vô vọng, hay con có thể tìm kiếm chính con một cách nghiêm túc để khám phá ra cái điểm trong nội tâm nơi con đã lấy quyết định ngăn cản bước tiến của con. Một khi con phát hiện được quyết định đó, con sẽ có thể thay thế nó với một quyết định khác là tìm cầu tâm thức Ki-tô, vượt ra khỏi ý niệm bản ngã hạn hẹp, ý niệm bản sắc giới hạn của mình, để con thấy mình là thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

Nếu con thực tâm bước vào tiến trình này, con sẽ có thể nhanh chóng trải nghiệm một sự quay đầu toàn diện trong đời con, và con sẽ chứng được một lòng từ bi cũng như một mục đích sống vô cùng mạnh mẽ. Khi đó, con có thể trở thành một trong số những sinh thể Ki-tô mà ta luôn nói tới trên trang mạng này. Con có thể đóng góp phần mình để đem lại vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nâng nhân loại lên một tầng tâm thức cao hơn. Bạn yêu dấu, đó chẳng phải là một mục đích đáng theo đuổi hay sao?

Con hãy nhìn quanh trên hành tinh này có bao nhiêu người bị nghèo đói tâm linh, bao nhiêu người cần có người hướng dẫn mà không cưỡng ép họ gia nhập một tôn giáo vỏ ngoài nào đó. Nếu điều này không động viên tinh thần của con thì con hãy nhìn xem có bao nhiêu vấn đề vật lý đang chờ người đứng ra giải quyết. Thật không thiếu gì những việc lành mà con có thể tham gia để giúp người khác, và ta có thể cam đoan với con rằng làm việc lành và giúp tha nhân là cách nhanh nhất – và nhiều khi là cách duy nhất – để chữa trị chứng trầm cảm.

Con hãy bỏ công ra tìm kiếm cái điểm bên trong dòng sống của con nơi con yêu thương mục đích của Thượng đế thật tha thiết. Xong con hãy cho phép tình thương đó tiêu hủy mọi cảm nhận cuộc đời này là vô nghĩa. Hãy cho phép tình thương đó đánh thức con người thực của con và lý do con đã chọn đến địa cầu này ở thời điểm mấu chốt hiện nay. Hãy cho phép tình thương đó đốt sạch mọi bợn nhơ của lòng vị kỷ và trầm cảm đã ngăn cản con là con người mà con thực là.

Ta cần đến con và những người như con – những người cảm thấy mình đã làm mọi chuyện có thể làm trên hành tinh này, những người sẵn lòng gạt sang một bên các thú vui của thế gian để phục vụ cho một mục đích cao hơn. Ta cần đến con. Thượng đế cần đến con. Hành tinh cần đến con. Mọi người khác cần đến con. Và chính con cũng cần khắc phục sự chú tâm vào bản thân, con cần tự giúp mình tiến lên để giúp đỡ người khác. Bạn yêu dấu, liệu con sẽ cần nhiều khích lệ hơn thế hay sao? Vậy thì chúng ta hãy chú tâm vào công việc của Cha chúng ta!

Xâm mình không đem lại quyền năng tâm linh

Hỏi: Con có 6 cái hình xăm trên người, một con rồng, một con rắn hổ mang, một con báo, một con cá mập, một nàng tiên cá và vị thần Ai Cập Anubis. Hình xăm sắp tới sẽ là một nàng tiên. Chẳng phải là người ta nhận được quyền năng từ hình xăm hay sao? Và lý do gì khiến cho người ta chọn một hình xăm nào đó? Liệu trong tiềm thức có một lý do sâu xa hơn là ý nghĩa thông thường của hình xăm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ngược với sự suy nghĩ của nhiều người, kể cả những người đi theo phong trào tâm linh thổ dân (native spirituality), con sẽ không nhận được quyền năng tâm linh nào từ một hình xăm. Con có thể nhận được năng lượng từ một hình xăm, nhưng đó không phải là năng lượng tâm linh.

Rất nhiều thứ mà người ta làm để tô điểm, trang sức cho cơ thể vật lý kỳ thực thể hiện một thái độ xem thường thánh đường xác thân. Những thứ đó bao gồm hình xăm, xâu khuyên trên cơ thể, thậm chí cả những cách trang điểm thái quá. Những cách như vậy xuất phát ở nguyên thủy từ lòng oán hận đối với Mẹ, bởi vì chính năng lượng của Mẹ được sử dụng để tạo ra thánh đường xác thân.

Vì vậy ta thật khuyên mọi người không nên làm theo những cách đó. Ta cũng biết là hầu hết các bạn trẻ trong thế giới ngày nay sẽ bỏ ngoài tai lời khuyên này của ta. Nhưng ta có thể cam đoan với con rằng việc làm ô uế thánh đường xác thân dù bằng cách nào đi nữa, kể cả việc sử dụng ma túy, sẽ không giúp cho con tăng triển tâm linh. Nó sẽ chỉ khiến cho sự tăng triển bị trì trệ, và đối với nhiều người, nó có thể chặn đứng sự tăng triển.

Bất cứ việc gì con làm đều có một lý do tâm lý. Con bị thu hút bởi một hình xăm nào đó do nó diễn bày ra những gì đang xảy ra trong tâm tiềm thức của con. Hình ảnh tác động rất mạnh mẽ trên tâm con người, và suốt lịch sử, hình ảnh đã được sử dụng để nâng cao tâm thức con người hay bị lạm dụng để kiểm soát tâm thức con người.

Trong thế giới ngày nay, hình ảnh đang bị lạm dụng nhiều hơn tất cả mọi thời kỳ khác trong quá khứ. Chuyện này đặc biệt đúng cho các hình ảnh tình dục, hình ảnh chết chóc, hay bất kỳ loại hình ảnh phản hài hòa nào khác với đường nét nhọn hoắt, lởm chởm, những hình dạng mất cân đối, những màu sắc tối tăm hay đối chọi.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, thế giới được sinh tạo từ những hình ảnh được giữ trong tâm Ki-tô toàn vũ. Trên hành tinh này, loài người đã tác động lên sự sáng tạo ban đầu của Thượng đế, phần lớn do những hình ảnh bất toàn mà con người cầm giữ trong tâm mình. Cho nên những thế lực muốn ngăn trở kế hoạch của Thượng đế và biến loài người thành nô lệ, đã khôn khéo sử dụng hình ảnh bất toàn để kiểm soát con người, khiến con người đồng sáng tạo một thế giới cũng bất toàn như thế.

Nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con nên vô cùng thận trọng với những loại hình ảnh mà con cho phép đi vào tâm con. Tâm con là một thánh đường bên trong, cho nên con đừng đem vào đó bất cứ gì không đồng nhịp với mức tâm thức tâm linh mà con muốn đạt được. Cơ thể của con là thánh đường bên ngoài, cho nên con đừng làm điều gì trên cơ thể mà không hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con.

Nguyên nhân tâm linh của chứng dị ứng

Hỏi: Con nghĩ đây có thể xem là một câu hỏi chung chung, không mang tính cá nhân. Sữa đậu nành và các sản phẩm đậu nành có phải là loại thức ăn lành mạnh, hay các phyto-estrogen có gây vấn đề gì cho trẻ em? (Con trai và con gái của con uống sữa gạo và ăn một ít đậu nành do bị dị ứng thực phẩm)


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/12.

Gần như không có câu hỏi nào về sức khỏe mà là câu hỏi chung chung, con ạ. Tự thân các chứng dị ứng đều là những trường hợp cá nhân. Một số trẻ em có thể dị ứng các sản phẩm đậu nành, nhưng một số trẻ em khác thì dùng đậu nành mà không bị tác dụng tiêu cực nào. Điều này cũng áp dụng cho sữa bò và các sản phẩm chế tạo từ sữa, cho dù chưa được ngành y tế công nhận đầy đủ.   

Nói chung, gạo là một trong những loại thực phẩm ít gây dị ứng nhất trên trái đất. Tuy nhiên, như trong mọi vấn đề liên quan đến ăn uống, điều quan trọng là cần giữ sự cân bằng, tránh ăn một thứ quá nhiều. Cho nên ta khuyên con nên tìm đến một cơ quan thử nghiệm xem hai đứa con của con dị ứng những loại thực phẩm nào. Việc này không cứ là phải do một chuyên gia y tế thực hiện mà có thể là một nhà chuyên môn lành nghề trong ngành thử nghiệm cơ bắp.

Một điều nữa ta muốn nói là ngược với các lý thuyết y học hiện nay, dị ứng bắt nguồn từ những điều kiện tâm lý. Và nếu con không công nhận thực tế của luân hồi và đầu thai thì đơn giản con sẽ không thể có được một hiểu biết đúng đắn về dị ứng.

Con người có thể mắc chứng dị ứng đối với gần như mọi thứ trong vũ trụ vật chất. Một chứng dị ứng thường khởi đầu với một trải nghiệm chấn thương tâm lý khiến cho một dòng sống biểu lộ và củng cố lòng sợ hãi đối với một chất hoặc một điều kiện đặc thù nào đó. Nếu chấn thương đủ mạnh, hay nếu nó được tăng cường suốt mấy kiếp đầu thai, nó sẽ biểu hiện dưới hình thức một dị ứng vật lý trong kiếp đầu thai sau đó.

Sợ hãi là một cảm xúc kháng cự và đẩy lui, cho nên dòng sống sẽ tìm cách trốn chạy điều mà nó sợ hãi. Khi sự kiện này hiển thị ra dưới dạng một chứng dị ứng, cơ thể sẽ từ chối bất kỳ thức ăn nào hay điều kiện nào có liên quan tới nỗi sợ hãi của chấn thương ban đầu. Đó là tại sao cơ thể sẽ biểu hiện các loại triệu chứng như thế. Các triệu chứng đó chỉ đơn giản là cách cơ thể gửi ra thông điệp là nó không muốn tiếp xúc với chất đó hay điều kiện đó.

Mặc dù con có thể dùng những phương thức vật lý để giảm bớt tác dụng của dị ứng, cách duy nhất để giải quyết chứng bệnh là sử dụng những kỹ thuật tâm lý thích hợp để đi sâu vào trong tâm lý của dòng sống và giải quyết chấn thương nguyên thủy. Đã từng có nhiều trường hợp người bệnh bước vào tiến trình chữa lành nội tâm này và đã khắc phục được ngay lập tức chứng dị ứng lâu năm của mình.

Giáo lý nền tảng về việc chữa lành tâm lý

Hỏi: Đâu là những kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý cho một người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 13/10/2010. Đăng ngày 17/11/2012.

Kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của con là kỹ thuật nào phù hợp nhất cho con.

Ý ta muốn nói là mỗi con người đều là một cá nhân độc đáo. Có thể nói là khi con khởi sự thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con đã tạo ra cái mê cung hay mê lộ đặc thù cho riêng mình. Và tại mỗi khúc quẹo hay ngã rẽ đã đưa con sâu hơn vào mê cung, con đã lấy một quyết định dựa trên một niềm tin hay một ảo tưởng đặc thù. Con đường cá nhân của con để bước ra khỏi nhị nguyên và tìm lại tự do đòi hỏi con phải tháo gỡ những chọn lựa đã qua bằng cách nhìn thấy chúng như chúng là, một cách ý thức, xong lấy quyết định thăng vượt chúng.

Nói cách khác, cốt lõi của đường tu cá nhân của con là con đạt tới điểm nhìn thấy một quyết định gây giới hạn từ quá khứ, nhận ra là nó xuất phát từ một ảo tưởng, rồi chấp nhận một tầm hiểu cao hơn sẽ giải thoát con khỏi ảo tưởng đó – sự thật sẽ giải thoát con. Cho nên các dụng cụ và kỹ thuật sẽ hiệu quả nhất cho con chính là những dụng cụ giúp con đạt tới điểm con nhìn ra những gì đã bị ẩn giấu khỏi con, có lẽ suốt nhiều tiền kiếp. Vì mỗi cá nhân có mê cung đặc thù của mình, cho nên không thể nào thiết kế một dụng cụ duy nhất sẽ hiệu quả một cách đồng đều cho mọi người. Nếu chuyện này có thể làm được thì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã ban truyền dụng cụ này cho nhân loại từ lâu rồi.

Đúng là có nhiều người đã chấp nhận cùng một ảo tưởng nhị nguyên, tuy nhiên họ thường chấp nhận ảo tưởng đó vì những lý do khác nhau đôi chút. Vì thế cho dù họ đều phải khắc phục cùng một ảo tưởng, nhưng cùng một cách diễn đạt chân lý sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm đồng đều cho mọi người. Đó là tại sao cần có nhiều lời dạy khác nhau để trình bày về cùng một đề tài từ những góc nhìn hơi khác một chút. Rất có thể là con cần tu học một số giáo lý khác nhau trước khi con tìm thấy sự phối hợp thích hợp nhất cho con – là sự phối hợp giữa ngôn từ cùng khái niệm sẽ mở khóa ở con khả năng nhìn xuyên thấu một ảo ảnh nào đó. Đây cũng là tại sao lòng trung thành đối với một giáo lý nhất định hay một đạo sư nhất định không phải là điều xây dựng. Điều con cần trung thành là trung thành với con đường nội tâm của riêng con. 

Con cũng nên lưu ý là mê lộ đặc thù của con có nhiều lớp vỏ hay nhiều đoạn đường. Nếu con nhìn vào nhân loại, con sẽ thấy ai nấy đều ở những giai đoạn phát triển khác nhau, như ta đã từng đề cập trước đây. Các kỹ thuật sẽ giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng trong một giai đoạn nào đó sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm trong một giai đoạn khác.

Điều ta muốn nói là nếu con muốn tìm ra cách hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của mình, con cần bắt đầu bằng cách phát triển cách tiếp cận xây dựng nhất cho công việc này. Bước đầu tiên mà ta khuyên con là chấp nhận rằng không có cách giải quyết nào nhanh chóng.

Việc chữa lành tâm lý cần được xem như một công việc kéo dài suốt đời, ít ra cho tới khi con còn đang đầu thai. Thêm vào đó, đây không phải là một công việc máy móc mà con có thể hoàn thành bằng cách đem ra áp dụng những chiêu thức được người ta gọi là kỹ thuật tối ưu hay dụng cụ tối hảo. Thật sự không hề có một hệ thống nào sẽ tự động chữa lành tâm lý của con, bởi vì tất cả tùy thuộc vào những quyết định mà con đã lấy cũng như sự sẵn lòng của con để nhân lên các ta-lăng, các khả năng, các vốn liếng của con.

Tuy nhiên, như ta đã mô tả trong quyển sách Hãy cứu lấy bản thân, sự tiến bộ của con dựa trên hai cột trụ. Một là con cần chuyển hóa năng lượng tha hóa đã tích tụ trong trường năng lượng của mình, và hai là con cần nhìn xuyên thấu các ảo tưởng của mình, và như vậy con thay thế các chọn lựa gây giới hạn bằng những chọn lựa giải thoát.  

Vậy trước tiên chúng ta hãy nhìn vào việc chuyển hóa năng lượng. Hiển nhiên nếu con đã mở tâm ra cho trang mạng này, ta khuyên con nên dùng các bài thỉnh và bài chú mà các chân sư đã đặc biệt ban truyền cho mục đích này. Nhưng ta không bảo là không có kỹ thuật nào khác cũng sẽ hiệu nghiệm cho mục đích này, và nếu con nhận được sự gợi ý mãnh liệt từ nội tâm để dùng một kỹ thuật nào khác, thì bằng mọi cách con hãy làm điều đó. Con cũng cần lưu ý là ở những giai đoạn khác nhau trên đường tu, con sẽ cần đến những kỹ thuật khác nhau.

Một khía cạnh khác là con cần ngừng tạo thêm năng lượng tha hóa, và tuy việc này chỉ có thể làm được đến nơi đến chốn bằng cách giải quyết các vết thương (tức khắc phục các ảo tưởng) đã khiến con rơi vào một số khuôn nếp phản ứng, con vẫn có thể tinh tấn khá nhiều bằng cách tự kiểm tra cho trung thực, song song với việc kỷ luật bản thân. Nếu con thấy mình có xu hướng nổi giận chẳng hạn, con có thể tinh tấn bằng cách nhất quyết không chấp nhận bộc lộ sự giận dữ, xong con tự kỷ luật để kềm chế mình lại. Trong ngắn hạn, làm vậy sẽ ngăn con tạo thêm nghiệp chướng và củng cố một vòng xoáy tiêu cực. Nhưng trong dài hạn, cách thức này sẽ không hiệu quả trừ khi con cũng có những nỗ lực chân thành để phát hiện lý do tại sao con lại nổi giận, xong con thăng vượt các ảo tưởng đã khiến con nghĩ rằng tức giận là một phản ứng có thể chấp nhận được hay không thể tránh khỏi.

Và điều này dẫn chúng ta đến yếu tố tiếp theo, đó là tìm ra những cách để làm hiển lộ các yếu tố trong tâm lý đang giới hạn con, đang “ép buộc” con bước vào những khuôn nếp phản ứng mà con không thể phá vỡ hay không thấy cần phải phá vỡ. Để đạt mục tiêu này, con có thể tinh tấn đáng kể bằng cách học hỏi các lời dạy tâm linh và sách vở tổng quát về tâm lý học. Hiển nhiên các bài giảng của ta về tự ngã cùng nhiều lời dạy khác trên trang mạng này và trong sách của chân sư thăng thiên được phát hành với mục đích này. Nhưng một lần nữa, ta không nói là con chỉ nên tự hạn chế vào bất kể một nguồn độc nhất nào. Ngược lại là đằng khác, con cần cho phép mình nhận được sự hướng dẫn về những gì mình cần học hỏi, đăc biệt con nên có thói quen hòa điệu với cái ta cao hơn của con, hay với vị thày tâm linh của con, xong con làm theo những gợi ý mà con nhận được, ngay cả từ người khác hay từ cảnh huống vỏ ngoài. Nếu một quyển sách bỗng thu hút sự chú ý của con, con hãy tìm hiểu nó.

Nhưng cho dù những điều trên có thể giúp con tinh tấn đáng kể, sẽ tới một điểm khi con không thể tiến thêm trừ khi con nhận được sự phản hổi trực tiếp về tâm lý của con từ một người không đứng ở trong hộp tư duy của con và do đó có khả năng nhìn thấy những gì con không thể nhìn thấy. Đây chính là điểm con cần suy ngẫm câu này của chân sư MORE: “Nếu đạo sư là một con kiến, con hãy lắng nghe nó.” Trong nhiều trường hợp, con sẽ nhận được phản hồi như vậy từ những người xung quanh con, thường khi từ những người mà con coi là thấp hơn con hay không trong vị thế có thể khuyên nhủ con. Tất nhiên, con không nhất thiết phải nghe theo bất cứ gì người ta nói, đặc biệt nếu con thấy là họ có ý định tiêu cực hay ích kỷ.  

Nếu con thật sự muốn tiến bộ nhanh chóng, điều có thể sẽ vô cùng hữu ích là con áp dụng một trong rất nhiều những kỹ thuật được thiết kế nhằm giúp con làm hiển lộ những gì đang được ẩn giấu trong tâm tiềm thức của con. Một lần nữa, không có một kỹ thuật độc nhất sẽ giúp tất cả các con. Con hãy khởi sự ngay điểm tâm thức hiện thời của mình và nhìn xem con đang nhận biết những gì. Xong con hòa điệu vào đó và nhìn xem kỹ thuật nào thu hút con nhiều nhất trong lúc này. Khi con đã có được một cảm nhận rõ rệt, con hãy áp dụng kỹ thuật đó và cứ tiếp tục áp dụng cho tới khi nó đem lại cho con một sự đột phá cùng nhu cầu đi tìm một cái gì khác hơn.

Xong con tin tưởng là nếu con cứ giữ cả tâm lẫn tim mình cởi mở đối với sự hướng dẫn nội tâm, thì y vậy, con sẽ nhận được sự hướng dẫn đó. Đột nhiên, một quyển sách sẽ đi vào vòng chú ý của con, hay con đọc được điều gì đó trên báo, trên mạng. Hay con gặp một người đề cập đến một kỹ thuật nào đó với con. Ta không bảo là con phải thử tất cả mọi thứ hay thử bất cứ điều gì lôi kéo sự chú ý của con. Con luôn luôn cần tham khảo sự hướng dẫn nội tâm và cảm nhận những gì đang rung động đồng điệu với con ở mức trái tim.

Một khi con đã chọn một kỹ thuật, con hãy thực hành nó với tất cả khả năng của mình và không ngừng lại cho đến khi con trải nghiệm một loại đột phá nào đó. Quá nhiều người thử nghiệm một lần, hai lần, xong bỏ cuộc vì nó không đem lại cho họ thành quả tức thì. Ta không có vấn đề gì nếu con thích mì ăn liền, nhưng hoàn toàn không có chuyện tâm lý ăn liền đâu con.

Trong một số trường hợp, một dụng cụ nhất định sẽ chỉ đem lại cho con một đột phá đáng kể duy nhất mà thôi, nhưng trong đa số các trường hợp, một dụng cụ có thể cho con một loạt đột phá sẽ đưa con lên một tầng cao hơn. Con đừng phân tích thái quá bằng tâm vỏ ngoài, mà hãy tin tưởng là nếu con đã được hướng dẫn để dùng một dụng cụ nào đó, thì nó có một điều gì đó để chỉ cho con. Và đừng quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con sẽ ngưng dùng dụng cụ, mà hãy cho phép sự hướng dẫn nội tâm dẫn con lên bước kế tiếp. Nếu con thật sự cởi mở và sẵn lòng nhìn thấy bất cứ điều gì trong tâm lý đang chặn nghẽn sự phát triển của mình, sự hướng dẫn này sẽ đưa con tới nơi mà con cần tới.  

Và điểm này, tất nhiên, khơi lên câu hỏi đáng giá 64,000 đô, cụ thể là con sẵn lòng tới đâu để nhìn ra cái xà trong mắt con. Tuyệt đại đa số những người tự xem mình là người tầm đạo tâm linh đều có một hay nhiều lãnh vực trong tâm lý mà họ không sẵn lòng nhìn vào, thường khi bởi vì họ nghĩ rằng nếu họ nhìn vào thì nỗi đau đớn sẽ khiến họ bị choáng ngợp, hay trong một số trường hợp nó sẽ làm tan vỡ lòng kiêu mạn của họ.

Trong những giai đoạn tiên khởi, việc xem xét các vết thương sâu xa có thể không khôn ngoan lắm. Tuy nhiên khi con bước lên cao hơn trên đường tu thì dần dần có sự cần thiết phải nhìn vào tất cả mọi thứ, bất kể thứ gì. Chỉ những gì con tìm cách che giấu khỏi Thượng đế mới giữ con ở ngoài vương quốc của Thượng đế, bởi vì trong ánh sáng không có gì có thể tiếp tục ẩn giấu. Cho nên khi con tiến bước, con cần phải nhìn xem liệu có lãnh vực nào mà con cảm thấy miễn cưỡng hay kháng cự lại không muốn nhìn. Bất cứ gì con tránh nhìn vào sẽ là yếu tố cho phép tự ngã của con tiếp tục lẩn trốn, và chừng nào tự ngã còn lẩn trốn thì nó còn tiếp tục bắt giữ con.

Cho nên nói cho cùng, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ, sự sẵn lòng của con bỏ lại cuộc sống thế phàm để đi theo Ki-tô, bước vào sự sống vĩnh hằng thoát ra khỏi tự ngã. Theo một cách nào đó, việc chữa lành tâm linh của con có thể xem như một cuộc giằng co giữa tự ngã và chính con – với tự ngã cứ kéo con ra để con không nhìn vào các vết thương sâu thẳm cùng các ảo tưởng to lớn kia. Yếu tố quyết định là liệu động cơ giải thoát của con có lớn hơn động cơ sống còn của tự ngã hay không. Liệu mong muốn giành được sự sống vĩnh hằng của con có lớn hơn nỗi sợ chết của tự ngã hay cuộc tìm kiếm kiêu ngạo của nó để đạt được bất tử trong thế gian.  

Ta cũng biết là một số người sẽ bảo rằng ta chưa trả lời câu hỏi của con vì ta đã không nói tới một kỹ thuật đặc thù nào cả. Tuy nhiên ta cố tình không đi vào chi tiết vì ta không muốn mọi người chọn một kỹ thuật nhất định do ta đã khuyến cáo, rồi nghĩ rằng đó là kỹ thuật thích hợp cho họ trong giai đoạn này. Có thể nói, một phần sự chữa lành là con trở nên tự đủ (self-sufficient) trên phương diện tâm linh, có nghĩa là con sẵn lòng lắng nghe hướng dẫn rồi lấy quyết định và học hỏi từ kết quả đạt được.

Trong một số trường hợp, có thể con sẽ nhận được hướng dẫn để áp dụng một kỹ thuật nào đó, nhưng với lý do là con cần học bài học tại sao kỹ thuật đó sẽ không đem lại kết quả hứa hẹn. Điều này không có nghĩa là con đã bị sự hướng dẫn đó gạt gẫm, bởi vì quả thực con cần kinh qua một số trải nghiệm để có thể nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy. Và trong một số trường hợp, con thật sự cần phải đập đầu vào tường đá một số lần trước khi con ngộ ra đó không phải là trải nghiệm mà con muốn trong đời mình. Và như vậy, con quyết định xem xét bản thân thay vì cứ nghĩ rằng bức tường kia phải thay đổi.  

Ai thay đổi chính mình vĩ đại hơn ai thay đổi thế giới.

Con cho phép ta kết thúc và nói rằng ta rất hiểu là đối với nhiều người, việc chữa lành tâm lý có vẻ như một công việc quá sức to tát. Và thật vậy, nó dường như choáng ngợp con trong một thời gian. Tuy nhiên nếu con thực sự học hỏi các lời dạy mà các chân sư đã ban ra trên trang mạng công phu này cũng như thực hành một số dụng cụ thực tiễn, ta có thể cam đoan với con là bất cứ ai sẵn lòng soi mình trong gương sẽ đạt được tiến bộ. Và một khi con nhận ra là mình có tiến bộ, công việc chữa lành tâm lý sẽ không còn có vẻ quá sức nữa. Kỳ thực, nó sẽ trở thành một công việc con xem là một phần tự nhiên của cuộc sống, và đồng thời con cũng không để cho nó kéo con ra khỏi các khía cạnh thực tiễn và thú vị trong đời con. Cầu mong con sẽ nhanh chóng đạt đến điểm đó, hầu con có thể tìm thấy niềm vui đang chờ đón những ai có can đảm nhìn vào và chữa lành vết thương tâm lý của mình.

Khai tâm cho trẻ em về con đường và các khái niệm tâm linh

Hỏi: Thày có lời khuyên nào về cách giới thiệu các khái niệm tâm linh và con đường tâm linh cho trẻ em?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Cách hay nhất để dạy trẻ em về bất cứ điều gì là làm gương. Trẻ em bắt chước một cách tự nhiên và chúng theo gương người lớn chung quanh chúng. Cho nên cách hay nhất để dạy trẻ em về các khái niệm tâm linh là con cần chắc chắn là chính con đang sống với thái độ của một người đi tìm sự thật chứ không phải một người đi theo giáo điều. Con cần tiếp cận đời sống tâm linh theo cách mà trang mạng này gọi là con đường nội tâm. Con cần lánh xa cách tiếp cận vỏ ngoài nặng về giáo điều cùng học thuyết.

Nói cách khác, con cần liên tục tìm kiếm sự hiểu biết cao hơn về các chủ đề tâm linh so với hiểu biết hiện thời của con. Con cần tò mò và sẵn lòng đặt những câu hỏi khó giải đáp. Con cần nhận ra là cách hiểu hiện thời của con không phải là cách hiểu tối hậu hay bất khả sai lầm, mà chỉ đơn giản là một bực thang dẫn đến một cách hiểu thâm sâu hơn nữa. Con cần sẵn sàng xem xét và thảo luận về bất kỳ đề tài tâm linh nào mà không cảm thấy là có những đề tài cấm kỵ, hay đi quá xa so với một giáo điều hay chuẩn mực được người đời chấp nhận.

Chỉ khi nào con có cách tiếp cận cởi mở như thế đối với đời sống tâm linh thì con mới tránh làm cho trẻ em bị tổn thương, tránh hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của chúng. Thật là đáng buồn khi bao triệu người mộ đạo – cho dù là người đạo Cơ đốc hay tín đồ một tôn giáo khác – tưởng mình đang hành xử đúng đắn khi cho con em mình một nền giáo dục tôn giáo. Nhưng thực tế là những phụ huynh đó, cùng các vị tu sĩ hướng dẫn họ, đang hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của trẻ em. Vấn đề này có hai khía cạnh.

Trong Tân ước, con thấy ta đã quở trách các tông đồ của ta ngăn cản không cho con trẻ đến gần ta. Ta cũng có dạy là trừ khi con trở thành một trẻ thơ thì con không thể bước vào Nước Trời. Điều ta thực sự muốn nói qua câu đó là trừ khi con phát triển cách tiếp cận Thượng đế y như trẻ nhỏ, thì con không thể khoác vào trạng thái tâm thức sẽ cho phép con bước vào vương quốc thiên đàng.

Hai khía cạnh quan trọng nhất trong cách trẻ em tiếp cận Thượng đế là bản chất tò mò của chúng và sự ngây thơ trong trắng, hay sự vô điều kiện của chúng.

Con sẽ thấy trẻ em tò mò một cách tự nhiên về Thượng đế và khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Đó là vì khi đứa trẻ còn nhỏ, nó thường có một trải nghiệm nội tâm trực tiếp về đời sống tâm linh. Nhiều trẻ em thực sự trải nghiệm sự hiện diện của thiên thần hay của các sinh thể thăng thiên như những đấng trợ giúp ở ngay bên cạnh chúng. Vì vậy chúng biết cuộc sống là nhiều hơn vũ trụ vật chất này và chúng tò mò một cách tự nhiên.

Đáng tiếc thay, đa số người lớn có khuynh hướng bỏ qua hay phủ nhận thẳng cánh đời sống nội tâm tâm linh của trẻ em. Nhiều người lớn cư xử như vậy vì ngành tâm lý học hiện đại đã dán nhãn đời sống tâm linh của trẻ em là một chỉ dấu non nớt thiếu trưởng thành hay là chuyện tin bậy vào những “đấng trợ giúp” tưởng tượng. Một số khác làm vậy là vì trẻ em có xu hướng tự nhiên hay đặt câu hỏi về những chuyện mà người lớn không dễ dàng trả lời dựa trên các giáo điều mà họ đã chấp nhận là đầy đủ hay bất khả sai lầm.

Thực tế đơn giản là bởi vì trẻ em kinh nghiệm trực tiếp thực tại của cõi tâm linh, cho nên chúng không thấy lý do gì mà phải ép uổng thực tại đó vào trong khuôn khổ một bộ học thuyết do con người tạo dựng, cho dù đó là trong lãnh vực khoa học hay lãnh vực tôn giáo. Vì vậy chúng sẵn lòng đặt lên bất cứ câu hỏi nào mà chúng nghĩ đến, và đây chính là dấu ấn của mọi người tầm đạo chân chính. Nói cho cùng, loại câu hỏi mà con sẵn sàng đặt ra sẽ quy định loại trả lời mà con có thể nhận được. Chẳng phải là Kinh thánh đã nói, “Hãy hỏi thì sẽ được nhận” hay sao? Do đó nếu con sợ không dám đặt những câu hỏi vượt xa hơn các niềm tin hiện thời của con, làm thế nào con sẽ nhận được những lời giải đáp thâm sâu hơn đây?

Về vấn đề giới thiệu các khái niệm tâm linh cho trẻ em, điều vô cùng quan trọng là con cần làm thế nào để không gây nản lòng hay hủy hoại sự tò mò của con trẻ về Thượng đề cùng các vấn đề tâm linh. Do đó, sẽ thật quan trọng nếu con không trình bày các khái niệm tâm linh dưới hình thức những giáo điều khép kín hay không thể tranh cãi. Hãy cho phép chúng hỏi bất kỳ câu hỏi nào xuất hiện trong tâm trí ngây thơ của chúng. Hãy khuyến khích chúng hỏi rồi hãy thảo luận với chúng.

Khía cạnh kia của đời sống tâm linh của trẻ em là cách tiếp cận hồn nhiên, hay vô điều kiện, của chúng đối với các đề tài tâm linh cũng như đối với Thượng đế. Vì chúng kinh nghiệm cõi tâm linh là thực, và vì chúng xem cõi tâm linh là một lực thiện lành luôn ở đó để giúp chúng, cho nên chúng không hề đem lòng sợ hãi Thượng đế. Chúng không sợ đến gần Thượng đế, và quả thực tại sao chúng lại phải sợ chứ?

Vào thời kinh Cựu ước, dân Israel đã tạo dựng một hình ảnh về Thượng đế là một đấng nóng giận, phán xét. Một phần sứ vụ của ta thuở trước là đưa ra một hình ảnh mới về Thượng đế, cụ thể là hình ảnh một người cha yêu thương. Đây là hình ảnh mà hầu hết trẻ em đều mang về Thượng đế một cách tự nhiên. Rất tiếc, nhiều tín đồ Cơ đốc ngày nay đã quay trở về với hình ảnh giận dữ, phán xét của Cựu ước, và họ không tránh khỏi truyền lại hình ảnh này cho con cái họ. Bởi vậy cho nên ngay khi các em bắt đầu theo học các lớp đào tạo tôn giáo thì tính ngây thơ và vô điều kiện của chúng bị tàn phá thật nhanh chóng.

Thế là các em học cách xem Thượng đế là một hiểm họa, một cái gì đáng sợ. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ có thể đến gần Thượng đế theo một số phương thức nhất định được quy định bởi nền văn hóa tôn giáo của chúng. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ xứng đáng đến gần Thượng đế nếu chúng tuân theo một số điều kiện do giáo điều và luật lệ của giáo hội đặt ra.

Đây là một sự lập trình hoàn toàn nhân tạo mà người ta không bao giờ được áp đặt lên trẻ em. Tại sao con nghĩ ta lại nói rằng trừ khi con trở thành giống như trẻ nhỏ thì con không thể bước vào Nước Trời được chứ? Đó là vì một thực tế thật đơn giản. Tình thương là một lực hấp dẫn và sợ hãi là một lực đẩy ra. Nếu con sợ Thượng đế, con sẽ không bao giờ muốn đến gần ngài hay tiếp cận với ngài. Nếu vậy thì làm thế nào con vào được vương quốc của ngài đây? Tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con và Thượng đế sẽ không ép con bước vào vương quốc của ngài. Con phải bước vào với ý chí tự quyết của con, nhưng làm sao con có thể làm được nếu con sợ Thượng đế?

Trẻ em yêu Thượng đế một cách tự nhiên. Và tình yêu Thượng đế này chính là cái vốn quan trọng nhất mà bất kỳ dòng sống nào có thể sở hữu trên đường tu tâm linh. Do đó, tội ác lớn nhất đối với trẻ em là hủy hoại tình thương tự nhiên của chúng đối với Thượng đế, hủy hoại cảm nhận tự nhiên rằng chúng được chào đón khi chúng đến với Thượng đế mà không cần đi theo bất kỳ điều kiện vỏ ngoài nào.

Khi ta cho phép trẻ nhỏ đến gần ta, ta đã không đặt ra bất kỳ điều kiện nào. Chỉ có các tông đồ của ta mới toan đặt ra điều kiện. Nếu ta không đặt điều kiện thì tại sao ngày nay quá nhiều tín đồ Cơ đốc lại cho rằng con cái của họ phải tuân theo một số điều kiện trước khi được lại gần Thượng đế, lại gần Ki-tô hay tiếp cận các đề tài tâm linh?

Hãy để cho con trẻ đến với ta với sự tò mò, ngây thơ cùng thái độ vô điều kiện của chúng. Hãy để cho các phụ huynh đứng lui lại, xem xét lại hồn mình hầu nhận ra là họ cần đi theo lời dạy của ta mà trở nên tò mò, hồn nhiên y như trẻ nhỏ. Và khi đó, người lớn cũng sẽ có thể đến gần với ta, và họ cũng sẽ được đón nhận với cùng tình thương vô điều kiện mà ta dang trải cho trẻ nhỏ.

Trên thực tế, bất cứ ai đến với Thượng đế cũng đều được đón nhận với tình thương vô điều kiện. Vấn đề là hầu hết mọi người không cảm nhận được, hay không chấp nhận, tình thương vô điều kiện đó. Hầu hết đã dựng lên một số điều kiện trong chính tâm họ khiến họ cho rằng trừ khi họ tuân thủ một số luật lệ và quy tắc vỏ ngoài thì họ sẽ không xứng đáng nhận được tình thương của ngài. Bởi vì tất cả đều tùy thuộc vào quyền tự quyết, cho nên Thượng để không thể ép buộc con nhận tình thương của ngài. Chính con phải nhận lấy nó, và con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận con xứng đáng được nhận tình thương đó.

Đại đa số trẻ em đã mang sẵn cảm nhận xứng đáng này, cảm nhận vô điều kiện này ngay từ khi sinh ra, và đó chính là một trong những tài sản lớn nhất của chúng. Xin đừng hủy hoại cảm nhận đó khi con quá nhiệt thành dạy dỗ tôn giáo cho con mình.

Giáo lý căn bản về cách ứng phó với người tiêu cực

CHỦ ĐỀ: Tránh đối cực nhị nguyên của sợ hãi hoặc thụ động – không chịu phân biện – người trưởng thành có thể đối phó với những người tiêu cực – không cho phép người khác kéo con xuống – một số người tiêu cực vượt quá sự giúp đỡ của con người – một số người có thể được giúp đỡ thông qua tình thương – vượt lên trên tình con người – không thương cảm tà lực đen tối – tự hào nghĩ mình có thể cứu người khác – nhận ra những phản ứng không mang tính xây dựng – sử dụng trực giác thay vì trí năng – nhận ra chấp trước của mình – dính mắc với người tiêu cực mở con ra với tà lực đen tối – tình thương thách thức – giúp con người lựa chọn thật sự – tránh tranh luận – ba lý do khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực – lòng tốt không có tác dụng với những tà linh đen tối –  bước đi tiếp.


Câu hỏi 1: Xin chào Giêsu- Con thật may mắn khi có thể liên lạc với thày. Cảm ơn thày. Câu hỏi của con là về việc tránh “tà” linh (những tà linh ô uế có thể xâm nhập vào chúng con nếu chúng con không lấp đầy bản thân với tánh linh của thày). Trên trang mạng có viết rằng chúng con phải cố gắng giữ năng lượng tích cực và tránh những linh thể tiêu cực có thể kéo chúng con xuống. Con thấy những người như vậy ở đây trong văn phòng của con – đầy tiêu cực và rung động xấu – con có nên tránh họ không? Hay con nên tiếp cận với họ và thử thương yêu họ? Có thể họ đầy sự tiêu cực vì họ chưa bao giờ được yêu thương? hay họ là những tà linh? làm thế nào để con biết sự khác biệt? Con cảm thấy họ là những người bị tổn thương và con nên tiếp cận, yêu thương và giúp họ được chữa lành.

Câu hỏi 2: Con cố gắng không kết giao với những người có thói quen mà con không ủng hộ, như uống rượu quá mức, chửi thề, v.v. Tuy nhiên, con nhận thấy rằng mình không đi chơi với nhiều người và có nhiều khả năng ngồi ở nhà. cảm thấy tội nghiệp mình. Vì vậy, tốt hơn là con nên bảo vệ bản thân và không giao tiếp với những người như vậy hay chỉ giao tiếp với những người có tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Đây là những câu hỏi rất quan trọng, và chúng quan trọng vì một số lý do. Một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trên trang mạng này là con người đã rơi vào trạng thái tâm thức bị mắc kẹt trong cái nhìn nhị nguyên về thế giới. Khi con suy xét chủ đề về người tiêu cực và tà linh với tâm nhị nguyên, con có xu hướng bị thu hút bởi một trong hai đối cực:

  • Một cực đoan là cách tiếp cận dựa trên sợ hãi, khiến con cảm thấy rằng con nên làm mọi cách để tránh những người tiêu cực hoặc những người có thể bị ảnh hưởng bởi tà linh. Điều này chắc chắn sẽ khiến con có cái tâm rất là phán xét, bởi vì con phải thiết lập một tiêu chuẩn để xác định ai là tiêu cực và ai là không. Tiêu chuẩn đó chắc chắn là biểu hiện của sự sợ hãi và hệ thống niềm tin của con. Đó là lý do tại sao con thấy rất nhiều người Cơ đốc chính mạch phán xét mạnh mẽ những ai không sống theo lý tưởng hoặc tiêu chuẩn được xác định bởi giáo hội của họ.
  • Một đối cực ngược lại là con lý luận rằng con chỉ đơn giản thương yêu tất cả mọi người hoặc thương tất cả mọi người theo cùng một cách. Điều này có nghĩa là con không đánh giá theo tiêu chuẩn của con người. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa là con không phân biện theo tiêu chuẩn thiêng liêng. Điều này có thể dễ dàng khiến con mở mình ra với những người hoặc thế lực muốn thao túng con để đánh cắp ánh sáng tâm linh của con. Những lực này là một hố sâu không đáy và không có tình thương thương nào lấp đầy được chúng. Vì vậy, khi con cho họ tình thương và ánh sáng của con, con chỉ lãng phí ánh sáng đó giống như con rải ngọc trai của con cho lợn. Thật không may, ta thấy nhiều người trong phong trào Thời đại mới đang áp dụng cách tiếp cận này.
    Nếu con lùi lại và nhìn vào cả hai cách tiếp cận này, con sẽ thấy rằng chúng xuất phát từ cùng một trạng thái tâm thức, cụ thể là từ chối phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không phải của Thượng đế. Nhiều người Cơ đốc từ chối làm điều này bằng cách bám vào các học thuyết vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng họ không cần phải sử dụng sự phân biện cá nhân của mình bởi vì họ chỉ cần tuân theo một cách máy móc các giáo lý và quy tắc do nhà thờ của họ xác định. Đây là tư duy trắng đen. Nhiều người theo phong trào Thời đại mới cũng từ chối sử dụng sự phân biện cá nhân của mình vì họ nghĩ rằng họ nên hành động yêu thương đối với tất cả mọi người mà không cần cân nhắc. Đây là suy nghĩ màu xám.

Như thày đã cố gắng giải thích trên toàn bộ trang mạng này, có một cách khác thay vì đi vào một trong hai đối cực này. Cách khác là vươn tới tâm thức Ki-tô, điều này cho phép con vượt lên trên tâm thức nhị nguyên. Một khía cạnh quan trọng của tâm Ki-tô là khả năng phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không thuộc về Thượng đế. Khi con đi theo quan điểm của tâm Ki-tô, con nhận ra rằng không thể đưa ra một câu trả lời chung cho những câu hỏi được hỏi ở trên. Chỉ có những câu trả lời riêng lẻ bởi vì mỗi người là một cá thể duy nhất.

Ý của thày là con cần phải xác định theo cá nhân của con về cách thức và mức độ con sẽ tương tác với những người tiêu cực. Hãy để thày cho con một vài ý tưởng có thể giúp con tìm được sự cân bằng cá nhân của mình.

Ý tưởng 1.

Câu hỏi cơ bản về cách ứng phó với những người tiêu cực có thể được chia thành hai câu hỏi sau:

• Con có nên tránh những người tiêu cực không?

• Con có nên cho họ tình thương và qua đó có thể giúp họ vượt qua sự tiêu cực của họ không?

Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên chủ yếu phụ thuộc vào con là ai, hay đúng hơn là mức độ trưởng thành về tâm linh của con. Nếu con đã kêu gọi sự bảo vệ tâm linh ở mức độ cao và con cảm thấy mình có thể tránh không mang vào từ trường mình sự tiêu cực của người khác, thì con không cần phải tránh những người tiêu cực. Nếu con đã đạt được ý thức rõ ràng về con là ai và ý thức rõ ràng về giá trị bản thân, con có thể tương tác với những người tiêu cực mà không để họ ảnh hưởng đến cảm nhận về bản sắc và giá trị bản thân. Nếu con đã đạt được mức độ phân biện cao của Tâm Ki-tô, con có thể tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sa ngã trước những nỗ lực tinh vi của họ để kéo con vào vòng xoáy tiêu cực của họ và kiểm soát con.

Vì vậy, có thể nói rằng đối mỗi người cần tìm ra sự cân bằng của mình. Mức độ bảo vệ tâm linh mà con có, giá trị bản thân và sự phân biện bằng Tâm Ki-tô của con sẽ xác định mức độ của những người tiêu cực mà con có thể tiếp xúc mà con không bị họ kéo xuống. Và điểm mấu chốt ở đây là nếu con muốn kéo người khác lên, trước tiên hết là con không thể cho phép họ kéo con xuống.

Liên quan đến câu hỏi thứ hai, điều này phụ thuộc phần lớn vào những người kia. Một số người đã bị bao phủ quá nhiều bởi những năng lượng tiêu cực hoặc những tà lực đen tối đến độ không có người nào có thể giúp được họ. Chỉ có quyền năng của Đức Thánh Linh mới có cơ hội kéo những người này ra khỏi sự tiêu cực của họ, nhưng ngay cả quyền năng của Đức Thánh Linh cũng không thể chống lại ý chí tự do của con người. Vì vậy, thực sự là có một số người mà con không nên cố gắng giúp đỡ trừ khi con có động lực để trở thành cánh cửa rộng mở cho quyền năng của Thượng đế hoạt động qua con. Những người như vậy không thể giúp được dù có thương yêu họ, tốt với họ hay thương cảm họ bao nhiêu chăng nữa. Đơn giản là họ sẽ lấy ánh sáng của con và ngay lập tức lạm dụng nó để duy trì hoặc củng cố sự tiêu cực của họ.

Tuy nhiên, cũng đúng là có rất nhiều người đã bị tổn thương về mặt tình cảm, và do đó họ bị bao trùm trong một vòng xoáy tiêu cực. Những người như vậy có thể được giúp đỡ bằng cách bày tỏ tình thương với họ, mặc dù tình thương của Tâm Ki-tô thật sự hiệu quả hơn nhiều so với bất kỳ tình thương nào của con người.

Bây giờ con thấy sự cân bằng cơ bản mà con phải tìm thấy. Mức độ trưởng thành về tâm linh của con quyết định mức độ con có thể ứng phó với những người tiêu cực mà không bị kéo xuống. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra rằng không thể kéo một số người lên được cho đến khi họ sẵn sàng thay đổi cách họ tiếp cận cuộc sống. Để biết thêm về điều này, hãy xem bài giảng của thày về các giai đoạn phát triển tâm linh.

Ý tưởng 2.

Nếu con đang tiếp xúc với người tiêu cực với hy vọng giúp họ và kéo họ ra khỏi sự tiêu cực của họ, con cần phải chịu được những nỗ lực của họ đang kéo con xuống. Nhiều người tiêu cực sẽ cố gắng kéo mọi người khác xuống mức của họ một cách vô thức. Nếu con cho phép mình bị kéo xuống, con không giúp đỡ người đó, mà con đã tự tạo ra rắc rối cho chính mình. Đây không phải là một hành động của tình thương thật của Tâm Ki-tô. Đây có thể là một hành động của tình người ngây thơ, nhưng thày khuyến khích con hãy vượt lên trên tình người đó. Đơn giản là có quá nhiều người và thế lực trên thế giới này sẽ lợi dụng tình người và sự thương cảm của con người. Thày có thể đảm bảo với con rằng nhiều người đi tìm tâm linh chân chính đã bị lừa khi cho phép bản thân bị kéo xuống thấp vì sự thương cảm sai lầm với những người tiêu cực, thế lực đen tối hoặc thậm chí là vì thương cảm ma quỷ.

Hoàn toàn không có lý do gì để thương cảm những thế lực đen tối hay những người đã để cho mình bị những thế lực đen tối như vậy chiếm hữu. Con cần tôn trọng Quyền Tự quyết và chấp nhận rằng những người này có quyền tạo ra một vòng xoáy tiêu cực xung quanh họ. Tuy nhiên, con cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của mình và quyền tránh xa vòng xoáy tiêu cực của họ. Là một người đi tìm tâm linh, con có quyền xây dựng một vòng xoáy tích cực trong cuộc sống của mình và bảo vệ mình không cho bất kỳ ai hay bất kỳ thế lực nào tìm cách kéo mình vào vòng xoáy tiêu cực.

Quá nhiều người tìm kiếm tâm linh đã cho phép mình cảm thấy – thường là thông qua niềm tự hào được ngụy trang – rằng họ có thể thay đổi hoặc cứu một người khác. Một số người đã dành cả cuộc đời để tìm cách cứu một người khác, có thể là vợ / chồng, bạn bè hoặc thành viên gia đình, chỉ để nhận ra rằng mình không thể giúp những người không sẵn lòng giúp đỡ mình.

Ý tưởng 3.

Thày biết thày đã ném vào con những khái niệm có vẻ hoàn toàn khó hiểu. Làm thế nào để con biết khi nào nên thương và khi nào không nên thương? Đây là gợi ý của thày. Tránh đừng xét đoán với tâm vỏ ngoài của con. Quan sát phản ứng của con với người khác và để ý những phản ứng sau:

• Đôi khi con cảm thấy có sự thôi thúc mạnh mẽ để làm điều gì đó cho người khác, nhưng nếu con để ý kỹ hơn, con sẽ thấy rằng sự thôi thúc này đến từ thể cảm xúc của con. Hãy chống lại sự thôi thúc đó.

• Có lúc con gặp một người, và ấn tượng đầu tiên của con là tránh người đó. Sau đó, trí năng của con bắt đầu tranh luận qua lại, và khá nhanh chóng con lý luận rằng sự tương tác với người đó là ổn. Tránh rơi vào cái bẫy dùng trí năng rồi vứt bỏ những cái biết trực giác và ấn tượng đầu tiên của con.

Thày khuyến khích con cố gắng tạo được sự cân bằng trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nói cách khác, tránh rơi vào bất kỳ đối cực nào trong hai đối cực mà thày đã mô tả ở trên. Cách để làm điều này là làm theo trực giác của con thay vì đi theo trí năng và cảm xúc. Thày đã đưa ra một số kỹ thuật trên trang mạng về Hộp Dụng cụ Tâm linh (cái bài chú và bài thỉnh) để tăng cường sự kết nối của con với Tâm Ki-tô của con để con có thể có được những cái biết trực giác chính xác hơn. Điều quan trọng là phải duy trì một sự bảo vệ tâm linh mạnh mẽ vì điều này sẽ giúp con tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống.

Con có thể nhận ra rằng con đã có một trực giác mạnh mẽ. Nếu con không có trực giác, con đã không mở lòng đón nhận những lời dạy trên trang mạng này. Vì vậy, điểm mấu chốt ở đây là tránh để thể cảm xúc hoặc thể lý trí của con kiểm soát sự tương tác của con với người khác. Cố gắng vượt lên trên nó và cho phép chính Tâm Ki-tô của con hướng dẫn con về những người con nên tương tác và hình thức tương tác nên như thế nào. Nếu con luôn làm theo trực giác của mình, con sẽ không bao giờ sai.

Sẽ có những trường hợp con cố gắng giúp đỡ ai đó và sau một thời gian, con phải thừa nhận rằng nỗ lực của mình đã không mang lại kết quả. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đã sai khi cố gắng. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là cho dù con làm gì, con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Một số người đã quyết định rằng họ sẽ không bị lôi ra khỏi sự tiêu cực của họ. Thày có thể đảm bảo với con rằng thày biết điều này với tư cách là một người thầy tâm linh, người đã cố gắng giúp con người vượt lên trên vòng xoáy tiêu cực do chính họ tạo ra trong một thời gian dài.

Ý tưởng 4.

Khi con tương tác với người khác với tâm thức đến từ sự thương cảm của con người hoặc tình thương con người, con sẽ nhận thấy rằng con bị dính mắc với kết quả của sự tương tác. Vì vậy, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự dính mắc như vậy, con cần phải tỉnh táo và nhận ra rằng con đã rơi xuống thấp hơn mức độ yêu thương của Tâm Ki-tô. Sau đó, con cần phải buông bỏ chấp trước này bằng cách vượt lên trên nó. Người đi tìm tâm linh bị dính mắc về mặt tình cảm với những người tiêu cực là điều không nên. Đây là một lời mời gọi các thế lực đen tối sử dụng những người tiêu cực  để kéo con ra khỏi con đường tâm linh của con.

Con có thể sử dụng những ràng buộc tình cảm của mình để khám phá những lỗ hổng cá nhân của con trước những thế lực đen tối. Sau đó, con có thể sử dụng các dụng cụ trên trang mạng Hộp Dụng cụ Tâm linh (các bài chú và bài thỉnh) hoặc các dụng cụ thích hợp khác để chữa lành tâm lý của mình nhằm vượt qua những dính mắc này và tiến nhanh hơn trên con đường tu của con.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cực kỳ quan trọng là không dính mắc vào họ hoặc phản ứng của họ với con. Con càng không bị dính mắc, con càng có thể trở thành công cụ cho ánh sáng và tình thương của Thượng đế để giúp những người như vậy chữa lành vết thương tình cảm của họ và vượt lên trên tiêu cực. Con càng dính mắc, con càng dễ bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống thấp, theo đó con sẽ chỉ củng cố thêm cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống và khiến họ càng bị neo vào vòng xoáy tiêu cực.

Điều thày muốn nói ở đây là chính tình người mới khiến con bị dính mắc, và tình thương này sẽ không kéo người kia ra khỏi tiêu cực. Chỉ có tình thương hoàn hảo gạt bỏ mọi sợ hãi mới có thể làm được điều này, và khi con trụ vào tình thương thiêng liêng, con không bị dính mắc. Tình thương thiêng liêng vô điều kiện, nghĩa là con sẽ thương yêu người khác vô điều kiện. Khi con thương yêu người khác vô điều kiện, con không bị dính mắc bởi các phản ứng của người kia đối với tình thương của mình, và do đó con không thể bị người khác kéo xuống.

Ý tưởng 5.

Điều quan trọng là thấy rằng tình thương thiêng liêng không giống như những gì mà hầu hết mọi người xem là tình thương. Nhiều người có ấn tượng rằng nếu mình thương thì mình phải luôn nhẹ nhàng, dịu dàng và tốt. Điều này không đúng. Nếu ai đó bịt mắt và đang đi về phía một vách đá,  đâu phải là mình chỉ nói nói nhẹ nhàng và yêu cầu người đó dừng lại. Như thế chưa đủ. Có thể là con phải hét lên, và nếu anh ta vẫn không nghe, có thể là con phải xé miếng vải bịt mắt anh và chỉ xuống vực thẳm.

Đây là những gì con đã thấy thày làm rất nhiều lần khi thày thách thức mọi người cách đây 2.000 năm. Khi thày thách thức các thầy thông giáo, người Pha-ri-si, thầy tế lễ trong đền thờ, những người đổi tiền và các luật sư, thày rất cứng rắn và nói thẳng. Nhiều người nghĩ rằng thày đang tức giận và hành vi đó không phù hợp với đấng Cứu thế hay một nhà tiên tri. Tuy nhiên, trên thực tế, thày đang thể hiện khía cạnh nam của tình thương thiêng liêng, đó là sự kiên quyết không muốn người khác tự hủy hoại.

Tình thương của Thượng đế sẽ không ngăn cản con hủy hoại bản thân nếu con thực sự kiên quyết làm như vậy. Tuy nhiên, tình thương của Thượng đế muốn đảm bảo rằng trước khi lựa chọn tự hủy hoại bản thân, con biết chính xác mình đang làm gì và hậu quả là gì. Nói cách khác, tình thương của Thượng đế sẽ không để bất cứ ai hủy hoại bản thân mà không biết họ đang làm gì. Nếu họ biết và vẫn khăng khăng tiếp tục ở trong vòng xoáy tiêu cực của mình, thì Thượng đế sẽ lùi bước — như người đại diện của Thượng đế đã làm trong Vườn Địa Đàng.

Bất kỳ vị thầy tâm linh chân chính nào cũng sẽ tìm cách soi sáng cho mọi người về các lựa chọn của họ và hậu quả của những lựa chọn đó. Và sau đó vị thày sẽ cho phép mọi người lựa chọn. Nếu mọi người chọn đi ngược lại lời khuyên của vị thày, thì hậu quả của hành động của họ sẽ là người thầy mới của họ.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cần thiết và thích hợp là con phải rất cứng rắn và nói thẳng khi con thách thức cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống. Nếu con chưa sẵn sàng làm điều này, tốt hơn là con nên tránh những người như vậy và tập trung vào việc xây dựng mối liên hệ của con với chính cái Ta Ki-tô của con. Khi đạt được liên hệ đó, con có thể cho phép cái Ta Ki-tô của mình thách thức niềm tin tiêu cực của mọi người thông qua con.

Nói cách khác, nếu con sử dụng trí óc con người của mình để thách thức niềm tin của người khác thì kết quả không tốt đâu. Con nên luôn luôn để cho cái Ta Ki-tô của con làm việc xuyên qua con để hoàn thành nhiệm vụ này. Đừng để bản thân bị mắc kẹt trong vòng xoáy tranh cãi và xung đột của con người. Con chỉ cần cho phép chính cái Ta Ki-tô của con nói qua con và nói lên sự thật. Sau đó, con không dính mắc và cho phép mọi người phản ứng lại sự thật đó theo cách nào phù hợp với họ. Nếu họ khăng khăng bác bỏ sự thật, thì con hãy rút lui và để họ gánh chịu hậu quả từ những lựa chọn tự do của họ.

Ý tưởng 6.

Con cần biết rằng có ba lý do cơ bản khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực. Một là sự thiếu hiểu biết, hai là thói quen và những động lực cũ và ba là những tà linh đen tối. Con có thể giúp những người trong hai trường hợp đầu bằng cách đối xử tốt và nhẹ nhàng với họ. Con có thể cho họ sự hiểu biết và cứ tốt với họ hoài để chứng minh rằng có một cách sống tốt hơn là bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực.

Tuy nhiên, lòng tốt sẽ không có tác dụng đối với những người bị tà linh đen tối ám. Cách duy nhất để giúp những người này là giải thoát họ khỏi những tà linh đen tối. Thật không may, những người như vậy thường không cởi mở để đón nhận cái biết sáng tỏ về tình trạng của họ. Không nhiều người trong thế giới ngày nay sẽ phản ứng tích cực đâu nếu con nói với họ rằng họ bị tà linh đen tối ám. Vậy, con có thể làm gì đây?

Trừ khi con đạt được mức độ cao của quả vị Ki-tô, con nên tránh giao dịch trực tiếp với bất kỳ loại tà linh đen tối nào. Họ có khả năng ăn cắp năng lượng của con hoặc hướng năng lượng hoặc suy nghĩ tiêu cực vào con. Vì vậy, con có thể yêu cầu Đại thiên thần Michael trói những tà linh đó và cắt người kia thoát khỏi các tà linh, để họ có thể lấy quyết định của riêng họ mà không bị áp đảo bởi những tà linh đen tối. Dụng cụ hiệu quả nhất cho mục đích này là bài Nguyện Archangel Michael (Rosary). Bằng cách đọc bài Nguyện này trong một thời gian cho những người tiêu cực, con có thể giúp họ thoát khỏi những tà linh đen tối, và điều này có thể khiến họ cởi mở hơn với những cách sống khác.

Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng không có nghi thức tâm linh nào sẽ vi phạm quyền tự quyết của con người. Nếu người đó không sẵn sàng buông bỏ những tà linh đen tối, Đại thiên thần Michael không thể gỡ chúng đi. Vì vậy, có thể sẽ có lúc con phải để những người này đi theo con đường của họ và dành năng lượng và sự chú ý của con cho những người sẵn sàng phát triển. Hãy cho phép chính cái Ta Ki-tô của con hướng dẫn con khi nào là lúc con phải bỏ lại chuyện này và bước đi tiếp.

Các linh mục Công giáo có nên được phép lấy vợ?

Hỏi: Thưa Giê-su, con hiểu được sự cần thiết thực sự cải tổ Giáo hội Công giáo, và con mong nhiều tín hữu Công giáo sẽ lắng nghe lời của thày về nhu cầu cải tổ này. Tuy nhiên con xin hỏi, liệu thày có nghĩ là các linh mục Công giáo nên được phép lấy vợ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta là một thày tâm linh, và quan tâm của ta luôn luôn hướng về sự phát triển tâm linh của mỗi dòng sống cá nhân. Tăng trưởng tâm linh có nghĩa là giải quyết những tin tưởng sai lầm và vết thương tình cảm đang ngăn cản dòng sống đạt được sự viên mãn, trọn vẹn, cũng gọi là sự thánh thiện. Đây là một sự giải quyết tâm lý nội tâm, không thể là kết quả tự động, hay máy móc, của việc cử hành một số hành động vỏ ngoài. Vì vậy, việc cưỡng ép độc thân có rất ít giá trị và sẽ là một gánh nặng cho những dòng sống chưa sẵn sàng ngừng hẳn tình dục. Thay vì đưa đến việc giải quyết các vấn đề tâm lý, thì rất có thể nó sẽ khiến cho những vấn đề này gia tăng. Đây chính là lý do tại sao Giáo hội đang gặp phải một vấn nạn khổng lồ là sự xâm hại tình dục.

Điều ta muốn nói ở đây là mục đích thực sự của cuộc sống là bước trên một con đường tuần tự sẽ dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Con đường này có thể ví như một cầu thang có nhiều bậc. Khi dòng sống bước lên cầu thang, y sẽ dần dần mất đi – một cách tự nhiên – những gắn bó, dính mắc, ham muốn hay quan tâm đến những thứ của thế gian này, đặc biệt là những khoái cảm giác quan do cơ thể vật lý tao ra. Nói cách khác, điều tự nhiên sẻ xảy ra là dòng sống sẽ lần hồi mất đi ham muốn tình dục của mình, và sẽ chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh tâm linh của cuộc sống.

Nếu con khảo sát toàn bộ loài người, con sẽ thấy một số người đã đạt được trạng thái tâm linh này và đã bỏ lại đằng sau các ham muốn thể xác của họ. Con cũng thấy một số người dần dần vượt qua được ham muốn tình dục chỉ trong một kiếp sống. Nhưng con cũng thấy nhiều người trên địa cầu chưa sẵn sàng từ bỏ tình dục. Và nếu một người chưa sẵn sàng thì rất có thể việc ép buộc bản thân phải kiêng cữ tình dục sẽ không giúp cho người đó phát triển tâm linh. Sự kiêng cữ tình dục phải dựa trên căn bản một sự giải quyết đích thực vấn đề ham muốn tình dục trong sâu thẳm của nội tâm, thay vì chỉ là một quyết định của ý chí và tâm vỏ ngoài.

Ý định và hy vọng nguyên thủy của ta cho phong trào Ki-tô giáo là đưa ra một con đường tuần tự dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Lý tưởng, sự tăng trưởng này phải phát xuất từ một sự thấu hiểu, một thấu hiểu nội tâm đích thực, về những bí ẩn tâm linh của sự sống.

Khi dòng sống nhận được sự thấu hiểu như thế, y sẽ tìm được những lời giải đáp đích đáng cho những câu hỏi của y về sự sống. Những lời giải đáp này sẽ đem lại sự giải quyết sâu xa cho dòng sống. Y sẽ dần dần đặt thẳng hàng các tin tưởng của mình cho đồng bộ với thực tế cuộc sống, và y sẽ từ từ giải quyết được các vết thương cùng bế tắc tình cảm của mình. Do đó, sẽ không cần thiết phải tự ép mình làm một số hành động vỏ ngoài, mà y sẽ tự nguyện chọn ra những hành động nào mà y biết sẽ phục vụ cho quyền lợi sáng ngộ của mình.

Điều xảy ra với Giáo hội Công giáo là Giáo hội đã đi chệch đường so với chủ ý nguyên thủy của ta. Rồi Giáo hội bị cuốn mắc vào những cuộc tranh giành quyền lực, với kết quả là một số giáo lý ban đầu của ta bị loại bỏ. Vì thế Giáo hội đã không thể đưa ra cho tín đồ một hiểu biết đích thực khả dĩ dẫn đến một sự giải quyết đích thực. Hệ quả là Giáo hội đã rơi vào một truyền thống ép buộc tín đồ phải tuân theo giáo điều vỏ ngoài cũng như những luật lệ cư xử cứng nhắc.

Trong lý tưởng, một tổ chức tôn giáo cần có một hệ thống thứ bậc cho phép tín đồ tuần tự leo lên những mức cao hơn khi họ đạt được khả năng và họ sẵn lòng làm điều đó. Cấu trúc thứ bậc đó sẽ có nhiều trình độ dựa trên trình độ chứng đạt tâm linh khác nhau của mỗi người. Chẳng hạn, đa số nhân loại chưa đạt tới mức có thể xem việc kiêng cữ tình dục là một chuyện tự nhiên, hay thậm chí hữu ích cho mình. Những người này phải được quyền sống trong một khung cảnh gia đình bình thường, như rất nhiều người trong số họ vẫn đang làm.  

Một giáo hội cần một lớp tu sĩ phục vụ cho những thành phần như thế. Đây sẽ là những vị linh mục Công giáo có trách vụ quản trị bình thường. Nếu con muốn làm việc mục vụ hữu hiệu cho quần chúng, con phải hiểu biết những vấn đề mà người thường phải đối mặt. Làm sao con hiểu được những vấn đề này nếu chính con chưa sống qua? Nói cách khác, nếu con muốn phục vụ hiệu quả cho những gia đình, những cặp vợ chồng có con cái, điều vô cùng hữu ích cho con là con cũng là một người đã lập gia đình, có con cái phải chăm lo hàng ngày.

Thực tế đơn giản là nhiều vị linh muc Công giáo trở thành vô hiệu trong vấn đề muc vụ cho những cặp vợ chồng, những gia đình và trẻ nhỏ. Lý do là vì họ không hề có kinh nghiệm bản thân để dùng làm căn bản cho mục vụ của mình. Cho nên để trả lời câu hỏi của con, ý định của ta không bao giờ là tạo ra một tổ chức đòi hỏi các tu sĩ có trách vụ bình thường phải độc thân. Điều này đã được người ta thêm vào sau này, và không đúng với ý muốn cũng như ý định của ta. Điều này chỉ có mặt do nhu cầu tranh giành quyền lực và kiểm soát.

Bây giờ hãy trở về ý tưởng một hệ thống thứ bậc dựa trên những mức độ chứng đạt tâm linh khác nhau. Khi dòng sống leo con đường tâm linh, y sẽ mất dần một cách tự nhiên, qua một sự giải quyết nội tâm, các dính mắc của mình đối với những thứ của thế gian. Vì vậy, một tổ chức giáo hội phải cung ứng một cách thức cho những ai đã đạt được mức chứng đạt đó có thể sống trong một môi trường nơi họ có thể tập trung vào hoạt động tâm linh. Việc này có thể thực hiện qua các tu viện, hoặc một số khung cảnh khác được đặc biệt thiết kế cho những ai không mong muốn có đời sống gia đình. Việc này cũng có thể thực hiện qua những tổ chức phục vụ quần chúng, và một ví dụ tuyệt vời là tổ chức do Mẹ Teresa lập ra.

Trong những tổ chức như thế, việc sống độc thân sẽ là cách sống tự nhiên chứ không là một quy luật vỏ ngoài bị áp đặt. Đó sẽ là một việc làm tự nguyện dựa trên một sự giải quyết nội tâm và sự phát triển tâm linh đích thực. Những ai chưa đạt được mức này sẽ đương nhiên không chọn sống trong một môi trường như thế. Có thể nói, một tổ chức giáo hội nên có một khía cạnh công truyền nhắm vào việc phục vụ đa số quần chúng sống trong quan hệ gia đình bình thường, và đồng thời cũng có một khía cạnh nội tâm nhằm tạo cơ hội tối đa cho những ai muốn sống tập trung vào hoạt động tâm linh.

Nhưng hãy cho ta đưa ra một lời cảnh báo. Đúng là khi một dòng sống trưởng thành trên đường tâm linh, y sẽ lần hồi bỏ rơi sự vướng mắc vào những ham muốn trần thế một cách tự nhiên. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả những ai chứng đạt tâm linh đều không nên lập gia đình và sống độc thân. Việc không kết hôn và bị bắt buộc sống độc thân sẽ không tự động đem lại phát triển tâm linh, và đây chính là tin tưởng sai lạc mà Giáo hội Công giáo cổ võ. Sự sai lầm này được chứng minh rõ ràng qua việc phơi bày tệ nạn xâm hại tình dục do các linh mục. Tệ nạn này cũng chứng minh hiểm họa khi giáo hội cố tình ép buộc một người phải tuân thủ luật lệ vỏ ngoài cứng nhắc khi dòng sống người đó chưa sẵn sàng sống được như vậy.

Điều ta muốn nói là các lãnh đạo của một giáo hội không nhất thiết phải là người độc thân. Một lần nữa, một tu sĩ chỉ có thể làm việc mục vụ hữu hiệu khi tự thân mình biết rõ những vấn đề của tín đồ. Vì vậy, một giáo hội có thể có những vị lãnh đạo, ngay cả những vị lãnh đạo cao cấp, đã lập gia đình. Thật sự, ta cũng không bảo rằng một dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ phải ly dị và sống độc thân. Con hoàn toàn có thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân mà vẫn kiêng cữ tình dục, hoặc con sinh hoạt tình dục một cách cân bằng hơn so với đa số cặp vợ chồng khác.

Cho nên ta không muốn nhìn thấy một tổ chức với một nền văn hóa quy định rằng những ai độc thân là tốt đẹp hơn, hay chứng đạt tâm linh hơn, những người không độc thân. Ta không khuyến khích bất kỳ hình thức phân biệt cao thấp nào vì nó nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh, và kiêu hãnh thì ngược hẳn với tăng trưởng tâm linh. Con hãy nhớ lời này: “Ai là người cao nhất trong số các người, thì sẽ làm đầy tớ cho mọi người.”

Liệu chúng con có phải ưa thích mọi người?

Hỏi: Thày nói chúng con phải yêu thương mọi người, nhưng con thắc mắc vì con nghe người ta nói: “Nhưng bạn không cần phải ưa thích mọi người”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi con yêu thương ai đó với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con giải thoát cho người đó được tự do để là con người mà họ là. Và khi làm vậy, con cũng giải thoát cho con để là con người mà con là. Khi ta nói con phải yêu thương mọi người, ta muốn nói là con phải yêu thương mọi người với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Tình yêu đó vô điều kiện, tức là ở trên và vượt khỏi mọi ưa thích hay không ưa thích của con người.  

Khi con thực sự hiện thân tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con không còn cân nhắc xem mình có ưa thích người đó hay không. Con chỉ đơn giản biểu hiện tình yêu cho mọi người con gặp mà không chờ đợi một sự hồi đáp nào cả. Khi con không còn những chờ đợi của phàm nhân, con đạt được sự tự do tâm linh, là tự do mà ta đã chứng tỏ.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý, tình yêu vô điều kiện không phải lúc nào cũng mềm yếu. Khi ta quở trách những thày dạy luật, ta đã làm vậy với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không cho phép họ cứ kẹt mãi trong tâm trạng vị kỷ của họ. Cho nên sự thách thức của ta – biểu lộ trong sự cứng rắn của tình yêu thay vì trong cơn giận xung khắc – đã trao cho những dòng sống này một cơ hội để họ chọn Ánh sáng Ki-tô thay vì bóng tối mà họ đã tự giam mình vào.

Giáo lý căn bản về cách đáp ứng khi bị người khác hà hiếp

CHỦ ĐỀ: Trong các mối quan hệ, hãy tạo cơ hội để phát triển – kết quả thực tế của một tình huống ít quan trọng hơn sự phát triển – ý nghĩa thực sự của việc chìa má kia ra – giữ sự trong sáng của con – đừng thụ động – tình thương của Mẹ và của Cha – ngưng hành vi hà hiếp lại – giải quyết nghiệp chướng hoặc vết thương của riêng con – các bước thực tiễn để ứng phó với sự hà hiếp – cho mọi người và cho chính con cơ hội để phát triển – hướng tới sự không dính mắc – khi không dính mắc, tình hình sẽ thường được cải thiện hoặc con sẽ bước tiếp – một viên đá lót trên con đường tu của con.


Câu hỏi: Xin chào, Đầu tiên, cảm ơn quý vị về trang mạng khai sáng tâm tuyệt vời này. Nó đã nâng cao nhận thức tâm linh và sự phát triển tâm linh của tôi. Câu hỏi của tôi: Tôi biết trách nhiệm của tôi là phải tha thứ và cầu nguyện cho những người làm tổn hại đến tôi, vậy việc nộp đơn tố cáo những người phân biệt đối xử và sách nhiễu tại nơi làm việc có được chấp nhận về mặt tâm linh không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Một câu hỏi tuyệt vời, chạm đến một trong những tình huống chính khó xử của đời sống con người và cũng cho thày cơ hội để bình luận về một sự hiểu lầm phổ biến về lời kêu gọi chìa má bên kia của thày. Hãy để thày giảng cho con về cách chúng ta những chân sư thăng thiên nhìn những tình huống như thế này.

Đầu tiên thày xin nói rằng trong bất kỳ sự tương tác nào giữa con người với nhau, mối quan tâm của các chân sư thăng thiên là luôn tạo cho tất cả mọi người liên hệ được cơ hội phát triển tối đa. Chúng tôi không quan tâm nhiều đến kết quả cụ thể của một tình huống, mà chúng tôi quan tâm đến sự phát triển của tất cả những người có liên quan đến tình huống đó. Vì vậy, với suy nghĩ đó, hãy để thày nhận xét về tình huống này và hàng triệu tình huống tương tự xảy ra hàng ngày trên khắp thế giới. Bản chất của tình huống là một người đang vi phạm Luật Tình thương, thay vì làm cho người khác điều mà họ muốn người khác làm cho mình, thì họ không hành xử như vậy. Câu hỏi bây giờ trở thành: người phải gánh chịu hành động này nên phản ứng như thế nào với tình huống đó.

Mối quan tâm đầu tiên và quan trọng nhất của con là tránh tạo ra những hậu quả tiêu cực cho bản thân. Để đạt được mục tiêu này, con cần phải làm theo lời kêu gọi của thày là chìa má bên kia. Khi con hiểu được ý nghĩa thực sự của việc chìa má bên kia, con sẽ thấy rằng nó có nghĩa là con đáp lại mọi tình huống bằng tình yêu thương vô điều kiện. Khi đáp lại với tình yêu thương này, con có thể tránh rơi vào cái bẫy bị rơi vào những cảm xúc tiêu cực của con người, chẳng hạn như cảm giác mình là nạn nhân, cảm giác sợ hãi, cảm giác tức giận hoặc mong muốn trả thù. Khi con né tránh được những cảm xúc như vậy, Hoàng tử của thế giới này sẽ đến và không tìm thấy  được gì trong con để ảnh hưởng con. Do đó, con sẽ không tạo ra hậu quả tiêu cực, có nghĩa là năng lượng tha hóa hoặc nghiệp quả, từ hoàn cảnh này. Con thực sự có thể vượt qua tình huống và duy trì sự trong sáng và ngây thơ của mình mà không bị hành động của người kia làm vấy bẩn. Điều này giúp con không bị kéo vào một vòng xoáy tiêu cực thực sự trói buộc con với kẻ đang hà hiếp con, thay vì buộc con với chính cái Ta Ki-tô bên trong con.

Nói thế nhưng điều cần thiết là phải nhận ra rằng chìa má bên kia không có nghĩa là con trở thành người theo chủ nghĩa hòa bình và con thụ động cho phép người khác hà hiếp mình. Đây là một điểm tế nhị đã bị hiểu lầm bởi nhiều người Cơ đốc, những người thấy tầm quan trọng của việc ứng phó với tình thương nhưng lại không hiểu rằng tình thương thiêng liêng có hai khía cạnh. Như Mẹ Mary giải thích trong bài diễn văn của mình, Thượng đế có hai khía cạnh, đó là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Khi con chìa má bên kia và tránh rơi vào những cảm xúc tiêu cực, con đang sử dụng khía cạnh Mẹ của tình thương  thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để con luôn trong sáng và không bị dính mắc khi đối mặt với bất kỳ sự tàn bạo nào được tìm thấy trên thế giới này. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cũng phải sử dụng ngọn lửa tích cực hơn của Cha thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để thực hiện hành động thích hợp sẽ mang lại cho cả bản thân và những người khác cơ hội tốt nhất để phát triển từ hoàn cảnh này.

Khi con hiểu được hai khía cạnh của tình thương thiêng liêng, con không thể cho phép người đang hà hiếp con tiếp tục làm như vậy, vì con biết rằng điều đó sẽ gây hại cho người đó về lâu dài. Vì vậy, chính vì tình thương vô điều kiện dành cho người kia, con sẽ hành động một cách tự nhiên để ngăn chặn sự hà hiếp. Đây là những gì con đã thấy thày làm khi thày thách thức các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đu-sê, thầy tu trong đền thờ và bất kỳ ai khác khuyến khích mọi người đến với tôn giáo trong sự sợ hãi.

Trong tình huống cụ thể của con, thày muốn khuyên con những điều sau:

  • Trước tiên, hãy nhìn lại bản thân và đảm bảo rằng con hoàn toàn không bị dính mắc. Nếu cần, hãy sử dụng Bài Nguyện Tha Thứ để vượt qua mọi cảm giác tiêu cực đối với người kia. Sử dụng Bài Nguyện của Archangel Michael (Archangel Michael Rosary) để bảo vệ bản thân khỏi mọi tà lực đen tối có thể khiến con có cảm xúc tiêu cực hoặc cảm thấy mình là nạn nhân.
  • Khi con nhận thức được khía cạnh tâm linh của cuộc sống, con có một cơ hội đặc biệt để giải quyết tình huống bằng cách sử dụng các công cụ tâm linh mà chúng tôi cung cấp trên trang mạng. Ví dụ: thày khuyên con nên đọc Bài Nguyện đại thiên thần Michael và đặc biệt kêu gọi  Thày Michael trói lại tất cả các phàm linh đen tối đang sử dụng người kia và khiến người đó có những hành vi không yêu thương. Con cũng nên kêu gọi Thày trói lại những lực chống lại cái Ta cao của người đó, khiến y không thấy được hành vi của mình là sai. Con cũng có thể sử dụng bài Thỉnh Mẹ Mary hoặc các bài chú của Ngọn lửa Tím để tiêu trừ tất cả nghiệp chướng mà con có thể có với người đó. Hãy để thày giúp con đồng đo lường với thày. Nếu con cảm thấy bất kỳ cảm giác tiêu cực nào đối với người kia, thì con có thể có một số tắc nghẽn trong tâm lý của chính mình hoặc con đã có nghiệp quả với người kia từ những kiếp trước. Do đó, con phải cực kỳ thận trọng chờ con giải quyết xong các tắc nghẽn này trước khi con đi xa hơn.
  • Khi con đã đạt được sự không dính mắc, hãy nhẹ nhàng nhưng quả quyết cho người kia biết rằng con coi hành vi của họ là không thể chấp nhận được và con muốn hành vi đó dừng lại. Nếu người đó phản ứng tích cực và có vẻ thực sự sẵn sàng dừng hành vi đó, điều này có thể là đủ. Nếu người đó có vẻ không thành thật hoặc phản ứng tiêu cực, hãy bình tĩnh nói với người đó rằng con sẽ thông báo cho bộ phận có thẩm quyền về chuyện này trong công ty của con và nếu cần sẽ nộp đơn kiện về hành vi sách nhiễu tình dục.
  • Sau khi con đã nói chuyện với người đó, hãy đến gặp người thích hợp trong công ty của con và thông báo cho họ biết về tình hình mà không cần nộp đơn khiếu nại chính thức. Đơn giản là con cho họ cơ hội phát triển bằng cách để họ quyết định ứng phó với tình huống theo cách mà họ thấy phù hợp. Con cho họ biết rằng con đã nói chuyện với người đó và yêu cầu hành vi dừng lại, và nếu hành vi này dừng lại, thì con không muốn có biện pháp gì thêm nữa. Tuy nhiên, hãy cho họ cơ hội có biện pháp nếu người sách nhiễu con cũng đã làm như vậy với người khác.
  • Nếu hành vi không dừng lại, hãy quay lại với bộ phận có thẩm quyền trong công ty của con và nộp đơn khiếu nại chính thức. Yêu cầu họ đảm bảo rằng hành vi này không tiếp tục.
  • Nếu bộ phận thẩm quyền của công ty con không làm gì để ngăn chặn hành vi có vấn đề, thì hãy quay lại với họ và nói rằng trừ phi hành vi đó dừng lại, con sẽ nộp đơn kiện.
  • Nếu công ty của con vẫn không làm gì để ngưng hành vi đó, thì lúc đó và chỉ lúc đó, con hãy đến tòa án và nộp đơn kiện chính thức chống lại người sách nhiễu con và chống lại công ty đã không làm gì để ngăn chặn hành vi đó.
  • Con có thể điều chỉnh cách giải quyết dần dần từng bước này cho hầu hết các tình huống khác. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng trong bất kỳ tình huống nào liên quan đến người khác, con phải luôn tôn trọng quyền tự quyết của họ. Do đó, con phải làm những gì đúng, theo sự hiểu biết tốt nhất của con, và sau đó con không vướng mắc đến kết quả của hành động. Nếu mọi người không phản ứng như con chờ đợi, con đừng rơi vào cảm xúc tiêu cực. Thay vào đó, con hãy sử dụng các công cụ tâm linh để kêu gọi sự bảo vệ cho họ và kêu gọi cho tâm họ ngộ ra. Nếu họ không thay đổi, hãy kêu gọi sự phán xét của Thượng đế.

Nếu vẫn không có gì thay đổi, hãy giữ nguyên thái độ không dính mắc. Trong một số trường hợp, con người từ chối mọi lời kêu gọi thay đổi, nhưng khi con đã có hành động thích hợp để cho họ cơ hội thay đổi, sẽ đến lúc con đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với họ. Sau đó, con có thể cảm thấy đã đến lúc con phải tiếp tục bước tới trước. Khi điều đó xảy ra, con chỉ cần buông bỏ  hoàn cảnh này hoặc bỏ lại phía sau tất cả các chấp trước dính vào tình huống này hoặc chấp trước mong muốn một kết quả nào đó.

Nếu con có thể giữ cho mình không bị dính mắc, con sẽ luôn phát triển từ hoàn cảnh sống, và nếu con phát triển, kinh nghiệm của con về hoàn cảnh sẽ cải thiện, ngay cả khi hoàn cảnh bên ngoài không thay đổi. Tuy nhiên, khi con thay đổi, con thường sẽ thấy rằng các tình huống bên ngoài tự giải quyết và con thấy mình đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn trước.

Con có thể thấy rằng bằng cách giải quyết dần dần từng bước này, con cho tất cả những người có liên hệ được cơ hội tối đa để phát triển từ hoàn cảnh đó mà không rơi vào bẫy phản ứng bằng sự tức giận hoặc tìm cách trả thù.Trước hết, con cho mình cơ hội phát triển từ hoàn cảnh này thay vì cho phép mình trở thành nạn nhân hoặc tìm cách trả thù. Bất cứ khi nào con cảm thấy dính mắc muốn đạt một kết quả cụ thể trong môt tình huống, con biết rằng con đã gặp phải một trong những chỗ tắc nghẽn trên con đường đi tới quả vị Ki-tô cá nhân của con. Do đó, hãy tận dụng cơ hội để loại bỏ khối tắc nghẽn đó và thực hiện một bước nhảy vọt vĩ đại để trở thành con người thật của con, thay vì cho phép Hoàng tử của thế gian này quy định con là ai thông qua sự tấn công của những kẻ yếu đuối.

Thày xin nói lại rằng chìa khóa của quả vị Ki-tô cá nhân là đáp ứng mọi tình huống bằng tình yêu thương. Và chìa khóa để đáp ứng bằng tình thương là nhận ra rằng tình thương có hai khía cạnh. Một là khía cạnh Mẹ trao quyền cho con để con chìa má bên kia và không bị dính mắc. Khía cạnh kia là khía cạnh Cha cho phép con hành động giống như Đấng Ki-tô, (trái ngược với hành động của con người theo quan điểm nhị nguyên), để ngưng tình huống hà hiếp và ngăn nó leo thang thành một vòng xoáy đi xuống cho tất cả những người liên hệ.

Thày thực sự đã đưa ra lời dạy này cách đây 2000 năm, nhưng nó không bao giờ được các tác giả Phúc Âm ghi lại đầy đủ vì họ không hoàn toàn hiểu lời dạy. Và một số đoạn được ghi lại trong thánh thư gốc kể từ đó đã bị bóp méo hoặc bị chỉnh sửa vứt đi, khiến người Cơ đốc ngày nay có cái nhìn một chiều về những lời dạy của thày về tình thương thiêng liêng. Do đó, rất nhiều người Cơ đốc có cách đối phó thụ động với cuộc sống và tin rằng họ nên chìa má bên kia và cho phép tình trạng hà hiếp tiếp tục. Mặt khác, nhiều người phản ứng với những tình huống như vậy với sự tức giận, thay vì hiểu rằng muốn thực sự chìa má bên kia, con phải không dính mắc để Hoàng tử của thế gian này không tìm thấy gì trong con để ảnh hưởng con.

 Thày biết rằng đáp ứng trước mọi tình huống bằng tình yêu thương là một sự cân bằng tế nhị và là một thách thức lớn đối với những người lớn lên trong thế giới phân cực ngày nay. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội tuyệt vời để phát triển vì nó cho phép con biến mọi tình huống thành những viên đá lót trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô cá nhân của con.

Ki-tô và Phật

Hỏi: Con biết là Giê-su hiện thân cho nguyên lý Ki-tô và con cũng biết là thày mong muốn mọi người nối kết với đấng Ki-tô trong chính mình. Con xin hỏi có phải thày đang nói là chúng con không thể tìm Phật? Theo những gì con hiểu, cả Ki-tô lẫn Phật đều thuộc về tia sáng thứ hai của Tình thương và Trí tuệ. Tình thương do Ki-tô biểu tượng và Trí tuệ do Phật biểu tượng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có mâu thuẫn hay sự cạnh trạnh nào giữa hai con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, những dòng sống khác nhau sẽ cần những phương tiện, những cỗ xe khác nhau, và do đó một tôn giáo duy nhất không thích hợp cho mọi người. 

Con đường của Phật thường thích hợp hơn cho người phương Đông, còn đường của Ki-tô thích hợp hơn cho người phương Tây. Có thể nói là tâm thức Ki-tô chỉ đơn giản là những giai đoạn giác ngộ tiên khởi hơn, và vì vậy, quả vị Phật là một dạng tâm thức cao hơn quả vị Ki-tô, hay một giai đoạn cao hơn quả vị Ki-tô.

Khi con đạt đến tâm Ki-tô, con nhận ra rằng con là một với nguồn cội của con (Thượng đế) và qua đó con có được tánh phân biện giữa những gì thuộc về Thượng đế và những gì không thuộc về Thượng đế. Con nhìn thấy rõ ràng là rất nhiều biểu hiện trong thế gian đi ngược lại quy luật của Thượng đế cũng như ý định của ngài cho vũ trụ này. Cho nên con nhìn thấy tính không thực của tất cả mọi điều phản-Ki-tô, và nhiệm vụ của con là giải phóng các dòng sống khỏi ảo tưởng của phản-Ki-tô.

Khi con đạt đến quả vị Phật, con nhận ra rằng tất cả đều là Phật tánh, có nghĩa là tất cả đều được tạo bằng bản chất của Thượng đế. Những biểu hiện của thế gian này chỉ đơn giản là ảo ảnh, là Maya. Chúng có thể hiện ra như là tách biệt, hay đối lập lại Thượng đế, nhưng chúng chỉ đơn giản là bản chất cuả Thượng đế đã khoác lấy một lớp ngụy trang tạm thời, thoáng vụt qua. Cho nên con xác nhận thực tại của Thượng đế đằng sau mọi dáng vẻ bề ngoài.

Cả đức Phật lẫn ta đều là những vị thày tâm linh và chúng tôi thuộc cùng một êkíp. Đức Phật đã được các chân sư thăng thiên phái xuống để truyền dạy các pháp về quả vị Phật, nhưng tiếc thay, không mấy người có khả năng nắm được giáo lý của thày. Vì vậy mà ta đã được phái xuống để bắc một nhịp cầu hầu giúp con người bước sang bến giác ngộ. Đối với hầu hết mọi người, việc hiện thân các giáo lý của Ki-tô sẽ dễ hơn giáo lý của Phật, với điều kiện là họ hiều được giáo lý đích thực của Ki-tô chứ không phải cái phiên bản đã bị pha loãng, chứa đầy xương người chết, do đạo Cơ đốc chính thống cống hiến.

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây truyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sông có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Chuyện gì xảy ra khi người khủng bố chết?

Hỏi: Chuyện gì xảy ra cho người khủng bố khi anh chết? Anh có phải trả qua cái chết lần thứ nhì hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Điều gì xảy ra cho một người đã có một hành vi tàn bạo sẽ tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của người đó. Và với điều này, ý thày không phải là trạng thái tâm thức mà người đó có vào thời điểm anh ta làm hành vi tàn bạo, mà là trạng thái tâm thức lâu dài của anh, tình trạng tâm thức nói chung của dòng sống đó, sự phát triển tâm linh của anh ta ở mức nào.

Thày mong con nhận ra rằng khái niệm về cái chết thứ hai không gắn liền với một hành động như vậy. Cái chết thứ hai xảy ra khi một dòng sống đã có đủ thời gian trong vũ trụ vật chất. Lượng thời gian này không phải là tuyệt đối vì nó không giống nhau đối với mọi dòng sống. Nó tùy thuộc vào mức độ tâm linh mà dòng sống đạt được trước khi nó sa ngã. Điều đó sẽ xác định khoảng thời gian dòng sống đó được quyền sống trước khi nó bắt buộc phải quay trở lại con đường đi lên. Vì vậy, khi một dòng sống đã được cho một thời gian nhất định để sống, nó có quyền tự do làm bất cứ điều gì nó muốn trên trái đất. Và mặc dù dòng sống làm một hành động tàn bạo nào đó, không có nghĩa là nó phải chịu ngay lập tức cái chết thứ hai hoặc sự phán xét cuối cùng sau kiếp sống đó.

Nếu dòng sống còn thời gian, nó sẽ phải đối mặt với thực tế tâm linh của hành động của mình, để nó có cơ hội nhìn thấy những hành động đó mà không nhìn thấy chúng qua phin lọc nhận thức mà nó đã có khi còn hiện thân trên trái đất. Vì vậy, nói cách khác, dòng sống có thể nhìn vào các hành động của mình mà không bị mù quáng tâm linh, cái mù quáng đã khiến nó thực hiện những hành động đó. Và do đó, dòng sống có được một cơ hội để vượt lên trên tâm thức đó, thậm chí hy vọng là nó có thể quay đầu và bắt đầu con đường đi lên và vượt ra khỏi bạo lực.

Tuy nhiên, tất nhiên, có một số kẻ khủng bố có hành vi tàn bạo bởi vì họ gần đến thời kỳ cuối cùng của thời gian được đầu thai của họ và họ cảm nhận được điều này trong tiềm thức. Và do đó, họ đã vôi hóa tâm thức và làm chai cứng trái tim của họ đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được. Adolph Hitler là một ví dụ về dòng sống như vậy – y biết rằng thời gian của y sẽ không còn bao lâu nữa và y chai đá đến độ y hoàn toàn không đếm xỉa gì đến kết quả hành động của mình và hoàn toàn quyết tâm làm bất cứ điều gì y muốn,  trong khi y còn hiện thân.

Điều này áp dụng cho một số kẻ khủng bố, nhưng không áp dụng cho đại đa số những người này. Trên thực tế, nhiều người trong số họ thực sự là những dòng sống tâm linh, bị dụ dỗ và dẫn dắt sai lầm vào nếp suy nghĩ trắng đen vốn là nguyên nhân của mọi khủng bố, bạo lực và các hình thức tàn bạo khác. Khi con nhìn vào một hành động, con có thể nói, “Đây là một hành động tà ác” nhưng thày phải nói với con rằng trong hầu hết các trường hợp – trong đại đa số các trường hợp – hành động tà ác không phải do ác nhân thực hiện. Họ làm những điều này bởi vì họ bị lầm lạc trong tâm thức nhị nguyên, tâm thức nhìn mọi chuyện trắng đen, hoặc thậm chí trong một số trường hợp bởi tâm thức xám, tư duy xám. Và do đó họ không nhìn thấy được thực tế của hành động của họ và hậu quả của các hành động này.

Điều thường xảy ra với những kẻ khủng bố là họ được cơ hội gặp nạn nhân của mình. Ví dụ, những kẻ khủng bố lái máy bay vào các tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới đã thực sự có cơ hội gặp gỡ hầu hết các dòng sống đã ra đi, hầu hết các dòng sống đã thiệt mạng trong vụ việc đó. Và hai bên đã có cơ hội để làm công việc chuyển hóa tâm đưa tới sự hiểu biết lẫn nhau, để họ có cơ hội hiểu nhau và từ đó vượt lên trên những khác biệt bên ngoài của họ và tha thứ cho nhau.

Giờ đây, trong nhiều trường hợp, một số dòng sống không thể thực sự thừa nhận toàn bộ kết quả của những gì họ đã làm. Họ quá sốc khi nhận ra rằng họ đã thực sự giết rất nhiều người, đến nỗi thậm chí họ không thể nhìn vào sự thật mà phải chạy trốn khỏi thực tế của những gì họ đã làm. Nếu nhìn vào sự thật, họ sẽ bị hủy diệt về mặt tình cảm, hoặc ít nhất là  họ tưởng rằng nó sẽ xảy ra như thế.

Và vì vậy không phải tất cả đều có thể sử dụng một cơ hội như vậy. Nhưng thày phải nói với con rằng trong cõi tâm linh đã có một sự hòa giải rất lớn giữa nạn nhân và thủ phạm của vụ việc 11/9. Và thực sự sẽ vô cùng hữu ích cho tâm thức của hành tinh được phát triển đi lên nếu những người có thành viên gia đình hoặc bạn bè đã chết trong sự cố này cũng nỗ lực tha thứ và thông cảm, để họ có thể xóa những hồ sơ vẫn còn đó. Vì thày có thể đảm bảo với con rằng hầu hết những người thực sự bị giết đã nâng cao tâm lên để tha thứ, đã thấy rằng họ tha thứ thì tốt hơn cho trái đất, tốt hơn cho lý tưởng đánh bại chủ nghĩa khủng bố. Bởi vì nếu họ ôm chặt những tổn thương và vết thương, họ chỉ đẩy mạnh thêm cuộc đấu tranh nhị nguyên vốn là nguyên nhân thực sự của chủ nghĩa khủng bố.

Vì, như thày đã giải thích trong các bài phát biểu của thày về cuộc chiến tranh Iraq và trong các bình luận của thày về ngày 11/9, chính cuộc đấu tranh mang tính nhị nguyên đã dẫn đến sự kiện này. Và thế là những người bị dính mắc ở cả hai phía đều bị kẹt. Có thể nói, tất cả đều là nạn nhân của tâm thức nhị nguyên. Và những người vẫn đang chiến đấu trong trận chiến ngày hôm nay cũng là nạn nhân. Và cách duy nhất để thực sự phá vỡ chu kỳ đó là những người ở phương Tây – những người sống ở các quốc gia có tâm thức tiến xa hơn các quốc gia ở Trung Đông – cần vượt lên trên những tổn thương và quyết định tha thứ để họ tước đi quyền lực khỏi tay các thế lực nhị nguyên và cuộc đấu tranh nhị nguyên.

Phục sinh là câu chuyện của mỗi người

Hỏi: Thày có điều gì muốn chúng con biết về ngày Phục sinh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu chuyện Phục sinh là một câu chuyện thật phong phú, thâm sâu, và do đó nó có thể hiểu nhiều cách – mỗi cách hiểu đều có giá trị vì nó mở ra một khía cạnh đặc thù về toàn chuyện. Tuy nhiên, có một góc cạnh đặc biệt mà ta muốn trình bày để các con suy ngẫm.

Một trong những thông điệp chính mà ta mong muốn truyền đạt qua trang mạng là ta không bao giờ muốn được nâng lên thành một thần tượng đứng tách biệt khỏi phần còn lại của nhân loại trên hành tinh. Ta không là một kẻ muốn được tâng bốc, thế nhưng nhiều tín đồ Cơ đốc lại cứ nhất định lấy nguyên văn câu chuyện trong Kinh thánh, thậm chí còn thêu dệt thêm để biến ta thành một Thượng đế hay một đấng Cứu thế. Ta không bao giờ muốn có ai xem ta là một đấng phi thường, vượt hẳn người đời, đến độ không ai có thể với tới được ta hoặc bước chân theo ta.

Do đó, thông điệp mà ta muốn mọi người với tâm rộng mở thấu hiểu về câu chuyện Phục sinh là câu chuyện này không phải là về một người. Đây không phải là câu chuyện của riêng ta, mà thực sự là câu chuyện của mỗi người, mỗi dòng sống, nhằm minh họa cho con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo. Ta hiểu là nhiều tín đồ Cơ đốc đã lớn lên với một hình ảnh thần tượng hóa về Giê-su Ki-tô, và họ cảm thấy rất khó khăn thoát khỏi thành kiến tôn thờ này. Vì thế họ cứ khăng khăng cho ta là một đấng độc nhất vô nhị đứng cao hơn mọi người, vượt trội lên trên bất kỳ ai khác đã từng bước chân trên hành tinh này.

Tất nhiên ta là một người độc nhất, và ta cũng đến đây với một sứ vụ tâm linh độc nhất, nhưng phần lớn sứ vụ này là để đem lại một giáo huấn tâm linh rộng khắp về tiềm năng tâm linh của mỗi dòng sống trên địa cầu – bởi vì thực sự mỗi người là một con người độc nhất dưới mắt Thượng đế. Không những ta đã giảng dạy giáo huấn đó qua lời nói, mà trên hết ta đã thể hiện giáo huấn qua chính cuộc đời của ta. Vì vậy, mỗi khía cạnh của đời ta là sự minh họa cho một khía cạnh của giáo lý nội tâm phổ quát mà ta đã đến đây để truyền bá cho địa cầu, và câu chuyện Phục sinh cũng không đi ra ngoài điểm chung này. Nói cách khác, Phục sinh là câu chuyện nói lên con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo để đạt được quả vị Ki-tô, thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh. Câu chuyện Phục sinh biểu tượng cho giai đoạn sau cùng trong cuộc hành trình đó của dòng sống.  

Câu chuyện Phục sinh có thể chia thành ba yếu tố chính. Yếu tố đầu là khi ta bước vào thành Jerusalem nơi ta được dân chúng chào đón nồng nhiệt như một vị vua. Chúng ta có thể ví sự việc này như sự ra đời của mọi đứa trẻ, bởi vì hầu hết trẻ sơ sinh đều được cha mẹ và gia đình của em đón mừng như một người thật đặc biệt – và quả thật mỗi em nhỏ đều là đặc biệt.

Giai đoạn thứ hai của câu chuyện Phục sinh là những gì xảy ra giữa thời điểm ta bước vào Jerusalem cho tới ngày ta phục sinh, biểu tượng cho giai đoạn dòng sống bắt đầu khôn lớn. Con sẽ nhận xét thấy lý do mọi người chào đón ta vào Jerusalem là vì ai nấy đều có một hình ảnh nào đó về ta. Họ có những kỳ vọng nhất định rằng ta là vị vua sẽ giải thoát họ khỏi người La Mã, và họ muốn ta phải đáp ứng được nguyện vọng đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau thì nhiều người bắt đầu hiểu ra là ta sẽ không thỏa mãn kỳ vọng này. Con để ý xem họ đã quay mặt tấn công ta nhanh chóng như thế nào khi họ nhận ra là ta sẽ không bị ràng buộc trong những kỳ vọng của họ. Chính những người vừa mới hô to “Hosanna” ở cổng thành nay lại là người la hét “Đóng đinh nó!” tại cái gọi là toà án xử tội ta.

Phần này là câu chuyện mà dòng sống trải qua khi lớn lên, bắt đầu khám phá và biểu hiện cá thể của mình. Sự chọn lựa mà mỗi dòng sống phải đối mặt là liệu mình sẽ chiều theo những kỳ vọng của thế gian, kể cả của cha mẹ, gia đình và xã hội, hay là mình sẽ phát triển và thể hiện sắc thái tâm linh độc đáo của mình và hoàn thành sứ vụ tâm linh của mình.  

Ta không có ý nói là mọi dòng sống đều ở cùng mức trưởng thành tâm linh hay có cùng sứ vụ tâm linh. Nếu con đọc bài giảng của ta về các giai đoạn phát triển tâm linh, con sẽ thấy một số dòng sống sẽ chưa sẵn sàng đi trọn hành trình tâm linh vì họ còn cần chữa lành hay giải quyết một số vấn đề tâm lý. Cho nên nếu họ có sống một cuộc đời không mấy tâm linh, hoặc nếu họ không thách đố các kỳ vọng của xã hội, thì điều này cũng hoàn toàn chấp nhận được.   

Tuy nhiên, đối với các dòng sống già dặn hơn, sẽ tới một điểm khi con phải đối diện với sự chọn lựa là liệu con có chối bỏ cá thể chân thực và sứ vụ tâm linh của mình để chiều theo kỳ vọng của xã hội. Cuộc đời của ta là để minh họa cho điểm trưởng thành mà con đạt đến khi con cần phải chân thật với con người thực của con, cần phải hoàn thành sứ vụ của con cho dù thế giới có phản ứng dữ dội thế nào đi nữa đối với con. Câu chuyện của ta nhằm khơi dậy nơi mỗi người lòng can đảm vượt qua bất kỳ sự khủng bố nào từ thế gian, thậm chí đi tới cùng và chấp nhận cho thế gian giết hại thân xác mình nếu thế gian thật sự muốn thế.   

Rất may mắn là hành tinh nay đã chuyển sang một giai đọan văn minh hơn vậy, và tại nhiều nơi trên thế giới, khó lòng nào con có thể bị người ta giết hại vì con đã thể hiện cá thể tâm linh của con hay đã đeo đuổi sứ mệnh tâm linh của con. Dù sao đi nữa, con vẫn có thể phải nhận chịu nhiều sự trấn áp, như con thấy đã xảy ra trong những phản ứng tiêu cực đối với trang mạng này. Và thật sự, một số những trấn áp đó lại đến từ những người tự xem mình là những tín hữu ngoan đạo của Ki-tô giáo.   

Điểm quan trọng trong câu chuyện Phục sinh không phải là sự kiện ta đã bị ám hại. Điểm quan trọng là ta đã sẵn sàng để cho thế giới giết ta nếu thật sự thế giới muốn như vậy. Điều này được diễn tả qua câu ta nói: Ai tìm cách cứu mạng mình thì sẽ mất mạng, và ai sẵn sàng mất sự sống cho ta sẽ tìm thấy sự sống. Ý nghĩa là nếu con khuất phục trước kỳ vọng của thế gian và chối bỏ cá thể tâm linh của con thì con sẽ đánh mất sự sống trong nghĩa tâm linh. Và ngược lại, nếu con chân thực với cá thể và sứ mạng tâm linh của con, thậm chí con sẵn sàng để cho thế gian tước mất mạng sống vật lý của con, thì dòng sống của con sẽ tìm thấy sự sống vĩnh hằng trong tâm thức Ki-tô.

Thực tế là hầu hết những ai dám thể hiện bản sắc chân thực và theo đuổi sứ vụ tâm linh của mình đều sẽ bị thế gian trấn áp. Thậm chí thế gian có thể đóng đinh họ trên thập tự trong nghĩa tâm linh, nghĩa là không phải đóng đinh trên cây thập tự bằng gỗ mà cây thánh giá tâm linh của kỳ vọng con người. Chẳng hạn, nhiều người bị giới truyền thông đóng đinh tâm linh qua những chiến dịch miệt thị hay đả phá danh dự nhằm đưa ra một hình ảnh dối trá về họ, y như trước kia ta từng bị các thày tu trong nhà thờ bôi nhọ.

Điểm chủ yếu là nếu con sẵn sàng để cho thế gian làm bất cứ điều gì nó muốn với con, nhưng song song con không lúc nào phủ nhận bản sắc tâm linh của mình, thì đó là cơ hội cho con trải nghiệm cuộc điểm đạo tâm linh của phục sinh. Trong trường hợp của ta, đây là một cuộc phục sinh thể xác để minh họa cho tiềm năng phục sinh của mỗi con người vào một tâm thức và một bản sắc cao hơn. Đó là aự minh họa rằng dòng sống có khả năng khắc phục cái chết và giành lại sự sống bất tử. Điều mà hầu hết các tín hữu Cơ đốc không hiểu là để giành sự sống vĩnh cửu, dòng sống phải sẵn sàng để cho ý niệm bản sắc vô thường của mình chết đi trên thánh giá.

Ngay cả khi ta bị treo trên cây thập tự, ta vẫn phải đối diện với thử thách là liệu ta có còn bám giữ bất kỳ một mảnh nhỏ nào của ý niệm bản sắc phàm phu, hay là ta đã sẵn sàng buông bỏ hoàn toàn bản sắc đó cho Thượng đế. Cho dù trong phút chốc ta có cảm thấy bị Thượng đế bỏ rơi, nhưng cuối cùng ta đã đầu phục một cách toàn diện cho Thượng đế. Ngay lúc đó, xác thân vật lý cùng bản sắc phàm phu của ta cũng chết đi, và đó là lúc ta vượt qua cuộc điểm đạo tâm linh và giành được phục sinh của mình.

Hiển nhiên, ta không có ý nói rằng mọi người đều phải sống qua cực hình thân xác bị đóng đinh và phải chết trên cây thập tự để có thể phục sinh. Thế nhưng mỗi dòng sống sẽ phải trải qua kinh nghiệm thể hiện bản sắc tâm linh của mình bất kể những khủng bố mà thế gian có thể ném về phía mình. Nếu dòng sống vẫn chân thực với bản sắc tâm linh của mình và sẵn sàng từ bỏ mọi dấu vết của bản sắc phàm phu – tức là nhị nguyên – thì mình sẽ giành được sự phục sinh. Phục sinh có nghĩa là bây giờ dòng sống đã thăng vượt mọi bản sắc phàm phu, đã kết hợp trọn vẹn với bản sắc mới là trở thành đứa con của Thượng đế. Dòng sống đã vượt qua kỳ thi cuối cùng trên địa cầu và đủ tư cách thăng thiên vào cõi tâm linh. Nói cách khác, dòng sống không còn bị ràng buộc vào vòng sinh tử, không còn phải trở lại đầu thai trên trái đất. Dòng sống có thể vĩnh viễn ở lại cõi tâm linh và tiếp tục cuộc hành trình đến những cõi cao hơn nữa.   

Ta có hy vọng rất lớn là những ai đã sẵn sàng về mặt tâm linh, những ai có tai để nghe, sẽ ôm lấy lời dạy nội tâm này về câu chuyện Phục sinh hầu trong trái tim và tâm trí, họ có thể chứng nghiệm một sự phục sinh của các giáo lý tâm truyền của ta. Nói cách khác, điều đầu tiên mà một người có nhận thức tâm linh cần làm là sẵn sàng sống thực với giáo lý tâm truyền của ta, bất kể mọi loại áp bức mà con có thể nhận được từ thế giới, kể cả từ những người đồng đạo của con đang bám chặt lấy giáo điều chính thống.

Nếu con chịu bỏ lại tất cả mọi thần tượng mà con người đã tạo ra về ta và giáo lý của ta, nếu con chịu để cho các thần tượng này chết đi, nếu con chịu để cho bản sắc phàm phu của con do các thần tượng này nặn ra chết đi, thì còn sẽ được phục sinh vào sự chứng ngộ giáo lý tâm truyền của ta. Ngay lúc đó con sẽ thấy – con sẽ biết bằng cái biết nội tâm vượt khỏi mọi ngờ vực – rằng toàn bộ cuộc đời của ta đã vạch ra cho con một con đường mà con cũng có thể đi theo, cho tới khi chính con cũng sẽ chiến thắng và được thượng thăng vào ánh sáng. Một khi con nhận ra đó là con đường đúng đắn, con sẽ có thể cất bước trên đường nhanh hơn bao giờ hết.  

Ta hy vọng những lời dạy tâm truyền của ta sẽ tới được đủ số người mà nội tâm đã sẵn sàng để thể nhập con đường chân truyền dẫn tới phục sinh và thăng thiên. Đây quả thật là mục đích chủ yếu đằng sau các biến cố nguyên thủy của ngày Phuc sinh, và cũng là một trong các mục tiêu chính ta đã mở ra trang mạng của ta. Ước sao các giáo lý chân truyền của ta được phục sinh trong tim con, ước sao dòng sống của con được phục sinh và bước theo chân ta cho tới khi ta được mừng đón con bước vào vương quốc của Cha chúng ta.    

Sự đổi mới của tất cả mọi tôn giáo

Hỏi 1: Giê-su kính yêu, sau 2000 năm thày đến để cải tổ đạo Cơ đốc đã hiểu lầm những lời dạy của thày, để làm sáng tỏ những mối liên kết còn thiếu sót trong giáo lý cũng như để giải thích tinh túy của giáo lý của thày. Liệu chúng con có thể mong đợi sự xuất hiện sớm sủa của Đại thiên thần Gabriel, là đấng đã tiết lộ kinh Qur’an, trên một trang mạng tương tự như trang mạng của thày để làm sáng tỏ những thiên khải cho Muhammad? Con nghĩ những lời giải thích và sáng tỏ này ngày nay đã trở thành vô cùng cấp thiết cho phúc lợi của các tín đồ Hồi giáo, y như lời giải thích của thày đối với các tín đồ Cơ đốc giáo.   

Hỏi 2: Con thật phấn khích khi nghĩ đến bao nhiêu thay đổi lớn lao đã xảy ra, như trang mạng và sách vở của Kim Michaels đã đến với mọi người khắp thế giới. Những lời dạy chân chính của thày thực sự đã là một phúc lành cho hành tinh này. Con tự hỏi liệu có một số công cuộc tương tự cũng đang diễn ra, hay sẽ diễn ra trong tương lai, để đem lại những giáo lý chân truyền mà các tôn giáo khác hơn là Cơ đốc giáo chưa biết đến rộng rãi. Chẳng hạn, liệu các bậc như đức Phật Gautama, Khổng Tử, Lão Tử, Mohammed, Zarathustra và Krishna có đang thực hiện những điều tương tự như thày hầu nâng cao tâm thức các tín đồ của các tôn giáo lớn? Thật là vui mừng biết bao khi nghĩ đến một sự thức tỉnh rộng khắp thế giới bao gồm mọi tôn giáo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta có thể cam kết với con là các chân sư thăng thiên vô cùng mong muốn đổi mới tất cả mọi tôn giáo trên địa cầu. Tuy nhiên, mục tiêu rộng lớn của các chân sư là đưa ra cho mọi người thấy được rằng, vượt lên trên mọi tôn giáo công truyền, là một tôn giáo tâm truyền, phổ quát toàn vũ. Tôn giáo này không thể bị giam hãm trong một giáo hội hay một giáo điều nhất định. Nó phổ quát chính là vì nó vượt ra ngoài bất kỳ cách biểu hiện nào về bản chất của nó. Con có thể dùng một cái hộp nào đó để làm bực thang vươn tới tôn giáo phổ quát, nhưng con không thể giam tôn giáo phổ quát trong một cái hộp nhất định.

Công việc đổi mới các tôn giáo của nhân loại đang trên đà tiến hành. Quả là có nhiều người hiện đang phụng sự để làm công cụ hay sứ giả cho sự đổi mới này bằng nhiều phương cách và trong nhiều tư cách khác nhau. Các chân sư mong muốn tất cả mọi tôn giáo truyền thống được đổi mới qua tiến trình tiết lộ tuần tự. Tuy nhiên, để điều này có thể xảy ra, có hai điều kiện cần hội đủ:

  • Phải tìm ra một hay nhiều người sứ giả thích hợp. Chẳng hạn, để ban ra những tiết lộ tuần tự hầu đổi mới đạo Hồi, các chân sư phải có một sứ giả hiểu biết đạo Hồi, là người tận tụy sâu xa với đạo Hồi nhưng đồng thời cũng đón nhận sự đổi mới đạo mình. Nói cách khác, người làm sứ giả không được vướng mắc vào một khía cạnh nào đó của đạo mình và không thể có động lực muốn đạo của mình trở thành tôn giáo chiếm ưu thế hay tôn giáo độc tôn. Người sứ giả cũng phải có tâm thức thực sự phổ quát, nghĩa là đã đạt được một mức độ then chốt trong tâm Ki-tô.
  • Để các chân sư có thể đỡ đầu cho một sứ giả đứng ra đổi mới một tôn giáo nào đó, thì phải có đủ túc số những tín đồ của tôn giáo này đạt tới một trạng thái tâm thức khiến họ sẵn sàng nhìn xa hơn tôn giáo vỏ ngoài, hay giáo điều vỏ ngoài, hầu nắm lấy tôn giáo phổ quát nằm đằng sau tín ngưỡng của họ. 

Rất có thể các chân sư sẽ khởi sự đưa ra các tiết lộ tuần tự cho các tôn giáo khác. Không nhất thiết là dưới hình thức một trang mạng tương tự như trang này, bởi vì trang này thật sự chỉ là một thử nghiệm. Những gì có thể hoặc sẽ xảy ra cho trang mạng này tùy thuộc phần lớn vào sự đón nhận của những người tìm thấy nó. Cho tới nay thì hầu hết những ai cởi mở với trang mạng này đều thuộc thành phần đã sẵn cởi mở với tôn giáo toàn vũ mà ta vừa đề cập. 

Đa số các tín đồ Cơ đốc thuộc các giáo hội chính thống hay chính mạch đã không sẵn sàng xem kỹ trang mạng này và nhìn xa hơn những giáo điều cố hữu của mình. Họ đã không sẵn lòng cho ta – Giê-su Ki-tô hằng sống – cơ hội để ta nói cho họ những điều đi xa hơn các giáo điều của giáo hội “giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và mọi điều dơ bẩn” (Matthew 23:27).

Lý do ta đã có thể có trang mạng riêng là vì ta có một vị sứ giả, và thật sự cũng có đủ túc số những người ở các nước Tây phương đã từng lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo nhưng lại sẵn lòng nhìn xa hơn và cố vươn tới một giáo lý tâm linh phổ quát hơn, như có đăng tải ở nhiều nơi. Ta chỉ có thể ngợi khen tất cả những vị đó đã giúp ta tìm lại tiếng nói trong thời đại hôm nay. Ta sẽ mãi mãi biết ơn sự yêu thương cùng sự cởi mở trong trái tim và tâm trí các con.  

Hiển nhiên, trang mạng của ta được ra đời qua một vị sứ giả đặc thù. Tuy nhiên  chính trái tim và tâm trí của những người cởi mở với giáo lý trên trang mạng của ta đã cho ta cánh cửa mở để biểu đạt ra ngoài. Hãy tìm thì con sẽ thấy – có nghĩa là cho tới khi có đủ số người tìm kiếm thì các chân sư không thể ban ra  giáo lý mới.

Cho nên có thể nói rằng tiềm năng đổi mới tôn giáo chỉ bị giới hạn bởi trí tưởng tượng và sự sẵn lòng của những ai tham gia vào sứ mạng. Riêng các chân sư thăng thiên thì luôn sẵn lòng đáp ứng và sinh sôi mỗi cơ hội mà các anh chị em chưa thăng thiên trao cho chúng tôi. Tuy nhiên, chỉ khi nào các con nắm lấy những gì chúng tôi trao cho các con rồi sinh sôi khả năng của mình – thay vì đem chôn xuống dưới đất của giáo điều truyền thống – thì chúng tôi mới có thể truyền dạy những giáo lý cao hơn. Ta cam đoan với các con là có rất nhiều giáo lý mà chúng tôi mong muốn phổ biến, và nếu có sự đón nhận tích cực thì các con sẽ thấy những thay đổi lớn lao trong đời sống tôn giáo trên hành tinh này.    

Bùa phép và bùa chú

Hỏi: Thày Giê-su nghĩ gì về những nhóm tôn giáo và tâm linh sử dụng bùa phép và bùa chú?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một trong những lời dạy chủ chốt của ta là, “Trước tiên hãy tìm vương quốc của Thượng đế và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.” Tầm quan trọng của câu này nằm ở chỗ vương quốc của Thượng đế là một biểu tượng cho tâm thức Ki-tô. Khi con kết hợp ý nghĩa đó với câu, “Ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ được sự sống,” con nhận ra là chìa khóa để thể hiện tâm thức Ki-tô là sự buông bỏ mọi dính mắc, thèm khát cùng mọi ham muốn những đồ vật của thế gian.

Con cũng nhận ra là khi con đạt được tâm thức Ki-tô, những điều thực sự quan trọng sẽ được Thượng đế bồi thêm cho con, hay nói cách khác, những hoàn cảnh vỏ ngoài trong đời con sẽ phản ánh một cách tự nhiên mục đích tâm linh của con khi con hiện thân trong kiếp này.

Khi con thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc tìm kiếm tâm thức Ki-tô và thể hiện trọn vẹn sự buông bỏ mọi đồ vật thế gian, thì con cũng nhận ra sự vô ích hão huyền của việc sử dụng bùa phép để đạt được những thứ con muốn có trong thế gian. Điều nguy hiểm trong ma thuật đó là nếu con còn mảy may dính mắc nào đối với đồ vật của thế gian, thì con hầu như không thể tránh được xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Điều này sẽ bắt buộc vi phạm Luật Tự quyết – và như ta đã khẳng định rất nhiều lần trên trang mạng này – là định luật căn bản nhất của vũ trụ này. Nó quan trọng đến độ khi con xâm phạm quyền tự quyết của người khác thì con cũng phải gánh chịu nghiệp quả nặng nhất mà con có thể tạo ra.  

Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo tất cả mọi người hãy tìm kiếm tâm thức Ki-tô thay vì tìm cách sử dụng bùa ngải, bùa phép hay bất kỳ hình thức ma thuật nào, cho dù đó là ma thuật đen hay ma thuật trắng, để đạt được những thứ mà con muốn. Khi con chứng ngộ tâm thức Ki-tô, con sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của một người khác. Nhưng cho đến khi con chứng ngộ tâm thực Ki-tô thì con sẽ rất dễ rơi vào sự vi phạm quyền tự quyết của người khác và khi đó con sẽ gây ra nghiệp chướng vô cùng nghiêm trọng.

Thắng cái ác qua sự không dính mắc

Hỏi: Xin thày nói về vai trò của sự không dính mắc trong quan hệ với cái ác.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không dính mắc, hay vô chấp, là một khái niệm mà lý trí phàm nhân không thể hiểu được. Đó là một khái niệm vượt khỏi lối suy nghĩ đường thẳng và tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được ích lợi rất nhiều nếu hiểu ra là có nhiều khái niệm tâm linh thật sự không thể nào diễn đạt bằng lời. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng, có thể được diễn giải bằng nhiều cách – hay bị hiểu lầm – bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm được hoàn toàn – nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng các giáo lý vỏ ngoài vỏn vẹn như một bàn đạp để chứng nghiệm sự thật bên trong qua trực giác. 

Điều này có nghĩa là khi chúng tôi, các chân sư, giảng dạy một giáo lý tâm linh, như giáo lý ta giảng dạy 2000 năm về trước, chúng tôi không bao giờ có ý định đưa ra một lời dạy toàn hảo, bất khả ngộ về sự thật. Chúng tôi biết rõ là không có lời dạy nào diễn đạt bằng ngôn từ mà có thể là sự trình bày trọn vẹn của sự thật. Sự thật không thể diễn tả qua lời nói. Sự thật chỉ có thể được chiêm nghiệm và thể nhập. Có thể nói rằng con không thể biết hay hiểu được sự thật mà chỉ có thể trở thành sự thật mà thôi. Chẳng hạn như câu: “Giê-su nói với người ấy rằng: Ta là con đường, sự thật và sự sống; không ai đến với Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta đang trình bày. Bao nhiêu tín hữu đạo Cơ đốc bị kẹt trong tâm nhị nguyên đã diễn giải là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Ki-tô, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Nhưng ý nghĩa thực sự là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm nhị nguyên đường thẳng – là cách duy nhất để biết Thượng đế và sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết sự thật bằng cách hợp nhất với sự thật và trở thành chính tâm Ki-tô. Không một người nào có thể đến với Cha trừ khi mình hợp nhất với cái ta Ki-tô của mình.    

Bằng cách kết hợp với cái ta Ki-tô của con, con sẽ dần dần hết dính mắc vào những thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kiềm chế những ham muốn của con đối với các đồ vật thế gian, mà sẽ xảy ra vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn những thú vui vật chất. Rồi con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của Tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Nếu con so sánh điều này với một bài giảng mới đây của ta về cách đối phó với cái ác, con có thể thấy được một sự thật sâu sắc. Suốt các thời đại, biết bao người tầm đạo đã tin rằng thế giới là chiến trường cho cuộc giao tranh vĩ đại giữa hai lực lượng thiện và ác. Họ thường tin rằng mục đích của đường tu tâm linh là làm thế nào đánh bại cái ác bằng cách sử đụng vũ lực tâm linh, và thậm chí cả vũ khí của thế giới vật chất. Hay họ tin rằng bằng cách chối bỏ những thứ của thế gian, họ sẽ tự động mở cửa ra Tánh linh.

Kỳ thực, chìa khóa tối hậu – chìa khóa duy nhất – để chiến thắng cái ác là không dính mắc. Con không đánh nhau với cái ác. Con chỉ đơn giản bước xa ra. Con trở thành hoàn toàn không dính mắc với mọi biểu hiện của cái ác – kể cả ý tưởng là con phải đánh bại cái ác. Dù ông hoàng của thế gian có ném vào con bất cứ gì, con cũng từ chối không tham gia vào trò chơi của y. Con từ chối nhập vào cuộc chơi và như vậy con đứng ngoài cuộc đấu tranh cuồng đại giữa thiện và ác. Đó là vì sao ta đã nói: “”Nhưng ta nói cùng các người rằng: Đừng cưỡng chống kẻ ác, nhưng nếu có ai tát vào má phải của người, hãy đưa má bên kia cho họ luôn.” (Matthew 5:39)

Nhưng con hãy lưu ý, không dính mắc với điều ác không có nghĩa là con nhắm mắt trước điều ác. Nó có nghĩa là con thăng vượt điều ác và giúp người khác cũng làm tương tự. Nói cách khác, thay vì giao chiến với nó bằng vũ lực vật chất, con chiến đấu bằng sức mạnh tâm linh, có nghĩa là con chuyển hóa nó thành ánh sáng. Điều ta muốn nói là mặc dù cuộc giao tranh cuồng đại giữa thiện và ác có thực, giao tranh này chỉ diễn ra trong tâm của những con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên.  

Hay nói cách khác, chính ý thức đấu tranh mới tạo ra và duy trì cuộc đấu tranh. Và nguồn gốc của ý thức đấu tranh là sự đính mắc vào những thứ của thế gian. Khi con biểu hiện tính không bám mắc, con vươn lên khỏi cuộc giao chiến giữa hai thế lưc nhị nguyên của thế giới. Con không còn quan tâm là thiện hay ác sẽ thắng bởi vì con muốn Thượng đế thắng. Con ngộ ra là Thượng đế vượt khỏi cái thiện và cái ác do tâm nhị nguyên định nghĩa.

Ghi nhận cái ác mà không tăng cường cái ác

Hỏi: Giê-su, có thật là chúng ta thu hút những gì chúng ta cảm thấy hoặc sự rung động của những thứ đó không? Nếu vậy thì làm thế nào chúng ta có thể nhìn một vật vô thức và không thêm gì cho nó? Con đọc trên trang mạng này là Thượng đế không thể nhìn vào các cuộc chiến của chúng ta vì sẽ có hại nếu bước vào rung động đó một cách sáng tạo. Con đoán là chúng ta chia sẻ một phần khả năng sáng tạo của Thượng đế vì ngài đã tạo ra chúng ta theo hình ngài.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một câu hỏi quan trọng chạm đến vấn đề chủ yếu trên hành tinh này. Như ta có giải thích trong trang mạng này, các dòng sống của con người được sinh tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Từ Hiện diện TA LÀ của con, có một dòng năng lượng tâm linh liên tục xối xuống, chảy xuyên qua dòng sống của con. Con hướng năng lượng này bằng sự chú tâm của con, thậm chỉ cả sự chú tâm tiềm thức. Ánh sáng xối qua dòng sống của con sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào, và như thế con sẽ tăng cường bất cứ gì mà con trao cho năng lượng. Con có thể trao năng lượng qua cả những dính mắc tiềm thức của con, như sợ hãi hay thù ghét.

Nếu con gửi năng lượng tâm linh của con vào một hình tướng hay một khuôn đúc nào đó trong một thời gian đủ dài, con sẽ tạo ra một lượng năng lượng nhất định trong năng trường cá nhân của con, và nó sẽ bắt đầu hình thành một lực hấp dẫn. Lực này sẽ thu hút những năng lượng tương tự như con từ môi trường chung quanh, hay nó sẽ tạo ra một ống dẫn giữa năng trường cá nhân của con với năng trường của hành tinh. Mẹ Mary có giải thích điều này chi tiết hơn trong quyển sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth).

Các tà lực trên hành tinh đã cố dùng những sự kiện ta vừa trình bày để chế ngự con người. Cách chúng làm là đun đẩy con người vào những tình huống nơi con người cảm thấy bị bắt buộc phải chọn một trong hai thái độ cực đoan, nghĩa là nếu làm thì bị thiệt mà không làm cũng bị thiệt. Ta xin giải thích. 

Thực tế đơn giản là con sẽ tăng cường bất cứ gì con phóng năng lượng vào. Các tà lực đã thiết lập vô số những sinh hoạt trên địa cầu để khiến cho con người phản ứng lại bằng đủ loại cảm xúc tiêu cực. Dù con có lo sợ điều gì, tức giận hay muốn hưởng lợi điều gì, con cũng sẽ tăng cường cho điều đó bằng cách con trao năng lượng cho nó. Do đó mỗi khi con phản ứng lại sự có mặt của cái ác bằng cảm xúc tiêu cực thì con nuôi sống cái ác – ngay cả khi con tưởng con đang làm biện pháp chống ác. 

Khi con kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con sẽ lý luận rằng để không tăng cường cái ác, cách hiển nhiên nhất là mình hãy tránh tập trung chú ý vào bất cứ điều gì xấu ác, bất toàn. Con nghĩ, nếu mình không cho nó năng lượng thì mình sẽ không củng cố cho nó, đúng không? Nhưng vấn đề là con không thể thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác bằng cách nhắm mắt làm ngơ trước sự có mặt của nó. Cái mà con không biết có khả năng, và sẽ, làm hại con.   

Vậy nếu con chọn phản ứng làm ngơ, hay phủ nhận, sự hiện hữu của cái ác, con vẫn bị ảnh hưởng trong tiềm thức bởi các tà lực trên địa cầu. Thật không có cách nào khác: nếu con bỏ qua không biết tới một cái bướu ung thư, con sẽ chỉ giúp nó bành trướng thêm ở dưới bề mặt.

Có rất nhiều người tâm linh và người theo tôn giáo, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, chối bỏ thực tế của cái ác. Nhưng họ sẽ không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng một cách vi tế bởi những tin tưởng bất toàn, nghĩa là họ trao năng lượng cho cái ác mà không ý thức được. Như ta đã nói, con có thể tăng cường cái ác bằng cách cho nó sự chú tâm của con, nhưng con cũng có thể tăng cường cái ác qua tâm tiềm thức của con. Và nếu con làm ngơ hay phủ nhận cái ác hiện hữu, các tà lực sẽ – ta nói rõ, SẼ – tìm được đường xâm nhập vào tiềm thức của con hầu đánh cắp ánh sáng tâm linh của con.

Cho nên trong tâm thức nhị nguyên, có vẻ như nếu con làm thì không ổn, mà con không làm cũng không xong. Rốt cuộc, dù con có giao chiến hay nhắm mắt trước cái ác, con cũng đang củng cố cho nó. Vậy con làm gì được đây? Con có thể làm điều mà ta đã mô tả khắp trang mạng này, là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức nhị nguyên. Con có khả năng khoác lên tâm Ki-tô để mà nhìn vượt khỏi các đối cực nhị nguyên, qua đó con sẽ thực hành được lời kêu gọi của ta là khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu (Matthew 10:16). 

Con phải khôn ngoan như rắn vì con phải biết là xấu ác có xảy ra. Đây là cách duy nhất để con tránh chấp nhận những dối trá đã xâm nhập vào mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này. Chỉ khi đó con mới tách khỏi tà lực và đứng riêng ra độc lập.   

Song song, con cũng cần vô hại như là bồ câu hầu con không phản ứng lại xấu ác bằng những cảm xúc tiêu cực. Con chỉ đơn giản giữ tâm cho không dính mắc, không bị quấy rầy dù chúng có ném gì vào con, như ta đã làm khi bị cám dỗ trong đồng hoang vắng (Matthew 4). Con đẩy lui cái ác và phơi bày những gian dối làm nền tảng cho nó, nhưng con không dính líu tới nó trong tình cảm hay vướng mắc vào giao tranh với nó.

Bản thân con không thể làm gì để loại bỏ xấu ác, như Đại thiên thần Michael có giàng dạy. Tuy nhiên con có thể đưa ra những lời cầu gọi sáng suốt để ủy quyền cho các chân sư thăng thiên thay mặt con đương đầu với cái ác. Khi con khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu, con có thể cho phép Thượng đế trong con tiêu hủy cái ác thay vì chính con ra tay chiến đấu bằng tâm vỏ ngoài.

Đúng là Thượng đế trong nghĩa cao nhất không nhìn xuống những bất toàn trên địa cầu vì quyền năng sáng tạo của Thượng đế sẽ gia tốc cho bất cứ gì mà quyền năng ấy đặt vào. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Thượng đế sẽ tăng cường cho xấu ác hay khiến nó kéo dài mãi mãi. Nếu sự chú ý của ngài được tập trung vào một hình tướng bất toàn, quyền năng sáng tác bao la của ngài sẽ gia tốc – trong nghĩa đen – độ rung của năng lượng khiến năng lượng trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy của nó, và hình tướng bất toàn đó sẽ bị xóa bỏ. Đó là lý do Thánh kinh nói rằng Thượng đế chúng ta là một ngọn lửa tiêu hủy tất cả ngoại trừ chính nó.

Nhưng song song, Thượng đế cũng có những vị đại diện, là những cá thể của ngài, có thể nhìn vào những bất toàn trên địa cầu mà không khuếch đại hoặc tiêu hủy. Các sinh thể này tên gọi là chân sư thăng thiên, và công việc của chúng tôi là giúp cho những người anh em chưa thăng thiên của chúng tôi từ từ tách rời khỏi những gian dối và bất toàn trên địa cầu. 

Tại sao Thượng đế lại không chỉ tiêu hủy các bất toàn đó cho xong chuyện? Vì đó sẽ vi phạm chính Luật Tự quyết của ngài. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho các dòng sống con người và như vậy họ có quyền tạm thời trải nghiệm những bất toàn này. Ngài cho họ thời gian để họ đạt đến kết luận là việc vi phạm quy luật của ngài cuối cùng sẽ không lợi ích gì cho họ. Và ngài còn gửi cả các chân sư thăng thiên xuống trong vai trò thày tâm linh hầu giúp nhân loại học bài học này.

Cho nên có thể nói, Thượng đế trong nghĩa cao nhất đã đơn giản rút khỏi hành tinh địa cầu sau khi loài người sa ngã. Ngài không nhìn xuống các bất toàn trên địa cầu, những các vị đại diện của ngài thì tiếp tục nhìn vào và cố gắng giúp con người vượt lên khỏi sự dối trá đang nuôi dưỡng cái ác. Như ta đã nói, chìa khóa chủ yếu để vươn lên khỏi bất toàn là phải khôn ngoan như rắn hầu có thể quyết định một cách ý thức rằng mình sẽ tách rời khỏi sự bất toàn, và song song phải vô hại như bồ câu, hầu bỏ lại sự bất toàn một cách tự nguyện và không hối tiếc. “Còn người, hãy theo ta” (John 21:22).

Chúng tôi, các chân sư, có quyền năng loại bỏ mọi xấu ác khỏi hành tinh này. Nhưng chúng tôi không thể làm được cho tới khi có đủ túc số những người đã tách mình ra khỏi xấu ác. Con không thể tách ra khỏi xấu ác nếu con không nhìn thấu những dối trá của xấu ác. Và con không thể nhìn thấu nếu con không nhìn vào xấu ác. Cho nên chìa khóa là phải nhìn với tính phân biện Ki-tô rồi quyết định thăng vượt chính cái tâm thức đã sinh sản ra xấu ác: tâm thức nhị nguyên.

Làm thế nào nói chuyện với tín hữu Cơ đốc

Hỏi; Con đã tìm thấy trong Kinh thánh có nhiều đoạn trái ngược nhau. Có những phiên bản của Kinh thánh hỗ trợ cho những quan điểm giáo lý trái ngược nhau. Đó là lý do tại sao thế giới Cơ đốc bị chia rẽ. Con đã cố hết sức để chỉ cho mọi người thấy Kinh thánh không phải là trọn vẹn lời của Thượng đế, nhưng có người Cơ đốc vẫn như mù loà không thấy được Sự thật.

Hơn thế nữa, họ đã nhiều lần thay đổi lời lẽ của Kinh thánh mỗi khi họ tái xuất bản. Điều này gây ra bối rối khắp thế giới về lời lẽ trong Kinh thánh.

Con muốn tiến về phía trước và con đang vượt qua những nỗi sợ hãi của con. Con có cảm tưởng con đang ở một mức trên đường đạo như khi Giê-su thách thức các lãnh đạo tôn giáo vào thời của thày. Bởi thế mới có câu: “Sự thật là lời biện hộ cho chính nó.” Xin thày Giê-su cho biết quan điểm của thày về sự thể này và lời biện hộ tốt nhất cho con là gì. Con đang tìm kiếm sự thật. Con phải tìm được lời giải đáp cho câu hỏi của con trước khi tiến bước trên con đường đời sống.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con nói chính xác là trong Kinh thánh có những đoạn có vẻ trái ngược nhau, nhất là khi người ta suy diễn theo tâm thức tương đối của thế phàm. Nhưng thế giới Cơ đốc không bị chia rẽ do những mâu thuẫn như vậy trong Kinh thánh đâu. Thế giới Cơ đốc bị chia rẽ là do con người bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém mà ta gọi là tâm thức nhị nguyên, và do đó con người nhìn vào mọi chuyện qua một phin lọc khiến cho thế giới hiện ra tương đối. Khi người ta bị kẹt trong trạng thái tâm thức đó, họ không thể thấy được sự thật của Thượng đế. Họ chỉ thấy một hình ảnh trong tâm mà chính họ đã tạo ra trong tâm họ. Bởi vì mỗi người có những tâm ảnh khác nhau cho nên không thể tránh khỏi có chia rẽ và xung đột.  

Như ta có giải thích ở nơi khác, Kinh thánh không phải là lời nói thuần túy của Thượng đế. Và dù cho đó là lời nói thuần túy của Thượng đế thì nó vẫn tạo ra xung đột giữa mọi người. Giản dị là không thể có cách nào để diễn đạt chân lý của Thượng đế mà con người không thể hiểu lầm và diễn giải sai lạc đi để rồi biến nó thành một sự thật tương đối chỉ xác nhận những điều mà họ muốn tin tưởng.

Cho nên ta phải nói với con là không có gì mà ta nói có thể giúp con thuyết phục những ai đang bị mù quáng bởi những sự diễn giải tương đối của họ về chân lý. Ta có thể nói với con là ngay cả nếu cá nhân ta xuất hiện trước mặt họ trong một khải tượng – một điều mà ta quả thực đã từng làm trước nhiều người suốt 2000 năm qua – đa số họ vẫn sẽ chối bỏ ta, hay thậm chí họ sẽ gọi sự xuất hiện của ta là màn hỏa mù của Ác quỷ.

Có quá nhiều người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức tương đối của họ, và họ chỉ đơn giản không sẵn lòng nghe thấy hay nhìn thấy chân lý của Thượng đế. Không có gì ta có thể làm được để thay đổi sự thể này, và do đó cũng không có gì mà con có thể làm được. Điều con làm được là nói lên sự thật với tất cả đức tin trong tim con, nhưng sau đó con hãy đừng bị dính mắc vào cách phản ứng của người khác. Con chỉ nói lên sự thật với tất cả khả năng của con. Hãy nói lên sự thật như con hiểu được trong lúc này, và hãy tiếp tục tăng trưởng khả năng hiểu biết của con về sự thật.   

Ta không hề yêu cầu con đi cải đạo người khác, bởi vì thật sự không có cách nào cải đạo bất cứ ai mà chưa mở tâm và mở tim ra cho một sự thật cao hơn những gì họ đang nhìn thấy. Ta chỉ yêu cầu con nỗ lực tìm hiểu và hiện thân sự thật của Ki-tô, rồi sau đó hãy diễn đạt sự thật đó mà không có bất cứ kỳ vọng nào hay bất cứ quan tâm nào về cách phản ứng của người khác. Đó là điều con đã thấy ta làm cách đây 2000 năm, và đó là tất cả những gì có thể làm được. Duy chỉ có Thánh linh mới cải đạo được người ta. Thế nhưng ngay cả Thánh linh cũng không thể cải đạo một người ngược với quyền tự quyết của người đó.

Ta khen ngợi con nỗ lực khắc phục nỗi sợ hãi của con. Con hãy giản dị nói ra sự thật và đừng quan tâm gì cả về sự phản hồi của người khác. Khi con nói ra sự thật mà không có chút chờ đợi nào về cách phản hồi của họ, con sẽ cảm thấy một niềm tự do rất mới. Và sự thật sẽ là lời biện hộ cho chính nó, và nó sẽ biện hộ cho con đối lại tất cả mọi phản ứng tiêu cực của người khác. Ta cũng bảo đảm với con là khi con nhân danh ta nói ra sự thật thì ta cũng đang đứng ngay bên cạnh con đây. Ta là sự thật, cho nên ta ở bất cứ nơi nào sự thật được biểu lộ. Hãy đi vào trong tim con và cảm được sự Hiện diện của ta với con.  

Đại đoàn Ánh sáng và hàng ngũ bóng tối

Hỏi: Có chăng một huynh đoàn của Ánh sáng và một huynh đoàn của bóng tối?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả là có một Đoàn Huynh đệ của Ánh sáng, và cũng có một huynh đoàn của bóng tối.

Huynh đoàn của Ánh sáng từ lâu đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như Saints Robed in White (các vị Thánh Áo trắng), the Great White Brotherhood (Đại đoàn Chưởng giáo), the White Lodge (Bạch đoàn), the Ascended Host, the heavenly Host (Đại đoàn Thăng thiên), các chân sư thăng thiên, và nhiều tên khác nữa. Vào thế kỷ 19, chúng tôi nhận được sự miễn phép đặc biệt để làm việc trực tiếp hơn với loài người và giúp những ai sẵn sàng lắng nghe biết đến sự hiện diện của chúng tôi.   

Chúng tôi đã truyền pháp tâm linh qua trung gian nhiều tổ chức và cá nhân. Hàng ngũ bóng tối đã cố gắng ngăn trở nỗ lực của chúng tôi bằng cách đưa ra một số lời dạy nhằm lừa dối con người. Vì vậy, không phải tất cả mọi lời dạy tự xưng là của chân sư thăng thiên đều thực sự đến từ chúng tôi. Sau đây ta sẽ giải thích chúng vận hành như thế nào.   

Ta đã có giảng chi tiết hơn về đề tài này ở một nơi khác, nhưng sau đây là một phiên bản ngắn gọn. Trong đạo Lão có biểu tượng Thái cực. Biểu tượng này mô tả hai lực bổ sung cho nhau, và sự tương tác hài hòa giữa hai thái cực sinh tạo ra toàn bộ vũ trụ. Đây là một lời dạy đúng đắn và một minh họa tuyệt vời của các nguyên lý thiêng liêng.

Con hãy để ý quan niệm chủ chốt ở đây: hai lực được mô tả trong Thái cực không loại trừ lẫn nhau. Cho dù hai thái cực có phẩm chất khác nhau, những phẩm chất này không đối nghịch với nhau. Cho nên khi hai lực, hay hai thái cực, kết hợp lại, sự tương tác đó tạo ra một khía cạnh mới cho thực tại. Tạo vật mới này hoàn toàn phù hợp với các quy luật của Thượng đế, và do đó nó bền vững. Nó sẽ không tự hủy diệt. Con cũng để ý thấy là hai thái cực không mang giá trị tương đối với nhau, và nếu bảo rằng một bên là thiện đối lập với bên kia là ác thì sẽ thật là vô nghĩa.

Các sinh thể sa ngã, hay sa nhân, đã tự đặt mình ra ngoài thái cực sáng tạo nói trên. Chúng đã nổi loạn chống lại dòng sáng tạo của Thượng đế, và chúng chỉ làm được vậy bằng cách bước vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên. Trong trạng thái tâm thức này, chúng không thể nhìn thấy một phẩm chất nào hoàn toàn không có đối nghịch. Cho nên hàng ngũ bóng tối không có khả năng nhìn thấy cái thiện tuyệt đối, hay vô điều kiện, của Thượng đế. Chúng chỉ thấy được cái thiện tương đối và cái ác tương đối. Nhưng cả hai thì đối nghịch lại với nhau và cùng khởi lên qua tâm thức nhị nguyên.

Nếu con đặt cái thiện tương đối và cái ác tương đối vào với nhau, chúng sẽ hủy diệt lẫn nhau, có nghĩa là chúng sẽ không bao giờ sáng tạo được một điều gì bền vững. Thật sự, thiện và ác tương đối sẽ luôn luôn bị khóa chặt vào thế phải đối chọi với nhau. Hàng ngũ bóng tối muốn con tin rằng con cần phải gia nhập cuộc đối đầu đó, và con cần phải phải giúp bên thiện tương đối chiến thắng bên ác tương đối. Tất cả chỉ là một màn hỏa mù, bởi vì nếu cái thiện tương đối tiêu diệt được cái ác thì đồng thời nó cũng tiêu diệt chính nó. Thế nhưng cái thiện tương đối sẽ không bao giờ tiêu diệt được cái ác tương đối, và bởi thế cuộc chiến đấu sẽ tiếp tục mãi mãi.   

Điều con thấy được qua phân biện Ki-tô là hàng ngũ bóng tối đã hình thành hai đối cực ngay trong bọn chúng – bởi vì chúng bắt buộc PHẢI làm như vậy một khi đã ở trong nhị nguyên. Một trong hai đối cực này là cái mà mọi người đều thấy được là hắc đoàn, là những sinh thể có dáng vẻ đen tối, nghịch loạn rõ ràng. Đây là những sinh thể tìm cách lừa gạt con người tin rằng xấu ác chỉ đơn giản là trái nghịch của Thượng đế, và nếu xấu ác chiến thắng thì chính nghĩa vẫn được hưởng lợi. Chúng cố dụ dỗ những người quyền lực, chẳng hạn qua vũ lực thô bạo, qua ma thuật đen, trò phù thủy hay cúng lễ Satan. Chúng tìm cách giúp cho cái ác tương đối chinh phục địa cầu.   

Đối cực thứ hai là cái mà chúng tôi gọi là hàng ngũ giả trá, hay ngụy đoàn, là những sinh thể trông không có vẻ gì là đen tối. Ngược lại là đằng khác, chúng còn tỏ ra hoàn toàn vô hại, thâm chí tâm linh. Kỳ thực, một số những sinh thể này còn tự xưng mình là chân sư thăng thiên, nên chúng là kẻ mạo danh. Một phần đáng kể những bài đồng bóng từ những người tự xưng là chân sư thăng thiên mà con tìm thấy trên mạng internet là của những sinh thể này. Có một cách để nhận diện chúng là nhận ra rằng chúng tự coi mình là kẻ thù của các sinh thể bóng tối, và chúng sẽ lôi kéo con vào cuộc chiến đấu đó qua một lối lý luận vô cùng xảo trá mà chúng tôi gọi là lý lẽ của rắn. Chúng tìm cách giúp cho cái thiện tương đối chinh phục địa cầu bằng cách tiêu diệt xấu ác.

Một điểm khác biệt chính yếu khác giữa Đại đoàn Ánh sáng với hàng ngũ bóng tối là Đại đoàn Ánh sáng luôn luôn tìm cách kết hợp, trong khi hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ. Sự thật tâm linh căn bản nhất là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, tức năng lượng của Thượng đế. Cho dù hình dạng vỏ ngoài có là gì đi nữa, tất cả mọi thứ đều được tạo bằng bản thể của Thượng đế. Vì vậy, cho dù hình dạng vỏ ngoài có khác thì vẫn có một sự hợp nhất nền tảng vượt lên trên mọi sự khác biệt. 

Chìa khóa chủ yếu cho sự phát triển tâm linh là con người phải vượt qua ảo tưởng cho rằng có cái gì đó tách biệt khỏi Thượng đế, kể cả chính mình. Con người chỉ thực sự có một vấn đề duy nhất là sự cảm nhận mình tách biệt khỏi Thượng đế. Chìa khóa của phát triển tâm linh, chìa khóa của giác ngộ, là vượt qua ảo tưởng này của Maya.

Hàng ngũ bóng tối sẽ làm tất cả những gì chúng có thể nghĩ ra để ngăn cản con người vượt qua được ảo tưởng này. Chúng đã chọn đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Một số còn tin rằng chúng đã tìm ra cách tạo dựng một thế giới nằm ngoài Thượng đế hay chống lại Thượng đế.

Kỳ thực, không có gì ngoài Thượng đế. Thượng đế là tất cả hiện hữu, và bản thể của Thượng đế ở khắp mọi nơi. Nếu Thượng đế ở khắp nơi thì làm sao có nơi nào mà không tìm thấy Thượng đế? Thượng đế thực sự ở mọi nơi, nhưng vì một số sinh thể đã được ban quyền tự quyết, chúng có thể tạo ra ảo tưởng là chúng tách rời khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này chỉ hiện hữu trong tâm chúng thôi, và nó chỉ có thể tiếp diễn khi nào chúng còn trao sức mạnh cho nó bằng cách bám lấy ảo tưởng.

Thông điệp chính yếu của trang mạng của ta là khuyến khích mọi người bước đi trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bước trên đường này, con sẽ lần hồi có khả năng nhìn xa hơn ảo tưởng cho rằng con và mọi thứ trong thế gian tách biệt khỏi Thượng đế. Con đạt được khả năng nhìn thấy sự hợp nhất đằng sau sự đa dạng. Con cũng bắt đầu có nhận biết trực giác, sự phân biện nội tâm, cho phép con nhìn thấu qua các ảo ảnh và dối gạt của hàng ngũ bóng tối.

Con đừng lầm, các thế lực đó đã tồn tại từ rất lâu và chúng đã học được cách cư xử tương đối khôn khéo. Chúng rất lành nghề trong việc tạo ra những tư tưởng hay hệ thống tín ngưỡng chứa đựng nhiều sự thật, nhưng đâu đó chúng lại bỏ vào một vài câu nhằm duy trì mãi mãi ảo tưởng tách biệt. Trong một số trường hợp, cách duy nhất để phân biệt giữa ánh sáng và bóng tối là cảm thấy sự rung động. Khi con bước trên đường quả vị Ki-tô cá nhân, con sẽ học được khả năng đọc được độ rung và nói được sự khác biệt giữa ánh sáng và bóng tối.     

Nếu con chưa có khả năng trực giác này, trang mạng này có đăng tải một số dụng cụ để giúp cho tiến trình học tập của con nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, cũng sẽ rất hữu ích nếu con luôn nhớ rằng hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ trong khi Đại đoàn của Ánh sáng luôn tìm cách kết hợp.

Ghi chú của Kim Michaels: Nếu bạn muốn đọc những bài giảng chi tiết và đầy đủ về đề tài này, tôi xin giới thiệu quyển sách, Master Keys to Spiritual Freedom, do thày Maitreya truyền đọc. Trong đó bạn sẽ tìm thấy lời mô tả chi tiết nhất về sự kiện sa ngã.

Khả năng ngoại cảm và thị hiện

Hỏi: Con xin có câu hỏi cho thày Maitreya. Trong quyển sách (Master Keys to Spiritual Freedom), thày có mô tả những sinh thể đã sa ngã xuống bầu cõi thấp hơn là “đã thăng một bầu cõi”. Và thày mô tả một số trong nhóm đó đang ở đây, là họ có một thành đạt tâm linh cao độ nhưng một trạng thái tâm thức thấp kém. Con bị bối rối bởi sự khác biệt giữa thành đạt tâm linh và trạng thái tâm thức. Con xin thày làm rõ điểm khác biệt này.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Khi một dòng sống tăng triển trên đường đạo, nó sẽ có một số thành đạt. Đó có thể là sự thành đạt về cách điều khiển cõi vật lý, sử dụng các quy luật chi phối cõi đó. Do điều này mà một dòng sống có thể có khả năng, chẳng hạn, thị hiện một số hiện tượng ngoại cảm hay thậm chí cả vật chất. Con đã từng thấy trường hợp những người có khả năng ngoại cảm, hay họ có khả năng làm hiện ra thể chất vật lý. Tuy nhiên, những người này không có sự thành đạt tâm linh đích thực.

Điều cần hiểu thực sự ở đây là có những người có thể thành đạt tương đối về mặt sử dụng tâm trí để chế ngự vật chất, nhưng họ lại không có một mức thành đạt tương đương trong con tim – có nghĩa là họ sẽ sử dụng thành đạt của họ duy cho những mục đích vị kỷ. Thanh đạt trong tim có nghĩa là sử dụng thành đạt để nâng cao Tất Cả thay vì chỉ nâng cao chính mình so với người khác. 

Con thấy được sự khác biệt chứ – luôn luôn có rủi ro là mặc dù một người đã đạt được một mức thành thạo nào đó để điều khiển cõi vật chất, khả năng này có thể bị sử dụng cho những mục đích vị kỷ thay vì để thăng tiến cái Ta lớn rộng mà mọi sự sống đều là.  

Trả lời bổ túc của chân sư thăng thiên Giê-su ngày 15/9/2007.

Điều quan trọng là con cần nhận ra sự khác biệt giữa một thành đạt vỏ ngoài và trạng thái tâm thức nội tâm cao vượt. Như khoa học đã chứng tỏ, vũ trụ vật chất vận hành theo một số quy luật máy móc trên bản chất. Có một số quy luật khác cao hơn mà khoa học chưa khám phá ra, và một người nào đó có thể đạt được sự hiểu biết và một trình độ tinh thông nào đó để điều khiển những quy luật này mà đã không thanh lọc tâm thức vị kỷ của mình. Cho nên một trạng thái tâm thức cao vượt có nghĩa là một mức vị kỷ rất thấp nơi một người đã thăng vượt ảo tưởng của ngã tách biệt.  

Nói cách khác, khả năng của tâm trí hầu làm chủ vật chất có một khía cạnh khá máy móc, và một người có thể đạt được một số khả năng trên vật chất, tuy giới hạn nhưng vẫn có vẻ ấn tượng đối với người thường. Cho nên người đó có thể sản xuất ra những “điềm báo và hiện tượng kỳ lạ” mà không có trái tim trinh trắng là dấu hiệu của một trạng thái tâm thức cao vượt.     

Điều mà thày Maitreya đề cập trong sách của thày là những sinh thể bị sa ngã từ những bầu cõi cao hơn mặc dù họ đã đạt tới những địa vị vỏ ngoài quan trọng trong xã hội nơi các bầu cõi đó. Vì vậy họ có sự hiểu biết và thành đạt vỏ ngoài, nhưng họ chỉ sử dụng để tự nâng mình lên so với người khác thay vì để phụng sự mọi người và nâng cao Tất Cả. Lý do là vì, tất nhiên, các dòng sống này đã chưa khắc phục được tâm thức nhị nguyên, và họ vẫn xem mình là sinh thể tách biệt đứng riêng khỏi mọi người – và như thế, họ có tiềm năng khoác lấy vẻ ngoài là người tốt đẹp hơn mọi người khác. Cách xét đoán giá trị và sự so sánh vô nghĩa này chỉ có thể xảy ra cho những ai còn bị mù quáng bởi nhị nguyên.   

Một số dòng sống này vẫn còn hiện thân trên địa cầu hiện nay, và một số trong nhóm đó đã đạt tới những địa vị cao cả trong xã hội, hay họ đã leo lên được chỗ lãnh đạo tâm linh. Khi con lượng định bất kỳ vị thày tâm linh nào, điều quan trọng là con cần xem xét ý định của người đó. Một thước đo là nhìn vào cách người đó biểu đạt hiểu biết hay/và khả năng của mình. Họ có làm vậy để nâng cao mọi người hay họ làm vậy để nâng cao ngã tách biệt? Một cách để lượng định là cân nhắc những điểm sau đây: 

  • Vị thày có bày tỏ khả năng của mình để tạo ra một kết quả sẽ thực sự trợ giúp học trò hay đó là một sự phô trương “phù phiếm”? Chẳng hạn, nuôi ăn người nghèo và chữa lành người bệnh là giúp đỡ tha nhân, trong khi bẻ cong cái thìa hay thổi tro từ bàn tay sẽ không giúp ích được ai.
  • Vị thày có dùng khả năng mình để chứng tỏ rằng mọi người đều có tiềm năng đạt được sự điều ngự của tâm thức trên vật chất, hay là chỉ để đưa mình lên cao hơn mọi người? 

Nhưng ngay cả ở đây, sự phân biện cũng rất cần thiết. Người ta vẫn có thể làm một việc gì đó hữu ích – như chữa bệnh chẳng hạn – với một ý định nâng cao cái ngã tách biệt. Điều này có thể thấy được nơi một số nhà truyền giáo đạo Cơ đốc chữa lành người bệnh để chứng tỏ là mình có vẻ hay hơn người khác, hay để chứng tỏ tính ưu việt của nhãn hiệu Cơ đốc của mình – nhưng làm vậy thì thật xa rời giáo lý đích thực của ta.      

Ta đã từng cảnh báo về điều này trong một số lời dạy. Chẳng hạn trong câu này, ta có nói rõ là một số hoạt động có thể bị lạm dụng bằng vũ lực: “Và từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng đã phải chịu bạo lực, và kẻ bạo lực chiếm lấy bằng vũ lực” (Matthew 11:12)

Trong câu sau đây, ta cảnh báo về những kẻ đưa ra những điềm báo và hiện tượng kỳ lạ để lôi kéo quần chúng theo mình: “Bởi vì nhiều ki-tô giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, sẽ đưa ra những điềm báo và hiện tượng kỳ lạ to lớn, và nếu họ có thể, họ sẽ đánh lừa ngay cả những người được chọn”. (Matthew 24:24)

Chót hết, ta đã cảnh báo đừng nên theo những kẻ tự xưng mình là lãnh đạo nhưng lại đui mù vì họ chưa thấy được sự thật thiết yếu của con đường tâm linh, tức là ngã tách biệt chỉ là ảo ảnh: “Hãy để yên cho họ: họ là người mù lãnh đạo người mù. Và khi người mù lãnh đạo người mù, cả hai sẽ đều té xuống rãnh.” (Matthew 15:14)   

Có con rãnh ở cả hai bên con đường – mà ta gọi là con đường rộng dẫn tới hủy diệt – biểu tượng cho hai đối cực nhị nguyên. Nếu con đi theo những lãnh đạo mù tìm cách nâng cao ngã tách biệt thay vì để cho ngã tách biệt đó chết đi trên thập tự giá, con sẽ kẹt lại trong nhị nguyên thay vì bước đi trên con đường hẹp và thẳng – là con đường không có nhị nguyên vì đó là đường độc tuyến – sẽ dẫn đến tâm thức Ki-tô.

Lời dạy căn bản về những gì xảy sau khi chết

Hỏi: Giê-su kính yêu, khi một linh hồn đi qua sự chuyển tiếp, xin thày giải thích linh hồn đi ngay về đâu và nó trải nghiệm những gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có câu trả lời chung cho câu hỏi này vì tất cả tùy thuộc vào tâm thức của dòng sống. Ta khuyên con nên đọc một số sách trong số rất nhiều sách về trải nghiệm cận tử (near-death experiences) và con sẽ nhanh chóng thấy được tâm thức của một người ảnh hưởng lớn lao đến nơi chốn mà dòng sống sẽ đi đến sau khi tách khỏi xác thân. Ta cũng đã có đưa ra lời giải thích căn bản về linh hồn/dòng sống trong một câu trả lời khác (bài về phân mảnh linh hồn) và con sẽ được lợi ích nếu con đọc bài đó trước khi con đọc tiếp bài này.

Có một số cách, hay đường hướng chung mà dòng sống có thể đi theo. Để hiểu điều này, con cần đọc giáo lý về bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất.

  • Các dòng sống ở trong một trạng thái tâm thức tiêu cực sẽ tạo ra một từ lực thu hút và bị hấp dẫn vào cõi cảm xúc. Cõi này có nhiều cấp độ, và những cấp độ thấp nhất rất tương tự như cái mà nhiều người xem là địa ngục. Dòng sống nào đã tham gia vào các hoạt động phản tâm linh, chẳng hạn như thờ Satan, các hình thức phù thủy, ma thuật, tội ác hay bạo động, đi vào những cấp độ thấp nhất, thường gọi là cõi trung giới. Dòng sống nào bị tràn ngập bởi giận dữ hay hận thù, bởi hối hận hay những loại tình cảm tiêu cực khác, đi vào những cấp độ cao hơn của cõi cảm xúc. Các dòng sống đã tự vận cũng đi vào đấy. 
  • Một số dòng sống rất gắn bó với cơ thể vật lý hay đời mình trên địa cầu, sẽ cảm thấy khó lòng buông bỏ những dính mắc này đối với xác thân hay đối với thế gian, cho nên họ sẽ ở lại cấp độ cao nhất của cõi cảm xúc, là cõi gần nhất với thế giới vật chất về rung động. Trên hành tinh này có những nơi chốn vật lý có độ rung thấp đến độ hai cõi vật lý và cảm xúc gần như chồng chập lại – hoặc có thể gọi đó là những cánh cổng giữa các cõi với nhau. Các dòng sống này trở thành những sinh thể mà một số nhà tâm lý cũng như một số giáo lý tâm linh gọi là hồn không xác. Hồn không xác đi lang thang khắp dải tần số của vật chất và thường bám vào những người đang hiện thân. Và điều này khiến cho những người này gặp phải những vấn đề tâm lý, thậm chí cả vật lý, mà hồn không xác đã phải gặp trong kiếp đầu thai vừa qua của nó.    
  • Những người vô cùng vật chất đã phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế sẽ có khuynh hướng tụ tập ở cõi lý trí. Ở cõi này có nhiều cấp độ nơi dòng sống sẽ tham gia vào các sinh hoạt có tính cách rất trí thức. Những người loại này có khả năng vươn lên cao hơn nhưng họ lại không làm vậy chỉ vì họ không tin là họ có thể đi đâu khác.
  • Các dòng sống tâm linh hơn đi vào cõi bản sắc nơi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, có những khóa nhập thất trong cõi ether. Đây quả là điều lý tưởng và thật ra cũng là điều đã được trù định cho mọi dòng sống. Ở đây họ sẽ nhận được sự hướng dẫn và hàn gắn để chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp – hay trong một số trường hợp, cho việc thăng thiên.   

Vậy con đã thấy, có nhiều cấp độ trong các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, và do đó không có trải nghiệm nào gọi là điển hình. Các cõi phi vật lý linh hoạt và lưu động hơn thế giới vật chất rất nhiều, và vì thế sự trải nghiệm của dòng sống sẽ luôn luôn thích nghi với nhu cầu cá nhân của nó. Tuy nhiên, nếu con tìm hiểu các trải nghiệm cận tử, con sẽ thấy là nhiều dòng sống kinh qua cùng những giai đoạn tổng quát giống nhau: 

  • Dòng sống tách khỏi cơ thể và thường bay bổng ở trên cơ thể.
  • Dòng sống nhìn thấy một ánh sáng rực rỡ và di chuyển vào ánh sáng đó.
  • Dòng sống đi qua một đường hầm và đến nơi có ánh sáng rực rỡ, ở đó nó thường gặp thân nhân đã quá cố, hoặc những sinh thể tâm linh mà nó đã có sự liên hệ.
  • Dòng sống được thoải mái như ở nhà và thường kinh qua một sự duyệt xét kiếp sống vừa qua của mình.

Trong trường hợp những người có trải nghiệm cận tử, họ có sự chọn lựa là trở về hiện thân hay không. Hiển nhiên họ đã chọn giải pháp này, và đó là lý do họ mới kể lại được kinh nghiệm cận tử của họ. Tuy nhiên, nhiều dòng sống không có sự chọn lựa đó, giản dị là vì họ đã tới thời và họ phải bỏ lại cuộc sống, tiếp tục bước tới.

Sau khi kinh qua giai đoạn tiếp đón sơ khởi vào cõi tâm linh, dòng sống thường bước tiếp vào những trung tâm học hỏi hay chữa lành nơi họ sẽ chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới. Trong một số trường hợp, dòng sống sẽ trở lại tái đầu thai rất nhanh chóng. Và trong những trường hợp khác, dòng sống có thể sẽ không tái đầu thai trong một thời gian rất dài, có thể cả ngàn năm nếu đo theo thời gian trên địa cầu. Một số dòng sống khác thậm chí còn đầu thai ở hành tinh khác trước khi trở về địa cầu hiện thân.

Một số dòng sống tiến hóa cao độ tới mức họ không cần phải tái đầu thai nữa, và trong trường hợp này họ có một số chọn lựa. Nếu dòng sống đã cân bằng mọi nghiệp quả, giải quyết mọi vấn đề tâm lý và đã làm tất cả những gì nó muốn làm trên địa cầu, nó có thể thăng thiên ngay tức khắc vào cõi tâm linh nơi nó có thể trải qua một thời gian học hỏi và hòa nhập với cái ta tâm linh của nó, hay Hiện diện TA LÀ. Sau đó, dòng sống có thể chọn ở lại với địa cầu, phụng sự như một chân sư thăng thiên, như một vị thày tâm linh, để giúp những người chưa thăng thiên phát triển tâm linh. Những dòng sống chọn giải pháp này được biết tới dưới danh hiệu bồ tát. Những dòng sống còn lại không chọn ở lại với điạ cầu và di chuyển tới những cõi khác của thế giới tâm linh, nơi họ sẽ tiếp tục học hỏi và tăng trưởng, hay ngay cả đảm nhiệm một số trách vụ tâm linh.

Nếu một dòng sống chưa cân bằng hết nghiệp quả (nhưng đã cân bằng đủ để khỏi phải trở về tái đầu thai, nghĩa là hơn 51%), nó sẽ cần cân bằng khối nghiệp này trong cõi bản sắc. Điều này khó khăn hơn rất nhiều so với việc cân bằng nghiệp quả khi còn đầu thai, và vì vậy việc nỗ lực cân bằng nghiệp khi còn hiện thân trên địa cầu thật là quan trọng. Thật vậy, con sẽ thấy khắp các kinh sách viết rằng ta chủ trương một cách phát triển tâm linh nhắm trực tiếp vào việc giúp con người cân bằng tối đa nghiệp quả của mình trong một thời gian ngắn nhất.  

Điểm này sẽ giải thích một số lời dạy của ta mà nhiều người coi là quá cấp tiến, thậm chí cực đoan. Chẳng hạn, hẳn con nhớ ta bảo người giàu có kia đem cho hết tiền bạc cho người nghèo (Matthew 19:16-26). Ta không nói là mọi người phải đem cho hết của cải của mình, tuy nhiên đối với dòng sống đặc thù đó và đối với nhiều dòng sống khác trong cùng hoàn cảnh, cách duy nhất họ có thể cân bằng mọi nghiệp quả của mình trong phần đời còn lại là đem cho hết tài sản và đặt trọng tâm đời mình vào những hoạt động tâm linh.

Tất nhiên, mỗi người sẽ mỗi khác, mỗi người có sứ mạng khác nhau và nghiệp quả khác nhau. Vì vậy, ta không muốn mọi người nắm lấy lời nhận xét trên để áp dụng cho bản thân mình. Tuy nhiên khi lớn tuổi hơn, điều có thể vô cùng lợi ích là họ bắt đầu nghĩ xem họ cần làm gì cho phần đời còn lại của mình hầu cân bằng tối đa nghiệp quả và hoàn thành sứ vụ của mình trong kiếp này. Nếu họ sử dụng bài tập để hòa điệu nội tâm với ta cùng những dụng cụ tâm linh khác, ta có thể cam đoan là hầu hết sẽ nhận được sự hướng dẫn nội tâm đó, với kết quả là họ thường thay đổi cuộc sống một cách đáng kể, nỗ lực tinh tấn tối đa và tận dụng cơ hội mà sự sống đem lại. Một trong những cách hữu hiệu nhất để cân bằng nhanh chóng những khối nghiệp chướng to lớn là sử dụng những bài thỉnh và bài chú.

Ta xin nói ở đây là cho dù trạng thái tâm thức của dòng sống có thế nào đi nữa, mỗi dòng sống sẽ rời khỏi cơ thể vật lý sau khi cơ thể chết đi. Khi nó đã ra khỏi cơ thể – thường là ngay sau khi chết – nó sẽ thấy được ánh sáng dẫn nó tới cõi tâm linh. Cho nên mọi dòng sống khi rời xác thân đều có cơ hội đi đến cõi tâm linh – không có ngoại lệ. Mổi dòng sống đều có cơ hội đi lên cao hơn.

Tuy nhiên, như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi sự trong thế giới này đều tùy thuộc vào ý muốn tự quyết của cá nhân dòng sống. Và nếu nó từ chối không bước vào ánh sáng, nó sẽ phải ở lại một trong những cấp độ thấp hơn tùy theo trạng thái tâm thức của nó. Đây là lý do tại sao chúng tôi, các chân sư, đã đỡ đầu cho rất nhiều trải nghiệm cận tử. Chúng tôi muốn mọi người hiểu rằng mọi dòng sống đều có sự chọn lựa để bước vào ánh sáng và nhận được hàn gắn và học hỏi.

Tuy nhiên để vào được ánh sáng, dòng sống phải chọn làm điều này sau khi nó vừa tách khỏi thân xác. Và trạng thái tâm thức của nó ngay trước khi chết sẽ ảnh hưởng lớn lao đến khả năng chọn lựa ánh sáng của nó. Như ta đã có giải thích, một số người quả thật đã tự đặt mình vào tư thế khiến dòng sống của mình gần như không làm sao chọn được ánh sáng. Nhưng họ có thể thay đổi sự thể này nếu họ chịu chuyển đổi tâm thức. Ngay cả khi sự chuyển đổi này xảy ra chỉ năm phút trước khi chết, dòng sống cũng sẽ được trợ giúp lớn lao sau khi chết.

Ta cũng xin nói là ta thực sự khuyên mọi người hãy tìm hiểu về các trải nghiệm cận tử và thay đổi cách nhìn của mình về cuộc sống, về dòng sống và về cái chết. Tuy nhiên, nếu con đã sống một cuộc đời tâm linh, bất kể con theo tôn giáo nào (hay ngay cả con không chính thức theo một tôn giáo nào), con không có gì phải lo sợ trong cái chết. Bài học duy nhất mà con nên rút tỉa từ tất cả các trải nghiệm cận tử là sự chết không phải là một tiến trình khó chịu mà là một cảm giác giải thoát tràn trề. Vì vậy, nếu con đã thực tâm cố gắng là một con người tốt thiện cho dù con không theo đạo nào, thì con không có gì để lo sợ cái chết. Quả thật đó sẽ là một kinh nghiệm thú vị cho dòng sống, miễn là dòng sống chọn bước vào ánh sáng và đi tiếp đến cõi cao hơn.

Cư xử thế nào khi có người cố đánh phá niềm tin tâm linh của mình

Hỏi: Thày Giê-su và các chân sư khác có đề cập đến nhu cầu chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Nhưng khi con làm vậy, thường khi con phải đối mặt với thái độ rất tiêu cực của người kia khi họ có vẻ cảm thấy bị đe doạ bởi những ý tưởng không phù hợp với niềm tin của họ. Con có thể hiểu được phản ứng đó từ những tín đồ Cơ đốc cực chính thống, nhưng thường khi con cũng gặp phản ứng này từ những người Thời Mới (New Age). Thậm chí con còn gặp cả những người nổi giận, hoặc họ chế nhạo và miệt thị niềm tin của con hay toàn bộ ý tưởng về các chân sư thăng thiên. Vì lý do này, con có một số bạn hữu không còn dám nói gì về niềm tin tâm linh của mình nữa vì không muốn đương đầu với loại năng lượng tiêu cực này. Liệu thày Giê-su có nhận xét gì về lý do tại sao chúng con lại gặp phản ứng như vậy, và chúng con có thể làm gì để khỏi cảm thấy bực bội hay bị ruồng bỏ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một vấn đề mà nhiều người tầm đạo chân thành gặp phải. Là một người tâm linh trong thế giới hiện đại tại phương Tây, con không thể nào tránh khỏi những kẻ sẽ thẳng thừng gạt bỏ niềm tin tâm linh của con. Con sẽ gặp sự chống đối từ những người vô thần hay duy vật, từ những tín đồ Cơ đốc chính mạch và thậm chí cả từ những người có vẻ là tâm linh cho rằng đạo sư của họ, học thuyết của họ hay tổ chức của họ mới là chân chính duy nhất.

Ta đã thấy biết bao nhiêu người tầm đạo chân thành, phản ứng lại một cách bực dọc khi họ gặp phải thái độ tiêu cực đối với niềm tin và cách sống của mình. Trong nhiều trường hợp, điều này đã dẫn tới những cuộc tranh luận vô bổ. Rất có thể cả hai bên sau đó đều nổi giận lên và làm tha hóa thêm năng lượng, nhưng họ vẫn không tìm được một điểm chung hay một cách giải quyết nào.

Là một người tầm đạo tâm linh chân thành, con cần nhận ra một sự thật cơ yếu về con đường tâm linh. Mục đích thực sự là để con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên, như ta có giải thích trong các bài giảng về tự ngã. Khi con thực sự vươn lên cao hơn những ảo tưởng nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, con sẽ đạt tới cái mà đức Phật gọi là giác ngộ, và trong trạng thái này, tâm con sẽ hoàn toàn an bình. Tuy nhiên như đức Phật cũng có dạy, chìa khóa để đạt được an bình nội tâm là vượt qua MỌI sự dính mắc với bất cứ điều gì trên địa cầu.  

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo tâm linh, con phải luôn luôn tìm xem mình còn dính mắc điều gì hay không. Như ta có nói cách đây 2000 năm: “Trước hết con phải lấy cái xà khỏi mắt con, rồi con mới thấy rõ và lấy hạt bụi khỏi mắt người anh em” (Matthew 7:5).

Cho nên khi con phát hiện bất kỳ dính mắc nào, con cần soi vào gương và khám phá ra cái tin tưởng nhị nguyên đã gây ra dính mắc. Sau đó con mới có thể với tới sự thật của Ki-tô sẽ giải phóng con khỏi ảo tưởng nhị nguyên, là điều mà Phật gọi là Maya. Bất cứ khi nào con nhận ra là con không an bình về một điều gì đó, con cần tìm ra nguyên nhân bên dưới và lấy cái xà ra khỏi mắt con. Nếu con bị bực dọc bởi phản ứng của người khác, điều này có nghĩa là con cần buông bỏ dính mắc đó.  

***

Ở giai đoạn đầu của đường tu tâm linh, con thường rất dễ bị tác động bởi phản ứng tiêu cực của những người đặt vấn đề, chỉ trích niềm tin của con. Điều này cũng dễ hiểu, và lý do sâu xa là vì con chưa trụ neo vững chắc vào các niềm tin tâm linh. Con cảm thấy bất an vì ở một mức độ nào đó, con nhận ra là con còn một số mâu thuẫn trong thế giới quan của mình, con còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, và con chưa thể nhập các giáo lý vào đời sống hàng ngày của mình.

Hệ quả là con vẫn mang một nỗi sợ hãi tiềm ẩn rằng con có thể bị sai, rằng con có thể đang đi theo một giáo lý giả trá, hoặc toàn bộ con đường tu tâm linh có thể chỉ là ảo ảnh. Cho nên con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng đối với những người có thái độ cực kỳ phê phán, và điều đáng buồn là đã có nhiều người bị những kẻ tiêu cực như vậy khiến họ bỏ đường tu.

Thật ra, có hẳn cả một băng đảng những tà thể gọi là Đám Phá rối (the Spoilers) luôn luôn tìm kiếm những người mà chúng có thể kéo ra khỏi đường tu. Những tà thể này thường làm việc qua trung gian những người chưa vượt qua được nghi vấn của mình.  Và những người này trở thành những nhà “phản truyền giáo”, chuyên môn đi bới móc những gì họ xem là khuyết điểm trong niềm tin của người khác. Người nào mà rơi vào cám đỗ này cũng sẽ trở thành công cụ cho tà thể, và họ lại bắt đầu đi ảnh hưởng người khác, và đây là cách mà chúng có thể lan rộng ra như vòng nước trên mặt hồ. Có những tổ chức tâm linh – hoàn toàn chính đáng, và trong một số trường hợp, được các chân sư thăng thiên hỗ trợ – đã bị kéo sập toàn diện bởi những kẻ làm cánh tay nối dài cho Đám Phá rối.

Nhưng những ai sống sót được đợt tấn công tiên khởi đó, cuối cùng sẽ trở nên neo chặt vào bản thân. Khi con dần dần trưởng thành trên đường tu, con sẽ bắt đầu vượt qua những giới hạn của mình và tự nhiên con sẽ chú tâm vào những cách giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến con đối mặt với một tầng cấp khai ngộ cao hơn liên quan đến cách phản ứng của con khi người khác có thái độ tiêu cực đối với nỗ lực trợ giúp trong sáng nhất của con.   

***

Trong bối cảnh này, điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều người chín chắn về mặt tâm linh thường mang một ký ức nội tâm về cách tương tác nơi cõi tâm linh. Đã có một thời kỳ khi một số sinh thể tâm linh đã trở nên tiêu cực, phán xét và hay buộc tội, như được mô tả trong kinh Khải huyền: “Tôi lại nghe có tiếng nói lớn trên trời rằng: Bây giờ sự cứu rỗi và sức mạnh đã đến, cùng với vương quốc Thượng đế chúng ta và quyền năng đấng Ki-tô của ngài, vì kẻ buộc tội anh em chúng ta, kẻ đã ngày đêm buộc tội anh em trước mặt Thượng đế, nay đã bị quăng xuống rồi.” (Revelation 12:10)

Như chúng tôi đã giải thích, cuối cùng thì những sinh thể phán xét đó đã được gửi xuống cõi vật chất, một phần như là những linh thể không hồn, và một phần như những con người đầu thai. Và chúng vẫn cứ tiếp tục lên án mọi người như trước, chỉ khác một điều là bây giờ chúng không còn buộc tội trước mặt Thượng đế đích thực mà trước một thượng đế giả hiệu mà chúng đã tạo ra. Điều quan trọng ở đây là tất cả những ai đã chín chắn tâm linh cần phải vươn lên khỏi nhu cầu phán xét và buộc tội người khác. Và như vậy, họ mới có được một lối tương tác văn minh khi họ không cảm thấy một hệ thống tín ngưỡng hay một tổ chức nào phải vượt trội hơn hay phải là tổ chức đúng đắn duy nhất.    

***

Trên đường tu tâm linh, có một số bước ngoặt. Một bước ngoặt quan trọng là khi con sẵn sàng nhìn xa hơn những tin tưởng hiện tại của mình và xét đến một số ý tưởng mới. Đối với một số người, điều này có nghĩa là họ sẽ rời bỏ tôn giáo mà họ đã lớn lên và tìm kiếm một giáo lý và một tổ chức tâm linh mới. Một số khác sẽ ở lại với tôn giáo của mình nhưng họ sẽ đổi mới cách tiếp cận với tôn giáo đó. Dù bằng cách nào đi nữa thì trong những bước đầu của giai đoạn này, họ sẽ có niềm tin mạnh mẽ rằng phải có một đạo sư/giáo lý/tổ chức đích thực duy nhất mà thôi, và tất cả mọi con đường khác đều sai lầm.

Nằm bên dưới niềm tin này là sự cảm nhận rằng con không thể tự mình cứu rỗi chính mình, cho nên con cần sự giúp đỡ từ ngoài. Nếu con có niềm tin này thì chẳng có gì sai trái (cho dù chính niềm tin đó thì sai lầm), bởi vì đây là một giai đoạn bắt buộc mà ai ai cũng đi qua. Vấn đề là khi con suy nghĩ như thế, con cũng sẽ có một cái nhìn trắng đen về thế giới. Và điều này khiến con cho rằng con hoàn toàn có lý và bất cứ ai không đồng ý với con đều sai lầm – có thể là họ đang a dua với tà lực, hoặc bất cứ cách diễn tả nào khác.

Điều thực sự xảy ra trong giai đoạn này là con không sẵn sàng nhận trách nhiệm toàn diện về đường tu và sự cứu rỗi của con. Cho nên con vẫn phóng chiếu trách nhiệm đó ra cho ai khác. Đó là tại sao con sẽ nghĩ rằng một kỹ thuật tâm linh nào đó sẽ giải quyết mọi vần đề của con như trong phép lạ. Con chưa có khả năng chấp nhận sự thật rằng trước khi hoàn cảnh vỏ ngoài của con thay đổi thì con phải thay đổi hoàn cảnh nội tâm của con trước đã.  

Bước ngoặt kế tiếp trên đường tu sẽ đến khi con đủ trưởng thành để bắt đầu tìm kiếm cái xà trong mắt mình thay vì nhìn thấy, hay phóng chiếu ra, những cái giằm trong mắt người khác. Trước điểm quẹo này thì con vẫn còn học hỏi qua giáo lý vỏ ngoài cùng những trải nghiệm trong đời – nói cách khác, đó là trường đời cay đắng. Trong tư cách là một thày tâm linh, ta chờ đón thời điểm khi một dòng sống trở thành “dạy dỗ được” – khả huấn – nghĩa là dòng sống nay đã sẵn sàng có sự liên hệ nội tâm trực tiếp với vị thày tâm linh. Đây là điểm khi con gia nhập trường học chỉ đạo nội tâm thay vì trường đời vỏ ngoài.

Yếu tố chủ yếu của con đường tâm truyền này là con luôn luôn soi gương và tìm xem có cách nào con cải thiện được chính mình. Con ngừng không tìm kiếm lầm lỗi nơi người khác để làm cái cớ cho mình khỏi phải cải thiện bản thân. Chính sự sẵn lòng tự thay đổi này khiến con trở thành khả huấn, cho nên đây là một đức tính tuyệt vời mà ta hoàn toàn không có ý chê bai.

Tuy nhiên khi trưởng thành tâm linh hơn, con cần nhận ra rằng cái khuynh hướng luôn muốn tự cải tạo có thể đi quá đà, và điều này đặc biệt đúng trong quan hệ với người khác. Là người tầm đạo chân thành, con có xu hướng nghĩ rằng nếu con có bất đồng, xung đột hay thậm chí một sự khác biệt quan điểm với ai khác, thì con là người cần phải tự cải thiện. Điều này chỉ đúng cho tới một điểm nào đó thôi, bởi vì cho tới khi nào con còn dính mắc và chưa bình an, thì đúng là con cần tự cải thiện.

Tuy nhiên, cái mà con cần cải thiện KHÔNG phải là khả năng lý luận thuyết phục người khác, mà là khả năng phân biện xem người đó có khả huấn hay không. Và khi con nhận ra là người đó không khả huấn, con cần buông bỏ mọi ham muốn giáo huấn họ, và con hoàn toàn an bình với sự kiện họ tin chắc tuyệt đốt là con sai lầm, và con cũng tuyệt đối không thể làm gì được để khiến họ thay đổi ý kiến. Con chỉ cần buông chuyện đó ra và bước đi.

***

Ta hoàn toàn hiểu được là nhiều người tầm đạo chín chắn đã trau dồi một lòng chân thành muốn giúp người, và điều này chính là điều đánh gạt họ. Nếu cá nhân con đã vượt lên trên tư duy trắng đen thì con dễ dàng thấy được người kia đang bị kẹt trong lối tư duy này. Con biết tư duy này sẽ chỉ khiến cho người kia bị đau khổ, con biết họ cần thoát ra, và con vô cùng mong muốn họ tăng trưởng càng nhanh càng tốt hầu tránh khỏi mọi đau khổ. Nhưng con cần nhận ra là khi nào họ còn bị kẹt trong tư duy đen trắng thì họ không là người khả huấn. Họ chưa cởi mở ra để nhận được giáo lý tâm linh cao hơn mà con thấy được.  

Ta thông cảm được sự cám dỗ của con. Con thấy rõ sự ngụy biện trong lập luận của người kia. Và con dư sức nghĩ ra môt lập luận hoàn toàn hữu lý mà con cho là sẽ chứng minh những thiếu sót trong niềm tin của họ. Và con nghĩ rằng nếu con đưa ra lập luận này cho họ, ho sẽ phản ứng y như là con sẽ phản ứng. Thế nhưng con cần hiểu là chính vì người đó không ở cùng mức tâm thức như con, cho nên họ sẽ KHÔNG phản ứng lại giống như con!

Lập luận của con sẽ hoàn toàn không có ký gì hết đối với họ khi nào họ chưa vượt lên khỏi tầm mức suy nghĩ trắng đen. Cho nên điều tốt nhất mà con có thể làm là chấp nhận những người như thế cần phải ở lại trong trường đời cay đắng cho tới khi họ bị cay đắng quá nhiều lần đến độ họ phát ớn. Và cuối cùng họ sẽ thốt lên: “Ủa, có ai đang gõ cửa vậy? Có ai đang muốn nói với tôi điều gì và đang gõ cửa kia kìa?”

Con cần phải nhận ra rằng hành tinh này là một lớp học, và lớp học đã được thiết kế khôn ngoan để nhận đủ mọi loại học sinh. Các hoc sinh vỡ lòng đang học trường đời cay đắng, và họ cần ở lại đó cho tới khi họ sẵn sàng lên lớp. Cho nên nếu con là một người tầm đạo đã chín chắn hơn, con nên tránh có những sự tương tác nơi con tìm cách lý luận với trạng thái tâm thức của họ. Thay vào đó, con nên tập trung sự chú ý của con vào những người đã leo lên tới mức khả huấn.  

Để giúp con làm được điều này, ta gửi con câu sau đây để con suy ngẫm: “Vì mục đích đó mà ta đã sinh ra, và vì công cuộc đó mà ta đã giáng thế, đó là để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì hãy nghe giọng ta.” (John 18:37)  

Đây là vai trò của của những ai đại diện cho tâm thức Ki-tô trên địa cầu, và mọi người tầm đạo chân thành đều nên nỗ lực trở thành một người trong số đó. Tuy nhiên, để thực sự đại diện được Ki-tô, con phải cố gắng đạt được sự không dính mắc.

***

Con đạt được sự không dính mắc bằng cách suy ngẫm về luật tự quyết. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết. Điều này có nghĩa là khi con gặp gỡ một người phán xét, buộc tội con hay niềm tin của con, con hoàn toàn chấp nhận cho người đó có quyền có quan điểm đó cũng như bày tỏ quan điểm đó. Nếu quan điểm của họ phát xuất từ một tư duy đen trắng, rõ ràng là thiên vị hoặc thiếu chính xác, con hoàn toàn chấp nhận là họ có quyền ở mức tâm thức của họ.

Nhưng sau đó con cũng nhận ra là con có quyền tự quyết của con, nghĩa là con có quyền có những niềm tin mà con có, và sống cuộc đời của con mà hoàn toàn không bị những người bất đồng ảnh hưởng. Khi con thực sự chấp nhận quyền tuyệt đối của con để sống theo niềm tin của mình, thì con mới có thể tránh khỏi bị những người bất đồng đe dọa mình. Con cũng tránh khỏi cảm giác mình bị bó buộc phải cứu họ ra khỏi chính họ. Và như thế, con nay có khả năng nói lên sự thật cao nhất mà con thấy được mà đồng thời hoàn toàn không dính mắc vào phản ứng của người kia, thậm chí con còn không có bất kỳ mong muốn họ sẽ phản ứng ra sao.  

Con có thấy được điều ta muốn nói? Có một sự khác biệt vi tế nhưng cơ yếu giữa việc nói lên sự thật với ý định thuyết phục người khác và việc nói lên cùng sự thật đó một cách hoàn toàn không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, con có thể nói lên cùng một sự thật, ngay cả dùng cùng những từ ngữ, nhưng ý định của con thì khác hẳn. Và khi ý định của con hoàn toàn tinh khiết, con không vướng mắc vào kết quả. Con chỉ làm hành động chính đáng mà không bám mắc vào quả trái của hành động.  

Ta muốn nói rõ, đây là một mục tiêu để con cố đạt được, cho nên con không nên tự chê trách mình nếu con không đạt được ngay lập tức. Khi con sống trong thế giới vật chất, con rất dễ bị choáng ngợp bởi những áp lực đủ kiểu. Chính ta cũng không luôn luôn bình thản khi ta bước chân trên địa cầu cách đây 2000 năm, và đó là tại sao ta đã nóng giận khi ta lật bàn ghế của bọn đổi tiền, hay khi ta gay gắt một cách không cần thiết với các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay cả khi ta thường hay cáu kỉnh với các môn đồ của ta. Dù sao đi nữa, điều quan trọng cho người tầm đạo trưởng thành là nhận ra tầm quan trọng của sự không dính mắc toàn diện, và cố gắng đạt được sự không dính mắc thay vì nghĩ rằng mình phải cố gắng thuyết phục người khác giỏi hơn.       

***

Ta không muốn người đọc bài này lý luận rằng mình không bao giờ được đáp trả lại những người có tư duy đen trắng. Có nhiều trường hợp mà sự trả lời sẽ hoàn toàn vô ích và chỉ lãng phí thời gian lẫn sức lực của con. Nhưng trong một số trường hợp, việc trả lời sẽ là điều thích đáng hầu con làm chứng cho sự thật cao hơn mà con nhìn thấy. Và khi con vượt lên trên nỗi bực đọc, con sẽ có tự do để trực nhận lúc nào mình cần trả lời và lúc nào mình bước đi.   

Ta cũng muốn nói rõ là con không nên sử dụng tâm trí vỏ ngoài để lượng định xem người kia có khả huấn hay không. Đừng rơi vào cám dỗ đánh giá theo bề ngoài. Chẳng hạn, khi người kia cởi mở với những tư tưởng mới, điều này không có nghĩa là họ đã nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân họ, hay ngay cả đã hiểu được rằng chìa khóa của sự thay đổi ngoại cảnh chính là sự thay đổi nội cảnh. Có những người cứ nhảy từ đạo sư này tới đạo sư kia, từ giáo lý này sang giáo lý kia, mà vẫn không đạt tới cái nhận biết sẽ biến họ thành người khả huấn. Thậm chí có cả những người đã theo học các chân sư thăng thiên từ hàng thập niên mà vẫn không khả huấn, bởi vì đơn giản họ vẫn chưa sẵn lòng soi mình trong gương. Cho nên, con phải đi xa hơn cái trí vỏ ngoài và bước theo sự hướng dẫn bên trong của con.

***

Ở cấp độ thấp nhất của tư duy đen trắng là những người tin rằng tôn giáo mà họ đã lớn lên là tôn giáo chân chính duy nhất. Nói cách khác, họ đã không chọn gia nhập tôn giáo đó và cũng chưa từng chất vấn xem nó có căn cứ đến đâu. Ở mức này, sẽ có rất ít tăng trưởng vì họ không mở tâm ra cho ý tưởng mới.  

Ở cấp độ kế tiếp là những người đã cởi mở ra với ý tưởng mới. Đây là những người thường rời bỏ tôn giáo của tuổi thơ để đón nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên họ vẫn chưa thoát ra khỏi tư duy đen trắng, và bây giờ họ phải dán nhãn cho tôn giáo cũ là hoàn toàn sai lầm và tôn giáo mới là hoàn toàn đúng đắn. Đây là một bước tiến tiềm năng, bởi vì ít ra họ đã khởi sự chuyển bước. Tuy nhiên, hiểm họa nằm sẵn bên trong là tự ngã sẽ đưa họ vào một con đường quanh co sẽ tốn họ rất nhiều thời gian. Có một cơ chế tâm lý là để rời bỏ một hệ thống tín ngưỡng và chấp nhận một hệ thống mới, người ta phải chấp nhận là cái cũ sai lầm, tức là mình đã bị những ý tưởng sai lầm lừa dối.

Trong hầu hết trường hợp, người ta sẽ tránh né chuyện này ở mức ý thức bằng cách quy tất cả trách nhiệm cho tôn giáo cũ và bảo rằng mình đã bị đánh lừa, thao túng, ép buộc, tẩy não hay bất cứ lý do nào khác. Nhưng ở mức tiềm thức, họ biết rằng nếu họ đã bị đánh lừa một lần rồi thì họ có thể bị đánh lừa một lần nữa. Cho nên mặc dù họ đã có tiến bộ, tư duy đen trắng của họ có nghĩa là họ đã phải mua sự tiến bộ đó với giá cao, là cái giá của sự bất an nội tâm sâu sắc.

Để đối phó với sự bất an này, việc thấy mình đang làm đúng trở thành vô cùng quan trọng. Nói cách khác, họ phải có lý khi họ vạch trần tín ngưỡng cũ, và họ cũng phải có lý khi họ trình bày tín ngưỡng mới là hoàn toàn đúng. Tự ngã sử dụng nỗi bất an này để kiểm soát họ và ngăn cản họ vươn lên mức cao hơn nơi họ nhận trách nhiệm về bản thân và do đó bỏ lại đằng sau lối suy nghĩ đen trắng.    

Như ta đã giải thích trong các bài giảng về tự ngã, phương thức vận hành của tự ngã là nó nâng một ý tưởng nào đó lên địa vị không thể sai lầm, tức là không bao giờ được phép chất vấn. Thế là tự ngã nay thuyết phục những người đó là họ không bao giờ được cho phép mình bị chứng minh là sai lầm, bởi vì nếu họ sai lầm, một điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra. Cho nên họ bước vào một tư duy thường xuyên cảm thấy mình bị đe dọa, và họ không ngừng tìm cách bác bỏ mọi ý tưởng hay quan điểm nào có thể cho thấy là mình sai. Tất nhiên, điều này sẽ khiến họ không thể nhìn nhận lỗi lầm, và nếu không thể nhìn nhận lỗi lầm thì làm thế nào họ sẽ học hỏi và tăng trưởng được đây?

***

Thế là bây giờ họ bước vào một lối tư duy nơi họ dồn mọi nỗ lực tâm trí để chứng minh là mình đúng. Và một khía cạnh của tâm lý này là họ cảm thấy một nhu cầu muốn đi truyền giáo. Vì thật vậy, nếu họ có thể cải đạo cả thế giới vào hệ thống tín ngưỡng của họ thì tự ngã sẽ cảm thấy là nó đúng. Và họ bắt đầu đi cổ võ cho tín ngưỡng của họ một cách hung hăng, nhưng vì họ vẫn suy nghĩ đen trắng cho nên họ không thể chỉ tập trung vào chuyện nói tốt về tín ngưỡng của mình, mà họ cũng phải nói xấu về tín ngưỡng của người khác. Cách lý luận của tự ngã là nếu có thể phá hủy được niềm tin của người khác, thì rồi người đó sẽ phải chấp nhận hệ thống của mình là hệ thống đúng đắn độc nhất.     

Trên cơ bản khi làm như vậy, những người như thế đã tự đặt mình vào một tâm trạng không ngừng xung đột với tất cả những ai không đồng ý với mình. Họ phải bác bỏ tất cả những gì có vẻ đe dọa niềm tin của họ, và họ phải tiêu diệt niềm tin của người khác. Kỳ thực, đây chính là chủ trương của tự ngã cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Mặc dù họ thường biện hộ là họ chỉ đang cố cứu cho người khác khỏi rơi vào địa ngục, nhưng thực tế là họ đã bị tự ngã hoàn toàn khống chế, và thường khi họ cũng bị khống chế bởi những tà thể mà ta gọi là Đám Phá rối. Và như vậy, họ sẵn lòng phá nát tín ngưỡng của người khác hầu bảo tồn tín ngưỡng của mình.      

Thật ra, tự ngã của những người như thế không có chủ ý muốn chứng minh một hệ thống tin tưởng nào là hệ thống đúng đắn duy nhất. Đơn giản, tự ngã chỉ đang cố đánh lạc hướng sự chú ý của họ để họ không phát hiện ra tự ngã và bắt đầu gỡ cái xà khỏi mắt mình. Cũng vậy, các tà thể không hề có ý muốn chứng minh sự vượt trội của bất kỳ hệ thống tin tưởng nào. Chúng chỉ cố lừa gạt người ta nhảy vào những trận chiến tín ngưỡng bất tận, để họ làm tha hóa năng lượng mà các tà thể rất cần hầu sống sót.   

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo đã chín chắn, con cần nhận ra là nếu con đối thoại với ai đó để cố thuyết phục họ là niềm tin của họ sai lầm, thì con đang đe dọa nền tảng cái nhìn của họ về cuộc sống. Đối với họ, việc không bao giờ bị chứng tỏ là sai chính là một vấn đề sinh tử. Chẳng hạn, nếu con cố sửa sai một điều gì mà họ đã nói – cho dù là họ sai trái rành rành – thì họ sẽ tức khắc bác bỏ mọi điều con nói mà không thực sự suy nghĩ sâu hơn. Họ sẽ đơn giản không đếm xỉa gì tới ý kiến của con, bởi vì họ đã quyết định là những điều con nói không thể nào đúng, và họ sẽ chỉ tìm cách bác bỏ cho bằng được. Tư duy đen trắng sẽ LUÔN LUÔN tìm ra cách bác bỏ bất cứ lập luận nào mà con đưa ra từ một mức tâm thức cao hơn.      

Một khía cạnh khác là khi con đe dọa niềm tin của những người như thế, họ sẽ trả đũa bằng cách tấn công ngược lại. Nếu họ thực sự bị mắc kẹt trong sợ hãi, họ sẽ sẵn sàng tiêu diệt con hầu bảo toàn cái ảo tưởng là họ có lý. Nếu họ ít mắc kẹt hơn trong sợ hãi, họ sẽ tìm cách đánh phá niềm tin hay tín ngưỡng của con một cách chung chung. Con cũng cần nhận ra là rất nhiều người như vậy không có khả năng tự chủ. Cho nên con không đang đối thoại với một người mà con có thể lý luận. Con đang phải đối đãi với tự ngã của một người, hay những tà thể bóng tối đang tác động qua người đó. Đó là lý do tại sao con gặp phải những sự tấn công vô cùng hung hãn và độc địa. Ta không đang cố bênh vực cho những tấn công đó, mà ta đang chỉ ra cho con rằng họ không hoàn toàn tự kiểm soát được chính họ. Do đó, con cần nhận rõ là nếu con bước đến gần một con chó dại, con không nên ngạc nhiên nếu nó cắn con. Và con thực sự không nên trách cứ họ, vì con phải biết là con đang bước vào tình huống như thế nào.     

***

Khi con đối xử với những người có tư duy đen trắng, con cần lưu ý là họ sẽ phóng chiếu trạng thái tâm thức của họ lên con, tức là con không được ngạc nhiên nếu họ buộc tội cho CON là con đang làm chính điều mà họ đang làm. Ta cần nói lên điều này cho con, bởi vì khi con biết trước chuyện gì sẽ xảy ra, con có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận vô nghĩa khi con cố bác bỏ những gì không thể bác bỏ được nếu người kia cứ khăng khăng giữ lấy tư duy trắng đen của họ.

Điều này không có nghĩa là đôi khi con không thể giúp cho những người như thế vươn lên trên tâm trạng của họ. Nhưng để làm được điều này, con phải tạo sự bất ngờ bằng cách không làm những gì họ chờ đợi. Những người như vậy sẽ chờ đợi là khi họ kết án con, con sẽ tìm cách bác bỏ lời kết án của họ và kết án ngược lại. Nếu con muốn có chút hy vọng chạm được con người thực của họ đằng sau hàng rào phòng thủ kiên cố, con cần gây cú sốc bằng cách không phản ứng như họ chờ đợi. Đó là một lý do tại sao ta dạy rằng con không nên cưỡng lại cái ác mà nên chìa má kia ra. Có khi cách hồi đáp này sẽ khiến họ bị sốc đến độ họ sẽ suy nghĩ lại cách cư xử cũng như tư duy của họ.

Điều ta muốn nói là nếu một người tầm đạo trưởng thành quyết định đối thoại với những người mang tư duy đen trắng, con nên biết rõ con đang bước vào một tình huống như thế nào. Thường khi, đây là một công việc vô ơn, mà xác suắt thay đổi tích cực thì khá thấp. Cho nên điều xây dựng là con nên xem đó chủ yếu là một cách thử thách xem ý định của con tinh khiết đến đâu, và mức độ không dính mắc của con cao như thế nào. Con hãy xem đó là một kinh nghiệm học hỏi để con tăng trưởng. Còn việc tăng trưởng của người kia thì con hãy để mặc cho quyền tự quyết của họ.

Cách nào tốt nhất để người tầm đạo diễn giải giấc mơ?

Hỏi: Nhiều người ưa thích nhắc đến giấc mơ của mình. Họ xem giấc mơ là một nguồn tiết lộ về tương lai và nhiều chuyện khác. Nhưng việc diễn giải giấc mơ rất khó khăn. Xin thày vui lòng làm sáng tỏ vấn đề này? Giấc mơ có thể chỉ ra được điều gì hữu ích hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả thực là con có thể nhận được những sáng ngộ giá trị qua giấc mơ, nhưng như con vừa chỉ ra, việc diễn giải giấc mơ có thể khó khăn.

Để diễn giải một cách đúng đắn, con phải khởi sự ở chỗ nhận ra rằng có nhiều loại giấc mơ khác nhau, có thể nói là nhiều tầng cấp giấc mơ khác nhau. Bộ não con người là một bộ phận vô cùng phức tạp, và nó có thể bị ảnh hưởng sâu đậm bởi các hóa chất trong cơ thể. Vì vậy, nhiều giấc mơ không là gì khác hơn một số phản ứng hóa học của bộ não sản xuất ra một số hình ảnh hay ý tưởng trong giấc ngủ. Nói cách khác, nhiều giấc mơ chỉ đơn giản là phản ứng hóa học, và do đó con không nên cho nó bất cứ ý nghĩa nào.

Khoa phân tâm học (psychoanalysis) được dựa trên một sự nhìn nhận đúng đắn rằng giấc mơ có thể cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những điều đang xảy ra trong tâm tiềm thức của một người. Nhưng bởi vì nhiều giấc mơ chỉ là ảo ảnh hóa học, cho nên con không thể cố phân tích mọi giấc mơ một cách bừa bãi được. Ta đã thấy nhiều người nghiên cứu kỹ lưỡng giấc mơ của mình và cứ cố rút tỉa ra ý nghĩa từ mọi chuyện. Làm như vậy chỉ lãng phí thì giờ, và còn có tiềm năng khiến con có những quyết định sai lầm về đời mình.  

Con cũng cần lưu ý rằng con không thể giải thích giấc mơ đúng đắn bằng lý trí con người. Trí năng con người là một khả năng tương đối, và đơn giản, nó không nói cùng một thứ ngôn ngữ như những tầng lớp sâu thẳm trong dòng sống của con. Có quá nhiều người, kể cả nhiều nhà tâm lý học, cố dùng lý trí để giải thích giấc mơ, và một lần nữa, điều này sẽ dẫn tới nhiều sự bối rối, hay thậm chí những kết luận sai lầm. Ta nói với con, nhiều người đã từng bị cách diễn giải thuần lý trí này gạt gẫm, dù cho là diễn giải của chính họ hay của một nhà tâm lý chuyên nghiệp.

Cho nên bước đầu tiên để giải thích giấc mơ là nhìn nhận rằng một số giấc mơ là do phản ứng hóa học trong bộ não sản xuất ra. Bước kế tiếp là mở mang một khả năng phân biện nào đó sẽ giúp con nhận ra những giấc mơ thực sự quan trọng. Cách duy nhất để phát triển khả năng phân biện này là tăng triển khả năng trực giác, tức là sự tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con. Khi con gia tăng khả năng trực nhận, con sẽ bắt đầu nhớ được một giấc mơ nào đó khi con ngủ dậy, và cảm thấy đó là một giấc mơ quan trọng.

Khi con cảm thấy giấc mơ quan trọng, con cần tránh dùng lý trí để diễn giải. Thay vào đó, con cần nỗ lực bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và nhận được sự sáng ngộ trực giác về tầm quan trọng của giấc mơ. Một dụng cụ hữu ích để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô là kỹ thuật hòa điệu nội tâm được đăng tải trên trang mạng này. Ta cũng mạnh mẽ khuyến cáo con sử dụng kỹ thuật bảo vệ tâm linh, bởi vì một số giấc mơ có thể là sự phóng chiếu từ một nguồn bên ngoài tâm con.

Cũng có thể hữu ích là sự nhìn nhận có hai loại giấc mơ quan trọng cơ bản. Một loại giấc mơ là thông điệp từ những tầng sâu của dòng sống. Dòng sống đang cố giao tiếp với tâm ý thức của con để nói cho con biết trong tâm tiềm thức đang có điều gì cần giải quyết. Sự giải quyết này chỉ xảy đến khi nào con hiểu được vấn đề một cách ý thức, rồi lấy một quyết định ý thức sẽ giải quyết vấn đề. Các chân sư đã cho con nhiều lời dạy suốt trang web này, đặc biệt là trong sách. Tuy nhiên, nhiều quyển sách về tâm lý học và khoa tự cải tiến cũng có thể giúp con hiểu sâu xa hơn về tâm lý con người. Sự thông hiểu này sẽ giúp con sử dụng những giấc mơ đó, cũng như sẽ cho phép cái ta Ki-tô gửi cho con những giấc mơ thường xuyên và rõ ràng hơn về những điểm nghẽn trong tiềm thức đang ngăn trở sự tinh tấn tâm linh của con.  

Một loại giấc mơ khác có thể gọi là những điềm báo. Đây có thể là một cảm giác cảnh báo, hay ngay cả một giấc mơ về một hoàn cảnh đặc biệt nào đó chưa diễn ra trong vũ trụ vật chất. Một lần nữa, điều quan trọng là con không nên diễn giải giấc mơ đó bằng lý trí vỏ ngoài. Nếu con nhận được một điềm báo dưới hình thức một lời báo động, điều quan trọng là con không được rơi vào một trạng thái sợ hãi, bởi vì chính sợ hãi sẽ làm mờ tầm nhìn cùng khả năng phán đoán của con. Thay vào đó, con hãy sử dụng một kỹ thuật hoà điệu nội tâm và nhận sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô của con.

Mặc dù giấc mơ có thể quan trọng, ta phải nói với con rằng những giấc mơ quan trọng chỉ đơn giản là một cách giao tiếp khi cái ta Ki-tô cố gửi một thông điệp cho tâm ý thức của con. Nếu con cứ nỗ lực tăng triển sợi dây liên lạc với cái ta Ki-tô, con sẽ ngày càng nhận được thêm nhiều thông điệp như thế, và con sẽ bắt đầu nhận được cả khi con còn thức và hoàn toàn tỉnh táo.

Cho nên ta khuyên mọi người nên tăng cường sợ dây liên hệ này thay vì trông cậy vào những giấc mơ vì đây có thể là một cách giao tiếp phần nào thiếu xác thực. Ngay cả một giấc mơ quan trọng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi chất hóa học trong não, và rất có thể một thông điệp khởi đầu là một thông điệp đích thực từ cái ta Ki-tô sẽ bị bộ não bóp méo đi trước khi truyền đến được tâm ý thức. Cho nên sẽ tốt hơn nếu con có thể thiết lập một mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô của con, vì cách giao tiếp này sẽ ít phụ thuộc vào hóa học bộ não hơn.

Cũng quan trọng là sự kiện con cần nhìn nhận rằng dòng sống của con có thể du hành ra khỏi cơ thể trong giấc ngủ. Dòng sống có khả năng đi vào các cõi tâm linh và tham dự các lớp nhập thất của các chân sư thăng thiên. Chúng tôi có nhiều khóa nhập thất mà các dòng sống có thể vào học trong giấc ngủ ban đêm. Có khi con có thể thức dậy buổi sáng mà vẫn còn nhớ mình đã đến tham dự một lớp học như thế. Ta đã có giảng dạy về sự kiện này ở những nơi khác, kể cả một kỹ thuật để giúp con đi tới lớp nhập thất.

Thượng đế đã không tạo ra sự chết

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con không hiểu nổi mục đích của sự chết trong cõi này. Con không hiểu làm thế nào dòng sống của con đã chọn đến một cõi có sự chết và đau khổ – đặc biệt là một cõi nơi sự chết và đau khổ là của một sinh thể con thương yêu. Tại sao Thượng đế lại lấy đi con chó của con, nó là tất cả đối với con? Con không hiểu tại sao ngài lại cho phép điều đó xảy ra… Ngài lấy nó đi khỏi con chỉ khiến con luôn luôn mong ước nó trở về với con… để con có thể chăm sóc và tiếp tục yêu thương nó. Tình yêu của con không quan trọng bằng tình yêu của ngài hay sao? Nếu con cần xin một phép màu từ Thượng đế thì đâu là cách đúng đắn và hữu hiệu nhất để cầu xin? Con có cầu xin con được đưa ngược thời gian, trở về thời con chó của con còn sống? Hay cầu cho đống tro của nó sống trở lại một cách thần tiên? Tại sao Thượng đế không lấy đi người nào đang làm hại thế giới thay vì một dòng sống vô tội đem lại bao tình yêu thương? Tại sao Thượng đế lại cho phép một kẻ sát nhân độc ác sống sót thay vì một dòng sống vô tội mang ý nghĩa to lớn đối với một ai đó?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Người bạn yêu dấu của ta, ta cảm được niềm đau và nỗi buồn của con. Nếu con cố gắng vượt qua cảm giác buồn đau vỏ ngoài cùng các suy nghĩ dằn vặt và trụ vào trái tim của con, ta sẽ cho con ngọn lửa an ủi đích thực sẽ tiêu hủy nỗi buồn trong con. Tuy nhiên, đây phải là một trải nghiệm cá nhân mà ta không thể trao cho con trên trang mạng này. Do đó con phải quyết định hòa điệu với tim ta bằng cách sử dụng bài tập mà ta đã ban cho.      

Nhưng ngay bây giờ, hãy để ta cố trả lời câu hỏi của con. Sự chết thật sự không do Thượng đế tạo ra, và nó không nằm trong hoạch định nguyên thủy của hành tinh địa cầu. Như ta đã giải thích suốt trang web này, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho con người. Con người đã lạm dụng quyền tự quyết này và đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi đó họ đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Con người đã mất liên lạc với Thượng đế.

Sau khi mất liên lạc xảy ra, các dòng sống đã làm tha hóa năng lượng của Thượng đế đến độ họ đã thay đổi mọi khía cạnh của sự sống trên hành tinh. Quy luật của Thượng đế định rằng con không thể thăng vượt lên cõi tâm linh cho tới khi con cân bằng mọi năng lượng tha hóa mà con đã tạo ra trong vũ trụ vật chất. Quy luật Thượng đế cũng định rằng nếu con làm tha hóa năng lượng Thượng đế, dòng năng lượng xối xuống từ cái ta tâm linh sẽ bị giảm thiểu tương đương với mức lạm dụng ánh sáng Thượng đế. Rốt cuộc sẽ đến một lúc khi khối lượng này đủ lớn để khiến cho sự sống của cơ thể vật lý không thể duy trì được nữa. Hậu quả là cơ thể vật lý của con người phải chết đi, thay vì được nâng độ rung lên cao hơn để dòng sống được thăng hoa vào cõi tâm linh. Vì dòng sống chưa cân bằng mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp quả – trước khi cơ thể qua đời, cho nên luân hồi mới trở thành điều cần thiết.    

Do sự lạm dụng năng lượng Thượng đế suốt nhiều kiếp sống, nay con có một tình trạng vô cùng phức tạp trên địa cầu, một tình trạng khác rất xa với ý muốn và hoạch định ban đầu của Thượng đế. Sự chết bây giờ đã trở thành một thực tế dường như không thể tránh khỏi trên hành tinh. Một phần lớn sứ vụ của ta thuở trước là chứng tỏ cho con người thấy rằng sự chết không bắt buộc phải là một phần của sự sống. Sự chết không nhất thiết phải bắt buộc bởi vì dòng sống có khả năng chinh phục sự chết bằng cách bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân và như vậy thăng hoa lên cõi tâm linh.  

Ta hy vọng con sẽ hiểu được rằng tình trạng mà con hiện thấy trên địa cầu không phải do Thượng đế tạo ra và cũng không phải là những gì Thượng đế mong muốn cho con người. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng Thượng đế đã lấy đi con chó của con. Con chó của con đã bị tước mất do một tình trạng nghiệp quả thật phức tạp. Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn kinh nghiệm đau thương đó, con sẽ nhận ra rằng điều đã thực sự xảy ra trên địa cầu là con người đã đánh mất mối liên hệ với các vị thày tâm linh của mình. Vì vậy, chính những hành động của mình – khi năng lượng tha hóa được gửi trả về dưới hình thức nghiệp quả – đã trở thành người thày của mình.  

Có thể nói, sự chết cũng đã giữ vai trò làm một người thày. Sự chết dạy con người rằng – một khi con đã tự cắt đứt sự nối kết với Thượng đế – không một điều gì trong vũ trụ này là thường hằng. Cho nên con người có cơ hội sử dụng sự chết làm bàn đạp để trau dồi quyết tâm là mình sẽ vượt khỏi cõi vật chất vô thường và giành được sự sống thường hằng của dòng sống nơi cõi tâm linh. Sự chết cũng có chức năng dạy cho con người là mình không được cho phép mình có bám mắc tình cảm với bất cứ gì trong cõi vô thường, bởi vì bất cứ gì trong cõi này cũng có thể bị tước đi. Ngay cả sự sống vật lý rốt cuộc cũng sẽ bị lấy mất trừ khi con người nâng cao tâm thức.   

Những tình huống nghiệp quả phức tạp tạo ra trên địa cầu cũng giải thích tại sao một số người có vẻ tốt thiện và vô tội lại phải chịu đựng thảm họa trong khi có những người có vẻ xấu ác lại được phép sống còn, thậm chí còn phát đạt. Một lần nữa, điều này không xảy ra do ý định hay hoạch định của Thượng đế. Đó chỉ là nhân duyên, là sự tương tác giữa những chọn lựa mà con người đã có trong tiền kiếp và trong kiếp này. Ta cũng biết những lý lẽ sâu xa này sẽ không an ủi và làm vơi đi nỗi đau của con nhiều lắm. Tuy nhiên, đó có thể là lời giải thích sẽ rốt cuộc giúp con buông được nỗi đau.     

Con hỏi đâu là cách đúng đắn để cầu xin một phép màu từ Thượng đế cho con chó của con. Phép màu tốt nhất mà con có thể cầu xin là sự hiểu biết và chấp nhận rằng Thượng đế yêu thương con vô điều kiện, và ngài sẵn lòng trao cho con tình yêu này bất cứ lúc nào. Lý do con cảm thấy đau buồn đến như vậy về sự mất mát con chó của con là vì nó đã trao cho con tình yêu vô điều kiện, nó đã mở trái tim con ra để con có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với nó. Điều còn thực sự thiếu thốn và mất mát không phải là con chó, mà là tình yêu. 

Tuy nhiên, mọi tình yêu vô điều kiện đều thực sự đến từ Thượng đế. Điều mà con cảm nhận từ con chó là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con chó. Và điều con cảm thấy về con chó chính là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con gửi về con chó.

Nếu con cầu xin phép màu mở tim con ra, con sẽ nhận ra rằng phép màu đích thực của sự sống chính là dòng thương yêu vô điều kiện của Thượng đế chảy xuyên qua con. Rồi con sẽ nhận ra là dòng tình yêu không tùy thuộc vào bất cứ gì trong thế gian này, kể cả con chó của con. Vì vậy mà nhiều người khao khát tìm được một người bạn đời hoàn hảo, và họ nghĩ rằng phải chi họ tìm được người đó thì họ sẽ cảm thấy tình yêu vô điều kiện làm sao. Tuy nhiên, chìa khóa để cảm được tình yêu vô điều kiện là mở to cánh cửa trái tim con, mà qua đó tình yêu vô điều kiện của Thượng đế mới có thể xối xuyên qua con.

Một phần quan trọng của sứ mạng của ta trên địa cầu là chứng tỏ rằng mọi người đều có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với mọi người và mỗi người. Cho nên ta khuyến khích con hãy cầu nguyện để Thượng đế mở tim con ra hầu con cảm được tình yêu vô điều kiện của ngài cho mọi con người, và con học được cách biều hiện tình yêu đó cho mọi người.

Cơ hội thực sự khi con trải qua cái chết của một người, hay một con vật thân yêu, là con thăng vượt cảm xúc của con đối với sinh thể đó và mở rộng cảm xúc đó ra cho mọi sự sống. Thật sự có những người phải trải qua đau buồn và học được cách mở tim mình ra để tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua họ tràn ra mọi sự sống. Tiếc thay, cũng có nhiều người trải qua đau buồn mà lại đi vào tâm trạng đổ lỗi cho Thượng đế về sự mất mát của mình. 

Đây là sự chọn lựa căn bản mà con người sẽ có trong thế gian này. Liệu con sẽ có cái nhìn tích cực và mở tim mình ra cho tình yêu, hay liệu con sẽ có cái nhìn tiêu cực và khép tim lại. Khi con khép tim lại, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó trong thế gian bất toàn này mà con có thể dùng làm lý lẽ để đóng chặt tình yêu Thượng đế. Khi con mở tim ra, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó để con thương yêu, và con sẽ cảm thấy tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua con.   

Khi nhiều người bỏ mạng trong thảm họa

Hỏi: Thượng đế làm thế nào khi có hàng loạt sinh thể mất mạng trong thảm họa, chẳng hạn tại World Trade Center, chiến tranh, tai nạn máy bay, v. v… Những linh hồn này có được tạm giữ ở một nơi nào đó để họ thích nghi, hay họ được Thượng đế, các thiên thần, v. v…  chăm sóc ngay?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Vũ trụ vật chất chỉ là phần nổi của một tảng băng trôi, và như con cũng biết, phần lớn khối đá của tảng băng nằm ở dưới mặt nước. Ở bên dưới cái biết ý thức của hầu hết mọi người, có những cõi khác nữa. Như ta đã có giải thích, trong cõi vật chất có cả thảy bốn tầng, tương ứng với bốn tầng trong tâm con.

Và như ta giải thích chi tiết hơn trong một câu trả lời khác, hầu hết mọi người đều có một số tin tưởng và năng lượng tích tụ trong các “thể” cao hơn của mình, tức là cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Cho nên khi xác thân của một người qua đời, người đó đi về đâu sẽ tùy thuộc vào nơi có nhiều nhất chất liệu chưa được giải tỏa. 

  • Một dòng sống với nhiều tin tưởng và năng lượng cảm xúc chưa giải tỏa sẽ bị từ lực thu hút vào cõi cảm xúc.
  • Một dòng sống hoạt động trong lý trí nhiều hơn sẽ đi vào cõi lý trí.
  • Một dòng sống tâm linh hơn sẽ đi vào cõi bản sắc.

Ba cõi ở trên có những yếu tố và mẫu số rất khác với cõi vật chất ở dưới, cho nên ba cõi đó có khả năng tiếp nhận tất cả mọi dòng sống đang sống trên địa cầu..

Khi một thảm họa xảy ra, không có nhu cầu phải tạm giữ các dòng sống đó trong một trạng thái chờ đợi. Có rất nhiều thiên thần trong cõi tâm linh có thể hỗ trợ và giúp các dòng sống này đi tiếp hành trình.

Cũng có một số dòng sống đi vào một nơi tạm giữ sau khi qua đời, tuy nhiên đó là vì họ đã chọn như vậy. Đây là những dòng sống cảm thấy chưa sẵn sàng bước đi tiếp và tiếp xúc trực tiếp hơn với các sinh thể tâm linh. Vì vậy họ được phép ở lại một giai đoạn tạm thời nơi họ có thể một mình suy ngẫm về những trải nghiệm của mình. Các dòng sống này sẽ hàn gắn nhanh chóng hơn nếu họ cho phép chúng tôi giúp đỡ họ, tuy nhiên, một lần nữa, chúng tôi sẽ không áp đặt ý muốn của mình lên quyền tự quyết của dòng sống.

Có một cõi khác nữa gọi là Devachan mà vai trò là để giúp đỡ những dòng sống tâm linh hơn vượt qua những mong muốn chưa thỏa mãn của mình. Nhiều người cũng có thể được gia nhập các khóa nhập thất của các chân sư thăng thiên ở cõi bản sắc hay cõi ether. Ở đó, họ được học hỏi và được chữa lành hầu chuẩn bị cho kiếp đầu thai kế tiếp.  

Tại sao hỏa táng lại quan trọng

Hỏi: Khi một người đi qua tiến trình hỏa táng, có cần phải đặt thi thể vào đá lạnh trước đó hay không? Và liệu dòng sống/thân xác có cảm thấy khó chịu hay đau đớn gì không khi hỏa táng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có lý do tâm linh nào để phải đặt thi thể vào đá lạnh trước khi hỏa táng. Và tất nhiên, cũng không có lý do thiết thực nào phải làm như vậy. Dòng sống tách rời khỏi thân xác một lúc sau khi chết, thường thường ngay lập tức sau khi chết, và do đó không điều gì xảy ra cho thân xác mà có thể gây ra cảm giác đau đớn hay khó chịu cho nó. Cho nên dòng sống không hề cảm thấy bất kỳ sự khó chịu nào do hỏa thiêu. 

Tuy nhiên, ta xin nói thật rõ ràng là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đặc biệt khuyến cáo việc hỏa thiêu mọi thi thể. Lý do là vì việc hoả thiêu sẽ giảm thiểu mối rủi ro là dòng sống sẽ duy trì sự gắn bó tình cảm đối với thân xác và không thể bước vào ánh sáng. Hiển nhiên, đối với những dòng sống có khuynh hướng tâm linh, đây không phải là một vấn đề. Nhưng đối với những dòng sống còn dính mắc tình cảm với thân xác, họ sẽ ít xác suất hơn duy trì mối dính mắc này sau khi xác thân được hỏa táng. Việc mục kích xác thân bị thiêu hủy sẽ cho dòng sống một cảm giác kết thúc, dứt khoát, một cảm giác rằng nó không thể đi ngược trở lại được và do đó đã đến lúc nó phải tiếp tục tiến bước.

Có một số văn hóa hay tôn giáo tin vào xác thân vật lý sẽ sống lại thật sự, và niềm tin này có thể khiến cho dòng sống cứ gắn chặt vào thân xác đó. Điều này sẽ khiến cho dòng sống gặp khó khăn bước vào ánh sáng, bước vào cõi tâm linh. Một ví dụ là nền văn hóa Ai cập cổ đại chủ trương ướp xác thi thể. Các chân sư cực lực can ngăn tập tục này. 

Cho nên từ góc độ tâm linh, hỏa táng là một tiến trình thật quan trọng. Tất nhiên, hỏa táng cũng có một số ưu điểm thực tiễn quan trọng và do đó nếu mọi thi thể có thể được hỏa táng thì điều này sẽ rất ích lợi.

Tại sao gọi là trung đạo?

Hỏi: Chúng con biết rằng lời dạy của đức Phật về trung đạo không phải là trung điểm nằm giữa hai đối cực nhi nguyên. Con thắc mắc không hiểu tại sao lại gọi là trung đạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Chúng tôi, các chân sư, có giải thích nhiều lần là khi giảng dạy, chúng tôi không tìm cách đưa ra lời dạy cao nhất có thể được. Lý do là vì chúng tôi không giảng dạy trong khuôn khổ cái cao nhất, bởi vì tất nhiên, đó là một khái niệm nhị nguyên có cao, có thấp và có sự so sánh. Điều chúng tôi đưa ra là một lời dạy thích hợp với những người mà chúng tôi cố chạm được. Và chúng tôi phải thích ứng lời dạy cho hợp với văn hóa của họ, với hệ thống tín ngưỡng của họ, với trạng thái tâm thức của họ.

Cho nên vào thời khi ta truyền giảng các giáo lý của đạo Phật, tình thế chung là xã hội Ấn giáo đã trở nên xơ cứng do bao nhiêu lớp xây dựng ngụy tạo của người Bà la môn được đúc lại thành một con đường vỏ ngoài đầy nghi thức. Nhưng song song, Ấn độ cũng có một truyền thống lâu đời các vị khổ hạnh rút lui khỏi xã hội, tu tập hành xác với đủ mọi cách thức tra tấn xác thân cực đoan, gần như là để trừng phạt cơ thể đã giam cầm tâm trí mình bên trong.    

Và như vậy mục đích của ta là thu hẹp khoảng cách, vì nhiều người tâm linh thời bấy giờ cho rằng họ phải lựa chọn đi theo hoặc cực đoan này hoặc cực đoan kia. Và như chính ta đã ngộ ra, cả hai cực đoan đều không dẫn tới giác ngộ. Nhưng giác ngộ phải tìm được ở đâu đó, không phải ở giữa, mà trong một hướng nhìn mới.  

Cho nên vào thời điểm đó, khái niệm trung đạo, nhất là trong văn hóa phương Đông, không mang cùng ý nghĩa mà con thấy thời nay tại phương Tây. Tâm trí người Tây phương suy nghĩ theo lối đường thẳng hơn, và vì thế họ nghĩ tưởng trung đạo là trung điểm, là điểm ở giữa hai đối cực. Nhưng đối với tâm người Đông phương, nhất là vào thời buổi đó, trung đạo mang một khái niệm khác, một sắc thái khác về một cái gì đó vượt ra ngoài, vượt khỏi mọi cái nhìn cũ.

Nghiệp quả không là tiền định vì luôn luôn có chỗ cho lựa chọn cá nhân

Hỏi: Giê-su yêu dấu, hôm nay đứa con gái 17 tuổi của con hỏi con về vụ tấn công khủng bố ở Madrid, và làm thế nào có một số người lại được Số mệnh cứu vớt khi họ bị lỡ chuyến tàu, vân vân. Nó hỏi con phải chăng đó là một hành động của Số mệnh và con trả lời là đúng vậy.

Nếu thế thì những người đi trên chuyến tàu đó và bị thương tích tật nguyền suốt đời, hay là phải chết, cũng là một hành động của Số mệnh hay chăng? Con trả lời, có lẽ vậy. Rồi nó kết luận là vụ khủng bố cũng là việc làm của Số mệnh, và có lẽ chúng ta không thể đổ tội cho những kẻ khủng bố là đã góp tay vào Số mệnh. Con thấy khó lòng đồng ý với kết luận đó nhưng lý lẽ của nó không thiếu lô-gíc. Con giải thích cho nó về các tà lực và hậu quả của quyền tự quyết, nhưng con đã không thuyết phục được nó. Xin chân sư chiếu rọi một chút Ánh sáng trên vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng mà ước gì ta có thể thảo luận trong một bối cảnh an bình hơn. Lý luận của con gái con có một lô-gíc nào đó, và cô ấy cảm thấy như vậy là điều dễ hiểu mà thôi. Trên thực tế suốt bao nhiêu thời đại, rất nhiều người cũng đã chấp nhận cách lý luận như vậy. Nhưng ta phải nói, đó không phải là cách hiểu cao nhất về vấn đề này.

Đầu tiên chúng ta cần xác định xem chúng ta muốn nói gì khi dùng từ “số mệnh”. Ý nghĩa bình thường của từ này là trong vũ trụ có một lực nào đó định trước được một số sự việc.

Đời sống tâm linh của nhân loại vốn có một chiều hướng đi lên. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường rải truyền một số năng lượng tâm linh để nhẹ nhàng thúc ép mọi người đi lên cao hơn trong tâm thức. Do đó có thể nói là có một sức mạnh của số mệnh đang tìm cách giúp nhân loại vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Trong tiến trình phát triển này, một số khuôn nếp và tin tưởng cũ sẽ phải bị phá vỡ. Tuy nhiên, sức mạnh này của số mệnh nhắm vào việc thay đổi xã hội trên bình diện quy mô rộng lớn. Nó hoàn toàn không định đoạt cách xử sự của từng người, hoặc cách họ phản ứng lại những tình huống mà họ gặp trong đời sống. Nói cách khác, trong bức tranh toàn cảnh của hình thức số mệnh này, có rất nhiều khoảng trống để mỗi cá nhân có thể tự quyết lựa chọn.  

Như ta giải thích trên trang mạng này, mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này đều bị ảnh hưởng bởi sự chọn lựa của con người, và do đó trong một ý nghĩa nào đó, có thể nói là không có gì được định trước. Tuy nhiên, chọn lựa của con người có thể bị nhiều yếu tố ảnh hưởng. Con không thể hiểu được đúng đắn ý niệm tiền định nếu không xem xét đến thực tế của nghiệp quả và luân hồi, như ta có giải thích ở một nơi khác. Khi con hiểu rõ nghiệp quả, con sẽ nhận ra là rất nhiều tình huống xảy ra trong đời là kết quả của những chọn lựa mà con đã có trong tiền kiếp. Những chọn lựa này tạo ra một xung lực năng lượng được phóng ra vũ trụ, và khi xung lực này quay trở lại con trong một kiếp sống tương lai, nó có thể gây ra nhiều loại tai họa khác nhau.

Thật không có nghi ngờ gì là trong một tình huống như vụ đánh bom khủng bố, nghiệp quả là một yếu tố rất quan trọng. Có một số người đã thoát khỏi vụ đánh bom vì họ không mang nghiệp bị mất mạng hay bị thương tích. Một số người khác đã không thoát khỏi bởi vì họ mang nghiệp chướng từ những kiếp trước là họ phải trải nghiệm những điều mà họ vừa trải nghiệm trong biến cố này. Và cũng đúng là nghiệp quả đã là một ảnh hưởng to lớn trên những kẻ khủng bố khi họ lấy quyết định ra tay làm việc này. Họ đã bị điều kiện hóa bởi nghiệp quả mà họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Tuy nhiên, điều vô cùng quan trọng mà con cần hiểu là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện.  

Một trong những lý do nghiệp quả và luân hồi đã bị nhiều người ở Tây phương bác bỏ là vì đa số người Tây phương nhận xét, không sai, là không phải điều gì trong cuộc sống cũng được định trước. Tại Đông phương thì khác, hầu hết mọi người đều tin vào nghiệp quả và luân hồi nhưng nhiều người lại đẩy lời dạy này tới một cực đoan thật đáng tiếc. Thật vậy, nhiều người ở phương Đông tin rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng đã được ấn định bởi nghiệp quả từ những kiếp trước.

Hệ quả đáng tiếc của sự thể này là họ rất dễ rơi vào cái nhìn định mệnh về cuộc đời. Đâu có ích gì mà mình phải cố gắng cải thiện đời sống nếu mọi chuyện đã được nghiệp quả an bày sẵn rồi? Và đây chính là thái độ mà nhiều người Tây phương không thể nào chấp nhận, bởi vì họ tin rất sâu xa là con người có khả năng cải thiện đời sống và thay đổi số mệnh của mình. Người Đông phương cảm thấy dù mình có làm gì trong đời cũng chẳng mấy quan trọng. Cảm nhận này đúng đắn nhưng rất tiếc nó khiến cho nhiều người Tây phương vơ đũa cả nắm và bác bỏ toàn bộ ý niệm nghiệp quả lẫn luân hồi.  

Sự thật là nghiệp quả sẽ không bao giờ đứng trên, hay lật ngược lại, quyền tự quyết của một người. Nghiệp quả của con từ nhiều tiền kiếp sẽ tạo ra một số điều kiện khiến con thiên về một số chọn lựa nhất định. Chẳng hạn, những kẻ khủng bố tổ chức vụ đánh bom vừa rồi đã suốt nhiều kiếp bị bao trùm trong tâm thức cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tâm thức này rất có thể đã khiến họ bị thu hút vào một lý tưởng cực đoan trong kiếp này, và họ sẽ sử dụng lý tưởng đó làm cái cớ để tiếp tục những khuôn nếp và lực dư mà họ đã ôm lấy suốt bao nhiêu kiếp sống. Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là một người sẽ muốn tiếp tục mãi trên cái đà cũ như vậy, mà trái lại người đó luôn luôn có khả năng chọn lựa cách khác, phá vỡ khuôn nếp cũ để đưa đời mình về một hướng mới. Chính quyết tâm phá bỏ các khuôn nếp cũ là lý do chúng ta có thể hy vọng đời sống mỗi người cũng như đời sống của xã hội có thể cải thiện.   

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi điều trong thế gian đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã trao quyền tự quyết cho con người và do đó ngài đã từ bỏ việc kiểm soát mọi chi tiết vi mô xảy ra trên địa cầu. Nói cách khác, Thượng đế không có chút kiểm soát nào trên tình thế đã dẫn tới vụ đánh bom khủng bố ở Madrid. Ngài không muốn sự việc đó xảy ra, và một vụ tấn công như vậy không có chức năng gì trong kế hoạch toàn thể của ngài.  

Biến cố xảy ra là sự biểu hiện của nghiệp quả từ tiền kiếp phối hợp với những chọn lựa tự quyết của mỗi người trong kiếp này. Như ta đã nói, nghiệp quả từ tiền kiếp có thể tạo ra một thiên hướng nơi con, đẩy con về một số chọn lựa. Thế nhưng những chọn lựa này không được định trước. Con luôn luôn có sự chọn lựa, và do đó luôn luôn có khả năng phá vỡ những động lượng cũ và đưa đời mình về một hướng mới tích cực hơn. Con luôn luôn có khả năng chọn con đường cao ráo thay vì con đường thấp hèn. Tuy nhiên, nếu con không phá vỡ được động lượng cũ thì các tình huống của nghiệp quả sẽ không tránh khỏi phải trải ra, và đó là những gì con chứng kiến tại Madrid.      

Hiển nhiên, tình thế này là do những chọn lựa của kẻ khủng bố đun đẩy. Tuy nhiên, con không được bỏ qua sự kiện là người dân Tây Ban Nha cũng đã có một số lựa chọn dẫn đến tình thế đó. Một chọn lựa của họ là họ đã chấp nhận cái tâm thức khiến họ cảm thấy không cần phải thay đổi cách sống của mình hầu xây dựng một địa cầu công bằng hơn cho mọi người. Đây cũng chính là tâm thức đã dẫn đến vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, như ta đã nhận xét ở một nơi khác.   

Về tình hình tại Tây Ban Nha, thật vậy, nghiệp quả của quốc gia này đã góp phần vào tình thế và đã khiến cho nước này có những nhược điểm, dễ bị tổn thương. Nghiệp quả đó đã chồng chất trong nhiều thế kỷ, qua một số sự kiện như Tòa án Dị giáo, cách đối xử với người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, cuộc chinh phục châu Mỹ cùng một số biến cố đẫm máu khác. Tuy nhiên, vụ tấn công khủng bố này đã không hoàn toàn xoá bỏ hết nghiệp quả của cả nước. Còn nhiều biến cố nữa sẽ xảy ra, và vì vậy điều cực kỳ quan trọng là những người tâm linh tại Tây Ban Nha phải nỗ lực giảm thiểu tác động của các nghiệp chướng chưa thể hiện trên quốc gia mình. Những dụng cụ hữu hiệu nhất mà họ có thể sử dụg để làm công việc này là Ngọn lửa Tím và các bài cầu nguyện tràng hạt của Mẹ Mary.

Mặc dù nghiệp quả có thể rất chính xác cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, điều quan trọng cần nhớ là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện. Trong mỗi tình huống trong đời, luôn luôn có khả năng thay đổi kết quả của sự kiện. Chẳng hạn, con người luôn luôn có sự chọn lựa nâng cao tâm thức và hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Hẳn là đã có những người tại Madrid đã nhận được lời cảnh báo nội tâm khiến họ lỡ chuyến tàu. Nhưng cũng có những người chọn cách sống mộng du, đi qua cuộc đời như người ngủ say, không có nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Những người này đã không nhận được cảnh báo rồi phải mất mạng hay bị thương tích trong vụ đánh bom. Nhưng chính vì họ đã không chọn hòa điệu với cái ta Ki-tô mà họ không thể được cảnh báo. Nói cách khác, sự kiện họ bị thiệt mạng trong vụ tấn công không phải là kết quả những chọn lựa trong tiền kiếp, mà là kết quả những chọn lựa trong kiếp này.

Ta muốn giúp con hiểu là không có gì được khắc sẵn trên đá, không có gì được định trước. Có một lực trong vũ trụ luôn tìm cách giúp con người phát triển. Lực này lập ra một số mẫu số chung cho các diễn biến trên địa cầu. Song song cũng có lực của nghiệp quả, lập ra những mẫu số chi tiết hơn cho những gì có khả năng xảy ra trong đời sống một người. Nhưng ngay cả luật nghiệp quả cũng không định sẵn được mọi khía cạnh của đời sống người đó. Còn rất nhiều khoảng trống cho những quyết định tự do có thể thay đổi hướng đi cuộc đời và do đó giảm thiểu hay tránh hẳn một số nghiệp duyên nhất định. Nói cách khác, những chọn lựa của một người có khả năng giảm nhẹ tai họa hoặc ngược lại lôi kéo tai họa về mình.

Nếu tất cả mọi chuyện đều được định trước bởi nghiệp từ tiền kiếp, thì sẽ không còn chỗ nào để tạo nghiệp mới hay giảm nhẹ nghiệp cũ, và nếu thế thì làm cách nào một người có thể thoát được bánh xe luân hồi đây? Điều cực kỳ quan trọng là mọi người đừng rơi vào tư duy định mệnh. Không nên lý luận sai lầm là không có gì thực sự quan trọng trong đời bởi vì tất cả đã được định trước, cho nên chẳng ích gì mà cố thay đổi cuộc sống hay thay đổi xã hội.

Mọi chuyện đều tùy thuộc vào sự tự quyết của con người, và vì thế tất cả mọi chuyện đều quan trọng. Mọi lựa chọn mà con có, hoặc sẽ cải thiện cuộc sống của con, hoặc sẽ khiến nó tồi tệ hơn. Nếu con không làm gì thì khả năng là đời con sẽ tồi tệ hơn.

Ta có thể cam đoan với con là con người có khả năng thoát được những tai họa mà nghiệp quả ra lệnh. Thượng đế không có ý muốn trừng phạt con người. Cho nên nếu con người chịu học hỏi bài học và nâng cao tâm thức mình, nhiều khi các chân sư thăng thiên sẽ kìm hãm lại một số điều kiện nghiệp chướng đã có thể gây ra tai họa.

Trên thực tế, nếu chúng tôi, các chân sư, đã không làm vậy thì từ lâu nhân loại đã tự hủy diệt qua việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Cho nên nếu các con còn sống sót tới ngày hôm nay, đó chính là bằng chứng là chúng tôi rất sẵn lòng xóa bỏ nghiệp quả của con người – miễn là con người cũng sẵn lòng nâng cao tâm thức mình. Và đây chính là một trong những thông điệp quan trọng nhất mà ta muốn truyền đạt qua trang mạng này. Có thể nói, số mệnh là một mãnh lực không làm sao cản được, nó đun đẩy cuộc sống cứ bước mãi về phía trước. Tuy nhiên, những chọn lựa của mỗi người có khả năng quyết định hướng đi của lực định mệnh, cả trên bình diện cá nhân lẫn toàn cầu.

Vì vậy con có thể giải thích cho con gái con rằng quả là có một năng lực nghiệp quả đã sắp đặt tình huống dẫn đến vụ đánh bom khủng bố. Tuy nhiên nếu người dân Tây Ban Nha đã có những chọn lựa tốt hơn thì vụ đánh bom đã có thể tránh được. Cho nên, cách phản ứng tồi tệ nhất đối với tình thế này là trở thành một người thụ động, hay là đi theo chủ nghĩa hòa hoãn, và không làm bất cứ gì để ngăn chặn những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai. Muốn cho cái ác chiến thắng, chỉ cần những con người tốt thiện ngồi yên không làm gì.

Một cách phản ứng đáng tiếc khác là trở thành một kẻ hiếu chiến, cố chữa lửa bằng cách bồi thêm lửa vào ngọn lửa. Cách đáp ứng hay nhất là trở thành một chiến binh trong ý nghĩa tâm linh, sử dụng ngọn lửa tâm linh để thiêu đốt những điều kiện nghiệp quả khiến cho quốc gia mình cứ thu hút các tiềm năng tai họa trong tương lai. Một phương cách quan trọng khác là khai sáng mọi người về nhu cầu thay đổi đường hướng và trở thành một dân tộc tâm linh hơn. Và trong số những công việc cần làm đó là cần bỏ lại đằng sau quá khứ Công giáo của dân tộc Tây Ban Nha.  

Thái độ của Paul đối với phụ nữ

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Theo con hiểu, Paul là vị tông đồ yêu quý của thày, nhưng tại sao ông lại tỏ ra thờ ơ với phụ nữ khi ông bảo rằng phụ nữ không được dạy học, phải giữ im lặng trong nhà thờ và phải tuân theo luật lệ của đàn ông, v. v… Hay là đó không thực là những gì Paul đã giảng mà là người ta đã bẻ cong lời dạy của giáo hội ban sơ? Và nếu đây không phải là lời dạy của Paul thì đâu là lời dạy chính xác? Liệu những quyển kinh của phái gnostic về Paul có phản ánh xác thực hơn triết lý của ông? Con chỉ muốn biết sự thật. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta thương yêu tất cả các môn đệ của ta với tình yêu của Ki-tô, là tình yêu vô điều kiện. Điều này có nghĩa là ta thương yêu mọi người bất kể những hạn chế hay khuyết điểm hiện thời của họ. Nhưng tình yêu của ta không mù quáng, và ta thấy rõ những hạn chế mà mỗi người cần vượt qua để tăng triển tâm linh. 

Quả thật Paul có một thái độ đối với phụ nữ không phù hợp với thái độ và giáo lý của ta. Ta đã giải thích điều này khá tường tận trong bài giảng về quan hệ của ta với Mary Magdalene. Ta cũng có đề cập tới niềm hy vọng của ta là khôi phục phụ nữ vào chỗ đứng xứng đáng là những người tâm linh bình đẳng với phái nam. Ta đã giải thích ở một nơi khác là thái độ của Paul đối với phụ nữ không phù hợp với những kỳ vọng cao nhất của ta cho Paul hay cho các môn đệ khác.

Vậy ta không có ý muốn bào chữa hay giải thích thái độ của Paul đối với phụ nữ. Đó chỉ là cách biểu hiện của thời đó, và thái độ của Paul đối với phụ nữ không tốt hơn hay không dở hơn thái độ của hầu hết đàn ông thời đó. Một lần nữa, đây không phải là lời bào chữa mà chỉ nói lên thực tế.

Thật sự, một trong những tiếc nuối lớn nhất của ta là đạo Cơ đốc đã không trở thành một tôn giáo sẽ phục hồi phụ nữ về một địa vị xứng đáng, không những trong gia đình, xã hội, nhà thờ mà cả trong tâm của người nam lẫn người nữ. Tuy nhiên, vấn đề thực sự ở đây là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân đã bị đánh mất. Khi con đạt đến quả vị Ki-tô, con tự nhiên bắt đầu nhìn xa hơn mọi phân chia vỏ ngoài do giới tính, chủng tộc, quốc gia hay bất cứ loại phân chia và nhãn hiệu giả tạo nào khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên. Đơn giản, những phân chia nhân tạo đó mất hẳn tầm quan trọng, và một sinh thể với tâm Ki-tô sẽ kính trọng người nữ là xứng đáng và quan trọng y như người nam   

Một sinh thể có tâm Ki-tô cũng sẽ chấp nhận rằng một số câu chuyện trong Thánh kinh về sự sinh tạo phụ nữ là không chính xác. Người nữ đã không được tạo ra sau người nam, và người nữ không được tạo ra từ thể chất của người nam. Các đoạn này đã được thêm vào sau này bởi những người sinh sống trong một nền văn hóa dành ưu thế cho phái nam.

“Ngài tạo ra nam và nữ” (Genesis 5:2). Giới tính nam và nữ hình thành một thế thái cực tương tự như Thái cực trong Đạo giáo. Cái này không thể hiện hữu mà không có cái kia, và do đó không thể được tạo ra mà không có cái kia. Cả hai giới tính đều được tạo ra cùng một lúc, với cùng giá trị và tầm quan trọng dưới mắt của Thượng đế. Quả thật là vậy, cả hai nên được kính trọng như nhau trong mắt của người nam lẫn người nữ.

Thực tại nằm trong tâm người đọc

Hỏi: Một trong những quyển sách thất lạc của Kinh thánh, quyển kinh Jasher, có thuật lại là Abraham, vì không tôn thờ các thần giả vào thời của ông, đã bị ném vào lò lửa và thoát thân bình an vô sự, trong khi người anh em của ông thì bị thiêu cháy. Đó có phải là một câu chuyện thật, và liệu quyển kinh của Jasher có chính xác hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có và không! Theo nghĩa là, con yêu dấu, có nhiều câu chuyện trong kinh Cựu ước, và thậm chí cả kinh Tân ước, không có cùng một loại thực tại mà con có thể quan niệm ngày nay khi con nghe về khái niệm thực tại. 

Con thấy đó, con yêu dấu, tâm thức nhân loại đã thay đổi lớn lao trong vòng mấy ngàn năm qua theo những cách mà con người hiện đại không sao hiểu được. Và do đó khi con nhìn lại một số lời dạy trong Kinh thánh – và ngay cả trong các kinh điển khác của thế giới như kinh Veda hay kinh Phật giáo – thì một người với một tâm thức hiện đại, do đã quen lối suy nghĩ duy vật và đường thẳng, sẽ đặt lên câu hỏi: “Ủa, chuyện này có thật không?” Và khi họ hỏi như vậy thì họ cũng nhìn vào đó theo cách họ quan niệm thực tại.  

Trong khi đó thì một người sống vào thời buổi đó sẽ có một quan niệm khác hơn về thực tại, nghĩa là họ không đến nỗi đường thẳng, không đến nỗi quá tập trung vào khía cạnh vật chất, và do đó họ không nhất thiết sẽ nhìn mọi chuyện một cách đen trắng, đường thẳng. Cho nên ở một mức độ nào đó, họ hiểu rằng các lời kinh dạy mang một tính chất biểu tượng, và cái lò lửa kia không nhất thiết là một lò lửa vật lý, mà nó biểu tượng cho cuộc thử lửa mà mỗi việc làm của mọi người đều được thử thách, cho dù là có thật hay không thật.    

Cho nên, con yêu dấu, đó là cái đã tạo ra vấn đề – và qua đó phong trào cực chính thống (fundamentalist) hiện đại đang bị ảnh hưởng bởi cách suy nghĩ hiện đại, cách tư duy đường thẳng duy vật hiện đại, nhưng họ lại không biết. Và khi họ nhìn vào Kinh thánh, nhìn vào một số lời dạy và câu văn trong đó, thì họ bảo: “À, đây nhất định phải là chuyện đã thực sự xảy ra trong thế giới vật lý, đúng y như cách CHÚNG TA hiểu bản văn Kinh thánh.” Và họ không nhận ra là con người thuở xưa không nhất thiết đã hiểu theo cùng cách như vậy.

Vì thế chẳng hạn, khi con nhìn vào trận đại hồng thủy thời Noah, con có thể nói, đúng là có một thực tế nào đó theo nghĩa là có một trận lụt đã phát sinh ra câu chuyện về con tàu của Noah. Nhưng đó không phải là loại lụt mà con quan niệm thời nay. Bởi vì, con yêu dấu, vào thuở con người nhận được lời dạy và trải nghiệm tai biến đó, thì người ta chưa có quan niệm về trái đất mà con hiện có. Họ không thấy trái đất rộng lớn như con thấy bây giờ, họ không thấy trái đất tròn, họ không biết là trên trái đất có những rặng núi cao hơn gấp bội những ngọn núi như núi Ararat mà họ quen thuộc.

Cho nên, con yêu dấu, khi con – với một tư duy hiện đại – nhìn vào trận lụt của Noah, con nói: “Chà, nếu Kinh thánh phải được hiểu theo nghĩa đen thì nhất định có nghĩa là một trận đại hồng thủy toàn cầu đã trải rộng khắp trái đất và nước lụt đã lấp cả đỉnh Everest.” Và đó là lúc con rơi vào cái khía cạnh kia của tư duy hiện đại là tư duy khoa học hoài nghi, bảo rằng: “Ái chà, làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Khối nước khổng lồ đó từ đâu mà có?”

Con yêu dấu, con có thấy điều ta muốn nói ở đây không? Có một sự kiện vật lý đã khởi đầu cho câu chuyện nói trên, nhưng đó không phải là cùng loại biến cố mà con mường tượng với tư duy hiện đại. Nói cách khác, một huyền thoại đã được dựng lên khiến cho biến cố đó trong tư duy hiện đại trở nên to lớn hơn hẳn sự kiện thực tế.

Và đây là chuyện xảy ra với rất nhiều điều của quá khứ, con yêu dấu. Đó là tại sao ngay câu đầu, ta đã nói là quyển sách đó vừa chính xác vừa không chính xác. Bởi vì điều này thực sự tùy thuộc vào tư duy của con khi con đọc một bản văn cổ, tức là cái phin lọc mà con nhìn xuyên qua để mà diễn giải.  

Con yêu dấu, quả thực là Đại thượng sư [khi thày hiện thân là Homer] đã đưa ra các lời dạy trong hai bộ sách Odyssey và Iliad. Nhưng liệu điều này có nhất thiết có nghĩa là nhân vật chính trong quyển Odyssey đã chạm trán với tất cả những sinh vật được mô tả trong sách hay không? Hay đó là một biểu tượng cho những gì anh ta đã đối mặt trong chính tâm thức của anh? Cho nên liệu con có phải khoác vào cái tư duy cho rằng nếu ngày nay con không tin những loại sinh vật như vậy có thể hiện hữu, thì bắt buộc quyển Odyssey cũng hoàn toàn hư cấu và do đó không có chút giá trị nào cho loài người hiện đại hay sao?

Và tất nhiên – một lần nữa với Kinh thánh – câu hỏi đặt ra là liệu các biến cố được kể lại trong Kinh thành có nên được diễn giải từng chữ trong nghĩa đen bởi tư duy hiện đại hay không? À, sự kiện chúng mang một ý nghĩa biểu tượng thâm sâu hơn đã không khiến chúng trở thành lỗi thời đâu con. Cho nên một lần nữa, con đừng bám mắc vào những cách diễn giải đó, bởi vì như chúng tôi đã bày tỏ qua các lời dạy hiện đại, có rất nhiều điều hơn nữa cần được con người thấu hiểu. Và như con sẽ thấy qua cuốn sách của thày Maitreya [Master keys to spiritual freedon – Bí quyết của tự do tâm linh], có một cách hiểu về kinh Sáng thế sâu xa hơn hẳn cách diễn giải thông thường theo nghĩa đen.

Như vậy ta cũng muốn tạo ấn tượng trong con là các giáo lý tâm linh có nhiều cách diễn giải. Điều này không có nghĩa là có một cách đúng và mọi cách khác bắt buộc phải sai. Đây lại là một hệ quả khác của tư duy hiện đại, qua đó dựa trên cách suy nghĩ khoa học, con tin rằng mỗi câu hỏi đặt ra chỉ có một câu trả lời duy nhất, hay mỗi sự đo đạc khoa học chỉ có một kết quả đúng đắn duy nhất. Ấy nhưng ta nói vói con, có một tầng mức tâm thức chỉ biết đến số lượng, và đó chính là tầng tâm thức mà khoa học thời nay đang bị kẹt vào. Đó là lý do tại sao người ta muốn đo đạc và định lượng mọi chuyện.    

Nhưng vượt trên tầng mức của thực tại có thể được đo lường, còn có một tầng mức thâm sâu hơn nơi con không thể định lượng bằng cách đo đạc, bằng cách chia ra thành từng đơn vị nhỏ, bởi vì thực tại không hề đường thẳng. Cho nên để hiểu và tiếp cận với tầng mức thực tại thâm sâu đó, con phải sẵn lòng vượt quá cái tư duy trí thức, phân tích, cứ muốn đo lường mọi chuyện rồi dán nhãn lên mọi chuyện.

Điều thực sự quan trọng không phải là liệu một bản văn tâm linh có chính xác hay có diễn ra đúng như mô tả hay không. Điều thực sự quan trọng là con sử dụng câu chuyện đó để kích hoạt một trải nghiệm nội tâm sẽ giúp con thăng vượt một mức tâm thức nào đó. Kinh sách và văn bản tâm linh không được thảo ra để cống hiến một số thông tin trí thức, đường thẳng, hay một số dữ kiện nào đó. Chúng được viết ra để giúp con người thăng vượt một mức tâm thức. Không một ai trong thế giới hiện đại đã hoàn toàn thoát khỏi trạng thái tâm thức thần thoại, cho nên mọi người đều có thể tìm thấy lợi ích trong việc đọc các bản văn cổ và sử dụng bản văn để làm bàn đạp cho những khám phá trực giác.

Cho nên, con yêu dấu, ta cũng biết là ta đã không trả lời câu hỏi của con một cách đường thẳng, nhưng ta tin tưởng trả lời như vậy cũng là đủ rồi.

Người nữ được tạo ra trước người nam?

Hỏi: Đây là một câu hỏi liên quan đến câu đố, cái nào đến trước, con gà hay quả trứng? Cái nào đến trước, nam hay nữ? Con không hỏi người nam hay người nữ đến trước, mà con hỏi về nguyên lý. Nghĩa là nguyên lý nữ đến trước vì đã thụ động, tiềm ẩn sẵn trong pralaya, thời kỳ ngủ say của vũ trụ, trước khi nguyên lý nam linh hoạt trong manvantara, thời kỳ thị hiện. Kinh Dzyan nói rằng Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải ra. Con biết đó chỉ là cách diễn tả thi vị do một người tầm đạo quá sốt sắng cố hết sức mô tả. Tại sao tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên thế giới?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tôi xin giải quyết một cách dứt khoát câu đố muôn thuở về con gà và quả trứng. Con gà đến trước.

Bây giờ hãy xem đến những câu hỏi quan trọng hơn. Bài giảng sau đây chứa đựng một số lời dạy chi tiết về việc Thượng đế sáng tạo vũ trụ. Nói ngắn gọn, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện, mà ta sẽ gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất cả. Thượng đế cũng có một khía cạnh nữa là Đấng Sáng tạo, là nguồn gốc thực sự của tất cả mọi thứ đã được tạo ra trong thế giới hình thể. Để bắt đầu sáng tạo, Đấng Sáng tạo lập ra một nguyên thể có khả năng đúc thành bất cứ hình tướng nào có thể nghĩ tới. Đây là nguyên thể mà Thánh kinh nói đến qua câu, “Hãy có ánh sáng.” Chúng tôi thường gọi nguyên thể này là Ánh sáng Mẫu-Vật.      

Như ta giải thích, Thượng đế sáng tạo là nguyên lý hành động, hay nam, trong khi Ánh sáng Thượng đế là nguyên lý tiếp nhận, hay nữ. Cho nên tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo bằng khiá cạnh nữ của Thượng đế. Đó là tại sao một số tôn giáo dạy rằng mọi thứ được tạo ra từ Thượng đế Mẹ hay Nữ thần, và cũng vì vậy mà một số tôn giáo thờ phượng một vị thần nữ tính.

Cả hai khía cạnh nam và nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu. Vì vậy, thật là vô nghĩa khi bàn đến chuyện Thượng đế là nam trước khi là nữ, hay ngược lại. Hai nguyên lý này, hay khía cạnh, không thể nào rời nhau ra, và hoàn toàn không nghĩa lý gì mà nói đến một nguyên lý mà không nói đến nguyên lý kia.   

Câu hỏi ngàn đời về cái nào đến trước thật ra chỉ là một sản phẩm của tâm thức đường thẳng của con người, và tâm thức này nhìn mọi thứ dựa trên hoàn cảnh riêng của nó. Bởi vì kinh nghiệm của con người về cuộc sống là một cuộc đời có khởi đầu và có kết thúc, cho nên nó cũng lý giải là mọi thứ khác cũng phải có sinh có diệt.

Về mặt thế giới hình tướng, có thể nói là tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ nguyên lý nữ, bản chất nữ của Thượng đế. Do đó, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra từ Thượng đế Mẹ. Tuy nhiên, mọi thứ được tạo ra bởi Thượng đế Cha, nghĩa là ngay trong bản chất, sự sáng tạo đã bắt đầu với một cái thấy trong tâm của Thượng đế Cha. Chính khía cạnh nam của Thượng đế đã khởi đầu tíến trình sáng tạo. Và khía cạnh nữ của Thượng đế đã nhận lấy bất kỳ hình tướng nào được thấy trong tâm của Thượng đế.

Điều này không có nghĩa là khía cạnh nữ của Thượng đế không có tâm, hay tâm thức. Tuy nhiên khiá cạnh nữ đã cho phép – trong tình yêu thương – khiá cạnh nam tác động lên mình và thực hiện cái thấy của khía cạnh nam. Sự sáng tạo được khởi xướng bởi khiá cạnh nam của Thượng đế và được thực hiện bởi khía cạnh nữ của Thượng đế. Nếu con muốn dùng ý niệm khởi đầu và kết thúc, thì con có thể nói là sự sáng tạo bắt đầu như là một ý nghĩ, một cái thấy trong tâm thức của khía cạnh nam của Thượng đế.

Con nói rằng người Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải rộng ra. Điều này chắc chắn khả thi, bởi vì khía cạnh nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu như một nguyên lý. Mẹ Thiêng liêng nằm tiềm ẩn, không linh hoạt, cho tới khi Mẹ được Cha Thiêng liêng tác động.

Ta không đồng ý rằng tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên hành tinh. Khi con người lần đầu tiên giáng xuống hành tinh này, họ vẫn không quên nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế họ hoàn toàn nhận thức được cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Mẹ, và họ giữ mối quan hệ linh động với cả hai. Quan hệ mà con người có với cha mẹ thiêng liêng của mình trước khi cuộc sa ngã xảy ra khác rất xa với bây giờ, và thật là không đúng nếu bảo rằng con người trước khi sa ngã đã thờ phượng Thượng đế, hay thậm chí có một tôn giáo như chúng ta thường hiểu ngày nay.

Như đã được giải thích ở nơi khác, chính khía cạnh nữ của mỗi dòng sống đã đầu tiên rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Điều này xảy ra là vì khía cạnh nữ của dòng sống bắt đầu theo cách của thế gian thay vì giữ trọn vẹn theo khía cạnh nam của nó, tức là cái ta tâm linh. Một hệ quả của việc rơi xuống tâm thức thấp là các dòng sống quên mất nguồn cội tâm linh của mình, và vì thế cũng mất luôn kinh nghiệm trực tiếp về khía cạnh nam của Thượng đế.

Bởi vì các dòng sống sinh sống trong một thế giới được tạo ra từ chính bản chất của khía cạnh nữ của Thượng đế, họ không thể nào quên được hoàn toàn khía cạnh này của Thượng đế. Đó là lý do nhiều nền văn hóa sơ khai đã thờ phượng khía cạnh nữ của Thượng đế, dưới hình thức Mẹ Trái đất mà họ tin rằng đã đem lại sự sống cho họ. Chỉ sau khi nhân loại, sau một một tiến trình vươn lên rất chậm, nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn, mà các dòng sống mới bắt đầu lại có một khái niệm rõ ràng về khía cạnh nam của Thượng đế.

Điều xảy ra ngày hôm nay là nhiều người, đặc biệt là ở phương Tây, đã quên mất khía cạnh nữ của Thượng đế và chỉ duy thờ phượng khía cạnh nam của Thượng đế. Đây là một ví dụ điển hình mà con người, do sự thiếu trưởng thành tâm linh và thiếu cân bằng, đã đu đưa từ cực đoan này sang cực đoan kia. 

Điều sẽ xảy ra trong những thập niên tới là nhân loại sẽ nhận ra rõ hơn nhu cầu phải hiểu biết và có quan hệ với cả hai khía cạnh của Thượng đế. Sự thật đơn giản là cuộc sống tâm linh của con không thể trọn vẹn nếu con không giữ vững sự cân bằng lành mạnh giữa hai khía cạnh nam và nữ. Điều này không những chỉ áp dụng cho cách con nhìn Thượng đế mà cả cách con nhìn chính con. 

Về nam và nữ, điều quan trọng là con cần nhận ra rằng vấn đề này không thể xác định một cách cứng nhắc, bởi vì có rất nhiều thái cực như vậy. Như ta vừa trình bày ở trên, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện và một khía cạnh sáng tạo. Hai cái này cũng hình thành một thế thái cực, trong đó cái Tất cả là khía cạnh nam và Thượng đế sáng tạo là khía cạnh nữ. Còn có một thái cực nữa giữa Đấng Sáng tạo của con và những tạo vật của ngài. Con thuộc về tạo vật của Đấng Sáng tạo của con, có nghĩa là đối với con, Đấng Sáng tạo là khía cạnh nam và con là khía cạnh nữ. Cho nên trong một nghĩa nào đó, nếu con thờ phượng Mẹ Thiêng liêng thì con đang thờ phượng chính con đó.

Rất nhiều tôn giáo thờ phượng Nữ thần Mẹ cũng xa vời thực tế y như những tôn giáo độc thần thờ phượng một Thượng đế Cha. Các tôn giáo đó xuất phát từ tâm thức tách biệt, trong đó con xem con tách biệt với đấng mà con thờ. Cách thực tế để nhìn mình là con hãy xem con là một biểu đạt của Đấng Sáng tạo, và như vậy con là một với Đấng Sáng tạo. Chỉ có duy nhất một tâm mà thôi, và khả năng tự nhận biết của con chính là một cá thể của tâm duy nhất đó, một cá thể không thể nào tách rời khỏi duy nhất. Vai trò của con trong cuộc sáng tạo là hành động như một phần nối dài của Thượng đế trên địa cầu mà qua đó con trở thành Mẹ Thiêng liêng trong hành động. Như vậy, thật không có ích gì thờ phượng một vị thần nam hay một vị thần nữ từ xa, bởi vì con đang là một Thượng đế nam lẫn nữ trong hành động.    

Hiển nhiên trên cõi tâm linh có một trách vụ gọi là Trách vụ Mẹ Thiêng liêng do Mẹ Mary đảm trách. Và đương nhiên, trách vụ này đáng được tôn trọng và kính trọng y như những trách vụ khác trong cõi tâm linh. Tuy nhiên, kính trọng không đồng nghĩa với thờ phượng đấng đang đảm nhận trách vụ. Vậy thì kết luận là như sau: sự cảm nhận rằng con có bổn phận phải thờ phượng một thượng đế xa vời – dù là nam hay nữ – hoàn toàn dấy lên từ tâm thức nhị nguyên, là tâm thức nhìn thấy sự phân biệt giữa “cái tôi” và “cái khác tôi”. Phá bỏ được sự khác biệt này là tinh túy của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, hay sự giác ngộ.

Tự tử không bao giờ đưa đến mục tiêu mong muốn

Hỏi: Con có một câu hỏi về một trạng thái tối tăm gọi là tự tử. Tự tử là hành vi tự sát. Là hành vi trốn tránh nghiệp quả. Gần đây nó cũng trở nên thịnh hành, một điều thật nguy hiểm đang xảy ra.

Nó giết đủ loại người, đủ các chủng tộc. Nó giết chủ yếu giới trẻ ở mọi nước, giới trẻ thổ dân ở Bắc Mỹ. Nó giết những người phải đối phó với giới tính của mình, những người vừa khám phá mình mang bệnh. Nó giết cả những người gọi là nổi tiếng, Kurt Cobain, Elliot Smith, v.v… và nhiều người khác đã tự sát do quá liều. Thậm chí có cả một thanh tra vũ khí tự sát ở Anh, một điều thật kỳ lạ vì ông ta theo đạo Baha’i là một tôn giáo không ưa gì tự tử. 

Tự tử xảy ra ở mọi nơi trên thế giới. Đó là một phần của tâm thức thấp mà con người bị vướng vào. Con cứ thắc mắc không hiểu tự tử có liên quan gì đến ý muốn của dòng sống muốn chấm dứt cuộc sống? Con không nghĩ vậy nhưng con đang cố tìm hiểu tại sao. Con biết tự tử không là điều gì mới lạ và sẽ còn ở đây mãi mãi, nhưng chuyện gì đang xảy ra?

Con cũng biết rõ tự tử là gì. Tự tử đã xảy ra trong gia đình con và chính con cũng đã làm mồi cho quyến rũ tự sát. Con đã nhảy múa với tự tử trong một giai đoạn rất tối tăm của đời con. Con bị kẹt rất sâu trong trầm cảm, giống như con ở trong cái lỗ đen, trong đó có cả năng lượng đen và trọng lực đen. Con đã bỏ ra một thời gian khá dài để leo ra ngoài và con đã chiến đấu với nó vì nó muốn nuốt tươi con. Nó xém lấy được mạng con nhưng con đã tìm lại hy vọng do có người trợ giúp.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu lên một đề tài quan trọng. Quả thật, tự tử là một vấn đề đang gia tăng trên hành tinh này. Lý do chính là vì con đang sống ở một thời điểm khi những năng lượng của một chu kỳ tâm linh mới đang thấm dần vào tâm thức nhân loại. Khi những rung động cao tần của thời đại mới xuất hiện, mọi chất liệu chưa phân giải trong trường năng lượng con người – tức tiềm thức con người – bị đẩy ra ngoài, khiến cho các tạp chất này hiện ra rõ hơn. Và đây là cơ hội để mỗi người chọn lựa mình sẽ phục vụ cho ai, có nghĩa là con người sẽ dễ dàng hơn vươn lên khỏi xu hướng tự phủ nhận – là nguyên nhân sâu xa của tự tử. Con người sẽ dễ dàng hơn thấy được ánh sáng của cái ta Ki-tô để mà quyết định đi theo ánh sáng đó thay vì cứ tiếp tục chối bỏ ánh sáng. Tiếc thay, điều không thể tránh được khi một chu kỳ tâm linh mới bắt đầu là có những người sẽ chọn bám chặt vào bóng tối mà không chịu buông ra.     

Do có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, ta muốn nói với con là bài học quan trọng nhất mà con sẽ nghe được về tự tử là các dòng sống tự sát sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình. Họ sẽ không bao giờ hoàn thành được mục tiêu mà họ tưởng đã khiến họ tự tử. Thật vậy, ta đã tư vấn và giúp đỡ rất nhiều dòng sống sau khi họ tự sát, va ta có thể cam đoan với con là tất cả đều nhận ra là tự sát không đem lại mục tiêu mà họ muốn. 

Bất kể động cơ nào đã khiến họ tự tử, họ vẫn không khá gì hơn trước khi tự tử. Thật ra, tình trạng của họ còn tồi tệ hơn trước, bởi vì khi tự sát, họ đã mở rộng thêm dòng sống của họ cho các tà lực kéo họ đi xuống. Kết quả là họ càng khó lòng khởi sự một vòng xoáy đi lên và tìm đường trở về ánh sáng. 

Nếu con muốn một tường thuật vô cùng chi tiết về những gì có thể xảy ra cho một dòng sống tự sát, ta thực sự khuyên con nên đọc quyển sách “Beyond the Darkness” của Angie Fenimore.

Vậy làm gì đây để giúp một dòng sống khỏi rơi vào cái bẫy của tự sát? Điều này tùy thuộc phần nào vào động cơ đã khiến dòng sống bước vào cái ốc xoắn sẽ kéo nó xuống tự vận. Nhưng dù động cơ đó là gì, một điểm sẽ trợ giúp dòng sống là hiểu rằng tự sát không có nghĩa là kết liễu tâm thức. Con có thể lấy đi sự sống của thể xác, nhưng dòng sống của con là nhiều hơn thể xác. Sự sống có nghĩa là con có tâm thức, là con có sự nhận biết về chính con. Khả năng tự nhận biết này không tùy thuộc vào thể xác vật lý và sẽ không biến mất sau khi thể xác qua đời.  

Hầu hết dòng sống tự sát vì những sự việc trong đời họ đã trở nên căng thẳng đến độ họ cho rằng việc kết liễu tâm thức sẽ đem lại nhẹ nhõm. Thế nhưng chính vì tâm thức không chấm dứt với cái chết của thể xác, cho nên không hề có nhẹ nhõm, không hề có sự ngơi nghỉ nào đối với các vấn đề đã dằn vặt họ trong đời sống. Dòng sống không tránh được phải đem theo những vấn đề đó với mình, tức là đem theo trạng thái tâm thức đó với mình sau khi thể xác tắt thở. Họ sẽ vẫn phải đối diện và chiến thắng những vấn đề đó trước khi họ tìm thấy an bình.    

Thật ra, ta phải nói với con là niềm tin phổ biến trong đạo Cơ đốc cho rằng người tự sát sẽ bị xuống địa ngục, thật là không đúng cho đa số dòng sống. Ngược lại, hầu hết mọi dòng sống tự sát đều phải trở lại hiện thân và sẽ tái đầu thai sớm nhất khi có cơ hội thích hợp. Họ sẽ phải đương đầu với cùng những điều kiện đã dẫn tới tự sát, bởi vì đó là cách duy nhất để họ chinh phục những vấn đề trong tâm lý đã ngăn cản họ bước tới. Ta có thể xác nhận với con là việc quay trở lại cùng một loại tình huống thường là chọn lựa của chính dòng sống. Một khi không còn thể xác, bình thường họ sẽ có khả năng nhìn hoàn cảnh của họ một cách khách quan hơn, và hầu hết đều chọn tái đầu thai trong những hoàn cảnh sẽ cho mình cơ hội tối đa để phát triển tâm linh – cho dù những điều kiện này xem ra vẫn rất khó khăn đối với một người.      

Sự kiện họ thường chọn trở lại cùng một hoàn cảnh là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy tự sát không đem lại những gì mà họ kỳ vọng. Do đó, nếu họ có thể, bằng một cách nào đó, nhìn xa hơn áp lực của tình thế trước mặt, rất có thể họ đã không quyết định tự sát. Nếu họ có được một chốc lát khách quan, họ sẽ chịu nhận trách nhiệm về tình trạng của họ và nỗ lực thay đổi trạng thái tâm thức của họ. Họ sẽ chọn giải quyết vấn đề ngay bây giờ thay vì phải chịu thêm chấn thương tình cảm của tự sát để rồi lại đương đầu với tình thế y hệt như trước ở một kiếp sau.

Sau đây ta sẽ xem xét một số nguyên nhân tự tử thông thường nhất:

  • Nổi loạn. Sự sống là một món quà của Thượng đế, cho nên tước đoạt sự sống là một hình thức nổi loạn nghiêm trọng chống lại Thượng đế. Một số dòng sống tự tử vì họ căm giận Thượng đế đến độ họ từ chối món quà của sự sống. Như ta có giải thích trong một bài giảng khác, những dòng sống này rất khó tiếp cận. Một số phải kinh qua tiến trình tự sát để chứng nghiệm trực tiếp sự thật là họ không thể thoát khỏi tâm trạng nổi loạn bằng cách giết chết một thể xác. Trong một số trường hợp, điều này sẽ khiến họ hiểu ra là cách duy nhất để thoát khỏi tâm trạng của họ là nhận lãnh trách nhiệm về hoàn cảnh của mình (nổi loạn chống lại Thượng đế là tâm trạng cùng cực phủ nhận mọi trách nhiệm cá nhân) và thay đổi khung tư duy của mình.
  • Trả thù. Một biến thể của tức giận và nổi loạn là khi dòng sống tự sát do muốn trả thù. Sâu trong những ngóc ngách của tâm lý, có ý muốn trả thù Thượng đế, nhưng dòng sống thường cho đó là mong muốn trả thù thân nhân hay trả thù xã hội. Một dòng sống như vậy có thể được giúp đỡ khi nhận ra là hành vi tự tử sẽ làm hại mình nhiều hơn là bất cứ ai khác mà cũng không ảnh hưởng gì tới Thượng đế. Tuy nhiên, muốn trao hiểu biết này cho một dòng sống đang căm giận cũng rất khó khăn.
  • Mong muốn thoát thân. Một số dòng sống trong tình trạng căng thẳng đến độ họ không còn khả năng xử lý tình cảm lẫn lý trí. Họ cảm thấy bị kẹt cứng, không có cách nào cải thiện hoàn cảnh. Vì vậy, năng lượng của tình thế có thể trở nên gay gắt đến độ họ không đương nổi nữa, và họ tìm cách trốn chạy trong sự tự sát. Những dòng sống này có thể được giúp đỡ nếu họ nhìn ra là họ sẽ không trốn thoát được tâm trạng của họ bằng cách giết thể xác. Cũng sẽ rất hữu ích nếu họ có thể thấy là luôn luôn có cách cải thiện một tình thế cho dù có vẻ khó khăn đến đâu. Nhưng tất nhiên, một khi dòng sống đã bị nhấn chìm trong cơn lốc xoáy đi xuống của tự sát, việc giúp họ thấy được những sự thật này có thể khó khăn.
  • Kêu gọi giúp đỡ. Nhiều dòng sống bị điều kiện cuộc sống đè nặng đến độ họ không thể đối phó được một mình nữa. Một số không có khả năng kêu cứu, trong khi một số khác không có ai để mà cầu cứu. Họ cảm thấy lẻ loi, thiếu vắng yêu thương, như thể không ai để ý là họ sống hay chết. Vì vậy họ không thể cầu cứu bằng những cách thông thường, và cuối cùng lòng họ nặng trĩu đến độ họ toan tính tự sát. Những dòng sống này thực sự không muốn tự sát và toan tính của họ – thường không thành công – là một tiếng kêu cứu từ tiềm thức. Đây là những dòng sống dễ giúp nhất vì họ có thể quay đầu khi họ nhận ra là có người quan tâm.

Điều khó khăn với tự sát là nó không xảy ra đột ngột. Tự sát luôn luôn là kết quả của một tiến trình rất chậm, trải ra từ từ đến độ dòng sống không ý thức là mình đang bước vào một vòng xoáy đi xuống. Họ không nhận ra là họ đã đi quá điểm không thể quay lui, là điểm sẽ dẫn họ đối đầu với con ma tự sát. Đó là lý do họ sẽ rất khó lòng lật ngược lại tiến trình một mình. Họ hoàn toàn không biết là họ đã bước lên một cái cầu trượt đi xuống. Nếu dòng sống không nhận được sự giúp đỡ từ ngoài, thường họ sẽ phải đi muốt con đường này cho tới khi họ sẵn sàng tự vẫn. Và khi đối diện với vực thẳm, một số dòng sống rốt cuộc sẽ thức tỉnh trước thực tế nguy hiểm của tự tử, và họ quay đầu trở lại, cố gắng leo ngược trở lên.  

Cách tốt nhất để giúp đỡ một dòng sống là quan sát xem họ đang sinh hoạt thế nào. Tất nhiên, quan sát càng sớm thì càng có nhiều xác suất lật ngược vòng xoáy đi xuống. Con có thể dùng một số yếu tố chủ yếu sau đây để trợ giúp họ thoát khỏi vòng xoáy đang kéo họ xuống tự vẫn.

Yếu tố đầu tiên là nhìn ra rằng nhiên liệu của vòng xoáy đi xuống tự tử là năng lượng độc hại đã tích tụ trong trường năng lượng của người đó. Như có giải thích ở nơi khác, năng lượng độc hại sẽ tích lũy trong trường năng lượng và từ từ hình thành một cơn lốc xoáy có khả năng áp đảo những ý tưởng và cảm xúc ý thức của người đó. Cơn lốc xoáy cũng có thể mở ra một thế nối kết giữa trường năng lượng của cá nhân với trường năng lượng của hành tinh. Năng lượng của hành tinh có một số xoáy năng lượng tiêu cực mà nhân loại đã phát sinh từ hàng ngàn năm. Một trong những xoáy đó là xoáy năng lượng tự sát, và ở đáy cái xoáy này là một con quỷ, hay một tà thể, có tên là Annihla. Sinh thể bóng tối này lấy năng lượng bằng cách cuốn hút con người vào vòng xoáy tự sát hầu nó đánh cắp bất kỳ năng lượng ánh sáng nào còn lại trong năng trường của họ.

Một khi con hiểu được sự hiện hữu của những năng lượng bóng tối đó, con có thể tham gia vào một buổi cầu nguyện để giải thoát dòng sống khỏi vòng xoáy đi xuống của năng lượng tự sát. Tuy nhiên, ta có một lời cảnh báo thẳng thắn. Trừ khi con có động lượng mạnh mẽ do đã cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Trên, điều này có thể nguy hiểm cho con khi con tham gia vào động lượng toàn cầu của tự sát. Lực này rất mạnh mẽ và hung ác, và nếu con đang tìm cách giải cứu một người khỏi nanh vuốt của nó, rất có thể là nó cũng sẽ đuổi theo con. Cho nên ta khuyến cáo chỉ những ai có sự quân bình cao độ, chưa bao giờ có xu hướng tự vẫn, mới tham gia vào tiến trình này. Và ta cũng thực sự khuyên mọi người nên tham gia cùng nhau trong một nhóm thay vì một người đơn thương độc mã chống chọi lại lực này.

Các bài chú cho Đại thiên thần Michael cực kỳ quan trọng trong vấn đề này, và nếu con muốn đối đầu với tà lực tự sát, ta khuyên con đọc ít nhất 40 lần – ta nói rõ, bốn mươi – mỗi ngày để bảo vệ cá nhân con và giải thoát người kia. Bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael cũng vô cùng quyền năng, cũng như Hộp Dụng cụ Khủng hoảng Tâm linh. Ta cũng khuyến cáo lời kêu gọi phán xét, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael phán xét và buộc trói Annihla cùng những con quỷ tự sát khác đang công hãm người đó. Cũng sẽ vô cùng hữu ích nếu con hướng một luồng Lửa Tím tập trung vào trường năng lượng của người mà con đang cố giúp. Tương tự, các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng rất hữu hiệu, đặc biệt bài tràng hạt Tha thứ và Đông-Tây.  

Yếu tố thứ hai là đánh thức người đó trước nguy cơ tự sát và sự kiện tự sát không là giải pháp vì nó không dẫn đến sự giải tỏa các vấn đề của dòng sống. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói đây là yêu cầu quan trọng nhất, nhưng ta chỉ đưa vào điểm thứ nhì vì khi nào họ còn bị năng lượng tiêu cực áp đảo, hầu như không có cách nào đánh thức họ dậy. Nói cách khác, trước hết con phải cố gắng giải tỏa áp lực của năng lượng tiêu cực trước khi con có hy vọng đánh thức người đó. Cách hay nhất để đánh thức một người là trao cho họ quyển sách ta đề cập ở trên cùng với một số giáo lý từ trang mạng này, đặc biệt giáo lý nói rằng tự sát không phải là sự kết liễu tâm thức và bất cứ ai có ý tự sát đều bị tà lực tấn công. 

Yếu tố thứ ba là bảo đảm người đó không cảm thấy lẻ loi, không được yêu thương. Nhiều người tự vẫn vì muốn thoát khỏi cảm giác không có ai thương mình, không có ai quan tâm là mình sống hay chết. Một cách hay nhất để giúp họ là trở thành một người biết lắng nghe, chỉ để yên cho họ nói chuyện mà không cố gắng cải sửa họ hoặc giải quyết những vấn đề của họ. Hãy để cho họ nói, cho họ cảm giác là con đang lắng nghe và quan tâm đến họ. Để cho họ bày tỏ các vấn đề của họ mà không cố đưa ra giải pháp. Cứ để cho họ nói cho tới khi họ bắt đầu nhìn thấy giải pháp tự mình họ.

Yếu tố thứ tư là chỉ cho họ thấy là thực sự có một cách để cải thiện tình thế. Con có thể làm điều này bằng cách giúp họ biết đến con đường tâm linh mà ta trình bày suốt trang mạng này. Tất nhiên, tốt hơn hết là một người đã bước đi trên đường tu và có thể chia sẻ kinh nghiệm bản thân, giúp họ trong việc này.

Ta ca ngợi những ai thấy được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này và đã thiết lập những đường dây nóng cùng những nhóm hỗ trợ để giúp những người cần khắc phục lực lôi cuốn của tự sát. Nếu con tìm thấy một dịch vụ như thế gần nhà, ta khuyên con nên tận dụng hay giúp cho những người đang có ý tự vận tận dụng dịch vụ này. Được sinh hoạt trong một nhóm có thể là một tác dụng tích cực to lớn đối với bất cứ ai đang có ý định tự vận, đặc biệt nếu họ có thể hỏi chuyện một người đã từng có ý tự vẫn nhưng đã quyết định lui ra khỏi vực thẳm. Không ai tốt hơn là một người đã trải qua kinh nghiệm đó và trở về từ bờ vực.     

Mặc dù những nỗ lực có tổ chức như vậy thật đáng khen, ta thấy cần đưa ra một lời cảnh báo. Xin đừng rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng cách giúp một người đang có ý tự sát là lôi kéo họ vào tôn giáo của con. Tiếc thay, ta thấy có một số tín hữu Cơ đốc giáo tràn đầy tình yêu thương và thiện chí lại cố giải cứu những người bị đau khổ bởi ý nghĩ tự sát bằng cách quyến dỗ họ gia nhập giáo hội của mình. Điều con thực sự cần làm là cảm thông với cá nhân dòng sống và giúp họ tìm được con đường tâm linh phổ quát vượt trên mọi tôn giáo. Con đường này không thể bị hạn chế trong một tôn giáo nào, ngay cả tôn giáo Ki-tô.

Cuối cùng, ta cũng xin nói là những lời này không nên dùng để thay thế cho việc tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp. Có những nhà chuyên nghiệp có khả năng đã được huấn luyện để giúp người có ý tự sát, và nếu con tìm được một nhà chuyên nghiệp, con nên yêu cầu họ giúp chính con hay một người nào khác. Ta cũng khuyên con nên học hỏi những bài giảng của ta về cách khắc phục nghiện ngâp kéo dài cả đời, vì trong đó ta cũng có giảng về cách lật ngược vòng xoáy đi xuống khả dĩ dẫn đến tự sát.

Và tất nhiên, các dụng cụ trong Hôp Dụng cụ Thăng vượt có thể giúp con tránh khỏi mọi vòng xoáy tiêu cực – nếu con sẵn lòng áp dụng.

Tại sao một số lãnh đạo tôn giáo lạm dụng quyền lực?

Hỏi (Kim Michaels): Thưa Giê-su, con đã gặp nhiều người, đặc biệt là các tín hữu Công giáo, thất vọng và buồn nản về những sự kiện họ xem là sự lạm quyền hay tham nhũng trong giới lãnh đạo của nhà thờ hay của các tôn giáo có tổ chức nói chung. Con có cảm tưởng trong giới lãnh đạo bất cứ một tổ chức tôn giáo nào cũng có nguy cơ lạm dụng quyền lực. Đặc biệt con thấy những vấn đề sau đây:

  • Một số lãnh đạo tôn giáo có vẻ cho rằng họ đứng trên và vượt khỏi các thành viên trong giáo hội,
  • Một số lãnh đạo có vẻ chờ đợi sự phục tùng mù quáng của người cấp dưới, và họ không chấp nhận cho ai bất đồng hay ngay cả đặt câu hỏi,
  • Một số tin rằng họ thay mặt cho Thượng đế và do đó họ không thể sai lầm,
  • Một số có xu hướng trở nên cứng nhắc, gần như cuồng tín, trong cách tiếp cận tôn giáo hay quyền lực. Họ bám vào một cách diễn giải kinh điển và từ chối không xem đến bất cứ ý tưởng nào vượt ngoài niềm tin của họ.
  • Một số lãnh đạo còn tìm cách lợi dụng sự sợ hãi để ép buộc tín đồ phải tuân theo hệ thống chức sắc hay phải mù quáng chấp nhận học thuyết của giáo hội.

Quan điểm của thày về cách lãnh đạo các hội thánh hiện đại là như thế nào?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tất nhiên, thành viên của nhiều giáo hội, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các tôn giáo khác, đã phải chịu đựng sự lạm quyền của người lãnh đạo, Ta không muốn phủ nhận hay làm ngơ trước một sự thật mà bất cứ người khách quan nào cũng có thể nhìn thấy.

Tuy nhiên, ta muốn lùi lại một bước và thay vì tập trung vào người lãnh đạo của một giáo hội nào đó, chúng ta hãy thử nhìn vào những thử thách mà lãnh đạo mọi tổ chức tôn giáo hay tâm linh phải đối diện. Khi chúng ta hiểu rõ hơn những cơ năng tâm lý liên quan cụ thể đến việc lãnh đạo giáo hội, chúng ta mới giúp mọi người có được một tầm nhìn khác hơn. Sự lạm dụng quyền lực xảy ra trong hầu hết mọi tổ chức tôn giáo và thật là quan trọng cho chúng ta hiểu tại sao.    

Trong vũ trụ vật chất, mọi sự đều là con dao hai lưỡi. Không có một điều gì mà chúng tôi, các vị thày tâm linh của nhân loại, nói hay làm mà tâm nhị nguyên không thể hiểu sai và lạm dụng. Điều này đặc biệt áp dụng cho việc giao quyền hành cho một người nào đó.  

Trước tiên, chúng ta cần nhìn nhận rằng hầu hết mọi người trên địa cầu đều phần nào thờ ơ đối với tôn giáo. Họ không có quan điểm rõ ràng, và ngay cả trách nhiệm về cuộc sống của họ mà họ cũng không nắm lấy thì làm sao họ nhận trách nhiệm cứu rỗi cả hành tinh? Cho nên những ai bị lôi cuốn vào các tổ chức tôn giáo, đặc biệt những người sẵn sàng nhận trách nhiệm lãnh đạo, thường là những người không thờ ơ. Họ là người nhiệt thành, họ là người hành động, và một số là những người dẫn đầu chứ không phải là người đi theo.  

Con có nhớ là ta đã nói rằng thà nóng hay lạnh còn hơn là nguội. Qua câu đó, ta muốn nói là đã làm môn đệ của Ki-tô thì không có ai nguội cả. Tất nhiên là có những người tưởng mình là môn đệ của Ki-tô do đã gia nhập một hội thánh nào đó, nhưng đó chỉ là ảo ảnh.

Để làm môn đệ đích thực của Ki-tô, con phải rực lên một ngọn lửa muốn làm điều gì đó vượt hẳn tư lợi của mình. Ở đây cần phải phân biệt, lòng nhiệt thành không đồng nghĩa với việc trở thành môn đệ đích thực của Ki-tô. Một môn đệ của Ki-tô tuy rực lửa đi theo một chính nghĩa nhưng sẽ phụng sự chính nghĩa đó một cách cân bằng. Người đó sẽ lánh xa mọi cực đoan, mọi cách nhìn trắng đen khởi lên từ tư duy nhị nguyên tương đối. Người đó tận tâm đi tìm một viễn quan quân bình, tức là trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Điều ta đang cố giải thích là loại người cảm thấy thu hút vào các trách vụ lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo thường là những người hoặc nóng hoặc lạnh. Thế nào là nóng hay lạnh? Cả hai loại người này đều có lòng nhiệt thành và sẵn sàng cống hiến cho chính nghĩa. Người nóng là người đã tìm được một mức quân bình nào đó, trong khi người lạnh vẫn chưa đạt được sự quân bình của mình. Cho nên một người lạnh có khuynh hướng tiếp cận cuộc sống hay tiếp cận tôn giáo trong cái nhìn đen trắng. Tuy có một số người lạnh chọn được chính nghĩa chân chính, nhưng phần còn lại sẽ đi theo chính nghĩa giả trá.

Một ví dụ điển hình là Paul với lòng nhiệt thành cao độ, nhưng Paul thuở đầu lại hoạt động chống lại ta. Điều cứu vãn những người lạnh là họ luôn luôn chuyển động, cho nên nếu có được một vị thày tâm linh giúp họ đổi hướng thì sự nhiệt thành của họ sẽ tuôn vào một mục đích xứng đáng. Đó là điều đã xảy ra cho Paul.    

Tuy nhiên, phục vụ một mục đích xứng đáng không có nghĩa là mình đã thực sự tinh tấn tâm linh. Nó chỉ có nghĩa là mình không còn tạo ra nghiệp chướng do mình phục vụ một mục đích tệ hại. Nói cách khác, một người nhiệt tâm phục vụ một giáo hội vẫn có thể mất quân bình và đi theo một đường lối phàm phu. Nói ra thì hơi ngược đời, nhưng một người có thể hội đủ mọi tiêu chuẩn của một đệ tử mà lại là một phản đệ tử. Thử thách lớn nhất cho người đó là buông bỏ cách tiếp cận mất quân bình, tìm lại sự quân bình và nhờ vậy bước vào con đường tu bên trong. Paul chưa bao giờ đạt được sự quân bình đó mặc dù ông tiến bộ đáng kể.

Trong hầu hết các tổ chức tôn giáo, con sẽ tìm thấy cả hai loại lãnh đạo, quân bình lẫn mất quân bình. Bây giờ chúng ta hay nhìn xem điều gì xảy ra khi một người mất quân bình đạt được địa vị lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo.

Như ta vừa nói, ít ai bị quyến rũ vào những chức vụ đó trừ khi họ cảm thấy việc phụng sự Thượng đế là điều quan trọng. Cho nên hầu như tất cả những người đó đều cảm thấy mình quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn tất cả, vì họ thực sự tin rằng họ đang làm việc cho ý muốn và mục tiêu của Thượng đế. Họ cũng tin là công việc này quan trọng hơn mọi công việc thế phàm nào khác. Điều này tự nó không sai. Tuy nhiên khi một người mất quân bình ôm lấy cái nhìn đó và nắm quyền hành một tổ chức tôn giáo, thì lạm quyền có thể xảy ra.   

Vì người mất quân bình không hiểu sự cần thiết phải đạt được trung đạo của tâm thức Ki-tô và cũng không có sự phân biện để nhìn thấy trung đạo, họ thường có một cái nhìn trắng đen, Họ ôm lấy giáo điều hoặc hệ tư tưởng và cho đó là chân lý tuyệt đối bất khả sai lầm.

Từ đó họ tin rằng bất cứ ý tưởng nào có vẻ đi ngược lại hoặc đi xa hơn thế giới quan của họ đều sai trái một cách tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng họ đang nhập vào một cuộc chiến giữa thiện và ác, và thiện khác ác y như trắng khác đen. Tiếc thay, sự quân bình của họ khiến họ định nghĩa sự khác biệt giữa thiện và ác trên căn bản tư duy nhị nguyên.

Sau đó họ bắt đầu tin rằng việc áp đặt chân lý “duy nhất” này lên toàn tổ chức cùng mọi thành viên có một tầm quan trọng vĩ đại. Điều này có thể dẫn đến sự tin tưởng, đôi khi rất vi tế và không được nhận diện, rằng họ trở thành một vị đại diện hay một phát ngôn nhân cho Thượng đế hay cho các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, họ cảm thấy rằng nếu con lên tiếng nói ngược lại chân lý “tuyệt đối” của họ thì con cũng đang nghịch lại Thượng đế, và do đó việc họ áp chế con chỉ là một điều cần thiết, hợp lý. Trong những trường hợp cùng cực, hầu hết mọi biện pháp nhằm bảo vệ cái mà họ coi là chuẩn mực chân chính duy nhất của Thượng đế sẽ được họ xem là hoàn toàn thích đáng. Ví dụ điển hình là Toà án Dị giáo cũng như việc ta bị đóng đinh trên thập tự.       

Điều thực sự xảy ra trong tiến trình này là những người mất quân bình như vậy sẽ cảm thấy, bởi vì chính nghĩa của họ tuyệt đối quan trọng, cho nên họ cũng phải nắm lấy quyền hành tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng vì họ làm việc cho Thượng đế và sự nghiệp chân chính duy nhất, họ phải có quyền hành tuyệt đối. Và họ tin là trong mọi công việc của họ, họ được sự hổ trợ tuyệt đối của Thượng đế.

Người ta thường nói, mọi quyền lực đều thối nát, và quyền lực tuyệt đối thì thối nát một cách tuyệt đối. Câu này chí lý lắm đó. Thật là khó ở trong một địa vị nắm quyền tuyệt đối – cho dù đó là quyền lực có thực hay tưởng tượng – mà không bị quyền lực chiếm trọn lấy mình và không sử dụng quyền lực một cách mất quân bình. Cách duy nhất để tránh bị tha hóa bởi quyền lực tuyệt đối là trụ vững nơi trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Những ai không trụ vững được nơi trung đạo, dù là do sự mất quân bình tâm lý, tin tưởng bất toàn hay động lượng cũ từ tiền kiếp, đều sẽ không tránh khỏi rơi vào cực đoan và lạm dụng quyền thế ở một mức nào đó. Đó chỉ đơn giản là hậu quả không thể tránh khỏi khi mình cho phép mình cảm thấy nắm vị trí quyền lực toàn diện.

Cho nên một sinh thể Ki-tô sẽ không để cho mình cảm nhận mình ở trong vị trí đó. Phải nhận ra là chỉ có Thượng đế và ý muốn Thượng đế mới có quyền năng tuyệt đối, và ngay cả Thượng đế cũng phải cúi mình trước quyền tự quyết của con người. Có thể nói, mặc dù Thượng đế có quyền năng tuyệt đối, nhưng ngài không sử dụng quyền năng đó vì ngài đã ban quyền tự quyết cho con người. Do đó, không một lãnh đạo nào có thể chính danh tuyên bố là mình được sự ủng hộ của Thượng đế mà đồng thời vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con có thấy sự phân biệt vi tế nhưng tối quan trọng này không? Nếu con thực sự được Thượng đế hỗ trợ, con sẽ cương quyết tôn trọng quyền tự quyết của tất cả đồng môn của con y như các chân sư thăng thiên tôn trọng quyền tự quyết của mọi người. Thật là rõ ràng như thế. Hoặc con đứng nơi trung đạo của Ki-tô, hoặc con đứng ở vô số những điểm cực đoan mà tư duy nhị nguyên đã định ra.  

Kim Michaels: Vậy thì làm thế nào thoát khỏi trạng thái mất quân bình và tìm lại sự quân bình?

Giê-su: Trước tiên phải hiểu ra vấn đề. Con không thể giải quyết một vấn đề cho đến khi con nhìn nhận là có vấn đề, rồi con bắt đầu tìm hiểu điều gì gây ra vấn đề. Cho nên nếu con thực sự muốn đạt được sự cứu rỗi cá nhân, con phải khởi đầu với sự nhìn nhận rằng việc sử dụng quyền lực mất quân bình là vấn đề cần giải quyết. Con không thể đem theo sự mất quân bình lên thiên đàng. Ở trên đó không hề có sự mất quân bình.  

Có thể nói, để tránh rơi vào bẫy của sự mất quân bình, một đạo hữu cuồng tín cần có những biện pháp nhất quyết. Ta đã có trao cho các con một số dụng cụ tâm linh trong trang dụng cụ để giúp thăng vượt sự cuồng tín tôn giáo. Ta cũng khuyên con nên đọc bài giáo lý của Mẹ Mary về cách thoát khỏi các độc tố tâm linh tương ứng với các vị Phật Thiền định.

Rượu và các trải nghiệm tâm linh

Hỏi: Con được biết có một buổi lên đồng nơi nhân vật đồng bóng khuyến dụ đệ tử nên uống rượu đỏ trong các buổi học tập vì rượu khiến cho trải nghiệm tâm linh của họ được nâng cao. Xin thày vui lòng bình luận về điều này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có rất nhiều sinh thể phi vật chất sẵn sàng giao tiếp với loài người. Ta đã có dịp giải thích là tâm con người có khả năng vận hành như chiếc máy thu thanh. Trong thời đại hôm nay, ngày càng có nhiều người phát triển được khả năng bật máy thu thanh của tâm thức lên và bắt được làn sóng của những sinh vật vượt ngoài cõi vật chất.

Nhu cầu lớn nhất hiện nay là khả năng phân biện Ki-tô để mọi người có thể tránh xa việc giao tiếp với những sinh thể chưa thăng thiên. Có rất nhiều những sinh thể như vậy và trong số họ cũng có rất nhiều sinh thể sốt sắng giao tiếp với con người. Tuy nhiên, sự kiện họ chưa thăng thiên đáng lý phải khiến cho người ta tự hỏi tại sao họ đã không vượt qua được cuộc điểm đạo cuối cùng trên đường đạo. Nếu con muốn khởi sự một cuộc hành trình đến một nơi nào đó thì điều khôn ngoan nhất là con nên được hướng dẫn bởi một sinh thể đã hoàn tất cuộc hành trình và biết rõ đường đi lối bước.

Ta xin nói rõ là không một vị chân sư thăng thiên nào sẽ bao giờ khuyên con pha trộn rượu với sự tu tập tâm linh. Quả thật, rượu có thể nâng cao trải nghiệm của một người, nhưng trải nghiệm đó nhất định không phải là trải nghiệm tâm linh. Ta rất buồn khi biết rằng rất nhiều người tin là họ đã đạt được những trải nghiệm tâm linh do sử dụng ma túy hay những chất kích thích. Cho dù các trải nghiệm đó có vẻ thực đến đâu đi nữa thì đó vẫn là một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.  

Bộ não con người có khả năng, do tác động của sự kích thích hóa học, sản xuất ra những trải nghiệm mang vẻ giông giống như trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên sự khác biệt giữa những trải nghiệm này với thực tại cũng tương tự như người coi phim máy bay với người đang thực sự ở trên không trung.

Ta cũng có thể bảo đảm với con là không một chân sư thăng thiên nào sẽ chiếm lấy cơ thể của một người và khiến cho người đó nói năng với một giọng nói khác lạ. Chúng tôi có thể phát biểu qua một người và khi làm vậy, chúng tôi có thể phóng chiếu một phần của bản thể chúng tôi vào cơ thể và tâm trí người đó. Tuy nhiên, chúng tôi không biến người đó trở thành vô thức, hoàn toàn không biết mình đang nói gì, bởi vì làm vậy sẽ là vi phạm quyền tự quyết của người đó. 

Ngày lễ Giáng Sinh

Hỏi: Đâu là ý nghĩa THẬT của ngày Giáng sinh? Có phải là ngày sinh trần thế thực sự của thày Giê-su gần hơn với ngày 16 tháng 4 năm 6 trước Công nguyên hay không? Khi chúng con không thần tượng hóa thày như giáo hội chính thống vẫn làm, thì chúng con nên xem mùa này gọi là “mùa Giáng sinh” như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi câu hỏi này vào đúng ngày hôm nay [15 tháng 12 năm 2003]. Ta đón nhận cơ hội được trả lời về ngày lễ Giáng sinh.

Đầu tiên hãy để ta nhận xét về vấn đề ngày giờ. Ở điểm này, ta không muốn tiết lộ chính xác ngày giờ sinh của ta. Lý do là vì mục đích chính của trang mạng của ta là để giúp mọi người vượt qua sự sùng bái thần tượng về cá nhân ta. Chính sự kiện nhiều người bị ám ảnh đến như vậy bởi ngày giờ sinh là một biểu hiện của sự sùng bái thần tượng này. Nếu ta cho con ngày giờ sinh chính xác, nhiều người sẽ sử dụng thông tin đó để nhìn thấy một đặc tính nào đó khác hẳn mọi người, và họ sẽ nắm lấy đó làm bằng chứng để bảo ta có gì khác thường và do đó có thể biểu thị tâm Ki-tô dễ dàng hơn.

Thực tế là ngày giờ sinh của ta không có một ý nghĩa vũ trụ phổ quát nào hết. Vì ta có tiềm năng trở thành vị Thày tâm linh cho thời đại tiếp theo sau, cho nên ta đã sinh ra vào thời buổi đánh dấu sự chuyển tiếp vào Thời đại Song ngư. Ngày sinh chính xác của ta có một ý nghĩa quan trọng về mặt nghiệp quả cá nhân mà ta phải giải quyết trong kiếp đầu thai cuối cùng trên địa cầu, và đây là sự chuẩn bị tốt nhất cho sứ vụ cá nhân của ta. Do đó, hình dạng các tinh tú trên bầu trời chiêm tinh vào thời điểm đó hoàn toàn không quan trọng đối với các dòng sống khác, bởi vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng của mình phải giải quyết.

Nếu con phóng tâm trở về lối tư duy của nhân loại cách đây 2000 năm, con sẽ nhận thấy nhiều người bị ám ảnh bởi ngày sinh. Không những người Do thái chỉ phân biệt đối xử với những ai không phải là người Do thái, mà còn có sự phân biệt đối xử ngay trong cộng đồng người Do thái dựa trên gốc gác gia đình. Cho nên khi các tác giả Phúc âm khởi sự viết những quyển Phúc âm, họ quyết định là, để câu chuyện kể dễ chấp nhận hơn đối với quần chúng, họ phải nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của hoàn cảnh ra đời của ta.

Nói chung, các học giả đều chấp nhận là các quyển Phúc âm được viết theo một thứ tự nào đó, với Phúc âm Mark (Máccô) là quyển đầu tiên. Con sẽ thấy là Phúc âm Mark hầu như không đề cập đến hoàn cảnh chung quanh ngày ta sinh ra, trong khi Phúc âm John (Gioan) lại coi đó là một biến cố có tầm quan trọng vũ trụ. Giản dị, sự kiện này cho thấy sự chú trọng lớn hơn mà các tác giả Phúc âm kế tiếp nhau đã dành cho ngày sinh của ta, và thậm chí họ đã tô vẽ thêm tới một mức nào đó. Đây là một trong những lý do chính đã gây ra hiện tượng thần tượng hóa chung quanh con người vỏ ngoài của ta, được xây dựng và duy trì suốt 2000 năm qua.

Cho nên nói cho cùng, ngày giờ cùng hoàn cảnh ta sinh ra không có gì là quan trọng đặc biệt. Ta xin nói là ngày mà con đề cập gần với ngày sinh thực sự của ta hơn là ngày 15 tháng 12 cùa năm 0. Nhưng dù sao thì đó cũng không là ngày chính xác.

Kỳ thực, ta sinh ra vào mùa xuân, và những lễ hội chung quanh điểm đông chí – là ngày ngắn nhất trong năm – là một chuyện được thêm vào sau này. Ta không có vấn đề gì khi người ta ăn mừng ngày đản sinh của Ki-tô vào dịp đông chí, vì ta không xem chuyện người ta biết đến hay ăn mừng ngày sinh chính xác của ta là đặc biệt quan trọng. Thật ra, ta còn xem đó là một sự sắp đặt rất thiết thực. Chính trong ngày ngắn nhất, ít ánh sáng nhất trong năm, mà ai nấy cần được nhắc nhở về tiềm năng trở thành Ki-tô của mỗi người. Và tiềm năng này mới cần là trọng tâm trong các lễ hội Giáng sinh.

Đối với những ai sẵn lòng nhìn xa hơn hoàn cảnh chính xác về cuộc đời vỏ ngoài của ta, và nếu họ có thể giải phóng tâm trí họ khỏi cách diễn giài Kính thánh một cách từ chương, thì câu chuyện cuộc đời của ta có thể được nhìn như là biểu tượng cho sự ra đời của Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Một lần nữa, sự sùng bái thần tượng vô độ chung quanh sự ra đời của ta đã che khuất mất thực tế. Có quá nhiều người tin rằng khi ta sinh ra, ta đã mang sẵn một quả vị Ki-tô viên mãn, đã có khả năng nhớ rõ nguồn gốc và sứ mệnh thần thánh của mình. Điều này rất xa sự thật. Măc dù dòng sống của ta đã đạt được một thành tựu tâm linh cao trong nội tâm, ta không nhớ gì đặc biệt về chuyện đó khi sinh ra. Ta có trực giác rất bén nhạy, nhưng ta đã phải lần hồi khám phá ra bản sắc tâm linh cũng như sứ vụ tâm linh của mình. Do đó ta có thể cam đoan với con rằng cuộc sống của ta không có gì là khác biệt hay dễ dàng gì hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất. Ai ai cũng phải đối mặt với thử thách phát hiện ra bản sắc thật của mình, và quyết định xem là mình sẽ hoàn thành sứ mệnh tâm linh của mình hay không.

Vì vậy, cách đúng đắn để tiếp cận ngày lễ Giáng sinh là xem câu chuyện cuộc đời của ta như là biểu tượng cho những giai đoạn mà mỗi dòng sống phải đi qua khi đứa bé Ki-tô sinh ra trong lòng dòng sống đó, rồi lớn lên cho đến trưởng thành hoàn toàn, và khi đó dòng sống sẽ có khả năng thể hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình trong thế gian.

Ta sinh ra như một đứa bé sơ sinh yếu đuối như mọi người khác. Không một người nào có thể bỗng nhiên đi từ một trạng thái tâm thức vô minh bước ngay vào tâm thức Ki-tô viên mãn. Đối với những người có thiên hướng tâm linh, thời điểm sẽ đến trong đời họ khi tâm thức Ki-tô được sinh ra trong tâm họ. Đây là một kinh nghiệm nội tâm, qua đó dòng sống cảm thấy cuộc sống là nhiều hơn như vậy, thực tại là nhiều hơn như vậy, và bản sắc mình cũng nhiều hơn là tâm thức phàm phu bình thường.

Tâm thức Ki-tô mới sinh ra giống như một đứa sơ sinh mong manh và yếu đuối trên nhiều mặt. Thánh Paul hiểu điều này, và thày có mô tả một số người vẫn là trẻ sơ sinh trong Ki-tô. Lý do là vì ở khởi đầu, ý niệm tâm thức Ki-tô của dòng sống rất mỏng manh. Nó cần được bảo vệ, hỗ trợ, nuôi nấng. Lý tưởng nhất, giai đoạn này nên diễn ra trong một cộng đồng tâm linh nơi những người đã tiến bước xa hơn trên đường tu quả vị Ki-tô có thể hỗ trợ dòng sống. Tiếc thay, trong thế giới ngày nay, cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật không thể cung ứng sự hỗ trợ và hiểu biết này, và do đó hầu hết mọi dòng sống đều phải gần như tự mình chiến đấu để vượt qua hoang địa của tâm thức loài người. Ta không mấy ưa sự thể này, và ta hy vọng tình trạng này sẽ thay đổi với sự xuất hiện của những cộng đồng tâm linh nơi mọi người có thể hỗ trợ nhau tăng triển trên đường tiến lên quả vị Ki-tô.

Trở về với các lễ hội Giáng sinh, ta không thấy lý do gì phải bãi bõ các lễ hội này. Ta không thấy lý do gì phải dời ngày lễ sang một ngày khác trong năm. Đó là một truyền thống đã ăn sâu vào văn hóa phương Tây, và nó có thể dễ dàng được chuyển hóa thành một trải nghiệm tâm linh rất sâu đậm.

Tuy vậy, ta nghĩ rằng Giáng sinh tại nhiều quốc gia đã trở nên thương mại hóa một cách không cần thiết và quá chú trọng đến thú vui vật chất, từ việc tặng quà cho đến ăn uống quá độ, thậm chí cả uống rượu rồi say chếnh choáng. Tất nhiên điều này không liên quan gì đến sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong dòng sống. Thực tế thì ta không thấy chuyện này sẽ thay đổi được trong tương lai gần.

Tuy nhiên, đối với những ai sẵn sàng tìm kiếm ý nghĩa sâu xa hơn, ta đề nghị nên phát triển một cách ăn mừng ít chú trọng hơn vào cuộc đời cũng như ngày sinh của ta, mà thực sự nhìn ra đó là một biểu tượng cho sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi con người. Một khi con bắt đầu nhìn đứa bé Ki-tô không chỉ là đứa sơ sinh sẽ lớn lên thành nhân vật Giê-su, thì con đang đi đúng hướng. Khi đó, con sẽ thấy đứa bé Ki-tô đó là sự ra đời hồn nhiên của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Như thế con có thể tạo ra một lễ mừng nhằm hỗ trợ cho dòng sống trải nghiệm được sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi chính mình, và con có thể mở rộng lễ mừng đó ra khắp cộng đồng của những người đang hỗ trợ lẫn nhau để bảo vệ và nuôi lớn tâm thức Ki-tô này cho đến khi nó trưởng thành.

Trong thế giới ngày nay, nhiều người đã đạt được một mức tâm Ki-tô rất cao, như ta đã có giải thích ở nơi khác. Do đó đối với họ, việc tâm thức Ki-tô trưởng thành sẽ không mất đến 30 năm mà sẽ ngắn hơn nhiều. Dù sao thì một lễ mừng tập trung vào sự ra đời của Ki-tô trong cá nhân dòng sống cũng sẽ là một nguồn cảm hứng to lớn sẽ giúp cho người đó nhận ra trong ý thức sự chứng đạt Ki-tô của mình. Nhờ thế họ có thể nuôi dưỡng đứa bé Ki-tô trong tâm họ cho đến khi nó trưởng thành và được biểu lộ hoàn toàn, là lúc dòng sống biến nước của tâm nhị nguyên thành rượu của tâm thức Ki-tô. Khi sự biến hóa này diễn ra trong một cá nhân, người đó sẽ không thể quay đầu lại được nữa, cũng như chính ta đã không thể quay đầu lại sau khi ta làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới ở Canaan.

Khi đó, dòng sống không còn có thể che được ánh sáng của mình nữa, và dòng sống sẽ bước tiếp để hoàn thành sứ vụ của mình. Điều này sẽ bao gồm cả việc thách đố những sự áp bức trong thế gian, nhưng tất nhiên là thời nay, không ai sẽ cần bị đóng đinh trên thập tự giá để thể hiện quả vị Ki-tô.

Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy tiếp tục cử hành thánh lễ Ki-tô vào điểm ít ánh sáng nhất trong năm, nhưng hãy biến nó thành một lễ mừng sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống. Khi ta sinh ra cách đây 2000 năm, thánh lễ Ki-tô là sự ra đời của một đứa bé duy nhất mang sứ mệnh thể hiện tâm thức Ki-tô. Ngày nay, thánh lễ Ki-tô đã khoác lấy một ý nghĩa mới.

Sự tái lâm của Ki-tô thực sự có nghĩa là sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi hàng ngàn, hàng triệu con người trên hành tinh này. Khi điều này xảy ra, con sẽ có thể cử hành thánh lễ (mass) Ki-tô đích thực qua đó đông đảo quần chúng (mass) sẽ chiêm nghiệm sự ra đời của đứa bé Ki-tô trong tim mình. Ta có thể cam đoan với con rằng những sinh thể minh triết khắp cõi tâm linh sẽ tụ về để làm chứng cho sự ra đời này, và sẽ đem lại thật nhiều món quà tâm linh hầu thiết lập một ý thức cộng đồng mới giữa những sinh thể ở Trên và con người ở dưới.

Giáo lý nền tảng về UFO, vòng tròn đồng ruộng và các hiện tượng khác

Hỏi: Liệu hiện tượng các vòng tròn đồng ruộng (crop circles) có phải là thông điệp từ các chân sư thăng thiên, hay là chúng xuất xứ từ một cõi phàm, chẳng hạn cõi lý trí? Chúng ta có thể học hỏi được gì từ hiện tượng đó? Chúng ta có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện khắp thế giới? Xin cảm ơn các thày về trang mạng tuyệt vời này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trước hết, một câu trả lời ngắn gọn và dứt khoát. Vòng tròn đồng ruộng (crop circles) KHÔNG PHẢI là những thông điệp từ chân sư thăng thiên. Tại sao chúng tôi, các chân sư thăng thiên, lại phải gửi thông điệp cách đó khi mà chúng tôi đã đào tạo những vị sứ giả để ban truyền Lời Hằng Sống?

Ta biết người ta có thể biện luận là chúng tôi đã gửi vòng tròn đồng ruộng xuống như một dấu lạ dễ thấy cho những ai không mở tâm đón nhận Lời Hằng Sống, nhưng đó là một sự hiểu lầm cơ bản về mục đích của chúng tôi. Con thấy không, mục đích trên hết của chúng tôi là giảng dạy cho nhân loại sự thật chủ yếu về sự sống: Chính tâm thức của con tạo ra hoàn cảnh vật lý của con.

Vũ trụ vật chất là một tấm gương phản chiếu lại cho con – dưới dạng hoàn cảnh vật lý – những hình tư tưởng mà con phóng ra với tâm con, gồm cả bốn tầng của tâm phàm. Vì vậy, những sự mất cân bằng hiện có trên địa cầu là do loài người tạo ra một cách tập thể, và sẽ chỉ được thăng vượt một khi loài người nâng cao tâm thức tập thể. Điều này sẽ không xảy đến do một thế lực hay một dạng sinh vật thông minh nào đó ở ngoài trái đất.   

Con có nắm điều ta đang nói? Trọng tâm của các chân sư là CHÍNH CON, là giảng dạy cho con rằng tâm thức của CON tạo ra hoàn cảnh của con. Do đó, cách duy nhất để hoàn cảnh của con thay đổi là con sẵn sàng thay đổi tâm thức của con. Cho nên làm sao chúng tôi có thể giảng dạy điều này cho nhân loại nếu chúng tôi làm hiện ra một số dấu lạ rõ ràng là đến từ một quyền lực cao hơn? Con có thấy tại sao ta từng nói: “Nhưng ngài đáp rằng: Một thế hệ hung ác và gian dâm tìm cầu một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào được ban ra…” (Matthew 12:39)

Thế nào là một thế hệ hung ác và gian dâm? Đó là một nhóm người không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và chấp nhận sự thật cơ bản là tâm thức tạo ra thực tại. Cho nên họ đã chấp nhận một bi kịch cuồng đại khiến họ tin vào một thượng đế bên ngoài, một thượng đế ngồi trên trời xa tít sẽ đi xuống đời để giải cứu họ mà không cần họ nhìn vào cái xà trong chính mắt họ. Và quả thật, nếu những người như thế được ban cho một dấu lạ, điều đó sẽ chỉ củng cố tư duy cuồng đại của họ và cho họ một cái cớ để KHỒNG chịu cải sửa bản thân – thay vào đó, họ sẽ ngồi chờ một quyền lực cao hơn nào đó đển giải quyết mọi vấn đề dùm họ.

Đây chính là tại sao nhiều tín đồ đạo Cơ đốc ngồi chờ ngày tái lâm của ta, họ tin là ta sẽ đem lại vương quốc của Thượng đế xuống trái đất và họ sẽ không phải làm bất cứ gì. Con cũng thấy nhiều người theo trào lưu Thời Mới hay người tâm linh cũng ngồi chờ một giải pháp kỳ diệu, cho dù đó là hiện tượng UFO (Unidentified Flying Object hay vật thể bay không xác định), hay sự xuất hiện của chân sư thăng thiên trong cõi vật lý, hay điạ cầu được thăng lên chiều không gian thứ năm của cõi vật lý.

Suy nghĩ như vậy sẽ KHÔNG LÀM GÌ để mang lại sự thị hiện vật lý của một Thời đại Hoàng kim. Thật ra, nó sẽ chỉ trì hoãn Thời đại Hoàng kim bởi vì quá nhiều người trong số 10% tiến bộ nhất đã khoác vào cái tư duy thụ động ngồi chờ dấu lạ thay vì nâng cao tâm thức mình và đồng sáng tạo chỉ dấu cho một thời đại mới.

Ta biết, có người sẽ hỏi là tại sao ta lại thực hiện một số phép lạ cách đây 2000 năm. Lý do là vì con người thời đó ở trong một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ta đã phải đánh thức họ dậy từ một trạng thái tâm thức thấp hơn hẳn so với trình độ bình thường ngày nay, và vì thế ta cần phải làm một số phép lạ. Tuy nhiên, con hãy lưu ý là ta đã không làm những phép lạ đó cho bất cứ ai đòi hỏi, và như vậy ta đã không làm để khoa trương mà chỉ để chứng tỏ khả năng của tâm trên vật chất.

Tất nhiên người ta đã sử dụng sự kiện trên để dựng lên một hình tượng sùng bái cho rằng ta là đứa con DUY NHẤT của Thượng đế, trong khi mục đích của ta là cho mọi người thấy rằng chính họ, tất cả những đứa con của Thượng đế, đều có thể là cánh cửa mở cho Thượng đế thực hiện những kỳ tích như vậy – vì với Thượng đế thì mọi chuyện đều khả dĩ. Ngày nay điều đó vẫn đúng, và ngày nay có nhiều người hơn đã nâng tâm thức mình lên cao tới mức họ cũng có khả năng làm cánh cửa mở cho phép lạ xảy ra. Cho nên ngày nay, điều càng quan trọng hơn là những chỉ dấu về quyền năng của tâm trên vật chất không nên được xem là đến từ một quyền lực cao hơn, hay từ một người cao trội hơn mọi người khác. Những chỉ dấu đó chỉ xảy ra khi con người – nhiều người chứ không chỉ một người – quyết định tự mình thị hiện.

Vậy người tâm linh có thể học được những gì từ các vòng tròn đồng ruộng? Phải, con học được là tâm có quyền năng trên vật chất, và vòng tròn đồng ruộng là một sản phẩm của hiệu ứng giao nhau (crossover effect) sẽ được mô tả dưới đây. Chính tâm thức con người đã tạo ra các vòng tròn đồng ruộng này cùng những hiện tượng tương tự, kể cả những vụ quan sát UFO. Nếu con người biết thừa nhận điều này, họ sẽ có thể học hỏi từ đó, nâng tâm thức mình lên cao và đem lại Thời đại Hoàng kim. Nhưng nếu họ phủ nhận hay không biết gì về sự thật này, thì họ sẽ xem các hiện tượng đó là dấu lạ từ một quyền lực cao hơn, rồi họ sẽ ngồi chờ ngày quyền lực đó đem lại Thời Hoàng kim cho họ, nhưng họ sẽ chỉ khiến cho ngày đó càng xa hơn mà thôi. Liệu con có thấy điều ta muốn nói? Nếu tâm thức nhân loại tạo ra một số hiện tượng mà chính mình xem là bằng chứng về một quyền lực cao hơn, thì làm sao họ có thể nhận trách nhiệm về bản thân mình? Kỳ thực, dấu hiệu mà các vòng tròn ruộng đồng chỉ ra cho con chính là sự kiện tâm thức của con sản xuất ra thực tại của con.

Là người tâm linh cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, con cũng học được là phải đặt ưu tiên cho đúng chỗ, không chú ý vào những hiện tượng không giúp gì cho cá nhân hay cho tâm thức tập thể tăng trưởng. Nói cách khác, con hãy ngừng đi tìm dấu lạ từ một quyền lực cao hơn để tập trung vào việc kết hợp với uy lực cao hơn đó, hầu uy lực đó có thể vận hành xuyên qua chính CON. Quá nhiều người tâm linh và người theo trào lưu Thời mới bị mê mệt với những loại hiện tượng mắt thấy, đến độ họ chỉ chú tâm đến những chuyện ngoại cảnh thay vì lo cải sửa tâm lý mình bằng cách tra vấn nhận thức của mình. Tất nhiên đây là một phần của những bi kịch cá nhân của con người, nhưng các chân sư sẽ được lợi ích hơn gấp bội nếu có thêm nhiều người khắc phục được bi kịch của mình thay vì củng cố cho bi kịch.

Con có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện? Hay là con nên thờ ơ? Vòng tròn đồng ruộng sẽ không ngăn cản và cũng không đem lại được Thời đại Hoàng kim, cho nên con hãy tập trung vào những gì sẽ đem lại thời Hoàng kim.

Vậy thì cái gì tạo ra vòng tròn đồng ruộng (ít ra là khi không do bàn tay con người làm ra)? Cách giải thích giản dị nhất là hiệu ứng giao nhau, như theo lời trích sau đây từ sách “Master Keys to Spiritual Freedom” (Chìa khóa chủ yếu cho tự do tâm linh) của thày Maitreya.

Maitreya: Như ta đã nói, ba tầng cõi cao hơn trong bầu cõi này được cấu tạo bằng năng lương thanh nhẹ hơn năng lượng của cõi vật lý. Năng lượng càng mềm mại, thì tầng cõi càng cao càng dễ chia ra thành những cấp độ riêng biệt, nơi mỗi cấp độ tượng trưng cho một tầng tâm thức và là nơi cư ngụ của những sinh thể mà trình độ tâm linh (cao hay thấp) nằm trong một phổ nhất định. Nói chung, các tầng cõi cao hơn được tạo ra với một cấp độ duy nhất (cõi bản sắc được tạo ra với hai cấp độ), và việc phân chia thành nhiều cấp độ hơn chỉ xảy ra khi các sinh thể trong tầng cõi đó nâng cao tâm thức mình lên hay kéo thấp tâm thức mình xuống. Nói cách khác, chính các sinh thể trong một tầng cõi tạo ra những cấp độ trong tầng cõi đó. Chẳng hạn, các sinh thể trong cõi cảm xúc đã tạo ra những cấp độ thấp trong cõi đó, là cái mà ta đã gọi là cõi trung giới (astral plane) và được nhiều người xem là địa ngục. Nhiều người đã nhìn thấy phần nào cõi trung giới trong khi nằm mơ, hay khi say rượu, say ma túy.

Như đã đề cập, khi cho phép sự phân chia thành nhiều cấp độ thì mục đích là để bảo vệ các sinh thể tiến hóa cao hơn khỏi phải tiếp xúc trực tiếp với các sinh thể ích kỷ, hà hiếp. Tất nhiên, đáng lý ra các sinh thể trong cõi vật lý cũng phải được bảo vệ y như vậy, nhưng vì cõi vật lý không thể chia ra thành nhiều cấp độ, cho nên sự bảo vệ đã được thực hiện bằng cách đặt các dải thiên hà và hệ mặt trời cách xa nhau đến độ việc di chuyển vật lý không thể nào xảy ra trên thực tế.

Điều ta muốn nói là có hàng triệu hành tinh trong vũ trụ vật lý có sự sống, trên nguyên tắc tương tự với những gì con thấy trên địa cầu – mặc dù trong một số trường hợp có sự khác biệt rất lớn về mặt thiết kế. Tuy nhiên, những hệ mặt trời hỗ trợ sự sống này xa cách nhau trong không gian bề ngang, đến độ sự tiếp xúc vật lý trực tiếp không thể xảy ra trên thực tế. Kỳ thực, việc di chuyển giữa hai hệ mặt trời là chuyện khả dĩ, tuy nhiên chỉ có những nền công nghệ cực kỳ tinh xảo mới có thể thực hiện được. Và công nghệ như vậy chỉ có thể được phát triển bởi những sinh thể với mức chứng đạt tâm linh rất cao, có nghĩa là họ không còn mục đích hung hãn nào nữa khi du hành đến hành tinh khác. Họ cũng hiểu được mục đích của vũ trụ là để tạo cho các sinh thể trên một hành tinh cơ hội tự mình tiến hóa, cho nên họ sẽ có đủ minh triết để không can thiệp vào tiến trình này.

Ý của ta ở đây là muốn giúp con nhìn xa hơn một số huyền thoại vô cùng phổ biến do sách và phim ảnh khoa học viễn tưởng tạo ra. Sự sống trên địa cầu đã không được sinh tạo hay được cấy trồng bởi những người ngoài hành tinh đã đến trái đất trong những chiếc đĩa bay. Địa cầu cũng sẽ không bị tàn phá bởi những kẻ cướp vũ trụ không ngừng đi khai thác nguồn tài nguyên mà chúng đã cạn kiệt trên hành tinh của chúng. Và cũng vậy, địa cầu sẽ không được cứu nguy bởi những sinh thể ngoài địa cầu với công nghệ và trí tuệ tinh xảo đến độ họ sẽ giải quyết tất cả mọi vấn nạn cho nhân loại.

Các nền văn minh không cao lắm có khả năng du hành liên hành tinh trên những khoảng ngắn như trong thái dương hệ của chúng ta chẳng hạn. Tuy nhiên, không có hành tinh nào khác trong thái dương hệ chúng ta còn hỗ trợ sự sống trong cõi vật lý nữa. Bao nhiêu giả thuyết và ngay cả những vụ quan sát UFO đều phát xuất từ sự kiện những hình tướng đó hiện ra trong cõi trung giới. Có những người đã dùng tâm mình “bắt sóng” được cõi trung giới và có những trải nghiệm có vẻ hiện thực đến độ những hình tướng đó tưởng chừng như là vật lý. Thậm chí có những nơi trên trái đất nơi rung động của cõi vật lý đã bị kéo thấp đến độ đôi khi có một hiện tượng xuyên chéo, giao nhau, giữa cõi vật lý với cõi trung giới. Hiệu ứng này có thể được củng cố bởi những người bị ám ảnh bởi UFO, và như vậy những người này cũng góp phần vào hiện tượng mà họ quan sát.

Con hãy lưu ý một số hệ quả tinh tế nhưng tối quan trọng trong những điều mà ta ngụ ý. Mọi thứ trong cõi vật lý được tạo ra qua một tiến trình bắt đầu ở cõi ê-the, là nơi con tìm thấy những hình tư tưởng thuần khiết do các chân sư ở cõi tâm linh tạo ra. Các hình tư tưởng ê-the này được chồng lên ánh sáng Mẫu-Vật và như vậy độ rung của chúng được kéo xuống tầng lý trí. Dựa trên các hình tư tưởng ê-the, thêm nhiều hình ảnh lý trí được tạo ra và ánh sáng lại được kéo xuống thấp hơn nữa vào dải tần số của tầng cảm xúc. Ở đây, các hình ảnh đó được thấm đẫm tình cảm, khiến cho ánh sáng Mẫu-Vật bị kéo xuống dải tầng số vật lý, nơi chúng được thị hiện trong hình dạng vật lý. Nguyên tiến trình vừa kể có sự tham gia của những sinh thể tự nhận biết ở mọi cấp, và bởi vì một số những sinh thể này đã trở nên đui mù bởi tâm thức nhị nguyên, cho nên các cấp độ thấp nhất của tầng cõi ê-the, lý trí và cảm xúc chứa đựng nhiều hình tư tưởng ô uế, và những hình tư tưởng này đã bóp méo, tha hóa ánh sáng đi xuyên qua. Điều ta muốn nói là nếu ánh sáng đã đi theo con đường tinh khiết nhất thì nó đã có thể đến được cõi vật lý mà không đến nỗi bị tha hóa. Tuy nhiên, vì ánh sáng phải đi qua các cấp độ thấp kém nhất của cõi lý trí và cảm xúc, cho nên nó bị biến dạng đến độ hình tư tưởng ê-the nguyên thủy bị che lấp hoàn toàn, hoặc thậm chí còn bị một hình tư tưởng ô uế thay thế.

Bây giờ con thấy được là các điều kiện trên địa cầu vật lý tùy thuộc vào những con người đang đầu thai, liệu họ có thể đem các hình tư tưởng ê-the thuần khiết vào thị hiện, hay là họ đem vào thị hiện những hình tư tưởng méo mó của các cấp độ thấp kém. Nếu tâm thức họ tương đối trong sạch, họ có khả năng đem xuống các hình tư tưởng ê-the chưa biến dạng, và như vậy họ tạo ra một cái gì tưởng chừng như thiên đàng hạ giới. Thế nhưng nếu họ hạ thấp tâm thức xuống, họ sẽ đem vào thị hiện vật lý những hình tư tưởng có mặt nơi các cõi thấp của lý trí và cảm xúc. Điều này xảy ra trên quy mô hành tinh khi có những nhóm người hòa điệu tâm thức tập thể của họ vào một số cấp độ nhất định của các cõi cao hơn. Sự hòa điệu tập thể này có thể được tập trung vào một số địa điểm vật lý, và đó là tại sao con thấy một số khu vực với độ rung rất cao, rất tâm linh, trong khi có những khu vực khác giống như điạ ngục trần gian. Đây chính là nguồn gốc của huyền thoại về Shangri-La, một xã hội đẹp đẽ lý tưởng, nhưng trong nhiều thời đại văn minh hoàng kim của thời quá khứ đã từng có những loại xã hội như vậy thị hiện vật lý.

Vậy chúng ta thấy được là nếu có người hòa điệu tâm thức của họ vào các cấp độ thấp kém của cõi cảm xúc, thì con sẽ thấy những hình tư tưởng thấp nhất mà loài người cùng các thần thánh giả hiệu đã tạo ra từ xưa tới giờ. Bây giờ còn thêm một chuyện, là các sinh thể sống nơi các cõi cảm xúc thấp kém này bắt buộc phải đánh cắp năng lượng của loài người để sống còn, thì con có thể hiểu tại sao chúng luôn luôn tìm đường xâm nhập vào tâm thức người ta. Lối xâm nhập chủ yếu của chúng là lòng sợ hãi, và chúng luôn luôn tìm cách khơi lên nỗi sợ về một cái gì đó mà người ta nghĩ là không có cách nào che chắn. Chẳng hạn vào thời Trung cổ, nhiều người tin vào ma quỷ hay hồn yêu tinh có thể hãm hại thể xác của họ. Họ còn tin vào một số sinh vật mà họ cho là có thể xác, như rồng, khổng lồ, và vô số những thú vật thần thoại khác. Những thú vật đó có thật hay không? Có, chúng đã và vẫn có thật, nhưng chỉ trong cõi cảm xúc thấp. Liệu người ta có thể nhìn thấy chúng và bị chúng tác động vật lý hay không? Câu trả lời cũng là có, nhưng chỉ những ai đã hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào các cõi cảm xúc thấp. Chính việc hòa đồng này đã bắc một “nhịp cầu” tâm thức làm mờ nhạt lằn ranh giữa cõi vật lý với cõi cảm xúc.

Chúng ta có thể nói, bởi vì tất cả mọi thứ đều là tâm thức, cho nên tâm thức tập thể của những người đã sáp nhập sóng rung động của cõi vật lý vào cõi cảm xúc đã khiến cho hiệu ứng giao nhau nói trên xảy ra. Ở một số thời điểm và địa điểm, người ta có thể thực sự gặp được rồng và những thú vật thần thoại khác. Liệu các thú vật đó có thân xác vật lý? Điều này tùy theo người ta dùng từ như thế nào. Chẳng hạn, có người có thể gặp gỡ vật thần thoại và trải nghiệm một sự trực diện hoàn toàn vật lý, nhưng vật đó không có khả năng di chuyển tự do hay sinh đẻ trong cõi vật lý. Vật đó cũng có thể hiện hữu trong một khu vực giới hạn và chỉ khi nào tâm thức người ta khiến cho hiện tượng giao nhau có thể xảy ra.      

Điều này giải thích tại sao nhiều người thời Trung cổ quả quyết là họ đã nhìn thấy tận mắt đủ loại thú vật thần thoại, trong khi ngày nay trong xã hội hiện đại duy lý, gần như chẳng còn ai nhìn thấy nữa. Từ khi khoa học ra đời, hoặc người ta không còn tin vào những vật đó nữa, hoặc người ta không tin là chúng có thể hiện hữu vật lý, và do đó nhịp cầu nối liền cõi vật lý với cõi cảm xúc nơi những vât đó có mặt đã bị co rút lại đến độ hiệu ứng giao nhau trở nên yếu ớt.

Tất nhiên, các sa nhân và thần thánh giả hiệu không thể bằng lòng với sự kiện quyền năng của chúng – là quyền năng khủng bố con người để khiến con người làm tha hóa ánh sáng – đã bị suy giảm do khoa học ra đời. Cho nên chúng phải cố tìm một cách khác để khơi lên nỗi sợ bản năng khi con người tin vào một hiện tượng có vẻ như vô phương đối phó. Chúng đã không thực hiện được âm mưu này cho tới khi chính khoa học phát triển hơn, khiến cho hầu hết mọi người hiểu ra là vũ trụ rộng lớn mênh mông và tin rằng sự sống được sinh tạo qua một quá trình tiến hóa. Đây là cơ hội đưa ra khái niệm là trong vũ trụ mênh mông này có những nền văn minh vô cùng tiến bộ đã phát triển trên hành tinh khác. Thế là với ý tưởng là nhân loại đang dần dần dùng hết tài nguyên trên địa cầu, mới nảy ra ý tưởng là có những nền văn minh khác đã cạn kiệt và tàn phá hành tinh của họ, và giờ đây họ đang bay khắp vũ trụ trong tàu không gian để săn lùng những hành tinh vẫn còn tài nguyên. Bởi vì những người ngoài địa cầu đó có công nghệ vượt hẳn nhân loại, cho nên không có cách chi nhân loại có thể chống đỡ. Và bởi vì người tin vào khoa học cũng có xu hướng không tin Thượng đế, cho nên họ nghĩ là không có một sức mạnh nào – trên trời cũng như dưới đất – có thể bảo vệ họ khỏi một cuộc xâm lược từ vũ trụ.

Phần lớn hiện tượng ưa thích khoa học viễn tưởng đã là một công cụ cho sa nhân tạo ra một nỗi sợ bản năng dựa trên khoa học để thay thế nỗi sợ bản năng dựa trên tôn giáo của thời Trung cổ. Và giờ đây chúng đã tạo ra một nỗi sợ mới mà loài người dường như không thể chống đỡ. Con cũng thấy, thật là mỉa mai khi khoa học đã giúp cho loài người khắc phục nỗi sợ của thời Trung cổ để bây giờ trở thành công cụ tạo ra một phiên bản mới cho cùng nỗi sợ đó.

Vậy thì UFO có thật hay không? Có, UFO có thật trong một số tầng cấp thấp kém của cõi trung giới. UFO có hiện thực vật lý hay không? Không, nếu theo nghĩa UFO là những phi thuyền được chế tạo trên một hành tinh khác trong cõi vật lý và đã bay đến địa cầu trong cõi vật lý. Vậy thì tại sao càng ngày những vụ quan sát UFO hình như càng nhiều hơn? Bởi vì khi người ta hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào những tầng cấp của cõi trung giới nơi UFO đã được tạo dựng bởi các thần thánh giả hiệu, một hiệu ứng giao nhau được sản xuất ra. Hiệu ứng này có tiềm năng gia tăng, cho nên việc hay nhất mà hầu hết mọi người tâm linh cần làm là từ chối tập trung sự chú ý của mình vào hiện tượng UFO, và thay vào đó tập trung vào cõi tâm linh.

Hầu hết mọi người tâm linh có thể – và nên – tu tập để phát triển tâm linh mà không quan tâm đến hiện tượng UFO. Con càng chú tâm vào UFO thì con sẽ càng buộc chặt con lại với cõi trung giới, càng mở tâm con ra cho những loại năng lượng và hình tư tưởng đó. Do đó, qua việc cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh và đặt trọng tâm vào cõi tâm linh, con sẽ có thể vượt lên khỏi mọi ràng buộc với cõi trung giới và hiện tượng UFO. Ông hoàng của cõi trung giới có thể đến trong chiếc đĩa bay của y nhưng y sẽ không nắm được gì trong con (John 14:30).

Nếu con đã đến đây với Sanat Kumara, bây giờ đã đến lúc con thăng thiên

Hỏi: Con đã được đọc chút đỉnh về lịch sử của thày Sanat Kumara đến địa cầu. Lần đầu tiên khi con nghe bài truyền đọc do thày Sanat Kumara về đề tài này, con gần như khóc oà mà không làm sao cầm lại được. Con đã phải cố gắng lắm mới không bị ướt đẫm nước mắt lẫn nước mũi. Trong một số bài truyền đọc khác của thày Sanat Kumara, con cũng đã có một kinh nghiệm tương tự. Con không thể tìm ra lý do chính xác tại sao con lại phản ứng như vậy. Con nghi là con có liên hệ gì đó với 144,000 dòng sống và Sanat Kumara. Xin thày chỉ dẫn cho con, con nên nhìn trải nghiệm đó như thế nào, tại sao nó lại xảy ra và con rút tỉa được điều gì từ đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tuyệt đại đa số các dòng sống trong số 144,000 dòng sống đã xuống địa cầu cùng với Sanat Kumara, hiện vẫn chưa thăng thiên. Họ đã chờ đợi thời điểm thuận lợi để làm việc đó, chờ cho đến khi địa cầu được nâng lên đủ cao thì họ mới có thể rời hành tinh này. Quả thực thời điểm đó đã đến, cho nên điều quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là họ cần nối kết lại với con người thực mà họ là, và lấy quyết định ý thức là mình sẽ làm tất cả để đạt đến quả vị Ki-tô và thực hiện cuộc thăng thiên nội trong kiếp này hay kiếp tới.

Khi quyết định ở lại với hành tinh này lâu đến như vậy, thật sự các dòng sống đó đã sẵn lòng dâng hiến và hy sinh tột cùng. Nhưng giờ đây đã đến điểm các con sẽ giúp ích hành tinh này nhiều hơn bằng cách thăng thiên, và khi làm vậy, các con sẽ để lại một dấu đường cho mọi người khác bước theo, và con sẽ đóng góp phần động lượng của con vào ngọn lửa thăng thiên trên hành tinh.

Con phải hiểu rằng hầu hết mọi người trên hành tinh này đều hoàn toàn thờ ơ đối với sứ mạng của Sanat Kumara. Cho dù họ có nghe nói về sứ mạng đó, họ cũng không có mảy may quan tâm nào. Họ không có căn bản nào để thực sự hiểu được là nếu sứ mạng của 144,000 dòng sống từ Kim tinh không xảy ra, thì trái đất này đã không thể tồn tại, còn họ thì đã phải sống ở những nơi còn tồi tệ hơn cả địa cầu.

Điều ta muốn nói là hầu hết con người đều không mang cảm xúc sâu xa nào đối với câu chuyện của Sanat Kumara, cho nên nếu con có phản ứng như trên thì đó là dấu hiệu chắc chắn con thuộc về một trong những thành phần sau đây:

  • Con có thể là một trong số 144,000 dòng sống đã xuống đây từ Kim tinh.
  • Con có thể là một trong số các dòng sống đã tình nguyện đến địa cầu sau Sanat Kumara hầu hỗ trợ cho sứ mạng của thày.
  • Con có thể là một dòng sống đã hiện thân trên hành tinh này từ ban đầu, nhưng giờ đây con đã đạt đến mức trưởng thành tâm linh khi con có khả năng hiểu được tầm quan trọng của sứ mạng của Sanat Kumara. Cho nên dòng sống của con hiểu được tầm quan trọng của chính mình nơi các tầng cõi nội tâm, và đó là tại sao con đã đáp ứng khi tâm vỏ ngoài ý thức được điều đó.

Cái ta Ki-tô của con sẽ nói cho con biết con thuộc thành phần nào, nhưng điểm quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là: Đã đến lúc con nỗ lực hết mình để thể hiện quả vị Ki-tô của mình và thăng thiên. Hành tinh này cần được gia tốc một cách đáng kể, và điều này chỉ làm được khi con biểu hiện quả vị Ki-tô của con và như vậy con cũng gia tốc tâm thức của nhân loại vượt xa hơn tất cả mọi thứ mà nhân loại đã chứng kiến từ khi Sanat Kumara giáng thế. Đó chính là mục đích của con khi đến hành tinh này, và bây giờ đã đến lúc con hoàn thành mục đích đó.

Giáo lý căn bản về cái chết thứ nhì

Hỏi: Con không hiểu rõ việc linh hồn bị cái chết thứ nhì, bị xóa bỏ vĩnh viễn. Năng lượng không thể bị xóa bỏ – và linh hồn là năng lượng, vậy con xin thày giảng cho con rõ hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, đăng ngày 16/11/2012.


Mọi thứ có hình tướng đều được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, hay năng lượng của Thượng đế; đó là cái chúng tôi gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Thượng đế đã tạo ra một khoảng rung động liên lục, và con sống trong một phần nhỏ của khoảng này, gọi là vũ trụ vật chất, hay là bát cung (octave) vật lý. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng xuất phát từ cõi tâm linh. Độ rung của năng lượng này được hạ xuống cho đến khi nó rung động trong quang phổ của các tần số của vũ trụ vật chất. Năng lượng thấp không thể ảnh hưởng năng lượng cao.

Khi các khoa học gia nói – qua định luật thứ nhất của nhiệt động học – là năng lượng không thể được tạo ra hay bị hủy hoại, thì họ đúng nếu ta theo sát nghĩa, nhưng sự thực hơn thế. Thượng đế đã tạo ra mọi năng lượng, và Thượng đế chắc chắn có thể hủy hoại chúng. Tuy nhiên, một sinh thể trong một cõi nào đó – tỷ dụ như vũ trụ vật chất – không thể tạo ra hay hủy hoại năng lượng trong cõi đó hay trong các cõi cao hơn.

Bây giờ chúng ta cần thêm một điểm là mọi hình tướng được tạo ra từ năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, mỗi hình tướng được tạo ra bởi một hình tư tưởng được đè chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật cho tới khi ánh sáng thể hiện ra hình tướng. Vậy bây giờ ta thấy là hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng, nhưng nó được tạo ra BỞI tâm thức.

Như chúng tôi đã giảng trong các bài khác, cái Ta Biết được sinh tạo trong cõi tâm linh. Nó không có hình tướng, không có thực chất vật chất, và đó là lý do vì sao nó không thể bị hủy diệt hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ các rung động thấp nào trong cõi vật chất. Đó là lý do vì sao chúng tôi gọi nó là “nhận biết thuần khiết”. Nói cách khác, cái Ta Biết là tâm thức được tạo ra với mục đích đồng sáng tạo bằng cách đè chồng hình tư tưởng lên năng lượng.

Do đó, khi cái Ta Biết đi xuống, nó bắt đầu dùng năng lượng để đồng sáng tạo ra hình tướng. Câu hỏi mà ta cần đặt ra là nó pha màu các năng lượng này ra sao. Trong hoàn cảnh lý tưởng, cái Ta Biết tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm là nó nối kết với cái gì lớn hơn chính nó và với ý muốn nâng cao mọi thứ mà nó gặp gỡ. Lúc đó, các hình tư tưởng này sẽ dâng lên và trở thành một phần của căn thể (causal body) của nó. Năng lượng được pha màu bởi các hình tư tưởng đó cũng sẽ dâng lên, và một phần sẽ được lưu trữ trong căn thể (và sẽ tạo ra một động lực (momentum) tích cực), và phần khác sẽ được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ và gửi trả lại về con. Điều này có nghĩa là con sẽ gia tăng khả năng sáng tạo của mình.

Nhưng cái Ta Biết cũng có thể quyết định đi vào cái mà chúng tôi gọi là tâm thức tách biệt hay nhị nguyên. Để làm điều này, trước tiên nó phải tạo ra hay chấp nhận một hình ảnh của chính nó như là một sinh thể tách biệt tách rời khỏi cội nguồn của nó. Một khi cái Ta Biết bước vào một cái ta tách biệt như vậy, thì nó sẽ tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm tách biệt thay vì ý niệm kết nối với tổng thể mà nó có trước kia. Những hình ảnh này không thể dâng lên vào căn thể. 

Thêm nữa, tất cả các năng lượng bị pha màu bởi các hình ảnh đó cũng không thể dâng lên, và do đó chúng sẽ không được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao dòng sống của con trở nên một hệ thống khép kín, và con có thể sẽ rốt cuộc cạn hết năng lượng sáng tạo. Lúc đó, chọn lựa duy nhất của con là lấy năng lượng từ cõi vật chất (thay vì nhận năng lượng từ cõi tâm linh), có nghĩa là con phải lấy năng lượng từ người khác. Lúc đó, con trở nên một ma cà rồng hút năng lượng.

Vậy bây giờ thì câu hỏi kế tiếp là những năng lượng thấp đó đi đâu – vì khoa học đã nói đúng là khi con bước vào cái ta tách biệt thì con không thể hủy diệt năng lượng đã bị pha màu qua ý niệm bản ngã đó? Và câu trả lời là các năng lượng đó sẽ bắt đầu tích tụ nơi mà chúng ta có thể gọi là cái ta tách biệt hay cái ta thấp. Một số giáo lý tâm linh đã dùng từ linh hồn (soul) để gọi phần này của bản thể của con, vì các giáo lý này không có quan niệm cái Ta Biết và cũng không phân biệt tâm thức và năng lượng.

Điểm quan trọng là khi cái Ta Biết tự nhận nó là một sinh thể tách biệt, thì nó không thể bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã đó, và nó cũng không thể bỏ lại đằng sau hay chuyển hóa các năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Điều này cũng có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên khi xác thân vật lý chết đi, và do đó nó cần đầu thai trở lại.

Con hãy ghi nhận là điều mà nhiều giáo lý gọi là nghiệp (karma) bao gồm các hình tư tưởng được tạo ra qua cái ta tách biệt và những năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Các năng lượng có thể được tái chỉnh qua một tiến trình tương đối máy móc, nhưng thăng vượt các hình tư tưởng đòi hỏi một tiến trình có ý thức trong đó con quyết định đào thải các hình ảnh cũ và các quyết định đã tạo ra chúng.

Bây giờ thì con cần nhận ra là cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là phần nối dài của một chân sư thăng thiên, là một phần nối dài của một sinh thể cao hơn nữa, cứ tiếp tục như vậy để sau cùng là phần nối dài của đấng Sáng tạo. Chỉ có một cái tâm duy nhất, một tâm thức duy nhất, và tất cả các sinh thể có tự nhận biết đều là phần nối dài của nó, một cá thể của nó. Mục đích của tiến trình tạo cá thể là để cho mỗi đốm sáng từ tâm của đấng Sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết của mình cho tới khi nó vươn lên tới cùng tầng tâm thức với đấng Sáng tạo. Lúc đó, con trở thành một đấng Sáng tạo có thể tạo ra một thế giới hình tướng của mình.

Ta có thể nói là đấng Sáng tạo đã cho con thuê một phần của tâm của ngài. Con có quyền tự quyết, và do đó con có thể làm bất cứ gì con muốn với phần đó, và đấng Sáng tạo còn chịu cho phép sinh thể của ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp, nếu đó là điều con muốn đồng sáng tạo. Tuy nhiên, đấng Sáng tạo không muốn là một phần của tâm ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp một cách vĩnh viễn.

Chuyện có thể xảy ra với cái Ta Biết là nó có thể dần dà tự đồng hóa hoàn toàn với cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra. Lúc đó, nó tạo ra một vòng xoắn hướng hạ trở thành một lực tự củng cố. Cái Ta Biết càng ngày càng tạo thêm hình tư tưởng dựa trên tách biệt, và khi nó còn nhìn đời qua các hình ảnh đó, thì nó tin tưởng tuyệt đối nó là một sinh thể tách biệt. Nói cách khác, cái Ta Biết nhìn xuyên qua quá nhiều lớp ảo tưởng nên nó thực sự không thể chất vấn thế giới quan cơ bản của nó.  Nó cũng không thể thoát ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Trong cái bây giờ và ở đây, cái Ta Biết là cái nó nghĩ nó là, là cái nó thấy nó là.

Cái Ta Biết cũng tạo ra càng ngày càng nhiều năng lượng thấp, và các năng lượng này tạo sức hút từ tính lên cái ta tách biệt. Do đó, khi cái Ta Biết còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt, thì nó cũng cảm thấy sức hút này, và sự kiện này lại càng khiến nó tin mình là một sinh thể tách biệt. Sức hút đó cũng khiến nó khó trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết thực sự ở trong một vũng nước xoáy đầy năng lượng thấp cứ càng ngày càng kéo nó xuống thêm, đồng thời trói nó vào vòng xoắn hướng hạ tập thể do các dòng sống đang bị kẹt trong tư duy tách biệt tạo ra trên hành tinh này. Một khi vòng xoắn hướng hạ này tới một điểm có tính quyết định, thì nó trở thành môt lực tự củng cố vì cái Ta Biết không thể ngưng vòng xoắn này khi nó còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt.

Như ta đã giảng, cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, và nó không thể bị biến đổi bởi bất cứ cái ta hay năng lượng nào trong cõi vật chất. Cái bị biến đổi không phải là cái Ta Biết mà là hình ảnh của nó về chính nó. Do đó, cái Ta Biết có thể bất cứ lúc nào rút mình ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm trở lại nó là nhận biết thuần khiết. Một khi nó có kinh nghiệm này, nó có được một khung tham chiếu giúp nó dần dà phân rã cái ta tách biệt. Tuy nhiên, điểm khó khăn là một khi cái Ta Biết bị kẹt trong vòng xoắn hướng hạ, thì nó chỉ có thể thoát ra khi nó nhìn nhận là toàn bộ cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra chỉ là một ảo tưởng. Và khi cái ta tách biệt đó được sinh tạo dựa trên lòng kiêu hãnh, thì đây là một chuyện rất khó làm, nhất là khi cái Ta Biết tin rằng nó đã tạo ra một cái ta tốt lành và rất tinh vi – có thể còn biết rõ hơn Thượng đế cách điều hành vũ trụ.

Trong một số bài giảng khác chúng tôi có nói về hậu quả của tư duy nhị nguyên khiến con nghĩ rằng con có khả năng làm thần nhân trên thế gian và có thể quy định thế nào là đúng hay sai dựa trên viễn quan của mình. Do đó, khi con tạo ra một cái ta tách biệt nghĩ rằng nó biết chân lý tối hậu, thì con rất khó thoát ra khỏi nó, vì con phải nhìn nhận là tất cả những gì con đã tạo ra – kể cả ý niệm tự tôn mà con đã xây dựng – hoàn toàn là một ảo tưởng không dính dáng gì đến thực tại của Thượng đế.

Trong các bài giảng của chúng tôi về các bầu cõi, con sẽ thấy là có một số sinh thể đã sa ngã trong một bầu cõi trước và tiếp tục sa ngã trong bầu cõi sau cùng này. Do đó, họ có một động lực phủ nhận rất lâu dài và họ tuyệt đối tin rằng một ngày nào đó họ sẽ chứng minh được là Thượng đế sai và họ đúng. Đấng Sáng tạo thật sự rất kiên nhẫn với các dòng sống đó, nhưng giống như mọi thứ khác trong thế giới hình tướng, cơ hội mà họ có sẽ có lúc chấm dứt. Và đây là điều mà chúng tôi gọi là cái chết thứ nhì, để phân biệt nó với cái chết “đầu” chỉ lúc xác thân vật lý chết đi và dòng sống tái sinh. Cái chết thứ nhì – mà ta cũng có thể gọi là cái chết cuối cùng – chỉ lúc cơ hội tái sinh ở bất cứ nơi nào trong thế giới vật chất vĩnh viễn chấm dứt.

Với cái chết thứ nhì, tất cả năng lượng bị tha hóa do dòng sống tạo ra được chỉnh hóa lại và trở lại trạng thái thuần khiết. Nhưng năng lượng đó sẽ được hoàn trả về kho năng lượng hoàn vũ thay vì trở về căn thể của Hiện diện TA LÀ. Các hình tư tưởng do cái ta tách biệt tạo ra sẽ bị xóa bỏ. Nhưng đây là kết quả của một tiến trình đặc biệt. Thay vì cái Ta Biết nhìn vào các hình tư tưởng và quyết định thay thế quyết định đã tạo ra chúng, thì Hiện diện TA LÀ sẽ làm công việc này. Điều này có nghĩa là tiến trình học hỏi xảy ra ở cấp Hiện diện, và do đó một số trải nghiệm sẽ vẫn được tồn trữ trong căn thể.

Còn cái Ta Biết thì nó hoàn toàn nhập trở lại vào Hiện diện TA LÀ, như là nó đã chưa bao giờ hiện hữu. Hiện diện TA LÀ có thể quyết định gửi một cái Ta Biết khác xuống dựa trên các trải nghiệm của nó, nhưng cái Ta Biết này sẽ không giống y như cái trước. Do đó, ta có thể nói là với cái chết thứ nhì, một dòng sống đặc trưng đã hoàn toàn bị xóa bỏ và mất đi.

Nói chuyện với người khác nhưng để ý phản ứng của mình

Hỏi: Nếu con có bạn bè cũng bước trên đường tu tâm linh và nếu con nhận ra là họ có một điều gì họ không thể buông bỏ, thì liệu con có trách nhiệm nêu vấn đề ra để họ chú ý? Hay con phải làm việc trên tự ngã của con trước khi đặt vấn đề với họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trách nhiệm của con luôn luôn là soi gương, là nhìn vào bản thân mình trước tiên. Hẳn con cũng biết lời ẩn dụ của ta về những người nhìn thấy trước tiên cái giằm trong mắt người khác mà không nhìn thấy cái đà trong mắt mình. Cho nên khi con là người tầm đạo tâm linh, con nên luôn luôn dõi nhìn những gì xảy ra trong chính mình.

Tuy nhiên khi con bước trên đường tu, sẽ tới một điểm khi con nhìn ra được một số điều trong bản thân mình và do đó con cũng thấy rõ hơn những gì xảy ra trong tâm lý người khác. Cho nên sẽ tới lúc con có trách nhiệm nêu vấn đề cho họ chú ý, hầu họ có cơ hội nhìn thấy những gì mà tự họ không thể thấy được.

Thật sự, những người tầm đạo nếu ở trong một trạng thái tâm thích hợp có thể giúp đỡ lẫn nhau rất nhiều, bởi vì mỗi người đều có những điểm mù, là những điểm mà họ không thể nhìn thấy nhưng lại thật hiển nhiển đối với người khác. Cho nên bằng cách đưa vấn đề đó ra trong tình thương yêu, các con có thể giúp đỡ nhau rất nhiều trên đường tu.

Câu hỏi mấu chốt mà con cần đặt ra cho chính con là liệu con có cảm thấy dính mắc bởi điều con vừa phát hiện nơi người kia hay không. Liệu nó có làm phiền con không? Liệu nó có khiến con bực bội, nóng giận hay không? Liệu con có sợ nó không? Liệu con có cảm thấy bó buộc phải cho người kia nhìn thấy tính xấu của họ, như thể con sẽ bị mất một cái gì đó hay con bị tổn thương hoặc bị chối bỏ nếu họ không nhìn ra? Nếu con có thể nhận diện các loại cảm xúc này trong bản thân con, thì con nên coi như là mình vẫn chưa chữa lành được tâm lý mình hoàn toàn.

Trong trường hợp đó, rất có thể sẽ tốt hơn nếu con không nói gì với người kia, bởi vì chừng nào con còn mang những dính mắc và cảm xúc tiêu cực như vậy thì con có thể chắc chắn là các cảm xúc đó sẽ ngăn cản không cho con thấy rõ những gì đang xảy ra trong tâm lý họ. Nếu vậy, con sẽ cần làm việc trên chính mình – cho đến khi con cảm được sự minh mẫn luôn đi kèm theo sự không dính mắc – rồi sau đó con mới hãy nói chuyện với người kia.

Chúng ta cũng có thể nói được là nếu con có thể nêu lên vấn đề từ nhãn quan của tình thương tinh khiết, thì con rất nên làm chuyện đó. Nhưng nếu con nhận diện những loại cảm xúc khác thì con nên hoãn lại một thời gian, soi vào gương, và tìm xem có thể nào là người kia đang phơi bày ra một điểm gì đó trong tâm lý con hay chăng, và liệu con sẽ được ích lợi chữa lành nó, hầu con được giải thoát khỏi nó và bước đi tiếp trong cuộc sống.

Như ta đã chỉ ra nhiều lần, sự cân bằng và không dính mắc chính là chìa khóa. Nếu con cân bằng, cái nhìn của con sẽ rõ ràng và con không cảm thấy bị bó buộc bởi những cảm xúc vị kỷ. Nếu con không dính mắc, con sẽ có khả năng nói chuyện với người kia mà không bị phiền lòng nếu họ không đồng ý hay không thay đổi. Luôn luôn con hãy nhớ tôn trọng định luật tự quyết của Thượng đế. Trách nhiệm của con CHÍNH LÀ cho người kia cơ hội thay đổi bằng cách nói ra những gì con thấy, chứ KHÔNG PHẢI là chọn lựa dùm họ những gì họ phải làm với điều con vừa nói với họ.

Con hãy nói chuyện với người kia, xong con hãy giữ mình không bị dính mắc vào cách phản hồi của họ. Nếu con phát hiện trong con bất kỳ dính mắc nào liên quan đến phản hồi của họ, thì con hãy sử dụng nó để phát hiện cái đà trong mắt con. Khi con phản ứng lại người khác – ngược với khi con tự do chọn lựa cách mình đáp ứng trước một tình huống – thì phản ứng đó của con luôn luôn là vì ở trong con có điều gì đó mà con cần giải quyết. Cho nên từ nhãn quan này, con không bao giờ mất gì khi con nêu vấn đề ra cho người kia chú ý. Con chỉ mở tâm ra để khám phá vận hành trong con, và con quyết tâm nắm lấy cơ hội học hỏi từ tình huống ngay cả khi người kia không nắm lấy cơ hội.

Phải chăng nghiệp quả là một lời dạy sai lầm?

Hỏi: Một số giáo lý bảo rằng nghiệp quả chỉ là một ảo tưởng, bởi vì chúng ta sáng tạo trong HIỆN TẠI. Chúng ta luôn luôn tự do sáng tạo bất cứ gì mình muốn trong hiện tại mà không bị giới hạn bởi những gì mình đã làm trong tiền kiếp. Đó là lý do tại sao chúng ta không nhớ lại được tiền kiếp một cách ý thức. Một số người còn bảo rằng các lời dạy về nghiệp quả và cái chết thứ nhì là dựa trên lòng sợ hãi, và do đó không đến từ Thượng đế đích thực, một Thượng đế yêu thương vô điều kiện. Họ bảo rằng bất kỳ lời dạy nào nói đến việc chấm dứt cơ hội là một lời dạy sai lầm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một sự hiểu lầm về các khía cạnh cơ học của vũ trụ vật chất. Cái con tạo ra trong hiện tại là ý niệm bản sắc của con, và cái đó con sẽ tái tạo trong mỗi khoảnh khắc thức. Cho nên con có thể – trên lý thuyết – chọn lựa thay đổi ý niệm bản sắc của mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, ngay cả chuyện đó cũng có thể khó khăn bởi vì các chọn lựa trong quá khứ đã tạo ra những vết thương tâm lý trong cỗ xe bốn lớp của con, hay linh hồn. Các vết thương này được gây ra bởi những quyết định mà con đã lấy, và cho tới khi con gỡ bỏ các quyết định đó một cách ý thức và thay thế chúng bằng những quyết định tốt hơn, con sẽ không thoát ra khỏi các chọn lựa đó. Và do đó, con sẽ không thể thay đổi cái ý niệm bản sắc phát xuất từ các chọn lựa đó.

Định luật nhân quả chỉ đơn giản mô tả các khía cạnh cơ học trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Dòng sống của con chỉ có thể sống sót vì nó nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con phú cho năng lượng đó một rung động cao hơn một tần số nào đó, cao hơn một cái mốc nào đó, năng lượng sẽ biến thành kho báu của con cất giữ trên thiên đàng. Nó sẽ được gửi trả xuống cho con và lại được nhân lên gấp bội, như ta đã có giải thích qua truyện ngụ ngôn về các ta-lăng.

Nếu con tha hóa năng lượng xuống bên dưới mốc then chốt đó, con sẽ “bị đánh rớt” và con sẽ phạm vào điều mà các tín hữu Cơ đốc thường gọi là tội lỗi. Năng lượng tha hóa sẽ tích tụ lại trong trường năng lượng cá nhân của con cũng như trong trường năng lượng của hành tinh địa cầu. Cho nên khi con trở lại đầu thai trong kiếp sau, con sẽ bị năng lượng này tác động. Con không thể thăng thiên vĩnh viễn vào cõi tâm linh cho tới khi con hồi phục tất cả những năng lượng mà con đã tha hóa khi hiện thân trên địa cầu. Cũng vậy, con tạo ra một cái ngã tách biệt khi con chấp nhận các ảo tưởng nhị nguyên, và những ảo tưởng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng ý niệm bản ngã của con cho tới khi con thăng vượt chúng một cách ý thức. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng con có thể, bất cứ lúc nào, chọn lựa bước ra khỏi nghiệp quả của mình hay bất kỳ khía cạnh nào khác của quá khứ của con.

Các lựa chọn mà con lấy trong quá khứ đã thiết lập cái sân khấu cho con người mà con đang là – cho ý niệm bản ngã mà con đang có. Con không thể đơn giản chọn làm một người khác mà không quay trở về thay thế các quyết định gây giới hạn mà con đã có trong quá khứ. Và điều con không thể tránh khỏi là các quyết định hiện tại của con sẽ dựa trên ý niệm bản ngã của con.

Ta thật không hiểu làm thế nào người ta có thể chấp nhận thực tế của tiền kiếp mà đồng thời phủ nhận mọi ảnh hưởng của tiền kiếp trên kiếp sống hiện tại. Ta nghĩ là nếu con nhìn vào hậu quả lô-gíc của cách nhìn luân hồi như vậy, con sẽ thấy là nó không nhất quán.

Thật ra, rất có thể con sẽ khám phá là nó khởi lên chủ yếu từ thái độ không chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của mình và công nhận rằng con chỉ có thể cải thiện hoàn cảnh hiện tại và tương lai của mình bằng cách tháo gỡ các lựa chọn bất toàn mà con đã làm trong quá khứ. Đa số những ai không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời mình đều chọn thái độ phủ nhận thẳng cánh thực tế của luân hồi. Nhưng lại có một số người dựng lên cho mình một phiên bản mới về luân hồi, qua đó họ nhìn nhận là họ có tiền kiếp nhưng đồng thời họ cũng phủ nhận tiền kiếp có bất kỳ ảnh hưởng nào trên hiện tại. Ta thật không thể theo kịp cái lô-gíc tin vào luân hồi mà không có nghiệp quả. Làm sao con có thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên bánh? Làm sao con có thể thay đổi một chọn lựa đã qua trừ khi con công nhận chính con đã làm chọn lựa đó?

Ta biết nhiều người bị dính mắc vào mong muốn tránh né trách nhiệm cá nhân của mình, và điều này có thể khiến họ phủ nhận nghiệp quả. Sẽ ích lợi biết mấy nếu họ có thể xét xem tại sao họ lại có dính mắc tình cảm đó, và ta nghĩ họ sẽ nhìn ra nguyên nhân là có một thành phần trong con người họ không muốn công nhận thực tế của cuộc sống, cụ thể là con không có một thời gian vô hạn định để thăng vượt ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Đây chính là tự ngã, nó không muốn con nhận ra là hành động của con mang hậu quả, và bởi vậy, cơ hội sẽ có lúc phải chấm dứt. Tự ngã không muốn nhìn nhận bất kỳ sự chấm dứt nào vì điều này có nghĩa là nó sẽ chết. Tự ngã muốn con tin rằng con có thể cứ tiếp tục mãi mãi như vậy, rằng không có điều gì con làm sẽ mang lại hậu quả tiêu cực, và con có thể tiếp tục trì hoãn ngày con phải chọn lựa vị chủ mà con sẽ phục vụ. Nếu con có thể nhận diện tự ngã, kẻ thù bên trong đó, và nhìn ra nó không phải là một phần của dòng sống của con, thì con sẽ có thể tinh tấn vượt bực.

Khi đó con sẽ tìm thấy cả một thế giới mới với những vận hội tăng triển mở ra, và con sẽ khám phá ý nghĩa thực sự của tình thương vô điều kiện. Quan niệm tình thương mà một số giáo lý đưa ra bảo rằng không có gì thật sự quan trọng bởi vì cuối cùng mọi chuyện sẽ đều ổn thỏa. Sự thật về tình thương vô điều kiện là mọi sự đều quan trọng, bởi vì mỗi hoàn cảnh đều là một cơ hội tăng triển – có nghĩa là con cho phép tình thương xuôi chảy – hay ngược lại nó là một cơ hội để con đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua con. Đúng thật là nhiều người sùng đạo, kể cả nhiều tín hữu Cơ đốc, đã dùng lòng sợ hãi như một cái cớ để đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua mình. Nhưng nhiều người cũng đã dùng niềm tin vào định mệnh hay số mạng để đặt mình vào trạng thái thờ ơ tâm linh, và điều này cũng dập tắt dòng chảy của tình thương.

Tình yêu thiêng liêng thì vô điều kiện, và điều này không có nghĩa là tình yêu đó sẽ chấp nhận bất cứ gì, dù thiện hay ác, là chính đáng như nhau. Khi một người để cho dòng tình yêu vô điều kiện chảy xuyên qua mình, người đó có sự phân biện để thấy rõ cái gì thuộc về Thượng đế, cái gì không. Người đó dùng phân biện này để không bao giờ chấp nhận một ý niệm bản sắc giới hạn, và cũng không bao giờ để cho bất kỳ điều kiện nào của thế gian biến thành cái cớ để đóng chặt dòng chảy tình thương. Con biểu hiện tình thương bất kể điều kiện con phải đối mặt, nhưng con không bao giờ tuyên bố một điều kiện nào của thế gian là vĩnh hằng hay có thực. Cho nên tình thương của con sẽ dễ dàng là loại tình yêu cứng cỏi sẽ thách đố người ta bước lên cao hơn – như con thấy ta từng thách đố các thày thông giáo và người Pharisi.

Chọn lựa đúng đắn duy nhất là đáp ứng mọi hoàn cảnh với tình thương – như ta từng dạy mọi người 2000 năm về trước. Bất cứ chọn lựa nào không phát xuất từ tình thương là cái mà các tín hữu Cơ đốc gọi là tội lỗi. Nhưng tiếc thay, hầu hết mọi người trên địa cầu đã chọn làm ngược lại, và do vậy họ bị mắc kẹt vào trạng thái tâm thức khiến họ khó lòng đáp ứng sự sống bằng tình thương.

Thực tế phũ phàng là một số đáng kể những người đang bị mắc kẹt vào vòng ốc xoáy hướng hạ sẽ chỉ đưa họ ngày càng xa hơn tình thương. Đơn giản là các dòng sống đó không thể được xoay chuyển bởi một lời dạy về tình thương. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ có thể được xoay chuyển bởi một thông điệp chỉ rõ ra hậu quả nếu họ cứ tiếp tục hành xử theo cùng chiều hướng. Và đối với nhiều dòng sống trên hành tinh này, cơ hội để họ xoay chuyển đang nhanh chóng đóng cửa lại. Nếu họ không xoay chuyển và khởi sự một vòng xoắn ốc hướng thượng, họ sẽ phải kinh qua cái chết thứ hai. Nếu họ xoay chuyển và cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, họ sẽ được gia hạn quá thời hạn ban đầu. Thượng đế có lòng thương xót rất lớn đối với những dòng sống chân thành muốn trở về nhà.

Một trong những điều khó xử mà chúng tôi phải đối mặt trong tư thế làm thày tâm linh là chúng tôi không thể tiếp cận nhiều dòng sống trên địa cầu qua một thông điệp tâm linh dựa trên tình thương. Họ bị kẹt cứng trong tâm trạng sợ hãi đến độ họ chỉ có thể được tiếp cận qua một thông điệp đánh động đến các nỗi sợ hãi của họ. Thật là một điều đáng buồn khi quan niệm Địa ngục trở nên cần thiết để xoay chuyển các dòng sống đó. Họ chỉ đáp ứng khi lòng sợ hãi Địa ngục của họ to lớn hơn những lợi lạc mà họ nhận được khi cứ tiếp tục sống như cũ.

May mắn thay, ngày nay chúng ta đang bước vào một thời đại khi càng ngày càng có nhiều người đáp ứng các lời dạy tâm linh dựa trên tình thương, và nói chung, đây là điều con chứng kiến trên trang mạng này. Tuy vậy, vẫn có nhu cầu nhìn nhận là nhiều người đã bị tác động sâu xa bởi các loại thông điệp dựa trên sợ hãi. Và bởi vì một trong các mục tiêu của trang mạng của ta là để giúp mọi người thoát khỏi các giáo điều sợ hãi do đạo Cơ đốc truyền thống đưa ra, cho nên ta sẽ vui lòng bình luận về các tin tưởng đó khi có người đặt câu hỏi.

Mật mã trong Kinh thánh

Câu hỏi 1: Liệu các mật mã Kinh thánh trong quyển kinh Torah là thật hay không?

Câu hỏi 2: Hình như mọi người đều đang bàn tán sôi nổi về một đoạn mã được tìm thấy trong ấn bản gốc tiếng Do thái của Kinh Cựu ước, hay Torah. Liệu mật mã này có thật hay không? Nó có tiên đoán một số biến cố thực trên địa cầu? Liệu nó chỉ chứa đựng một hậu quả duy nhất hay mấy hậu quả khác nhau có thể xảy đến? Có phải Thượng đế hay người ngoài hành tinh đã đặt nó vào trong đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con hãy tự đặt một vài câu hỏi. Tại sao Thượng đế lại đi giấu mật mã trong một lời dạy tâm linh được trao truyền ban đầu như một lời tiết lộ trực tiếp và sau đó được truyền khẩu cho đến ngày nay? Tại sao lại cài vào trong đó một đoạn mã mà không ai có thể giải thích được cho tới 2000 năm sau, khi máy tính được phát minh?

Để tin vào một mật mã như vậy, con phải tin rằng mặc dù Thượng đế đã trao cho nhân loại Kinh thánh trong một sự tiết lộ trực tiếp, tự dưng ngài đã đánh mất khả năng tiết lộ trực tiếp đó sau khi ban ra Kinh thánh. Nói cách khác, ngài đã phải biết trước là ngài chỉ có đúng một dịp duy nhất để ban tiết lộ thiêng liêng cho loài người, và do đó ngài đã phải cài vào một đoạn mã để sau này người ta có thể diễn giải khi người ta có máy tính nhưng không còn nhận được tiết lộ nữa.

Khi con suy nghĩ một chút, con sẽ thấy chuyện này hoàn toàn vô lý. Thượng đế là đấng toàn năng, cho nên ngài không thể đánh mất khả năng giao tiếp với loài người. Vậy tại sao ngài lại cài đặt mật mã vào một lời được ban ra cách đây hàng ngàn năm để truyền đạt một thông điệp mà ngày nay ngài có thể dễ dàng truyền đạt qua sự tiết lộ trực tiếp? Một khi con nắm vững thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự – một tiến trình đã tiếp diễn từ trước khi lịch sử được ghi chép và sẽ còn tiếp diễn một cách vô hạn định trong tương lai – thì hiển nhiên không hề có nhu cầu giấu mã trong Kinh thánh.     

Điều hoàn toàn đúng là bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng có thể được diễn giải ở nhiều tầng cấp khác nhau. Điều này được diễn tả qua câu: “Giê-su chẳng hề giảng cho quần chúng mà không sử dụng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng, thày cắt nghĩa tất cả mọi điều cho môn đồ của mình.” (Mark 4:34)

Cho nên giáo lý của ta có những tầng cấp thông hiểu khác nhau tương ứng với trình độ tâm linh của người nhận trưởng thành tới đâu. Dù sao thì ý nghĩa “ẩn giấu” như vậy không mang hình thức mật mã chỉ được giải trình bởi một chiếc máy tính, mà nó được ban ra dưới dạng một lời dạy mà tâm nhị nguyên không có khả năng hiểu được. Ý nghĩa thực của nó có thể được mở khóa khi người tầm đạo nâng cao tâm thức của mình vượt lên khỏi tư duy nhị nguyên và bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình.   

Tại sao bỗng nhiên nhiều người lại quan tâm và phát hiện ra những cái gọi là mật mã Thánh kinh chứ? Một phần là vì tâm thức loài người đang được nâng lên, và điều này khiến cho con người dễ dàng nhận diện hơn các mô thức “ẩn giấu”.

Tuy nhiên còn một phần giải thích khác nữa, đó là kể từ biến cố Sa ngã, một số người đã tìm cầu một cách thức máy móc để đạt cứu rỗi. Những người như vậy ham chuộng máy tính, và ngược lại với một ý tưởng thịnh hành, máy tính là một thiết bị hoàn toàn máy móc sẽ không bao giờ đạt được khả năng thông minh thật sự. Một chiếc máy tính chỉ có thể nhận dạng những mô thức máy móc, nhưng quả vị Ki-tô thì không thể chứng được một cách cơ học máy móc – cho dù nhiều thày giả muốn con tin là chuyện này có thể làm được. Đây chính là “con đường có vẻ đúng cho con người, nhưng cuối cùng lại là con đường của sự chết” (Châm ngôn 14:12).    

Thực tế đơn giản là máy tính không có khả năng rút tỉa thông tin thực. Nó chỉ có thể phân tích một tác phẩm văn chương và so sánh với những con số đã được người dùng máy lập trình vào trong máy. Cho nên những loại mã mà người ta có thể tìm thấy trong Kinh thánh đã được định sẵn bởi những gì người dùng máy muốn tìm. Điều này rất giống như khám phá của ngành vật lý lượng tử, cụ thể là tâm thức của người quan sát sẽ nhất định ảnh hưởng đến kết quả được quan sát.

Sự thật đằng sau việc “khám phá mật mã” này là: Chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên thì họ sẽ còn xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi nào con vươn lên cao hơn nhị nguyên và chứng được tầm nhìn đích thực của tâm Ki-tô thì con mới thấy được cái thực.  

Trên thực tế, con có thể lấy hầu như bất kỳ tác phẩm văn chương nào đủ dài và đủ phức tạp và tìm thấy trong đó một loại mã hay mô thức nào đó. Tuy nhiên, như nhà vật lý lượng tử sẽ hỏi: “Liệu thế giới thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai đứng nhìn?” thì cũng vậy, con có thể hỏi: “Liệu mật mã Thánh kinh thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai tìm nó?”  

Cũng có một vài tác phẩm văn chương mà tác giả đã cố tình cài vào một mật mã. Người ta làm chuyện này trong những xã hội bị nhà nước hay giáo hội đàn áp và tác giả gặp nguy hiểm khi tiết lộ một loại thông tin nhất định nào đó. Cho nên thông tin được bảo mật dưới một dạng mã mà chỉ những ai nắm được chìa khóa mới có thể đọc được. Có một số ví dụ như vậy là các tác phẩm của Francis Bacon và Shakespeare. Tuy nhiên như ta vừa giải thích ở trên, Thượng đế không hề có nhu cầu sử dụng những loại mã như thế. Thượng đế cùng các chân sư thăng thiên có khả năng, bất cứ lúc nào, sử dụng sự tiết lộ trực tiếp để truyền đạt thông điệp của mình.  

Vai trò của Giu-đa

Hỏi: Điều gì đã xảy ra cho Giu-đa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Như đa số những ai đã tự vận, Giu-đa đã tái đầu thai nhanh chóng. Tuy nhiên, Giu-đa là một dòng sống già dặn, và đó là vì sao ông đã được chọn làm một tông đồ của ta và ông đã nhận lời gọi. Thế rồi dòng sống của ông đã thăng thiên kể từ đó.

Giu-đa hiện không phải là một thành viên của chân sư thăng thiên – theo nghĩa một sinh thể đã thăng thiên đang làm việc với các dòng sống trên địa cầu – nhưng thày đã chuyển sang những tầng khác nơi cõi tâm linh. Lý do là vì có quá nhiều sự lên án đổ lên thày từ các tín hữu đạo Cơ đốc cho nên Giu-đa sẽ không thể hiệu năng nếu thày quyết định phụng sự các dòng sống trên trái đất. Do đó thày có thể dùng khả năng của mình hữu hiệu hơn bằng cách làm việc với dòng sống nơi các hệ thống thế giới khác.

Trên thực tế, ta rất mong muốn nhìn thấy các tín đồ Cơ đốc tha thứ cho Giu-đa và hoàn toàn buông xả mọi cảm xúc tiêu cực đối với ông. Người đạo Cơ đốc sẽ được lợi lạc rất nhiều nếu họ tha thứ cho hành vi của ông và chỉ đơn giản bỏ qua tất cả. Cách nhìn đúng đắn về Giu-đa là nhìn ông trong mối liên hệ với người mù bẩm sinh trong câu chuyện Phúc âm. Con có nhớ là sau khi ta chữa lành cho anh mù ấy, các tông đồ có hỏi ta liệu nguyên nhân sự mù lòa là do chính anh đã làm tội hay do cha mẹ của anh đã làm tội. Thì ta đã trả lời: “Chẳng phải anh ấy, cũng chẳng phải cha mẹ anh ấy đã làm tội, mà do sự vận hành của Thượng đế được biểu lộ ở trong anh.” (John 9:3)

Câu nói đó cho thấy anh mù ấy là một dòng sống già dặn đã chọn khoác vào tật bẩm sinh kia để chu toàn một vai trò trong sứ vụ của ta. Cũng vậy, Giu-đa là một dòng sống già dặn đã chọn đảm nhận một vai trò đặc thù trong sứ vụ của ta.

Giu-đa là một người có nhiều mối quan hệ với giới lãnh đạo Do Thái thời đó, và kết quả tốt nhất có thể xảy đến là ông thành công thuyết phục được một số lãnh đạo này công nhận ta như một vị tiên tri chân chính có khả năng đóng góp đổi mới tôn giáo Do Thái. Mong mỏi này không thành hình vì các lãnh đạo Do Thái đã không sẵn lòng muốn thấy tôn giáo của họ đổi mới. Họ lo sợ sẽ mất quyền lực cùng quyền kiểm soát của họ – một nỗi sợ không phải là không có cơ sở.

Khi Giu-đa thấy rõ là ông không thể thuyết phục giới quyền chức rằng ta là một vị tiên tri chân thực, thì điều hay nhất là ông nên buông hẳn chuyện đó đi. Nhưng không may, ông trở nên dính mắc với ý muốn giúp ta hoàn thành sứ vụ của ta. Ông tin rằng nếu ông có thể thúc ép một cuộc chạm trán giữa chính ta và giới quyền chức, thì ta sẽ sử dụng những quyền năng tâm linh mà ông đã thấy ta sử dụng mấy lần. Giu-đa tin rằng nếu giới quyền chức được chứng kiến tận mắt các quyền năng này thì họ sẽ cảm hoá và chấp nhận ta như một tiên tri. Điều không may là ông không hiểu mục đích sâu xa của sứ vụ của ta, và các tông đồ còn lại của ta cũng vậy. Về điểm này, phải nói là chính ta cũng không hiểu một cách ý thức tât cả mọi hệ quả của sứ vụ của ta cho đến khi phục sinh.

Cho nên thực sự Giu-đa đã hy vọng rằng điều mà các tín đồ Cơ đốc thời nay coi là một sự phản bội, chính thực là một hành động sẽ cuối cùng đem lại sự vinh quang cho ta. Tuy nhiên, ông cứ tưởng là vinh quang tối hậu của ta là sẽ trở thành vua của người Do Thái – một viễn quan phát xuất từ tâm nhị nguyên. Hành động của Giu-đa quả thực đã dẫn đến vinh quang tối hậu cho ta nhưng là sự vinh quanh tâm linh, qua đó dòng sống của ta đã chiến thắng phàm ngã và nhờ vậy chứng tỏ được con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Và trong cùng tiến trình này, giới quyền chức Do Thái từng kết án ta tử hình, cũng đã đem lại bản án cho chính họ.

Các tín đồ đạo Cơ đốc cũng nên xem xét việc ta bị nộp cho nhà cầm quyền rồi bị xử án là một điều cần thiết cho sứ vụ của ta được hoàn thành. Nếu Giu-đa không hành xử như ông đã hành sử thì câu chuyện đã có thể khác, và nếu ta không muốn nó xảy ra thì ta đã có thể dễ dàng trốn thoát khỏi thành Jerusalem, hay ta đã có thể thỉnh gọi 12 đạo thiên sứ đến giải cứu (Matthew 26:53). Cho nên đây là thêm một lý do để tha thứ cho Giu-đa và xem ông như một người đóng một vai trong một vở tuồng.

Có hai bài học quan trọng mà mọi người có thể rút tỉa từ cuộc đời của Giu-đa. Một là sự quan trọng của lòng tha thứ. Việc Giu-đa tự vận là một sự kiện đáng tiếc đã không đẩy nhanh sự phát triển tâm linh của ông. Lẽ ra ông đã nên thực sự tha thứ cho chính mình và cống hiến phần đời còn lại để tập trung vào đường tu tâm linh mà ta đã chứng tỏ. Nếu ông làm vậy thì ông đã được hoàn toàn tha thứ, và ông cũng đã quân bình được mọi năng lượng tha hóa, hay nghiệp, mà ông đã gây ra do hành vi của ông. Ý ta muốn nói là tha thứ luôn luôn là một điều chúng ta có khả năng làm được, và tự vận không bao giờ là cách phản ứng hay nhất trong một tình huống khó khăn.

Bài học quan trọng khác là cuộc sống trên hành tinh này có thể được xem như một màn trình diễn trên sân khấu. Mỗi con người là một diễn viên đóng một vai nhất định trong vở tuồng cuộc sống. Khi con đi xem kịch ở nhà hát, con dư biết khi một người bước lên sân khấu trong trang phục của Hamlet là con không đang nhìn Hamlet thực. Con đang nhìn thấy một người có cuộc sống hoàn toàn độc lập với vai trò mà họ đang đóng trên sân khấu. Người đó chỉ đơn giản khoác vào một bộ quần áo và đang đóng một vai tuồng. Khi tuồng kết thúc, diễn viên sẽ cởi áo ra và trở lại cuộc sống bình thường.

Điều này cũng tương tự như điều xảy ra khi một dòng sống đầu thai trên trái đất. Dòng sống là con người thực của con. Thân xác mà con khoác vào cùng cuộc đời mà con sống có thể ví như vai tuồng trong màn trình diễn có tên là “Cuốc sống trên địa cầu.” Một khi vai tuồng trong vở kich đời sống chấm dứt, con sẽ cởi bộ trang phục đó ra và trở về nhà của con nơi cõi tâm linh.

Ý tưởng vừa rồi quan trọng ở chỗ con không bao giờ nên cho phép mình dính mắc vào vai tuồng mình đang diễn, hay quá say mê trơng vai tuồng đến độ con đánh mất bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Nếu một diễn viên quá say mê với vai diễn để tưởng rằng mình thực là Hamlet rồi từ chối cởi trang phục sau buổi trình diễn, thì hiển nhiên con sẽ bảo là người đó có chuyện gì không ổn, và người đó phải kiểm tra lại thực tế của mình ở đâu. Cũng vậy, những ai sống trên địa cầu mà lại đồng hóa với thân xác vật lý và cuộc đời thay vì giữ lấy bản sắc mình là một sinh thể tâm linh, cũng cần kiểm tra lại thực tại của mình và nhìn xa hơn cái trang phục (cơ thể) mà mình đang mặc cùng những vai tuồng mà mình được giao phó trong vở kịch cuộc đời.

Và điều này cũng áp dụng cho Giu-đa. Khi vai trò của ông không diễn ra như ông mong đợi, tình cảm của ông đã trở nên dính mắc với một thành quả nhất định, rồi ông toan ép buộc cuộc đời phải tuân theo mong đợi của ông. Khi chuyện đó không xảy ra, sự dính mắc đã ngăn cản ông kiểm tra lại thực tại để nhận ra là có lẽ vở kịch không được thiết kế để diễn ra theo ý muốn của ông. Cho nên ông đã không thể vượt qua cảm giác tội lỗi và ông đã chọn sự tự vận thay vì phát triển tâm linh.

Ta mong mọi người sẽ học hỏi được từ tấm gương của ông và quyết định kiểm tra thực tại để mình có thể nhìn xa hơn những trang phục mà mình đang mặc, tức xác thân vật lý, cùng những vai trò mà mình đang trình diễn trong vở kịch cuộc đời. Ai ai cũng biết là một diễn viên sẽ đều đặn bước khỏi sân khấu, cởi trang phục và trở về với trạng thái sống bình thường của mình. Sẽ rất tốt cho mọi người nếu ai nấy đều thỉnh thoảng dành thời gian để bước ra khỏi các sinh hoạt thường nhật và đi sâu vào nội tâm để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Việc này sẽ cho con sự kiểm tra thực tại, giúp con nhìn xa hơn vai trò mà con đang diễn trên địa cầu.

Sẽ vô cùng lành mạnh nếu mọi người có thể nhận ra cuộc sống là nhiều hơn vậy, rằng có cái gì nhiều hơn nữa trong cuộc sống – tức sự sống tâm linh – vượt quá những gì mình đang trải nghiệm trong thế gian này. Chỉ khi nào con nối kết lại với bản sắc thực của con thì con mới có thể tránh khỏi dính mắc vào vai trò mình đang diễn trên sân khấu cuộc đời. Và chỉ khi nào con tránh không dính mắc thì con mới không bị lạc vào vai trò hiện thời của con cùng ý niệm bản sắc mà con đã vun bồi dựa trên vai trò đó.

Con thấy đó, không như vở kịch cứ diễn đi diễn lại mỗi tối trên sân khấu, vở tuồng cuộc đời trên trái đất đã được thiết kế để là một vòng xoắn ốc hướng thượng, trong đó con sẽ lần hồi tăng trưởng để có thể bỏ lại vai đó và thăng lên một vai trò cao hơn – cho đến khi con vượt kỳ thi cuối cùng và vĩnh viễn thăng lên cõi tâm linh. Ta không muốn thấy mọi người cứ phải trở lại hết kiếp này tới kiếp khác và diễn lại cùng vai tuồng mà không bao giờ học được bài học cần học. Ta muốn thấy mọi người thăng vượt hết vai này tới vai khác cho đến khi họ thăng vượt chính cuộc trình diễn.

Đó là lý do tại sao ta đã chọn xuống hành tinh này và đóng vai trò đặc thù của ta trong vở kịch này. Tiện thể cũng xin nói thêm, vai trò của ta là đặt ra câu hỏi y hệt như câu hỏi được đặt cho Hamlet: “Là hay không là?” Tuy nhiên, ta sẽ nói thêm là trái với Hamlet, ta có câu trả lời cho bí ẩn của cuộc sống.

Tôn giáo chân chính duy nhất là tôn giáo phổ quát

Hỏi: Phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu trả lời cho câu hỏi phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất là: “Có và không.”

Chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất, nhưng tôn giáo này là tôn giáo phổ quát (universal), tôn giáo nội tâm của Thượng đế. Trên hành tinh địa cầu không hề có tôn giáo chân chính duy nhất. Có nhiều tôn giáo chân chính vì nhiều tôn giáo giảng dạy một số yếu tố của con đường phổ quát.

Có nhiều cách để biểu đạt sự thật của Thượng đế. Cho nên có thể có nhiều tôn giáo đều giảng dạy một phiên bản đặc thù của sự thật Thượng đế và của con đường phổ quát dẫn đến vương quốc Thượng đế.

Không một tôn giáo nào có khả năng cho con một hiểu biết trọn vẹn về Thượng đế. Đơn giản là sự hiểu biết đó vượt khỏi mọi ngôn từ. Nếu con suy nghiệm điều này, con sẽ nhận ra tại sao như vậy. Kinh điển có viết là nếu tất cả mọi điều ta nói hay làm được ghi lại thành sách thì nguyên thế gian này cũng không thể chứa hết sách. Câu này có phần nào quá đáng từ tác giả đoạn văn đó, tuy nhiên đúng thực là nó áp dụng cho sự thật của Thượng đế.    

Thượng đế đã tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng, một thế giới rộng lớn đến độ không một người nào có thể nắm bắt được sự vĩ đại của tạo vật của ngài. Nếu có ai có thể mô tả được trọn vẹn Thượng đế thì hành tinh địa cầu sẽ không thể nào chứa hết sách được viết xuống. Nhưng việc diễn tả toàn bộ bản thể của Thượng đế bằng lời nói là một việc bất khả thi. Đơn giản, bí ẩn của Thượng đế không thể nào được biểu lộ qua ngôn từ.

Không một tôn giáo nào có khả năng đưa ra một lời mô tả chính xác về Thượng đế. Câu này quan trọng ở chỗ cách duy nhất để biết được Thượng đế là nhìn vượt khỏi giáo lý vỏ ngoài cùng học thuyết được tìm thấy trong bất kỳ tôn giáo nào. Cách duy nhất đề biết được Thượng đế là khám phá con đường phổ quát tâm truyền đằng sau tôn giáo công truyền.

Tại sao lại có nhiều tôn giáo trên thế giới? Thượng đế không cần đến tôn giáo. Thượng đế là một sinh thể tự đủ. Thượng đế không cần được thờ phượng, không cần được kính trọng, không cần được sợ hãi. Cho nên Thượng đế không đưa ra một tôn giáo đặc thù vì ngài cần đến tôn giáo đó. Thượng đế đưa ra một tôn giáo đặc thù vì có một nhóm người đặc thù cần đến tôn giáo đó.

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.

Ngày nay, con cần hội nhập tâm linh với cuộc sống thực tiễn

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thuở xưa thày có dạy chúng con phải buông bỏ tất cả ngoại trừ thày. Điều quan trọng là phải luôn luôn ý thức thày và ý thức Hiện diện TA LÀ. Thế nhưng công việc kinh doanh và các vấn đề thế gian luôn lôi kéo chúng con. Liệu con có an toàn nếu con tiếp tục công việc kinh doanh, hay là con từ bỏ kinh doanh và làm việc như một sinh thể tâm linh?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một lần nữa, những lời dạy của ta 2000 năm trước đây phải thích ứng với tình trạng tâm thức của nhân loại thời đó. Thuở đó, con người bị kẹt nhiều hơn trong cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế. Khi họ bị mắc trong trạng thái tâm thức như vậy, quả thật họ cần phải lánh xa các công việc thế gian trong một thời gian trước khi họ có khả năng thể hiện tính buông bỏ sẽ giúp họ phụng sự Thượng đế nội tâm thay vì phục vụ thế gian.

Đó là tại sao suốt 2000 năm qua đã có truyền thống những tu viện nơi người tầm đạo tâm linh có thể lui về đó, rút hẳn khỏi thế giới bên ngoài và hoàn toàn tách mình khỏi mọi quan tâm trần thế. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, đó không phải là mục tiêu cao nhất. Ta không nói là con không thể, hoặc không nên, xuất thế trong một thời gian nếu con cảm thấy cần phải làm như vậy. Nhưng lý tưởng trong Thời đại Bảo bình, là thay vì con rút lui khỏi xã hội để tìm kiếm tâm linh, con đi vào nội tâm của con để tìm tâm linh rồi con đem nó trở ra bên ngoài để biểu hiện trong sinh hoạt đời sống. Điều này áp dụng cho gia đình, học vấn, kinh doanh hay bất kỳ sinh hoạt nào khác.   

Cho nên câu hòi đặt ra thật sự là như sau: con có không dính mắc, con có buông bỏ hay không? Liệu con có thể làm kinh doanh trong tình thương? Và nếu con thấy việc kinh doanh làm xáo trộn sự an bình nội tâm của con, khiến con bị vướng mắc hay nó lôi kéo con vào những tình huống nơi con không thể cảm thấy tình thương, thì con có một sự chọn lựa. Và con có thể bắt đầu xét xem liệu con có khả năng khám phá cái gì đó trong tâm lý của con khiến con bị vướng mắc như thế, rồi con có thể chữa lành vết thương đó hầu con thoát ra khỏi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, cũng có thể con phải nhìn nhận rằng hình thức kinh doanh của con không thuận lợi cho một lối sống tâm linh, hoặc là vì bản chất của doanh nghiệp, hoặc vì nó đòi hỏi quá nhiều thì giờ và chú ý, và do đó con không có được sự quân bình đúng mức giữa các sinh hoạt tâm linh hướng nội và các sinh hoạt đời sống hướng ngoại. Một lần nữa, đây sẽ là điểm cân bằng cá nhân mà mỗi người phải tìm ra.

Chìa khóa là sự buông bỏ. Nếu con không dính mắc, con sẽ cảm nhận tình thương của Thượng đế tuôn tràn xuyên qua con, và khi đó con sẽ có thể, và con phải, tương tác với thế giới bằng nhiều cách hầu nuôi sống chính con và gia đình của con – và quan trọng hơn nữa, hầu con có thể biểu thị Ngọn lửa Thượng đế của con cho những người mà con gặp trong kinh doanh. Nhưng nếu con nhận thấy doanh nghiệp của con kéo con đi quá xa, thì việc rời bỏ doanh nghiệp rất có thể là một quyết định đúng đắn. Và đối với một số người khác, có thể con nên rời bỏ công việc đời sống để, thay vào đó, đặt trọng tâm vào công việc tâm linh. Điều này, một lần nữa, là một chọn lựa rất cá nhân.  

Quả là trong thời đại này có nhiều người tầm đạo tâm linh đầu thai trong thế gian với một sứ vụ thiêng liêng rất đặc thù là giúp đánh thức nhân loại. Nhiều người trong số đó là những linh hồn rất có năng lực và thông minh. Và nhiều người cũng dư khả năng điều hành một doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc điều khiển một doanh nghiệp thành công có thể không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, và nếu vậy thì con phải đi vào bên trong, bắt liên lạc với cái Ta Ki-tô của con, với Hiện diện TA LÀ của con và với sứ vụ thiêng liêng của con, hầu con có thể chọn lựa đích đáng thời điểm nào tốt nhất để con rời bỏ doanh nghiệp hoặc con đi theo một con đường nào khác, với mục đích là con sẽ dành ra được thì giờ và sự chú ý để thực hiện công việc thật của con – tức là công việc của Thượng đế mà con phải làm vì nó đem lại cho con hạnh phúc và thoả mãn đích thực.    

Nếu con là một dòng sống tâm linh, không có thành công thế gian nào, không có tiền bạc hay danh giá nào sẽ thực sự thỏa mãn được cảm giác thâm sâu là con có mặt ở đây vì một mục đích. Chỉ khi nào con khám phá ra sứ vụ thiêng liêng của con và con hoàn thành sứ vụ này, thì con mới biết là con đang ở đúng nơi chỗ của con – là nơi chỗ thích đáng trong tâm thức. Và như vậy, nếu điều này đúng với con, rất có thể là con sẽ cần – và một lần nữa đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân – rất có thể con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước theo đấng Ki-tô nội tâm cho đến khi con leo được lên đỉnh núi của Thượng đế nơi con sẽ nhìn thấy rõ ràng con đường mà con cần bước đi trong đời.

Một số người có thể bị lôi cuốn vào những vấn đề thế gian của mình đến độ họ không còn sót lại thời gian hay chú ý nào để thấy rõ sứ vụ thiêng liêng của mình. Và vì vậy trong một số trường hợp, con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước vào vùng xa lạ trước khi con biết được con đường đích thực của con là gì. Và trong một số trường hợp khác nữa, con sẽ có thể trải qua nguyên một cuộc đời để nuôi nấng gia đình, kinh doanh, đi làm hay có sự nghiệp.

Con hãy luôn ghi nhớ là con không thể phục vụ hai người chủ, con không thể phục vụ Thượng đế lẫn thế gian. Cho nên nếu con cảm thấy con quá gắn bó với thế gian, con cần dành ra chút thì giờ và nhận ra rằng cái Ta Biết là một Sinh thể tâm linh, và con cần ngừng đồng hóa với thế gian để con hòa điệu với con người thực của con.

Nền tảng của tăng triển là biến hóa năng lượng do các tin tưởng nhị nguyên tạo ra

Hỏi: Nếu chúng ta tạo ra thực tại qua những tin tưởng của chúng ta, vậy thì làm thế nào thay đổi những tin tưởng hiện tại và điều chỉnh những tin tưởng mới trong thực hành?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su quan trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để làm nền cho câu trả lời của ta, hay cho phép ta trích một đoạn giáo lý trong quyển sách “Hãy cứu lấy bản thân” (Save Yourself).

[bắt đầu trích] Giê-su: Ta biết có nhiều tổ chức quảng bá những kỹ thuật tâm linh như thể là thuốc chữa bách bệnh cho mọi vấn đề, nhưng thật là con không thể chữa lành các vết thương tâm lý của con duy bằng nghi thức mà thôi. Lý do là vì tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con. Nguyên nhân khiến con tạo ra năng lượng độc hại là con đã chọn tham gia vào những tư tưởng hay cảm xúc bất toàn. Chọn lựa này thường hay khởi lên do con hiểu biết thiếu sót về cuộc sống hoặc do con đã chấp nhận một số tin tưởng sai lầm. Rất có thể việc chấp nhận tin tưởng sai lầm này đã xảy ra trong tiền kiếp, cho nên những tin tưởng này có thể đã ăn sâu vào tâm lý con. Thế nhưng chấp nhận tin tưởng sai lầm luôn luôn bắt đầu với một chọn lựa, và do đó, nó có thể được gỡ bỏ qua một chọn lựa tốt hơn. 

Hãy để ta cho con một ví dụ minh họa. Ta có nói là yếu tố giữ cho linh hồn sống còn là một dòng năng lượng chảy xuống liên tục từ cái ta tâm linh. Con có thể so sánh tâm thức con như một dòng sông. Nếu tư tưởng và cảm xúc của con tinh khiết, Nước của Sự sống sẽ chảy thoải mái tự do. Con cảm thấy kết nối chặt chẽ với cái ta tâm linh của con và con dồi dào năng lượng. Khi con chấp nhận một ý tưởng hay tin tưởng sai lầm, nó giống như con ném một hòn đá xuống sông. Nếu con ném đá xuống một dòng suối, con ngăn cản dòng nước chảy. Nước phải tránh hòn đá mà chảy, tạo ra một dòng xoáy phiá sau nơi đất cát sẽ tụ lại. Một khi con quyết định chấp nhận một ý tưởng sai lầm, tin tưởng đó sẽ ngăn chặn ánh sáng từ cái ta tâm linh. Tin tưởng sai lầm sẽ khiến cho ánh sáng bị tha hóa, và năng lượng tha hóa sẽ bắt đầu tích tụ lại nơi “hạ nguồn” do tin tưởng sai lầm, không khác gì phù sa tích tụ lại đằng sau hòn đá trong dòng sông.   

Bây giờ hãy tưởng tượng một dòng sống đã có nhiều kiếp sống khi nó đã đón nhận những tin tưởng sai lầm. Mỗi tin tưởng tựa như ném đá xuống sông. Năng lượng tha hóa bắt đầu tụ lại đằng sau hòn đá, lấp đầy lòng sông. Dòng nước chảy sẽ bị ngăn trở, tạo nên một cái đập nhỏ. Khi dòng sông hoàn toàn tắc nghẽn với đất bùn, con người sẽ mất hoàn toàn mọi nhận biết về đời sống tâm linh. Họ quên mất nguồn cội tâm linh của mình và bắt đầu tin rằng họ là những con người vật chất. Vì tâm ý thức (và mọi tầng cấp của linh hồn) nằm ở dưới hạ nguồn của cái ta tâm linh, các chướng ngại trong dòng sông ngăn cản tâm ý thức thấy được Hiện diện TA LÀ.

Làm thế nào con có thể cải thiện tình thế? Con phải khởi sự lấy đi bùn đất đã tích tụ lại đằng sau hòn đá. Bùn đất chính là năng lượng tha hóa. Con cầu thỉnh năng lượng tâm linh cao tần và hướng nó về năng lượng tha hóa và như vậy con nâng cao rung động của năng lượng tha hóa. Khi con dọn sạch năng lượng tha hóa, con bắt đầu nhìn thấy hòn đá, tức là cái tin tưởng sai lầm, đã kích hoạt sự tồn đọng. Một khi con phơi bày tin tưởng sai lầm, con phải tháo gỡ quyết định ban đầu đã khiến con chấp nhận tin tưởng đó. Đây phải là một tiến trình ý thức vì con phải lấy một quyết định mới hầu thay thế quyết định nguyên thủy. [hết trích]

Như con có thể thấy, cách thực tiễn để thay thế các tin tưởng hiện hữu của con là bước vào một tiến trình gồm hai phần. Ở nền tảng – và là một yếu tố thường bị hành giả tầm đạo lãng quên – là biến hóa năng lượng do những tin tưởng sai lầm tạo ra. Những năng lượng này ngăn cản con nhìn thấy tin tưởng nằm bên dưới. Hoặc chúng tạo ra một sự bám mắc tình cảm khiến con cảm thấy con không thể, hoặc không phải, hoặc không muốn thay thế điều tin tưởng gây giới hạn. Bằng cách biến hóa các năng lượng này, con sẽ giúp con dễ dàng hơn phơi bày và thay thế những tin tưởng thường nằm tận trong tiềm thức đang kềm giữ con trên đường đạo của con.  

Công đoạn thứ nhì là con phải phơi bày những điều tin tưởng sâu xa và thay thế bằng những quyết định ý thức tốt hơn. Khi con bước trên tiến trình này, con có thể lần hồi thay thế mọi tin tưởng gây giới hạn cho tới khi toàn bộ thế giới quan của con dựa thên sự thật Ki-tô. Điều này sẽ không xảy ra một sớm một chiều, và đối với nhiều người nó sẽ kéo dài suốt đời. Thế nhưng suốt dọc đường, con sẽ nhận được nhiều phần thưởng dưới hình thức một cảm giác tự do tâm linh và an bình nội tâm. 

Để phát hiện các tin tưởng gây giới hạn, điều vô cùng hữu ích là con mài giũa khả năng trực giác và mở rộng mối liên hệ ý thức của con với cái ta Ki-tô. Bằng cách sử dụng trực giác khi học hỏi giáo lý tâm linh, cái ta Ki-tô của con sẽ sử dụng các giáo lý vỏ ngoài này để khơi dậy trong con những nội giác sẽ giúp con thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Tuy nhiên, con có thể đạt kết quả tốt hơn nữa bằng cách cố tình đi vào tiềm thức qua một số hình thức trị liệu nhằm phát hiện những tin tưởng gây giới hạn.

Như một biện pháp thực tiễn, con hãy dùng các bài chú và bài thỉnh mà chúng tôi đã đăng tải. Các bài thỉnh nhằm biến hóa các năng lượng bất toàn và giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đã khiến con làm tha hóa năng lượng. Khi con sử dụng tất cả các dụng cụ có sẵn trong thế giới hiện nay, con có thể nhanh chóng tiến tới một trạng thái tự do hơn. Ta có thể cam đoan với con là mặc dù con sẽ cần nỗ lực, nhưng nỗ lực đó sẽ vô cùng bõ công.

Có thể nói là sự thăng tiến tâm linh và cứu rỗi duy chỉ là vấn đề thay thế các điều tin tưởng nhị nguyên của con mà thôi. Thực sự, chính những tin tưởng nhị nguyên của con, những tin tưởng cấu tạo ý thức bản sắc con người con, đã giữ con bên ngoài thiên đường. Như ta đã nói, “Vương quốc Thượng đế ở bên trong con”, có nghĩa là chìa khóa để vào được vương quốc Thượng đế là đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Chìa khóa đạt tâm thức Ki-tô là thăng vượt tất cả mọi tin tưởng bất toàn.

Hãy bảo vệ sự thức tỉnh tâm linh của con

Hỏi: Xin cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn… quý vị đã lập ra trang mạng này và viết sách. Con đang đọc quyển “Ki-tô đã sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You). Con cảm thấy cuộc sống của con thay đổi bên trong nhờ những chân lý mở ra cho con từ hai nguồn đó. Con đã từng là tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch từ hơn 20 năm qua, và trong 2 năm gần đây, nói chung con đã bất mãn với giáo hội vì con cảm thấy quá nhiều sự đạo đức giả và thiếu nhất quán trong các giáo lỹ của giáo hội cũng như trong thái độ của các tín hữu đối với nhau. Tất cả đều không đúng với những gì mà con cảm nhận thày Giê-su đã cố giảng dạy cách đây 2000 năm. Vì vậy con đã tìm kiếm tâm linh được một hồi rồi.

Bây giờ con nhận ra là phần lớn những gì dòng sống nội tâm của con đang tìm kiếm và thắc mắc đã được trang mạng này và các cuốn sách trả lời. Con hoàn toàn thấy được con là một đứa con của Thượng đế (cha/mẹ), con là một sinh thể Ki-tô, con có một tâm thức Ki-tô bên trong con. Tuy nhiên, con là một sinh thể Ki-tô còn rất non nớt (trên phương diện tâm linh), và con đang cố gắng phát triển tâm thức Ki-tô của con sâu sắc hơn bao giờ hết.

Con chỉ muốn dành chút thời gian để thực sự cảm ơn hai vị. Con biết con có thể cảm ơn thày Giê-su trong nội tâm của con như con đã làm và vẫn làm, vì con biết là thày đã biết rồi. Nhưng con xin nói lên một cách công khai là con cũng cảm ơn ông Kim, vì ông đã sẵn lòng làm phương tiện để thày có thể sử dụng và nói xuyên qua ông. Xin cảm ơn ông rất, rất, rất nhiều.

Con càng đọc trang mạng và sách vở nhiều hơn thì con càng muốn đọc nhiều hơn. Hình như con sẽ không bao giờ đọc đủ. Con không muốn đặt sách xuống. Con có một cuốn khác, “Con đường ánh sáng nội tâm” (The Inner Path of Light) và con quá nóng lòng muốn bắt đầu đọc ngay. Con cảm thấy tinh thần của con đang thực sự giải thoát. Con hiện 47 tuổi và lần đầu tiên trong đời, con cảm thấy con thực sự đang sống. Có lẽ con đang được tái sinh trong nghĩa tâm linh đích thực nhất. Thưa thày Giê-su, có phải đây là ý nghĩa của sự tái sinh không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trái tim yêu dấu của ta, ta có thể cam đoan với con là không gì sưởi ấm trái tim của một chân sư hơn là được thấy một người chứng nghiệm biến đổi như con vừa mô tả. Đây thực sự là phần thưởng mà chúng tôi ở thiên đàng vẫn hằng mong muốn cho công việc mà chúng tôi đang làm với các anh chị em vẫn còn trên địa cầu. Ta chỉ mong ước mỗi người trên địa cầu cũng được trải qua cùng sự biến đổi của sự tái sinh tâm linh.

Con thấy đấy, khi thăng hoa lên thiên đàng, chúng tôi không còn cảm giác sự chia rẽ và tranh đua thường tình trên địa cầu nữa. Chúng tôi nhận lấy bản sắc đích thực của mình là một sinh thể tâm linh, và chỉ mong sao tất cả mọi anh chị em mình chưa thăng thiên cũng nhận lấy bản sắc chân thực là con của Thượng đế.  

Mặc dù có rất nhiều tín hữu đạo Cơ đốc còn bám mắc vào hình ảnh thần tượng của ta như là đứa Con duy nhất của Thượng đế, ta không hề có ý muốn được xem là một ngoại lệ. Ta chỉ mong muốn mọi con người sẽ chấp nhận mình là những đứa con của Thượng đế mà các con thực sự vốn là. Việc sùng bái ta làm thần tượng xuất phát từ cái tâm nhị nguyên tương đối, và chính cái tâm này đã làm nảy sinh tư duy cạnh tranh và độc quyền. Tín đồ Cơ đốc muốn tôn ta lên thành đứa Con độc nhất của Thượng đế để họ có thể cảm thấy cao thượng hơn những tín đồ của mọi tôn giáo khác. Thế nhưng khi con nhận lấy bản chất Ki-tô của con, tinh thần tranh đua đó sẽ tan biến mất, và con sẽ cất bước đi theo lời gọi của ta là yêu thương người lân cận của con như chính con. Và cuối cùng, con sẽ nhìn ra người lận cận ấy cũng là một đứa con của cùng Thượng đế là cha mẹ tâm linh của con.

Thực tế đáng buồn của tình trạng địa cầu là tuyệt đại đa số con người bị kẹt trong một nhà tù tình cảm, lý trí và tâm linh. Họ bị đóng hộp trong những tín ngưỡng của họ về Thượng đế và về chính họ đến độ họ trở thành mù lòa tâm linh – trong nghĩa đen. Nhiều người không hề nhận thức là có một Thượng đế, hay cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Cho nên họ không có khả năng đặt ra những câu hỏi sâu sắc về Thượng đế hay về đời sống tâm linh, và cứ thế họ sống qua ngày chìm đắm trong trạng thái hôn mê – một loại hôn mê tâm linh.

Là một người thày tâm linh, ta luôn hy vọng là con người sẽ thức tỉnh khỏi cơn hôn mê và nhận ra mình không phải là những con người có sinh có diệt, mà những sinh thể tâm linh. Đây chính là mục tiêu thực sự của công việc của ta, trong hiện tại cũng như suốt mấy ngàn năm qua.

Vậy ta chúc mừng con đã thức tỉnh tâm linh, và ta khuyên con hãy giữ vững sự tỉnh thức này cho dù điều gì có xảy ra. Thật sự, ta muốn đưa ra một lời cảnh báo là con phải vô cùng cẩn trọng hầu bảo vệ sự hồi sinh tâm linh của con khỏi những tấn công tới tấp mà các thế lực của thế gian sẽ tung ra về phía con. Con có thể đọc trong Kinh thánh là cuộc bôn ba 40 ngày của ta nơi hoang vắng đã đưa ta đến một mức thức tỉnh tâm linh mới. Lập tức sau khi trở về từ vùng hoang vắng, ta đã bị ác quỷ cám dỗ, và ngay cả ở mức tâm thức của ta, ác quỷ đó có thể xem là biểu tượng cho những thế lực đang thống trị thế gian.

Tâm thức tập thể của nhân loại sẽ chống đối kịch liệt sự thức tỉnh tâm linh của con, bởi vì sẽ có những người quanh con không muốn con vượt lên trên họ, họ không muốn con chứng tỏ rằng việc thức dậy khỏi cơn mê muội là điều khả dĩ.

Vậy ta mạnh mẽ khuyên con nên tiếp tục học hỏi các giáo lý, kể cả những giáo lý mà ta đã giảng dạy vể sự bảo vệ tâm linh. Điều vô cùng quan trọng là người tầm đạo phải bảo toàn những tinh tấn của mình trên đường tu bằng cách sử dụng những dụng cụ che chở tâm linh thích hợp. Tuy nhiên, điều thiết yếu hơn cả là con phải nhận thức là có những thế lực, kể cả những thế lực trong chính tâm lý của con, sẽ đối đầu và cản trở bước tiến tâm linh của con. Con hãy dùng những dụng cụ được đăng tải ở đây.

Khi con nhận thức được những thế lực đó, con có thể làm theo lời dạy của ta là “trở nên khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu”, và đó là nửa đường dẫn đến thành công. Thực tế không thể tránh khỏi là con không thể phòng vệ một cuộc công kích nếu con không biết nó sắp đến. Nhưng ngay sau khi con nhận ra mối đe dọa, con sẽ có thể lập tức tự vệ.

Con không nên để cho lời cảnh báo này làm giảm nhiệt huyết của con trong niềm tự do mới khám phá. Đơn giản, con chỉ cần tỉnh táo, tỉnh thức, và giữ vững cảm giác vui mừng và nhiệt tình của con. Và con cũng nên biết rằng niềm vui mừng ấy không đến từ sự kiện con đã tìm thấy trang mạng này cùng các quyển sách. Những thứ đó chỉ là giáo lý vỏ ngoài, phương tiện vỏ ngoài. Nỗi vui mừng đích thực đến từ thực tế là con giờ đây đã bắt đươc liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô cá nhân của con, cũng như với chính ta qua trung gian cái ta Ki-tô đó.

Đây là sự kết nối mà con cần gìn giữ và mở rộng. Chính sự kết nối với vị thày nội tâm mới là chìa khóa cốt yếu để con tăng triển tâm linh và tìm được tự do tâm linh. Con hãy giữ thật chặt sợi dây nối kết này, và đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất nó đi. Đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất vương miện của sự kết nối nội tâm với cái ta Ki-tô của con.

Con không thể vượt qua tự ngã tức khắc, nhưng con có thể ngừng đồng hóa với nó

Hỏi: Trong tâm ý thức điều khiển mọi thứ, làm thế nào chúng con có thể hướng cho nó luôn ở trong Tâm Thượng đế và luôn là cá thể đó của Thượng đế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả khởi đầu với sự nhìn nhận rằng con là một sinh thể tự nhận biết có ý chí tự quyết, có quyền tự do chọn lựa bản sắc mà con tự đồng hóa. Sau đó con phải tỉnh thức xem con hướng sự chú ý của con về đâu. Một lần nữa, điều này được đề cập chi tiết hơn trong sách của Mẹ Mary. Khái niệm mà Mẹ Mary giảng dạy là cái Ta Biết cư ngụ trong một quả cầu, trong bình chứa cái ta. Trong bình chứa này có Hiện diện TA LÀ của con, và khi bản thân con được sinh tạo lần đầu tiên, chỉ có Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết trong bình chứa cái ta đó của con.

Nhưng khi con thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con cho phép một số phần tử có rung động thấp hơn, những phần tử nhị nguyên, xâm nhập vào bình chứa cái ta. Và lần hồi, qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng một ý thức bản ngã sinh diệt chống đối lại – hay có vẻ chống đối lại – Hiện diện TA LÀ của con. Đây là cái mà chúng ta cũng gọi là tự ngã.

Ngã sinh tử này được tạo bằng những quyết định mà con đã lấy, những tin tưởng mà con đã chấp nhận, và rất nhiều tin tưởng trong số đó là về bản thân con. Con có thể tin rằng con là một người tội lỗi. Con có thể tin rằng con là một con người sinh tử sẽ qua đời khi thể xác vật lý của con chết đi. Con có thể tin rằng con được làm chuyện này mà không được làm chuyện khác. Con tin rằng con không thể liên lạc trực tiếp với Thượng đế trong tim con mà cần đến những lãnh đạo vỏ ngoài của giáo hội, hay bất kỳ một tin tưởng nhị nguyên nào khác.

Khi những tin tưởng này xâm nhập vào quả cầu của cái ta, chúng bắt đầu hình thành một lực hút kéo cái Ta Biết xuống. Nó lôi kéo sự chú ý của con. Nó gần giống như trọng lực của quả đất ngăn cản con bay bổng lên không trung mà lại kéo con xuống đất. Tương tự như vậy, tâm con bị lôi kéo bởi lực hút của tự ngã đã nhập vào quả cầu cái ta của con. Khi nào ngã sinh tử này còn ở lại trong đó, nó sẽ còn khả năng lôi kéo chú ý của con, và đó là vì sao ý tưởng của con luôn bị kéo ngược trở về những thói quen, những khuôn nếp suy nghĩ cũ. Và có vẻ như dù con có làm gì đi nữa, con cũng không thể loại bỏ được chúng, và chúng tiếp tục lôi kéo con xuống.       

Khi con sử dụng những dụng cụ tâm linh thích hợp, con có khả năng dần dần loại bỏ ngã sinh tử, và điều này sẽ giảm bớt lực hút của nó. Nhưng một khi con hiểu rõ phương trình của ngã sinh tử – tức nó là một ảnh hưởng ngoại lai trong quả cầu cái ta, và cái Ta Biết có khả năng ngừng tự đồng hóa với ngã đó – thì con đã bước một bước rất dài để tránh bị kéo trở lại những khuôn nếp cũ này.

Khi con sử dụng các bài chú và bài thỉnh, hay khi con giải quyết những vấn đề trong tâm lý con qua các dụng cụ khác, con sẽ lần hồi giảm thiểu lực hút cho đến khi nó chỉ còn là một tiếng ồn ào ở hậu cảnh. Tiếng ồn này có thể sẽ tồn tại một thời gian, nhưng rốt cuộc con sẽ đạt tới một điểm khi ông hoàng của thế gian này cứ việc xông tới nhưng y không thể nắm được gì của con nữa bởi vì ngã sinh tử đã chết.

Tuy nhiên, ý tưởng chủ yếu ở đây là cái Ta Biết không phải là ngã sinh tử. Chính nó đã tạo ra ngã sinh tử và nó không thể trong phút chốc loại bỏ tự ngã, bởi vì con đã làm vậy trong một thời gian rất dài, và những quyết định mà con đã lấy cần phải được thay thế bằng những quyết định tốt hơn.

Nhưng con có thể trong phút chốc ngừng đồng hóa với ngã sinh tử đó. Khi con lấy quyết định này, ngã sinh tử sẽ mất hẳn quyền lực trên con, và ngay cả khi nó lôi kéo con, con có thể lập tức nhận diện nó và nói: “Ồ, đó chỉ là cái ngã sinh tử, đó chỉ là tự ngã. Tôi quyết định không đồng hóa với nó. Tôi tách khỏi tâm thức đó và tôi nâng sự chú ý của tôi lên Hiện diện TA LÀ, lên Cha tôi ở thiên đàng.” 

Tránh sử dụng một giáo lý tâm linh chân truyền để ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng của mình

Hỏi: Thày yêu dấu, con là một hành giả chuyên cần, như người ta gọi như vậy, trên đường tu tập nội tâm. Con thành tâm đối với thày là Chân sư con cùng hai vị chân sư nữa mà con có liên hệ chặt chẽ hơn bình thường. Con đã phục vụ các chân sư một cách trực tiếp với tư cách là nhân viên của một vị sứ giả của các chân sư khi vị ấy còn họat động. Và con cũng đã nhiệt thành tu tập Ngọn lửa Linh thiêng cùng các giáo lý liên hệ. Ngay lúc này, con cảm thấy bối rối vì con biết trong nội tâm, con cần mở rộng việc phụng sự của con ra thế giới qua ngành phim ảnh. Là một diễn viên, con mong muốn thể hiện Chân ngã của con qua cách đó, cũng như người anh em họ của con cũng sẽ làm tương tự trong vai trò đạo diễn. Nhiều năm trước đây, một đồng sự của thày là thày Saint Germain dũng mãnh, có gọi dự án bộ phim này là “nhằm cách mạng hóa các khuôn nếp tư duy trên thế giới” và chỉ đạo chúng con liên lạc trước tiên với một số người có ảnh hưởng và quyền thế để chúng con có đường vào, rồi sau đó mới tiếp xúc với quần chúng. Chúng con đã phấn đấu và kiên trì hết sức mình, thế nhưng giờ đây chúng con có vẻ đã tiến xa hơn nhưng vẫn thiếu phần tài trợ, thậm chỉ thiếu cả tiền chờ sống qua ngày.

Vậy con xin hỏi, con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú bị cấm không được làm? Con tin rằng có một bài học nào đó cho mọi người qua kinh nghiệm mà con đã phải bỏ qua, khiến con giờ đây lại bị suy sụp, nhiều khi không còn biết nhờ ai và làm gì, nhưng cũng có những lúc khác con lại nhìn thấy thiên đàng ngay trước cửa.

Con cần sự hướng dẫn thưa thày, và dù có tu tập mỗi ngày, con vẫn chưa phát triển được khả năng nghe được thày rõ ràng trực tiếp trong tim con.


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đệ yêu dấu, ta vô cùng thương xót con cũng như rất nhiều dòng sống chân thật khác đã luôn trung thành với các giáo lý của chân sư thông qua một số tổ chức mà các chân sư đã cộng tác trong thế kỷ qua và lâu hơn thế nữa. Con có lý khi nói rằng kinh nghiệm bản thân của con mang một bài học quý giá cho mọi hành giả tìm đạo tâm linh, đặc biệt là các học trò của các chân sư thăng thiên.

Nhiều dòng sống đã được trao cho viễn kiến về mục đích sống cao hơn của họ trong đời, là sứ vụ thiêng liêng của họ, nhưng khi phải đem viễn kiến này vào thực tế vật lý, họ thường tự cảm thấy thiếu sót, hoặc họ cảm thấy thế gian đáp ứng thiếu sót đối với họ. Điều này khiến một số bị nản lòng hay trở nên bối rối. Ta có thể bảo đảm với con rằng con không phải là người duy nhất trong số các học trò của chân sư lâm vào tình trạng khó khăn như thế. Trên thực tế, có quá nhiều người đang gặp bế tắc, và thực sự ta ước gì có thể giúp họ tiến tới.

Thật không may, một số đã không sẵn sàng lắng nghe những gì ta đã nói qua sứ giả này, và ta khen con đã sẵn lòng hỏi ta câu hỏi trên. Thật sự ta có thể cam đoan rằng một số các chân sư khác mà trong quá khứ đã đỡ đầu một số tổ chức khác nhau, rất mong muốn tiếp cận với các thành viên của các tổ chức này để trao cho họ những tiết lộ tuần tự ở mức kế tiếp. Vậy hãy để ta nói với con, cùng mọi người khác có tai để mà nghe, một số ý tưởng để con suy ngẫm.

Ý thứ nhất

Ý tưởng chủ yếu mà con cần suy ngẫm là: Hãy bước tiếp tới. Khi con thấy mình bị kẹt cứng trong chán nản hay bối rối – hoặc trong bất kỳ loại giới hạn nào khác của con người – thường chỉ có một lối thoát duy nhất, đó là thăng vượt trạng thái tâm thức hiện thời để đạt tới một sự hiểu biết cao hơn và một cái nhìn quân bình về tâm Ki-tô. Điều giản dị là khi con đã làm cùng một chuyện trong một thời gian mà vẫn chưa đạt được mục tiêu, thì đã đến lúc con nên thử một phương cách khác. Sự bướng bỉnh và thiếu mềm dẻo sẽ không đưa con lên thiên đàng, nhưng sự linh động uyển chuyển của tâm Ki-tô – là sự linh động không làm sự thật tổn thương – sẽ giúp con đạt được mục tiêu thực sự của mình.

Vấn đề là trước khi con có thể có được tầm nhìn quân bình, con phải sẵn sàng buông bỏ những tin tưởng và kỳ vọng hiện thời của con về cách cuộc sống hoặc đường tu tâm linh phải trải ra làm sao. Và đây chính là điểm mà nhiều hành giả chân thành bị mắc kẹt trong một thời gian, có khi kéo dài cả mấy kiếp sống. Và tiếc thay, họ thường hay sử dụng chính những lời dạy của chân sư để khiến mình kẹt cứng không biết đến bao giờ.

Như ta cố giải thích suốt trang mạng này, mọi giáo lý tâm linh đều có thể trở thành một cái bẫy cho tâm con. Cho nên ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể được dùng để xây một cái hộp tư duy ngăn chặn con thăng lên mức kế tiếp của đường tu cá nhân của con. Có thể nói, cốt lõi của đường tâm linh là làm sao thăng vượt cái hình tư tưởng mà con có về con người mà con là, về Thượng đế là gì, và về cách vận hành của thế gian. Tất cả mọi hành giả đều khởi đầu với một cái nhìn và hiểu biết giới hạn. Nhiều người lớn lên và được dạy dỗ một thế giới quan vô cùng hạn hẹp, chẳng hạn như thế giới quan do đạo Cơ đốc chính thống và khoa học duy vật đưa ra.

Nhiều hành giả tìm thấy một giáo lý hay một tổ chức tâm linh có khả năng mở rộng thế giới quan của mình, giúp họ tự phát triển cao hơn rất nhiều. Và bởi vì các giáo lý đó giúp họ tăng trưởng đến như thế, họ nghĩ rằng đó là chân lý tuyệt đối, hoặc là giáo lý tối thượng trên địa cầu, và bởi thế họ sẽ không bao giờ cần bất cứ điều gì khác. Thế là họ dựng lên một hình tư tưởng, một sự chờ đợi, một kỳ vọng rằng nếu họ cứ tiếp tục trên con đường này như họ đã được chỉ dẫn, thì họ sẽ tự động chứng đạt tâm thức Ki-tô.      

Thế nhưng như ta giảng giải suốt trang mạng của ta, không một tổ chức công truyền nào có thể bảo đảm con sẽ đạt được tâm thức Ki-tô bằng cách tuân thủ giáo lý hay tu tập. Lý do là vì tâm thức Ki-tô chỉ có thể thực hiện qua một tiến trình nội tâm, tâm truyền. Dĩ nhiên, một giáo lý công truyền sẽ giúp con rất nhiều, nhưng không một giáo lý hay một sự tu tập công truyền nào có thể tự động sản xuất ra tâm thức Ki-tô. Buồn thay, một giáo lý công truyền còn có thể ngăn cản con đạt được tâm thức Ki-tô, thậm chí một giáo lý chân truyền, kể cả giáo lý được đăng tải công khai trên trang mạng này, cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một hộp tư duy sẽ trói con lại ở một trình độ nào đó trên đường tu của con.  

Ý thứ 2

Ở một mức nào đó trên đường tu, việc đi theo một giáo lý công truyền cũng có ích lợi, nhưng con phải luôn luôn cảnh giác để không rơi vào cạm bẫy tinh vi biến giáo lý công truyền đó thành một cái hộp đóng kín. Chẳng hạn, ở những giai đoạn đầu của đường tu, con phải đương đầu với nhiều sự chống đối từ các tà lực, cho nên con cần phải kiên định, thậm chí còn phải như là cứng ngắc. Nhưng một khi lên những mức cao hơn, chính cái đức tính đã giúp con tới được mức này sẽ mau chóng trở thành một trở ngại.

Các tà lực hoàn toàn hiểu được là bất kỳ giáo lý nào cũng có thể khiến con lạc lối nếu con sử dụng một cách cực đoan. Chúng nhìn thấy một hành giả tu tập rất chăm chỉ, và chúng thì thầm vào tai anh ta, đây là tất cả những gì anh ta cần làm cho đến cuối đời. Và như vậy, hành giả cứ cắm đầu làm đúng một điều đó lâu hơn là anh cần làm, và điều này bắt buộc khiến anh cứng ngắc. Rồi một khi anh đi quá một điểm nào đó, anh sẽ không thể tiến cao hơn bằng sự cứng ngắc được nữa, và sự phát triển của anh ngừng lại. Thế nhưng anh quá tin tưởng anh đi đúng đường nên anh tưởng anh vẫn đang tinh tấn. Chuyện này cứ thế tiếp diễn cho tới khi anh bắt đầu tự hỏi tại sao – nếu anh vẫn làm tất cả mọi điều đúng đắn – tại sao sứ vụ thiêng liêng của anh lại không đang trên đà hoàn thành.

Con cần biết rằng ở những giai đoạn đầu của đường tu, con cần phải kiên trì ra sức vượt qua các tà lực chống đối. Nhưng khi chúng thấy chúng không thể giữ con lại bằng mãnh lực, chúng sẽ thay đổi chiến lược, và bây giờ chúng sẽ dụ dỗ con với những ý tưởng rất tinh tế. Ở những mức cao hơn của đường tu, con cần phải linh động để khôn ngoan hơn các lực chống đối. Trên cơ bản, con cần tiến nhanh đến nỗi các tà lực hay chính tự ngã của con không thể nắm được con. Để làm điều này, con cần sẵn sàng làm theo chỉ thị của cái ta Ki-tô của con từng phút một. Đơn giản, con không thể cho phép tà lực tiên đoán được bước tới của con. Một hành giả quá dễ đoán sẽ là một mục tiêu quá dễ cho tà lực. Nói cách khác, ở những mức cao của đường tu, không có gì sẽ hiệu nghiệm mãi mãi, và vì thế con không thể bám chặt vào bất kỳ quy tắc công truyền nào.  

Nếu một lời dạy công truyền có giá trị, nó sẽ giúp con tăng trưởng, và mục đích thực sự của một giáo lý công truyền là giúp con tinh tấn tới một mức con có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ cái ta Ki-tô và các vị thày tâm linh của con. Vấn đề là những chờ đợi, định kiến cùng hình tư tưởng của con đã tạo thành một bức tường ngăn cản con nghe được sự hướng dẫn từ chân sư, hoặc nó khiến con không tin tưởng những gì con nghe thấy bên trong.

Hộp tư duy của con càng đóng chặt – và nếu tình cảm con càng bám mắc vào giáo lý cùng tổ chức công truyền – thì cái hộp sẽ càng trở nên kín mít đối với sự chỉ dẫn của chân sư. Thực tế đáng buồn là các thày không thể giao tiếp với nhiều học trò của mình, cho dù nhiều người đã theo học giáo lý công truyền của chân sư từ nhiều thập niên. Những người này đã sử dụng giáo lý của chân sư để bịt lỗ tai lại, không nghe sự hướng dẫn tâm truyền, tương tự như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở xưa đã dùng kinh Torah để bịt tai không nghe những lời dạy cập nhật mới mẻ của ta.

Khi con thấy mình bị bế tắc, không thấy được phải đi đường nào, thì con phải coi như con đang bị ngăn chặn bởi các kỳ vọng và hình tư tưởng mà ngoại tâm con (ngoại tâm gồm cả tự ngã) đang cầm giữ. Cho nên nếu con thực sự muốn tinh tấn, con cần phải lùi lại và có một nỗ lực ý thức để nhìn ra ngoài hộp tư duy của con. Để làm điều này, con phải sẵn sàng tra vấn hay buông bỏ bất kỳ – và tất cả – tin tưởng hiện thời của mình. Ta không bảo con phải bỏ mọi tin tưởng – ít ra là không phải tất cả cùng một lúc – mà ta bảo con phải sẵn sàng từ bỏ chúng. Nếu con không sẵn sàng từ bỏ thì con đang bám mắc, và sự bám mắc là nguyên nhân của mọi khổ đau, như đức Phật đã chỉ ra hàng ngàn năm trước.  

Ý thứ 3

Ở các cấp thấp trên đường tâm linh, hành giả bắt buộc bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, cho dù hành giả tìm được và đi theo một giáo lý tâm linh chân truyền, người đó sẽ tạo dựng một hình tư tưởng của giáo lý cũng như cách đúng đắn để tuân thủ giáo lý. Nhưng hình tư tưởng này bắt buộc sẽ, ít nhất một phần, dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con phát triển tâm Ki-tô, con sẽ đến một điểm mà con không thể tiến xa hơn cho tới khi con sẵn sàng bỏ lại hộp tư duy của con. Con phải giải thoát cái nhìn của con về đường tâm linh khỏi các yếu tố nhị nguyên.

Một đặc điểm của trạng thái tâm nhị nguyên là nó giam giữ con trong cái nhìn đen trắng về đường đạo. Nói cách khác, con sẽ nghĩ rằng cái này hoàn toàn đúng và cái kia hoàn toàn sai, và nếu con cứ tiếp tục làm những gì được xác định là đúng thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Cho nên cái khung tư duy nhị nguyên thật là xơ cứng, bởi thế cho nên cách duy nhất để phát triển quá một mức nào đó trên đường tu là phải buông bỏ tư duy nhị nguyên bằng cách trở nên linh động. Nhưng sự linh động này không được xây trên bãi cát luôn di động của tâm thức phàm phu, mà phải dựa trên tảng đá của Ki-tô, vì Ki-tô biết rõ làm sao uyển chuyển từng lúc mà không nguy hại đến các nguyên lý vượt thời gian.

Để tiến xa hơn một mức nào đó, con phải sẵn sàng đánh mất đời sống của mình – tức là ý niệm cuộc sống phải như thế nào – để giành được cách sống cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Đây là một cuộc điểm đạo rất tinh tế mà mọi hành giả cao cấp sẽ phải đối mặt, và con sẽ không ngừng đối mặt với sự khai ngộ này khi nào con vẫn còn đầu thai làm người. Và như ta từng nói, ai tìm cách cứu đời sống mình – tức là cái hộp tư duy hiện thời của mình – sẽ đánh mất nó, tức là sẽ đánh mất sự sống trong hướng phát triển liên tục. Điều khôn ngoan là nên suy ngẫm về sự kiện một hành giả có thể thất bại ở bất cứ một trình độ nào trên đường tu. Thất bại trên đường tâm linh có nghĩa là con trở nên bám mắc đối với trình độ tinh tấn hiện thời của con và từ chối vượt thăng nó, từ chối vượt thăng cái hình ảnh mà con có về con người con là.     

Có một sự cám dỗ tinh tế khi nghĩ rằng nếu mình càng bước lâu trên đường tu, nếu mình càng thực hiện được nhiều công việc vỏ ngoài trên đường tu, thì mình sẽ càng ít rủi ro thất bại. Nhưng nhiều hành giả cao cấp vẫn thất bại vì họ nghĩ họ không thể thất bại, và do đó họ nghĩ họ không còn cần phải thăng vượt. Tuy nhiên, ta nói với con là trên con đường cá nhân của con, có những điểm mấu chốt mà con phải sẵn sàng chết trên thập tự giá, nghĩa là con sẵn sàng  buông bỏ mọi mong đợi và định kiến về đời mình, hay đường tu của mình phải trải ra như thế nào. Nếu con không chịu để cho tiêu đi ý niệm phàm phu này về đời sống, con sẽ không thể tái sinh trong ý thức sống cao hơn của tâm thức Ki-tô. Lý do là vì con cố bám giữ một cái nhìn nhị nguyên do ngoại tâm tạo ra, và con từ chối đứng thẳng hàng với cái nhìn cao hơn cũng như ý chí của dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ.  

Con có thấy điều ta muốn nói không? Có bao nhiêu hành giả tìm được một giáo lý hay tổ chức tâm linh, nhờ đó mà họ nhảy một bước khổng lồ trên đường tu. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại dùng cùng những giáo lý đó để tạo ra một hộp tư duy, và khi đến lúc phải để cho con bê vàng chết đi thì họ lại không thể buông nó ra. Một số thì quá sợ hãi để cho nó ra đi, một số khác thì quá tự kiêu, còn một số thì quá lười biếng. Ta sẽ nói lại một lần nữa.

Một số người tìm thấy đường tu và họ dùng một giáo lý hay tổ chức công truyền để nặn ra một cái khuôn mà mọi hành giả chính trực phải rập theo. Họ tự hào họ hội đủ mọi tiêu chuẩn vỏ ngoài, và họ sẽ nhất định sẽ cứ như thế mãi mãi. Họ thường dùng quan điểm của mình để phán xét những ai không thể làm đúng theo các chuẩn mực cao cả của họ, và như thế họ dựng lên một ý niệm vi tế là họ thuộc về một giai cấp các đệ tử cao minh nhất.

Nhưng khi tới lúc phải bước lên những cấp độ cao hơn trên đường tu, cách nhìn của họ trở thành một cái bẫy. Những hành giả này cảm thấy nếu họ thay đổi cách tu tập thì họ sẽ chểnh mảng, và niềm tự hào của họ bị sứt mẻ. Và nếu họ không chịu bỏ niềm tự hào đó thì họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải tiếp tục làm y như vậy hoài hoài. Đáng buồn thay, họ sẽ bị kẹt lại ở mức này, hoặc họ tuột xuống hố thẳm của sự mù quáng tâm linh là hậu quả đương nhiên của tự hào. Họ có thể hoàn toàn tin chắc là họ cao hơn mọi người khác, thế nhưng họ không có khả năng nhận ra đấng Ki-tô Hằng sống, y như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước. Đó là lý do ta từng gọi là đạo đức giả.  

Một số người tìm ra một giáo lý và cảm thấy giáo lý đó là một ốc đảo an toàn giữa một thế gian đầy bất an. Khi theo giáo lý công truyền, họ tin rằng mình sẽ được cứu rỗi, và vì vậy họ sẽ lánh xa loài ma quỷ của sợ hãi đã từng ám ảnh họ. Việc tuân theo một giáo lý chân truyền cũng là một thành trì chống lại sợ hãi. Vấn đề là con không thể vào được nước Trời bằng cách tự cách ly khỏi những nỗi sợ hãi của con. Con chỉ vào được nước Trời bằng cách chinh phục sợ hãi, và để chinh phục, con phải sẵn sàng đối mặt với chúng.

Mục đích của một giáo lý chân truyền không bao giờ là để mãi mãi cách ly con khỏi sợ hãi. Mục đích là cho con một bờ bến an toàn để con có thể bồi sức hầu đối mặt với sợ hãi. Nhưng nếu con không hiểu được điều này, hoặc nếu con không chịu đối diện với sợ hãi, thì con sẽ bám víu vào sự yên trí của giáo lý công truyền rồi dùng đó để biện minh cho sự từ chối đối mặt. Tiếc thay, tuy rằng chiến lược này có giá trị trong các giai đoạn đầu, nó sẽ không bao giờ đưa con xa hơn những bước đầu này. Vấn đề là các hành giả này sợ làm lỗi đến nỗi họ không dám thử một cái gì mới. Nhưng nếu không thử thì con không thể tiến bước. Nếu con không chịu nhận rủi ro lầm lỗi thì con không thể thành công.  

Một số người tìm thấy một giáo lý công truyền xong nhận thấy mình theo nó quá dễ dàng thay vì mình phải cố gắng tự suy nghĩ một mình. Họ sẵn lòng để cho một đạo sư hay một tổ chức bên ngoài suy nghĩ dùm họ, và lần hồi họ nghiện ngập cái cảm giác an toàn đó, y hệt như người nghiện ma túy vậy.  

Nhưng một lần nữa, một giáo lý chân truyền nhằm cho con một thời gian nghỉ ngơi để con có thể bồi dưỡng sức lực cũng như khả năng phân biện sự thật bên trong mình. Khi con đạt tới một mức nào đó trên đường tu, con sẽ không thể tiến thêm cho đến khi con sẵn sàng bắt tay vào công việc khó khăn là phân biện sự thật trong nội tâm, thay vì trông chờ một giáo huấn hay một vị thày bên ngoài.

Thông thường đối với các hành giả này, họ muốn bám vào ý tưởng là họ có thể tiếp tục tin, hoặc làm, cùng những chuyện đó suốt đời. Đại khái, họ nói với cái ta Ki-tô của họ cũng như với các chân sư: “Đừng làm phiền tôi với sự hướng dẫn tâm truyền. Tôi đã có giáo lý và tổ chức vỏ ngoài này rồi, nó cho tôi tất cả mọi thứ tôi cần”. Và cứ thế, họ tiếp tục nhảy múa chung quanh con bê vàng thay vì để cho những kỳ vọng phàm phu của họ bị tiêu hủy trong ngọn lửa của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ không phải là chính nó.

Thực tế đơn giản – một thực tế mà nhiều hành giả không thấy – là ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một cái hộp đóng kín. Cho nên nhiều học trò chân thành của chân sư đã dùng giáo lý chân sư để đi theo con đường tuy “đúng đắn với con người nhưng lại là con đường chết”. Thật là một điều đáng buồn khi nhiều người cầu tìm tâm linh đã dùng một giáo lý chính đáng để tự đóng hộp mình, để rồi cuối cùng họ bắt đầu đi theo con đường tay trái. Đây là sự phản bội hoàn toàn đối với lòng tin của các chân sư đã đỡ đầu công bố một giáo lý nào đó. Nếu con nghĩ rằng ta cùng các chân sư khác hài lòng về sự thể này thì rõ ràng con không biết chân sư mà chỉ tưởng là mình biết.

Sự thật mà con không thể tránh khỏi là thực chất của đường tâm linh là sự tự thăng vượt. Bất cứ khi nào con dùng một giáo lý vỏ ngoài để tự biện minh rằng mình không cần thăng vượt thì ngay lúc đó con đang theo tà đạo. Như thế con không còn là một đệ tử thực sự của chân sư. Con đã trở thành một người phản-đệ tử, và con sẽ bắt buộc cất bước đi theo một người phản-thày. Ta có thể chắc chắn với con là ta không nói quá đáng hay ta ra vẻ cường điệu đâu. Thực tế trần truồng là nhiều đệ tử lâu năm đang đi sai đường, nhưng họ lại dùng giáo lý vỏ ngoài để ru ngủ cho mình là những hành giả có trình độ cao nhất trên địa cầu. Và các chân sư thì hầu như không có cách nào đánh thức họ về sự điên rồ của họ.  

Cách duy nhất để phá vỡ khuôn nếp này là phải sẵn sàng biết khiêm tốn mà tra vấn những tin tưởng lâu đời của mình về đường tâm linh. Ta không bảo con phải bỏ một lời dạy cố hữu và đi theo lời dạy mới như trang mạng này. Ta bảo con phải bỏ những tin tưởng đang làm nghẽn sự tiếp xúc của con với cái ta Ki-tô của con hầu con nhận được sự hướng dẫn từ bên trong.

Và ta có thể bảo đảm với con là nếu con đã đi theo và tu tập một giáo lý tâm linh chân truyền trong một thời gian dài mà vẫn không có sự liên lạc rõ ràng với cái ta Ki-tô của mình, thì chỉ có một lý do mà thôi. Con có một số tin tưởng và chờ đợi đang chặn nghẽn sự hướng dẫn nội tâm. Cho nên con hãy cần sẵn sàng để cho những giới hạn này ra đi; hãy vui lòng để chúng chết đi hầu con có thể sống đời đời trong ánh sáng của Sự thật Ki-tô.  

Ý thứ 4

Sự khác biệt vi tế mà nhiều hành giả thường bỏ qua là một giáo lý vỏ ngoài quả là có khả năng giúp họ tiến bước. Nhưng điều này chỉ hiệu nghiệm một thời gian và sau đó thì nó sẽ cản trở bước tiến. Cách duy nhất thoát khỏi ngõ cụt này – cũng là cách duy nhất để không trượt lùi trên đường đạo – là mình thăng vượt hình tư tưởng của mình. Và để làm điều này, con phải sẵn sàng để cho mọi thành phần của hình tư tưởng đó chết đi khi con nhận được sự thúc giục của hướng dẫn nội tâm. Và như ta đã nói, con càng bám giữ hình tư tưởng thì con sẽ càng khiến cho sự hướng dẫn nội tâm bị tắc nghẽn – và nó tạo ra một tình trạng tiến thoái lưỡng nan.   

Cho nên ta đề nghị một điều giản dị. Ở cuối quyển sách “The Christ is born in you” (Ki-tô ra đời trong con), ta có đưa ra một bài tập mà qua đó ta giúp hành giả không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ ý niệm nghĩa vụ, bất kỳ cảm nhận nào là mình phải làm điều gì, hay phải làm theo một cách nào đó. Đây là một bài tập hữu ích bởi vì chỉ bằng cách buông bỏ định kiến mà con mới làm cho ngoại tâm tĩnh lặng hầu nghe được cái ta Ki-tô của con. Vì vậy con hãy sẵn sàng từ bỏ mọi ý tưởng rằng con phải làm điều gì đó cho chân sư, và hoàn toàn sẵn lòng từ bỏ luôn mọi ý tưởng về cách thực hiện điều đó.  

Ta có thể nói với con là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà ta thấy là một hành giả nhận được viễn kiến đúng đắn về những việc mà người đó phải làm trong kiếp này, nhưng lại dùng một giáo lý công truyền – hay đúng hơn, một cách hiểu nhị nguyên về giáo lý đó – để dựng lên một kỳ vọng không thực tế về cách thực hiện. Và như thế con rơi vào tình trạng “một ngôi nhà bị chia rẽ chống lại mình”. Dòng sống của con biết viễn kiến đó là gì và cũng biết mình phải thực hiện làm sao, nhưng ngoại tâm thì lại dựng lên một viễn kiến khác bởi vì nó đã dùng một giáo lý vỏ ngoài – hay một số quy tắc cứng ngắc do giáo lý này vạch ra – để xác định cách thực hiện mục tiêu.     

Điều này chắc chắn sẽ làm tắt đi khả năng sáng tạo thực sự của dòng sống, và vì vậy dòng sống sẽ từ chối làm theo. Con thấy không, sứ vụ thiêng liêng của con chỉ có thể được hoàn thành khi con thể hiện sắc tính thiêng liêng của mình – được neo giữ nơi Hiện diện TA LÀ của con – qua công việc mình làm. Nếu con dùng một giáo lý công truyền để thiết lập những luật lệ hay chờ đợi cứng ngắc về cách thực hiện mục tiêu mình, thì con sẽ tước mất cơ hội cho sắc thái con được thể hiện qua công việc của con.

Cho nên ngoại tâm sẽ đánh nhau với cái Ta Biết của con – con sẽ đánh nhau để bóp nghẹt khả năng sáng tạo là chìa khóa cho con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình – và như thế mục tiêu sẽ không đạt được. Hành giả nỗ lực đạt tới một mục tiêu rất đáng làm, nhưng lại cố gắng làm với một cách thức mà cả cái ta Ki-tô lẫn cái Ta Biết của con không thể chấp nhận, và do đó nó phá hoại chính những nỗ lực vỏ ngoài của nó. Cái ta Ki-tô biết rõ hành giả sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu qua khả năng của ngoại tâm, cho nên cái ta Ki-tô thực sự đang tìm cách gửi một thông điệp đến ngoại tâm.  

Lối thoát duy nhất khỏi bế tắc này là vượt qua sự chia rẽ trong ngã bằng cách buông bỏ hình tư tưởng được giữ trong ngoại tâm. Và điều này thường đòi hỏi hành giả buông bỏ một số – hay có lẽ tất cả – những kỳ vọng đã được xây đắp khi mình dấn thân vào giáo lý hay tổ chức công truyền. Ít nhất, hành giả phải sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng. Chìa khóa là cái Ta Biết chứng thực được mình là sự tỉnh giác thuần khiết.

Ý thứ 5

Con hỏi: “Con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú chú bị cấm không được làm?”

Trước hết, việc sử dụng thành tựu của mình để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng luôn luôn hợp luật – đó chính là chức năng của thành tựu tâm linh. Thế nhưng con phải bảo đảm rằng ngoại tâm con nằm thẳng hàng với viễn kiến về mục tiêu mà cái Ta Biết và cái ta Ki-tô cất giữ.

Có hợp luật không khi con theo đuổi mục tiêu bằng cách đi ngược lại các luật lệ vỏ ngoài của một cộng đồng tâm linh? Chắc chắn là có – với điều kiện cái ta Ki-tô của con bảo con làm vậy và con chắc chắn không phải tự ngã đang dụ dỗ con. Thế nhưng trong hầu hết trường hợp, chính ngoại tâm con bảo con mù quáng tuân thủ luật lệ công truyền mà không lắng nghe cái ta Ki-tô. Con cần suy ngẫm lời dạy của ta về ngày sa-bát và câu ta từng nói, “Sa-bát được tạo ra cho con người, chứ con người không được tạo ra cho sa-bát.” Câu này cũng áp dụng cho mọi luật lệ do bất kỳ tôn giáo nào đặt ra. Để biểu lộ và thể hiện quả vị Ki-tô của con, con phải sẵn sàng thăng vượt mọi giới hạn do con người đặt ra. Con phải sẵn lòng để cho chúng chết đi hầu giải thoát dòng sống của con khỏi gông cùm của chúng và vượt lên trên. Dòng sống của con, trong nghĩa đen, đang bị đóng đinh trên thập tự giá của những mong muốn phàm phu, nhị nguyên, mà ngoại tâm con đã chấp nhận. Cho nên ngoại tâm con và các thế lực của thế gian này đã đóng đinh dòng sống của con vào cây thập tự.

Điều này bao gồm cả những hạn chế nội tâm được tạo ra bởi ngoại tâm và tự ngã của con. Và nó cũng bao gồm những hạn chế vỏ ngoài tạo ra bởi thế gian, kể cả bởi một cộng đồng tôn giáo nào đó. Tất nhiên, con cần tìm thấy một sự quân bình, và ở các mức thấp của đường tu, con có thể cảm thấy luật lệ vỏ ngoài rất hữu ích. Nhưng sẽ tới lúc con không thể phát triển thêm cho đến khi con vượt qua cuộc điểm đạo và con sẵn sàng bước theo hướng dẫn của nội tâm thay vì luật lệ, quy tắc vỏ ngoài.

Ý thứ 6

Việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng không thể đo được bằng các chuẩn mực thành công của thế gian. Nhìn từ thế gian, sứ mạng của ta thời ta hiện thân là một thất bại, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh, đó là một sự thành công. Vì vậy con không nên rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng thành công cá nhân của con có thể đo bằng chuẩn của thế gian – đăc biệt là chuẩn của các giới làm phim điện ảnh.

Một khía cạnh khác nữa của vấn đề này là con không được để cho mình cảm thấy sự tiến triển của sứ mạng mình có thể bị thế gian giới hạn. Để biểu lộ quả vị Ki-tô, con phải đạt tới mức con quyết định rằng con sẽ KHÔNG để cho bất cứ gì – ở trong cũng như ở ngoài – ngăn cản mình bước đi bước kế tiếp của mình trên đường tu. Nói cách khác, nếu con có một viễn kiến thì con cứ việc đi tới mục tiêu với bất kỳ phương tiện hợp pháp nào mà con có. Con không để cho sự thiếu hụt tài chánh ngăn con làm những gì con có thể làm – và luôn luôn có những điều con có thể làm – kể cả là con có thể tự tu sửa.

Con hãy nhớ câu phương châm này của một vị đồng sự quý mến của ta, “Hãy làm đúng (chánh nghiệp) mà không vướng mắc thành quả việc làm”.

Ý thứ 7

Ta xin nhắc lại lần nữa, mỗi khi con thấy bế tắc thì đó là vì có một điều gì đó con chưa buông bỏ, một điều gì đó con chưa hàng phục. Và lý do con chưa buông bỏ là một hình tư tưởng về đường tu phải như thế nào – một hình ảnh mà cho tới giờ con chưa chịu chất vấn, hay con nghĩ nó không cần chất vấn. Như ta nói với con, khi con tiến tới tâm Ki-tô, con phải sẵn sàng chất vấn và nhìn xa hơn bất kỳ, và mọi, tin tưởng, quan điểm, chờ mong của mình. Bất cứ điều gì mà con không sẵn sàng nhìn xa hơn sẽ tự động trở thành cái hộp tư duy giam cầm tâm con.

Cho nên con hãy lùi lại, buông bỏ sự cảm nhận về những điều con cần làm cũng như cách làm.  Hãy buông ý niệm rằng con phải cứu nguy thế giới, rằng số phận thế giới tùy thuộc vào hành động của con, hay đại nghĩa của các chân sư nằm trên vai con. Hãy suy ngẫm về sự kiện Thượng đế đã cho mọi người quyền tự quyết. Vì thế con không trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác. Nhưng ngược lại, chỉ có con mới trách nhiệm về sự cứu rỗi của con.

Xin con hiểu rằng có sự phân biệt vi tế ở đây. Các chân sư không đang đầu thai trong thế gian, cho nên để địa cầu thay đổi, chỉ những ai đang đầu thai mới có thể đem lại thay đổi. Nhưng sự thay đổi cần thiết không thể do ngoại tâm đem lại. Khi con vướng mắc vào một hình tư tưởng nào đó, con bắt đầu nghĩ rằng con là người hành động, người hoàn thành. Và chính những người tưởng mình phải cứu nguy thế giới mới khiến cho người ta có câu, “Con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý muốn tốt”. Kỳ thực, con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng ý muốn của con người, những ý muốn nhị nguyên.

Chìa khóa là con cần bỏ lại mọi kỳ vọng phàm phu và khiến cho ngoại tâm đứng đồng điệu với dòng sống và cái ta Ki-tô của con. Khi đó, con sẽ có thể nói, “Ta và Cha ta – nghĩa là Hiện diện TA LÀ – là một” và “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta cũng làm việc như vậy”. Đây là cách duy nhất để đem lại thay đổi thực sự cho địa cầu. Nếu con muốn đem giáo lý của chân sư vào thế giới, bước đầu tiên là con phải thể nhập với giáo lý và bước đi trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Con không thể dạy về quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô. Con chỉ có thể dạy về quả vị Ki-tô qua sự làm gương.

Ý thứ 8

Đối với các chân sư thăng thiên, việc cứu vớt địa cầu không quan trọng bằng việc cứu vớt dòng sống của con. Và cách duy nhất để cứu dòng sống của con là giúp con đạt được tâm Ki-tô. Cho nên mục đích chủ yếu của con là đạt được tâm thức Ki-tô – thậm chí sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hay cứu nguy thế giới cũng chỉ là thứ yếu so với mục đích đó. Ở những mức cao trên đường tu, con phải đặt ưu tiên cho thật rõ ràng. Con phải trước hết sẵn sàng tìm nước Trời, tức là tâm thức Ki-tô. Và tất nhiên, một khi con đặt việc tìm nước Trời lên hàng đầu thì mọi thứ khác, tức là sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới, sẽ được bồi thêm vào cho con.

Con có thấy được sự khác biệt vi tế? Ngay cả mục đích rất đáng làm là bước đi trên đường tâm linh, hoàn thành sứ vụ thiêng liêng hay cứu nguy thế giới cũng có thể trở thành cái bẫy nếu con đặt những thứ đó lên trên việc chứng đạt tâm thức Ki-tô. Khi nào con còn điều gì quan trọng hơn tâm thức Ki-tô thì con không thể đạt tâm thức Ki-tô. Và khi nào con chưa đạt tâm thức Ki-tô thì con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới. Cho nên con phải để cho mọi mục tiêu khác chết đi – con phải sẵn sàng mất ý niệm sống của mình – để đạt được sự sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô. Đây là tiến trình mà Kim Michaels đã đi qua trước khi đủ tư cách để làm sứ giả cho ta.

Một khi con chứng đạt quả vị Ki-tô cá nhân của con, con sẽ không bị ràng buộc bởi bất cứ luật lệ hay mong chờ nào nữa. Con sẽ để cho sắc thái thiêng liêng của con biểu hiện qua con, bởi vì con sẽ biết rằng, “Đứa Con chẳng tự mình làm được việc gì, chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm; vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (John 5:19). Đứa con ở đây là dòng sống đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của nó.

Ý thứ 9

Con không thể đem các mong muốn, quan điểm hay hình tư tưởng phàm phu của con lên thiên đàng. Cho nên con không thể vào được thiên đàng cho đến khi con bỏ chúng lại. Bám giữ chúng sẽ khiến con không vào được thiên đàng. Con không thể tìm thấy chìa khóa vào thiên đàng nếu con bám giữ những gì con có. Con chỉ tìm thấy chìa khóa nếu con buông bỏ mọi điều giả. Và trước khi con có đủ phân biện để biết chân giả khác nhau thế nào, con nên khôn ngoan đặt thành mục tiêu là không bao giờ tạo ra một cái hộp tư duy đóng kín.

Để tránh tạo ra hộp đóng kín chung quanh tâm mình – một chiếc hộp mà cái ta Ki-tô của con không thể thâm nhập vào – con phải sẵn sàng luôn luôn vươn tới hiểu biết cao hơn, nghĩa là con không bao giờ cho phép mình tưởng rằng sự tin tưởng của mình có thể là tuyệt đối, tức là không thể mở rộng ra qua sự hướng dẫn nội tâm. Nói cách khác, đừng bao giờ để cho một giáo lý, một vị thày hay một tổ chức công truyền đứng chắn ngang giữa con và vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô.

Ta thực sự mong ước những học trò lâu năm của các chân sư suy ngẫm những ý tưởng này, cho nên ta hy vọng mọi người sẽ cảm thấy thoải mái khi chia sẻ với người khác. Ta xin xác nhận với con là các chân sư thăng thiên vô cùng quan tâm khi thấy quá nhiều học trò lâu năm của mình đã sử dụng giáo lý của chân sư – được ban cho các con một cách vô giới hạn – để tạo ra những hộp tư duy đóng kín. Điều này không những sẽ ngăn họ hoàn tất sứ vụ thiêng liêng, mà còn ngăn họ đạt được quả vị Ki-tô. Chỉ vì lý do này thôi mà các giáo lý được truyền đạt suốt thế kỷ qua đã không tác động được hành tinh này như mong muốn.  

Tình trạng này có thể chỉnh sửa, và có thể chỉnh sửa nhanh chóng. Nhưng nó sẽ chỉ xảy ra khi các học trò lâu năm của các chân sư sẵn sàng để cho các kỳ vọng trước đây chết đi rồi sống lại trong ngọn lửa của Sự thật Hằng sống – là phép báp-têm bằng lửa – mà họ chỉ có thể nhận được từ chính cái ta Ki-tô của họ.

Ý thứ 10

Ta mong các học trò lâu năm sẽ suy ngẫm những lời giảng của ta về nguồn gốc của cái ta Ki-tô và thiền quán về ý nghĩa sâu thẳm của lời giảng đó. Nó chứa đựng một lời dạy chưa từng được ban truyền trong quá khứ, và đây là một ví dụ điển hình tại sao giáo lý chân sư cần được tiết lộ một cách tuần tự theo nhịp tiến của nhân loại.

Rõ ràng, bài giảng vừa rồi của ta nhân dịp Giáng sinh nhắm đến người đạo Cơ đốc, vì vậy ta chỉ có thể đưa ra những lời dạy cơ bản. Tuy nhiên đối với các học trò lâu năm, các con cần hiểu rõ là nhiều vị chân sư thăng thiên đã “bẻ thành từng mảnh” Tánh linh của mình để hình thành những cái ta Ki-tô của các anh em chưa thăng thiên. Vì vậy không phải mọi hành giả đều có cái ta Ki-tô là thành phần của Tánh linh của ta. Điều quan trọng là hành giả cần hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư đã ban cho mình món quà sự sống dưới hình thức cái ta Ki-tô.

Cho nên nếu con là một học trò lâu năm của các chân sư, con nên xét xem con sẽ trung thành với một giáo lý vỏ ngoài hay là với nguồn gốc của giáo lý đó. Ta không bảo rằng con cần phải rời bỏ một tổ chức con đã tham gia. Nhưng ta nói rằng con cần sẵn sàng rời bỏ tổ chức đó nếu con nhận được chỉ thị từ bên trong. Và nếu con đã sử dụng các giáo lý cũ để xây dựng một hộp tư duy đóng kín, thì làm sao con sẽ nghe được sự hướng dẫn nội tâm này đây?

Ta cũng muốn nói rằng tất cả mọi học trò lâu năm của chân sư có thể hưởng lợi rất nhiều khi sử dụng các bài chú và bài thỉnh để bổ sung cho những kỹ thuật mà họ đã từng dùng trong những tổ chức trước. Tại sao con lại đi máy bay cánh quạt khi máy bay phản lực đã được đem vào thế gian? Với tình hình nghiêm trọng trên địa cầu hiện nay, các chân sư cần tất cả mọi học trò của mình sử dụng các kỹ thuật mạnh mẽ nhất hiện có.

Thành thật mà nói, ta còn rất nhiều điều muốn nói với các học trò lâu năm, nhưng nếu những gì ta vừa nói ở đây không mở tai họ để họ nghe được ta là ai, thì ta ngờ rằng sẽ chẳng có gì khác làm được chuyện đó. Một lời nói thôi cũng đủ cho người trí tuệ – hoặc những ai coi mình là trí tuệ.

Quyền tự quyết của con tự quyết đến mức nào?

Nghe bài thu âm

Hỏi: Liệu ý chí tự quyết của tâm thức của con ngay bây giờ có tách rời khỏi linh hồn con, như linh hồn tách rời khỏi Hiện điện TA LÀ? Chẳng hạn, nhiều khi con cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, nhiều khi khác con lại quyết định mình sẽ không là. Nhiều lúc khác nữa, con cảm thấy rất thành tâm, cả quyết và háo hức về con đường tâm linh của mình. Có phải là linh hồn con hiểu điều này rõ hơn cái ta đường thẳng của con, hay là nó cũng bị ràng buộc tương tự như Hiện diện TA LÀ bị ràng buộc bởi quyền tự quyết của linh hồn con?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nghiên cứu một số sách về trải nghiệm cận tử (near-death experience) hay những người nhớ lại tiền kiếp, nhớ lại cách dòng sống của mình hoạch định những kiếp đầu thai như thế nào, con sẽ thấy đối với hầu hết mọi người, toàn bộ dòng sống không chỉ là những điều mình nhận biết một cách ý thức, mà là nhiều hơn vậy. Nói cách khác, trước khi con đi vào hiện thân, con có khả năng nhìn lại toàn diện hành trình tiến hóa của con, và con làm điều này một cách không dính mắc. Nhờ vậy, con có thể hoạch định một cách thật hữu lý và chi tiết về những điều con muốn thực hiện trong kiếp kế tiếp.

Khi dòng sống đi vào một xác thân vật lý, nó mất hết ký ức về cái nhìn bao quát này, tức sự nhận biết toàn bộ của nó. Một số người khi còn nhỏ có thể nhớ lại một vài trải nghiệm hay ký ức, nhưng sau đó họ thường quên đi khi họ đâm đầu vào cuộc sống hàng này trong vũ trụ vật chất. Chỉ có những dòng sống đã trưởng thành cao độ về tâm linh trong những kiếp trước mới giữ được phần lớn sự nhận thức và ký ức đó. Tuy vậy, đa số hành giả tầm đạo thường có một trực nhận mạnh mẽ về những điều họ muốn đạt đến trong cuộc đời.

Cho nên có thể nói, khi dòng sống của con đi vào thân xác, ý niệm bản sắc và sự nhận biết của nó trở nên hạn chế hơn rất nhiều so với trước khi hiện thân. Vậy điều gì định đoạt mức nhận biết ý thức của con? 

Như chúng tôi có giải thích, cốt lõi của con là cái Ta Biết. Cái Ta biết khởi đầu với một ý niệm cái ta nhỏ như cái chấm, và khi nó có thêm trải nghiệm trong vũ trụ vật chất, nó sẽ mở rộng ý niệm cái ta này, mở rộng phạm vi nhận biết toàn diện của nó. Nó mở rộng cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Chiều dọc là khi nó tăng cường sự kết nối với Hiện diện TA LÀ, tiến tới sự hợp nhất hoàn toàn với Hiện diện (quả vị Ki-tô cá nhân). Và chiều ngang là khi nó bành trướng tầm hiểu biết về thế giới vật chất cùng sự vận hành của thế giới vật chất. 

Cho nên, tầm nhận biết mà con có trước khi con đầu thai được định đoạt bởi cái Ta Biết đã bành trướng phạm vi cái ta của nó nhiều hay ít. Phạm vi này càng rộng – tức là sự nhận biết càng nhiều – thì con càng thấy nhiều chọn lựa mở ra cho con. Nói cách khác, cái Ta Biết là trung tâm của ý chí tự quyết của con. Cái Ta Biết dù có toàn quyền tự quyết nhưng nó chỉ có thể chọn trong số các chọn lựa mà nó thấy hay tưởng tượng được mà thôi. Và những chọn lựa mà con thấy tùy thuộc vào phạm vi nhận biết của con rộng tới đâu. Hay nói cách khác nữa, khi con hoạch định sứ vụ thiêng liêng cho kiếp kế tiếp, con có thể truy cập toàn bộ tầm nhận biết mà con đã đạt được qua tất cả các kiếp sống.

Vậy điều gì xảy ra khi con đầu thai? Như ta đã giải thích ở nơi khác, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thật ra chỉ là cỗ xe gồm bốn thể phàm mà cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu hiện trong bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Cỗ xe 4 tầng này được tạo dựng suốt nhiều kiếp sống, và như ta giải thích, đại đa số con người trên địa cầu đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là cỗ xe linh hồn được cấu tạo bằng rất nhiều ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên, và nó cũng tồn trữ rất nhiều năng lượng tha hóa. Tất cả những thứ này sẽ giới hạn tầm nhận biết của cỗ xe linh hồn. 

Trong khoảng chuyển tíếp giữa hai kiếp đầu thai, con có thể – nếu con có chút trưởng thành tâm linh – nhìn vào hoàn cảnh của mình với sự nhận biết toàn diện của cái Ta Biết. Nhưng khi con đi vào xác thân, con sẽ bắt đầu nhìn cuộc sống xuyên qua cỗ xe linh hồn, nghĩa là tầm nhận biết của con bây giờ bị hạn chế bởi phin lọc của cỗ xe 4 tầng. Cũng tựa như con đang đứng trên khoang tàu nhìn rộng thênh thang tứ phía, rồi khi con đầu thai con phải mặc vào một bộ đồ lặn chỉ có một lỗ cửa sổ nhỏ xíu để nhìn ra thế giới.   

Vậy giờ con thấy là có hai điều con cần xem xét. Trước hết là mức nhận biết mà cái Ta Biết đã xây dựng suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ sử dụng tầm nhận thức này để họach định kiếp kế tiếp của con. Tuy nhiên khi con giáng thế vào một thân xác, con thường đánh mất nhận thức này. Rất nhiều trẻ nhỏ vẫn giữ được một nhận thức nào đó về thời điểm giữa hai cuộc đầu thai, nhưng khi nó lớn lên nó thường sẽ quên mất hết. Cho nên điều xảy ra là tầm nhận biết của con nay bị giới hạn trong những gì con thấy được qua phin lọc của cỗ xe 4 tầng.

Một lần nữa, cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết, và về mặt kỹ thuật, ý chí của con luôn hoàn toàn tự do. Nhưng trên thực tế, cái Ta Biết chỉ có thể chọn một trong số những chọn lựa mà nó nhìn thấy, và đó là tại sao con cảm thấy bị giới hạn bởi cỗ xe linh hồn. Nhiều người tâm linh cảm nhận được mình là nhiều hơn cái linh hồn này, và họ cảm thấy họ có khả năng chọn lựa tốt hơn, tuy nhiên họ không thể – trong ý thức – hình dung hay chấp nhận các chọn lựa mở ra cho họ, và vì thế họ bị kẹt lại. Điều này có thể khơi lên một cảm giác vô vọng. 

Nhưng cái hay của giáo lý Ta Biết là cái Ta Biết KHÔNG phải là linh hồn. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là nó có khả năng tự phóng chiếu ra bất cứ nơi đâu nó muốn. Bất kể trình độ nhận biết của linh hồn là gì, cái Ta Biết luôn luôn có sự lựa chọn là nó có thể ngưng tự đồng hóa toàn diện – một cách cố tình – với cỗ xe 4 tầng. Lúc đó con sẽ có thể tự chiêm nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là tuy con có ý thức, nhưng con không chiêm nghiệm thế giới qua phin lọc của cỗ xê linh hồn nữa. Con nay chiêm nghiệm rằng con là nhiều hơn linh hồn.  

Một khi con bắt đầu có khung sườn đó, con sẽ ngừng tự đồng hóa với cỗ xe 4 tầng. và điều này sẽ giúp con gạt bỏ nhiều ảo tưởng của tâm thức linh hồn.  Khi con cũng vứt bỏ năng lượng của cỗ xe linh hồn, con sẽ làm sáng tỏ và mở rộng tầm nhìn của con, có nghĩa là con sẽ lần hồi nhìn thấy được sứ vụ thiêng liêng mà cái Ta Biết đã thảo ra trước khi đầu thai. Nói cách khác, cho dù linh hồn con có nhận biết thấp đến đâu đi nữa trong những kiếp trước, con sẽ luôn luôn có sự chọn lựa để vươn lên tới mức nhận biết toàn diện mà cái Ta Biết đã đạt được. Nghĩa là con sẽ luôn luôn có khả năng khám phá và hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con – nếu con áp dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã cho con.   

Điều ta muốn nói là khi con phân biệt được cái Ta Biết với cỗ xe 4 tầng, con sẽ thấy rằng chính cái Ta Biết mới là “người” chọn lựa. Cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thực sự không phải là trụ sở của quyền tự quyết (trừ khi con định nghĩa linh hồn bao gồm cả cái Ta Biết), và chức năng của linh hồn là để hạn chế các chọn lựa mà cái Ta Biết có thể thấy hay mường tượng trong khi đầu thai.

Cũng giống như con đang bước đi trong một toà nhà tối om với một chiếc đèn pin nhỏ xíu và con bước tới hai cánh cửa. Tất nhiên con sẽ nghĩ con phải đi qua cửa này hay cửa kia. Nhưng giả sử có một cánh cửa thứ ba và một cánh cửa thứ tư mà con không nhìn thấy. Chỉ khi nào con mở rộng tầm chiếu của đèn pin thì con mới sẽ thấy được hai cánh cửa kia.

Cho nên khi con khám phá con đường tâm linh, nhiệm vụ đầu tiên của con là sắp đặt lại nhân cách vỏ ngoài và ý thức tự quyết của con cho đứng thẳng hàng với sự nhận biết rộng lớn hơn và sự chọn lựa sâu xa hơn của cái Ta Biết. Một khi nhân cách và nhận biết đã phù hợp với cá thể đích thực của Ta Biết, con mới có thể bắt đầu xây tiếp để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng và thể hiện khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cũng có thể nói, nhiệm vụ hàng đầu của con là khiến cho cái Ta Biết ý thức được nó thực là ai, thay vì cứ tưởng nó bị giới hạn bởi cỗ xe 4 tầng của nó.   

Con có đề cập đến cảm giác vô vọng và con đã nhiều lần chọn là con sẽ “không là”. Đây là điều mà nhiều người tầm đạo cũng gặp phải, bởi vì đó là một phần không thể thiếu của con đường tâm linh. Ta sẽ giải thích tại sao.

Trong suốt nhiều kiếp trước, đa số con người đã tạo ra một động lượng mỗi khi mình chọn lựa. Nếu con đã chọn một cách phản ứng trong một tình huống nào đó, và nếu con cứ tăng cường chọn lựa này suốt nhiều kiếp, con sẽ tạo ra một khuôn nếp phản ứng. Như thày Gautama có giải thích trong một bài giảng then chốt, bất cứ gì mà con tập trung chú ý vào sẽ thấm nhuần một dạng tâm thức nào đó, và nó có thể tạo dựng ra một con “quái vật”. Điều này trong một số giáo lý huyền bí được gọi là “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa”. Lý do có cái tên này là vì quái vật ngụ trên ngưỡng cửa của một mức tâm thức mới. Cho nên để vượt lên khỏi mức tâm thức hiện thời, con sẽ phải đối mặt và khắc phục kẻ ngụ trong những lực đẩy cũ của con, là những lực tàn dư đã buộc chặt con với mức tâm thức hiện thời.

Nếu con so sánh điều này với câu hỏi muôn thuở của Hamlet: “Là hay không là”, chúng ta có thể nói rằng trong những kiếp trước con đã xây dựng một động lượng khi chọn không-là. Để vượt lên mức cao hơn, con phải khắc phục những động lượng này. Hầu hết những người không tâm linh có thể sống cả đời mà không gặp những lực cũ đó, tức “kẻ ngụ” đang chắn ngưỡng cửa. Nhưng đối với người tâm linh thì khác, nếu mình muốn thăng tiến thì nhất định sẽ phải gặp mặt một hay nhiều “kẻ ngụ” của mình. Và khi con làm vậy, trong một thời gian con sẽ cảm thấy sức nặng của động lượng không-là mà kẻ ngụ được tạo ra từ đó.

Động lượng này được tạo bằng những tin tưởng nhị nguyên của tự ngã lẫn những động lượng của năng lượng thấp, và nó sẽ cho con cảm giác là con không thể sống mà không có nó, và con – tức là sự tự nhận biết của con – sẽ chết nếu con “giết con rồng của kẻ ngụ”. Chìa khóa để vượt qua cảm giác vô vọng này là chiêm nghiệm cái biết thuần khiết. Qua đó, con sẽ nhận ra rằng điều tự ngã vừa nói với con là thật. Thật thế, sự tự nhận biết do tự ngã và kẻ ngụ dựng lên sẽ chết đi, nhưng điều này không có nghĩa là CON sẽ chết, bởi vì con không là cỗ xe 4 tầng, mà con là cái TA Biết, tức là cái biết thuần khiết, và con không thể chết khi kẻ ngụ chết.     

Đây là cách đích thực duy nhất để con tách con ra khỏi kẻ ngụ và buông bỏ nó, dù là nó có thể chết vì đói hay nó bị trói lại và được Đại thiên thần Michael hóa giải. Và một khi một kẻ ngụ nào đó bị giết chết, con sẽ cảm thấy một niềm tự do mới sẽ kéo dài cho tới khi con vượt lên tầng kế tiếp và gặp mặt kẻ ngụ kế tiếp. Tuy nhiên, một khi con ý thức được tiến trình này rồi, càng ngày con sẽ càng thấy dễ tránh khỏi sự đồng hóa với kẻ ngụ. Con chỉ đơn giản thấy nó là như thế và buông bỏ nó một cách vô điều kiện.  

Một lần nữa, tự ngã và kẻ ngụ sẽ có tác dụng giới hạn những chọn lựa mà con thấy được, hoặc giới hạn khả năng/ý muốn của con để chọn lựa tốt hơn quá khứ. Cho nên chúng ta có thể nói, cho tới khi nào con vượt qua những động lượng cũ, con sẽ không có tự do chọn lựa. Điều ta muốn nói là mặc dù ta không ngừng bảo con là con có quyền tự quyết, nhưng con nên xét xem quyền tự quyết của con thật sự tự quyết đến mức nào. Và tất nhiên, tự do chọn lựa của con sẽ tùy thuộc vào tầm nhìn, tầm nhận biết và ý niệm cái ta của con.   

Võ thuật và sự phát triển tâm linh

Hỏi: Con xin có một câu hỏi về võ thuật. Việc học võ có chính đáng hay không, nghĩa là không phải để ra tay giết người mà để tự vệ và điều hướng nội khí. Con thắc mắc là khi thày sang phương Đông, thày có học võ thuật hay không. Có lẽ là không, nhưng thày có thể đã gặp các vị sư sử dụng võ thuật như trong phái Thiếu Lâm. Con cũng thắc mắc không hiểu Kung Fu và Tai Chi có phải là những cách chính đáng để sử dụng năng lượng của Thượng đế hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung giam Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chắc chắn là có nhiều sự thật và nhiều giá trị trong một vài hình thức võ thuật. Hẳn là đã có nhiều người tìm được đường tu tâm linh phổ quát bằng cách sử dụng võ thuật như một nấc thang để bước vào một con đường vượt khỏi mọi nhãn hiệu lẫn mọi sự chia rẽ vỏ ngoài như nhu cầu tự vệ, làm chủ xác thân vật lý hay ngay cả điều ngự luồng Khí.    

Nhưng như mọi lãnh vực khác trên địa cầu, võ thuật cũng có thể bị biến chất. Con thấy được hiện tượng này tại cả phương Đông lẫn phương Tây, đặc biệt là tại phương Tây bởi vì hai lý do. Một là võ thuật đã đặt quá nhiều trọng tâm vào nhu cầu tự vệ. Nếu con tiếp cận võ thuật trong tinh thần sợ hãi thì việc tập tành võ thuật có thể khuếch đại nỗi sợ hãi đó và cuối cùng dẫn đến chứng hoang tưởng.  

Thật vậy, một số người đã chuyển dòng khi của họ đi sai hướng và trở nên hoang tưởng, luôn luôn nghĩ rằng có ai đó muốn làm hại mình. Điều này có thể  đẩy ý muốn tự vệ của họ đến cực điểm, khiến họ cho rằng việc tập tành để giết chết một đối thủ qua kỹ thuật võ công là một chuyện chính đáng và cần thiết. Kỳ thực, môn võ thuật không bao giờ được lập ra để gây chết người. Các vị sáng lập chỉ có ý giúp người ta tự phòng thủ mà không giết người, và phương thức này đã vô cùng hiệu nghiệm trước khi có người sáng chế ra súng ống là một phương tiện giết người từ xa.  

Ta mạnh mẽ khuyên nhủ mọi người nên lánh xa các môn võ thuật chỉ dạy kỹ thuật giết người. Một số thày võ đã chụp lấy lời dạy nguyên thủy của võ thuật rồi biến chế thành một phương thức cực đoan. Những người thày như vậy thường bị thúc đẩy bởi sợ hãi, và học trò thì khó lòng nào vượt lên cao hơn tâm thức của thày.  

Lý do thứ hai đã làm tha hóa võ thuật là lòng kiêu hãnh. Điều này thường xảy ra tại phương Tây nhiều hơn là phương Đông mặc dầu ở phương Đông cũng không phải là không có. Tại phương Tây, người ta thường bị cuốn hút vào tinh thần tranh đua hão huyền, và võ thuật bỗng nhiên trở thành một cách tranh đua với người khác để chứng tỏ là mình hơn người. Luồng Khí bị hướng đi sai lối và mọi khía cạnh tiêu cực trong tâm thức người đó bị khuếch đại, đặc biệt là lòng kiêu hãnh và kiêu ngạo như trong trường hợp này. Rất nhiều người tập võ bị làm mồi cho cám dỗ tinh tế này, và rốt cuộc họ sử dụng năng lượng trinh nguyên của Thượng đế để phóng đại ham muốn hư danh của tự ngã. Giản dị, đây không phải là mục đích thực sự của những hình thức võ thuật chân chính.   

Nếu con đi ngược trở về nguồn gốc của bất kỳ phong trào võ thuật nào, con cũng sẽ tìm thấy muc tiêu thực sự của võ thuật không phải là tự vệ. Đó chỉ là một khía cạnh thực tiễn của võ thuật, khởi sinh từ những thời buổi bạo lực và sơ khai hơn. Nhưng mục đích thật của võ thuật là sự tăng trưởng tâm linh qua việc điều ngự các năng lượng của thế giới vật chất và sự hướng dẫn năng lượng tâm linh xuyên qua tâm thân. Mục tiêu thật của võ thuật không bao giờ là làm cho cơ thể trở nên toàn hảo mà là biến cơ thể thành người đầy tớ khiêm nhu, vâng lời, của tâm. Đây mới chính là muc tiêu thực sự của mọi cách tiếp cận võ thuật.

Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều người chưa sẵn sàng ôm lấy con đường tu tâm linh qua những giáo lý thuần túy tâm linh. Đối với những người như thế, đặc biệt là giới trẻ, võ thuật có thể là một lối vào khả dĩ sẽ dẫn họ đến việc khám phá ra đường tu tâm linh một khi họ già dặn hơn. Tất nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ không bị cuốn vào hai đối cực của sợ hãi và kiêu ngạo.  

Riêng ta đã được học hỏi nhiều giáo lý của phương Đông khi ta du hành đến đó, nhưng ta chỉ tập trung vào các giáo lý tâm linh thuần túy chứ không được học võ thuật.

Giáo lý nền tảng về sứ vụ thiêng liêng và quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Giê-su thân kính, con đang cố tìm hiểu xem sứ vụ thiêng liêng nghĩa là gì, chứa đựng những chi tiết gì và liên quan thế nào với quyền tự quyết. Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là con rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến và sử dụng quyền tự quyết của mình?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa đặt một câu hỏi từng làm bối rối rất nhiều người tầm đạo khi lần đầu tiên họ nghe nói về sự kiện là họ có một sứ vụ thiêng liêng hoặc một mục tiêu cao cả hơn. Câu hỏi của con đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cái nhìn của các tôn giáo truyền thống – kể cả đạo Cơ đốc – mô tả Thượng đế như là một sinh thể nóng giận ở trên trời đang áp đặt ý muốn của ngài lên trên con và phán xét con một cách nghiêm khắc nếu con không tuân theo lời ngài như một con rô-bót.   

Để giải quyết bí ẩn, con cần suy ngẫm sự kiện Thượng đế đích thực không hề là một sinh thể nóng giận trên trời. Tuy nhiên, con cũng nên soi gương và nhận ra rằng hầu hết mọi người đều mang một sự mâu thuẫn nội tâm về sứ vụ thiêng liêng của mình. Chẳng hạn, con hãy đọc lại chính câu hỏi của con:

“Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến bằng cách sử dụng quyền tự quyết?” 

Con thấy chăng là có nhị nguyên được ngụ ý trong đó, tức là có một tin tưởng vi tế rằng nếu con tuân thủ sứ vụ thiêng liêng của con thì nó sẽ tước mất quyền tự quyết của con và biến con thành rô-bót? Nhưng ai đã thảo ra sứ vụ thiêng liêng chứ? Tất nhiên là con đó! Làm thế nào con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con? Bằng cách con chọn lựa với toàn quyền tự quyết của con!

Đồng ý là con có nhận được sự trợ giúp của các vị thày tâm linh của con, nhưng thày tâm linh đích thực không bao giờ ép buộc con chọn lựa như thế nào. Các thày chỉ trình bày cho con một số sáng ngộ có thể giúp con chọn lựa tốt nhất mà thôi. Cho nên sứ vụ thiêng liêng của con hoàn toàn thể hiện quyền tự quyết của con, vậy thì làm sao việc tuân theo có thể biến con thành người máy rô-bót được đây? Nhưng điều mà câu hỏi của con bộc lộ ra một cách trung thực là, cũng như đối với rất nhiều người khác, có một sự mâu thuẫn giữa ý muốn cao xa và ý muốn trước mắt của con. Vì vậy, câu hỏi thực sự mà con cần suy ngẫm là liệu cái ý muốn mà con có ngay bây giờ – ý muốn ý thức của con – có thật tự do, có thật tự quyết hay không?

Đối với hầu hết mọi người khi đi xuống hiện thân, họ quên hết tất cả cuộc sống của họ trước đó, kể cả về sứ vụ thiêng liêng. Khi lớn lên, họ chịu ảnh hưởng của gia đình và xã hội khiến họ xây dựng một số kỳ vọng về cuộc đời, và những kỳ vọng này có thể đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của họ. Chẳng hạn, đa số phải chịu áp lực từ bên ngoài khi có người chung quanh, kể cả chính gia đình họ cũng như một số cơ chế trong xã hội, muốn kiểm soát và kềm giữ họ trong những khuôn khổ nhất định. Ta có thể bảo đảm với con rằng sứ vụ thiêng liêng của con không hề định ra là mục đích tối thượng trong kiếp này của con là trở thành một kẻ tiêu thụ gương mẫu, luôn luôn muốn có nhiều sở hữu hơn, nhiều thoả mãn tình dục hơn, nhiều danh giá hơn từ một xã hội vốn ưa chuộng sự hời hợt. Và sứ vụ thiêng liêng của con cũng không hề bảo con phải ở lại trong nhà tù mà giai cấp thượng lưu cai trị đã định ra cho con – hay ngay cả giai cấp cai trị của tôn giáo bảo con là một kẻ tội lỗi khốn nạn sẽ không bao giờ thực hiện được những việc mà Giê-su đã làm.

Trái lại, đa số người tâm linh đều có một sứ vụ thiêng liêng nói rằng mình sẽ thách thức hiện trạng của mình bằng cách chứng tỏ là mình có thể sống tâm linh hơn ngay cả trong một xã hội hiện đại, khoa học, duy vật và hoài nghi. Vậy thì cái gì thực sự thúc đẩy con chạy theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài như rô-bót chứ? Phải chăng đó là sứ vụ thiêng liêng hay là tiêu chuẩn của xã hội, tiêu chuẩn của thế gian – mà ta từng gọi là “Ma-môn”? Hẳn con có nhớ, ta từng nói rõ là con không thể phục vụ hai chủ, con không thể cùng một lúc phục vụ Thượng đế – như là biểu tượng của sứ vụ thiêng liêng – lẫn Ma-môn – như là biểu tượng cho các tiêu chuẩn mà thế gian áp đặt lên con. Có thể nói, sứ vụ thiêng liêng của con không phải là một tiêu chuẩn vỏ ngoài mà là một chuẩn mực nội tâm, trong khi tiêu chuẩn của xã hội thì rõ ràng đến từ ngoài.

Hầu hết mọi người đều từng trải nghiệm một số tình huống khi họ bị cảm xúc choáng ngợp đến độ họ không thể suy nghĩ tỉnh táo, rồi họ lấy những quyết định mà sau này họ hiểu ra là không tối ưu. Lý do là vì sự dính líu, sự dính mắc của con đối với tình huống đó đã dựng lên một bức màn che phủ tâm con và ngăn cản con suy nghĩ tỉnh táo. Y như thế, việc bước vào xác thân vật lý cũng giống như con bước ra đằng sau một bức màn vậy, khiến con không thể nhìn cuộc sống một cách khách quan và tỉnh táo như khi con còn ở ngoài thân xác. Điều ta muốn nói là vào lúc con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con, con không bị bức màn hiện thời của con che chắn.    

Chắc chắn việc sử dụng quyền tự quyết phải dựa trên nền tảng một viễn kiến tối ưu về mọi chọn lựa và mọi hậu quả có thể có. Vì vậy khi con thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã chọn lựa một cách tự do hơn so với ngay bây giờ, bởi vì giờ đây con bị che chắn phần nào bởi bức màn mà con đã dựng lên trong kiếp này. Khi nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con như có trong tay cái kim chỉ nam sẽ giúp con nhìn xa hơn những dính mắc tình cảm cùng kỳ vọng ngắn hạn, hầu con quyết định tốt hơn trong một viễn quan tổng thể rộng lớn. Ngược lại, nếu con chỉ hành xử theo ý thích nhất thời mà không suy xét đến hậu quả dài hạn, thì thật sự con không đang sử dụng quyền tự quyết của con, bởi vì nếu viễn kiến của con bị che lấp, làm sao con có thể thực sự tự quyết?

Nói vậy rồi thì ta cũng phải nói rõ rằng sứ vụ thiêng liêng KHÔNG PHẢI là cái áo tù bó chặt tay chân con. Đi theo sứ vụ thiêng liêng không có nghĩa là toàn bộ đời con được vạch sẵn trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Trái lại, mọi sự việc trong đời con đều xoay quanh quyền tự quyết của con, cho nên sứ vụ không được thảo ra để bảo con phải làm gì. Con chỉ có thể phát triển qua những quyết định mà con lấy, và toàn bộ mục đích của sứ vụ là đưa con vào một số tình huống sẽ giúp con lấy những quyết định tốt nhất, tức là những quyết định sẽ cho con quyền năng khắc phục những tin tưởng gây giới hạn của con để tự do biểu đạt tiềm năng vô biên của con trong một thế giới đầy hạn chế.    

Ở trung tâm sứ vụ thiêng liêng là những bài học mà con cần học trong kiếp này, là những bài học thích ứng với cả sứ mạng dài hạn khi con bước vào vũ trụ vật chất, lẫn sứ mạng ngắn hạn khi con vươn lên trên những hạn chế nhị nguyên mà con đã chấp nhận cho con. Mục đích tổng thể là giúp con đạt được tự do biểu đạt cá thể và tiềm năng thiêng liêng của con. Tuy nhiên để thực hiện điều này, con phải vượt qua các hạn chế hiện thời của con, và con sẽ chỉ làm được chuyện này khi con nhìn ra một cách ý thức rằng các hạn chế đó đều không thực, và con quyết định buông bỏ chúng.

Bất cứ hành giả tâm linh trung thực nào cũng biết là có một thế lực trong tâm lý mình luôn kháng cự lại tăng trưởng, kháng cự lại thay đổi – mà người ta thường gọi là tự ngã. Thế lực này sẽ tìm cách khiến con né tránh mọi công việc khó khăn, nó sẽ muốn con đi theo con đường trơn tuột, dễ dãi nhất. Con đường này ta từng gọi là con đường rộng dẫn đến hủy diệt, và đó không là con đường hẹp dẫn đến phát triển tâm linh. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã dự tính xu hướng này, kể cả những lần trong tiền kiếp con từng rơi vào bẫy của nó. Vì thế nhiều người thiết lập sứ vụ thiêng liêng của mình với ý định tự buộc mình phải kinh qua một số tình cảnh – và phải kinh đi kinh lại nhiều lần – hầu ép mình phải đối mặt với những bài học mà mình cần học.

Hiển nhiên những điều này sẽ không dễ chịu chút nào một khi con đầu thai trong thân xác và quên mất là chính mình đã mong muốn những hoàn cảnh khó khăn đó. Con sẽ thường tự hỏi tại sao con cứ thu hút cùng những vấn đề hoài hoài, và con sẽ có xu hướng tin theo tự ngã bảo rằng các vấn đề đó không phải là lỗi con, và con phải trốn né thay vì đương đầu và học bài học. Cho nên đúng là trong sứ vụ thiêng liêng của nhiều người có một yếu tố bó buộc, bởi vì khi con đứng cao hơn tấm màn của thế gian, con thừa biết rằng chuyện trốn chạy thật quá dễ dàng khi mình bị tấm màn che mắt. Tuy nhiên, một khi con đã hiểu được cốt lõi vấn đề, liệu con còn nói được là sứ vụ thiêng liêng đi ngược lại quyền tự quyết của con không? Hay là sứ vụ thiêng liêng thật ra đang cố ngăn con bị khuất phục bởi ý muốn nhất thời, nhị nguyên và ích kỷ của tự ngã?   

Vậy sứ vụ thiêng liêng gồm chứa những chi tiết gì? Đây là một chuyện rất cá nhân, nhưng đối với hầu hết mọi người, phần lớn sứ vụ là nhằm quân bình những nghiệp quả mà con mang với một số người. Cho nên sứ vụ nêu rõ con sẽ đầu thai với những ai trong gia đình, những ai làm phối ngẫu và những ai mà con sẽ gặp trong kiếp này. Nhưng con cần lưu ý, mục đích chủ yếu ở đây là cân bằng nghiệp quả, tức là trên hết con cần tha thứ hoàn toàn cho những người đó và thiết lập một mối quan hệ yêu thương. Nói cách khác, mục đích thực sự là bằng cách giải thoát người khác, chính con cũng sẽ tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc nghiệp tạo với họ.

Cho nên mục đích khi con gặp một người nào đó là để học hỏi một bài học và quân bình nghiệp quả với họ. Sứ vụ thiêng liêng không nhất thiết sẽ nói rõ con phải quân bình thế nào, phải có loại quan hệ nào với họ, hay liệu quan hệ đó có phải kéo dài suốt đời hay không. Chẳng hạn, điều rất thường xảy ra là khi hai người gặp nhau, sự ràng buộc nghiệp tạo mà họ có với nhau sẽ khiến họ bị thu hút mạnh mẽ – và điều này chỉ cho thấy cả hai đều mong muốn giải quyết nghiệp quả và được tự do. Nhưng nếu hai người đó khác giới tính – hay cùng giới tính trong thời buổi này –họ thường cho rằng lực hấp dẫn đó có nghĩa là họ phải có quan hệ tình dục với nhau.

Trong chiều dài lịch sử, chuyện này đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau khi nó tạo ra những mối quan hệ nơi cả hai người đều cảm thấy mình bị kẹt cứng. Nó cũng đã khiến cho vô số quan hệ bền vững bị đổ bể chỉ vì một bên cảm thấy mình phải chạy theo đối tượng cám dỗ nghiệp tạo mới nhất. Con có thấy chuyện gì xảy ra khi con người bị đui mù bởi tấm màn của hiện thân vật lý rồi cứ thế chạy theo những kỳ vọng phàm phu của mình và khởi sự những quan hệ mới trong khi mình có thể cân bằng nghiệp quả của mình một cách khác? Con có thấy là một số người cứ nhảy từ quan hệ này sang quan hệ kia mà không thực sự học được bài học mà đáng lý họ phải học? Trong mỗi quan hệ mới, họ cắm đầu đuổi theo giấc mộng quan hệ lý tưởng, nhưng thực tế là họ sẽ không bao giờ có được quan hệ lý tưởng khi nào họ chưa học được bài học mà họ cần học.  

Điều ta muốn nói ở đây là sứ vụ thiêng liêng của con có thể định rõ con sẽ gặp và quan hệ với ai đó để cân bằng nghiệp quả, nhưng sứ vụ có thể không nói rõ là con phải có quan hệ vật lý, tình dục với họ. Ngược lại là đằng khác, quan hệ tình dục nhiều khi lại khiến con gây thêm nghiệp quả, bởi vì ngay sau khi tuần trăng mật chấm dứt, nghiệp quả cũ sẽ khiến cho cả hai người khó lòng thuận hòa với nhau trong một quan hệ truyền thống. Rất có thể cả hai sẽ cảm thấy mình bị kẹt cứng rồi đổ lỗi cho nhau, và điều này đi ngược lại đòi hỏi là phải tha thứ và giải phóng cho nhau. Và như vậy, một quan hệ được dự định là sẽ giải phóng cả hai bỗng nhiên trở thành một sợi dây buộc cả hai lại chặt hơn nữa.

Đương nhiên là giữa con người với nhau có rất nhiều hình thức quan hệ khác nhau, và có khi con sẽ cần kết hôn với một ai đó để cân bằng nghiệp quả với họ – bởi vì trong một mối quan hệ cam kết với nhau, con sẽ khó lòng hơn trốn chạy bài học của con. Tuy nhiên, ta muốn đưa ra hai điểm này cho con suy ngẫm:

  • Trong sứ vụ thiêng liêng luôn luôn có chỗ để con chọn lựa. Con có thể mang nghiệp với một người nào đó nhưng thường con sẽ có nhiều cách để cân bằng nghiệp quả với họ. Thật sự là nếu ngay khi gặp họ mà con tha thứ một cách toàn diện, thì rất có thể con sẽ không cần tiếp tục quan hệ với họ nữa.
  • Bằng cách bước ra khỏi các kỳ vọng thế phàm của con – là tấm màn đang che mắt con – và kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ có được một tầm nhìn sáng rõ hơn sẽ giúp con tránh được rất nhiều lỗi lầm trong thế giới vật lý. Con có thể tránh một số hành vi mang nặng hậu quả vật lý, và thay vào đó, con học bài học và cân bằng nghiệp quả trước khi nghiệp chướng thị hiện qua hình thức một tình huống vật lý mà con sẽ khó lật ngược hơn nếu nó đã lỡ thị hiện. Và con sẽ tránh được chuyện phải kinh đi kinh lại cùng một vấn đề hoài hoài.    

Một cách thiết thực để tránh lao vào những tình huống mà người khôn ngoan sẽ tránh như đỉa, là học được thói quen lùi lại một bước trước khi lấy những quyết định quan trọng. Con hãy xem xét những dính mắc của con đối với một tình thế nào đó – liệu con có cảm thấy mình bị thôi thúc giống như mình bị bó buộc phải làm một điều gì, như mình không có chọn lựa nào khác? Thường là sau khi phạm lỗi lầm to lớn, người ta hay thốt lên: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác!” Sự thật là con LUÔN LUÔN có nhiều hơn là một chọn lựa, nhưng vì con đã cho phép tình thế choáng ngợp con, con chỉ thấy được một chọn lựa mà thôi.

Bằng cách lùi lại một bước trước tình huống trong ý thức và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ tránh được hình thức mù quáng tâm linh đó. Chỉ khi nào con thấy rõ là con có nhiều hơn một chọn lựa thì con mới có thể chọn lựa tự do. Con KHÔNG THỂ chọn lựa tự do nếu con nghĩ con chỉ có một chọn lựa duy nhất.

Thật ra nếu con khôn ngoan, con sẽ không bao giờ bước vào một mối quan hệ mật thiết mà không thỉnh cầu trước tiên cho mọi nghiệp chướng được cân bằng và hết sức cố gắng vượt qua mọi dính mắc ràng buộc mà con cảm nhận được. Nếu con cảm thấy không sẵn lòng từ bỏ một mối quan hệ, thì đây là dấu hiệu chắc chắn cho thấy còn có điều gì đó chưa được giải quyết, và nếu con cứ bước tới mà không giải quyết nó thì rất có thể nó sẽ phá hỏng mối quan hệ của con. Người nào tìm cách cứu lấy đời mình sẽ đánh mất nó, nhưng người nào sẵn lòng từ bỏ đời mình để đổi lấy sự tăng trưởng sẽ tìm được một sự sống cao hơn.

Thật ra, chuyện xảy ra rất thường là một mối quan hệ nghiệp tạo có thể ngăn con gặp được người mà con có thể có quan hệ sâu xa hơn. Nhiều người đã chiêm nghiệm chuyện này: khi họ từ bỏ một quan hệ nghiệp tạo – bằng cách hoàn toàn tha thứ cho người kia – thì cơ hội sẽ mở ra để họ tìm được một mối quan hệ tâm linh hơn, sâu sắc hơn. Tất nhiên, điều này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ, bởi vì khi con sẵn sàng buông bỏ bất cứ dính mắc nào với một loại hoàn cảnh nào đó, thì rất thường khi con sẽ mở cửa cho một tình huống tốt đẹp hơn thị hiện. 

Sứ vụ thiêng liêng của con gồm có hai yếu tố chính. Một là những công việc cần phải thực hiện, cụ thể là cân bằng nghiệp quả từ những kiếp trước, và hai là phần hứng thú của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh, là những việc làm, là món quà mà con muốn dâng hiến cho thế gian này. Nhiều người tâm linh cố tình đương đầu với các thử thách nghiệp quả của mình thật sớm trong đời mình, rồi họ cố trả cho xong để được tự do bắt tay vào phần vụ thần thánh của mình, là phần việc sẽ chỉ được mở khóa khi nghiệp quả được cân bằng.  

Vấn đề, dĩ nhiên, là rất nhiều người bị kẹt lại trong phần quan hệ nghiệp tạo – nghĩa là họ gây thêm nghiệp thay vì cân bằng nghiệp – và vì vậy họ không bao giờ tới được giai đọan đóng góp thần thánh. Con có khả năng gia tốc rất mạnh tiến trình trả quả của con bằng cách áp dụng điều ta dạy ở đây, đặc biệt là sự tha thứ đối với tất cả những ai mà con cảm thấy có dây buộc nghiệp quả, tức là tất cả những ai mà con có mối quan hệ không mấy hài hòa. Con hãy tiếp cận mỗi mối quan hệ với thái độ là nó chỉ nhằm giúp con – lẫn người kia – được giải phóng khỏi dây nghiệp hầu cả hai có thể bước tới trong cuộc đời. Và con hãy đừng bao giờ quan tâm nếu người kia không đáp ứng tương tự đối với con. Bởi vì nếu con đã thực sự tha thứ cho họ – nếu con thực sự chìa má kia cho họ – thì con sẽ được giải thoát khỏi quan hệ nghiệp tạo cho dù người kia vẫn khăng khăng bám lấy.  

Con có thể nhanh chóng học cách nhận diện những tình huống gò bó, thiếu tự do khi con muốn đi theo sứ vụ thiêng liêng, và dấu hiệu rõ nhất là khi con cảm thấy căng thẳng và dính mắc. Và mặc dù những dính mắc này luôn luôn đến từ tự ngã, nếu con tự xét trung thực thì con sẽ nhận ra là dính mắc chỉ có quyền năng trên con bởi vì cái Ta Biết của con đã không sẵn sàng nhận trách nhiệm trọn vẹn về đời con. Con cần nhận ra là một mục đích chủ yếu của sứ vụ thiêng liêng là giải phóng con khỏi sự kiểm soát của tự ngã cũng như các thế lực của thế gian. Cho nên tất nhiên, tự ngã sẽ không muốn con phát hiện sứ vụ thiêng liêng của con, và nó tìm đủ mọi cách khôn khéo để cố tránh né chuyện đó. Và đây là những mánh lới thông thường nhất mà nó dùng:

  • Tự ngã cố khiến con bị dính chặt vào các kỳ vọng đời sống mà con đã dựng lên trong kiếp này, hầu con để cho kỳ vọng đó phản lệnh sứ vụ thiêng liêng của con. Có vô số cách để nó ngụy trang mánh này, chẳng hạn khi nó bảo con phải sống đời con theo tiêu chuẩn của gia đình và xã hội.
  • Tự ngã cố khiến con chấp nhận một loạt những hạn chế về những gì mà con người có thể làm, mà qua đó con phủ nhận con là một sinh thể tâm linh. Con phủ nhận con có tiềm năng vươn lên khỏi nghiệp quả cùng các vấn đề tâm lý hầu thể hiện tiềm năng Ki-tô của con.
  • Tự ngã cố khiến con bị vướng mắc vào quan hệ nghiệp tạo đến độ con không thể tha thứ cho người khác hầu con được tự do bước tới và khởi sự phần vụ thần thánh của con.
  • Tự ngã cố khiến con tin rằng các quan hệ khó khăn của con đều do lỗi của người khác, hầu nó có thể ngăn con học được bài học mà CON cần học.
  • Tự ngã cố đánh lạc hướng sự chú ý của con để con đeo đuổi những chuyện của thế gian và không còn thì giờ và chú ý để ngó tới sứ vụ thiêng liêng của con.

Bây giờ chúng ta đã thấy được hai điểm chính đang ngăn chặn con khám phá và đi theo sứ vụ thiêng liêng:

  • Nghiệp quả từ tiền kiếp,
  • Các vấn đề tâm lý chưa giải quyết khiến con cảm thấy dính mắc.

Điều đó có khả năng biến cuộc đời của con – cũng như nhiều kiếp sống sắp tới – thành một cái máy chạy bộ trên đó con sẽ chạy hoài mà không tới đích, và con sẽ không bao giờ khởi sự thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Để phá vỡ chu kỳ này, con hãy làm như sau:  

  • Hãy nhìn trung thực vào đời con và xem xét những vấn đề mà con cứ gặp đi gặp lại hoài hoài. Hãy sẵn sàng nhìn nhận là các vấn đề này đang che giấu một bài học mà con chưa học. Xong hãy quyết tâm học bài học đó.
  • Học một bài học thường có nghĩa là phát hiện một vấn đề tâm lý đang kềm giữ con lại. Vấn đề đó chưa giải quyết vì cho tới giờ con không sẵn lòng xem xét nó. Cho nên hãy xem xét nó ngay bây giờ và làm mọi điều cần thiết để vượt qua, kể cả những hình thức trị liệu thích hợp.
  • Hãy xem xét các niềm hy vọng và giấc mơ cao nhất của con, rồi lượng định xem những giới hạn đang gò bó con trong kiếp này đã khiến con bác bỏ những giấc mơ đó như thế nào, có khi trước cả khi con dám nghĩ tới chúng. Con hãy cả gan vượt qua các giới hạn đó và kết nối với giấc mơ cao nhất của con.
  • Hãy quyết tâm sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh và bài nguyện tràng hạt để thiêu hủy mọi nghiệp quả liên quan đến những tình cảnh cụ thể hay đời con nói chung.
  • Lùi lại và tìm kiếm tầm nhìn cao hơn vượt lên trên mọi dính mắc. Hãy sẵn sàng nhìn vào những gì tự ngã con không muốn con nhìn và những gì chính con cũng không sẵn sàng nhìn. Hãy sẵn sàng nhìn thấy một điều gì đó cho dù nó đòi hỏi con phải thay đổi đáng kể trong lối sống hay cách nhìn của con về cuộc đời. Con có thể sử dụng kỹ thật hoà điệu của ta để có được viễn kiến sáng rõ hơn.

Có thể nói, đời con có hai giai đoạn riêng biệt. Một giai đoạn là cân bằng nghiệp quả, và điều này đòi hỏi con phải sống một cách nào đó – một cách sống chịu ảnh hưởng nặng nề của những tiêu chuẩn trong gia đình lẫn xã hội bởi vì con đã đầu thai trong hoàn cảnh đó do nghiệp quả của con. Một khi con đã đi muốt phần nghiệp chướng nói trên, con mới có thể khởi sự giai đoạn hứng thú hơn của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, con thường phải kinh qua một sự chuyển vọt ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống cũng như lối sống vật lý. Và nếu con còn dính mắc bất kỳ điều kiện nào của giai đoạn trước, thì con sẽ đơn giản không sẵn lòng thay đổi, và như thế tâm ý thức của con sẽ ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng khỏi tầm nhìn của con.

Để tránh cái bẫy này, con cần đánh giá lại cuộc đời con và nỗ lực nhìn xa hơn mọi dính mắc. Một khi con lùi lại một bước để mở rộng tầm nhìn, con sẽ thấy tầm nhìn của con về đời sống cũng như về một hoàn cảnh nào đó thay đổi như trong phép lạ. Đám mây mù bỗng nhiên chẻ đôi ra và con nhìn thấy rõ hơn. Thường khi, cái mà trước kia con tưởng là chọn lựa duy nhất bây giờ hiện ra là chọn lựa dở nhất trong hoàn cảnh đó. Và những chọn lựa mới mà bây giờ con thấy được đều dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Hoặc nữa, con thấy cái mà con tưởng là cách sống duy nhất thật ra không thể đem lại cho con sự tràn đầy mà con thực sự mong muốn. Bây giờ con thấy được nhiều cách khác để đạt sự tràn đầy đó, và do đó con sẵn lòng thay đổi lối sống trong chiều hướng đó.      

Nếu con muốn có những chọn lựa tốt nhất cho đời con, con hãy luôn luôn tìm cách nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con. Hãy chắc chắn rằng con không bị kẹt lại trong giai đoạn “công việc” của sứ vụ thiêng liêng để rồi không bao giờ vào được giai đoạn hứng thú nhất. Sứ vụ thiêng liêng quả thực là người bạn tốt nhất của con, là kim chỉ nam tốt nhất để con tận dụng tối đa kiếp đầu thai này. Và khi nào con còn coi sứ vụ thiêng liêng là một chuyện ép buộc từ một thế lực ở ngoài thì con vẫn chưa thực sự kết nối với nó. Cho nên con hãy lùi lại một bước và nhìn lại một lần nữa – con hãy gõ cửa mà không dính mắc thì cánh cửa sẽ mở ra cho con.

Ghi chú: Sách của Mẹ Mary và quyển sách về sứ vụ thiêng liêng (Fulfilling your Divine Plan) chứa đựng rất nhiều lời dạy về sứ vụ thiêng liêng. Con cũng có thể thực hiện tuần cầu nguyện chín ngày với Đại Chỉ đạo Thiêng liêng để có viễn kiến rõ hơn về sứ vụ thiêng liêng của mình.

Lựa chọn không tạo ra thực tại thay thế

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con chỉ tò mò không biết có hay không những thực tại thay thế (alternative realitites)? Chẳng hạn, con hiện đang làm việc như một nhân viên an ninh, nhưng trong một thực tại thay thế, con có thể là tổng thống. Những thực tại này có thật hay không? Nếu thực tại thay thế có thật, vậy con thực là cái nào? Trong mỗi thực tại thay thế, liệu con có một dòng sống khác, hay là có một dòng sống khác đang sống cuộc đời với tư cách là con?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả tùy thuộc vào con định nghĩa thực tại thay thế là thế nào. Nếu con định nghĩa giống như trong phim hay trong truyện khoa học giả tưởng, câu trả lời sẽ là: nó không có thật. Ngay cả giả thuyết mà một số nhà vật lý lượng tử đưa ra về thực tại thay thế cũng không chính xác. Nói cách khác, nếu con ở trong một tình huống với 10 lựa chọn khác nhau và tình huống này tạo ra 10 thực tại thay thế trong đó có con – hay một hình thức nào đó của con – hiện hữu trong mỗi thực tại, thì điều này cũng không đúng.  

Con thử tưởng tượng trên địa cầu có bao nhiêu người, mỗi người có bao nhiêu lựa chọn mỗi ngày và có bao nhiêu thực tại thay thế được tạo ra chỉ trong một ngày? Mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều có hạn. Một dòng sống được tạo ra với một tâm thức và sự chú ý có hạn. Nếu thực tại thay thế có thực, mỗi thực tại sẽ phải chứa một phần tâm thức và một phần chú ý của con, có nghĩa là dòng sống của con sẽ nhanh chóng hao tổn chất sống đến độ nó sẽ mất hết ý thức bản sắc lẫn cá thể.

Như ngành vật lý lượng tử giải thích, trước khi một nhà khoa học thực hiện một cuộc quan sát, một hạt hạ nguyên tử hiện hữu trong cõi xác suất. Có thể có rất nhiều xác suất khác nhau, thế nhưng khi ông ta thực hiện quan sát, chỉ có một xác suất trở thành hiện thực mà ông nhận biết là một hạ nguyên tử. Ở điểm này, tất cả các xác suất khác đều biến mất (sóng lượng tử co sụp) và thế gian chuyển sang một trạng thái mới. Bây giờ vẫn có một cõi xác suất, tuy nhiên cõi này không còn chứa những xác suất cũ nữa. Thay vào đó có một bộ xác suất mới dựa trên những thay đổi mà cuộc quan sát đã tạo ra.

Một điều rất tương tự như vậy cũng xảy ra trong hoàn cảnh đời sống hàng ngày khi con chọn lựa. Trong một tình huống nào đó, con có thể có 10 lựa chọn mà con có thể chọn. Nhưng khi con chọn rồi, chỉ có một trong số 10 cái đó mới trở thành thực tại được hiển thị, và những chọn lựa kia không còn nữa. Con nay đã tạo ra một hoàn cảnh mới với một số chọn lựa mới mở ra cho con.

Con có thể hiểu điều này khi con suy ngẫm về tầm quan trọng của quyền tự quyết. Con ở trên địa cầu để học hỏi và con học hỏi bằng cách chọn lựa rồi gặt hái hậu quả của những chọn lựa đó. Một trong những hậu quả là nếu chọn lựa của con không phù hợp với quy luật của Thượng đế, con sẽ khiến cho chọn lựa tương lai của con bị hạn hẹp lại. Nếu mà như con nói, tất cả mọi chọn lựa đều tạo ra những thực tại thay thế, thì một chọn lựa sẽ không làm những cái kia biến mất, vậy làm sao dòng sống của con học hỏi được gì?

Sự thật đơn giản là chỉ có một người duy nhất là con, có nghĩa là chỉ có một sinh thể tự nhận biết duy nhất với ý niệm bản sắc đặc biệt mà con đang có ngay lúc này. Đúng là con là nhiều hơn những gì con đang trải nghiệm trong nhận biết ý thức, tuy nhiên cái nhiều-hơn đó không hiện hữu trong một loại thực tại thay thế được mô tả trong phim viễn tưởng. 

Cái nhiều-hơn đó hiện hữu trong một cõi khác, như ta đã giải thích trước đây. Cái Ta Biết của con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện này cư ngụ trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ cũng chính là con, mặc dù trong lúc này con có thể xem mình là cái gì khác hay tách rời khỏi Hiện diện. Dù sao đi nữa, một phần lớn của con đang hiện hữu nơi cõi tâm linh cùng một lúc với cái Ta Biết đang cư ngụ trong thể xác vật lý của con.  

Điều có thể xảy ra là Hiện diện TA LÀ của con có một số cái Ta Biết đang đầu thai cùng một lúc trên địa cầu. Có những cái Ta Biết khác có thể đang hiện thân ở những nơi khác trong vũ trụ vật chất. Vậy trong cái nhìn này, có thể nói là có những phần khác của “bản thân lớn” của con đang hiện hữu trong những thực tại thay thế. Tuy nhiên, những phần khác này là những dòng sống độc lập, và chúng mang những ý niệm bản sắc riêng biệt. Và con thì không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chọn lựa của chúng trong thế gian này.   

Sự thật căn bản là con chỉ có một, tức là chỉ có một sinh thể với một ý niệm bản sắc đặc biệt của con. Con có khả năng mở rộng ý niệm bản sắc này và kết hợp với phần cao thượng của bản thân con, và điều này sẽ thay đổi lớn lao cách con nhìn chính con. Nhưng trong hiện tại và ở ngay đây, con thực sự là con người mà con nghĩ con là – con là con người mà con xem con là.   

Lệ thuộc vào một vị thày tâm linh

Hỏi: Con nghe có người đồng bóng kia bảo rằng học trò tâm linh không nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử bởi vì đệ tử sẽ bị lệ thuộc vào thày. Xin thày cho biết ý kiến?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Về vấn đề con không nên bước vào một mối quan hệ thày/đệ tử, ý tưởng đó cũng có phần giá trị bởi vì một số học trò có thể trở nên lệ thuộc vào vị thày, và ngược lại. Trong cõi vật lý, bất cứ gì cũng là con dao hai lưỡi. Như Thánh kinh được trao cho con người để làm phương tiện phát triển tâm linh, thế nhưng hàng triệu người lại bám chặt vào một cách diễn giải nhất định khiến cho sự phát triển của họ bị chậm lại hay bị thui chột. Điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời là ngay cả các dụng cụ mà các chân sư thăng thiên ban cho con làm phương tiện giải thoát, cũng có tiềm năng trở thành một ngõ cụt nơi con bị kẹt lại ở một mức nào đó thay vì tiến bước kế tiếp trên đường tu.

Nhiều học trò trở thành lệ thuộc vào vị đạo sư của mình. Điều này không bao giờ đem lại kết quả. Tuy nhiên, nếu đệ tử có được một đạo sư chân chính, đạo sư đó sẽ luôn luôn tìm cách giúp đệ tử vượt khỏi mối lệ thuộc. Cho nên ta không đồng ý với lời nhận định chung chung rằng con không bao giờ nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử. Sự kiện một dụng cụ có thể bị lạm dụng không có nghĩa là con phải vứt bò dụng cụ đó.

Con hãy tưởng tượng có chiếc máy bay trực thăng bay đến để cấp cứu con. Chiếc trực thăng đã đáp xuống mái một toà cao ốc ở gần đó. Tuy nhiên để lên được mái nhà, con phải leo hết cái cầu thang. Mặc dù đúng là con không được lệ thuộc vào cầu thang, nhưng cũng đúng không kém là nếu con không leo cầu thang thì con sẽ không thể lên được mái nhà và được cấp cứu. Quan hệ đạo sư/đệ tử quả thực là một cách khả thi để đạt được phát triển tâm linh nhanh chóng, và rất nhiều người sẽ khó lòng đạt được mức tinh tấn đó nếu họ không có một vị thày bên ngoài hay một vị thày nội tâm.        

Chìa khoá cho vấn đề lệ thuộc là cần nhận ra rằng vị thày bên ngoài chỉ đơn giản là một phương tiện sẽ giúp con thiết lập mối liên hệ ý thức với vị thày bên trong, tức cái ta Ki-tô của con.

Hồn là vật chất hay tâm linh, hay cả hai?

Hỏi: Liệu hồn (soul, linh hồn hay tâm hồn) là vật chất, tâm linh, hay cả hai? Hồn bao gồm năng lượng hay vật chất? Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương. Thế nào là cách hay nhất để giao tiếp với hồn? Xin thày giải nghĩa sự khác biệt giữa linh hồn và Tánh linh? Nhiều người có vẻ lẫn lộn cái này với cái kia, hoặc họ nghĩ cả hai chỉ là cùng một thứ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nhìn vào lịch sử loài người, con sẽ thấy một chuỗi dài những xung đột gần như bất tận. Nếu con nhìn kỹ hơn vào các xung đột, con sẽ thấy rất nhiều những xung đột đó bắt nguồn từ những cách hiểu khác nhau về ngôn từ.  

Khi con phối hợp nhận xét đó với các giáo lý của chân sư về tâm thức nhị nguyên, con sẽ hiểu ra là tâm thức này dẫn đến hệ quả là người ta tưởng mình là những thượng đế có khả năng định đoạt cái gì đúng, cái gì sai. Nói cách khác, tâm thức nhị nguyên khiến mỗi người diễn giải ngôn từ theo cách của mình, Và họ cũng tin rằng cách diễn giải của họ là cách đúng duy nhất và mọi cách hiểu khác đều sai. Sự thể này gây ra hiện tượng mà ta gọi là tư duy bi kịch cuồng đại.

Tâm thức đó đem tới hệ quả là một số từ ngữ, với thời gian, đã trở thành gần như vô dụng cho vị thày tâm linh nào muốn sử dụng. Lý do là vì mỗi người gán cho từ ngữ những ý nghĩa khác nhau, và cuối cùng thì mọi người chỉ còn mức tranh cãi xem ai đúng ai sai. Do đó, thay vì lắng nghe một giáo lý cao hơn, họ chỉ lo bênh vực cho giáo lý họ, cho cách dùng từ của giáo lý họ. Và họ bị lôi cuốn vào vòng tranh luận về chữ nghĩa thay vì tìm sự chiêm nghiệm nội tâm vượt khỏi mọi chữ nghĩa. 

Con nhận xét thấy một số giáo lý tâm linh định nghĩa linh hồn một cách thế này trong khi một số khác định nghĩa thế khác. Một số giáo lý dùng từ “linh hồn” mà không có định nghĩa gì cụ thể vì họ cho rằng ai ai cũng đã biết linh hồn là gì rồi. Đó là lý do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã quyết định đưa ra những giáo lý rõ ràng hơn về những thành phần mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn. Mục đích của chúng tôi không phải để quy cho mọi giáo lý khác là sai, mà để đưa ra một cách hiểu chi tiết hơn về các thành phần của cái ta, hầu các hành giả tầm đạo có thể vượt lên trên những cách diễn giải khác biệt về từ “linh hồn”.

Chúng tôi nay giảng dạy là cốt lõi của con người là cái Ta Biết. Như con có thể thấy qua cách trình bày này, cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Vì vậy, nó là tâm linh chứ không hề là vật lý. Cái Ta Biết có thể đi xuống vũ trụ vật chất, nhưng bất kỳ năng lượng nào của cõi này cũng không thể biến đổi nó được. Lý do là vì nó được cấu tạo bằng tâm thức chứ không bằng năng lượng. Như ta đã giải thích trong một câu trả lời khác, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng nhưng được sinh tạo BỞI tâm thức. Cái Ta Biết có khả năng hình thành một hình tư tưởng, phóng chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, khiến cho ánh sáng khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Như ta cũng giải thích trong một giải đáp khác, khi cái Ta Biết đồng sáng tạo như vậy, nó có thể mang bản sắc một sinh thể nối kết, hay nó có thể tự xem nó là một sinh thể tách biệt. Nếu nó đồng sáng tạo với cảm nhận tách biệt, những hình tư tưởng và năng lượng thấp kém mà nó tạo ra sẽ không thể đi lên cõi tâm linh. Vì thế chúng sẽ tích tụ lại trong cái ta thấp, hay phàm ngã, và phàm ngã này với thời gian có thể trở thành một ý thức bản ngã vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với ngã tách biệt mà nó đã tạo ra, nó sẽ không thể buông ngã ra khi xác thân vật lý qua đời. Và như vậy, việc tái đầu thai sẽ trở thành chuyện bắt buộc, vì với đầu thai, cái Ta Biết sẽ có thêm một cơ hội để tự tháo gỡ khỏi ngã tách biệt và đạt được tâm thức Ki-tô – và trong tâm thức Ki-tô đó, nó sẽ tự thấy nó đúng là một phần nối dài của Bản thể Thượng đế. 

Vậy khi con nhìn vào một dòng sống đang đầu thai, con sẽ thấy một tổng hợp của cái Ta Biết với ngã tách biệt. Quả là tổng hợp này sẽ đi xuống xác thân vật lý từ một cõi có rung động cao hơn cõi vật chất. Và đó là tại sao một số giáo lý nói rằng cái đang đầu thai chính là linh hồn, và bởi vì nó đã đi xuống xác thân vật lý từ một cõi cao hơn, họ cho rằng nó xuống từ cõi tâm linh và như thế linh hồn phải được sinh tạo nơi cõi tâm linh.

Con có thể hiểu sâu hơn về điều này bằng cách phối hợp với giáo lý của các chân sư về bốn tầng của cõi vật chất. Điều con hiểu ra bây giờ là cái Ta Biết đi xuống từ Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Cái Ta Biết tạo ra, hay khoác lên, một ngã tách biệt trong cõi bản sắc, rồi nó tạo ra những hình tư tưởng dựa trên ngã này trong cõi lý trí và phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua cõi cảm xúc. Do đó, ngã tách biệt hoàn toàn không tâm linh vì nó đã được tạo dựng trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm.

Vậy khi xác thân vật lý chết đi, ngã tách biệt hiển nhiên không thể đi lên cõi tâm linh vì nó đã được cấu tạo bằng năng lượng của các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc. Và khi cái Ta Biết đồng hóa hoàn toàn với ngã tách biệt, chính nó cũng sẽ không thể vượt lên cao hơn, có nghĩa là giữa hai kiếp hiện thân, cái Ta Biết sẽ “cư ngụ ” – tức là sẽ tập trung khả năng tự nhận biết của nó – ở một trong ba thể phàm nói trên. Vì thế, cái mà con thấy đi xuống đã không đi xuống từ cõi tâm linh – trừ khi con định nghĩa “cõi tâm linh” là bất cứ gì vượt trên cõi vật lý và con không nhận diện rõ ràng ba cõi bản sắc, lý trí với xúc cảm. 

Cho nên con có thấy điểm tổng quát mà ta muốn nói? Phần lớn sự lầm lẫn về linh hồn khởi lên từ sự kiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau, hay không có định nghĩa nào rõ ràng, về linh hồn. Nếu con nói rằng linh hồn được tạo ra nơi cõi tâm linh và vì thế nó là Tánh linh, thì lẽ ra linh hồn phải có thể thăng thiên, và sự đầu thai phải không cần thiết. Và nếu con nói rằng linh hồn là vật lý, thì làm thế nào nó có thể thượng thăng lên cõi tâm linh?

Chúng tôi là các chân sư thăng thiên mong muốn đưa ra một cái nhìn chính xác hơn, đó là: cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn được cấu tạo bởi những thành phần khác nhau – trong đó một số là tâm linh, và một số thì cư ngụ nơi các tầng khác nhau của cõi vật chất. Một khi con hiểu điều này, con sẽ tránh khỏi lẫn lộn.

Vậy dựa trên những điều ta vừa nói, chúng ta có thể thấy cái phần thấp kém của dòng sống của con có mấy tầng lớp. Ở mỗi tầng lớp, con có thể tích tụ một số tin tưởng cùng tâm ảnh dựa trên ý thức tách biệt. Sự tích tụ này đã tiếp diễn từ nhiều tiền kiếp khi con phải phản ứng lại các điều kiện mà con gặp trên địa cầu. Và bởi vì hành tinh này đã bị tác động sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên cũng như các sa nhân đã đầu thai ở đây, có thể con đã bị tổn thương trầm trọng, bị chấn thương trong tiền kiếp. Cho nên con có thể mang theo nhiều năng lượng tha hóa và nhiều tin tưởng gây giới hạn được tích lũy trong bốn “thể” phàm của con.

Hầu cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi phàm ngã – tức là nó ngưng tự đồng hoá với phàm ngã – nó sẽ phải biến hóa các năng lượng thấp và thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Những tâm ảnh và tin tưởng này đều là ảo tưởng, và hầu cái Ta Biết tự giải phóng khỏi chúng, nó sẽ phải ý thức về chúng và lấy quyết định loại bỏ và thay thế chúng bằng những hình ảnh xuất phát từ phân biện Ki-tô. Tuy nhiên, thường thường con sẽ phải khởi đầu bằng cách giảm thiểu khối năng lượng tha hóa, vì chính năng lượng này sẽ gây ra nhiều đau đớn tình cảm đến độ con sẽ không thể phơi bày các tin tưởng nằm bên dưới. Trong trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt, chúng tôi có giải thich điểm này chi tiết hơn và cũng cung cấp những dụng cụ thực tiễn.

Tiến trình mà qua đó cái Ta Biết ý thức được nội dung của tâm tiềm thức (các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc) có thể được xem là một tiến trình của chính con đang giao tiếp với linh hồn.

Có nhiều cách để biến tiềm thức trở thành ý thức, chẳng hạn như thiền định hay ghi nhật ký. Con có thể sử dụng một vài kỹ thuật điều trị tâm lý, và trong số này có một kỹ thuật gọi là “làm việc với đứa bé bên trong”. Một số khác là liệu pháp Gestalt hay liệu pháp EMDR. Kỹ thuật của ta nhằm hòa điệu nội tâm có thể được dùng để giao tiếp với linh hồn. Giản dị, con hãy tưởng tượng con đang sử dụng chính ta hay cái ta Ki-tô của con để làm sợi dây giao tiếp với linh hồn của con, xong con ghi xuống những ý tưởng đến với con trong lúc thiền tập.

Bây giờ ta xem đến câu hỏi này của con: 

“Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương.”

Như ta đã trình bày, con có bốn “thể” phàm hay bốn tầng lớp của tâm. Chúng tạo thành trường năng lượng của con, thường gọi là hào quang. Ta cũng biết là nhiều người tin rằng hào quang bao quanh xác thân vật lý, và có cả những người tin rằng hào quang là do xác thân vật lý tạo ra, tương tự như từ trường do một thỏi nam châm vật lý sản xuất ra – họ tin như vậy một cách sai lầm. Khi con hiểu rõ giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy hào quang không phải do xác thân sản xuất, mà trái lại, trường năng lượng mới sản xuất ra xác thân. Xác thân vật lý chỉ đơn giản là khía cạnh dày đặc nhất của toàn bộ trường năng lượng của con.    

Hiểu vậy rồi thì con thấy rằng chuyện gán ghép linh hồn vào một nơi chỗ cụ thể nào đó trong cơ thể vật lý là hoàn toàn vô nghĩa. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” một cách nào đó thì tất nhiên, con sẽ có thể lý giải nó nằm ở đâu đó, nhưng điều ta muốn nói là không hề có một địa điểm vật lý nào là điểm đi vào hoặc điểm trụ neo giữa ba thể cao hơn của con và xác thân vật lý của con.  

Chúng tôi có giảng dạy về các luân xa, và tất cả bảy luân xa chính yếu đều là những tụ điểm nơi các thể cao hơn của con tương giao với xác thân vật lý của con. Chúng tôi dạy rằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đi vào trước hết một luân xa gọi là Mật thất của Tim, được cho là nằm ngay sau luân xa tim nhưng lại có độ rung cao hơn. Từ đó, năng lượng đi vào luân xa tim trước khi nó lan tỏa ra các luân xa khác.

Chúng tôi cũng có nói là luân xa thứ nhì từ dưới đi lên có tên là luân xa hồn, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả bốn thể phàm của con đều neo trụ ở đây. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” theo một cách nào đó thì con sẽ bảo là linh hồn trụ nơi luân xa này.

Nhưng nếu con cố gắng vươn lên hiểu biết cao hơn, con sẽ thấy rằng tất cả mọi luân xa đều quan trọng cho sự biểu đạt sáng tạo của con trong thế giới vật chất. Mỗi luân xa có những chức năng khác nhau, và mỗi luân xa liên hệ đến những gì con có thể làm với cơ thể vật lý và tâm ý thức của con. Tâm phân tích đường thẳng ham chuộng chuyện phân chia mọi thứ ra thành từng loại riêng biệt, nhưng trên thực tế, tất cả đều chỉ là một, một tổng thể nối kết. Cho nên vừa rồi ta đã cố gắng đưa ra cho con một cái nhìn bớt đường thẳng, bớt phân rẽ và nối kết hơn về toàn bộ bản thể của con.

Loại bỏ cái ác khỏi địa cầu mà không giao chiến với nó

Hỏi: Giê-su Ki-tô yêu dấu, con hoàn toàn yêu thích tất cả những gì con đọc được trong sách của ông Kim cho tới nay, nhưng con có câu hỏi về cái ác. Trong quyển “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You) trang 214, có viết rằng con người không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu. Con hiểu được sự so sánh với một căn phòng nơi mình không thể loại bỏ bóng tối khỏi phòng mà chỉ có thể đem ánh sáng vào phòng (thật là chí lý). Tuy nhiên, không phải là một số phong trào tâm linh cũng nói một điều tương tự về cái ác hay sao? Hay là chúng con (những con người) không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu, mà những bài chú và tâm thức nâng cao của chúng con sẽ đem lại ánh sáng cũng như cơ hội cho các chân sư loại bỏ cái ác khỏi cõi trung giới, và như vậy cũng loại bỏ khỏi cõi vật lý, để lại một khoảng trống mà chúng ta cần lấp đầy với ánh sáng?

Ngoài ra thày cũng có nói là không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên hành tinh này. Con thắc mắc về sự Sa ngã của Lucifer cùng những thiên thần khác đã hiện thân làm người. Không phải là họ có ý định ngăn cản những Đứa con của Thượng đế hoàn thành quả vị Ki-tô và đạt được hợp nhất với Hiện dịên TA LÀ của mình hay sao? Rồi âm mưu đánh phá, không những giới trẻ, mà mọi đứa con của Thượng đế, hình như là một chọn lựa ý thức để sử dụng quyền tự quyết hầu cố tình làm ác (tức là đi ngược lại quy luật của Thượng đế) chứ không nhất thiết là hành vi thiếu hiểu biết. Có vẻ là các Thiên thần Sa ngã đã biết rõ, và bây giờ vẫn biết, họ đang làm gì, và không phải sự vô minh do tâm nhị nguyên đã khiến họ hành xử như vậy. Hiển nhiên là sự suy luận của con có điều gì không đúng, bởi vì thày có nói là không một hành vi xấu ác nào đã xảy ra trên địa cầu. Vậy sự hiểu biết của con thiếu sót chỗ nào trong vấn đề này? Xin cảm ơn thày rất nhiều đã dành thì giờ để làm rõ điều này cho con, con thật biết ơn.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những thông điệp chính trên trang mạng của ta là con người đã rơi vào một trạng thái tâm thức nơi họ nhìn mọi sự qua phin lọc của những đối cực tương đối. Một cặp đối cực đã khiến con người nhìn thực tại một cách méo mó là cặp đối cực thiện và ác.

Như đã giải thích ở nhiều nơi trên trang web này, có những tà lực đang tìm cách đánh lừa nhân loại. Một vũ khí chủ yếu mà tà lực sử dụng là tạo ra hai lực lượng  chống đối lẫn nhau, một tượng trưng cho cái thiện tương đối, và một tượng trưng cho cái ác tương đối. Rồi chúng tìm cách lừa gạt cho con người ủng hộ cái này hay cái kia.

Vì vậy mà con người đã cống hiến cả mạng sống lẫn sức lực của mình để chiến đấu cho những sự nghiệp không bao giờ là chính nghĩa của Thượng đế. Ngay từ buổi đầu đã có một sự nghiệp khởi lên từ hai đối cực tương đối là thiện và ác, và vì vậy không liên quan gì tới chính nghĩa của cái thiện tuyệt đối mà các chân sư thăng thiên theo đuổi.

Vấn đề con thấy suốt các thời đại là nhiều người tâm linh có thiện chí đã cho phép mình bị lôi cuốn vào cuộc xung đột giữa thiện tương đối và ác tương đối. Nhiều người vô cùng tha thiết phụng sự Thượng đế, và họ thấy trên hành tinh có một thế lực đang chống lại ý muốn Thượng đế. Họ suy ra rằng việc chiến đấu chống lại cái ác là một tiếng gọi cao thượng, thánh thiện, và khi làm vậy họ sẽ thăng tiến chính nghĩa của Thượng đế trên địa cầu. Vấn đề ở đây là họ dễ dàng bị đánh lừa khiến họ rơi vào hệ thuyết căn bản của tà lực, đó là: cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Những người này thường hay trở nên cuồng tín, họ phẫn nộ và thù ghét xấu ác. Khi làm vậy, họ khiến cho năng lượng của Thượng đế bị tha hóa. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, các tà lực chỉ có thể sống sót khi chúng lừa gạt cho con người làm tha hóa năng lượng Thượng đế hầu chúng đánh cắp năng lượng đó. Cho nên ngay cả khi con người tưởng rằng mình đang chiến đấu cho chính nghĩa của cái thiện, thì sự tha hóa năng lượng đã thực sự hỗ trợ sự nghiệp của cái ác.

Ta mong rằng qua chuyện ngụ ngôn về việc loại bỏ bóng tối khỏi căn phòng, con người sẽ nhìn xuyên thấu sự lừa bịp này. Sự thật đơn giản là con người là nô lệ của sự chú tâm. Bất kỳ con chú tâm vào điều gì, điều đó sẽ nhận được dòng năng lượng xối qua tâm thức con. Ta không đang nói là con phải nhắm mắt bỏ qua cái ác. Điều ta muốn nói là nếu con tập trung sự chú tâm quá mức vào cái ác, đặc biệt là nếu con giận dữ hay sợ hãi, con đang làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và như vậy con củng cố cho chính những lực lượng mà con đang chiến đấu. Điều này cũng liên quan tới câu nói của ta là con phải khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu.

Câu nói đó chỉ ra rằng con người không thể chiến đấu chống xấu ác mà không bị liên lụy vào xấu ác. Vì thế, con người không thể loại bỏ xấu ác khỏi địa cầu. Tuy nhiên, con người có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ xấu ác. Chìa khóa để thực hiện điều này là con không bám mắc vào xấu ác, và đây là ý nghĩa thực sự của lời dạy về việc giơ má bên kia. Nếu có ai làm hại con và con đáp lại với những cảm xúc tiêu cực hay con tìm cách trả đòn, con sẽ tạo nghiệp chướng với người đó. Khi con chọn lựa như vậy, con khiến cho các chân sư bó tay, không thể nhập cuộc. Nhưng nếu con giữ cho tâm mình không bám mắc và giơ má bên kia, con cho phép chân sư đem lại sự phán xét trên người kia. Như vậy cuối cùng sẽ loại bỏ được bóng tối khỏi địa cầu, trong khi không một nỗ lực nào với cái tâm nhị nguyên sẽ loại bỏ được bóng tối mà sẽ chỉ tăng cường thêm bóng tối.

Một trong những cách hay nhất để trở thành hiền lành như bồ câu là nhận ra rằng cái mà người ta nhanh nhẩu gán cho là xấu ác, thật sự khởi lên từ vô minh. Một lần nữa, có sự khác biệt rất tinh tế ở đây. Một đằng, con nói khá đúng khi con bảo rằng có nhiều tà lực cũng như nhiều người đã cố tình nổi loạn chống lại quy luật và ý muốn của Thượng đế. Họ biết rõ họ đang vi phạm quy luật Thượng đế và họ cũng vi phạm luật tự quyết khi họ thao túng con người.   

Từ một góc độ nào đó, thật không sai khi gọi các hành vi này là xấu ác. Thật ra, ta cũng đã dùng thuật ngữ này ở một vài nơi trên trang web này. Dùng từ “xấu ác” không sai vì nó phản ánh một mức hiểu biết, một mức tâm thức nhất định. Nó cũng phản ánh sự kiện ngôn ngữ vốn là một phương tiện tương đối và do đó có thể mang nhiều ý nghĩa.

Tuy nhiên, có một cách hiểu vấn đề cao hơn. Khi Lucifer nổi loạn chống lại quy luật Thượng đế, hiển nhiên là y tự xem mình là đối nghịch của Thượng đế. Nói cách khác, y đã tạo ra một ý thức khoảng cách  giữa y và Thượng đế. Đây là định nghĩa cao nhất của vô minh. Vô minh là một trạng thái tâm thức nơi con không nhận ra rằng con đã được Thượng đế sinh tạo, sinh tạo từ bản chất, từ bản thể và từ tâm thức của Thượng đế.

Vô minh gây ra cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế, và ý thức tách biệt này luôn luôn là một ảo ảnh. Không có ngài thì không tạo vật nào được tạo ra. Không có gì được tạo ra mà tách biệt khỏi Thượng đế, và do đó, không một thành phần nào của Thượng đế có thể đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Ý thức tách biệt là hình thức vô minh tối hậu.

Một khi con hiểu điều này, con nhìn ra là cuối cùng, ngay cả việc nổi loạn của Lucifer cũng khởi lên từ vô minh. Trong ý nghĩa tối hậu, vô minh không xấu ác. Đó là tại sao người ta có thể nói – mặc dù ta đồng ý đây là một câu nói khích đối với nhiều người – rằng không có hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra.  

Khi con ngộ ra rằng con là một với Thượng đế và mọi người khác cũng là một với Thượng đế, con thấy dù con có làm gì thì con cũng đang làm trên chính con. Nếu con nhận thấy một hành vi sẽ làm hại con, tự động con sẽ không làm điều đó. Vì vậy, nếu con thực sự thể nhập với thực tế rằng tất cả đều là Thượng đế, con sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì mà con người gọi là xấu ác. Không một sinh thể nào có thể cố tình làm hại chính mình. Cho nên việc làm hại mình, hay làm hại một thành phần của mình, chỉ có thể xảy ra trong vô minh. Nói cách khác, con không thể nào biết rõ sự thật của Thượng đế mà lại có hành vi xấu ác.   

Ta hiểu là những câu nói của ta trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” sẽ có vẻ khiêu khích đối với nhiều người. Ta nói ra những câu này với mục đích rõ ràng nhằm lay chuyển những định kiến của con người về xấu ác. Có thể nói, đáng lẽ ta nên đưa ra nhiều chi tiết hơn trong sách, nhưng một trong những kỹ thuật mà chúng tôi sử dụng là viết sách về một đề tài nào đó nhưng lại chèn vào một vài nhận xét đây đó để giúp cho những học trò bén nhậy bắt ý mà vượt ra ngoài chủ đề của sách. Nhận xét của ta rằng không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên địa cầu là một lời gợi ý loại đó, và sự kiện con đã bắt được cho thấy con là một học trò nhạy bén đã sẵn sàng hiểu sâu hơn.   

Như ta có nói trước đó, nhiều người bị lừa gạt vào cuộc chiến đấu cho một sự nghiệp mà họ tưởng là chính nghĩa của Thượng đế nhưng thật sự chỉ là sự nghiệp của những kẻ chống đối Thượng đế. Người ta thường xét đoán người khác một cách quá vội vã dựa trên một cái chuẩn vỏ ngoài. Trong nhiều trường hợp, chuẩn vỏ ngoài này khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên, và do đó nó có thể khác xa, hay hoàn toàn đối nghịch, với chuẩn đích thực của tâm thức Ki-tô. Chỉ có tâm thức Ki-tô toàn vũ mới phán xét công minh. Tâm này không phán xét dựa trên dáng vẻ bề ngoài như con người còn kẹt trong tâm nhị nguyên tương đối vẫn làm.

Ki-tô không phán xét con người và gán cho họ là xấu hay ác. Tâm thức Ki-tô biết rõ mọi con người đều là con của Thượng đế và vì vậy đều có tiềm năng tìm lại bản sắc chân thực của mình. Một sinh thể Ki-tô hoá sẽ không bao giờ phán xét bất cứ ai. Con có thể phán xét một hành vì hay một quan điểm là nó thuộc về Thượng đế hay đối nghịch lại Thượng đế. Đó là phán xét công minh, khác hẳn với những định giá mà con người thường làm.

Để thực sự phụng sự chính nghĩa của ánh sáng, con phải vươn lên khỏi các phán xét tương đối phát xuất từ tâm nhị nguyên. Con làm vậy bằng cách trở nên khôn ngoan như rắn và hiền lành như bồ câu. Một dụng cụ hữu ích để vươn khỏi tâm nhị nguyên tương đối chính là giáo lý nói rằng mọi hành vi mà con người gọi là xấu ác đều khởi lên từ vô minh. Thật ra, rất nhiều hành vi mà con người gọi là tốt thiện cũng khởi lên từ vô minh.

Một lần nữa, chìa khóa cho tinh tấn tâm linh đích thực là vươn lên trên tâm nhị nguyên tương đối và thấy đước sự thật của tâm thức Ki-tô. Sự thật này sẽ không làm sao để vừa vào bất cứ cái hộp tư duy nào do con người tạo ra.  Trong nhiều trường hợp, sự thật của Ki-tô sẽ không để vừa trong hộp tư duy mang nhãn hiệu “ác” lẫn hộp tư duy mang nhãn hiệu “thiện”. Cho nên cách duy nhất để biết sự thật của Ki-tô là bước ra ngoài cái hộp!

Ghi chú: Bạn cũng có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ cái ác bằng cách sử dụng các bài chú và bài thỉnh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt.

Khái niệm “tánh không” và “vô ngã” trong đạo Phật

Hỏi: Xin thày giải thích ý nghĩa thực sự của các khái niệm trong Phật giáo về “tánh không” và “vô ngã”. Đó có thật là những điều đức Phật Gautama đã dạy?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Cả hai khái niệm mà con nói đến đã được khai triển sau khi đức Phật Gautama nhập diệt. Vì vậy không hoàn toàn chính xác là đức Phật đã giảng dạy những khái niệm này như được tìm thấy hiện nay trong rất nhiều giáo lý của đạo Phật. Tuy nhiên, đức Phật có giảng dạy những khái niệm tương tự như tánh không và vô ngã.

Như ta có trình bày suốt trang mạng này, vấn đề thực sự trên hành tinh địa cầu là con người đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con người bị rơi xuống tâm thức này vì đã ăn phải trái cấm, là biểu tượng cho một trạng thái tâm thức nơi tất cả đều có vẻ tương đối. Điển hình là khái niệm thiện và ác, có nghĩa là thiện và ác tương đối với nhau. Ở cốt lõi tâm thức này là cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của mình, cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Chính cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn tâm linh của mình là nguyên nhân thực sự của mọi khổ đau. Khi dòng sống bắt đầu mất liên lạc với cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, nó đã phải dựng lên một loại ngã mới, một giả ngã, để lấp đầy khoảng trống vừa được tạo ra. Giả ngã này, thường được gọi là tự ngã hay tâm nhị nguyên, là nguyên nhân của mọi khổ đau mà dòng sống kinh nghiệm. Cũng chính cái ngã này đã làm nẩy sinh rất nhiều ý nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn, phiền não, dẫn đến đau khổ cho dòng sống.  

Mục đích của đường tu tâm linh là vượt qua giả ngã hầu dòng sống có thể tự do hợp nhất với cái ta tâm linh. Và đây là ý nghĩa thực sự của khái niệm vô ngã. Khi dòng sống đạt được trạng thái tâm thức này, nó đã vượt qua và bỏ lại cái giả ngã đã khiến nó cảm thấy tách rời khỏi cội nguồn tâm linh của nó.  

Trong trạng thái tâm thức cao hơn này, dòng sống nhận ra là nó được cấu tạo bằng chất liệu cơ bản của Thượng đế, hoặc như đức Phật sẽ nói, tất cả đều là Phật tánh. Dòng sống nhận ra sự vô nghĩa khi nghĩ rằng mình có thể có sự hiện hữu, hay một ý thức bản ngã tách biệt khỏi nguồn cội tâm linh.    

Khi đó, dòng sống không còn ý thức bản sắc như bị tách rời khỏi nguồn cội, và đây là trạng thái vô ngã. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi ý thức cá thể (individuality) hay bản sắc (identity). Cá thể đích thực của dòng sống được trụ neo nơi cái ta tâm linh, và cá thể đích thực này sẽ không mất đi khi giả ngã được từ bỏ. Kỳ thực, chỉ sau khi dòng sống đã vượt qua tự ngã phàm nhân thì nó mới có thể bắt đầu biểu hiện được cá thể đích thực của nó.

Ngoài ra còn có một khái niệm cao hơn nữa về vô ngã, là khi dòng sống cá biệt sẽ cuối cùng đạt tới hợp nhất với Thượng đế, một sự hợp nhất cao độ đến nỗi dòng sống chọn trở về tâm thức mà đạo Phật gọi là Niết bàn (Nirvana), mà ta gọi là cái Tất Cả. Dòng sống cá biệt lúc đó sẽ tự nguyên buông bỏ cả cá thể của mình để trở về trạng thái Là thuần khiết mà từ đó nó đã tuôn ra. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không mấy hữu ích đối với hầu hết mọi người đang đầu thai trên địa cầu vì họ còn rất xa mới có được lựa chọn hợp nhất với Tất Cả.  

Khái niệm về tánh không cũng có thể được hiểu ở những mức độ khác nhau. Cao hơn cả, tánh không có nghĩa là trạng thái Là thuần khiết, cái Tất Cả, cái không thị hiện nơi không còn bất cứ hình tướng hay biểu hiện nào.

Ở tầm mức cá nhân, tánh không có nghĩa là trạng thái tâm thức khi mình đã vượt qua tự ngã phàm nhân. Bằng cách vượt qua tự ngã, dòng sống chiêm nghiệm mọi ý tưởng và cảm xúc phiền não nẩy ra từ tự ngã đều trở nên im lặng.  Như vậy, dòng sống chứng nghiệm một trạng thái tự do, giải thoát khỏi tiếng ồn của trí thể và cảm thể, một trạng thái trống rỗng không còn tiếng ồn của tự ngã.

Một lần nữa, đây không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi cá thể, mọi nhận biết hay thậm chí cả những ý tưởng và cảm xúc. Chỉ đơn giản có nghĩa là dòng sống không còn những ý tưởng và cảm xúc mâu thuẫn dẫn đến khổ đau. Dòng sống nay được tự do chiêm nghiệm những ý tưởng và cảm xúc đích thực nẩy lên từ cá thể mà Thượng đế đã ban cho mình, dẫn đến sự an lạc tối hậu khi mình biểu hiện chính mình, tức là biểu hiện cái ta đích thực.

Ta cũng đã giảng dạy về trạng thái tâm thức này khi ta nói về Nước Trời ở trong con, và khi ta bảo mọi người đừng phán xét. Trong tâm nhị nguyên, con luôn nghĩ là con cần phán xét và dán nhãn mọi thứ theo tiêu chuẩn tương đối của con. Tất nhiên, tự ngã sẽ cả quyết rằng tiêu chuẩn này là một chân lý tuyệt đối, và đây chính là ảo tưởng nằm ở ngay trung tâm tự ngã. Nó khiến cho tâm con luôn luôn phán đoán, là trạng thái ồn ào nội tâm mà đức Phật gọi là cốt lõi của đau khổ. Tánh không thì ngược lại.

Con nên học tập những giáo lý của các chân sư về cái Ta Biết. Các chân sư giảng dạy về tỉnh giác thuần khiết, tức là khi con không còn tiêu chuẩn phán xét nào. Cái Ta Biết chiêm nghiệm mọi thứ như nó là – không có bất cứ phán đoán nhị nguyên nào về giá trị. Và như thế cái Ta Biết nhìn qua tâm Ki-tô. Cái Ta Biết có thể nhìn cuộc sống cách như thế – qua tâm thức Ki-tô – hoặc có thể nhìn cuôc sống xuyên qua phin lọc của tự ngã và ngã vỏ ngoài.

Thế nhưng như ta có nói, không một “người” nào có thể thăng trở lại thiên đàng trừ khi “người” đó đã đi xuống từ thiên đàng, có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên cho tới khi nó trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết mà nó đã đi xuống ở khởi đầu.

Tại sao không có bằng chứng là linh hồn tồn tại sau khi chết?

Hỏi: Tại sao không có bằng chứng không thể chối cãi 100% rằng linh hồn tồn tại sau khi chết, mặc dù các nhà khoa học và tâm lý ngoại cảm đã cố chứng minh từ nhiều năm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Lý do là vì hành tinh địa cầu hiện đang vận hành như là nơi trú ngụ cho nhiều dòng sống với một trạng thái tâm thức nhất định nào đó. Những dòng sống này muốn phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, hoặc họ muốn phủ nhận Thượng đế đang ở ngay đây với họ. Nói cách khác, họ muốn tiếp tục sống trong ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình.

Luật Tự quyết cho phép họ sống trong ảo tưởng này trong một thời gian, và đó là tại sao họ không bị ép buộc phải chấp nhận một thực tại cao hơn qua một bằng chứng bất khả phản bác (plausible deniability). Vì vậy, sẽ không có một bằng chứng tuyệt đối nào được đưa ra về sự hiện hữu của Thượng đế, về thực tế của cõi tâm linh, về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết vật lý và nhiều câu hỏi khác tương tự.

Chừng nào mà con người còn ở trong tâm thức tách biệt thì họ sẽ còn nhìn cuộc sống qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên, và do đó sẽ không có bằng chứng nào 100% không thể chối cãi được. Cách đây 2000 năm khi ta bước chân trên địa cầu, ta đã từng làm cho người chết sống lại, đã chữa lành cho người bệnh tật, đã đi bộ trên mặt nước, đã biến nước thành rượu, thế mà vẫn có những người không tin ta là Đấng Cứu thế.

Sự thật đơn giản là tâm nhị nguyên luôn luôn có khả năng đặt vấn đề và nghi hoặc bất kỳ bằng chứng nào. Bởi vì tâm nhị nguyên tương đối, nó luôn tìm cách tạo ra một khuôn khổ cho phép nó tin những gì nó muốn tin, vì vậy nó cũng không tin những gì nó không muốn tin.

Cho dù ta đã làm nhiều phép lạ, ta vẫn không thuyết phục nổi các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đốc, các luật sĩ và thày tế lễ nơi nhà thờ đạo Do thái. Ta có thể cam đoan với con, dù có đưa ra bằng chứng nào đi nữa thì cũng không thể thuyết phục được những thày thông giáo, những người Pha-ri-si, người Sa-đốc, luật sĩ cùng các thày tế lễ của đền thờ khoa học ngày nay, thậm chí cả đạo Cơ đốc chính thống.  

Con thấy đó, một khi một lớp người thượng lưu quyền lực đã chế ngự một lãnh vực nào đó, thì họ sẽ sử dụng một quy tắc mà chúng ta có thể gọi là đặc quyền đặt vấn đề, đặc quyền nhào nặn các vấn đề theo ý mình. Khi họ chiếm hữu được độc quyền này, và nếu họ chỉ biết suy nghĩ trong tâm nhị nguyên tương đối, thì họ sẽ quy định một khung chuẩn trong đó tất cả mọi tin tưởng căn bản của họ không thể bị bác bỏ. Lý do không thể bác bỏ được là vì các tin tưởng đó đã được định ra để luôn luôn cung cấp cho họ một lối thoát. Họ luôn luôn có cách bác bỏ bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại các niềm tin căn bản của họ, đi ngược lại hệ tư tưởng của họ.

Chẳng hạn, đa số người đạo Cơ đốc chính thống sẽ kịch liệt phủ nhận thực tại của luân hồi, và do đó họ tin vào giáo điều rằng linh hồn không hiện hữu trước khi xác thân vật lý được thụ thai. Thật vậy, nếu con không tin là linh hồn có trước khi thụ thai, con sẽ không thể đưa ra được một chứng cớ không thể chối cãi nào về sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết. Nếu linh hồn có thể tồn tại độc lập với thể xác thì nó có thể tồn tại cả trước khi thể xác thụ thai lẫn sau khi chết.

Tương tự như vậy, giới lãnh đạo khoa học cũng quy định rằng bất cứ gì mà không thể được chứng minh qua dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, thì không thể hiện hữu. Nhưng linh hồn là một thực thể phi vật chất, vậy thì làm thế nào linh hồn có thể được phát hiện bởi một dụng cụ làm bằng vật chất đây? Con cũng biết là một kính hiển vi thông thường không thể phát hiện được hạt hạ nguyên tử cho dù ống kính có mạnh đến đâu. Lý do giản dị là vì kính hiển vi phải sử dụng ánh sáng thấy được, nhưng độ dài của sóng ánh sáng khiến cho hạt hạ nguyên tử không thể nào nhìn thấy được một cách trực tiếp.     

Các dụng cụ mà khoa học đã phát minh ra cho tới giờ không có khả năng phát hiện linh hồn. Có một số dụng cụ phát hiện được năng lượng của linh hồn, tuy nhiên cho tới giờ vẫn chưa được giới khoa học chính mạch chấp nhận.

Như ta vừa trình bày, Thượng đế đơn giản không muốn nhân loại có bằng chứng không thể chối cãi về hiện hữu của ngài hay của cõi tâm linh. Thượng đế muốn đó là một vấn đề đức tin, bởi vì nó sẽ vận hành như một phin lọc, để lọc lựa ra những ai không sẵn sàng nhìn xa hơn tâm nhị nguyên và tự ngã của mình. Dù sao thì đây chính là những người sẽ không thể bước vào Nước Trời, bởi vì khi nào họ còn nhìn với tâm nhị nguyên và tự ngã thì họ không có hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô. Vậy sẽ ích gì để mà chứng minh sự thật của thiên đường cho những người không có hy vọng vào được thiên đường?  

Người ta có thể bảo: “Nhưng nếu có bằng chứng không chối cãi, thì những người đó sẽ đổi ý chứ.” Tiếc thay, điều này không đúng, như được minh chứng qua việc các lãnh đạo tôn giáo đã chối bỏ ta. Đã từng có vô số ví dụ mà qua đó các chân sư thăng thiên đã đưa ra bằng chứng được nhiều người chấp nhận nhưng lại bị một số người khác bác bỏ. Giản dị, những kẻ bác bỏ bằng chứng như vậy vẫn chưa thật sẵn sàng cho con đường dẫn đến quả vị Ki-tô.

Nếu con đọc Kinh thánh, con sẽ thấy ta thường hay nói rằng những ai có tai để mà nghe thì hãy cố nghe. Có tai có nghĩa là mình cởi mở với Sự thật Hằng sống chỉ có thể biết được qua chiêm nghiệm trực tiếp trong tim. Nếu con không cởi mở thì sẽ không có một bằng chứng vỏ ngoài nào có thể mở được tâm con và tim con ra với chân lý. Và khi con không mở tâm với chân lý, thì con sẽ có khả năng, và con sẽ, chất vấn và xé bỏ mọi bằng chứng khả dĩ có được.   

Ta đã thấy những người đứng chứng kiến ta khiến cho một người chết sống lại. Họ biết rõ và tin chắc là người đó đã chết. Họ thấy rõ người đó đứng dậy và bước đi trước mắt họ. Ấy vậy mà họ vẫn không tin là ta có điều gì đáng giá để mà dạy họ. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn, tâm nhị nguyên của họ lại khiến họ ngờ vực, khiến họ lý giải đủ cách, rồi họ phủ nhận điều mà chính họ vừa chứng kiến với đầy đủ giác quan của họ. Người Tây phương có câu tục ngữ “Thấy thì sẽ tin”, nhưng câu này chỉ đúng cho những ai có tâm mở và tim mở. Còn những ai đóng chặt sẽ nhanh chóng tìm được đủ mọi lý lẽ để bác bỏ điều mắt họ vừa nhìn thấy.

Đó là vì sao ta từng nói: “Tô-ma, vì người đã thấy ta, nên người tin. Phúc cho những ai chẳng từng thấy mà đã tin” (John 20:29)

Sự thật phũ phàng là với tư cách là người tầm đạo tâm linh, con cần nhận ra là có những người hiện không ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ có thể được đánh thức về con đường tâm linh, như ta có giải thích ở nơi khác. Vì vậy, con nên thận trọng để không lãng phí thời gian cùng sức lực với những người như thế. Như ta có nói:

“Đừng đem đồ thánh cho chó, cũng đừng ném ngọc quý trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chân và quay lại cắn xé các người.” (Matthew 7:6)

Câu này nghe thật tàn nhẫn, nhưng thực tế là cuộc sống quá ngắn ngủi để mà lo chuyện giúp đỡ những ai không muốn tự giúp mình. Có quá nhiều người khác có tâm cởi mở, và đó là những người mà ta nói đến khi ta bảo các môn đệ của ta hãy lo nuôi nấng đàn chiên của ta. Những người còn lại, đơn giản là con sẽ phải bỏ họ lại đằng sau, như ta đã nói: “Hãy theo ta, và để cho kẻ chết đi chôn kẻ chết.” (Matthew 8:22)

Phật giáo Tây Tạng nói không có hồn, chỉ có tâm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, Phật giáo Tây Tạng nói là không có hồn (soul) mà chỉ có tâm (mind). Cho nên con không hiểu. Có hồn nghĩa là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để bắc chiếc cầu băng qua hàng rào ngôn ngữ giữa các tôn giáo hay các truyền thống tâm linh khác nhau, con cần rất nhiều tế nhị và tâm không dính mắc. Điều được một tôn giáo mô tả bằng một từ có thể chính là điều mà một tôn giáo khác sẽ mô tả bằng một từ khác. Cho nên thật sự, con có thể nói rằng tất cả đều là tâm, vì hồn phát xuất từ đâu chứ? À, nó phát xuất từ tâm. Nó phát xuất từ cái tâm rộng lớn hơn của con, cái Ta Biết, và nó được tạo ra sau khi cái Ta Biết bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Cho nên con có thể nói rằng hồn được tạo ra từ tâm của con.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo là Phật giáo Tây Tạng nói chính xác, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là các truyền thống tâm linh khác khi nói về hồn đều nói sai. Các truyền thống đó chỉ sử dụng một từ khác cho cùng một thứ. Bởi vì thật sự ngay cả trong đạo Phật, cũng phải có một cỗ xe cho tâm đi xuống cơ thể vật lý và tương tác với cơ thể vật lý.

Chân ngã hay đức Thánh linh?

Hỏi: Thế nào là đấng Quan sát Im lặng (Silent Observer), là đấng bay lơ lửng trên bản thân mình, có vẻ tách biệt khỏi mình nhưng lại là toàn bộ con người mình? Đó có phải chăng là Chân ngã, cái Ta cao hơn hay là sự thể hiện của Thánh linh? Làm thế nào tìm lại kinh nghiệm sống này đã bị đánh mất hoặc có vẻ như ẩn giấu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đó là một cách mô tả thật thi vị về một kinh nghiệm tâm linh mà nhiều hành giả chân thành đã có và mọi hành giả chân thành nên cố gắng có. Mỗi tôn giáo hay triết lý tâm linh đều tìm cách mô tả kinh nghiệm này, và có nhiều cách để diễn tả kinh nghiệm này thành lời. Hãy cho phép ta gợi cho con một trong số rất nhiều cách diễn đạt đó.

Như đã giải thích ở nhiều nơi khác trên trang mạng này, bản thể của con là một sự cá thể hóa (individualization) của bản thể Thượng đế. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống như Thượng đế, có nghĩa là bậc cha mẹ tâm linh của con đã lập ra cá thể từ chính bản thể mình, đó là Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên, Thượng đế có hai khía cạnh như được diễn đạt qua biểu tượng Thái cực của Đạo giáo. Hiện diện TA LÀ của con là thái cưc Dương hay nam của dòng sống của con, và cái Ta Biết là thái cực Âm hay nữ.   

Hiện diện TA LÀ của con được tạo bằng năng lượng với một độ rung động rất cao, cao hơn nhiều so với năng lượng trong vũ trụ vật chất. Vì vậy, Hiện diện TA LÀ không thể đi xuống vũ trụ vật chất. Cái đi xuống vũ trụ này là cái Ta Biết, và để làm điều này, cái Ta Biết khoác vào những chiếc áo vỏ ngoài là phàm ngã và xác thân vật lý. Tuy nhiên, thử thách lớn đối với cái Ta Biết là làm thế nào duy trì được sự tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ khi đang chìm đắm trong năng lượng dày đặc của vũ trụ vật chất.   

Nếu cái Ta Biết đi xuống thấp hơn tầng tâm thức thứ 48, nó sẽ chỉ duy trì được mối liên lạc này qua trung gian một khía cạnh khác của chính con, là cái mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là cái ta cao hơn (higher self). Ta sẽ gọi phần này của con là cái ta Ki-tô (Christ self), bởi vì ta là Ki-tô đã được phái xuống với con để chứng tỏ cho con thấy là mỗi con người đều có tiềm năng kết hợp với cái ta Ki-tô này ngay cả khi cư ngụ trong một thân xác vật lý.   

Chìa khóa cho mọi loại kinh nghiệm tâm linh là con phải bước vào bên trong nội tâm và tìm cách liên lạc với cái ta Ki-tô của con. Hầu hết mọi người đều có một mức độ liên lạc nào đó với cái ta này – thường được gọi là trực giác. Tuy nhiên khi con mở rộng mối liên lạc với cái ta Ki-tô, con có khả năng chứng nghiệm Hiện diện TA LÀ của con. Lúc đầu, Hiện diện TA LÀ sẽ có vẻ như một vị quan sát im lặng. Nhưng khi con mở rộng mối liên lạc hơn nữa, con có thể “nghe” thấy cái ta Ki-tô hay Hiện diện TA LÀ của con đang nói chuyện với con dưới dạng lời nói, ý tưởng, hình ảnh hay ngay cả rung động.

Hiện dịên TA LÀ của con là một cá thể của Bản thể lớn hơn mà loài người gọi là Thượng đế. Con có khả năng có được một trải nghiệm trực tiếp về Bản thể của Thượng đế. Điều này đã xảy ra cho rất nhiều người tâm linh khắp các thời đại. Thậm chí chứng nghiệm đó đã xảy ra một cách tự phát nơi một số người không tự xem mình là tâm linh.

Cho nên, từ “quan sát im lặng” có thể chỉ Hiện diện TA LÀ cá nhân của con tức là cá thể của Thượng đế, hoặc nó cũng có thể chỉ bản thể rộng lớn hơn của Thượng đế.

Làm thế nào con có thể tìm lại kinh nghiệm này? Bằng cách tăng trưởng trực giác của mình và nhờ đó tăng trưởng mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô. Và khi con bắt đầu tăng trưởng liên lạc đó và bắt đầu chuyển dời ý niệm bản sắc của mình ra khỏi tâm nhị nguyên để hướng về tâm Ki-tô, con sẽ liên lạc mật thiết hơn với cái ta tâm linh của con.

Đâu là những bước thực tiễn để tiến tới mục tiêu này? Trên cơ bản, mọi triết lý hay hệ thống tâm linh đều nhắm đến mục tiêu này đây. Con hãy sử dùng trực giác, kỹ thuật hòa điệu, cùng các bài chú, bài thỉnh mà chúng tôi đã trao truyền.

Con hãy chuyên cần sử dụng một hệ thống hay một kỹ thuật trong một thời gian. Khi con cảm thấy đến lúc chín muồi, con hãy thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm xem con có cần tìm một hệ thống cao hơn hoặc tinh luyện, cải tiến cách tu tập hệ thống hiện thời cuả con. Con đừng trở nên cứng nhắc và rơi vào cái bẫy cho rằng nếu cứ áp dụng mãi một kỹ thuật hay hệ thống suốt đời thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Mục đích của bất kỳ hệ thống nào là để tăng triển độ nối kết của con với cái ta Ki-tô hầu con nhận được một sự tiết lộ tuần tự và hằng sống về đường tu cá nhân của con dẫn tới Thượng đế.  

Đâu là cái ta đích thực của con?

Hỏi: Con xin hỏi là khi con muốn tăng trưởng tâm linh nhưng lại bị rối trí, liệu việc kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên chính con có là một việc làm đúng hay không?   


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta không khuyến khích con kêu gọi sự phán xét trên chính con bởi vì cái “chính con” đó là gì? Con yêu dấu, con có thể kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên tự ngã của con và con người phàm phu mà con đã tạo dựng. Nhưng con không muốn phán xét của Ki-tô trên chính con bởi vì con có thể – trong tâm trí con – nghĩ rằng “chính con” bao gồm tất cả những gì mà con là. Và thật là không cần thiết để kêu gọi phán xét của Ki-tô trên cái ta ý thức của con, vì cái Ta Biết là một phần nối dài của chính bản thể của Thượng đế và không cần phán xét.   

Sự phán xét đúng lý là một biện pháp nhắm vào trạng thái tâm thức thấp kém. Cho nên mặc dù đúng là cái Ta Biết phải quyết định bỏ lại đằng sau tâm thức nhị nguyên, con vẫn không cần phải kêu gọi phán xét cái Ta Biết. Con có thể kêu gọi phán xét tự ngã để cái Ta Biết nhìn ra được tự ngã là gì, vì sự phán xét sẽ phân biện giữa chân và giả.    

Nhưng không có lý do gì con phải kêu gọi phán xét cái chân, bởi vì – mặc dù các thày dạy rằng cái Ta Biết luôn luôn là cái mà nó nghĩ nó là – sự thật xâu xa hơn là cái Ta Biết sẽ luôn luôn là sự nối dài của Thượng đế. Và vì vậy, cái Ta Biết là thật, cho dù nó có thể tự đồng hóa với một bản sắc không thật.  

Ta hiểu, đây là một sự phân biệt rất vi tế có thể khiến con suy ngẫm. Nhưng ta không muốn con bước vào bất cứ tư duy nào cho rằng cái Ta Biết là không thật, ngay cả khi nó tự đồng hóa với tự ngã. Và do đó, ta muốn con luôn luôn giữ vững viễn kiến rằng cái Ta Biết là thật, và chỉ có cái ý niệm bản sắc vỏ ngoài, cá tính vỏ ngoài, là không thật mà thôi.

Ta mong muốn con suy ngẫm về sự khác biệt vi tế này, và nhận ra là mặc dù cái Ta Biết tự đồng hóa với tự ngã và với một bản sắc sinh diệt, rốt cuộc chỉ có bản sắc này mới không thật, còn cái Ta Biết thì luôn luôn thật. Và cách duy nhất để cái Ta Biết thoát khỏi bản sắc sinh diệt là nhận ra rằng bản sắc đó là không thật, trong khi tự thân cái Ta Biết thì LÀ thật. Cho dù nó đã sa ngã vào tách biệt và nhị nguyên, nó vẫn không đánh mất thực tại cốt lõi của nó nơi Thượng đế.

Và chắc chắn, con sẽ không kêu gọi sự phán xét trên Thượng đế được. Và bởi vì cái Ta Biết là một cá thể của Thượng đế cho nên con cũng sẽ không kêu gọi phán xét trên nó. Vì vậy con nên suy ngẫm là con đang nhìn chính mình như thế nào, con đang thấy CÁI TA của con là gì. Bởi vì rõ ràng, thế gian này đang lập trình để khiến con nghĩ rằng mọi thứ trong con đều là những thành phần của cái ta của con. Nhưng dĩ nhiên không phải vậy.

Quả thực, đây là một trong những ảo tưởng mà con cần phải lột bỏ trên đường tu, là khi con bắt đầu nhận ra có thể có nhiều yếu tố thuộc bản thân con mà không nhất thiết thuộc về cái ta của con, thuộc về chính con. Thật sự, không có một khía cạnh nào của phàm nhân của con là một thành phần của cái Ta Biết – đó chỉ là một cái phin lọc, một dụng cụ mà qua đó cái Ta Biết tự biểu đạt trong thế gian này. Nhưng cái Ta Biết là NHIỀU HƠN.

Bước trên đường tu mà không đau khổ

Hỏi: Các chân sư nói đau khổ là không cần thiết, nhưng các chân sư cũng nói là chúng con không nên chờ đợi mọi chuyện sẽ dễ dàng – liệu có sự mâu thuẫn nào ở đây?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chỉ có thể có mâu thuẫn trong tâm thức nhị nguyên mà thôi. Tâm thức nhị nguyên có khả năng diễn giải bất kỳ câu nói nào trong cách đối nghịch với một câu nói khác. Điều này, tâm đường thẳng vẫn làm và sẽ luôn luôn làm.

Đau khổ không cần thiết vì đau khổ đến từ dính mắc. Cái khiến cho đường tu của con khó khăn là những dính mắc của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó – nếu con sẵn sàng buông bỏ mọi dính mắc – con có thể bước trên đường tu mà không đau khổ chút nào.

Khi chúng tôi nói đường tu không dễ dàng và con không nên mong đợi là nó dễ dàng, đó là vì chúng tôi rất thiết thực và đã nhận ra – qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc buông bỏ mọi dính mắc cùng một lượt là một chuyện hầu như bất khả. Và do đó, chúng tôi đã phải đi theo một con đường tuần tự. Chúng tôi đã phải bước đi từng bước một, buông bỏ từng dính mắc một, hầu duy trì một cảm giác liên tục nào đó cho bản thân.

Tuy nhiên, những khó khăn trên đường tu xuất phát từ sự kiện con không có khả năng – hay trong một số trường hợp, không sẵn lòng – nhìn thấy những điều mà mình cần nhìn thấy khi mình muốn bỏ một ảo tưởng nào đó. Và chúng tôi biết – một lần nữa qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc nhìn thấy những gì mình không thể thấy được là một chuyện khó khăn. Đối với nhiều người trong số các con, khó khăn của con không khác gì chính bản thân ta khi ta còn hiện thân. Khi con còn đầu thai thì con còn ở trong hộp tư duy hiện hữu của con. Con sẽ luôn luôn khó lòng xem xét tình trạng của mình từ bên ngoài chiếc hộp. Và nhân tiện, đây cũng chính là lý do tại sao con cần sự hướng dẫn của những vị thày tâm linh, từ người khác và từ giáo lý tâm linh.

Tuy vậy, con vẫn có khả năng đạt được một trạng thái buông bỏ, và mặc dù trên đường tu có những giai đoạn khó khăn, những khó khăn này vẫn không gây đau khổ cho con. Nói cách khác, cõi vật lý, cõi vật chất, rất dày đặc. Thật không dễ gì để mà bước trên đường tu giữa lớp dày đặc của tâm thức tập thể. Tuy nhiên, một khi con đạt được một trạng thái buông bỏ nào đó, những khó khăn mà con gặp sẽ không tạo đau khổ cho con nữa. Và lý do là vì con đã làm điều mà Mẹ Mary đã đề cập hôm qua, là con đã buông bỏ những chờ đợi, những kỳ vọng, con đã buông bỏ những điều kiện của con.

Có rất nhiều người tìm ra đường tu rồi họ nghĩ rằng để cất bước, họ cần phải làm một số chuyện mà họ xem là hy sinh – vì họ phải từ bỏ một phần nếp sống cũ, một phần những hoạt động cũ mà thế gian thường hay mê đắm, như rượu chè, chất kích thích, những đeo đuổi vật chất đủ loại và nhiều thứ khác nữa lôi kéo mình ra khỏi đường đạo. Cho nên họ vô cùng háo hức, sẵn lòng bỏ lại một số những sinh hoạt đó, nhưng khi làm vậy, họ vẫn cảm thấy là mình đang phải hy sinh. Và tự ngã của họ sẽ lừa gạt họ, khiến họ dựng lên một kỳ vọng tinh tế là một khi họ đã hy sinh cho đường tu hay hy sinh cho Thượng đế, thì sau đó mọi chuyện sẽ phải trơn tru. Và đơn giản là Thượng đế sẽ phải lát đường cho họ đi, để họ không còn phải gặp thêm thử thách hay khó khăn nào nữa.

Điều này, tất nhiên, chính là tự ngã đang tìm cách lừa gạt con người để họ dựng lên một kỳ vọng không thực tế sẽ chắc chắn gây ra thất vọng, và khi đó thì họ sẽ nản chí và ngừng bước tới. Hay thậm chí, có thể là họ sẽ oán giận, như nhiều người đã oán giận là mình bị một tổ chức hay một vị thày hứa hẹn suông. Và tự ngã đánh gạt họ để họ bỏ đường tu.

Khi con buông bỏ mọi điều kiện của con, con không còn kỳ vọng nào nữa là đường tu sẽ phải ra sao. Và do đó, làm thế nào điều gì xảy ra cho con có thể gây đau khổ cho con? Con thấy không, đau khổ được gây ra bởi một điều kiện tâm lý, và điều kiện này khiến con nổi loạn trong cảm thể và trí thể chống lại một trải nghiệm trong thế giới vật lý.

Con sẽ thấy nhiều người gặp phải những khó khăn vật lý to lớn trong đời họ, nhưng họ đã đạt được một trạng thái buông bỏ an bình, đã chấp nhận– cho dù các điều kiện vỏ ngoài có khó khăn đến đâu đi nữa – là họ có thể sống tốt nhất và vẫn vui hưởng cuộc đời. Con hãy nhìn những người bị khuyết tật về thể chất, như phải ngồi xe lăn chẳng hạn. Nhiều người mà phải sống như vậy sẽ vô cùng khổ sở phiền muộn, nhưng lại có một số ít vẫn vươn được lên cao hơn, vẫn vui vẻ an bình giữa hoàn cảnh đó, vẫn chấp nhận và sống tốt nhất.

Cho nên con thấy đó, đau khổ không do điều kiện vỏ ngoài tạo ra, mà do điều kiện tâm lý bên trong khi con nổi loạn, chống đối lại điều kiện vật lý bên ngoài. Và đó là tại sao, như chúng tôi đã nỗ lực giải thích trong mấy ngày qua – qua bài giảng của các thày Patrick, Mẹ Mary và Saint Germain – rằng khi con bước đi trên đường tu, con nên bỏ lại mọi điều kiện vỏ ngoài cùng kỳ vọng là đường tu phải như thế nào. Vì con phải biết trong tư cách là người tâm linh, cõi vật lý này dày đặc, tâm thức tập thể dày đặc đến chừng nào, và do đó con không được chờ đợi nó sẽ dễ dàng, êm thắm.

Tuy nhiên, chắc chắn con cũng không nên rơi vào cực đoan ngược lại mà cho rằng mình phải chịu đựng thì mới là người tâm linh – như thể mình phải đi chân đất leo lên đỉnh núi hầu trả giá cho tội lỗi của mình vì Thượng đế sẽ vui sướng khi thấy mình đau đớn. Và như vậy mình càng đau đớn bao nhiêu thì ngài sẽ càng tha tội cho mình bấy nhiêu.

Một lần nữa, có một con đường Trung đạo. Và khi con tìm ra Trung đạo, con sẽ vượt qua mọi khó khăn và giữ trọn niềm vui. Khi con quyết định gặp gỡ mọi khó khăn trong niềm vui và sẵn lòng thăng vượt, những khó khăn đó sẽ không mấy khó khăn nữa, Chúng sẽ chỉ đơn giản là một số sự kiện trong cõi vật lý. Con sẽ bước vượt qua chúng, vì con có một viễn kiến rõ ràng về mục đích của mình.

Con biết rõ là con muốn đi về đâu, và không còn chuyện nghĩ ngợi là mình sẽ chỉ tới đó được nếu không có trở ngại nào. Con dư biết là sẽ có trở ngại, và con chỉ việc khắc phục, vượt qua, vượt lên trên, bước xuyên qua. Như vậy con sẽ tìm được con đường vui mừng. Nó độc lập khỏi mọi điều kiện vì nỗi vui mừng của con ngập tràn.

Phong thủy dựa trên một hiểu biết xác đáng về năng lượng

Hỏi: Con đang tính xây một căn nhà mới mà con sẽ cần sắp đặt và trang trí. Xin thày vui lòng cho biết quan điểm và hướng dẫn về khoa phong thủy, chẳng hạn như sử dụng số học, màu sắc và vị trí các phòng? Con đã đọc một hai cuốn sách của Lillian Too, rất thú vị, nhưng một số thông tin có vẻ mê tín dị đoan, chẳng hạn như số nhà đặt theo một hướng nào đó sẽ đem lại “xui xẻo”. Con muốn nhà con đặt theo vị trí tốt. Con cũng biết là việc thỉnh cầu Ánh sáng là cách bảo vệ cao nhất, và có lẽ đây là cách hay nhất để con tiến hành thay vì cứ lo lắng về phong thủy. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong mấy thế kỷ vừa qua, thế giới Tây phương đã chứng kiến sự thành công ngoạn mục mà khoa học và công nghệ đã đem lại. Một tác dụng phụ của thành quả này là nhiều người đã trở nên kiêu ngạo và cho rằng bất cứ gì không được nền văn hóa khoa học hiện đại đem đến đều không thể có giá trị. Nhiều người cảm thấy là nếu một lời dạy không được biểu đạt bằng thuật ngữ khoa học, hoặc không được xác nhận bằng thí nghiệm khoa học, thì không có cách chi đó là lời dạy có giá trị. Một số người còn cho rằng bất cứ gì đã được phát minh trước khi thời đại khoa học thăng hoa cũng không thể có giá trị. Những quan điểm như vậy là thiển cận và phần nào kiêu ngạo.

Thực tế đơn giản là nền văn hóa khoa học hiện đại chỉ mới hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, thế mà nó đã gây ra một số vấn nạn có khả năng đe dọa sự tồn tại lâu dài của nó. Ngược lại có một số nền văn hiến, trong đó có văn minh Trung quốc cổ đại, đã tồn hữu hàng thiên niên kỷ. Đáng lý sự kiện này phải khiến cho người ta ngẫm nghĩ liệu những nền văn minh lâu đời đó có thể đã có những phát minh giá trị, ngay cả khi chưa được khoa học hiện đại thông hiểu hay xác nhận.

Như con cũng biết, cách đây 500 năm nhiều người nghĩ rằng trái đất này bằng phẳng, thế nhưng trái đất thời đó đã tròn y hệt như bây giờ. Chưa đầy một thế kỷ trước, Albert Einstein khám phá mọi vật đều được cấu tạo bằng năng lượng, thế nhưng vũ trụ đã được cấu tạo bằng năng lượng ngay từ buổi đầu rồi. Nhiều nền văn minh cổ đại đã hiểu bằng trực giác là mọi vật đều cấu tạo bằng năng lượng, và do đó họ cũng hiểu là năng lượng ảnh hưởng đến mọi thành phần của cuộc sống. Chẳng hạn, văn minh Trung quốc cổ đại đã đưa ra một số lời dạy về năng lượng và dòng chảy năng lượng, và những ví dụ được người ta biết đến nhiều nhất là Thái cực, châm cứu và phong thủy. 

Điều ta muốn nói ở đây là phong thủy dựa trên một sự hiểu biết xác đáng về năng lượng, về dòng chảy của năng lượng, về cách năng lượng ảnh hưởng đến trường năng lượng của con người cũng như sức khỏe toàn diện của con người. Quả thật, giáo lý tâm linh làm nền tảng cho khoa phong thủy đã được các chân sư thăng thiên ban truyền cho con người, và đó là những giáo lý chính đáng. Giáo lý đã được diễn tả một cách giản dị trong ngôn ngữ của thời đó, một ngôn ngữ không hề thô sơ mà chỉ khác biệt so với ngôn ngữ khoa học hiện đại.

Tiếc thay, như ta đã giải thích suốt trang mạng này, điều xảy ra cho hầu hết các giáo lý tâm linh nguyên thủy là với thời gian, giáo lý đã bị biến đổi bởi những người không hiểu thấu. Trong nhiều trường hợp, mối liên kết trực giác ban đầu với các chân sư thăng thiên đã bị cắt đứt, và từ đó trở đi, người ta đã bắt đầu thêm vào những cách diễn giải dựa trên trí thức phàm phu, thường khi là tâm nhị nguyên. Điều này thường dẫn đến những phát triển sau này khác xa, thậm chí còn trực tiếp đi ngược lại những giáo lý tâm linh ban đầu. Phong thủy là một ví dụ của sự kiện đó, và đạo Cơ đốc cũng vậy.

Như con chỉ ra rất xác đáng, một số lời dạy được tìm thấy trong ngành phong thủy hiện nay rõ ràng là chuyện mê tín dị đoan, trái với lẽ thường. Việc sử dụng phong thủy trong thế giới hiện đại là hữu lý, nhưng con sẽ được hưởng lợi muôn phần nếu con biết sử dụng trực giác và khả năng phân biện Ki-tô của con.

Con cũng cần lưu ý rằng phong thủy không bao giờ là một bộ môn khoa học chính xác. Nó không bao giờ được ban truyền để bị biến thành một tiến trình máy móc giống như nền công nghệ hiện đại. Phong thủy luôn luôn được hiểu là một giáo lý trực giác, có nghĩa là các lời dạy vỏ ngoài chỉ được dùng như lời hướng dẫn được trực nhận, và được diễn giải cho thích hợp với từng cá nhân, từng hoàn cảnh riêng biệt. Đó là tại sao một nhà phong thủy tài ba không chỉ đơn giản là một chuyên viên, mà là một người có nhiều trực quan.

Sự quan tâm của con về đề tài này cho thấy là con đã nhận được sáng ngộ trực giác từ cái ta Ki-tô của con rằng phong thủy là một lời dạy hữu lý và quan trọng mà con có thể đưa vào thiết kế căn nhà mới của con. Điều con cần làm là học hỏi lời dạy của phong thủy, hoặc có lẽ tham khảo một nhà phong thủy lành nghề, và sau đó suốt tiến trình thiết kế, con hãy sử dụng trực giác và phân biện Ki-tô của mình, như con đang làm. Hãy cho phép cái ta Ki-tô hướng dẫn con đến lời dạy hữu ích nhất cho con, và bỏ qua những lời dạy không hợp lý đối với con. Khi con xây một căn nhà và tham gia vào việc thiết kế, căn nhà của con nên là sự biểu hiện con người của con cũng như mức phát triển tâm linh hiện thời của con. Cho nên con đừng lo ngại sử dụng các nguyên tắc của phong thủy làm chỉ đạo, rồi con diễn giải những nguyên tắc đó dựa theo phân biện Ki-tô. 

Như con đã chỉ ra, việc thỉnh cầu ánh sáng trong suốt tiến trình cũng quan trọng, và chắc chắn con không được sao lãng. Tuy nhiên, không có lý do gì mà con không thể phối hợp lời day của phong thủy với việc thỉnh cầu ánh sáng. Làm như vậy có thể đem lại cho con một căn nhà sẽ hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. 

Tuy nhiên, hãy cho ta nhắc nhở thêm một điều quan trọng, là con cần giữ cân bằng trong mọi chuyện. Phần quan trọng nhất trong việc phát triển tâm linh là con tiếp xúc trong nội tâm với cái ta Ki-tô. Mọi chuyện vỏ ngoài phải là phụ thuộc so với mối liên lạc nội tâm đó, kể cả căn nhà con ở hay thực phẩm con ăn. Đó là tại sao ta có nói rằng, điều làm con ô uế không phải là cái con bỏ vào miệng mà là cái đi ra khỏi miệng. Câu nói đó có mục đích minh họa ý tưởng mà ta đưa ra ở đây, là những thứ vỏ ngoài trong thế giới vật chất luôn luôn là thứ yếu so với những điều nội tâm trong chính tâm lý con, cũng như sự nối kết của con với cái ta Ki-tô. Cho nên con hãy để cho phong thủy làm đầy tớ cho con, chứ đừng để nó trở thành chủ. 

Làm thế nào chuyển tập trung từ tâm vào tim?

Hỏi: Xin thày giảng thêm về cách làm thế nào mở tim ra, làm thế nào chuyển sự tập trung từ tâm trí vào con tim? Theo con hiểu, trụ nơi tim là một phần quan trọng của tâm thức Ki-tô.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trụ nơi tim CHÍNH LÀ tâm thức Ki-tô chứ không phải là một phần. Bởi vì theo một nghĩa nào đó, loài người có xu hướng – ngay cả trong số những người tâm linh và thậm chí học trò của chân sư thăng thiên – muốn cắt nhỏ mọi chuyện ra thành nhiều phần rồi bảo: “À, đầu tiên có phần này, và tôi phải thỏa mãn yêu cầu này, rồi tôi mới có thể xem tới yêu cầu kế tiếp.”

Theo nghĩa đó thì đấy là một giai đoạn cần thiết trên đường tu, vì như các chân sư đã nói, đường tu ngụ ý là con phải bước đi từng bước một. Tuy nhiên, nếu con có khuynh hướng, nếu con thấy trong bản thân con có khuynh hướng là mình quá phân tích, mình quá tập trung vào lý trí, thì con hãy lấy một quyết định có ý thức, và con có một nỗ lực ý thức để vượt xa hơn cái nhìn cho rằng đường tu là những bước rời, những thành phần có thể chia ra làm đơn vị riêng rẽ.

Con hãy ngừng xem quả vị Ki-tô là những phần riêng lẻ tách biệt phải được hoàn thành, và thay vào đó, con hãy nỗ lực lùi về một bước trong ý thức, nhìn vào toàn cảnh để tập trung vào tổng thể. Con hãy bắt đầu xem quả vị Ki-tô là một tiến trình, một dòng chảy không bao giờ ngừng.

Nếu con trầm mặc nhìn dòng nước chảy, con không thể tách nó ra thành nhiều phần. Chắc chắn con có thể có một cái xô nhỏ khi hồi con còn bé, con có thể nhúng xô xuống dòng nước, kéo nó lên bờ rồi ngồi đó ngắm nghía khối nước trong xô mà con đã lấy ra khỏi dòng nước khiến nó giờ đây bị tách biệt khỏi dòng sông.

Nhưng con vẫn không ngưng được dòng nước. Con đã lấy ra một phần của dòng nước và đã chặn dòng chảy trong phần nước đó. Nhưng dòng sông vẫn chảy tiếp. Dòng Sông sự Sống luôn luôn tuôn chảy.

Cho nên ta muốn nói với con, con hãy thôi đừng là đứa bé bên bờ sông ngồi nhìn khối nước im lìm trong xô. Thay vào đó, con hãy đứng dậy, cầm lấy xô ném nó trở lại xuống lòng sông, rồi con hãy nhảy theo, và con không còn tách biệt nữa.

Bởi vì con thấy đó, luôn luôn sẽ có những người đứng trên bờ sông, và có thể họ sẽ chỉ nhúng một đầu ngón chân xuống nước. Nhưng đã từ rất lâu rồi, ta đã nhảy xuống dòng nước, và ta có thể nói với con: “Nước tốt lắm con ơi!”

[Ghi chú của Kim Michaels: Có hai dụng cụ thiết thực để mở tim là bài Thỉnh Làm Thông sạch Trái tim, và bài Thỉnh Yêu thương Bản thân]

Nhiều tôn giáo có thể làm nền tảng cho quả vị Ki-tô

Hỏi: Giê-su thân yêu, thày công nhận là có những vị thánh… là những người đã đạt tới mức tâm linh để trở thành những sinh thể Ki-tô. Nhưng họ đã đạt đến mức đó qua một tôn giáo giả trá… Giáo hội Công giáo. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không có một tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% chân lý, và không có tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% sai lầm. Cho dù Giáo hội Công giáo đã làm tha hóa giáo lý đích thực của ta theo nhiều cách, đặc biệt đã biến ta thành một thần tượng, vẫn có những yếu tố chân lý trong đạo Công giáo.

Khi con tăng triển trên đường tu tâm linh, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện đâu là sự thật và đâu là sai lầm, đâu là Chân lý Hằng sống của Thượng đế và đâu là giáo điều do con người dựng ra.  Khi con nhận diện một mảnh sự thật, con có thể tham thiền về sự thật đó cho đến khi con thể nhập – qua đó, mảnh sự thật đó có thể trở thành chất men làm nở nguyên ổ bánh là tâm thức của con, và toàn bộ tâm thức con vươn lên đến tận tầng cấp mà sự thật đã được ban ra.

Mong muốn ban đầu của ta cho đạo Ki-tô là nó sẽ trở thành một phong trào mà qua đó đại đa số loài người có thể rút tỉa uy lực để trụ neo vững chắc vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Do giáo lý nguyên thủy của ta bị tha hóa, phần lớn bởi Giáo hội Công giáo, điều đó đơn giản đã không thể thực hiện cho hầu hết mọi người. Đó là tại sao tuyệt đại đa số các tín hữu Cơ đốc đã đi theo con đường có vẻ đúng cho con người phàm phu, nhưng cuối cùng sẽ là con đường của sự chết. Con đường đó là ý tưởng cho rằng mình phải chờ đợi một vị cứu tinh sẽ đến từ ngoài để giải cứu mình.

Nhưng dù sao, vẫn có những mảnh sự thật còn sót lại trong đạo Cơ đốc mà một dòng sống trưởng thành có thể sử dụng để nâng cao tâm thức mình. Nếu con tìm hiểu cuộc đời của một số vị thánh, và con đọc được giữa hai hàng chữ để nhận ra những gì không nhất thiết được viết ra trong tiểu sự hay tự truyện của họ, con sẽ thấy là nhiều vị thành cuối cùng đã trở thành những nhà thần bí. Họ đã nhìn xa hơn các giáo điều vỏ ngoài do con người tạo ra, và họ đã khám phá chân lý nội tâm vẫn nằm ở đó, cho dù là nằm đằng sau giáo lý công truyền. Họ đã thể nhập chân lý nội tâm đó và ngộ ra là ta đã đến để kêu gọi loài người khoác vào tâm Ki-tô.

Bằng cách tham thiền về cuộc đời của ta, các dòng sống trưởng thành có thể thể nhập lời dạy của ta cũng như Bản thể của ta, đến độ dòng sống đó đạt được quả vị Ki-tô. Thậm chí con có thể đạt quả vị Ki-tô bằng cách tham thiền về Tim Thánh của ta cho đến khi con hoàn toàn thể nhập rung động Tim Thánh.

Điều ta nói ở đây là không có một tôn giáo vỏ ngoài nào có thể đưa con đến quả vị Ki-tô một cách máy móc. Cho dù tôn giáo mà con theo có cho con một mức độ chân lý rất cao, vẫn không bảo đảm là con sẽ đạt được quả vị Ki-tô. Con chỉ đến được quả vị Ki-tô bằng cách bước xa hơn chân lý đã được viết xuống và biểu đạt thành lời. Con chỉ đạt được quả vị Ki-tô bằng cách thể nhập rung động của chân lý, tức là nhiều hơn những từ ngữ, những giáo điều và nghi lễ vỏ ngoài.

Vì vây, đối với một dòng sống trưởng thành, việc đạt được quả vị Ki-tô là một điều khả thi qua trung gian bất kỳ tôn giáo nào trên trái đất – hay bằng cách không theo một tôn giáo nào. Tuy nhiên, đây không phải là cái cớ cho tôn giáo làm tha hóa lời dạy đích thực của ta.

Như ta đã trình bày, ta muốn mọi người – chứ không chỉ các dòng sống trưởng thành – trụ vững trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Vì vậy, Giáo hội Công giáo đã thiếu sót một cách tệ hại trong việc cống hiến con đường Ki-tô cho mọi người. Giáo hội đã làm y như các thày thông giáo thuở xưa, là tước đi chìa khóa của hiểu biết, bởi vì chính các lãnh đạo của giáo hội này không muốn bước vào, cho nên họ mới tìm cách cản trở những ai muốn bước vào. Khốn cho những thày thông giáo vẫn tiếp tục tước mất chìa khóa của hiểu biết cho tới ngày nay.

Lòng biết ơn giúp con nhận ra vật chất không sai khiến được tánh linh

Hỏi: Xin thày nhắc nhở chúng con tại sao lòng biết ơn lại quan trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa được nhắc nhở rồi đó, con yêu dấu!

Không có cách nào khác hơn là cá nhân con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ tự nhắc nhở mình về sức mạnh của lòng biết ơn. Để làm vậy, con sẽ phải quyết định phương cách thích hợp nhất để cá nhân con tự nhắc nhở mình. Liệu con sẽ có một thiết bị nào đó để giúp con nhớ? Liệu con sẽ quyết định là mỗi ngày con sẽ tự nhủ một lời khẳng định ngắn gọn về lòng biết ơn? Liệu con sẽ suy ngẫm về một đoạn của bài truyền đọc hay về Bài nguyện Tràng hạt Biết ơn [ROS03 Mother Mary’s Miracle Gratitude Rosary]? Hay liệu con sẽ đọc bài nguyện đó đều đặn?

Tất nhiên, điều quan trọng là con tự nhắc nhở về quyền năng của lòng biết ơn vì như con biết, vũ trụ là một tấm gương được thiết kế để cho con bất kỳ trải nghiệm nào mà con mong muốn. Cho nên nếu con không biết ơn, điều này chỉ có nghĩa là con cảm thấy thiếu thốn, con cảm thấy mình không có đủ – và do đó con không có lý do gì để mà biết ơn.

Vì vậy, đâu là thông điệp tiềm thức mà con đang gửi vào tấm gương vũ trụ? Thông điệp đó là: “Tôi muốn trải nghiệm sự thiếu thốn, tôi muốn trải nghiệm là tôi không đủ, hầu tôi có lý do để cảm thấy vô ơn vì tôi muốn cảm thấy vô ơn. Cho nên hãy cho tôi một lý do vỏ ngoài để tôi cảm thấy vô ơn.” Và vũ trụ trả lời: “Được rồi, con yêu dấu, nếu đó là điều con thực sự mong muốn, hợp đồng của ta ghi rõ là ta có bổn phận cho con những gì con bảo là con muốn.”

Và tất nhiên, khi con đổi ý định và quyết định là con muốn nắm lấy quyền chỉ huy cảm xúc của mình, chỉ huy thế giới cảm xúc, và con cho phép mình cảm thấy biết ơn, thì… BẤY GIỜ thông điệp con đang gửi vào tấm gương sẽ là gì? Đó là thông điệp nói rằng con cảm thấy mình quá đầy đủ – hay ít ra là con cảm thấy biết ơn về tất cả những gì con đang có – cho nên kỳ thực con đang gửi ra thông điệp nói rằng “Con muốn trải nghiệm cảm giác biết ơn, cảm giác càng ngày càng có nhiều hơn nữa.”

Thế là vũ trụ sẽ trả lời: “Ồ con yêu dấu, rốt cuộc con cho phép ta làm tròn tiềm năng cao nhất của ta là ban cho con cuộc sống dồi dào, cho nên nhất định ta sẽ cho con nhiều hơn những gì con đang có. Và vì con cảm thấy biết ơn hơn nữa về những gì con đang có, ta có thể cho con nhiều hơn nữa – bởi vì quả thực, ta có khả năng nhân lên gấp bội những vốn liếng, những ta-lăng, mà chính con đã nhân lên, con yêu dấu.”

Cho nên con thấy đó, cốt lõi của cuộc sống là nhận ra vũ trụ là một tấm gương và đường tu là sự khắc phục ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất có quyền lực trên con như một sinh thể tâm linh. Bởi vì khi một người cho phép mình tin rằng mình không có đủ trong thế giới vật chất, thì người đó tin gì? Chẳng phải là người đó tin rằng hoàn cảnh vật chất có quyền lực trên cảm xúc của họ hay sao? Và do đó họ nói: “Tôi không thể cảm thấy biết ơn khi tôi không có cái này hay cái kia, tôi không có điều kiện vật chất này hay điều kiện nọ.” Và như vậy họ cũng bảo rằng thế giới vật chất, thế giới bên ngoài, đang có quyền năng trên thế giới bên trong, tức là tâm lý, cảm thể của họ.

Thế nhưng đường tu tâm linh là sự khắc phục ảo tưởng đó, khi con nhận ra rằng cảm xúc phải nằm dưới quyền điều khiển có ý thức của trí thể, và trí thể phải nằm dưới quyền điều khiển có ý thức của bản sắc thể, hầu con ngộ ra mình là một sinh thể tâm linh. Và do đó, con cho phép bản sắc đó chỉ huy trí thể, chỉ huy các ý tưởng của con, để con nhận ra là con có khả năng cảm được bất cứ gì con muốn cảm thấy – cho dù các điều kiện vật lý mà con đang đối mặt có là gì.

Cho nên con có quyền năng – nếu con có ý chí đó – để nắm quyền chỉ huy thế giới cảm xúc của con và cảm thấy biết ơn, bất kể những gì con có hay không có trong thế giới vật chất. Và thế giới vật chất này được thiết kế để là đầy tớ cho thế giới tâm linh, là sự trải bày của thế giới tâm linh, hầu nó thực hiện được câu: “Ở Trên thế nào, ở dưới thế nấy.” Và như vậy cuộc sống dồi dào mới có thể được thị hiện trên địa cầu cũng như trong đời sống cá nhân của con, con yêu dấu.

Vui hưởng cuộc đời mà không dính mắc

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày định nghĩa thế nào là chủ nghĩa duy vật. Làm thế nào chúng con có thể tránh được nó và giữ cho mình không bị dính mắc vào vật chất? Chúng con sống trong một đất nước với nhiều thứ tươi đẹp, và nếu con muốn một ngôi nhà đẹp đẽ mà không bị dính mắc thì liệu điều này có chấp nhận được không? Hoặc con có thể muốn bất cứ gì khác mà không bị dính mắc một cách nào đó? Có phải là chúng con không được ham muốn gì cả ngoại trừ Thượng đế? Đây có phải là cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế? Chuyện này khiến con bối rối.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không dính mắc là một khái niệm không thể hiểu được bằng trí năng của người phàm. Đó là một khái niệm không đường thẳng vượt khỏi trí thức đường thẳng cũng như tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được rất nhiều lợi lạc nếu ngộ ra là có nhiều khái niệm tâm linh không thể nào diễn đạt bằng lời nói. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng có thể dễ dàng được suy diễn, hay bị diễn giải lầm lạc, bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm bắt trọn vẹn – có nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng giáo lý vỏ ngoài duy như là một bàn đạp để đạt đến một trải nghiệm nội tâm, trực nhận, về chân lý.

Ý nghĩa của sự thật nói trên là khi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đưa ra một lời dạy tâm linh, chẳng hạn những lời dạy của ta cách đây 2000 năm, ý định của chúng tôi không bao giờ là ban ra một lời chân lý bất khả sai lầm. Chúng tôi dư biết là không có một lời dạy nào được diễn tả qua ngôn từ có thể là chân lý viên mãn. Đơn giản, chân lý không thể được biểu đạt bằng ngôn từ. Chân lý chỉ có thể được trải nghiệm và thể nhập. Có thể nói là con không thể biết hay hiểu được chân lý, mà con chỉ có thể trở thành chân lý. Đó là tại sao ta đã dạy: “Giê-su nói với người đó: Ta là con đường, sự thật và sự sống. Không một ai đến được cùng Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta vừa trình bày. Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc – bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên – đã diễn giải câu đó nghĩa là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Cơ đốc, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Ý nghĩa thực là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm đường thẳng nhị nguyên – mới là cách duy nhất để biết Thượng đế cùng sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết được sự thật bằng cách hợp nhất, trở thành, tâm Ki-tô đó. Và không một ai dù là nam hay nữ cũng không thể đến được với Cha ngoại trừ qua sự hợp nhất với cái ta Ki-tô của người đó.

Bằng cách trở thành một với cái ta Ki-tô, con sẽ lần hồi trở nên không dính mắc đối với mọi thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kìm nén ham muốn của mình đối với những vật của thế giới này, mà nó sẽ xảy ra bởi vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con ngộ được rằng sự sống là nhiều hơn vui thú vật chất. Khi đó, con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Đó là một tiến trình lần hồi. Con hấp thụ một mảnh nhỏ của chân lý, xong con cho phép nó nâng cao tâm thức của con. Đó là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng giống như chất men mà người đàn bà kia trộn vào trong ba đấu bột, cho đến khi bột nở dậy cả lên.” (Matthew 13:33)

Con cũng biết là khi con cho men vào bột, men cần thời gian để làm việc. Nếu con cứ không ngừng lấy bột nhào đi nhào lại thì con sẽ ngăn trở men làm việc. Cho nên con cần để bột sang một bên cho nó nghỉ. Cũng vậy, con lấy một mảnh chân lý tâm linh, xong con cho phép nó dần dần nâng cao tâm thức của con.   

Tiếc thay, quá nhiều người – đặc biệt trong thời đại hôm nay chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn tức thì – sử dụng trí năng của mình để tìm cách ép buộc tiến trình đó. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi người ta tìm cầu những loại hiện tượng hay trải nghiệm tột đỉnh. Những người như thế rốt cuộc thường chỉ có được một trải nghiệm giả hiệu đem lại cho họ một cách hiểu sai lầm về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thế nhưng họ cứ tưởng là do những trải nghiệm mà họ đã có, sự hiểu biết của họ chính là chân lý tuyệt đối. Đấy là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng không được hãm ép, và những kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực.” (Matthew 11:12)

Ý của ta là con không thể cưỡng ép một cách hiểu trí thức lên sự không dính mắc – con không thể bắt ép mình cho không dính mắc. Con cần suy ngẫm điều này và dần dần thể nhập sự thật sâu xa đằng sau khái niệm không dính mắc. Con cần trở thành chính sự thật đó thì khi đó con sẽ không dính mắc.

Khi điều này xảy ra, con sẽ tự nhiên tìm được một thế cân bằng sẽ cho phép con vui hưởng những thứ của thế gian này mà không bị dính mắc với chúng. Nói cách khác, lý tưởng là con có khả năng thưởng thức và vui hưởng trọn vẹn sự tươi đẹp của thế giới này. Con nghĩ tại sao ta đã nói câu này: “Ta đã đến để các con được sự sống, và các con được sự sống dồi dào hơn nữa.” (John 10:10)

Thượng đế không hề mong muốn thấy người tâm linh phải từ bỏ mọi khía cạnh của thế giới vật chất. Cho nên con đường từ bỏ – mà quá nhiều hội thánh Cơ đốc cùng các tôn giáo khác đã đi theo – không phải là con đường hay nhất. Kỳ thực, khi con từ bỏ mọi thứ của thế gian thì con cũng không tránh được sự chối bỏ một số khía cạnh trong thiết kế của Thượng đế, chối bỏ một số món quà mà Ngài đã dành cho những người con trai và con gái của Ngài. Chừng nào sự chối bỏ món quà của Thượng đế còn tiếp diễn thì vương quốc của Ngài sẽ không thể nào thị hiện trên trái đất.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đường từ bỏ là hoàn toàn sai lầm, mà đó là một cách ứng phó đối với một cuộc khủng hoảng – cụ thể là có quá nhiều người đã trở nên dính chặt với đồ vật thế gian đến độ họ đã tự đồng hóa làm sinh thể vật chất thay vì là những sinh thể tâm linh. Họ nghĩ là họ không thể nào sống được mà không có đồ vật của thế gian, hay họ nghĩ họ không thể nào trọn vẹn được nếu họ không mang một khía cạnh nào đó của đời sống thế gian. Chính thái độ này ngăn chặn họ bước vào vương quốc Thượng đế bởi vì: “Và khi người Pha-ri-si hỏi Giê-su là vương quốc Thượng đế bao giờ sẽ đến, thì Giê-su trả lời: Vương quốc Thượng đế không đến khi con quan sát và thốt lên, Kìa ở đây! Kìa ở đó! Vì con nhìn này, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke, 17:20-21)

Nói cách khác, con không thể thực sự chiếm đoạt nước thiên đàng bằng vũ lực, cho dù nhiều người tưởng họ có thể làm vậy. Quá nhiều người mộ đạo tin rằng bằng cách tuân thủ các quy tắc vỏ ngoài và vững tin vào học thuyết của tôn giáo mình – bằng cách tuân thủ luật lệ của thế gian – họ sẽ có thể tự động tìm đường xông lên thiên đàng. Không phải vậy đâu con. Nước thiên đàng là một trạng thái tâm thức. Chìa khóa để đạt được trạng thái tâm thức này là trở nên không dính mắc với mọi thứ trong thế gian. Trở nên không dính mắc là một tiến trình có mấy giai đoạn, và ở đây chúng ta có thể đề cập đến một vài giai đoạn chính yếu, măc dù chúng ta có thể định ra nhiều giai đoạn hơn nữa:   

  • Con nhận ra sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất.
  • Con quyết định là con muốn một tầm hiểu về khía cạnh tâm linh của cuộc sống nhiều hơn là một số thú vui vật chất, cho nên con sẵn lòng gạt sang một bên một số đeo đuổi thế gian để có thể dành thời gian cùng sự chú ý cho việc đạt hiểu biết tâm linh.
  • Con nhận ra chìa khóa của phát triển tâm linh là thể nhập chân lý và hòa nhập vào thành phần cao hơn của bản thể con, mà ta gọi là cái ta Ki-tô của con.
  • Con nhận ra là một số sinh hoạt trong thế gian kéo con xa khỏi việc hòa nhập với cái ta Ki-tô của con. Rồi con quyết định từ bỏ các sinh hoạt như vậy mà không cảm thấy có gì mất mát. Cái ta Ki-tô cho con một cái gì sáng giá và thỏa nguyện hơn so với các thú vui thế phàm.
  • Con nhận ra là rất nhiều thứ trong thế gian chính là sự biểu đạt của viễn quan Thượng đế. Đó là những món quà của Ngài. Cho nên việc vui hưởng các món quà đó – mà không trở nên dính mắc với chúng – không khiến con xao lãng quả vị Ki-tô của mình. Giờ đây con có thể thưởng thức món quà của Thượng đế mà không nghĩ rằng con không thể sống được nếu thiếu chúng.  

Khi con kinh qua tiến trình nói trên, tiến trình lần hồi trở nên không dính mắc với mọi thứ của thế gian, con bắt đầu ngộ ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp. Cho nên để sinh sống và vui hưởng, con không còn hướng mắt nhìn về những nguồn cung ứng, những yếu tố thế phàm nữa. Con hướng nhìn về Thượng đế cho mọi chuyện, và khi con làm vậy với một đức tin trọn vẹn hoàn toàn không dính mắc, Thượng đế sẽ toại nguyện mọi nhu cầu của con một cách đích thực. Ta đã từng diễn tả ý này trong câu sau đây: “Nhưng trên hết, hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế cùng sự công chính của Ngài, thì mọi thứ đó sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)    

Điều quan trọng đối với người tầm đạo tâm linh là nhận ra rằng trước khi dòng sống của con bước vào kiếp đầu thai, con đã lập ra một kế hoạch cho đời mình để đem lại sự tăng triển tâm linh tối đa. Nói cách khác, dòng sống của con muốn tăng triển tối đa và nó đã xin Thượng đế giúp nó đạt được tăng triển này. Ngay lúc này, có thể tâm vỏ ngoài của con đã quên mất sự kiện đó và đã xây dựng một lòng ham muốn mãnh liệt đối với một số vật trong thế gian. Con có thể nghĩ là con không thể sống mà thiếu chúng, con có thể nghĩ là con sẽ không trọn vẹn nếu con không có chúng, hay con không thể tinh tấn tâm linh mà không có chúng. Thậm chí con còn có thể nghĩ – và đây là ảo tưởng lớn nhất trong số đó – rằng con không thể biểu hiện được quả vị Ki-tô của mình mà không có những thứ vỏ ngoài đó.

Cho nên nếu Thượng đế ban cho con những thứ đó thì điều này sẽ chỉ tăng cường niềm tin của con vào sự bất toàn, thiếu trọn vẹn của mình mà thôi – nó đối lập trực tiếp với sự tăng triển của con.

Cốt lõi của quả vị Ki-tô chính là khi con ngộ ra là con không cần bất cứ gì của thế gian này, bất cứ gì bên ngoài cái ta của con (cái ta Ki-tô) để có thể thị hiện quả vị Ki-tô.

Con có thấy chăng điều ta muốn nói? Nếu con chưa nhìn ra, con hãy dành thời gian để suy ngẫm về lời dạy mà ta vừa trao cho con. Tinh túy của lời dạy này là điều ta đã giảng dạy cho ông Kim khi ông được đào tạo để trở thành vị sứ giả của ta. Ta có nói với ông: “Nếu con nghĩ con cần đến cái gì đó, thì con không thể có cái đó!” Ý nghĩa là chừng nào con cho rằng mình chưa trọn vẹn – rằng mình không thể là Ki-tô – nếu con còn thiếu một cái gì đó của thế gian, thì Thượng đế sẽ không thể cho con cái đó. Làm như vậy sẽ vi phạm những chọn lựa sâu thẳm của dòng sống của con là mong muốn tăng trưởng tâm linh tối đa.

Tuy nhiên, Thượng đế cũng không muốn thấy con sống một cuộc đời thiếu thốn. Ngài muốn con có một đời sống dồi dào: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha của các người đã bằng lòng cho các người nước thiên đàng.” (Luke 12:32)

Cho nên ngay lúc con đạt đến sự không dính mắc cuối cùng đối với mọi thứ của thế gian và nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, thì tức thì Ngài có thể và sẽ cho con sự sống dồi dào.  

Liên quan đến việc định nghĩa chủ nghĩa duy vật, có mấy giai đoạn như sau tượng trưng cho những độ chối bỏ Thượng đế ngày càng bớt đi:

  • Một số người cho rằng ngoài thế giới vật chất không có gì khác cả. Thượng đế không hiện hữu và trong con người của họ không có thành phần nào vượt khỏi thế giới vật chất. Chỉ những gì có thể được phát hiện bằng giác quan vật lý hay dụng cụ khoa học mới có thật. Đây là loại chối bỏ Thượng đế của nhiều nhà duy vật khoa học.  
  • Những người nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất, nhưng họ không nối kết được sự sống đó với chính họ. Họ xem Thượng đế vượt quá tầm của họ. Họ nghĩ họ tách biệt khỏi Thượng đế và chỉ được cứu vớt bởi ai đó bên ngoài bản thân họ. Đây là sự chối bỏ Thượng đế của nhiều tín đồ chính thống trong bất kỳ tôn giáo nào, kể cả đạo Cơ đốc. Họ nhìn nhận là Thượng đế có hiện hữu nhưng họ chối bỏ là Thượng đế hiện hữu ngay nơi họ.
  • Những người đã bắt đầu nhận ra là mọi thứ đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế, nhưng họ vẫn thấy một sự tách biệt giữa thế giới vật chất và Thượng đế. Cho nên họ nghĩ là Ngài không thể làm được một số chuyện – chẳng hạn chữa lành bệnh tật – hay cho họ những thứ của thế giới vật chất. Họ nghĩ là họ phải lệ thuộc vào thế giới vật chất để sống còn và vui hưởng. Sự chối bỏ này là của nhiều người tâm linh chưa hoàn toàn thể nhập được lời dạy tâm linh chân truyền. Do đó họ chưa chứng được sự không dính mắc đích thực.  

Con nói đúng, tiến trình đạt tới sự không dính mắc là một tiến trình khắc phục tự ngã. Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế, vì Thượng đế không có đối nghịch. Đó là một cuộc chiến giữa dòng sống với tự ngã, và vấn đề đặt ra là liệu dòng sống có cho phép nó bị tự ngã kiểm soát, hay nó thấy nó là một vị đồng sáng tạo cùng với Hiện diện TA LÀ của nó. Con hãy nhớ rằng tự ngã được tạo ra trong sự tách biệt với Thượng đế, cho nên tự ngã là “người” duy vật tối hậu. Khi con đạt được sự không dính mắc hoàn toàn, tự ngã của con sẽ chết đi. Vì vậy có thể nói rằng nguồn gốc của mọi chủ nghĩa duy vật chính là tự ngã, cùng với các thế lực – ông hoàng của thế gian này – sử dụng tự ngã để kiểm soát dòng sống của con.

Một điểm chót. Khi con nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, con cũng nhận ra khái niệm thiếu thốn và khan hiếm là một ảo tưởng. Thượng đế không có giới hạn, và trong Ngài không hề có thiếu thốn. Đây chính là ý nghĩa thực sự của sự sống dồi dào. Khi con suy ngẫm nguyên nhân của dính mắc, con sẽ thấy là nó khởi lên từ ảo tưởng thiếu thốn – con tin rằng nguồn cung cấp không thể vô hạn, cho nên con cố bám giữ những gì con có. Một khi con thăng vượt ảo tưởng này, con sẽ nhận ra là nguồn cung cấp của mọi thứ tốt đẹp đều vô hạn, và do đó con có thể bắt đầu cho người khác những gì con có một cách tự do – con cho không – vì con biết là Thượng đế sẽ nhân lên những gì con hiến tặng. “Các con đã được lãnh không thì hãy cho không” (Matthew 10:8).

Và khi trên địa cầu có một số lượng tới hạn (critical mass) những người bắt đầu cho ra thay vì bám giữ những gì mình có, thì con sẽ thấy sự sống dồi dào thị hiện trên trái đất.   

Khác biệt giữa nỗi giận nhân thế và sự thịnh nộ thần thánh

Hỏi: Có lời ghi chép cho thấy là ngay cả thày, Giê-su, cũng đã từng nổi giận. Nếu thày, một vị chân sư thăng thiên, mà cũng biểu lộ giận dữ thì làm sao có thể chờ đợi là chúng con sẽ không nổi giận? Liệu thày có suy nghĩ hay sáng ngộ gì để chúng con suy ngẫm hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong một câu trả lời khác, ta đã có chia sẻ một số suy nghĩ về cách giải quyết nỗi giận nhân thế.

Khi con vượt lên khỏi nỗi giận nhân thế, con sẽ không nhất thiết luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ trong mọi hoàn cảnh. Trên hành tinh này có biết bao chuyện xảy ra hiển nhiển là không ăn khớp với định luật tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Cho nên việc thách thức các hành vi sai trái của con người là một điều hoàn toàn thích hợp, kể cả việc biểu lộ những cảm xúc mạnh mẽ mà hầu hết mọi người sẽ coi là sự tức giận. Tuy nhiên khi con bắt đầu đạt tới một mức quả vị Ki-tô nào đó, con có khả năng phát biểu một cách nghiêm nghị và thẳng thắn mà không bị rơi vào độ rung động thấp kém của nỗi giận nhân thế. Con không đang bày tỏ một số cảm xúc mãnh liệt nhằm chê trách, đổ lỗi cho người khác, mà con bày tỏ cảm xúc mạnh mẽ để khiến cho người kia bị chấn động, bị lay chuyển ra khỏi trạng thái tâm thức cố hữu của họ. Mục đích là để họ có thể thấy được hành vi của họ là không phù hợp với các định luật của Thượng đế và do đó sẽ chỉ có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho họ mà thôi.

Ta cũng biết là chừng nào một người còn bị mắc kẹt trong rung động thấp kém của tâm nhị nguyên thì người đó sẽ không thể hiểu nổi điểm khác biệt này. Thế nhưng có sự khác biệt rất rõ rệt giữa độ rung của nỗi giận nhân thế và độ rung của cái mà chúng ta có thể gọi là sự thịnh nộ thần thánh (holy wrath). Làm thế nào con phân biệt được thịnh nộ thần thánh với nỗi giận nhân thế? Thịnh nộ thần thánh có thể vô cùng quyền oai, nhưng nó sẽ tức khắc biến mất một khi nó đã hoàn thành mục đích, và nó sẽ không ảnh hưởng vĩnh viễn đến cách nhìn hay tình cảm của con đối với người kia. Trong khi đó, nỗi giận nhân thế sẽ vương vấn ở lại với con một thời gian sau khi nó được biểu lộ, tựa nhưng một ngọn lửa cứ cháy âm ỉ thật lâu trước khi tàn lụi. Nó sẽ tô màu các ý nghĩ và cảm xúc của con đối với người kia trong suốt đời con, hay ít ra cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người đó. 

Thịnh nộ thần thánh thực sự là một biểu lộ của tình thương vô điều kiện của Thượng đế; nó không phải là loại tình yêu ủy mị, mềm mỏng mà hầu hết mọi người thường nghĩ. Tình thương vô điều kiện sẽ không để yên cho con đứng mãi trong một ý niệm bản sắc giới hạn. Cho nên nếu con cứ khăng khăng ôm giữ các giới hạn đó, thì một người đã đạt được một mức quả vị Ki-tô nào đó sẽ có thể trở thành một cánh cửa mở để cho tình thương vô điều kiện tỏ lộ. Tình thương vô điều kiện này có thể diễn đạt một cách rất nghiêm nghị hầu gây sốc khiến con phải bước ra khỏi trạng thái tâm thức hiện thời của con, và ở cùng cực, trạng thái tâm thức này sẽ dẫn con đến sự tự hủy diệt. Đương nhiên tình thương vô điều kiện sẽ không muốn con tự hủy dịêt, cho nên nó sẵn lòng bày tỏ một cách vô cùng thẳng thắn để con hiểu rõ là con đang đứng ở bở bên kia của quy luật Thượng đế.

Điều ta cũng muốn nói là trong một vài dịp đã được thuật lại trong kinh thánh, cá nhân ta đã từng trở thành công cụ cho tình thương vô điều kiện đó của Thượng đế. Những dịp đó thường bị hiểu lầm là nỗi giận nhân thế, và suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã lấy chuyện đó làm cái cớ để họ bộc lộ sự nóng giận phàm phu của họ. Điều này thật đáng tiếc, vì nó ngăn cản họ giải quyết căn nguyên của sự nóng giận phàm phu để mà vươn lên một mức tâm thức cao hơn.

Ta cũng nhìn nhận là có những lúc ta đã biểu lộ một nỗi giận nhân thế, và có một ví dụ là khi ta nguyền rủa cây sung, như ta đã từng giải thích. Con thấy đó, ngược hẳn với các niềm tin sùng bái thần tượng của bao tín đồ Cơ đốc giáo, ta đã không hề là một con người toàn hảo, và trước khi lên thập tự giá, ta cũng chưa giải quyết xong mọi khía cạnh tâm lý của mình. Ta đã có thể đạt tới điểm đó nếu ta có thêm chút thời gian, nhưng do các biến cố dồn dập xảy đến, ta đã chưa giải quyết xong mọi khía cạnh của các vết thương lẫn các điểm tắc nghẽn trong tâm lý trước khi bị đóng đinh.

Tuy nhiên, con hãy cảnh giác xu hướng của các thày giả muốn con nghĩ rằng nếu con là người tâm linh thì con phải toàn hảo theo một chuẩn mực mà không ai có thể định nghĩa rõ ràng là gì. Sứ vụ của ta cách đây 2000 năm thật không dễ dàng. Ta đã sống qua những thời buổi khó khăn, ta đã cảm xúc, và ta đã biểu lộ những cảm xúc của con người nhân thế. Tương tự như vậy, sứ vụ của các con ngày nay cũng không dễ dàng, cho nên nếu có lúc con có cảm xúc nhân phàm thì điều này cũng là bình thường, tự nhiên.

Nhưng một khi hoàn cảnh trôi qua thì ta buông bỏ các cảm xúc đó. Nói cách khác, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, có thể con sẽ vẫn còn một số cảm xúc nhân thế. Chỉ dấu của một người đang tiến lên quả vị Ki-tô không phải là người đó toàn hảo, người đó không bao giờ cảm thấy hay không bao giờ biểu lộ cảm xúc nhân thế. Mà chỉ dấu là người đó có khả năng buông bỏ cảm xúc nhanh chóng để bước đi tiếp trong sứ vụ của mình. Con không cho phép cảm xúc của mình điều khiển cuộc đời mình, mà con để yên cho cảm xúc xuôi chảy tự nhiên, rồi sau đó con quay trở lại với bước đường của con.

Maitreya có phải là đấng cứu tinh đích thực?

Hỏi: Có đúng chăng đức Maitreya [Phật Di Lặc] là vị cứu tinh sắp tới sẽ xuất hiện trong một biểu hiện không thể phủ nhận và sẽ đưa địa cầu cùng nhân loại vào một thời đại hoàng kim? Có đúng chăng đức Maitreya đã hiện thân trong cõi vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 23/11/2010. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con đọc các bài giảng của ta về con đường chân chính của Ki-tô, con sẽ thấy là chúng tôi các chân sư thăng thiên có mục đích đánh thức tất cả mọi người về nguồn gốc và tiềm năng thần thánh của mình bằng cách giúp con người khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng của phản-Ki-tô. Điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ không đến “cứu nhân loại” và cũng sẽ không xuất hiện trong một biểu hiện ngoạn mục mà không ai có thể chối cãi. Làm như vậy sẽ chỉ củng cố thêm cho ảo tưởng tách biệt, và điều này sẽ đi ngược lại sứ vụ thực sự của chúng tôi.

Nếu muốn hành tinh này được nâng lên để bước vào một Thời đại Hoàng kim, thì điều này sẽ không xảy ra do một thế lực bên ngoài – cho dù đó là chính ta, là Maitreya hay là một UFO (vật thể bay không xác định) nào đó sẽ ra tay làm mọi chuyện dùm cho loài người. Mà điều đó sẽ xảy ra do có một túc số tới hạn (critical mass) những con người trên hành tinh này phát hiện và nhận diện chính tiềm năng Ki-tô của mình. Thượng đế sẽ không giải cứu địa cầu qua trung gian của ta, mà Thượng đế sẽ giải cứu thế giới qua trung gian chính con cùng rất nhiều người giống như con – nếu các con trở thành những cánh cửa mở.

Cho nên lập luận cho rằng Maitreya sẽ hiện ra trong một biểu hiện thật ngoạn mục và sẽ giải quyết mọi vấn đề của nhân loại, là hoàn toàn không phù hợp với các chân sư thăng thiên cũng như với thời đại Bảo bình. Đó là một biểu hiện của tâm thức tha hóa thời Song ngư và từ lâu nay đã lỗi thời rồi. Đây là cùng cái tâm thức của các sinh thể sa ngã khi chúng tâng bốc ta lên thành một ngoại lệ để khiến mọi người không thể nào nắm bắt được thông điệp đích thực của ta rằng ai ai cũng đều có một tiềm năng Ki-tô.

Tương tự, lời cả quyết rằng Maitreya đã hiện thân vật lý cũng không phù hợp với lời dạy của đạo Phật về đức Phật tương lai. Maitreya sẽ không hiện thân như một người độc nhất. Maitreya sẽ có thể “hiện thân” qua nhiều người, là những người đã trở thành cánh cửa mở cho thày cùng ánh sáng và sự thật của thày. Tuy nhiên, điều này sẽ không hoàn toàn là một sự hiện thân, không hơn gì khi bảo rằng Thượng đế đã hiện thân qua chính bản thân ta khi ta đầu thai là một con người. Nói cách khác, sự viên mãn của một sinh thể thăng thiên sẽ không hiện thân qua một cá nhân hay ngay cả một nhóm người.

Là sứ giả trong Thời đại Bảo bình

Hỏi: Con ngạc nhiên khi được biết là các chân sư thăng thiên đôi khi nói cho người nghe những gì họ muốn nghe, thay vì thách đố các tin tưởng của họ. Thày có thể cho con một tầm hiểu sâu hơn về lý do tại sao như vậy? Hơn nữa, các giáo lý về bất nhị liên hệ thế nào với cái nhìn đó? Liệu một người ở trong tư duy nhị nguyên có thể nào trở thành sứ giả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những sự thật cơ bản về việc khải thị hay truyền đạt từ cõi tâm linh là người giữ vai trò sứ giả sẽ chỉ hữu dụng cho các chân sư thăng thiên khi người đó trung hòa về một đề tài nào đó. Cho nên nếu người truyền đạt có một ham muốn hay một quan điểm mạnh mẽ, thì người đó sẽ dễ dàng bắt sóng từ những sinh thể nơi các cõi thấp. Sẽ có những sinh thể sẵn sàng nói bất cứ gì người ta muốn nghe để thu hút sự chú ý và do đó cũng thu hút ánh sáng tâm linh của những người này. Ý ta muốn nói là một người với tư duy đen trắng hay một người với tư duy xám đều không thích hợp để làm sứ giả.

Là một người tầm đạo, con cần quyết định liệu con có muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói cho con nghe những gì con muốn nghe – và như vậy cũng sẽ xác nhận hộp tư duy của con và khiến con khó nhìn vượt ra ngoài – hay con sẽ muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói với con những gì con cần nghe hầu con thăng vượt hộp tư duy của con. Chỉ các chân sư thăng thiên mới tự do nói cho con những điều con cần nghe vì các thày không cần bất cứ gì từ con. Các thày tự đủ về mặt tâm linh và không cần đến ánh sáng của con.

Tuy nhiên các thày, các chân sư thăng thiên, thỉnh thoảng cũng đã nói cho người ta nghe những gì họ muốn nghe, vì một khi họ đóng chặt tâm họ lại về một tình trạng nào đó – chẳng hạn như lòng kiêu mạn tâm linh – thì chọn lựa duy nhất còn lại cho các thày là đưa ra những lời sẽ khuếch đại tình trạng đó lên để khiến nó lộ ra rõ hơn và họ sẽ dễ nhìn thấy hơn. Ví dụ trong quá khứ, các thày đã có đưa ra những lời lẽ nhằm khuếch đại tư duy cuồng đại nơi một số người, khiến họ cảm thấy họ là đệ tử cao cấp nhất trên hành tình này. Tuy thế, các thày đã không bao giờ làm vậy mà không đồng thời ban truyền những lời dạy nhằm thách đố tình trạng đó và trao cho họ một phương cách thăng vượt tình trạng đó. Cho nên thử thách của họ là liệu họ sẽ chỉ bắt lấy những gì họ muốn nghe và bỏ qua những gì họ không muốn nghe.

Tuy nhiên với Thời đại Bảo bình vừa khai mạc, một sự xoay chuyển đã xảy ra. Do đó các thày sẽ không còn dùng cách thức đó nữa và sẽ chỉ nói cho mọi người những gì họ cần nghe, hầu họ có được một khung tham chiếu để thách đố các ảo tưởng của tự ngã. Đồng thời, điều này cũng có nghĩa là các thày không còn có thể sử dụng bất kỳ sứ giả nào không trung hòa.

Nếu có ai vô cùng mong muốn thấy một quan điểm là đúng thì người đó không thể giúp được các thày nữa. Nếu họ có những dính mắc cá nhân kiên cố, đặc biết nếu họ tự cho mình là tốt đẹp hơn người hay không thể sai lầm, thì họ không thể làm sứ giả cho các thày được nữa. Nếu họ có những ác cảm cá nhân, không hoàn toàn trung hòa và không khoan dung đối với mọi người, thì họ không thể được dùng làm sứ giả nữa. Nói cách khác, trong thời đại của tự do, các thày cần đến những sứ giả đủ tự do để nhận được thông điệp mà không thêm vào bất cứ màu sắc nhị nguyên nào. Tất nhiên, luôn luôn sẽ có một sự tô màu nào đó do cá tính cùng gốc gác văn hóa của người đó, nhưng màu sắc này không giống như màu sắc nhị nguyên.      

Con thấy đó – phải không con? – điều hợp lý là muốn trở thành một sứ giả chính đáng trong thời đại tự do, con phải trước tiên đạt được một trình độ tự do bản thân cao độ. Con cần nhìn nhận là trong Thời đại Song ngư vừa qua, tư duy cuồng đại là một trong những thách đố lớn nhất mà con người cần vượt qua. Cho nên các thày đã, và đã có thể, ủy nhiệm một số vị sứ giả vẫn còn trong tư duy đó. Những vị đó đã được phép “tô màu” giáo lý của tổ chức họ với tư tưởng cuồng đại cho rằng có một cuộc chiến giữa thiện và ác. Nhưng đồng thời, tổ chức đó cũng đã đưa ra những lời dạy hướng đến một tâm thức vượt khỏi đấu tranh nhị nguyên.

Thời đại Bảo bình này sẽ chỉ biến thành một Thời đại Hoàng kim nếu đại đa số người tâm linh thăng vượt tư duy cuồng đại. Cho nên các thày sẽ không còn dùng bất kỳ sứ giả nào chưa thăng vượt được tư duy đó hay chưa có nỗ lực chân thành để thăng vượt nó. Bất cứ ai nhấn mạnh đến tranh đấu nhị nguyên và khuyến khích người khác tự xem mình là người tranh đấu cho cái thiện để chống lại cái ác, không phải là một sứ giả chân chính. Con không thể là một sứ giả trong Thời đại Bảo bình nếu con nghĩ con chống lại bất cứ ai hay bất cứ gì. Con cần thuận theo sự thật thay vì chống lại những gì con định nghĩa là dối trá bằng tư duy nhị nguyên.

Trong quá khứ, các chân sư thăng thiên đã ban ra nhiều giáo lý được thích ứng với những người còn trong tư duy nhị nguyên, và vì vậy các thày sẽ ngừng không đặt trọng điểm vào đó nữa mà sẽ tập trung vào giáo lý cho tư duy Thời đại Bảo bình dựa trên hợp nhất. Bởi vì chỉ trong hợp nhất mới có tự do, trong khi trong tách biệt chỉ có thể có giam hãm.

Nhưng tư duy cuồng đại cũng không thể được khắc phục bằng cách bước vào tư duy xám. Cho nên bất cứ sứ giả nào nhấn mạnh sự đồng đều mà không có phân biện Ki-tô thì, tương tự như trên, cũng sẽ không hữu dụng trong vai trò một sứ giả chân chính. Phân biện Ki-tô là một thế cân bằng tinh tế giữa hai yêu cầu: vừa không rơi vào một đối cực nhị nguyên, vừa không đứng giữa. Phân biện Ki-tô là thăng vượt nguyên cái thang điểm nhị nguyên và trải nghiệm một sự thật vượt ra ngoài ngôn từ. Nhưng một khi con biết sự thật đó rồi, con sẽ có khả năng nhận được những ngôn từ ít nhất không mang màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm con.

Tất nhiên, điều này không đảm bảo là những ngôn từ đó sẽ không khoác vào một màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm của người đọc. Tuy nhiên, đó không là mối quan tâm cho các thày vì các thày tôn trọng quyền tự quyết và không bị dính mắc vào cách người ta tiếp nhận giáo lý của các thày như thế nào. Các thày chỉ đơn giản cố tìm cách làm cho con đường thật dễ hiểu, và các thày mãn nguyện khi biết rằng mình đã trao cho mọi người một cơ hội để vượt thăng nhị nguyên. Nếu người ta thích đi rong thêm một vòng, hoặc trong một cực đoan phán xét nhị nguyên dựa trên hình dạng vỏ ngoài, hoặc trong cực đoan ngược lại là lòng hòa hoãn thiếu hẳn tính phân biện, thì cũng chịu thôi.   

Con có thực sự thấy những gì ta nói? Câu hỏi cơ yếu là liệu con – bất kể con là sứ giả hay đệ tử – con có hiểu được là sự thật Ki-tô vượt khỏi bất kỳ hệ thống nào tìm thấy trên trái đất, thậm chí vượt khỏi cả sự diễn tả của ngôn từ hay không? Cho nên nếu con có bất kỳ thành kiến nào muốn chứng thực một hệ thống, một triết lý hay ngay cả một thái độ nhất định, thì con sẽ không cởi mở với lời dạy của chân sư thăng thiên. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra với các sinh thể chưa thăng thiên, và quả vậy, họ sẽ xác nhận hệ thống của con.

Họ làm vậy chính là vì họ chưa đạt đến một trình độ điều ngự cho phép họ nhìn vượt quá nhị nguyên và thoát khỏi tâm phán xét – hay cái tâm thiếu phán xét – không có khả năng trực tiếp biết được sự thật. Cho nên các sinh thể này vẫn tin vào ảo tưởng cốt lõi cho rằng sự thật có thể được nhận biết qua ý tưởng và khái niệm thay vì bằng chứng ngộ (gnosis). Họ vẫn tin là con – như một chủ thể – có thể biết một khách thể, một đối tượng, qua một khái niệm trong tâm con. Kỳ thực, con sẽ chỉ thực sự biết được một khi cái Ta Biết của con hòa nhập với tâm thức đã kết đọng (precipitate) đối tượng đó, để hàng rào giữa chủ thể và khách thể tan biến.

Ai ai cũng có thể đạt đến sự chứng ngộ đó, nhưng đối với hầu hết mọi người, làm vậy sẽ tốn thời gian. Tuy nhiên, điều hầu hết mọi người có thể đạt được rất nhanh chóng là một cái hiểu về hai đối cực nhị nguyên cùng nhu cầu không để chúng lừa dối mình. Khi con bắt đầu hiểu bằng cách nào tâm nhị nguyên đã đánh lừa loài người từ hằng hà thiên kỷ, thì con sẽ khó lòng nào đưa một hệ thống thế gian lên địa vị cao trội rồi dùng hệ thống đó để phán xét người khác. Thay vào đó, con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn những loại hệ thống vỏ ngoài như vậy, thậm chí vượt xa hơn cả ngôn từ. Và khi học trò sẵn sàng cho một lời dạy cao hơn, thì đúng vậy, vị thày sẽ xuất hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Đối với một học trò bị tâm nhị nguyên làm cho mù quáng, một vị thày bất nhị sẽ hiện ra như một con kiến, vì vị thày này sẽ không xác chứng cho cái nhìn cuồng đại của học trò. Vì vậy mới có lời khuyên muôn đời: “Nếu vị thày là một con kiến, con hãy lắng nghe!”

Nhịn ăn có là cách gia tốc sự tăng triển tâm linh?

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thày có ý kiến gì về việc nhịn ăn – theo nghĩa là kiêng hẳn mọi loại thức ăn – như một cách để gia tốc sự tăng triển tâm linh của một người? Ý nghĩ rằng con có thể sống 40 ngày nhịn ăn hoàn toàn như thày đã từng làm khi thày đi vào vùng hoang dã – cũng tương tự như nhiều người tầm đạo khác, những người tu khổ hạnh cùng những vị ẩn sĩ – đã gây rất nhiều cảm hứng cho con. Cho nên câu hỏi của con là như sau: Làm vậy có thể đem lại ích lợi hay tổn hại gì không? Làm thế nào một người có thể nhịn ăn mà không gây tổn hại cho bản thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 26/5/2011. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta thực sự không khuyến khích bất cứ ai tính chuyện nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày liền. Đơn giản là không có cách nào làm vậy mà không gây hại cho cơ thể của con, và làm vậy cũng không đem lại lợi ích tâm linh nào.

Đây là một hiểu lầm về câu chuyện ta đã sống 40 ngày trong sa mạc mà không ăn uống gì. Đối với bất kỳ khía cạnh nào của đời ta, con có thể có hai cách tiếp cận cơ bản. Một là cách tiếp cận hoàn toàn theo nghĩa đen, tức là con cho rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế đúng từng chữ một, cho nên bất cứ gì ghi chép trong kinh sách đều đã xảy ra y như mô tả. Với cách tiếp cận này, con sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa chân thực của các lời dạy cùng tấm gương của ta. Còn cách thứ hai là con nhận ra là ngay cả những sự việc gọi là cụ thể trong kinh sách cũng có ý nghĩa sâu xa hơn, và vì vậy con phải luôn luôn nhìn xa hơn cách diễn giải theo nghĩa đen. Vậy đâu là ý nghĩa sâu xa của việc ta sống 40 ngày ở vùng hoang dã?

Con có thể coi chuyện này minh họa cho sự tương phản giữa hai loại môi trường. Một đằng con có xã hội loài người, một môi trường nơi hầu như mọi thứ đều nằm dưới sự kiểm soát của luật lệ và tư duy con người. Đằng khác, con có “vùng hoang dã”, một môi trường không do con người điều khiển và gần gũi hơn với trạng thái tự nhiên. Cho nên đây là biểu tượng cho sự kiện ta đã rút lui trong một thời gian ra khỏi thế giới của các quy luật, các tín điều, các niềm tin cùng tư tưởng do con người tạo ra. Tuy nhiên, làm vậy không nhất thiết có nghĩa là ta đi vào thiên nhiên, vì con có thể làm vậy gần như ở mọi nơi miễn là con ở một nơi yên tĩnh và con tắt bớt các loại phiền nhiễu bên ngoài. Thậm chí con có thể ở ngay giữa thành phố, mặc dù điều này sẽ khó hơn một chút do tâm thức tập thể náo nhiệt hơn.

“Nhịn ăn” không nhất thiết liên quan gì đến thức ăn. Ta đã “nhịn ăn” bằng cách làm rỗng tâm mình cho không còn những ý tưởng nhân tạo, và như vậy ta đã tạo ra một khoảng trống giúp tâm mở ra đón nhận những ấn tượng trực giác từ một nguồn cao hơn, tức là từ Hiện diện Ta Sẽ Là và các vị thày tâm linh của ta.

Con có thấy điều ta muốn nói? Đâu là mục đích của con khi con muốn nhịn ăn? Nếu đó là để đạt đến một trạng thái tâm thức tâm linh hơn thì con đâu cần gì phải kiêng ăn. Con sẽ cần kiêng một vài loại thực phẩm nặng nề như thịt chẳng hạn, và con cần không ăn quá nhiều. Nhưng không nhất thiết con phải nhịn tất cả mọi thức ăn – và quả thực, làm vậy còn có thể phản tác dụng.

Con sẽ cần gì để có trải nghiệm tâm linh hơn? Tất cả mọi thứ trong đời con đều xoay quanh sự chú ý. Nếu chú ý của con tập trung vào việc thế gian thì con sẽ khó lòng hơn có được trải nghiệm tâm linh. Cho nên để có những trải nghiệm cao hơn, con cần hướng chú ý ra khỏi những chuyện nhân thế, kể cả cơ thể vật lý.

Thế nhưng thực tế đơn giản là việc nhịn ăn không phải là cách hay nhất để hướng chú ý ra khỏi cơ thể. Hầu hết những ai đã nhịn ăn toàn diện đều nghiệm được là việc nhịn ăn thật khó thực hành đến độ họ sẽ càng chú ý nhiều hơn đến cơ thể nếu họ nhịn ăn càng lâu. Cho nên ý nghĩa thực sự của “nhịn ăn” là con quay chú ý ra khỏi các vấn đề thế gian để tập trung vào những việc tâm linh. Nhưng ngay cả điều này cũng cần được hiểu một cách sâu sắc hơn. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng tập trung vào chuyện tâm linh có nghĩa là họ phải dùng trí năng để tìm hiểu một giáo lý tâm linh hay tu tập một kỹ thuật tâm linh nào đó.

Điều này, ở một mức nào đó trên đường tu, không cứ là vô giá trị, nhưng một khi con đạt đến những tầng cao hơn thì “nhịn ăn” thực sự có nghĩa là làm rỗng tâm mình và hòa điệu tâm với Hiện diện của con. Nhịn ăn có nghĩa là tập trung vào việc trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết để con thực sự trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện, có nghĩa là không có định kiến nào sẽ pha màu các ấn tượng từ Hiện diện gửi xuống. Con không thể làm được điều này ở các tầng thấp hơn trên đường tu, nhưng ở các tầng cao hơn, đây chính là mục tiêu chủ yếu của con.

Có hai điều đã xảy ra trong nhiều thế kỷ đã qua. Trước hết, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng đoạt bởi những kẻ chỉ biết hiểu theo nghiã đen, họ cho rằng mọi thứ phải được diễn giải theo nghĩa đen, theo định nghĩa của họ về nghĩa đen. Và thứ nhì, vào thời Trung cổ, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng chiếm bởi những kẻ chỉ biết coi cuộc sống là sự khổ đau.

Nếu con nhìn hầu hết các tác phẩm nghệ thuật vào thời đó, con sẽ thấy người ta vẽ hình ta bị treo thân trên thập tự giá, đang đau đớn vô cùng tận. Cho nên thay vì chú tâm vào lời dạy tích cực của ta – tức là ta đến đây để ban sự sống cho con người cùng sự sống dồi dào hơn nữa – thì đạo Cơ đốc đã chú tâm vào mấy tiếng đồng hồ ta bị khổ nạn trên thập tự giá. Thế rồi khởi lên niềm tin cho rằng chính khổ nạn của ta trên thập tự giá đã “mua chuộc” được sự cứu rỗi cho loài người qua việc, một cách nào đó, ta đã đền bù cho tội lỗi của mọi người.

Con dễ dàng thấy được là điều này đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin lâu đời cho rằng khi người ta hiến tế một con vật – bằng cách để nó chảy máu cho đến chết – thì người ta có thể trả tội cho chính mình. Niềm tin này ngược hẳn với lời dạy chân chính của ta, thế nhưng nó đã dần dần chi phối cái nhìn của con người về sứ mạng của ta. Kết quả là người ta dần dần tin rằng Thượng đế – mà ai nấy đều xem là thiện lành – đòi hỏi con phải đau khổ trước khi con có thể rửa sạch tội lỗi của con. Con có thể thấy được sự điên rồ của niềm tin này khi con xem xét điều sau đây. Con đã làm một việc gì khiến ai đó bị đau khổ. Con nhìn nhận sự kiện này, thế là bây giờ con tự nguyện đặt mình vào một tiến trình tạo đau khổ cho chính mình, vì con nghĩ cái khổ thứ nhì này sẽ một cách nào đó đền bù cho cái khổ đầu tiên kia.

Thế nhưng trong thế giới ngày nay, con biết rõ là mọi thứ đều là năng lượng. Con gây cho ai điều gì thì nó sẽ tạo ra một khối năng lượng tha hóa. Và khi con khiến con cũng phải đau khổ thì con lại tạo thêm năng lượng tha hóa nữa. Hai cái sai không tạo thành một cái đúng, vì năng lượng tha hóa không thể loại trừ năng lượng tha hóa. Cách duy nhất để bù lại tội lỗi của mình là tạo năng lượng tích cực, và quả vậy năng lượng tích cực có khả năng biến hóa năng lượng tha hóa. Nhưng nó chỉ làm được chuyện này nếu cả hai bên đều thực sự tha thứ cho nhau. Đây chính là tại sao ta nhấn mạnh đến việc tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Cho nên ý ta muốn nói là suốt nhiều thế kỷ, chính sự tập trung vào khổ đau đã khiến con người nghĩ rằng, bởi vì việc nhịn ăn tạo ra đau đớn, cho nên đó là một cách để con trả tội. Xong lại có thêm niềm tin bảo rằng con đau đớn càng nhiều thì con càng trả được nhiều tội. Rồi giờ đây người ta nối liền niềm tin này với quan niệm là ta đã nhịn đói suốt 40 ngày, thế là một số người tưởng rằng đó là phương cách tối hậu để đạt được đau đớn qua nhịn ăn. Thậm chí một số còn nghĩ là nếu họ bỏ mạng sau khi nhịn đói 40 ngày, nhất định họ sẽ được tưởng thưởng trên cõi thiên đàng. Họ nghĩ: “Chắc chắn tôi sẽ không chết.”

Con có thấy chăng đây là một sự hiểu lầm toàn diện? Trước hết, việc cố nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày sẽ khiến cho nhiều người bỏ mạng, và hiển nhiên việc tự vận không phải là cách đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Thứ nhì, những ai sống sót sau khi nhịn đói từng nấy ngày sẽ rốt cuộc tập trung gần như toàn bộ chú ý của mình vào nỗi đau của cơ thể, và điều này sẽ tước mất khả năng chú ý của họ ra khỏi việc làm cánh cửa mở cho Hiện diện. Vậy con được lợi gì khi làm vậy chứ? Thứ ba, việc cố tình gây ra đau khổ cho chính mình sẽ sản xuất năng lượng tha hóa sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Về con số 40 ngày, con cần suy xét sự kiện là cách đây 2000 năm, con người không có cùng khái niệm về con số như ngày nay. Trong thế giới hôm nay, hầu hết mọi học sinh đều hiểu được là người ta có thể đếm tới những con số rất cao. Chính các con đây khi còn nhỏ, có bao nhiêu người đã thử đếm đến một ngàn? Thế nhưng cách đây 2000 năm, đa số người lớn còn không biết đếm đến một ngàn chứ đừng nói tới chuyện hình dung ra con số này. Cho nên vào thời đó, người ta đơn giản không thể hiểu được những loại số mà ngày nay con thường dùng để tính toán món nợ quốc gia. Và ngay cả ngày nay, con sẽ thấy nhiều người khó lòng nào hình dung được số nợ khổng lồ của một quốc gia như nước Mỹ – vì đơn giản, con số quá lớn để có thể so sánh với bất cứ gì trong cuộc sống hàng ngày.

Có lẽ con có nghe nói là một số loài động vật không thể đếm nhiều hơn hai. Cũng giống như một số người thổ dân có thể phân biệt một với hai, nhưng bất cứ gì nhiều hơn hai thì họ sẽ gọi là “nhiều”. Cách đây 2000 năm có một cơ chế gần giống như vậy. Người ta có thể đếm đến một chục, nhưng bất cứ gì nhiều hơn đều được xem là “nhiều”. Từ được dùng vào thời đó nay được phương Tây dịch là “vô khối”, nhưng ngay cả từ “vô khối” cũng được dùng ban đầu để chỉ một số lượng không xác định, và chỉ ngày nay người ta mới gắn liền với một con số chính xác.

Cho nên khi Kinh thánh bảo rằng ta đã nhịn ăn 40 ngày thì con số thật sự không phải là 40. Đơn giản đó chỉ là một con số “nhiều” – ta đã trải qua nhiều ngày trong sa mạc.

Và sau đây là một điểm nữa. Ta đã đi vào vùng hoang dã – ta đã thật sự đi xa khỏi những nơi có người sinh sống – để có một trải nghiệm tâm linh, và ta đã chỉ ở đó vừa đủ lâu để có được trải nghiệm này. Và trong thời gian đó, ta đã ăn bất cứ thức ăn nào ta có thể tìm thấy để giữ cho cơ thể vừa đủ thoải mái mà không phải chú tâm đến cơ thể. Trái lại, ta giữ trọn sự chú ý xa khỏi mọi xao lãng bên ngoài để tập trung vào bên trong.

Cho nên nếu con cố bắt chước ta bằng cách cưỡng ép mình nhịn ăn 40 ngày liền, điều con thực sự làm là tự đặt mình vào một tâm trạng sẽ cản trở con đạt đến một trải nghiệm tâm linh đích thực. Bởi vì đơn giản, con sẽ không mở tâm ra và để yên cho trải nghiệm đó xảy ra theo nhịp riêng của nó, mà con sẽ tìm cách cưỡng ép nó. Và cái gì con cưỡng ép thì con cũng sẽ đẩy nó về phía trước mặt, giống như con lừa đẩy củ cà-rốt treo trên cái gậy trước mũi nó.

Bất cứ khi nào – ta nói rõ, BẤT CỨ khi nào – con tìm cách cưỡng ép một trải nghiệm tâm linh, thì con sẽ không có một trải nghiệm đích thực. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra cho các thế lực thấp kém, và quả thực chúng có khả năng cho con một trải nghiệm vượt trội trạng thái tâm thức bình thường của con, nhưng đó không phải là một trải nghiệm tâm linh đích thực vì nó không biến con thành cánh cửa mở cho Hiện diện của con hay cho các sinh thể thăng thiên. Suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã toan tính cưỡng đoạt thiên đàng bằng vũ lực và họ đã mở ra với các thế lực thấp kém mà cứ tưởng là mình vừa có một trải nghiệm tâm linh chân chính. Đó là tại sao những ai chưa quân bình, chưa có sự bảo vệ cá nhân cùng khả năng phân biện tâm linh (chưa phân biện được các linh thể), không nên toan tính chuyện nhịn ăn.

Con có thấy chăng là nhịn ăn có thể rất dễ dàng trở thành một trò chơi của tự ngã? Tự ngã muốn làm một chuyện gì đó cực đoan, vì hoặc nó muốn cao trội hơn người khác, hoặc thậm chí nó nghĩ nó có thể ghi điểm trước mắt Thượng đế.

Vì vậy để kết luận, cách nhịn ăn đúng đắn là con quay sự chú ý của con khỏi những gì đang kéo chú ý ra bên ngoài. Con cần làm rỗng tâm mình để con có thể là cánh cửa mở cho Hiện diện.

Cách duy nhất để thực hiện điều này là tiếp cận vịêc nhịn ăn y như con tiếp cận mọi chuyện khác trên đường tu: luôn luôn cố đạt được sự cân bằng. Đơn giản, đây là cách duy nhất để con vượt qua khai ngộ chạm trán với kẻ cám dỗ, như con sẽ làm mỗi khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn, hay như con cũng thấy khi ta từng bị ác quỷ cám dỗ sau “nhiều” ngày ở vùng hoang dã.

Con cũng cần nhìn ra là sẽ không xây dựng cho con nếu con chụp lấy những điều ta vừa nói ở đây để rút lui khỏi xã hội và tự cô lập mình. Việc rút lui trong một thời gian để thiết lập sự kết nối nội tâm với Hiện diện của con là một chuyện chính đáng, nhưng một khi con đã bắt đầu kết nối thì con có thể tham gia vào xã hội mà không đánh mất sự kết nối. Trong Thời Hoàng kim, các thày sẽ cần đến những người có khả năng tham gia vào xã hội mà đồng thời làm cánh cửa mở cho các tư tưởng từ cõi thăng thiên.

Thời nay, ta sẽ nói là cách quan trọng nhất để nhịn ăn KHÔNG PHẢI là từ chối ăn uống. Cách nhịn ăn tốt nhất là ăn đủ để cơ thể không là một vấn đề, và sau đó giữ cho tâm lánh xa khỏi toàn bộ hiện tượng “ô nhiễm thông tin” đang tấn công tới tấp con người hiện đại. Đối với con người hiện đại, trở ngại lớn nhất không phải là cơ thể vật lý, mà là tâm con bị kích thích quá đáng bởi đủ loại nguồn thông tin phóng tới con từ mọi phía.

Cho nên cách tốt nhất để nhịn ăn là tắt luồng thông tin đến từ ngoài. Sau đó con tắt sự oanh tạc nội tâm bởi chính tâm con, nó tạo ra đủ loại vấn đề để nó cố thuyết phục con phải giải quyết các vấn đề. Tất cả chỉ là chuyện theo dõi xem chú ý của con đang hướng về đâu. Vương quốc Thượng đế nằm ngay trong con, cho nên con sẽ không thể bước vào đó chừng nào con còn tập trung chú ý ra ngoài điểm tĩnh lặng bên trong con.

Vậy con hãy cố nhịn “thức ăn thông tin” trong một thời gian. Tin mừng là khi con nhịn không theo dõi những gì nhóm bạn của con đang làm trên Facebook, thì con sẽ không chết đâu con – cho dù là sau 40 ngày.

Đốn ngộ và tiệm ngộ

Hỏi: Một số vị thày tâm linh, đặc biệt trong số những vị dạy về bất nhị (non-duality), dường như bác bỏ hay thậm chí xem thường nhu cầu bước theo một con đường tu. Các vị đó dựa trên sự kiện là họ đã có chứng ngộ tự phát (spontaneous awakening) hay đốn ngộ, và một số dạy rằng đây là cách duy nhất và không có gì chúng con có thể làm để ngộ đạt. Một số cũng nói là việc duy nhất chúng con cần làm là sống trong giây phút hiện tại. Xin thày chia sẻ cảm nghĩ của thày vì thày thường hay nhắc đến một con đường tu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nhận xét đầu tiên của ta là không có giáo lý tâm linh nào có thể thích hợp với mọi người. Bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng bắt buộc phải được điều chỉnh để phù hợp với một tầng tâm thức nào đó. Khi con thấy các tầng tâm thức trên địa cầu này trải rộng trên một phạm vi rộng lớn như thế nào, thì thật không thể đưa ra một giáo lý thích hợp cho tất cả mọi người. Khi một vị thày tâm linh làm việc với các chân sư thăng thiên, vị ấy thường có thể đưa ra một giáo lý vượt quá kinh nghiệm riêng của mình. Nhưng khi một vị thày đứng riêng một mình thì giáo lý hầu như sẽ luôn luôn dựa trên kinh nghiệm cá nhân của vị ấy.

Việc này không có gì sai trái, nhưng con phải nhìn nhận là một giáo lý như vậy sẽ hiệu quả đối với những ai ở gần mức tâm thức của thày chứ không hiệu quả đối với người khác. Để ta lấy một ví dụ. Một vị thày có thể đã trải qua một bước đột phá tâm linh tự phát đưa ông lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Thế rồi ông giảng dạy dựa trên trải nghiệm này, và nói chung ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tu tuần tự có hệ thống. Ông cố đưa đệ tử đi vào một trải nghiệm tương tự như trải nghiệm của chính ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ các sáng ngộ mà ông đã nhận được sau khi đột phá.

Giả định nằm sâu bên dưới là nếu đệ tử nhận được sáng ngộ đúng đắn thì đệ tử cũng sẽ có được đốn ngộ giống như ông đã trải nghiệm. Đúng là điều này có thể xảy ra, nhưng chỉ với những ai đã gần đạt đến mức tâm thức mà ông đã có trước khi ngộ. Thế nhưng tuyệt đại đa số mọi người trên hành tinh này thì chưa đạt đến mức đó, cho nên không có một khối lượng sáng ngộ nào sẽ có thể đánh thức họ dậy một cách “tự phát” được. 

Nhiều vị thày tâm linh đã có một đột phá tự phát và tìm cách truyền đạt nó cho người khác. Một số vị như Krishnamurti chẳng hạn đã đi xa đến mức phủ nhận cả sự cần thiết của một con đường tâm linh lẫn của một vị thày tâm linh, cho dù là thày đang hiện thân hay đã thăng thiên. Tuy nhiên đối với những ai chưa đến gần được trình độ tâm thức của thày, kết quả cũng giống như thể con cầm một viên kẹo ngọt trước mặt một đứa bé trong khi con lại lái xe đi mất.

Hầu hết mọi người sẽ cần đi theo một đường tu tuần tự, có hệ thống, trước khi họ vươn đến một tầng tâm thức nơi họ có thể đột phá. Và điều này đòi hỏi một nỗ lực chuyên cần, bao gồm cả một số kỹ thuật tâm linh như các bài thỉnh, bài nguyện. Nếu họ cứ tin rằng tất cả những gì họ cần là một sáng ngộ đem lại cho họ một đột phá huyền diệu, thì điều này có thể làm chậm đáng kể bước tiến của họ. Con hãy tưởng tượng con đang bị lạc giữa rừng rậm. Bỗng nhiên ở trên cao con nghe thấy có tiếng máy bay trực thăng và có giọng ai đó vọng xuống: “Bạn hãy lên đây thì bạn sẽ thấy được lối ra khỏi khu rừng!” Nhưng nếu trên trực thăng không ném xuống một cái thang để con leo lên từng bước một thì làm thế nào con sẽ lên được tới mức đó?

Ý ta muốn nói là nhiều người gọi trải nghiệm của họ là đốn ngộ nhưng thật ra họ đã theo một con đường tu tuần tự, tiệm ngộ, trong những kiếp trước. Bây giờ họ có thể không còn nhớ, nhưng ở một thời điểm họ đã từng làm công việc này. Cho nên ta khuyên các đệ tử đừng bỏ các dụng cụ tâm linh, đừng bỏ đọc thỉnh đọc chú chẳng hạn.

Nhưng ở đây có một sự phân biện tinh tế mà con cần làm. Theo một nghĩa nào đó, thật là không sai khi bảo rằng con không thể LÀM gì để đạt đến giác ngộ. Bước đột phá chót của con phải xảy ra và sẽ xảy ra một cách tự phát qua một hồng ân được ban phát từ trên. Con không thể ép buộc nó xảy ra cho dù con có làm gì. Đây là tại sao ta thường hay nói đường tu không phải là một con đường vỏ ngoài máy móc và không có sự cứu rỗi nào là tự động hay bảo đảm.

Có thể nói là không có gì con có thể LÀM để đạt giác ngộ, vì điều ngăn cản con giác ngộ chính là cái tâm thức phải LÀM gì đó thay vì chỉ LÀ mà thôi. Tuy nhiên, điều ngăn cản con LÀ lại là sự phối hợp những niềm tin sai lạc với những năng lượng tha hóa được tích tụ trong bốn thể phàm của con. Nếu bỗng chốc có ai lột mất tất cả các niềm tin sai lạc này thì con sẽ phát điên, vì con sẽ không còn biết mình là ai nữa. Đó là vì sao cách duy nhất để tăng triển là bước theo một con đường tuần tự qua đó con biến hóa các năng lượng tha hóa và nhìn thấu các niềm tin bất toàn.

Và khi con làm sạch tâm con cho không còn các năng lượng và niềm tin này nữa, con sẽ giảm bớt từ lực đang cuốn hút con vào cái làm và cái nghĩ. Và điều này sẽ đưa con đến gần hơn với trạng thái mà Thiền gia gọi là “sơ tâm” – và ta thì gọi là trở thành giống như trẻ nhỏ. Thật không khó lắm để thấy được là hầu hết ai ai cũng đều bị vướng kẹt trong những vòng xoáy bất tận của hành động và phản ứng. Tâm thức tập thể này hình thành một cái gì giống như một thỏi nam châm khổng lồ. Con hãy tưởng tượng con đang đi ngang qua một thỏi nam châm to lớn mà trong túi lại có nhiều cục sắt. Nam châm sẽ hút lấy sắt và con sẽ bị cuốn hút theo. Tuy nhiên nếu con tuần tự vứt bỏ những cục sắt này đi thì lực hút kia sẽ giảm dần cho đến khi con có thể bước sát thỏi nam châm mà nó vẫn không thể nắm được gì ở con.

Cho nên có thể nói giác ngộ là trạng thái tự nhiên của tâm. Vấn đề xảy ra là tâm đã bị kẹt vào một mô thức làm và nghĩ, và mô thức này khiến nó luôn luôn bị bận rộn đeo đuổi một mục tiêu mà nó chưa nắm được. Cho nên nếu giác ngộ cũng trở thành một mục tiêu khác mà con cố đạt được bằng cách làm và nghĩ, thì đúng vậy, chính nỗ lực này sẽ kéo con xa khỏi giác ngộ. Tuy nhiên, điều kéo con vào cái làm và cái nghĩ chính là các niềm tin cùng các năng lượng kia. Nếu con vứt bỏ chúng đi, con sẽ dần dần đến gần hơn trạng thái tự nhiên. Và khi tâm đủ sạch không còn nhiều chướng ngại nữa, nó sẽ trở về trạng thái tự nhiên của nó một cách tự phát, không cần chút nỗ lực nào.

Và như vậy con sẽ có một bước đột phá tự phát có vẻ giống như đốn ngộ vậy, và theo một nghĩa nào đó, đó là đốn ngộ. Nhưng nếu con đã không đi theo con đường tiệm ngộ để làm sạch tâm con thì có bao giờ con có được cái ngộ này?

Một số vị thày nói rằng đa số người phương Tây suy nghĩ quá nhiều về quá khứ và tương lai. Tự ngã dùng quá khứ và tương lai để khuynh loát con người, nhưng tự ngã không thể hoạt động trong giây phút hiện tại, cho nên các vị thày khuyên đệ tử tập trung nhiều hơn vào hiện tại. Cách tiếp cận này không có gì sai vì quá nhiều người vẫn mang xu hướng chú tâm quá nhiều vào quá khứ lẫn tương lai. Đây là tại sao ta đã từng nói: “Vậy chớ lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày nấy.” (Matthew 6:34)

Ta đồng ý là tự ngã cảm thấy rất khó hoạt động trong giây phút hiện tại, và nếu con thực sự tỉnh thức trong hiện tại vĩnh cửu thì tự ngã sẽ không có chút ảnh hưởng nào trên con. Tuy nhiên, khi bảo đệ tử nên tập trung vào hiện tại thì điều này sẽ chỉ hữu ích cho những ai đã đạt đến một tầng tâm thức nào đó. Con cần một trình độ trưởng thành tâm linh cao để thực sự LÀ trong hiện tại, và cho đến khi con đạt đến mức này thì con sẽ không có khả năng LÀ.

Cho nên khi một đệ tử được dạy là họ phải ở trong hiện tại, kỳ thực họ không thể nào trải nghiệm cái LÀ trong hiện tại. Thay vào đó, họ sẽ hình thành một khái niệm trong lý trí về thế nào là ở trong hiện tại – dựa trên sự hướng dẫn của vị thày thay vì dựa trên kinh nghiệm cá nhân của họ. Và ở đây tự ngã sẽ dư sức khuynh đảo bất kỳ khái niệm tư tưởng nào mà con người tạo ra. Điều này sẽ dễ dàng dẫn một số người bước vào một cách tiếp cận mất quân bình về cái là trong hiện tại. Thật ra khái niệm LÀ trong hiện tại không mới mẻ gì, vì đức Phật đã đầu tiên dạy về khái niệm này, rồi suốt bao nhiêu thế kỷ nhiều người đã đi theo một cách tiếp cận mất quân bình khiến họ rơi vào một trong hai cực đoan:

  • Một số người suy luận, LÀ trong hiện tại có nghĩa là họ có thể làm ngơ quá khứ. Bằng cách đốn ngộ, họ sẽ khắc phục được quá khứ mà không phải đương đầu với nghiệp quả hay các vết thương tâm lý. Cho nên họ bắt đầu tìm kiếm một sáng ngộ thần diệu sẽ làm mọi chuyện giùm họ. Một lần nữa, một sự đột phá có thể xảy ra nếu trong kiếp trước họ đã khắc phục nghiệp chướng cùng các vết thương của họ, nhưng đối với hầu hết mọi người thì không như vậy. Cho nên đối với đa số, việc làm ngơ quá khứ sẽ khiến cho bước tiến của họ bị chậm lại. Họ có thể tiến nhanh hơn rất nhiều nếu họ dùng tất cả các phương tiện có sẵn để giải quyết tâm lý của họ, khắc phục các niềm tin nhị nguyên và thanh tẩy mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp – từ những kiếp trước.
  • Một số người suy luận là họ có thể ngừng suy nghĩ về tương lai, kể cả việc hoạch định cuộc đời của họ. Một số còn đi xa tới mức cho rằng Thượng đế sẽ chăm lo mọi chuyện một cách mầu nhiệm, và điều này đã khiến một vài người tầm đạo chân thành tự vận qua sự buông xuôi. Đây chính là cái chiêu mà ác quỷ đã sử dụng để cám dỗ ta sau khi ta trở về từ đồng vắng: “Và y nói rằng: Nếu ngươi là Con của Thượng đế thì hãy gieo mình xuống đi. Vì có lời chép rằng: Ngài sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ cho ngươi, để các thiên sứ nâng ngươi lên trong tay, kẻo chân ngươi khỏi vấp phải đá. Giê-su bảo y: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng cám dỗ đức Chúa là Thượng đế của ngươi.” (Matthew 4:6-7)     

Ý ta muốn nói là con nên có một cách tiếp cận cân bằng cho mọi chuyện trong đời. Con hãy biết là tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách đẩy con vào cực đoan dù là bên này hay bên kia.

Một điểm chót mà ta muốn trình bày là một số vị thày đưa ra lời dạy về tâm có thể dễ dàng bị người ta ngộ nhận, rằng tâm là kẻ thù của đường tăng triển tâm linh. Quả là không sai khi nói rằng một tâm trí năng động quá mức, đặc biệt một trí thông minh đã nẩy nở sành điệu, có thể là một trở ngại cho sự phát triển tâm linh, vì tâm linh vốn là một tiến trình trực giác nhiều hơn là trí năng. Tuy nhiên, nếu con tin chính tâm con là một kẻ thù thì cách tiếp cận này không xây dựng, vì nó sẽ chỉ khiến con trở thành một căn nhà phân rẽ với chính nó.

Cách nhìn đúng đắn là tâm giống như một căn nhà có đầy tớ phục vụ. Nó chỉ trở thành một kẻ thù nếu chủ nhà không chịu chủ động trong nhà mình. Chủ nhà này chính là con – cụ thể là cái Ta Biết – có nghĩa là con đã hoạch định mình sẽ điều phục phàm ngã của mình bằng cách nhận lấy trách nhiệm trở thành Ki-tô. Khi con tìm được con đường Trung đạo của Ki-tô, con sẽ không để cho tâm con sai khiến con, nhưng đồng thời con cũng không sai khiến tâm con đến độ dập tắt mọi tiềm năng sáng tạo. Thật vậy, nhiều người tâm linh đã sử dụng kỷ luật nghiêm ngặt để kiểm soát tâm mình đến độ họ quên mất là họ đã không đến trái đất để ngồi trong một hang đá thiền quán về Thượng đế, mà để là một người đồng sáng tạo hầu đem lại vương quốc của Thượng đế đến hành tinh này.

Tâm con có tiềm năng trở thành một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và điều này biến tâm con thành một phần nối dài của tâm Thượng đế. Mọi thứ đều được tạo ra từ tâm thức Thượng đế, có nghĩa là mọi thứ đều được cấu tạo từ tâm của Thượng đế. Cho nên khi tâm con đảm nhận vai trò đích thực của nó như một cá thể của tâm Thượng đế – thay vì như một tâm tách biệt khỏi nguồn cội của nó – thì tâm con cũng trở thành một cỗ xe để thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện, tức là ngự trị trên trái đất.

Ta cũng muốn nói rõ ở đây là ta không bảo con không nên đọc các giáo lý nói trên. Ta chỉ đơn giản xin nói là ta chờ đợi những ai đến thăm trang mạng này sử dụng những sáng ngộ mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu, học hỏi bất kỳ loại giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ gắng hết sức lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu phải quân bình. Nếu con chưa nhận ra là ta thường hay nói về quân bình thì ta khuyên con nên đọc trang mạng này một lần nữa và ghi nhận bao nhiêu lần ta đã nhắc đến quân bình như là yêu cầu quan trọng nhất trong sự phát triển tâm linh chân chính. Ta đặc biệt khuyên con nên đọc hai bài giảng của ta về tự ngã cùng tư duy đen trắng và tư duy xám.

Nếu điều này đã rõ, thật không ai chối cãi là một số vị thày đã trao truyền nhiều sáng ngộ có giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Hành giả ở mọi tầng tâm thức đều có thể được lợi lạc từ những sáng ngộ đó, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ rơi con đường tăng triển tâm linh tuần tự để chạy theo một sáng ngộ thần diệu nào đó sẽ bỗng chốc biến con thành một sinh thể giác ngộ. Điều tốt hơn hẳn là con nên tiếp tục tu tập có phương pháp, rồi để yên cho cái ngộ tự phát xảy ra – một cách tự nhiên. Việc tìm cách chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực chưa bao giờ đưa bất cứ ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

“Dấu hiệu từ Trời” có nghĩa là cái Ta Ki-tô đang cố liên lạc với con

Hỏi: Thưa thày Giê-su, không hiểu có chuyện “dấu hiệu từ Trời” hay không? Nếu con nhận xét thấy một số hiện tượng trong đời con, ví dụ như “thú vật quyền năng” [power animal, tức năng lượng tâm linh trong một vài truyền thống pháp sư shaman], hay liên tục nhận thấy một con số nhất định, hay như trong trường hợp của con nhận xét thấy những chiếc lông vũ, liệu đây có phải là sự xác nhận là con đang đi đúng đường? Khi một chiếc lông vũ hiện ra ở một nơi bất thường, điều này dường như đem lại an bình cho con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Phải, đó đúng là dấu hiệu “từ Thượng đế”. Các dấu hiệu này có thể mang nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cần hiểu tự thân dấu hiệu đó không phải là thông điệp. Cho nên con sẽ không bắt được thông điệp bằng cách cố diễn giải ý nghĩa của thông điệp là gì, và điểm này đã khiến cho nhiều người bị lầm lạc suốt các thời đại.

Con sẽ thấy một số người gần như bị ám ảnh phải cố tìm cho bằng được một dấu hiệu vỏ ngoài nào đó, và họ sẽ không lấy quyết định quan trọng nào nếu không nhận được dấu hiệu. Con thấy một số nền văn hóa đã đưa chuyện này đến mức cùng cực, chẳng hạn họ cố phỏng đoán ý muốn của thần linh qua việc đọc ruột những con vật được hiến tế. Thậm chí một số kẻ tầm đạo ngày nay cũng đi quá đà khi họ cố dùng tâm phân tích để bói toán qua thuật chiêm tinh, hay bói bài, hay một số biểu hiện ngoại cảnh nào đó.   

Ý ta muốn nói là điều thật quan trọng con cần hiểu là khái niệm “dấu hiệu từ Thượng đế” đã mang sẵn một sự mâu thuẫn nội tại, và nếu con không hiểu điều này thì sẽ thật dễ diễn giải sai lạc một dấu hiệu, thậm chí con còn chế tạo ra dấu hiệu trong tâm con. Ta đã có giải thích ở một nơi khác về tâm con người có xu hướng luôn tìm kiếm những khuôn mẫu quen thuộc trong những gì họ nhìn thấy.

Như ta giải thích khắp trang mạng này, con có một cái Ta Ki-tô đóng vai trò một vị thày tâm linh. Đa số mọi người không thể trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô của mình – mặc dù khả năng này có thể được trau dồi – cho nên họ nghe cái Ta Ki-tô của họ dưới hình dạng những sáng ngộ trực giác. Tiếc thay, hầu hết mọi người trong thế giới phương Tây đã không được nuôi dạy với hiểu biết về cái Ta Ki-tô hay giá trị của trực giác. Hậu quả là cái Ta Ki-tô rất khó lòng liên lạc với tâm ý thức của họ.

Nhiều người sống cả đời mà gần như không nhận được một thông điệp nào từ cái Ta Ki-tô của mình, và điều này khiến họ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để tăng triển. Tuy nhiên khi một dòng sống bắt đầu thức tỉnh về khía cạnh tâm linh của cuộc sống thì họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn. Nếu họ chưa mài sắc khả năng trực giác đến mức có thể tiếp xúc rõ ràng với cái Ta Ki-tô, thì quả thực cái Ta Ki-tô có thể tìm cách liên lạc với tâm ý thức của họ qua một số dấu hiệu ngoại cảnh.

Nhưng con hãy lưu ý là cái Ta Ki-tô luôn sẵn lòng cho con một sáng ngộ trực giác không tùy thuộc hay không cần đến một dấu hiệu bên ngoài. Ý ta muốn nói là nếu con có sự kết nối trực giác rõ ràng rồi thì dấu hiệu bên ngoài thật không cần thiết. Tâm ý thức của con có thể nhận được sự hướng dẫn của cái Ta Ki-tô mà không có dấu hiệu nào từ ngoài. Cho nên khi con nhận được một dấu hiệu từ ngoài, rất có thể đó là vì con chưa phát triển trực giác đến mức trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô, cho nên cái Ta Ki-tô phải dùng một dấu hiệu bên ngoài để thu hút sự chú ý của con.

Con có thấy sự phân biệt quan trọng này không? Kỳ thực cái Ta Ki-tô không đang cố gửi cho con một thông điệp qua một dấu hiệu bên ngoài, mà nó đang cố thu hút sự chú ý của con để khiến con nhận biết là con cần dùng trực giác của con hòa điệu với nó. Cái Ta Ki-tô không đang dùng dấu hiệu để bảo con: “Hãy làm chuyện này đi!” Nó dùng dấu hiệu để nói: “Hãy thức dậy và lắng nghe ta trong tim con, vì đó là nơi ta sẽ nói cho con biết những gì con cần biết!” Trong nhiều trường hợp, sự hướng dẫn mà con cần phức tạp hơn rất nhiều những gì có thể được phát biểu qua một dấu hiệu bên ngoài.

Khác biệt này thật là cơ yếu, vì giờ đây con thấy rõ là thật vô ích mà cố gắng diễn giải dấu hiệu đó bằng cái tâm vỏ ngoài phân tích hay bằng cảm xúc. Con sẽ không bao giờ có thể dùng tâm vỏ ngoài để đến được thông điệp ở đằng sau dấu hiệu. Và đây là vấn đề cốt lõi. Dấu hiệu sẽ cần thiết khi người đó bị cuốn hút quá mức vào tâm phân tích hay bị choáng ngợp bởi cảm xúc tiêu cực, và vì vậy, cái Ta Ki-tô không tài nào chạm được tâm ý thức của họ một cách trực tiếp. Phương cách duy nhất còn lại là cái Ta Ki-tô sẽ cố trao cho họ một dấu hiệu bên ngoài mà tâm ý thức để ý thấy. Tuy vậy, cái tâm phân tích năng động quá đáng của họ, hay các cảm xúc mất thăng bằng của họ, sẽ dễ dàng chụp lấy rồi cố sức diễn giải thông điệp đằng sau dấu hiệu. Điều này đã khiến cho rất nhiều người hiểu sai một dấu hiệu và sử dụng nó để biện minh cho những gì lý trí hay cảm xúc muốn nghe.

Cho nên nếu con nhạy cảm với các loại dấu hiệu, con hãy biết rõ xu hướng này và nỗ lực vượt ra khỏi tâm vỏ ngoài. Trong dài hạn, con hãy dùng các dụng cụ ta ban truyền trên trang mạng này để xây dựng sự hòa điệu của con với cái Ta Ki-tô.

Con cũng lưu ý là lời dạy này áp dụng cho mọi phương thức bói toán. Khi nào con hòa điệu thì cái Ta Ki-tô luôn luôn sẵn lòng nói cho con biết những gì con cần biết. Cho nên con thực sự không cần sử dụng bất kỳ hình thức bói toán nào để phát hiện ý muốn của Thượng đế, hay bất cứ điều gì con người có thể muốn biết.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc sử dụng một số cách bói toán có thể có chút giá trị nào đó trong việc kích hoạt sáng ngộ trực giác. Nhưng con luôn luôn cần biết rằng không có một hình thức bói toán nào có thể cho con một kết quả đúng đắn qua tâm vỏ ngoài. Thay vì tìm cách mài giũa khả năng dùng bói toán, con sẽ đạt được kết quả lớn hơn gấp bội nếu con dành cùng nỗ lực này để thiết lập mối liên lạc rõ ràng với cái Ta Ki-tô của con. Ta mong lời này đã đủ cho những người khôn ngoan.

Khác biệt giữa cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Khi tu tập về viễn kiến và hòa điệu nội tâm, làm thế nào biết được sự khác biệt giữa cái ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ? Con hiểu rằng cái ta Ki-tô là trung gian giữa phàm ngã và Hiện diện TA LÀ. Một số người xem cái ta Ki-tô là cái ta cao hơn. Điều này có đúng không? Và nếu vậy thì chúng con gọi Hiện diện TA LÀ là gì, cái Ta Thượng đế? Xin thày vui lòng giúp con rõ hơn về hai khai niệm này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Sẽ chính xác nếu con gọi cái ta Ki-tô của con là cái ta cao hơn (higher self) và Hiện diện TA LÀ của con là cái ta Thượng đế (God self) hoặc cái ta tâm linh (spiritual self).

Khi cha mẹ tâm linh của con tạo ra dòng sống của con, các vị ấy tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Đây là thành phần của con neo trụ cái cá thể độc đáo mà cha mẹ tâm linh của con đã phú cho con. Nó có tên là Hiện diện TA LÀ vì nó neo trụ cá thể của con và tạo nên sinh thể mà con là.

Hiện diện TA LÀ của con có thể được xem là ngọn lửa tâm linh của con, nhưng nó giống một ngọn lửa điện tử hơn là một ngọn lửa bình thường. Ngọn lửa Thượng đế của con có một cấu trúc độc nhất tương tự như một tinh thể (crystal), duy nó không được tạo bằng vật chất mà bằng năng lượng rung động nhịp nhàng. Khi ánh sáng thanh khiết của Thượng đế chiếu xuyên qua cấu trúc tinh thể của ngọn lửa Thượng đế, nó được cá thể độc đáo của con tô màu và uốn nắn. Tiến trình này không làm suy giảm phẩm chất của ánh sáng Thượng đế mà chỉ khiến ánh sáng đó mang cá thể.

Hiện diện TA LÀ của con luôn luôn neo trụ nơi các tầng cao của cõi tâm linh. Từ mức của Hiện diện TA LÀ, con có khả năng trải nghiệm các cõi thấp hơn, kể cả thế giới vật chất, với tư cách một đấng quan sát từ ngoài. Tuy nhiên, đa số dòng sống do Thượng đế tạo ra không chỉ bằng lòng quan sát suông cuộc sống từ bên ngoài mà lại cũng muốn trải nghiệm cuộc sống từ bên trong. Thật ra, đó là lý do tại sao Thượng đế đã tạo ra những cá thể từ chính bản thể của ngài. Thượng đế mong muốn trải nghiệm tạo vật của ngài từ bên trong, ngài muốn tham gia vào tiến trình sáng tạo thế giới và bành trướng thế giới đó từ bên trong. Ngài làm vậy qua trung gian những đứa con của ngài.

Đã có một thời điểm khi Hiện diện TA LÀ của con quyết định đi xuống một tầng thấp hơn của tạo vật Thượng đế và trải nghiệm cuộc sống ở tầng mức này. Để thực hiện điều đó, Hiện diện tạo ra một phần nối dài của chính nó, mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sau đó cái Ta Biết tạo ra cái mà nhiều người gọi là linh hồn, nhưng chúng tôi ưa gọi là cỗ xe 4 lớp, hay cỗ xe linh hồn. Đây chính là phương tiện mà cái Ta Biết sử dụng để tương tác với xác thân vật lý.

Nhiều dòng sống đã đi xuống các tầng thấp hơn của cõi tâm linh và vẫn còn ngụ ở đó. Tuy nhiên một số dòng sống can đảm đã quyết định bước xuống cõi thấp nhất mà Thượng đế đã tạo ra, tức là vũ trụ vật chất. Khi con đi vào cõi vật chất, con cũng bước vào một cõi với rung động thấp hơn cõi tâm linh. Trên cõi tâm linh, thật là dễ nhìn thấy tất cả mọi thứ đều bắt nguồn từ một thực tại cao hơn. Nhưng vì cõi vật chất là phần tạo dựng chót hết của Thượng đế, nó chưa được nâng lên một độ rung đủ cao để nhìn thấy năng lượng vật chất cũng là một phần nối dài của Thượng đế. Vì vậy khi dòng sống đi xuống cõi vật chất, y có nguy cơ quên mất nguồn gốc tâm linh của mình.

Một dòng sống trong cõi vật chất sẽ chỉ có thể nhớ lại nguồn gốc tâm linh qua một kinh nghiệm nội tâm trực tiếp, bởi vì nơi thế giới bên ngoài thật sự chẳng có gì để nhắc lại cho y cái thực tại tâm linh nằm đằng sau vỏ ngoài vật chất. Kinh nghiệm này chỉ có thể xảy ra khi cái Ta Biết bước ra ngoài cỗ xe 4 lớp của nó và chứng nghiệm trực tiếp rằng nó là sự nhận biết thuần khiết, và như thế nó nhận ra là nó không hề là cỗ xe thấp kém.

Như được giải thích suốt trang mạng này, quả thật là nhiều dòng sống đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và nơi đó họ đã quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Để giup cho họ khỏi bị lạc đường, các chân sư thăng thiên đã phái xuống cho mỗi dòng sống môt vị trung gian, một vị thày, một vị an ủi, và đây là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô có thể được xem như một thiên thần được đặc nhiệm với mỗi con người để giúp con nối kết lại với Hiện diện Ta Là trong sự ý thức. Nói cách khác, cái ta Ki-tô không là một thành phần của dòng sống của con ở khởi đầu. Cái ta Ki-tô là một vị trợ giúp đến với con từ ngoài, và sinh thể đó có một cá tính (personality) lẫn một cá thể (individuality) khác với cái cá thể trụ neo nơi Hiện diện Ta Là của con. Hiển nhiên, cái ta Ki-tô tương hợp với cá thể của con nhưng nó không hoàn toàn giống y hệt.

Khi con bắt đầu đạt được sự hòa điệu nội tâm, trước tiên con sẽ hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Lúc đầu, con sẽ trải nghiệm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Trực giác thường đến như khi con đang đọc một quyển sách và cảm nhận có điều gì rất đúng áp dụng cho con. Khi sự hòa điệu này ngày càng rõ rệt hơn, con sẽ nghe thấy – hay cảm thấy – giọng nói nhỏ nhẹ, tĩnh lặng của cái ta Ki-tô trong tim con. Đây không phải là một giọng nói vật lý mà tai nghe thấy được, mà là một giọng nói nội tâm. Nhưng con vẫn sẽ nhận ra đó là một giọng nói thì thầm với con đến từ ngoài tâm ý thức của con.

Khi con tăng trưởng trên đường tu tâm linh, con sẽ bước qua tiến trình gọi là lễ thành hôn thần bí gọi là giả kim (alchemical marriage) mà qua đó con đạt được sự kết hợp tâm linh với cái ta Ki-tô của con. Tuy nhiên, cái ta Ki-tô này vẫn tách biệt khỏi con, y như trong hôn nhân, người phối ngẫu của con vẫn không phải là con tuy rằng con có thể đạt được một mức kết hợp cao độ.

Tự thân cái ta Ki-tô có khả năng hướng dẫn con, hoặc nó có thể trao truyền cho con những hướng dẫn từ Hiện diện TA LÀ. Có thể nói, cái ta Ki-tô đóng vai trò một vị dịch thuật các chỉ dẫn từ Hiện diện mà ngoại tâm của con không thể nghe thấy hay hiểu được trực tiếp. Và như vậy khi sự hiệp thông của con ngày càng sắc bén, con sẽ có khả năng nhận diện một chỉ đạo đến từ cái ta Ki-tô hay là từ Hiện diện. Điều này sẽ cho con cảm nhận là con đang nghe thấy giọng nói của chính Hiện diện TA LÀ.

Khi con bước lên những tầng cao hơn trên đường tu, rốt cuộc con sẽ đạt tới sự hòa điệu trực tiếp với Hiện diện TA LÀ của con. Nhiều người đã đạt được một mức hoà điệu nào đó với Hiện diện, nhưng hầu hết không nhận diện ra đó là gì. Một lý do là vì việc nhận diện giọng nói của cái ta Ki-tô khá dễ dàng bởi vì giọng nói đó đến từ bên ngoài con. Nhưng sự hoà điệu với Hiện diện TA LÀ không phải là một giọng nói đến từ ngoài. Hiện diện TA LÀ không ở ngoài con và cũng không khác gì với con, ví nó chính là con đó. Nó là cái Ta của con.

Cũng có thể nói rằng con không thể nhận được sự giao tiếp trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ bởi vì khi nói đến giao tiếp thì phải có sự ngăn cách. Để bắt được liên lạc với Hiện diện, con phải buông bỏ và vượt qua ý niệm bản sắc sinh diệt của con. Con từ bỏ cái cá tính vỏ ngoài đã được tạo dựng suốt bao nhiêu kiếp đầu thai trong vũ trụ vật chất. Con khắc phục ý niệm ngăn cách hầu con có thể bắt đầu tự đồng hóa với Hiện diện. Và như vậy, Hiện diện bây giờ có khả năng hành động xuyên qua con. Trong nghĩa đen, con trở thành Hiện diện hoạt động trong thế gian. Và khi đó con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Khi con chứng đạt sự hợp nhất này, con thật sự không còn giao tiếp với Hiện diện nữa, bởi vì con chính là Hiện diện đó.

Cũng có thể nói là khi cái ta Ki-tô hướng dẫn con, con trải nghiệm chuyện đó như một cái gì đến từ ngoài, và con phải lấy quyết định là liệu con sẽ nghe theo lời hướng dẫn đó hay không. Nhưng xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ thì không có nguồn gốc ở ngoài con, và do đó không còn chỗ nào để mà con lấy quyết định. Nghĩa là giữa con và cái ta Ki-tô có một khoảng cách, nhưng giữa con và Hiện diện TA LÀ thì không có khoảng cách nào cả. Con không thể quyết định là con sẽ nghe theo giọng nói của Hiện diện hay không, mà con chỉ có thể là, hoăc không là, Hiện diện TA LÀ trong hành động mà thôi. Để là Hiện diện trong hành động, con phải dâng hiến ý chí của tự ngã và của cá tính vỏ ngoài cho ý chí cao hơn của cái Ta Thượng đế của con. Con phải quyết định con thực sự là gì, thay vì quyết định xem cái tâm vỏ ngoài của con nghĩ con là gì.

Ta cũng biết những lời này sẽ rất khó hiểu bằng trí thức, và lý do là vì trí thức luôn luôn suy nghĩ một cách đường thẳng. Vì thế mà nó muốn nhìn thấy một sự ngăn cách hoặc một khoảng cách giữa dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ của con. Khi nào con còn tư duy đường thẳng và còn suy luận trong hướng tách biệt, con sẽ gặp trở ngại trong việc hiệp thông với Hiên diện của con. Con cần tư duy theo một lối khác, và nhìn thấy dòng sống và Hiện diện của con không hề tách biệt trong không gian. Dòng sống của con phần nào giống như một làn sóng không thể tách rởi khỏi đại dương bởi vì nó giản dị chỉ là một sự biểu hiện của đại dương.

Hiểu rõ năng lượng kundalini

Hỏi 1: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Thày có bao giờ dạy về kundalini? Có phải kundalini và dòng năng lượng tâm linh liên tục giúp chúng ta sống còn là hai loại năng lượng khác nhau, hay đó là cùng năng lượng? Con sẽ rất biết ơn nếu thày giải tỏa được phần nào bối rối này của con. Cảm ơn thày.

Hỏi 2: Nhiều người thời nay, trong đó có con, trải nghiệm kundalini thức dậy. Xin thày cho biết bản chất của năng lượng kundalini là gì và sự thức dậy của nó tác động con người như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đây là những câu hỏi rất hay về một chủ đề rất ích lợi cho người tầm đạo muốn tìm hiểu. Ta quả là đã có dạy về năng lượng kundalini nhưng ta chỉ dạy cho đệ tử của ta bởi vì quần chúng thời đó chưa sẵn sàng nhận giáo lý này. Ta được học về kundalini trong chuyến du hành sang Ấn độ, và ta có thử nghiệm một số hình thức yoga nhằm khơi dậy kundalini. Tuy nhiên, ta nhận ra là những kỹ thuật này không thích hợp cho mọi người, vì thế ta đã không dạy các kỹ thuật đó kể cả cho đệ tử của ta.   

Từ “kundalini” chỉ giản dị là một cái tên khác cho dòng năng lượng tâm linh giữ cho con sống còn. Ta từng đề cập đến năng lượng này trước công chúng, và con vẫn có thể tìm thấy trong Tân ước một số lời gợi ý như thế. Bình thường ta gọi đó là “nước của Sự sống” hay “nước hằng sống”. Năng lượng là một khía cạnh của Thánh linh, và con nhớ rằng Thánh linh có chức năng giúp con tăng trưởng tâm linh hầu con vượt qua các giới hạn của con. Đây là một chìa khóa quan trọng để hiểu được bản chất của năng lượng kundalini và tác động của nó trên con người.

Điều quan trọng nhất con có thể hiểu về năng lượng kundalini là nó cho con sự sống. Định nghĩa tâm linh của “sự sống” là cái gì tăng trưởng và tự thăng vượt. Do đó, năng lượng của sự sống, năng lượng kundalini, nước hằng sống của sự sống, luôn luôn tuôn chảy để đưa con vượt qua mọi ranh giới và mọi hạn chế. Trạng thái tự nhiên của một người hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình là chảy theo Dòng sông của Sự sống và không ngừng thăng vượt sự tự nhận biết của mình cũng như ý niệm cái ta của mình.

Có thể nói vấn đề cốt lõi trên hành tinh này là hầu hết mọi người đều đã dựng lên một số điều kiện trong tâm mình khiến mình đóng chặt dòng chảy tự nhiên của năng lượng kundalini xuyên qua các trường năng lượng của mình. Dòng sống của con người được thiết kế để làm ống dẫn cho tình thương vô điều kiện của Thượng đế xối xuống. Tình thương vô điều kiện sẽ không bao giờ đứng yên một chỗ. Khi con đứng trong dòng chảy của tình thương, con không chấp nhận cho bất cứ một điều kiện nào trên địa cầu có thể khiến con đóng lại dòng tình thương này chảy xuyên qua con.

Điều xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã dựng lên đủ loại điều kiện trong tâm họ, nghĩa là họ bảo rằng trong hoàn cảnh này hay tình huống kia, họ sẽ không cho phép tình thương vô điều kiện chảy qua họ. Họ sẽ không thể biểu hiện tình thương trong những hoàn cảnh đó. Bởi vì dòng chảy của tình thương chính là năng lực của sự sống cho nên điều tự nhiên là nó phải chảy. Con chỉ có thể đóng nó lại bằng vũ lực mà thôi. Và thật vậy, hầu hết mọi người đều sử dụng vũ lực của lý trí và tình cảm để ngăn chặn sự sống chảy qua trường năng lượng và dòng sống của họ. Nói cách khác, họ đã dùng vũ lực để hạn chế dòng chảy của sự sống, năng lượng kundalini.   

Đây là một nhận thức vô cùng quan trọng, đặc biệt khi nhiều người tầm đạo bị quyến rũ vào việc sử dụng đủ loại kỹ thuật nhằm ép buộc cho năng lượng kundalini phải dâng lên. Những kỹ thuật như thế thường đến từ phương Đông nơi người ta đã sử dụng từ hàng ngàn năm qua. Có một số kỹ thuật có giá trị nhưng chỉ khi nào do một đạo sư dồi dào kinh nghiệm chỉ dẫn cho những đệ tử chân truyền nhất của mình – và chỉ khi nào đệ tử đó được bao bọc trong một môi trường có sự trông coi liên tục của đạo sư. Con hãy lưu ý là ta đang nói về những kỹ thuật nhằm ép buộc kundalini, chứ không nói về nhiều kỹ thuật đúng đắn nhằm giúp con có sự tăng trưởng quân bình.   

Thật không may là đã có một loạt những người tự xưng là đạo sư từ Ấn độ đến đây chỉ dạy những kỹ thuật này cho bất cứ ai muốn học – và trong một số trường hợp, người học phải trả cả lệ phí. Đây là một vấn đề, vì nó dối gạt  người ta vào con đường chiếm lấy thiên đường bằng vũ lực. Đó là phần nào những gì ta nói đến trong câu: “Và từ ngày John the Baptist (Giăng Báp-tít) đến nay, nước thiên đàng đã bị hãm ép, và kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực” (Matthew 11;12)  

Con hãy ngừng một lúc để xem xét vấn đề cốt lõi ở đây. Năng lượng kundalini sẽ chảy tự nhiên xuyên qua con – con không cần làm bất cứ gì để ép nó phải chảy qua con. Nếu nó bị chặn lại thì là do nó đã bị chặn lại bằng vũ lực. Con đã tạo ra những chướng ngại trong tiềm thức và trường năng lượng của con, cụ thể là nơi bảy trung tâm năng lượng chính gọi là luân xa, và những chướng ngại này đã hạn chế dòng chảy của sự sống. Vậy thử hỏi con có khôn ngoan lắm hay không khi con tìm cách dùng một kỹ thuật nào đó để ép uổng kundalini phải dâng lên qua các luân xa?

Thật sự không có gì khôn ngoan, bởi con đang cố dùng lửa để chữa lửa. Chính vũ lực đã khiến cho dòng chảy tự nhiên của năng lượng bị nghẽn lại, thì cách giải quyết hợp lý là con phải loại bỏ các chướng ngại đang làm nghẽn năng lượng để nó lại chảy tự nhiên. Thật là không hợp lý khi con muốn dùng vũ lực để tái lập dòng chảy, và điều này chẳng có gì là khó hiểu.

Ở một con người thuần khiết nơi dòng sông của sự sống tuôn chảy tự do, năng lượng kundalini đi vào luân xa tim, rồi nó chảy vào luân xa nằm ở đáy cột sống. Từ đó nó sẽ chảy xuyên qua cả bảy luân xa cho đến luân xa đỉnh đầu. Nếu dòng chảy được duy trì, người đó sẽ ở trong trạng thái quân bình toàn hảo và sẽ chiêm nghiệm dạng cao nhất của tâm thức Ki-tô. Trong trạng thái đó, tất cả các luân xa đều quân bình, đứng thẳng hàng với nhau và quay theo cùng một chiều.

Khi con dùng vũ lực để đóng chặt hay hạn chế dòng chảy của ánh sáng qua các luân xa, luân xa sẽ bị ô nhiễm do năng lượng tiêu cực tích tụ lại ở đó. Điều này sẽ nhanh chóng khiến cho các luân xa quay với tốc độ khác nhau và vì vậy không còn phối hợp với nhau nữa. Thậm chí, điều đó có thể khiến cho một số luân xa bị tắc nghẽn đến độ không cho phép bất kỳ ánh sáng nào đi qua. Hoặc nó khiến cho luân xa quay ngược chiều quay bình thường, gây cho con cảm giác sôi động tột độ. Chẳng hạn, nhiều người có luân xa gốc quay sai chiều và vì vậy họ ham muốn tình dục một cách vô độ. Và tương tự như thế, nhiều người có luân xa đám rối dương quay sai hướng, khiến họ luôn luôn căng thẳng và phản ứng lại nhiều tình huống trong sự cáu kỉnh, giận dữ.

Điều gì sẽ xảy ra khi một người mất quân bình sử dụng một kỹ thuật nhằm cưỡng ép năng lượng kundalini dâng lên xuyên qua luân xa đang bị nghẽn và mất quân bình? Kundalini là một khía cạnh của Thánh linh và mục đích của nó là giúp con thăng vượt các giới hạn của con. Vì lý do này mà nó sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào. Khi con ép buộc kundalini chảy qua luân xa, nó sẽ đẩy tất cả mọi thứ bất toàn và mất quân bình trong luân xa ra bên ngoài rồi khuếch đại lên. Những thứ ấy nổi lên dưới hình thức những ý nghĩ và cảm xúc có thể vô cùng mãnh liệt.   

Trên thực tế, nhiều người thiếu quân bình mà dùng các kỹ thuật cưỡng ép kundalini như vậy đã nhận thấy là hệ thần kinh và trường năng lượng của mình không thể chịu đựng nổi luồng chảy của ánh sáng. Cũng y hệt như con nối điện 220 volt vào một cái máy được chế tạo để chạy với điện 110 volt vậy. Tất nhiên là máy sẽ bị cháy, và thật vậy, nhiều người đã làm cháy một phần hệ thần kinh và phá vỡ trường năng lượng của mình. Điều này dẫn đến nhiều hình thức rối loạn tình cảm khác nhau, thậm chí cả bệnh tâm thần lẫn khùng điên. Ta không thể nào nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của việc con phải tránh cưỡng ép năng lượng kundalini của con dâng lên trước khi con sẵn sàng.

Đâu là chìa khóa để con sẵn sàng? Đó là con thanh lọc các luân xa và trường năng lượng của con cho đến khi con đạt được một mức quân bình và hài hòa thật cao độ. Quân bình và hài hòa thực sự là chìa khóa cho một sự phát triển tâm linh thành công. Hai đức tính này chỉ có thể đạt được qua sự không dính mắc, và khi con thực sự không còn dính mắc, con sẽ không còn cố chiếm hữu thiên đường bằng vũ lực nữa.

Một trong những vấn đề lớn nhất với sự bùng nổ của các phong trào phát triển bản thân và phát triển tâm linh là nền văn hóa Tây phương thường hay chú trọng thành quả. Trong những thập niên vừa qua, điều này đã dẫn đến một tinh thần sùng bái, tôn thờ sự thoả mãn tức thì. Cho nên khi người ta lớn lên trong một nền văn hóa như vậy và bỗng nhiên cảm thấy nhu cầu tăng trưởng tâm linh, thường người ta muốn ngay kết quả tức thì. Người ta không chịu nỗ lực một cách chân thành để từ từ xây dựng nền tảng vững bền cho những kết quả đó.

Người ta chỉ đơn giản muốn ngay cái hiện tượng vỏ ngoài, muốn được nếm mùi những kinh nghiệm tột đỉnh, muốn được hưởng lợi từ phát triển tâm linh, mà không cần phải đi qua nguyên tiến trình vun trồng các kết quả đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tầm đạo phương Tây tìm kiếm những kỹ thuật hữu hiệu nhất nhằm sản xuất ra những cảm giác và hiện tượng mà mình tìm. Và nhiều người trong số đó đã bị cám dỗ sử dụng những kỹ thuật nhằm cưỡng ép cho kundalini phải dâng lên. Tất nhiên đó là điều khả dĩ, và tác động thì vô cùng mãnh liệt, nhưng kết quả thì y như những gì ta vừa trình bày ở trên.  

Thế nào là cách đúng đắn để năng lượng kundalini đi lên? Đó là đầu tiên phải tìm Nước Trời và sự công chính của Nước Trời, rồi sau đó tất cả những thứ khác sẽ được ban thêm cho con. Nước Trời là tâm thức Ki-tô, và “công chính” là cách dùng năng lượng một cách công chính, có nghĩa là một dòng năng lượng quân bình và hài hòa tuôn qua con người của con.

Như ta vừa nói, bản chất của kundalini là tuôn chảy. Nó chỉ ngừng tuôn chảy qua con vì con đã ngăn chặn dòng chảy của nó. Do đó nếu con nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, nghĩa là con tìm cách loại bỏ tất cả mọi chướng ngại và thiếu quân bình trong tâm lý và trường năng lượng của con, con sẽ lần hồi mở rộng ra để dòng năng lượng chảy qua con. Và như thế, dòng sông của sự sống sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy qua con mà không có chút gì thiếu quân bình.

Điều đó sẽ xảy ra một cách cân bằng, và con sẽ không trải nghiệm một sự thức giấc của kundalini cho tới khi nào con sẵn sàng. Nói thật, nếu con thực sự tiến bước cân bằng, con sẽ chứng nghiệm một sự phát triển bền vững, điều hòa thay vì những cơn bừng phát tâm linh dữ dội được nối tiếp bởi những cơn trầm cảm cũng không kém dữ dội. Nhiều người thiếu quân bình quả thật đã phải trải qua những chao đảo tột cùng như thế từ cao xuống thấp, và đó nhất định không phải là con đường hài hòa, con đường trung đạo của Ki-tô và của Phật.

Vì vậy, điều ta muốn nói là ta không ủng hộ bất kỳ một người tầm đạo tâm linh nào đặt trọng tâm vào việc khơi dậy năng lượng kundalini một cách cố tình và mạnh bạo. Ta không ủng hộ việc người ta dùng các loại kỹ thuật để cưỡng ép cho kundalini dâng lên.

Thay vào đó, con nên sử dụng kỹ thuật nào? Con có thể dùng tất cả mọi kỹ thuật trong Hộp Dụng cụ Tu tập trên trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary đã được soạn thảo đặc biệt để loại bỏ một cách hệ thống các chướng ngại trong trường năng lượng của con đang ngăn cản dòng chảy tự do của năng lượng kundalini qua con. Các bài chú bảy tia sáng cũng vậy. Khi con dùng những dụng cụ này, con sẽ lần hồi cảm thấy dòng chảy của sự sống qua con, nhưng điều này sẽ diễn ra một cách quân bình, hài hòa, không gây tổn hại cho hệ thần kinh tinh nhậy của con hoặc tạo ra lỗ hổng trong trường năng lượng của con. Thay vào đó, con sẽ thực sự cảm thấy như những nữ đồng trinh khôn ngoan đã biết giữ cho ngọn đèn của mình được trong sáng – tức là luân xa được quân bình – trong khi chờ đón chàng rể của cái ta Ki-tô:

“1 Khi ấy, nước thiên đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. 2 Trong các nàng đó, có năm người khôn và năm người dại. 3 Người dại cầm đèn đi mà không đem theo dầu với mình. 4 Nhưng người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình của mình. 5 Vì chàng rể đến trễ, các nàng đều buồn ngủ và ngủ gục.

6 Đến nửa đêm, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đang đến, hãy đi ra mà rước. 7 Các nữ đồng trinh đều thức dậy và sửa soạn đèn mình. 8 Các nàng dại nói với các nàng khôn: Xin cho chúng em chút dầu vì đèn chúng em đã tắt. 9 Nhưng các nàng khôn trả lời: Không, vì e sẽ chẳng đủ cho chúng em và các chị, tốt hơn các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua.

10 Trong khi họ đang đi mua thì chàng rể đến; kẻ nào sẵn sàng thì đi với chàng vào tiệc cưới, và cánh cửa đóng lại. 11 Lúc sau, các nữ đồng trinh kia về đến và nói: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi. 12 Nhưng người đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các người, ta không biết các người đâu. 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các người không biết ngày, cũng không biết giờ mà Đứa con của người sẽ tới. (Matthew 25)”

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.

Giê-su giảng về đồng bóng

Hỏi: Thưa thày Giê-su, quan điểm của thày về đồng bóng (channeling, hay truyền kênh) là như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Giáo lý trên trang web này giải thích rằng tạo vật của Thượng đế được tạo bằng năng lượng. Các tạo vật của Thượng đế có nhiều tầng lớp chỉ phân biệt qua rung động. Tâm con người có khả năng hoà điệu với những tầng khác nhau của tạo vật Thượng đế. Bằng cách điều chỉnh rung động bắt sóng trong tâm thức mình, một người có thể nhận được những ý tưởng hay thông điệp từ những cõi khác.

Có một vài cõi tuy vượt ngoài vũ trụ vật lý nhưng lại có rung động quá thấp để thuộc về thế giới tâm linh. Một trong những cõi đó được các thày gọi là cõi cảm xúc hay cõi tình cảm. Có rất nhiều sinh thể cư ngụ trong cõi này. Trên địa cầu, con có thể thấy nhân loại có nhiều trạng thái tâm thức khác nhau thì ở cõi cảm xúc cũng như vậy.

  • Ở các tầng thấp nhất của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể rõ ràng có ý đồ xấu xa. Chúng cố tình tìm cách thao túng con người cho đủ loại mục đích khác nhau, kể cả đánh cắp năng lượng tâm linh của con người.
  • Ở các tầng giữa của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể không có ý định xấu xa nhưng chỉ đơn giản hành động do vô minh. Ở những tầng cao hơn của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể đã đạt được một mức hiểu biết tâm linh nào đó. Chúng có thể có vẻ thông thái hay tiến hóa cao siêu đối với một người trong thế giới vật chất.
  • Những sinh thể này có thể không có ý gì xấu xa và chúng cũng có thể đưa ra những lời chỉ dẫn hay giảng dạy chứa đựng một chút yếu tố chân lý. Tuy nhiên, con phải tự đặt câu hỏi tại sao chúng lại cư ngụ trong cõi cảm xúc và tại sao chúng chưa thăng thiên lên cõi tâm linh. Lý do là do một số nguyên nhân tâm lý, chúng đã bị kẹt lại ở tầng mức này của tạo vật Thượng đế. Do đó, nếu con tiếp tục hiệp thông với những sinh thể loại này, con có nguy cơ bị kẹt lại ở cùng một mức như chúng.  
  • Khi đã là học trò thì con khó lòng vươn cao hơn tâm thức của thày mình. Cho nên khi con chọn vị thày tâm linh của con, con muốn chọn ra một vị là chân sư thăng thiên. Nếu con muốn phát triển tâm linh tối đa và cũng thăng thiên lên cõi tâm linh, tại sao con lại chọn thày cư ngụ ở một cõi thấp hơn? Tất nhiên, nếu con chỉ muốn “giải trí tâm linh” thì rất nhiều sinh thể ở cõi cảm xúc sẽ là những tay lão luyện để nói cho con nghe đúng những lời mà tự ngã của con muốn nghe.

Ta không có ý muốn đưa ra một lời khẳng định tuyệt đối để lên án đồng bóng hay truyền kênh là luôn luôn nguy hiểm. Tuy nhiên, ta biết có một số hành giả Thời mới ưa nghĩ rằng việc liên hệ với đồng bóng không có gì nguy hiểm. Ta phải nói thẳng thắn với con là nghĩ như vậy không đúng. 

Trong ý nghĩa rộng nhất, đồng bóng có thể mô tả như một tiến trình trong đó một người bật máy thu thanh của tâm thức mình lên và bắt sóng một tầng nào đó trong số các tầng của tạo vật Thượng đế ở ngoài vũ trụ vật lý. Tuy nhiên nếu con nghĩ rằng tất cả mọi thứ ở ngoài vũ trụ vật lý đều là tốt và tâm linh thì con đang mắc vào một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.

Để thấy ảo tưởng này nguy hiểm thế nào, con chỉ cần nhìn vào hành vi của con người. Tại sao con nghĩ có những người hành động xấu ác rõ ràng? Lý do là vì họ đã hòa điệu tâm thức của họ vào một tầng thấp của tạo vật Thượng đế. Chẳng hạn con cũng biết Adolf Hitler say mê huyền bí như thế nào. Kỳ thực ông là cái kênh cho những tà lực thao túng và sử dụng ông ta cho mục đích của chúng. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời và cái chết của Hitler, con sẽ thấy hiển nhiên đồng bóng không phải là một hoạt động an toàn. 

Một số người đã cho phép tà lực từ cõi trung giới ảnh hưởng, thậm chí chiếm hữu tâm thức của mình. Những người như thế thường làm công cụ cho tà lực, dù cố ý hay vô tình, dù biết rõ hay là không biết.

Điều ta đang cố giải thích là nếu con cho rằng đồng bóng là an toàn, con đã rơi vào một cực đoan. Cực đoan đối nghịch là những người không bao giờ dám bật máy thu thanh của tâm thức họ để bắt sóng ở ngoài vũ trụ vật chất. Cả hai loại người này đều tiếp cận sự phát triển tâm linh một cách thiếu cân bằng.  

Nếu con nhìn vào hầu hết người tâm linh trên địa cầu, con sẽ thấy chỉ có một lý do duy nhất tại sao họ lại tâm linh. Đó là vì họ đã bật tâm thức họ lên để hòa điệu với cõi tâm linh. Qua sự hòa điệu này, họ nhận được tuệ giác, sự hiểu biết và đôi khi nhiều loại thông điệp từ cõi tâm linh.

Nhiều người trên địa cầu đã mở tâm ra, hoà điệu với cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất, và trong những thập niên sắp tới, số người này sẽ ngày càng đông đảo hơn. Tâm cởi mở này là một phần rất lớn trong kế hoạch tâm linh nhằm nâng cao tâm thức nhân loại. Nói chung, ta không muốn con người đóng chặt tâm mình lại, thế nhưng ta cũng khuyên mọi người cân nhắc xem mình muốn liên lạc với tầng cõi nào, với đài phát thanh nào.

Ta khuyến khích mọi người hãy học cách mở tâm thức ra và hòa điệu với bên ngoài thế giới vật chất, nhưng tất nhiên ta chỉ muốn mọi người học cách hòa điệu với thế giới tâm linh mà không bắt lầm sóng của bất cứ cõi nào thấp hơn. Để làm vậy, con cần đạt được sự phân biện, hầu con biết được cái gì thuộc về thế giới tâm linh và cái gì thuộc về những thế giới thấp kém. Khả năng phân biện này chỉ đạt được bằng cách con khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân của con, và vì vậy ta đã cho con thật nhiều dụng cụ và lời dạy để giúp con thực hiện được.

Ta phải thành thực với con là ta nhìn thấy nhiều con người tuyệt vời trong phong trào Thời mới, họ rất cởi mở với ý tưởng rằng nhân loại có khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh. Nhưng một số lại cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực và họ cố hiệp thông bằng động lực không trong sáng. Trong số những động lực này, có niềm kiêu hãnh, có nhu cầu muốn tự cao, nhu cầu quyền lực và kiểm soát, hay lòng ham muốn nếm thử một hiện tượng lạ lẫm. Nếu con đi tìm sự hiệp thông nội tâm từ một lòng ham muốn quá độ hay với những động lực không trong sạch như thế, con sẽ có nhiều khả năng hòa điệu với một tầng tâm thức thấp hơn cõi tâm linh.

Cho nên con nên vô cùng tỉnh thức về các động lực của con. Cách hay nhất để vượt qua động lực bất toàn là thực tâm nỗ lực bước đi trên con đường xây dựng quả vị Ki-tô cá nhân của con. Trước tiên hãy đi tìm vương quốc của Thượng đế, đi tìm tâm thức Ki-tô, và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Sự quân bình luôn luôn là chìa khóa của phát triển tâm linh. Có những người sẽ nói, do rủi ro khi liên hệ với tà lực nơi cõi cảm xúc, con không bao giờ được thử nghiệm bất kỳ một hình thức hiệp thông cá nhân nào. Nếu con chấp nhận ý tưởng này, làm sao con sẽ vươn lên được cao hơn một mức nào đó trên đường tu? Nhưng mặt khác, rõ ràng cũng sẽ nguy hiểm nếu con bảo rằng bất cứ ai cũng nên hiệp thông và mọi chuyện sẽ tuyệt đối an toàn.   

Ở một mức nào đó trên đường tu, một người sẽ cần phát triển khả năng vượt ra khỏi vũ trụ vật chất và hòa điệu với cõi tâm linh. Tuy nhiên hoà điệu này chỉ nên xảy ra qua cái ta Ki-tô của người đó. Qua cái ta Ki-tô, con có thể chạm các linh thể và biết được nó có thuộc về Thượng đế hay không.

Nếu con không bao giờ cố hoà điệu, chắc chắn con sẽ không thể thăng tiến quá một mức nào đó, nhưng nếu con cố hoà điệu mà không có phân biện, con sẽ gặp rủi ro. Vì vậy, con hãy tập trung vào việc phát triển tâm Ki-tô và đừng cố ép uổng sự hoà điệu nội tâm. Con chỉ đơn giản xây dựng quả vị Ki-tô và để yên cho vị thày tâm linh của con tìm thấy con khi con sẵn sàng.

Đây là ý niệm mà ta đã mô tả trong chuyện ngụ ngôn về những nữ đồng trinh chuẩn bị để sẵn sàng đón tiếp chú rể. Nếu dòng sống cố cưỡng ép tiến trình này, rất có thể nó sẽ nhận lộn chú rể và cuộc hôn nhân sẽ không còn gì thần thánh nữa đâu.

Một số người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức duy vật đến nỗi họ không thể hoà điệu với bất cứ gì bên ngoài thế giới vật chất. Nếu con đã vượt lên trên mức đó và đạt tới một mức hoà điệu nào đó, tại sao con không nỗ lực thêm để đạt phân biện Ki-tô? Tại sao con không đảm bảo sự hiệp thông với các chân sư đích thực ở cõi tâm linh thay vì một số sinh thể ở những cõi thấp?

Các chân sư khác và chính ta đều sẵn sàng và mong muốn hiệp thông với bất cứ ai đạt được một mức tâm Ki-tô nào đó. Con hãy tìm các thày với sự phân biện và động lực trong sạch, và con sẽ tìm thấy các thày.

Thiên thần không được tạo ra để hiện thân vật lý

Hỏi: Nếu là một thiên thần đang hiện thân, liệu thiên thần đó khi thăng thiên có sự chọn lựa giữa việc gia nhâp cõi thiên thần và việc trở thành một chân sư thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Đại thiên thần Michael qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày (Master Keys to Spiritual Freedom), các thiên thần không được sinh tạo ra để mang hiện thân trong cõi vật lý. Nếu điều này xảy ra, họ sẽ phải khoác lấy tâm thức nhị nguyên và do đó sẽ phải đi theo con đường trở về Thượng đế, là cùng con đường đã được hoạch định cho những vị đồng sáng tạo đầu thai trong thân xác và phải thượng thăng trở lên.

Tuy nhiên, con yêu dấu, trong một nghĩa nào đó, câu hỏi này gần như không hiệu lực. Bởi vì khi con thăng thiên, con thực sự không thể nói được con là thiên thần hay là chân sư. Trong nghĩa đó, chúng tôi, những thiên thần, không xem mình là như vậy ngoại trừ khi nào giao tiếp với con người trên địa cầu.

Điều ta muốn giải thích là trên thiên đàng không có sự phân chia giữa cõi giới thiên thần và chân sư thăng thiên như con thấy trên địa cầu – trong ý nghĩa là chúng tôi đều tự xem mình là những phần thân thể của Thượng đế. Nhưng trong nhãn quan trần thế của con, đúng là khi đã đi từ cõi thiên thần xuống hiện thân thì sẽ thăng thiên trở lại với tư cách là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. 

Tuy nhiên trên thiên đàng có nhiều linh động đến độ sau khi thăng thiên, chúng tôi vẫn có thể đảm nhiệm một trách vụ thiên thần. Bởi vì một lần nữa, thật sự có khác gì đâu nhỉ? Con người ưa thích phân chia một cách đường thằng rạch ròi, nhưng trên thiên đàng chúng tôi không có tâm thức đường thẳng như vậy, và do đó một chân sư hoàn toàn có thể đảm nhiệm công việc của một thiên thần, thậm chí một thiên thần có thể đảm nhiệm một trách vụ tâm linh khác như của Elohim chẳng hạn.

Vậy một lần nữa, trên địa cầu con nhìn mọi chuyện qua phin lọc thẳng hẹp của tâm thẳng hẹp. Nhưng con sẽ vượt lên trên địa cầu bằng cách vượt lên trên cái tâm đó, và con thực sự chứng nghiệm được thực tế là cái Ta Biết có khả năng là bất cứ gì mà nó nghĩ nó là.

Và bởi vì nó là phần nối dài của bản thể Thượng đế – và vì nó mong muốn là phần nối dài và đóng góp vào mục đích sáng tạo của Thượng đế – cho nên cái Ta Biết đủ linh động để khoác lấy bất kỳ trách vụ tâm linh nào và làm tròn bất kỳ chức năng tâm linh nào mà nó muốn trải nghiệm.

Vai trò của Saint Germain và Giê-su

Hỏi: Thày có xem Saint Germain là vị lãnh đạo của Thời đại Mới, và nếu vậy, sứ mạng của thày trong Kế hoạch này sẽ là thế nào? Bởi vì nếu TẤT CẢ các chân sư thăng thiên đều là MỘT, thì các chân sư thực sự phải đóng góp vào Kế hoạch Vũ trụ này hầu cải sửa địa cầu cùng dân cư trên đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Saint Germain là vị lãnh đạo tâm linh của Thời đại Bảo bình như ta đã từng giữ vai trò này trong Thời đại Song ngư. Điều này không có nghĩa là Saint Germain đã thay thế ta, mà ta đã chuyển sang một trách vụ khác cao hơn. Nay ta đảm nhiệm trách vụ Thế sư cho hành tinh địa cầu và Cứu tinh cho nhân loại.   

Hoàn toàn không có sự cạnh tranh hay ganh đua trên thiên đàng. Saint Germain từng hiện thân là cha của ta tức Joseph, và ta tôn kính và yêu quý thày như người anh em tinh thần thực sự. Điều quả thực sẽ hữu ích và quan trọng cho tất cả những ai mở tâm ra cho nguồn năng lượng của Thời đại Bảo bình là nên làm quen với sự Hiện diện, giáo lý cùng rung động của Saint Germain yêu dấu của ta. Thày đã giảng dạy rất nhiều từ thập niên 1930 và mọi hành giả tầm đạo sẽ nhận thấy việc học hỏi giáo lý của thày vô cùng quý báu.

Liên quan đến nhiệm vụ của ta, con có thể tham khảo những nhận xét của ta ở nơi khác trên trang mạng này.

Ghi chú: Sau đây là lời của Giê-su nói về Saint Germain trong quyển sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ Is Born in You):

Ta đã từng nói với con là cha ta, thánh Joseph yêu dấu, nay là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Danh tính của thày là Saint Germain và thày đã được giao phó trách vụ lãnh đạo tâm linh cho Thời đại Bảo bình. Ta có thể xác nhận với con là ta có sự tôn kính và ngưỡng mộ to lớn đối với người Anh em Ánh sáng của ta, Saint Germain. Ta vô cùng vui mừng là thày đã được giao phó trách nhiệm lãnh đạo tâm linh trong 2000 năm tới.

Khi Saint Germain được bổ làm vị kế nhiệm cho ta, thày đã nhận ra rõ ràng tình trạng khó khăn của nghiệp chướng nhân loại đang quay trở lại, như ta đã có mô tả cho con. Vì vậy, thày thấy được nhu cầu phải truyền bá một kỹ thuật tâm linh hữu hiệu hơn mọi điều đã từng được giảng dạy trên địa cầu. Đây không phải là một vấn đề đơn giản vì con người đã tỏ ra vô cùng sốt sắng lạm dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào được trao cho họ. Tương tự như con người đã sẵn sàng lạm dụng năng lượng nguyên tử thì họ cũng sẵn sàng lạm dụng năng lượng tâm linh. 

Cho nên Saint Germain đã phải xin phép đặc biệt từ các vị lãnh đạo tâm linh vũ trụ, và sau nhiều tham khảo, các vị ấy đã bằng lòng. Saint Germain đã được phép công bố một kỹ thuật tâm linh mà trong hàng ngàn năm chỉ được biết tới trong số một nhóm nhỏ những dòng sống tiên tiến. Trong quá khứ, kỹ thuật này được biết đến dưới nhiều tên. Saint Germain đã chọn truyền giảng kỹ thuật tâm linh này dưới tên “Ngọn lửa Tím”. Tên này liên quan đến việc cầu thỉnh một dạng ánh sáng tâm linh rung động ở những tần số nằm ngay trên vũ trụ vật chất (ánh sáng màu tím có tần số cao nhất trong số ánh sáng nhìn thấy).

Để tham khảo thông tin về cách cầu thỉnh Ngọn lửa Tím, xin xem trang Dụng cụ tu tập tâm linh.

Chân sư John Yêu dấu

Hỏi: Tông đồ John (sứ đồ Giăng hay Gioan) có đang bước chân trên địa cầu hay không, và nếu có, tìm đâu ra những nguồn giáo lý hiện đại đáng tin cậy của ngài?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tông đồ John hiện không đang bước trên mặt trái đất trong một xác thân vật lý. Thày hiện là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên, và danh hiệu cuả thày là John Yêu dấu (John the Beloved).

Như mọi chân sư thăng thiên khác, John yêu dấu của ta làm việc với một số cá nhân trong nhiều khả năng khác nhau. Vào thế kỷ qua, chúng tôi, các chân sư, có đỡ đầu cho một vài tổ chức cùng những cá nhân để truyền bá một số giáo lý tâm linh.

Mục đích của trang web này là để khuyến khích con người bước đi trên con đường quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bắt đầu khoác lên quả vị Ki-tô của con, con đạt được khả năng phân biện giữa những gì đáng tin cậy, nghĩa là thuộc về ánh sáng và đến từ các chân sư thăng thiên, và những gì không đáng tin cậy, là những gì đến từ những nguồn thấp hơn.

Một trong những vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt là có quá nhiều người mang xu hướng dính mắc với những giáo lý vỏ ngoài. Thật là quá hấp dẫn khi nghĩ rằng mình sẽ tự động được cứu rỗi nếu mình đi theo một tổ chức nhất định, tin vào mọi học thuyết của tổ chức đó và thực hành các nghi lễ. Nhưng việc khoác lên quả vị Ki-tô cá nhân đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, và lần hồi qua thử nghiệm và sửa sai, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện tự mình con.

Bởi thế nên điều cuối cùng mà ta muốn chứng kiến là trang mạng này trở thành một cái phòng kiểm tra nơi mọi người vào hỏi thông tin đáng tin cậy thay vì sử dụng tánh phân biện của riêng mình. Cho nên ta mong con sẽ hiểu là ta sẽ không trả lời câu hỏi của con về những nguồn giáo lý đáng tin cậy từ John Yêu dấu.   

Sự kiện con đặt câu hỏi này cho thấy dòng sống của con có một mối liên hệ tâm linh với John Yêu dấu. Dòng sống của con mong muốn tái lập mối liên lạc ý thức với vị thày tâm linh đó. Có một chân lý rất quan trọng trong câu nói: “ Hãy hỏi và con sẽ nhận được.”

Con hãy nỗ lực hòa điệu tâm thức con với tâm thức của John Yêu dấu. Sẽ hữu ích cho con nếu con nghiên cứu các thông tin về cuộc đời của thày và những giáo lý mà thày đã truyền giảng qua các sứ giả vỏ ngoài. Tuy nhiên những nguồn vỏ ngoài này sẽ không bảo đảm là con sẽ liên lạc trực tiếp được với thày. Sự liên lạc đó phải đến từ bên trong.

Ta đã có đăng tải một bài tập để giúp những ai muốn thiết lập mối liên hệ bên trong. Ta đề nghị con sử dụng bài tập đó cũng như bài tập để bảo vệ tâm linh. Con hãy hình dung sinh thể tâm linh mà con gặp trong khu vườn xinh đẹp đó là John Yêu dấu.

Ta có thể cam đoan với con là nếu con mở tim con ra một cách chân thành, thày John sẽ trả lời tiếng gọi của con. Ta có thể xác nhận rằng tình thương thanh khiết mà thày John dành cho dòng sống của con sẽ là sự trợ giúp vô cùng hữu ích cho đường phát triển tâm linh của con. John yêu dấu của ta chỉ đang chờ con gõ cửa trong tim con. Nếu con gõ cửa, thày sẽ trả lời con. 

Nhìn thấy tận mắt Thiên thần và Chân sư

Hỏi: Khi nào tấm màn sẽ được vén lên để con người nhìn thấy tận mắt các Thiên thần và các Chân sư?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tấm màn sẽ không bao giờ được rỡ lên chung cả cho mọi người mà chỉ với tư cách cá nhân. Nếu rỡ màn lên để mọi người nhìn thấy được thiên thần và chân sư, đó sẽ là sự vi phạm quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết và do đó họ có cơ hội bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn khiến họ không thể nhìn thấy thiên thần và chân sư tâm linh.

Cách duy nhất để vén tấm màn lên cho những ai ở trong trạng thái tâm thức như vậy là cưỡng ép họ rời khỏi trạng thái tâm thức đó, và như vậy quả là sự vi phạm Luật Tự quyết. Các chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ làm điều đó.

Điều quan trọng là cần hiểu rằng Thượng đế đã không tạo ra tấm màn. Cái đang ngăn cản mọi người thấy được cõi tâm linh là một tấm màn năng lượng tha hóa, và năng lượng này là do chính những người đã lạm dụng quyền tự quyết tạo ra. Tất nhiên là Thượng đế có khả năng tiêu hủy tấm màn, nhưng như ta đã nói, điều này sẽ không xảy ra. 

Con người có thể “rỡ tấm màn” trong từng trường hợp cá nhân bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Chính vì vậy mà tấm màn chỉ được rỡ lên một cách cá nhân. Tuy nhiên, ta hy vọng là trong một tương lai không quá xa, sẽ có nhiều người có khả năng đạt được trạng thái tâm thức trong đó họ có được một hình thức trực nhận nào đó về thế giới tâm linh, kể cả việc nhìn thấy hay nghe thấy các thiên thần và các chân sư tâm linh.

Thượng đế có nghe thấy mọi lời cầu nguyện?

Hỏi: Tại sao một người phải tìm những câu trả lời trên máy tính hay trong thư viện khi Thượng đế nghe thấy mọi lời cầu nguyện của chúng ta?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày ngày 14/11/2012.

Mọi sự trên hành tinh này đều tùy thuộc vào ý chí tự quyết của con người. Đúng là các thiên thần của Thượng đế nghe được tất cả mọi lời cầu nguyện nhưng các thiên thần không thể trả lời mọi lời cầu nguyện bởi vì có những điều mà con người phải làm lấy. Chính con người đã tạo ra những điều kiện hiện tại trên hành tinh bằng cách lạm dụng quyền tự quyết của mình, thì bây giờ con người phải tháo gỡ những điều kiện đó bằng cách sử dụng quyền tự quyết một cách đúng đắn.

Làm thế nào con học cách sử dụng quyền tự quyết đúng đắn? Bằng cách tìm ra câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà con đặt ra về sự sống cũng như về mặt tâm linh của sự sống. Nhiều người đã đi xuống một trạng thái tâm thức nơi họ không thể nhận được câu trả lời trực tiếp từ cái ta Ki-tô của họ. Do đó họ phải đi tìm trả lời từ những giáo lý vỏ ngoài. Khi con tìm hiểu những giáo lý vỏ ngoài này với tâm trí và trái tim cởi mở, câu trả lời sẽ được thể nhập và trở thành một phần của chính con. Từ đó con sẽ vượt lên một tâm thức cao hơn, con ngừng lạm dụng quyền tự quyết và học cách sử dụng quyền tự quyết cho phù hợp với các quy luật của Thượng đế.

Chính vì Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết cho nên ngài không thể ép buộc con phải học những bài học đó. Con phải tự nguyện học lấy. Đó là tại sao con mới có nhu cầu tìm kiếm câu trả lời ở bất cứ nơi nào có thể. Tuy nhiên, như ta có giải thích khắp trang mạng này, những câu trả lời vỏ ngoài như vậy chỉ nhằm làm phương tiện cho con sử dụng để giúp con thiết lập mối liên lạc với cái ta Ki-tô của con hầu con tìm được trả lời sâu xa hơn trong nội tâm con.

Để nhận được trả lời rõ ràng như vậy, con hãy sử dụng một số dụng cụ tâm linh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ. Hãy thiết lập sự bảo vệ tâm linh của con. Giải tỏa tâm con bằng cách biến hoá năng lượng tiêu cực. Và nỗ lực thiết lập sự hòa điệu với cái ta Ki-tô. Một khi con đã thiết lập được sự hòa điệu này, con sẽ không cần câu trả lời từ bên ngoài con nữa. Con sẽ nghe thấy Thượng đế trả lời những lời cầu nguyện của con trực tiếp trong con tim.

Giáo lý nền tảng về Tình thương Thiêng liêng, đối chiếu với tình yêu người phàm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, chúng con đã nhận được nhiều lời dạy về các đức tính của Thượng đế, cho dù đó là Cha, Mẹ, Minh triết hay Tình thương. Nhưng con thường nghe bạn bè bảo rằng Tình thương là đức tính cao nhất và cũng là điều duy nhất mà con người cần đến. Tình thương có thật sự là đủ để đạt được quả vị Ki-tô và quả vị Phật hay không? Hay có một đức tính cơ bản hơn nữa của Thượng đế – như sự Tự thăng vượt – mà Tình thương chỉ là một phần bổ sung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi rất hay – và con đang đi đúng hướng khi con nhắc tới đặc tính tự thăng vượt. Tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào cách con sử dụng ngôn từ. Con thấy không, từ một góc độ nào đó, con có thể bảo tình thương là phẩm cách cốt lõi của đường tu tâm linh, nhưng điều này chỉ đúng nếu con hiểu sự khác biệt giữa tình yêu của người phàm và Tình thương Thiêng liêng, hay Siêu việt.

Phẩm chất thiết yếu của Tình thương Thiêng liêng chính LÀ sự tự thăng vượt – động lực để LÀ HƠN NỮA. Chính phẩm chất này đã là động lực cho Đấng Sáng tạo sáng tạo, hầu ngài trở thành nhiều hơn chính ngài bằng cách tự biểu hiện trong hình tướng cũng như trong hình tướng của các sinh thể đồng sáng tạo có tự nhận biết. Cho nên nếu không có dạng tình thương này thì sẽ không có gì được sinh tạo. Và con cũng có thể nói, chìa khóa chủ yếu để đạt quả vị Ki-tô và quả vị Phật cũng chính là Tình thương Thiêng liêng này, và con chỉ có thể đạt được nó bằng cách trở thành một với dòng chảy của tình thương, Dòng sông sự Sống.

Ngược lại, tình yêu con người, tình yêu phàm phu là loại tình yêu sở hữu. Nó tập trung vào một đối tượng yêu thương và nó muốn chiếm giữ đối tượng đó. Để thực hiện điều đó, nó tìm cách kiểm soát, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách ngừng tự thăng vượt và do đó bước ra ngoài Dòng sông sự Sống. Tình yêu phàm phu mang kỳ vọng, thậm chí nó còn đòi hỏi là đối tượng phải đón nhận nó, và nó cũng đòi hỏi một sự hồi đáp. Nó chỉ biểu lộ được khi nào một số điều kiện được hội đủ, và điều này chứng tỏ là nó không tự đủ, nó không tồn tại được một mình. Bất cứ gì mà không tự đủ thì sẽ không Thiêng liêng mà khởi lên từ tâm thức tách biệt và thiếu thốn.

Tình thương Thiêng liêng không cần đến đối tượng nào mà được biểu lộ cho mọi sự sống, giống như mặt trời tỏa sáng ra cho tất cả. Nó không cần sở hữu một đối tượng nào và nó luôn luôn tuôn chảy, nó tự biểu lộ một cách hoàn toàn vô điều kiện và trong bất kể điều kiện nào. Nó bằng lòng tự biểu lộ mà không đòi hỏi hay chờ đợi bất cứ sự hồi đáp nào, ngay cả sự đón nhận nào. Nó nhận được niềm vui từ việc nó tuôn chảy, niềm vui từ việc nó là cái nó là.

Điều ta muốn nói là nếu con nỗ lực làm cánh cửa mở cho Tình thương Thiêng liêng – và chân thành cố gắng thăng vượt mọi sự biểu lộ phàm phu của cái gọi là tình yêu – thì quả thực con có khả năng đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là Tình thương Thiêng liêng có rất nhiều cách biểu lộ, nhiều cách thể hiện, và để có được Tình thương Thiêng liêng, con phải điều ngự những cách đó và đạt được khả năng biểu lộ chúng.

Hãy để ta nhắc cho con bốn phẩm cách cơ bản của Tình thương Thiêng liêng. Như Mẹ Mary có giải thích, mọi thứ được sinh tạo do sự tương tác giữa hai lực lan ra và co lại. Tuy nhiên để tạo vật được bền vững, phải có sự cân bằng giữa hai lực đó, và chính tâm Ki-tô là chìa khóa cho thế cân bằng này. Khi có cân bằng, tình thương sẽ tuôn chảy từ Cha xuyên qua Thánh linh và áp chồng niệm tinh khôi lên Ánh sáng Mẹ. Cũng vì vậy mà con có truyền thống ba ngôi trong đạo Cơ đốc – Cha, Con và Thánh linh – với sự bổ sung của Mẹ Thiêng liêng. Mỗi ngôi như vậy biểu tượng cho một phẩm cách của Tình thương Thiêng liêng:

  • Cha tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như quyền năng hay ý chí.
  • Con tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như minh triết hay quân bình.
  • Thánh linh tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như tình thương, nhưng một tình thương tự thăng vượt, giải thoát sự sống khỏi mọi ràng buộc.
  • Mẹ tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như sự thanh tịnh trinh nguyên, hay niệm tinh khôi.

Bốn phẩm cách này tương ứng với những lời dạy của các chân sư về ngọn lửa ba nhánh. Như Mẹ Mary có giải thích, năng lượng từ Hiện điện TA LÀ của con đi xuống trước tiên vào Căn phòng Mật thất của tim con nằm sau luân xa tim. Nó đi xuống dưới dạng ánh sáng thuần khiết được biểu tượng qua màu trắng, tương ứng với Mẹ và Trinh nguyên Thượng đế. Sau đó nó chia làm ba chùm lửa tâm linh, gọi là ngọn lửa ba nhánh. Một nhánh màu xanh, tượng trưng cho Cha và Quyền năng Thượng đế. Một nhánh màu hoàng kim, tượng trưng cho Con và Minh triết Thượng đế. Và nhánh thứ ba màu hồng, tượng trưng cho Thánh linh và Tình thương Thượng đế.

Điểm quan trọng là kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh của con sẽ định đoạt khả năng sáng tạo của con – nó định đoạt bao nhiêu ánh sáng có thể chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ vào bốn thể phàm. Nếu một trong bốn khía cạnh của ngọn lửa nơi tim trở nên mất cân bằng, con sẽ có xu hướng dùng sai khả năng sáng tạo của mình, và điều này sẽ giảm kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh, tức là giảm kích thước của ống dẫn mà ánh sáng phải đi qua. Vì vậy, con sẽ nhận được ít ánh sáng sáng tạo hơn, và điều này sẽ kéo thấp tâm thức con xuống và hướng sự chú ý xa khỏi cái ta cao hơn của con.

Cách duy nhất để lật ngược xu hướng này và thực sự tăng triển tâm linh là tạo quân bình trong ngọn lửa ba nhánh để cả bốn khía cạnh của nó tuyệt đối hài hòa, nghĩa là chúng sẽ biểu hiện Tình thương Thiêng liêng trong thị hiện thay vì thị hiện sự mất cân bằng qua quyền năng phàm phu, khôn ngoan phàm phu, tình yêu phàm phu hay cái mà con người phàm phu định nghĩa là thanh khiết. Điều này chỉ thực hiện được bằng cách đạt tới phân biện Ki-tô, tức chìa khóa hiểu biết đâu là sự biểu hiện cân bằng, đâu là sự biều hiện mất cân bằng của bốn phẩm cách vừa kể. Đó là tại sao ta thường hay nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân bằng trên trang mạng này.

Một khi con đã cân bằng ngọn lửa ba nhánh của con, con có thể bắt đầu cố gắng đạt cân bằng trên mỗi tia sáng trong số bảy tia sáng tâm linh cấu tạo vũ trụ vật chất. Mỗi tia sáng tương ứng với một trong bảy luân xa chính, và các tia sáng được liệt ra như sau:

  • Tia thứ nhất: quyền năng và ý chí Thượng đế.
  • Tia thứ hai: minh triết và cân bằng Thượng đế.
  • Tia thứ ba: tình thương và sự hiến tặng vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ tư: thuần khiết và hợp nhất với mục địch cùng định luật cao hơn của Thượng đế.
  • Tia thứ năm: sự thật và khả năng chữa lành của Thượng đế, phục hồi cho tất cả trở về niệm tinh khôi.
  • Tia thứ sáu: phụng sự và sáng tạo vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ bảy: tự do và độc lập của Thượng đế.

Chìa khoá để điều phục mỗi tia sáng là trở thành một với Dòng sông sự Sống, hầu Tình thương Thiêng liêng có thể tự biểu lộ qua mỗi luân xa của con theo nhu cầu. Và như vậy con đạt được sự điều ngự cả bảy tia sáng – một giai đọan chủ yếu trong quả vị Ki-tô.

Con đã nhận xét khá đúng về nhiều người tầm đạo thời nay, là họ không nhận ra bản chất cùng các phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng. Cho nên họ đã nhầm lẫn nghĩ rằng họ chỉ cần tình yêu mà thôi, nhưng họ không thấy điều họ cần là Tình thương Thiêng liêng trong đủ cả bảy cách biểu hiện chính yếu của nó. Thay vào đó, họ tìm cách biểu lộ tình yêu của người phàm, thường được ngụy trang là tình thương tâm linh.

Về điểm này, ta cần chỉ ra cho con là thập niên 1960 được nhiều người tâm linh xem là thập niên quyết định, đánh dấu một bước ngoặt trong bước tiến hóa tâm linh của nhân loại. Điểm này có chút sự thật trong đó, nhưng không nhiều như người ta thường nghĩ. Thực tế là trong thập niên 1960, một số năng lượng và lời dạy tâm linh đã được truyền rải vào bốn thể phàm của năng trường trái đất cũng như vào tâm thức tập thể của nhân loại. Các năng lượng và lời dạy này nhằm giúp con người khắc phục các điểm nghẽn trong dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng, và quả thực, tiềm năng vào lúc đó rất lớn.

Tiếc thay, như xảy ra quá thường trên trái đất, tiềm năng cao nhất đó đã không thành hình. Lý do là vì tất cả các thày giả trên hành tinh đã nỗ lực chống lại sự truyền rải của các chân sư, và do khuynh hướng của tự ngã con người, các thày giả đã tương đối thành công. Quả là đã có nhiều người nhạy cảm được các năng lượng mới đánh thức dậy, nhưng thế rồi họ lại bị các thày giả cùng tự ngã của họ đánh lừa, khiến họ biểu lộ tình thương dưới dạng tình yêu phàm phu, thay vì thăng vượt trạng thái tâm thức cũ để biểu hiện Tình thương Thiêng liêng.

Chẳng hạn, một điểm tắc nghẽn đã cản trở dòng chảy tự do của Tình thương Thiêng liêng là khi con người không sẵn sàng biểu lộ tình cảm của mình cho nhau, mà một cách biểu hiện là thái độ dồn nén của nhiều người không chịu bày tỏ tình thương của mình qua thân thể vật lý, từ việc ôm ấp cho đến tình dục. Các thày giả đã thành công biến nhiều người thức tỉnh đó thành những kẻ nổi loạn chống lại các chuẩn mực tình dục của xã hội – một sự nổi loạn thật vô nghĩa – để họ tưởng rằng muốn biểu lộ tình thương nhiều hơn thì họ phải tình dục tự do. Thế là tự ngã con người – vốn không bao giờ thấy đủ khi nó tìm cầu bất kỳ loại khoái cảm nào của thế gian – trở thành một đồng minh đưa đẩy nhiều người tâm linh vào con đường quanh co của phong trào “tình yêu tự do”, thay vì bước vào phong trào giải phóng tình yêu để nó thăng vượt tình dục phàm phu.

Một ví dụ điển hình cho sự thể này là bài hát nổi tiếng của ban nhạc The Beatles với điệp khúc “Tất cả điều bạn cần là tình yêu, tình yêu là tất cả điều bạn cần.” Thật ra bài hát này được thiết kế – không phải một cách ý thức bởi người viết nhạc, mà bởi một thày giả đã phóng nó ra từ một cõi thấp – để cài đặt một cái móc tâm lý vào tâm thức mọi người. Cùng với nhiều ca khúc khác của The Beatles và các ban nhạc khác, cái móc này đã đẩy nhiều người tâm linh chân thành vào con đường lòng vòng khi họ nổi loạn chống lại xã hội, hay họ rút ra khỏi xã hội qua việc sử dụng ma túy, tình dục vô độ, nhạc rock và lối sống lập dị – thay vì thay đổi trong nội tâm để giúp xã hội thăng vượt đi lên.

Và như vậy, tiềm năng của thập niên 1960 đã không thành hình và một phần của tiềm năng đó vẫn chưa thành hình cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên trong những năm sau đó, tình trạng này đã được sửa chữa phần nào nhờ sự xuất hiện của một nhóm người tầm đạo tâm linh trưởng thành hơn với khả năng phân biện Ki-tô sâu sắc hơn.

Tiếc thay, nhiều người tâm linh ngày nay vẫn tin rằng tất cả những gì mà họ cần để tăng triển tâm linh là biểu lộ tình yêu, nhưng họ lại định nghĩa tình yêu này theo cách người phàm. Thường thường đó là một dạng tình yêu nhu mì, dịu dàng và hiền từ không bao giờ thách thức một ai, và do đó cũng không thể giải thoát được một ai khỏi dây buộc của tự ngã. Như ta vừa giải thích, nếu con muốn tăng triển tâm linh đích thực, trước tiên con phải điều ngự – và phải làm cánh cửa mở để biểu hiện – bốn phẩm chất cơ bản, rồi sau đó bảy phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng trong tất cả mọi cách biểu hiện của nó. Quả thực đây mới là tất cả những gì con cần.

Tình yêu phàm phu sẽ không đưa con tới đâu, cho dù có biết bao người đã tự lừa dối mình rằng tình yêu phàm phu sẽ dẫn họ lên thiên đàng hay một trạng thái tâm thức cao vời vợi. Một lần nữa, đây là một mưu toan có chủ ý làm chậm bước cuộc đột phá có tiềm năng xảy ra trong thời đại này. Để tránh không lại bị lầm lẫn bước vào con đường lòng vòng của tình yêu phàm phu, con cần hiểu tự ngã của con đang tìm cách đánh lừa con như thế nào. Con hãy khởi sự bằng cách hiểu tư duy xám (gray thinking) của tự ngã là thế nào, xong con hãy tìm hiểu tất cả các bài giảng của ta về tự ngã. Nếu con không vươn lên khỏi tình yêu của tự ngã – là tình yêu đặt mình ở trung tâm, mặc dù nó ngụy trang rất giỏi – thì con sẽ không có hy vọng bước vào dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng.

Như ta đã cố gắng giải thích khắp trang mạng này, tâm thức Ki-tô không phải là một lực thụ động sẽ bỏ con lại trong một trạng thái giới hạn. Đó là một lực chủ động, tích cực, xông vào trong thế gian, gặp gỡ mọi người ở ngay đó, và nếu cần, nó sẽ thách thức ảo tưởng của họ để trao cho họ một sự chọn lựa – là hoặc đi theo Ki-tô Hằng sống, hoặc cứ tiếp tục đi theo phản-Ki-tô. Đây là một chọn lựa mà họ sẽ không có cho đến khi họ gặp được Ki-tô Hằng sống hay Sự Thật của Ki-tô. Cho nên Tình thương Thiêng liêng không chấp nhận để cho một điều kiện nào ngăn chặn dòng chảy của nó, và nó tìm cách giúp mọi người vượt qua mọi điều kiện của họ. Tuy nhiên, tình thương vô điều kiện cũng không dính mắc với cách phản ứng của con người, cho nên nó sẽ thách thức rồi để cho họ tự do quyết định, ngược hẳn với tình yêu phàm phu cần phải kiểm soát.

Cách hay nhất để khắc phục các điểm nghẽn cho Tình thương Thiêng liêng là sử dụng các bài nguyện của Mẹ Mary. Tất cả những bài đó sẽ tháo gỡ những điểm đang ngăn chặn tình thương, nhưng ta đặc biệt khuyên con nên dùng bài Thỉnh thanh tẩy trái tim và bài Thỉnh thương yêu chính mình.

Để điều ngư tình thương trên bảy tia sáng, con phải quán chiếu đặc tính của mỗi tia sáng và làm việc với vị chân sư trong mỗi tia. Cách hay nhất để làm điều này là sử dụng các bài chú cho bảy tia sáng.

Sự thật về thiên đàng và địa ngục

Hỏi: Thế nào là sự thật về thiên đàng và địa ngục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Trên trang mạng này, con sẽ tìm thấy nhiều lời dạy là tất cả mọi thứ đều được tạo ra bằng năng lượng và năng lượng là rung động. Năng lượng có nhiều mức độ rung động khác nhau, và có thể nói có ba mức độ chính. Mức độ mà mọi người đều nhận thức được qua giác quan là cái mà chúng ta gọi là thế giới vật chất. Cõi này được tạo bằng năng lượng rung động trong một dải tần số nhất định như được giải thích ở những nơi khác.   

Vượt trên cõi vật chất là cõi tâm linh, làm bằng năng lượng rung động ở những tần số cao hơn cõi vật chất. Trong cõi tâm linh cũng có nhiều tầng cấp, đi lên mãi cho tới rung động tối hậu là tầng cấp của Đấng Sáng tạo.

Con cần hiểu rằng mô hình “đường thẳng” cố hữu dựa trên giác quan con người không còn đáp ứng được một thế giới nơi tất cả mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Thiên đàng không nằm ở một nơi nào đó trên trời, mà thiên đàng được tạo bằng những rung động hiện hữu ngay trong cùng khoảng không gian với những rung động của cõi vật chất.

Căn phòng mà con đang ngồi có rất nhiều làn sóng vô tuyến với tần số khác nhau xâm nhập vào, nhưng vì sóng có nhiều tần số khác nhau, cho nên chúng có thể cùng hiện hữu trong một khoảng không gian mà không triệt tiêu lẫn nhau. Cũng vậy, năng lượng của hai cõi tâm linh và vật chất có thể tồn tại trong cùng một không gian. Đó là tại sao có những nơi trên trái đất mà nhiều người cảm thấy độ rung cao hơn những nơi khác. Và thật vậy, có những khu vực nơi rung động được nâng lên cao đến độ gần như không còn khoảng cách nào giữa hai thế giới vật chất với tâm linh. Có thể nói là cả hai thế giới đã trùng lấp lên nhau – một loại thiên đàng hạ giới. Và cũng có thể nói người ở đó như là ở thiên đàng vậy – họ chỉ đơn giản không biết mà thôi vì tâm thức họ đã điều chỉnh theo các tần số thấp của cõi vật chất.  

Cũng thế, địa ngục chỉ đơn giản là một cõi được tạo bằng những năng lượng thấp hơn cõi vật chất. Tương tự như cõi tâm linh, con có thể tìm thấy những nơi trên địa cầu với độ rung thấp hơn trung bình thật là đáng kể. Đây là những nơi mà cõi vật chất trùng lấp với cõi thấp hơn, và quả thật trên địa cầu có những nơi là địa ngục trần gian.

Trong thực tế, cái mà các khoa học gia thời nay gọi là năng lượng thật sự là tâm thức. Phúc âm của John ghi rằng ở ban đầu có Ngôi Lời và tất cả được tạo ra từ Lời hay Logos. Lời tức là tâm thức Ki-tô toàn vũ, là tâm Ki-tô toàn vũ. Tâm thức này là nhân tố sáng tạo đầu tiên, cho nên có thể gọi đó là đứa Con đầu lòng của Thượng đế hay đứa Con Một của Cha. Hiển nhiên những từ này chỉ là những biểu tượng mà ta đã sử dụng, bởi vì 2000 năm trước đây, con người chưa có hiểu biết về năng lượng. Thuở đó ta đã không thể giải thích cho họ như ta đang giải thích cho con.

Tâm thức Ki-tô toàn vũ là chất liệu cơ bản mà từ đó mọi thứ khác đều được sinh tạo. Do đó tâm thức Ki-tô hiện thân trong tất cả mọi thứ, và đó là lý do mỗi con người đều có tiềm năng bước đi theo ta và trở thành một đấng Ki-tô.

Nói ngắn gọn, thiên đàng là một trạng thái tâm thức, địa cầu là một trạng thái tâm thức và địa ngục cũng là một trạng thái tâm thức. Sự khác biệt nằm ở chỗ cõi tâm linh là do Thượng đế sáng tạo, và mọi điều ở cõi tâm linh đều hoàn toàn phù hợp với các quy luật và viễn quan nguyên thủy của Thượng đế.

Địa cầu cũng do Thượng đế sáng tạo. Tuy nhiên, vì cư dân trên địa cầu được ban cho quyền tự quyết, họ đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế mà không phải tất cả mọi thứ trên địa cầu đều phù hợp với các quy luật và viễn quan của Thượng đế. Loài người đã đồng sáng tạo một trạng thái tạm thời thấp hơn trạng thái nguyên thủy mà các Elohim đã tạo dựng.

Sự khác biệt chủ yếu giữa địa cầu và địa ngục là sự kiện địa ngục không bao giờ do Thượng đế sáng tạo. Ta hiểu là điều này trái ngược với niềm tin của hầu hết các tín hữu tôn giáo, nhưng đó là vì các tín hữu này còn giữ chặt một hình ảnh về địa ngục được đưa ra vào một thời kỳ sơ khai hơn. Như ta giải thích ở trên, trước khi con người có sự hiểu biết về năng lượng thì không có cách nào giản dị để giải thích địa ngục chính xác.

Địa ngục là một trạng thái tâm thức được tạo ra bởi một nhóm sinh thể phi vật chất đã nghịch lại viễn quan của Thượng đế, mục đích của Thượng đế và quy luật của Thượng đế. Trong niềm tự kiêu và đối nghịch, họ đã tìm cách tạo dựng một nơi chỗ mà Thượng đế có vẻ như không hiện hữu. Con thấy không, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho một số sinh thể. Dù họ làm bất cứ gì thì họ cũng sử dụng năng lượng của Thượng đế, có nghĩa là họ biến đổi tần số rung động của năng lượng đó. Trong viễn quan nguyên thủy của Thượng đế, các cư dân của cõi vật chất sẽ không bao giờ tha hóa năng lượng xuống thấp hơn một độ rung nào đó. Nếu viễn quan của ngài được tuẩn thủ thì cả hành tinh này đã bước lên một vòng xoáy ốc hướng thượng nơi không có gì bị hủy diệt hay tan rã.

Nhưng khi các sinh thể phi vật chất kia bắt đầu thay đổi năng lượng, làm cho nó bị hạ xuống dưới một mức then chốt, thì họ cũng khởi sự một xoắn ốc, một cơn lốc xoáy tiêu cực. Ở một thời điểm trong tiến trình này, có những người đã bị họ lừa gạt nhập vào tâm thức thấp kém đó, khiến cho những người này cũng hạ thấp năng lượng. Cho nên mỗi lần con người tham gia vào năng lượng bất toàn thì cơn lốc xoáy năng lượng của địa ngục sẽ được tăng cường mạnh mẽ hơn.

Địa ngục có nhiều mức độ rung động, và có những mức độ mới luôn luôn được chế tạo ra bởi những sinh thể không ngừng nổi loạn chống lại Thượng đế, và họ cố gắng tạo thêm những rung động thấp hơn. Sự thể này có thể tiếp diễn rất lâu và độ rung thì có thể kéo xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, xuống thấp cũng có hạn vì đến một mức thì năng lượng sẽ tự hủy diệt.    

Có thể nói, “ngọn lửa” mà người ta hay kết hợp với địa ngục là biểu tượng cho những năng lượng vô cùng thấp kém, dày đặc này. Nếu con nén ép vật chất thật chặt thì nó sẽ nóng lên và tới lúc con sẽ có một phản ứng hạt nhân. Tương tự như vậy, khi con không ngừng hạ thấp rung động của năng lượng Thượng đế, cuối cùng con sẽ khiến cho nó bùng nổ, các năng lượng tha hóa bị “thiêu hủy” và được giải thoát khỏi tất cả những hình tư tưởng đã giữ chặt nó ở độ rung đó. Khi điều này xảy ra, năng lượng được nâng lên một độ rung cao hơn và được “tái chế”.  

Kỳ thực, những sinh thể đã tạo ra địa ngục sống trong giả dối, ho sống trong ảo ảnh. Như ta vừa nói, tâm thức Ki-tô toàn vũ ở trong mọi thứ. Con không thể sáng tạo bất cứ gì mà không sử dụng tâm thức Ki-tô toàn vũ. Các tà lực đã có thể tạo ra một tầm mức hoàn toàn làm bằng năng lượng thấp kém đến độ Thượng đế không bao giờ có thể tạo ra. Nghĩa là từ một khiá cạnh nào đó, có thể nói là họ đã thành công tạo ra một thế giới nơi Ánh sáng và sự thật của Thượng đế không có mặt. Tuy nhiên sự vắng mặt này của Ánh sáng Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhất thời, nó sẽ chỉ tiếp tục hiện hữu khi nào con người còn làm tha hóa Ánh sáng của Thượng đế và dùng ánh sáng này để nuôi sống các tà lực không có khả năng nhận lãnh ánh sáng.

Tóm lại, có thể nói là thiên đàng là do Thượng đế sáng tạo và tuân theo hoạch định ban đầu của Thượng đế. Địa cầu cũng là do Thượng đế sáng tạo nhưng hiện không còn đáp ứng hoạch định thiêng liêng. Tuy vậy, địa cầu có tiềm năng trở lại trong quy luật Thượng đế và nhờ thế được nâng lên trở lại vào thuần khiết nguyên thủy. Khi đó, thiên đàng, tức là tâm thức thiên đàng, sẽ được đem trở lại trái đất.

Còn địa ngục thì không bao giờ được Thượng đế tạo ra. Địa ngục không có tiềm năng trở về với quy luật và sự thật của Thượng đế. Năng lượng có thể được tẩy uế để trở về độ rung nguyên thủy, tuy nhiên khi điều này xảy ra thì địa ngục sẽ đương nhiên biến mất và không còn nữa.

Trong khi thiên đàng và trái đất là có thực, địa ngục chỉ là điều bịa đặt của một trí tưởng tượng méo mó. Nhưng vậy tại sao khái niệm địa ngục lại trở thành một sức mạnh hàng đầu trong tôn giáo? Đúng vậy, như ta vừa nói, địa ngục có sự hiện hữu và một thực tế tạm thời. Nếu một người chọn hòa nhập tâm thức mình vào tâm thức của địa ngục thì khi rời xác thân vật lý, dòng sống của người đó sẽ bị từ trường của địa ngục cuốn hút, và do đó việc rơi xuống địa ngục là một khả năng có thực.   

Tuy nhiên, sẽ vô cùng hữu ích nếu mọi người hiểu được và chấp nhận được là các dòng sống không hề bị đày xuống địa ngục do sự trừng phạt của Thượng đế. Chính mỗi dòng sống mới tự đày mình xuống địa ngục khi mình hạ thấp tâm thức của mình. Chính trạng thái tâm thức của con mới quyết định con sẽ bị từ hoá bởi rung động của địa ngục hay của cõi tâm linh.    

Những câu chuyện về địa ngục mà con có thể tìm thấy trong hầu hết các tôn giáo đều có một thực tế nào đó, cho dù chỉ tạm thời. Nhưng ta là người đầu tiên phải nhìn nhận là hầu hết các tôn giáo đều đã hiểu lầm và dùng lầm khái niệm địa ngục để gây ra nỗi sợ hãi nơi các tín đồ của mình, hầu khiến họ đi theo những quy luật và giáo điều vỏ ngoài mà không đặt vấn đề thẩm quyền của giáo hội.

Hiển nhiên, đây là một sự lạm dụng trách nhiệm mà các chức sắc đó đã phạm vào, thậm chí còn có một số lãnh đạo tôn giáo đã lạm dụng quyền hành của mình tới độ chính họ bị sa vào cái địa ngục mà họ đã quá khôn khéo sử dụng để khuất phục tín đồ của họ qua sự doạ nạt, áp chế và kiểm soát.

Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô

Hỏi: Chúa Thánh thần và Hiện diện TA LÀ là gì và nằm ở cấp độ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Chúa Thánh thần (Holy Christ), hay tâm thức Ki-tô toàn vũ, là Đứa con Một của Thượng đế Cha/Mẹ. Đó là Lời đã hiện thân, có nghĩa là nguyên tố căn bản, là chất liệu, được sử dụng để tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng. Vì thế, tâm thức Ki-tô toàn vũ có mặt, trong nghĩa đen, ở khắp mọi nơi không trừ một nơi nào. Ngay cả trong tận cùng của địa ngục, con cũng sẽ tìm thấy tâm thức Ki-tô toàn vũ.

Mỗi dòng sống trong vũ trụ vật chất cũng có một tâm thức Ki-tô đã cá thể hóa, là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô đóng vai trò trung gian giữa cái Ta Biết và cái ta tâm linh, gọi là Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô luôn luôn có mặt với dòng sống, có nghĩa là dù cho dòng sống có ở đâu, có đi xuống tới mức tâm thức thấp thế nào đi nữa, cái Ta Biết luôn luôn có thể chọn lựa bắt liên lạc với cái ta Ki-tô. Thực sự, cái ta Ki-tô là cánh cửa mở mà không một người nào có thể đóng lại. Đó cũng là ánh sáng thắp sáng mọi dòng sống khi mới bước vào thế gian.

Cho nên con không bao giờ có thể xa rời khỏi cái ta Ki-tô. Đó là con chó săn của thiên đàng sẽ luôn luôn theo dõi dòng sống của con ở bất cứ nơi đâu, không ngừng tìm cách tạo linh hứng cho cái Ta Biết quay đầu lại và cất bước trên con đường trở về nhà.

Còn cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, là cốt lõi của bản sắc và cá thể của con. Cá thể của con do Thượng đế ban cho con được lưu giữ trong cái ta tâm linh này. Hiện diện TA LÀ không bao giờ đi xuống thấp hơn tầng cao nhất của cõi ether. Nói cách khác, nó cư ngụ liên tục trong cõi tâm linh, và vì thế nó không thể bị ô nhiễm bởi bất kỳ năng lượng nào trong thế gian. Cho dù con có làm gì đi nữa, trong kiếp này hay trong một tiền kiếp, con không thể làm ô nhiễm hay tổn hại sự thuần khiết của Hiện diện TA LÀ của con cũng như cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. 

Tại sao khó mô tả cõi tâm linh

Hỏi: Xin cảm tạ những câu trả lời soi sáng trên trang mạng này. Xin thày vui lòng trình bày chi tiết cho chúng con từ quan điểm của chân sư thăng thiên về các cõi bên trong? Đặc biệt, có những tầng cấp nào ở trên cõi ether lên mãi cho tới Tuyệt đối và ý nghĩa của mỗi tầng cấp? Những sinh thể nào cư ngụ ở đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi thật giản dị với câu trả lời phức tạp vô hạn. Con có nhớ trong kinh Tân ước có một đoạn văn nói rằng, nếu tất cả mọi điều mà ta đã nói và đã làm được ghi chép xuống, cả thế giới này cũng không thể chứa hết sách được viết ra? Câu này cũng áp dụng cho việc mô tả cõi tâm linh vượt khỏi và ở bên trên cõi ether. Hãy để cho ta giải thích tại sao việc trả lời chi tiết câu hỏi của con thật là khó khăn.

Như giải thích trong bài giảng vừa đề cập, con sống trong cái mà ta gọi là thế giới hình tướng. Thế giới này đặc trưng ở chỗ nó có hình thể. Thế giới này tương phản với khiá cạnh không biểu hiện của Thượng đế mà ta gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất Cả. Ở đó không có hình thể, không có phân chia và không có tách biệt.

Vũ trụ vật chất gồm có một số tầng cấp có thể chia thành bốn phần. Tầng thấp nhất là tầng vật chất, còn gọi là cõi vật lý. Cao hơn về mặt rung động là cõi cảm xúc, mà giáo lý huyền bí gọi là cõi trung giới. Ở trên nữa là cõi lý trí, và ở trên nữa là cõi ether.

Khi con vượt lên cao hơn cõi ether, con bước vào cõi tâm linh. Vấn đề khi mô tả cõi tâm linh là cõi này ở trên và vượt khỏi vũ trụ vật chất. Do đó nó rất khác với vũ trụ vật chất. Nó tràn ngập một tâm thức khác rất xa trạng thái tâm thức mà con thấy được trên hành tinh địa cầu hiện nay.

Trong trạng thái tâm thức hiện thời, con người có xu hướng nhìn mọi thứ trong sự phân chia và tách biệt. Họ bị ảnh hưởng bởi các loại hình tướng mà họ nhìn thấy chung quanh họ trên trái đất. Cho nên họ có xu hướng phóng chiếu những hình tướng đó, kể cả khái niệm phân chia và tách biệt, vào cõi tâm linh. Điều này bắt buộc sẽ tác động lên cách nhìn và cách hiểu của họ về các cõi cao.

Con người có thói quen suy nghĩ theo lối đường thẳng về vũ trụ vật chất. Trong cõi tâm linh, chúng tôi có tâm thức quả cầu, và chúng tôi không phân chia cõi này ra thành từng ngăn riêng biệt. Tuy cõi tâm linh có nhiều cấp độ, nhưng nếu mô tả theo lối đường thẳng hầu con người hiểu được, điều này sẽ chi gây ra lầm lẫn. 

Trong quyển sách “Hãy tự cứu” (Save Yourself) có một cuộc thảo luận rất dài về ảnh hưởng của những tin tưởng của con người trên cái nhìn tâm linh. Ta có giải thích là ngay cả khi có cái nhìn tâm linh đích thực, người ta thường hay phóng chiếu những tin tưởng hiện thời của mình lên trên tầm nhìn đó rồi diễn giải theo cách tin tưởng của mình. Kết quả là cái nhìn về cõi tâm linh luôn luôn bị ít nhiều méo mó.   

Vì vậy sự thật ngắn gọn về cõi tâm linh là con phải chứng nghiệm thì mới có thể biết được nó trọn vẹn, mới thấy được nó khác thế nào với địa cầu. Do đó, việc mô tả cõi tâm linh gần như là phản tác dụng, và đó là lý do tại sao nhiều tôn giáo phải trùm lên một tấm màn biểu tượng. Thật không có gì sai trái khi mô tả cõi tâm linh qua biểu tượng, miễn là người ta không nắm lấy những biểu tượng đó trong nghĩa đen. Tiếc thay, do trạng thái tâm thức còn thấp cho nên nhiều người sử dụng biểu tưởng trong nghĩa đen, dẫn đến vô số những cuộc xung đột và cách diễn giải sai lầm.       

Trong thời điểm này, ta không mong muốn thêm vào một lời mô tả khác về cõi tâm linh ngoài những gì ta đã đưa ra trong sách và trên trang mạng này. Muốn mô tả một cách đúng đắn và chi tiết sẽ đòi hỏi quá nhiều thời giờ của sứ giả này, và hiện nay ta coi đó là một ưu tiên thấp. Điều này có thể thay đổi trong tương lai, nhưng ngay bây giờ thì ta không muốn trình bày dài dòng về cõi tâm linh, vả lại ta cũng không muốn trình bày quá sơ sài. 

[Ghi chú: Từ khi có câu trả lời này, một lời mô tả chi tiết hơn đã được đưa ra trong quyển sách “Master Keys to Spiritual Freedom” do thày Maitreya truyền đọc]

Ta cũng xin nói thêm là ngay cả nếu việc mô tả chính xác cõi tâm linh là điều khả dĩ trong cõi vật lý, sự mô tả đó cũng sẽ mất chính xác ngay khi nó được phát ra trong vũ trụ vật chất. Lý do là vì cõi tâm linh không đứng yên. Thượng đế là Đấng Sáng tạo và ngài không bao giờ ngừng sáng tạo. Điều này cũng đúng cho tất cả các sinh thể trong cõi tâm linh. Do đó, cõi tâm linh không bao giờ ngừng tăng triển, nó luôn luôn thăng vượt chính nó và luôn luôn khai mở thêm. Nói cách khác, có những cấp độ mới liên tục được thêm vào, và vì vậy, không một lời mô tả nào có thể hoàn toàn chính xác.

Chìa khóa để yêu bản thân

Hỏi: Khi linh hồn lần đầu tiên tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, nó tạo dựng một tự ngã chung quanh nó. Làm sao nó có thể học cách yêu thương chính nó để nó có thể trở về hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của nó? Tại sao tất cả chúng ta con người lại khó học cách yêu thương bản thân trước khi chúng ta yêu thương người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Điều sẽ rất hữu ích cho con là phân biệt linh hồn và chính con. Linh hồn là một phương tiện nhằm giúp con đi vào vũ trụ vật chất. Linh hồn cho phép con tương tác với cơ thể vật lý và những năng lượng dày đặc của cơ thể. Nhưng trong nhiều giáo lý trước đây và nhiều lời dạy về tâm linh và tâm lý, từ “linh hồn” được sử dụng một cách rất tổng quát, và đôi khi người ta cứ cho là ai ai cũng đã hiểu bản chất của linh hồn rồi. Nhưng linh hồn có nhiều khía cạnh khác nhau, và chính con là nhiều hơn linh hồn của con, mặc dù nhiều người – thậm chí cả nhiều người tâm linh – cũng tưởng rằng linh hồn là toàn thể con người họ.

Con đã quen với khái niệm Hiện diện TA LÀ như là cái ta cao hơn, và một số người cho rằng Hiện diện TA LÀ là một phần của linh hồn họ, nhưng thật không phải là vậy. Linh hồn được cấu tạo bằng những năng lượng thấp kém của cõi vật chất, trong khi Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bằng rung động cao tần của cõi tâm linh, và nó không bao giờ đi xuống thấp hơn cõi tâm linh. Vì vậy khi con hiểu được khái niệm Hiện diện TA LÀ, con sẽ hiểu ra rằng Hiện diện TA LÀ ở cao hơn và vượt khỏi linh hồn. Hiện diện TA LÀ không đi xuống các rung động thấp. Hiện diện TA LÀ đã không rơi xuống tâm thức nhị nguyên, và kỳ thực, trước thời điểm sa ngã xuống tâm thức nhị nguyên, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn vẫn chưa xuất hiện – bởi vì linh hồn chỉ xuất hiện để trợ giúp cho cuộc hành trình của con vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất cũng như vào tâm thức nhị nguyên.  

Vậy thì cái gì đã quyết định cắn vào quả trái của sự hiểu biết về thiện và ác? Đó không phải là Hiện diện TA LÀ, bởi vì làm sao Hiện diện TA LÀ sa ngã được? Cũng không phải là cái ta Ki-tô, vì Ki-tô luôn luôn là một với Cha. Cho nên phải có một thành phần nào khác của bản thân con, không phải là cỗ xe thấp kém của linh hồn, và cũng không phải là Hiện diện TA LÀ. Và thực sự, thành phần này chính là cái đang cho con ý thức bản ngã của con. Mẹ Mary có giải thích điều này rất chi tiết trong các cuốn sách của thày về sự sống dồi dào, và thày gọi thành phần đó của con đang có những chọn lựa ý thức, là cái “Ta Biết”. Đó là trụ sở của ý chí tự quyết của con, và đó cũng là thành phần của con đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. 

Bây giờ ta trở lại câu hỏi của con. Có thể nói, linh hồn sẽ không bao giờ thực sự học được cách yêu thương chính nó, bởi vì linh hồn chỉ là cỗ xe cho cuộc hành trình của con vào cõi thấp, và trong cõi thấp không có gì có thể tiếp nhận được hoàn toàn tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Linh hồn không có khả năng thấu hiểu được khái niệm tình yêu vô điều kiện. Nhưng cái Ta Biết thì có khả năng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện.

Con cần suy ngẫm xem cái Ta Biết là gì. Nếu con suy ngẫm, con sẽ dần dần hiểu ra nó là gì, và con sẽ nhìn ra rằng con là nhiều hơn linh hồn của con. Đặc tính độc đáo của cái Ta Biết là nó có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì nó chọn. Nó là trụ sở của ý chí tự quyết, cho nên nó có thể chọn đồng hóa với con người thật của nó, tức là một đứa con của Thượng đế, một vị đồng sáng tạo với Thượng đế. Hoặc nó có thể chọn tự đồng hóa như là một con người sinh diệt, thậm chí là một con người tội lỗi không xứng đáng đến gần Thượng đế.

Thật sự cái Ta Biết có thể tự đồng hóa như là một hòn đá hay một gốc cây. Hoặc nó có thể tự cho nó là Giê-su Ki-tô hay Napoleon hay bất kỳ ai khác. Và thật vậy nơi các bệnh viện tâm thần, con sẽ tìm thấy những người tự đồng hóa hoàn toàn với một người mà họ không thật là, và điều này cho con thấy khả năng của cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với bất kỳ thứ gì, bởi vì nó có quyền tự quyết và một trí tưởng tượng vô hạn.

Cho nên con không thể dạy cho linh hồn của con yêu thương chính nó, hay yêu thương chính con. Con cần phải tiếp xúc với cái Ta Biết. Nhưng làm thế nào con tiếp xúc với cái Ta Biết đây? Chính con là cái Ta Biết đó, và đây là điều con cần nhìn thấy. Con thấy không, mỗi khi chúng tôi cho con một khái niệm, chẳng hạn Hiện diện TA LÀ, thật dễ cho con nhìn thấy được rằng Hiện diện TA LÀ nằm ở trên và vượt khỏi con, tách rời khỏi con. Trong một nghĩa nào đó, điều này không sai, bởi vì khi con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, con cũng ở một mức rung động thấp hơn Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa hoàn toàn với Hiện diện TA LÀ. Và đó là lúc con nói: “Ta và Cha ta là một!”

Cho nên điều ta muốn nói là, trước khi con học được cách yêu thương chính con, con phải biết được bản thân con cái đã. Con phải biết được cái Ta Biết. Và sau đó con phải nhận ra là cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con và con phải chọn lựa con sẽ tự đồng hóa như thế nào.

Nếu con tự đồng hóa với linh hồn, tức là cỗ xe thấp, con sẽ không thể yêu thương được chính con, bởi vì linh hồn, như ta đã nói, không thể nắm bắt tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Và chỉ có tình yêu này, tình yêu toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi, mới có thể cho con cảm nhận là con xứng đáng với tình yêu Thượng đế, và do đó, chỉ khi đó con mới đón nhận được tình yêu Thượng đế.

Vì vậy khi con suy ngẫm điều này và bắt đầu nhận ra rằng con thật là một sinh thể có ý thức đang lựa chọn, con mới dần dần nhìn ra là để yêu thương chính mình, con phải chọn là con người thật của con, tức là một cá thể của Thượng đế. Chỉ qua sự chọn lựa làm con người thật của mình mà con mới chấp nhận rằng, vì con đã được sinh tạo ra từ Bản thể Thượng đế, con xứng đáng với tình yêu của Thượng đế. Chỉ khi đó con mới tách ra khỏi mọi sự đồng hóa với các cỗ xe thấp kém, cho dù đó là linh hồn, là tự ngã, tâm nhị nguyên hay thể xác vật lý, hay thậm chí cả những đồ vật của thế gian này.

Ta khuyến khích con hãy học hỏi toàn bộ lời dạy của Mẹ Mary đã trình bày một cách sâu xa và chi tiết vượt hẳn tất cả những gì đã được truyền giảng trước đây về đề tài này – và do đó nó quá phức tạp đề ta trình bày ở đây.

Ghi chú: Bạn cũng có thể đọc Bài thỉnh để Yêu Chính mình.

Tình yêu Ki-tô vô điệu kiện nhưng phân biện

Hỏi: Chữ “tình yêu” bị rất nhiều người sử dụng bừa bãi (bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo của người đó) đến độ nó mang nhiều ý nghĩa và định nghĩa hơn bất cứ chữ nào khác! Trong Mười Điều răn trong Kinh thánh, “yêu Chúa, yêu chính mình, yêu là chìa khóa”… thật là mơ hồ! Thật là quá dễ nói rằng “Yêu Thượng đế, yêu bản thân, yêu người lận cận của mình”. Làm sao chúng con biết được chúng con có yêu thương thật sự như Thượng đế yêu thương không? Và nếu “Tình yêu là chìa khoá” thì nhất định chúng con muốn biết yêu cách nào đúng nhất! Xin thày làm ơn chia sẻ với chúng con định nghĩa của Thượng đế về Tình yêu và tất cả mọi điều khác để giúp chúng con là Tình yêu mà Thượng đế luôn muốn chúng con là?  


Trả lời cuả chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi một câu vô cùng quan trọng. Con hoàn toàn đúng khi con nói rằng có nhiều định nghĩa về tình yêu và nhiều sự hoang mang về tình yêu.

Hãy cho ta nói trước tiên về tình yêu nhân thế. Như ta có giảng trong trang mạng của ta, vấn đề thật sự trên trái đất là con người đã bước xuống một tình trạng tâm thức thấp hơn, và đã đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Đặc điểm của tâm thức này là khiến cho con người tưởng rằng tất cả đều tương đối. Trong trạng thái tâm thức đó, họ định ra một hình ảnh của thực tại, một thần tượng, rồi họ tìm cách ép uổng thực tại phải nằm gọn trong hệ thống tín ngưỡng của họ, hay trong thế giới quan của họ. Họ cố dựng lên một thế giới theo kiểu cách họ muốn. Đương nhiên, điều này cũng áp dụng cho tình yêu.

Khi con người định nghĩa tình yêu, họ định nghĩa một cách tương đối. Chẳng hạn, nhiều người định nghĩa tình yêu là đối nghịch của thù hận. Tuy nhiên, hận thù là một tình cảm hoàn toàn tương đối, một tình cảm hoàn toàn phàm phu. Vậy nếu con định nghĩa tình yêu là đối nghịch của một tình cảm tương đối gọi là thù hận, thì con cũng định nghĩa tình yêu là một tình cảm tương đối. Hệ quả là tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Con người có khuynh hướng định nghĩa tình yêu dựa trên bản thân mình, dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của mình. Có nghĩa là mỗi người định nghĩa tình yêu theo cách như sau: tình yêu là bất cứ điều gì làm cho tôi vui lòng – nếu bạn nói hay làm điều gì đó không làm tôi vui lòng thì bạn không thương yêu tôi.  

Tất nhiên, định nghĩa này hoàn toàn vị kỷ, nó xoay quanh bản thân mình và lấy bản thân làm trung tâm. Hay đúng hơn, nó lấy tâm trí thấp, cái tâm nhị nguyên, làm trung tâm. Và vì thế, nó xa rời thực tại của tình yêu siêu phàm.

Như ta có giải thích ở nơi khác, tình yêu siêu phàm, tình yêu của Thượng đế, hoàn toàn và tuyệt đối vô điều kiện. Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và xét đoán. Thượng đế là một Thượng đế của tình yêu vô điều kiện, và đối với những đứa con của ngài, ngài không có gì khác hơn là tình yêu. Bất kể con là ai hay đã làm gì, Thượng đế sẽ yêu con với cùng một tình yêu vô điều kiện, vô hạn, như khi ngài sinh tạo dòng sống của con ở ban đầu. Con không thể làm điều gì để làm giảm đi tình yêu của ngài đối với con. Con không thể làm gì để khiến con không xứng đáng nhận được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế.  

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu của Thượng đế vô điều kiện chính là vì mắt ngài không thể nhìn thấy sự bất chính. Thượng đế là quyền năng sáng tạo lớn nhất trong vũ trụ. Bất cứ gì mà ngài nhìn vào sẽ được khuếch đại, tăng cường do quyền năng sáng tạo vĩ đại của ngài. Cho nên ngài giản dị sẽ không nhìn vào những bất toàn của con. Ngài đã ban cho con quyền tự quyết, và hệ quả của quyền tự quyết là con có thể quyết định bước vào một trạng thái tâm thức thấp hơn cái trạng thái toàn hảo mà Thượng đế đã mường tượng cho con. Trong tâm thức này, con có thể tạo ra đủ thứ bất toàn, nhưng ngài sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ nào. Thượng đế chỉ nhìn thấy sự toàn hảo mà ngài đã sinh tạo ở ban đầu. Khi con chìm vào bất toàn, con cũng chìm xuống dưới chân trời của tầm nhìn Thượng đế. Nhưng chúng tôi, các chân sư thăng thiên, chúng tôi nhìn thấy được những bất toàn cuả con, và đó là tại sao chúng tôi có thể giúp con thăng vượt được.

Vấn đề khi cố giải thích tình yêu của Thượng đế là khi con người còn bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối, họ có khuynh hướng rơi vào một trong hai cực đoan. Một cực đoan là phóng chiếu phẩm chất con người lên Thượng đế rồi tưởng tượng rằng ngài sẽ phán xét những phán xét của con người. Họ tưởng tượng ngài sẽ phán xét con người như con người vẫn phán xét nhau. Họ cũng tưởng tượng ngài sẽ nổi giận và muốn trừng phạt những ai đã vi phạm quy luật của ngài, hay đúng hơn vi phạm định nghĩa của họ về quy luật của ngài. 

Thời nay, ngày càng có nhiều người bắt đầu nhìn thấu qua ảo ảnh một Thượng đế nóng giận và xét đoán. Họ bỏ lại sợ hãi và bước vào một trạng thái tâm thức nơi họ có thể tiếp cận Thượng đế như một Thượng đế yêu thương. Ta rất hoan nghênh tiến triển này vì thật sự đây là một bước đi đúng hướng. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại rơi vào cực đoan ngược lại và bắt đầu tin rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có nghĩa là cái gì cũng được. Họ tin – và một số còn dựng lên những lập luận trau chuốt để hỗ trợ niềm tim này – rằng không có gì thực sự là xấu, không có gì thực sự là ác. Từ đó, họ cho rằng con người có thể làm bất cứ gì mình muốn, và dưới mắt Thượng đế đều có thể chấp nhận được.

Ta phải nói với con là cả hai cực đoan mà ta vừa mô tả đều nguy hiểm như nhau cho dòng sống của con. Điểm nay khiến ta cần nói tới những loại tình yêu khác nhau. Chúng ta đã nói tới tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Chúng ta đã nói tới tình yêu Thượng đế luôn luôn vô điều kiện nhưng không bao giờ nhìn thấy bất toàn. Bây giờ chúng ta cần nói tới một loại tình yêu thứ ba, mà ta muốn gọi là tình yêu Ki-tô.

Tình yêu Ki-tô hoàn toàn vô điều kiện y hệt như tình yêu của Thượng đế. Tuy nhiên, tình yêu Ki-tô có thể nhìn thấy những điều bất chính. Như ta có nói cách đây 2000 năm rằng Cha không phán xét vì Cha đã trao cho Con quyền phán xét. Đứa con của Thượng đế, đứa con đích thực, chính đáng và duy nhất của Thượng đế, là tâm thức Ki-tô. Ta hiện thân cho trạng thái này của tâm, nhưng tâm thức Ki-tô là nhiều hơn rất nhiều mọi sinh thể cá nhân nào, kể cả chính ta.

Chức năng của tâm thức Ki-tô là phục vụ như một trung gian giữa con người và Thượng đế. Vì vậy tâm thức Ki-tô – kể cả một người đã đạt được tâm thức Ki-tô – có khả năng phán xét công chính. Một người như vậy sẽ biết sự thật và thực tại của Thượng đế là gì, đồng thời cũng biết điều gì không nằm thẳng hàng với thực tại đó.

Chức năng của tình yêu Ki-tô là mặc dù nó yêu thương mọi con người một cách vô điều kiện, đó không phải là tình yêu mù quáng. Tình yêu Ki-tô nhìn thấy rõ khi nào một người bị vướng kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém dựa trên sự không thực. Bản chất của tình yêu Ki-tô là không bỏ rơi những người như vậy một mình. Tình yêu vô điều kiện của Ki-tô đơn giản sẽ không để cho người đó bị kẹt lại trong tâm thức thấp kém. Nó muốn mọi người vươn lên cao hơn để chiêm nghiệm được sự sống dồi dào của Thượng đế.

Cho nên, ngược lại với niềm tin phổ biến của rất nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, tình yêu của Ki-tô không theo chủ nghĩa hòa bình, nó không yếu mềm, nó không cảm tính, nó không ủy mị. Tình yêu của Ki-tô sẽ không làm cho con vui thích trong nghĩa thế phàm. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên cho con đứng một chỗ. Tình yêu Ki-tô sẽ thúc ép con vươn lên cao hơn, phải thay đổi tâm thức của con hầu con đặt nó thẳng hàng với sự thật và thực tại của Thượng đế. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên con một mình trong trạng thái tâm thức thấp kém. Nó sẽ không để con một mình cho tới khi con thay đổi tâm thức và con vươn lên cao hơn hầu con có được sự sống, và cả sự sống dồi dào.    

Hầu hết mọi người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối đến độ họ chỉ có thể trải nghiệm tình yêu tương đối, có điều kiện, của con người. Khi một người chuyên cần bước đi trên đường tâm linh, người đó có khả năng nâng cao tâm thức mình cho tới khi mình chứng nghiệm được tình yêu thuần khiết, vô điều kiện của Thượng đế. Quả thực, ta khuyến khích mọi người tầm đạo hãy nỗ lực có được chứng nghiệm này bởi vì không có gì thay đổi cuộc sống bằng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện mà Thượng đế đã dành cho dòng sống của con.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không thể biểu hiện trong thế gian này khi nào thế gian còn bất toàn. Cho nên, cái có thể biểu hiện trong thế gian là tình yêu Ki-tô. Nếu một người là một hành giả tầm đạo chân thành và chứng tỏ minh sẵn lòng vươn lên cao hơn trong tâm thức (tức là bỏ lại trạng thái tâm thức giới hạn và nhận lấy một góc cạnh khác của sự thật và thực tại Thượng đế), tình yêu Ki-tô quả thật có thể là cái mà đa số con người sẽ gọi là yêu thương. Nhưng nếu người đó không thẳng hàng với sự thật của Thượng đế, thì tình yêu Ki-tô sẽ không hiện ra là “thương yêu” trong ý nghĩa thế phàm nữa. Thay vào đó, sẽ là một tình yêu năng động không để cho người đó đứng yên.

Nếu còn mắc kẹt trong tâm thức thấp, người đó sẽ không trải nghiệm tình yêu Ki-tô như một cảm giác dễ chịu, mà trái lại, như một cảm giác phiền hà, như thể có điều gì không cho phép mình tiếp tục yên thân, thoải mái trong trạng thái tâm thức thấp.    

Vì vậy, cách yêu thương đúng đắn là nỗ lực chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện của Thượng đế rồi bày tỏ tình yêu đó trong thế gian dưới dạng tình yêu Ki-tô. Khi một người bị kẹt trong tâm thức thấp, họ đơn giản không thể trải nghiệm hay biểu lộ tình yêu Ki-tô, họ chỉ có thể bày tỏ tình yêu thế phàm có điều kiện.

Có nhiều người tầm đạo thực tâm đã hé cảm thấy được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, nhưng chưa hiểu rõ sự khác biệt giữa tình yêu vô điều kiện của Thượng đế và tình yêu Ki-tô. Vì thế, họ cho rằng họ phải yêu một cách vô điều kiện bất cứ ai mà họ gặp, bất kể người đó đang làm gì hay bị kẹt trong tâm thức gì. Đây là một sai lầm, và như ta đã nói, họ đã nhảy từ cực đoan tình yêu đầy phán xét và điều kiện của hầu hết mọi người sang cực đoan đối nghịch. 

Cho nên chìa khóa là cần nỗ lực tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con, cái ta này sẽ cho con sự phân biện Ki-tô để con có những phán xét công chính. Khi con cho phép cái ta Ki-tô ban cho con sự phân biện này, con sẽ biết cách biểu lộ tình yêu Ki-tô hầu đạt được kết quả tối đa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Con thấy đó, đối với người bị kẹt trong tâm thức phàm phu, mục đích của họ trong mọi hoàn cảnh là đem lại vui sướng lớn nhất cho bản thân. Nhưng đối với tâm thức Ki-tô, mục đích trong mọi hoàn cảnh là đưa đến sự phát triển tâm linh tối đa cho mỗi người. Điều này không thể thực hiện qua một loại tình yêu mềm yếu, ủy mị, mà chỉ qua tâm thức Ki-tô sẽ không để yên cho người ta đứng mãi trong một tâm trạng giới hạn. 

Cho nên để thực sự hiểu được lời dạy của ta là phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình, con cần hiểu bản chất của tình yêu Ki-tô. Khi con yêu chính mình với tình yêu Ki-tô, con liên tục cố gắng vươn lên tâm thức cao hơn. Con sẽ không chỉ chấp nhận mình cứ mãi đứng yên trong tâm thức thấp. Do đó, con cũng sẽ áp dụng cùng tình yêu Ki-tô đó đối với kẻ lân cận của con, và con sẽ không cho phép người đó bị kẹt mãi trong tâm thức thấp.

Yêu thực sự là cam kết luôn luôn tạo ra sự tăng triển tâm linh tối đa trong mọi hoàn cảnh. Yêu thực sự bản thân và kẻ lân cận là liên tục nỗ lực để đưa mọi người gần hơn với Thượng đế, gần hơn sự kết hợp với cội nguồn. Kết hợp này chỉ có thể đạt được qua tâm thức Ki-tô.  Do đó, tình yêu thực sự là nỗ lực đem mọi người đến gần hơn tâm thức Ki-tô, ngay cả khi tâm thức phàm nhân của họ khiến họ cảm thấy con không thoả mãn được định nghĩa của họ về tình yêu. Con sẽ nhận thấy nhiều người không thích bị lay động, và họ sẽ không vui lòng đón nhận một phần tình yêu của Ki-tô. Tuy nhiên, đây là tình yêu đích thực của Ki-tô – tức là không bao giờ để cho một ai đó bị mắc kẹt trong tâm thức phàm thế.

Nhóm thượng tôn quyền lực đang sử dụng các vấn đề môi trường và hâm nóng toàn cầu như thế nào

Hỏi: Con đã là một độc giả nhiệt thành của trang mạng này từ khoảng một năm nay. Xin vô cùng cảm ơn số lượng bài vở và những thông điệp vô cùng bổ ích cho nhân loại. Hôm nay, phần đầu của bản báo cáo từ Ủy ban về Biến đổi Khí hậu của Liên hiệp quốc đã được công bố, cho nên con xin đặt câu hỏi quan trọng này: Thày Giê-su nói gì về sự hâm nóng toàn cầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một vấn đề phức tạp, một vấn đề với hệ quả toàn cầu, và ta sẽ trình bày thật thẳng thắn. Khi dùng từ “toàn cầu”, ta dùng từ này một cách sâu sắc hơn hầu hết mọi người, vì ta không chỉ dùng nó để chỉ mọi thứ trên hành tinh vật lý, mà mọi thứ trong toàn bầu cõi của trái đất, kể cả bốn khía cạnh của toàn bộ trường năng lượng của hành tinh. Cho nên để hiểu trọn vẹn sự hâm nóng toàn cầu, con phải nhìn vào toàn bộ mọi vấn đề vật lý, tâm lý lẫn tâm linh.

Chúng ta hãy phân biệt giữa vấn đề hâm nóng toàn cầu với cuộc tranh luận về vấn đề hâm nóng toàn cầu. Và chúng ta hãy thảo luận trước tiên về chính vấn đề. Ta đồng ý với nhận định trái đất đang hâm nóng, như được thể hiện qua nhiều đo đạc và thống kê khoa học cùng những dạng thời tiết bất thường đã làm tiêu đề cho các bản tin khắp thế giới. Ta cũng đồng ý với nhận định rằng hiện tượng hâm nóng này là do con người gây ra. Kỳ thực, ta đồng ý cả với những ai nói rằng nó hoàn toàn do con người gây ra và nó không phải là kết quả sự biến đổi tự nhiên của khí hậu trái đất. Tuy vậy, sự đồng ý của ta với phiên bản chính thức, khoa học đó, kết thúc ở chỗ này.

Không có chu kỳ tự nhiên

Một số người cho rằng hâm nóng địa cầu là một phần của chu kỳ tự nhiên đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử. Ta không bác bỏ là trên trái đất có một số chu kỳ, và nhiều lần trong quá khứ khí hậu đã từng ấm hơn hiện nay. Nhưng ta không đồng ý với nhận định này vì trên hành tinh KHÔNG HỀ có chu kỳ tự nhiên – nếu qua từ “tự nhiên”, con nói đến những gì không bị ảnh hưởng bởi loài người. Tất cả mọi thứ làm bằng tâm thức, tức là mọi điều kiện trên trái đất, hoặc đã được tâm thức loài người tạo ra, hoặc đã bị tâm thức loài người ảnh hưởng.

Một cách tiếp cận bất nhất đối với vấn đề môi trường

Ta biết rõ là nhiều người bác bỏ ý tưởng rằng tâm thức của họ có thể góp phần vào các thiên tai, và ta muốn nhân cơ hội này chỉ ra một sự bất nhất, thiếu nhất quán, trong quan điểm của nhiều người tự nhận mình là có ý thức môi sinh.

Nếu con quan sát một số người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, con sẽ thấy một phần động cơ của họ là họ từ chối tin rằng hoạt động của con người có thể đem lại hậu quả toàn cầu. Họ không chấp nhận là sự ô nhiễm nhân tạo có thể thực sự ảnh hưởng đến khí hậu của hành tinh, tạo ra hậu quả tàn khốc. Vì vậy những ai có ý thức môi sinh – cho dù họ nhìn cuộc sống một cách duy vật hay tâm linh – thường hay dè bỉu những người đó, coi thường những người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, mà không nhận ra là chính họ cũng bị mắc kẹt trong cùng một sự phủ nhận, chỉ dưới một lớp ngụy trang khác mà thôi.

Nhìn vào những người phủ nhận, con sẽ thấy có yếu tố tâm lý là họ không sẵn lòng thay đổi lối sống cơ bản của họ. Và bởi vì hâm nóng toàn cầu dường như chỉ ra sự cần thiết phải thay đổi cơ bản như vậy, cho nên họ phủ nhận nó. Tuy nhiên ở bên dưới phản ứng tâm lý này là một phản ứng tâm linh sâu xa hơn, là họ từ chối nhận trách nhiệm trọn vẹn về hoàn cảnh của họ. Họ từ chối chấp nhận hành động của mình có thể có hậu quả toàn cầu và họ cần thay đổi cách nhìn cuộc sống để bao gồm các mối quan tâm toàn cầu này. Nền tảng của sự phủ nhận là họ chối bỏ chính cái lý do đã giúp loài người tồn tại cho đến nay, cụ thể là con người được tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Con người được ban cho “quyền cai quản” trên trái đất (Sáng thế 1:26).

Cai quản không có nghĩa là con trấn áp thô bạo, ép buộc mọi khía cạnh của thiên nhiên phải phục vụ nhu cầu của con, mà có nghĩa là trước tiên con cai quản bản ngã của mình – tâm con, tâm lý của con, trường năng lượng của con – xong con dùng khả năng tự điều ngự này để khiến trái đất, kể cả thiên nhiên, trải bày ra viễn quan cao nhất cho hành tinh, tức là niệm tinh khôi được cầm giữ trong tâm Thượng đế. Ta có thể cam đoan với con là viễn quan và quy luật của Thượng đế cho phép mọi người, tất cả mọi người, được có một cuộc sống sung túc mà không hủy hoại môi trường. Không có sự cần thiết phải “chinh phục” một mức sống vật chất cao cấp bằng cách lạm dụng môi trường hay lạm dụng người khác. Đây chỉ là một sự mất cân bằng bắt nguồn từ tự ngã con người, từ thái độ “tôi chống anh” sẽ chỉ dẫn đến mù quáng tâm linh.

Làm người đồng sáng tạo là vai trò mà con người được tạo ra để chu toàn, và vấn đề hâm nóng toàn cầu chính là sản phẩm khi hầu hết mọi người từ chối chu toàn vai trò đó. Sự từ chối được ngụy trang dưới nhiều cách tinh vi và khôn ngoan, nhưng đằng sau tất cả là tự ngã con người sẽ luôn luôn chối bỏ trách nhiệm của mình về hậu quả những việc mình làm cùng thái độ của mình về cuộc sống. Cho nên chừng nào con người còn bị mù quáng bởi tư duy nhị nguyên của tự ngã, thì họ sẽ bác bỏ toàn bộ hậu quả của lối sống của họ.

Những kẻ phủ nhận hâm nóng bị mắc kẹt dưới lớp phủ của sự từ chối trách nhiệm, từ chối thừa nhận rằng hành vi con người có hậu quả toàn cầu. Còn những ai có ý thức về môi trường thì có thể nhìn ra sự nông cạn của cái nhìn đó, nhưng họ lại thường không thấy là họ cũng bị mắc kẹt trong một khía cạnh tinh tế hơn của tự ngã chối bỏ trách nhiệm. Họ không chịu ngó đến sự kiện môi trường tự nhiên không chỉ bị ảnh hưởng bởi hành động con người, mà bởi toàn bộ bản thể con người, kể cả tâm thức con người.

Điểm ta muốn nói là nếu họ có ý thức môi sinh – và chấp nhận là hành vi con người có thể gây hậu quả toàn cầu – thì họ sẽ thật bất nhất nếu họ phủ nhận là môi trường tự nhiên cũng bị trạng thái tâm thức con người tác động. Tuy họ đã bắt đầu khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm khi họ thừa  nhận là hành động có hậu quả toàn cầu, nhưng họ lại ngừng dở chừng ở đó. Họ vẫn không chấp nhận toàn bộ trách nhiệm của mình bằng cách nhìn nhận là trạng thái tâm thức còn tác động môi trường mạnh hơn gấp bội các hành động vật lý.

Cho nên nếu họ thực sự quan tâm đến môi trường như họ tuyên bố, thì họ cần nhìn vào cái xà nơi mắt họ và đạt cái hiểu trọn vẹn. Họ cần hiểu là mọi thứ đều là năng lượng, cho nên năng lượng cấu tạo hành tinh vật lý cũng là cùng một chất cơ bản như năng lượng của tư tưởng và cảm xúc. Có nghĩa là, thật vậy, hành tinh vật lý cũng sẽ bị tác động bởi tâm thức tập thể của nhân loại.

Khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm

Ta cũng biết đây không phải là chuyện dễ làm, vì hầu hết mọi người đã được nuôi dạy trong một xã hội gần như tràn ngập tinh thần chối bỏ trách nhiệm. Nguyên nhân là vì trong nhiều thế kỷ, xã hội phương Tây đã là chiến trường giữa hai thế lực – được đại diện bởi đạo Cơ đốc và nền khoa học duy vật – và cả hai đều chối bỏ sự kiện là con người hoàn toàn trách nhiệm về hành tinh này.

Nói chung, đạo Cơ đốc phủ nhận con người được tạo ra để đồng sáng tạo và cai quản trái đất – một công việc họ chỉ có thể thực hiện bằng cách khoác vào tâm Ki-tô và trở thành Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Còn khoa học thì tuyên bố con người chỉ hơn loài vượn tiến hoá một chút, có nghĩa là khoa học phải phủ nhận quyền năng của tâm con người, và thay vào đó, phải tập trung vào sự ô nhiễm vật lý như nguyên nhân duy nhất của sự hâm nóng.

Con có bắt đầu thấy được tại sao ta bào là hâm nóng toàn cầu có hệ quả toàn cầu hay chăng? Quả như vậy, hâm nóng toàn cầu là do con người gây ra, nhưng nguyên nhân thực sự không phải là ô nhiễm vật lý mà là sự từ chối không nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh này. Cho nên có thể nói nguyên nhân thực sự là một sự chối bỏ trách nhiệm, và nếu nhân loại muốn giải quyết thành công vấn đề này thì trước tiên phải thừa nhận và đối mặt với vấn đề chối bỏ trách nhiệm. Nó sẽ đòi hỏi họ suy nghĩ lại toàn bộ – xét lại ở mức toàn cầu – cách họ tiếp cận cuộc sống.

Nếu nhân loại giảm lượng khí thải nhà kính xuống đến mức 0 thì cũng sẽ không ngăn được hâm nóng toàn cầu, bởi vì nguyên nhân sâu xa hơn gấp bội. Cho nên trừ khi nguyên nhân tâm linh được đưa ra ánh sáng và giải quyết, hành tinh này sẽ tiếp tục hâm nóng, thời tiết sẽ tiếp tục ngày càng thất thường hơn. Đây là hậu quả sự kiện trái đất có một số chu kỳ vũ trụ, qua đó nhân loại phải học qua một số bài học. Và như Shiva đã giải thích, trước năm 2012, loài người phải học bài học là tâm thức có tác động đến cả hành tinh vật lý:

[trích dẫn bài giảng của Shiva] Cho nên ta yêu cầu con suy ngẫm xem đâu là nhu cầu lớn nhất trên hành tinh ngay bây giờ để loài người có thể thức tỉnh trước thực tế là chính Mẹ Trái đất cũng kết nối chặt chẽ với tâm thức nhân loại. Và những biến cố xảy ra cho thân thể Mẹ Trái đất mà mắt người có thể nhìn thấy, chỉ là sản phẩm của các tư tưởng cùng cảm xúc có mặt trong tâm thức đại chúng.

Đây là sự chứng ngộ tuyệt đối cần thiết trên hành tinh này. Nhân loại không thể đơn giản vươn lên một mức tâm thức cao hơn cho đến khi con người bắt đầu nhận ra mối liên hệ trực tiếp giữa địa cầu vật lý và tâm thức của mình. Nếu họ không nhận ra, họ sẽ tiếp tục bị chấn động, bị choáng váng mỗi khi tai họa xảy đến. Và họ sẽ không thể giải thích tại sao, họ sẽ cảm thấy bất lực không làm gì được để ngăn chặn nó tái diễn trong tương lai. Cho nên họ bị tê liệt trong nỗi sợ tương lai, thay vì động viên để cai quản trái đất và tăng trưởng ánh sáng tâm linh bên trong họ, là ánh sáng có khả năng tiêu hủy căn nguyên của mọi tai họa tương lai.

Cho nên đây là sự chứng ngộ cốt yếu phải đột phá vào tâm thức, vào tâm thức đại chúng của nhân loại. Câu hỏi duy nhất đặt ra là nó sẽ đột phá như thế nào. Cho nên ta sẽ tiên tri là giữa bây giờ và năm 2012, có hai cách mà nhân loại có thể bước tới.

Có một con đường cao, là khi con người bắt đầu đáp lại các thông điệp tâm linh được các chân sư thăng thiên truyền rải qua nhiều nguồn khác nhau. Họ nâng cao nhận biết và nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời cá nhân của mình cũng như về hành tinh nói chung. Họ chấp nhận là họ phải thay đổi tâm thức để tránh chịu thêm thiên tai hay chinh chiến.

Đấy là con đường cao, mà các thày rất mong mỏi là con đường mà nhân loại sẽ chọn. Nhưng nó chỉ có thể xảy ra nếu lớp 10% với tâm thức cao nhất trong quần chúng – như Giê-su đã giải thích trong một bài truyền đọc gần đây – thức tỉnh và ngộ ra họ phải là những kẻ tiên phong vì 80% dân chúng không thể tự mình thức tỉnh. Còn lớp 10% thấp nhất trong quần chúng sẽ làm đủ mọi cách để giữ chặt mọi người kẹt lại trong vô minh.

Ta phải nói với con là nếu sự thức tỉnh này không xảy đến thì con đường thứ nhì sẽ diễn ra. Số lượng và độ nghiêm trọng của thiên tai sẽ tiếp tục gia tăng cho đến khi nó dữ dội đến mức con người không thể phớt lờ được nữa là trái đất đang gửi cho mình một thông điệp. Và thông điệp đó nói: “Bạn phải thay đổi nếu không thì chết, vì nếu bạn không thay đổi, chính ta đây sẽ chết. Và làm thế nào bạn có thể tồn tại nếu nền tảng cho cuộc sống vật lý của bạn không còn nữa?” [ngừng trích]

Sự cọ xát tâm linh gây ra hâm nóng toàn cầu

Vậy đâu là nguyên nhân tâm linh của hâm nóng toàn cầu? À, đây là một vấn đề phức tạp có nhiều hơn một nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu có thể quy cho một loại cọ xát tâm linh. Con cũng biết khi con lái xe xuống một đoàn đường rất dốc mà cứ không ngừng đạp thắng, thì cuối cùng thắng có thể quá nhiệt và hỏng. Lý do là vì lực cọ xát giữa các bộ phận thắng sinh ra nhiệt.

Như các nhà vật lý vũ trụ đã phát hiện, toàn bộ vũ trụ vật lý đang giãn nở, nhưng điều mà họ chưa hiểu là nó không chỉ giãn nở theo chiều ngang. Để tiếp tục bành trướng, vũ trụ không thể đứng nguyên ở cùng độ rung, hay cùng tỉ trọng. Chính vật chất vật lý phải được nâng cao độ rung, bởi vì nếu không, quán tính trong vật chất sẽ khiến cho vũ trụ ngừng giãn nở, và nó sẽ bắt đầu co sụp xuống trong cái được các nhà khoa học gọi là Big Crunch.

Điều ta muốn nói là sự giãn nở của vũ trụ liên hệ đến việc nâng cao độ rung của vật chất, và việc này làm giảm tỉ trọng của vật chất. Tiến trình này được giải thích tóm gọn ở một nơi khác trên trang mạng này. Ý tưởng cơ bản ở đây là một bầu cõi được nâng độ rung cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh. Mục đích của các sinh thể tự nhận biết sống trong bầu cõi là đóng góp cho tiến trình này bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Có hàng tỷ và hàng tỷ những sinh thể như vậy trong bầu cõi mà vũ trụ vật chất là một thành phần, và họ đã cùng nhau tạo được một động lượng thúc đẩy không những sự giãn nở chiều ngang của vũ trụ, mà cả sự nâng cao rung động của chính vật chất.

Đúng lý thì trái đất cũng phải thăng vượt rung động của mình, và đây là nhiệm vụ của các sinh thể tự nhận biết sống trên hành tinh này – tức loài người – họ phải tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thăng lên. Nếu tập thể loài người quyết định không nâng cao tâm thức, việc thăng thiên của trái đất có thể bị chậm lại. Tuy nhiên, không một hành tinh nào là một hòn đảo, và trái đất là một thành phần của một hệ thống rộng lớn hơn bao gồm cả thái dương hệ, thậm chí cả dải thiên hà. Trong hệ thống này có rất nhiều sinh thể tự nhận biết khác đã tạo được một động lượng hướng thượng. Cho nên trong khi loài người cai quản trái đất có thể quyết định hãm lại việc trái đất thăng thiên, nhưng loài người không thể kìm hãm động lượng của nguyên hệ thống rộng lớn mà hành tinh này là một thành phần.

Hậu quả là tuy động lượng của toàn bộ hệ thống đang kéo trái đất đi lên, nhưng tâm thức thấp của loài người giống như một quả tạ đang cố giữ trái đất lại. Chúng ta có thể ví như loài người đang đạp thắng để tìm cách làm chậm tiến trình thăng thiên của hành tinh. Chính hiệu ứng kéo chậm lại này đã sản xuất lực cọ xát khiến cho toàn bộ hành tinh thêm nhiệt. Vật chất vật lý trên hành tinh hiện đang dày đặc hơn so với dự kiến, và điều này gây ra quán tính gây ra cọ xát gây ra nhiệt.

Nhân loại từ chối tiếp cận sự sống một cách tâm linh hơn

Điều này tác động lên mọi khía cạnh ở cả bốn tầng của trường năng lượng trái đất. Tuy nhiên cũng có một sự thật trong sự kiện khoa học tin rằng hâm nóng toàn cầu chủ yếu là do ô nhiễm không khi gây ra. Không khí, hay khí quyển, tương ứng với tầng lý trí trong trường năng lượng của hành tinh, và tầng này tương ứng với các ý tưởng của nhân loại. Vấn đề chính ở đây là con người đã từ chối thay đổi tư duy của mình, cách suy nghĩ của mình, cách hiểu của mình về cuộc sống dựa trên các khám phá của khoa học hiện đại lẫn các “tiết lộ” trong lãnh vực tâm linh hiện đại.

Thay vào đó, con thấy đa số quần chúng có cảm tưởng mọi chuyện đang thay đổi quá nhanh, và họ muốn tiếp tục sống theo lối sống quen thuộc, nên họ muốn xã hội hay đà tiến bộ phải chậm lại hầu họ có thể xử lý. Nhưng sự thật là hành tinh đang đứng giữa một giai đọan chuyển tiếp từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình. Vì loài người đã từ chối học hỏi những bài học cần học trong Thời đại Song ngư – chủ yếu vì các giáo hội Công giáo và chính mạch khác đã phủ nhận tiềm năng con người có thể trở thành Ki-tô – cho nên hành tinh đang bị chậm trễ và loài người cần đuổi thật nhanh để cố bắt kịp. Cho nên quả thực đã có một yêu cầu của thời đại là con người – chỉ trong vòng một thế hệ – phải thực hiện một bước nhảy vọt trong tâm thức mà bình thường sẽ tốn đến mấy thế hệ. Và vì con người cảm thấy choáng ngợp bởi thử thách này nên họ đã tìm cách làm chậm tiến trình và ôm giữ những cách tư duy cũ – một hiện tượng mà con có thể thấy trong mọi lãnh vực của xã hội nếu con chịu thành thật.

Đâu là sự kiện chủ yếu cần xảy ra về mặt thay đổi tư duy? Trước hết, con người cần nhận biết về tâm thức nhị nguyên cùng sự kiện có một chọn lựa khác cho dạng tư duy này, là sự phân biện của tâm thức Ki-tô. Con người cần vươn lên cao hơn tư duy đen-trắng mà không bị mắc kẹt trong tư duy xám.

Suốt hàng thiên kỷ qua, xã hội phương Tây đã bị chế ngự bởi tôn giáo Cơ đốc, và nói chung tôn giáo này đã cho con người một cái cớ để không nhận lãnh toàn bộ trách nhiệm về bản thân mình: Con là kẻ có tội. Và cái cớ đối với hành tinh là: Giê-su sẽ đến cứu thế gian. Đó là một cái nhìn đen-trắng về thế giới. Thế nhưng khi ảnh hưởng của đạo Cơ đốc bắt đầu suy yếu thì khoa học đã chiếm lấy ưu thế, và khoa học cũng cho con người một cái cớ bằng cách mô tả họ là những sinh thể duy vật thiếu hẳn sức mạnh tâm trí để cai quản chính mình hay cai quản hành tinh. Trên cơ bản, khoa học bảo là con không thể biết được sự thật ngoài những gì có thể được chứng minh qua thí nghiệm duy vật, và đây là sự phủ nhận khả năng cố hữu của tâm có thể biết được sự thật Ki-tô. Và như vậy, khoa học chủ yếu cổ xúy một thế giới quan bảo rằng không có sự thật tuyệt đối – đây chính là một dạng tư duy xám.

Nhưng cái gì đứng đằng sau cả hai khuynh hướng nói trên? Đó là ý tưởng vi tế cho rằng con người được sinh tạo như một sinh thể bất toàn hay thiếu sót, không có khả năng chăm sóc bản thân, cả về vật chất lẫn tâm linh. Cho nên quần chúng sẽ cần một ai đó lãnh đạo họ, tức là nhóm thiểu số thượng tôn đang cầm đầu các giới quyền tôn giáo, khoa học, kinh tế, chính trị và quân sự. Cho nên con thấy luôn luôn có một thiểu số thượng tôn quyền lực tìm cách ngăn chặn quần chúng tìm ra hay chấp nhận sự thật sẽ giải thoát họ. Sự thật đó là gì? Ta đã bày tỏ như thế này cách đây 2000 năm: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21).

Nếu con nhìn quá khứ, con sẽ thấy loài người đã kinh qua một số cách mạng trong cách suy nghĩ, chẳng hạn khi họ vứt bỏ niềm tin là trái đất phẳng. Ngày nay con không thể hiểu nổi thời đó con người bị kẹt trong niềm tin đó như thế nào, cho nên con không thể nhận chân được sự thay đổi to lớn cần thiết trong tư duy để họ buông bỏ một niềm tin mà bây giờ con xem là quá ấu trĩ. Nhưng ta có thể cam đoan với con là chỉ trong một vài thế hệ nữa, người ta sẽ nhìn lại thời buổi này của con tương tự như vậy.

Các thế hệ tương lai sẽ chấp nhận là tâm thức của họ ảnh hưởng mọi chuyện, và họ sẽ nhìn lại thế hệ của con mà không thể hiểu nổi sao con có thể bị kẹt trong thế giới quan của mình đến thế. Họ sẽ không hiểu nổi sao thế hệ của con không thể nhìn xuyên thấu, từ bỏ các tin tưởng cũ và chấp nhận điều họ xem là tuyệt đối hiển nhiên, cụ thể là tâm thức con người ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của hoàn cảnh vật lý của mình. Họ sẽ xem thế hệ của con cũng ấu trĩ y như những người kia cứ nhất định tin rằng trái đất phẳng.

Ta cũng hiểu là khi con còn ở trong hộp tư duy của một ảo tưởng, nó hình thành một tấm màn sẽ pha màu cách con nhìn cuộc sống. Nhưng một khi bong bóng bể, con sẽ nhìn thế giới với con mắt mới, và con sẽ thấy sao quá hiển nhiên các niềm tin cũ của mình bị hạn chế tới chừng nào. Đột nhiên con thấy nhà vua không mặc quần áo.

Vượt khỏi cách tiếp cận dựa trên sức mạnh

Trên bình diện rộng lớn hơn nữa, sự thay đổi tư duy ta vừa nói đến là khi con người hiểu ra mọi thứ đều là năng lượng, cho nên quyền năng của tâm lớn hơn nhiều so với những gì cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật công nhận. Thực tế là nó đòi hỏi con người thông hiểu bốn tầng cõi của thế giới, rằng mọi chuyện trong cõi vật lý khởi đầu ở cõi bản sắc, rồi trở thành ý tưởng, rồi trở thành cảm xúc, và cuối cùng thị hiện như một hiện tượng hay một hoàn cảnh vật lý.

Khi hiểu ra điều này, một thế giới quan mới sẽ mở ra dẫn đến một xoay chuyển ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống trên địa cầu. Hãy để ta phác họa những hệ quả quan trọng nhất:

  • Con người sẽ ngộ ra là trái đất được sinh tạo như một sân hoạt động cho sự tăng triển tâm linh của mình. Vì vậy họ có quyền có mặt ở đây, và thiết kế của Thượng đế là địa cầu sẽ là nơi sinh sống cho 10 tỷ người.
  • Con người sẽ phát triển một niềm kính trọng và yêu thương mới đối với hành tinh, gồm cả môi trường tự nhiên. Họ sẽ khắc phục mọi xu hướng muốn hãm hiếp môi trường để trục lợi trước mắt và họ sẽ không cho phép các đại tập đoàn hay nước lớn làm vậy nữa. Nhưng họ cũng sẽ nhận ra là việc thay đổi môi trường để nuôi sống loài người nằm hoàn toàn trong hoạch định của Thượng đế cho địa cầu.
  • Con người sẽ hiểu ra là việc sống còn sẽ không đủ nữa và MỌI người phải được hưởng một mức sống khả quan, dành cơ hội cho họ đeo đuổi việc thăng tiến tâm linh.
  • Con người sẽ hiểu ra là để đem lại một mức sống phải chăng cho 10 tỷ người mà không phá hủy môi trường, một cách tiếp cận cách mạng phải được tìm thấy.
  • Cách tiếp cận mới này CHỈ có thể được tìm thấy bằng cách dùng quyền năng của tâm để nhìn vượt khỏi thế giới quan duy vật hiện nay. Chính thế giới quan này đang giam giữ loài người ở một mức nơi họ bị hạn chế phải dùng cái có thể gọi là loại công nghệ dựa trên sức mạnh. Qua từ này, ta muốn nói đến nền công nghệ dùng vũ lực để thu hoạch tài nguyên và sản xuất năng lượng, hoặc bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch, hoặc cưỡng bách hạt nguyên tử phân chia. Kết quả không thể tránh của công nghệ này là hãm hiếp môi trường để có tài nguyên, sản xuất ra ô nhiễm.

Giải pháp cho loài người là vươn lên một mức cao hơn khi họ có thể tiếp nhận công nghệ tiền tiến hơn. Công nghệ này sẵn hiện hữu và các chân sư thăng thiên chỉ chờ tâm thức đột phá để phóng thích nó ra. Nó sẽ cho phép năng lượng được sản xuất miễn phí mà không đòi hỏi tài nguyên vật lý, cho nên sẽ không hãm hiếp môi trường hay tạo ô nhiễm. Ta biết chuyện này nghe như khoa học giả tưởng, nhưng cảm giác này là vì con người còn bị kẹt trong tư duy phải giành lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Một khi vượt qua cách suy nghĩ đó, họ sẽ nhìn ra tất cả những hệ quả to lớn của sự thật cách mạng mà ta đã trình bày 2000 năm về trước: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha các con đã bằng lòng cho các con vương quốc” (Luke 12:32).

Thượng đế hoàn toàn vui lòng ban cho nhân loại mọi thứ họ cần để biến hành tinh này thành một thiên đàng, một Kỷ nguyên Hoàng kim. Tuy nhiên con người phải sẵn sàng tiếp nhận, vì chừng nào họ chưa sẵn sàng thì việc trao công nghệ cho họ sẽ chỉ khiến họ tự hủy hoại mà thôi. Quần chúng nói chung cũng phải đạt tới điểm sẵn lòng nhận trách nhiệm hoàn toàn về hoàn cảnh của mình, vì chừng nào họ chưa sẵn lòng thì chắc chắn họ sẽ còn bị nhóm thượng tôn cai trị. Như ta vừa giải thích, sự tồn tại của một nhóm thượng tôn quyền lực là kết quả trực tiếp khi hầu hết loài người từ chối nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh của mình và không chịu thay đổi tư duy.

Chính điều này cho phép thiểu số thượng tôn còn tiếp tục nắm quyền, còn bưng bít những hiểu biết về công nghệ năng lượng miễn phí. Thực tế đơn giản là nhóm thượng tôn quyền lực mơ ước giữ chặt độc quyền, nhưng năng lượng miễn phí thì không ai có thể độc quyền, có nghĩa là các tập đoàn năng lượng khổng lồ hiện nay sẽ tiêu tan khi công nghệ này rốt cuộc được phóng thích. Cho nên nhóm thượng tôn quyền lực đang cố hết sức kìm hãm công nghệ này hầu cứu vãn chế độ độc quyền của chúng. Và chừng nào con người chưa nhận trách nhiệm hoàn toàn và chưa đòi hỏi thay đổi, thì chúng sẽ tiếp tục làm được chuyện đó.

Các khía cạnh tích cực của hâm nóng toàn cầu

Hâm nóng toàn cầu không nhất thiết là tiêu cực, theo nghĩa là trong hoạch định dài hạn cho trái đất, các chỏm băng ở hai cực sẽ chảy ra và khí hậu trở nên ấm áp hơn. Điều này sẽ mở ra những khu vực rộng lớn mới mà ngày nay không thích hợp cho nông nghiệp, và nhờ vậy sẽ nuôi sống một dân số đông hơn. Một lần nữa, phong trào bảo vệ môi trường dựa trên triết lý cho rằng dân số quá đông là nguyên nhân chính gây ra các vấn đề môi trường, nhưng không nhất thiết như vậy. Nếu mọi người sống một cuộc sống cân bằng hơn hiện nay thì hành tinh này quả thực có khả năng nuôi sống 10 tỷ người, cho nên bất kỳ dân số nào ít hơn con số này KHÔNG phải là dân số quá tải.

Tuy nhiên để hành tinh nuôi sống được dân số đó, độ nghiêng của trục trái đất phải được giảm bớt đáng kể, và điều này sẽ khiến cho khí hậu điều hòa trở lại – nếu đi đôi với việc nâng cao tâm thức tập thể – và sẽ gia tăng đáng kể sản lượng lương thực. Việc điều chỉnh trục trái đất cũng sẽ giảm thiểu biến đổi nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông nhưng không hoàn toàn loại bỏ các mùa trong năm. Và nếu tiến trình điều chỉnh xảy ra lần hồi, nó sẽ không gây ra thiên tai lớn hay những dạng thời tiết mất cân bằng.

Tái phân phối cơ hội kinh tế

Ngoài ra cũng phải có một sự tái phân phối tài nguyên, tái phân phối cơ hội, để địa cầu không còn bị cai trị bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực đang kiểm soát và tiêu thụ một lượng quá đáng những tài nguyên thiên nhiên và của cải. Phải có sự nhìn nhận rằng mục đích của thịnh vượng là để đem lại lợi ích cho đa số quần chúng thay vì chỉ giúp cho một thiểu số thượng tôn gom góp nhiều của cải hơn bất cứ ai có thể cần đến hoặc tiêu thụ được.

Một lần nữa, vấn đề này đòi hỏi những thay đổi to lớn trong cách tư duy của mọi người, vì nếu ai nấy cứ tiếp tục cưỡng lại tiến trình thì hiện tượng cọ xát sẽ chỉ gia tăng, dẫn đến nhiều hâm nóng và nhiều trục trặc thời tiết hơn nữa. Nếu con nhìn trở ngược lại, con sẽ thấy là vào thập niên 1960, một khuynh hướng mới mẻ đã khởi đầu, nâng cao nhận thức của con người về cộng đồng toàn cầu cùng tính chất liên đới của sự sống. Nhưng cho tới giờ, nó vẫn chưa chuyển thành những thay đổi lớn lao gì trong nhận thức quần chúng. Thay vào đó, nhóm thượng tôn quyền lực đã lợi dụng khuynh hướng này để khởi động một phong trào tìm cách dùng trào lưu toàn cầu hóa làm bình phong cho việc bành trướng quyền lực và kiểm soát của chúng.

Nếu muốn lật ngược khuynh hướng này và giúp cho nhận thức toàn cầu nói trên đem lại một nhận thức trách nhiệm toàn cầu, thì những người tâm linh nhất trên địa cầu cần tỉnh giấc, họ cần ngộ ra là họ phải nắm lấy quyền cai quản hành tinh của mình. Và trong cái ngộ này có cả việc hiểu ra là bất kỳ vấn đề nào cũng có thể bị, và sẽ bị, thiểu số thượng tôn quyền lực khai thác để phục vụ mục tiêu của chúng. Và vấn đề môi trường, kể cả vấn đề hâm nóng toàn cầu, không phải là ngoại lệ. Các thày đã có giải thích sự kiện này trong sách Chữa lành Mẹ Địa cầu.

Hệ thống miễn nhiễm của hành tinh

Điều quan trọng là con hiểu mọi chuyện xảy ra ở tầng vật lý có một bộ phận song song ở ba tầng cao hơn. Cụ thể, sự ô nhiễm vật lý chỉ là kết quả thấy được của một tình trạng ô nhiễm ở cõi cảm xúc và cõi lý trí, dưới dạng năng lượng tâm lý tha hóa được tạo ra bởi những tư tưởng cùng cảm xúc không phát xuất từ tình thương. Khi năng lượng này đủ cường độ, nó tràn ra ngoài và gia tăng hiệu ứng ô nhiễm vật lý. Nói cách khác, thành phần vật lý của hâm nóng toàn cầu chính là việc phát thải khí nhà kính, nhưng trong điều kiện bình thường, các quy trình tự nhiên sẽ có khả năng giải quyết vấn đề mà không gây tàn phá. Hành tinh có một số quy trình làm việc giống như hệ thống miễn nhiễm của con người cùng các hệ thống loại bỏ độc tố, loại bỏ chất thải khỏi cơ thể.

Tuy nhiên hệ thống này gắn liền với ba tầng cao của vũ trụ, cho nên khi có quá nhiều năng lượng cảm xúc và lý trí tích tụ lại, điều này làm suy giảm các quy trình thanh lọc vật lý – cũng giống như hệ thống miễn nhiễm của con bị suy yếu khi con căng thẳng tình cảm. Kết quả là ô nhiễm sẽ tệ hơn, bởi vì nếu hệ thống hành tinh hoạt động bình thường thì các khí thải nhà kính đã không ảnh hưởng khí hậu một cách rõ rệt như vậy. Điều ta muốn nói cho những ai quan tâm đến môi trường và cởi mở với các giải pháp tâm linh, có một cách vô cùng hiệu quả để thanh lọc toàn bộ hệ thống năng lượng của hành inh, đó là đọc các bài thỉnh của Mẹ Mary. Và nếu có đủ túc số những người đọc thỉnh như vậy thì hệ thống sẽ được giải phóng để nó tự thanh lọc lấy, và tác động của ô nhiễm vật lý được giảm thiểu.

Cuộc tranh luận về hâm nóng toàn cầu và các hậu ý

Cuộc tranh luận về vấn đề còn phức tạp hơn cả tự thân vấn đề, bởi vì có quá nhiều nhóm khác nhau tìm cách giật dây nó với quá nhiều động cơ khác nhau. Muốn tìm hiểu chuyện này đầy đủ sẽ dẫn chúng ta vào tận cốt lõi của những gì đang xảy ra với địa cầu, và điều này sẽ phải chờ đến khi có thêm nhiều giáo lý nền tảng được ban truyền. Điều ta có thể nói ngay bây giờ là như sau: Điều tuyệt đối cần thiết cho những ai có nhận biết tâm linh cao nhất là họ cần vượt qua niềm tin ngây thơ cho rằng tất cả những ai tuyên bố làm việc cho môi trường đều làm vậy với động cơ trong lành.

Thực tế đáng buồn là gần như không có một lãnh vực tranh luận nào của con người mà lại bị khuynh đảo nhiều hơn cuộc tranh luận về môi trường. Lý do là vì, tất nhiên, trong tất cả mọi lãnh vực tranh luận gần như không có cuộc tranh luận nào mang hệ quả lớn hơn, vì vấn đề ở đây là quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên toàn cầu. Do đó có rất nhiều đấu thủ ở đây đeo đuổi những quyền lợi khác nhau, nhiều khi trái ngược và loại trừ lẫn nhau. Cái có vẻ là một chính nghĩa trong sáng muốn cứu nguy môi trường thường chỉ là một lớp ngụy trang cho một thâm ý.

Mẹ Mary đã có trình bày một trong những yếu tố chủ yếu trong cuộc tranh luận về môi trường, cụ thể là một số đại tập đoàn sử dụng các tổ chức môi trường làm bình phong để hạn chế việc tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, qua đó họ lập ra một thế độc quyền được chính quyền phê chuẩn. Tuy nhiên phong trào này – cùng một vài tổ chức môi trường nổi tiếng – có thể được truy ngược về những năm 1800 khi việc khám phá những nguồn tài nguyên thiên nhiên mới ở miền Tây Hoa Kỳ là mối đe doạ có thể lật đổ sự thống trị kinh tế của giới “tiền cũ” ở các tiểu bang Đông Bắc. Vì vậy, một số doanh nhân lớn ở miền Đông đã thành lập và tài trợ một vài tổ chức bảo vệ môi trường.

Tất nhiên, những tổ chức đó đã vượt xa mục đích ban đầu, và trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một số đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi guồng máy tuyên truyền của Liên Xô cùng nỗ lực của nước này nhằm hạn chế phát triển kinh tế ở phương Tây. Điều này dẫn đến phong trào gọi là “Hạn chế tăng trưởng” với lập luận bảo rằng sự tăng trưởng kinh tế có giới hạn và dân số loài người cũng có giới hạn. Cho nên các quốc gia Tây phương đứng trước một chọn lựa, hoặc sụp đổ, hoặc phải tự ý giới hạn tăng trưởng của mình. Điều này có nghĩa là nhà nước phải kiểm soát tài nguyên và nền kinh tế, tạo ra một hệ thống cũng tương tự như hệ thống cộng sản, chỉ khác tên gọi.

Như ta đã đề cập ở trên, chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong một nền công nghệ dựa trên sức mạnh, thì quả thật có một giới hạn cho tỷ lệ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế bền vững. Cho nên vẫn có một chút căn bản sự thật đằng sau những lập luận do các tổ chức môi trường đưa ra. Tuy nhiên, chừng nào cuộc tranh luận không vượt ra ngoài những nguyên nhân duy vật, thì tự thân cuộc tranh luận sẽ phục vụ cho một mục tiêu lớn hơn, là ngăn chặn tâm thức nhân loại vươn lên một mức hoàn toàn mới. Và đây chính là mục đích thật sự đằng sau cuộc tranh luận hiện thời về môi trường.

Hãy khôn ngoan như rắn

Quả thật là có rất nhiều người có thiện ý – rất nhiều người trong số 10% có ý thức tâm linh cao nhất – đã bị lôi cuốn vào việc hỗ trợ các phong trào bảo vệ môi trường mà không nhìn thấy thâm ý đằng sau. Thâm ý này thường được thực hiện qua việc trưng bày một số vấn đề dễ gây động cảm, chẳng hạn như cứu nguy một loài động vật hay một môi trường nhạy cảm nào đó – cái thường được gọi bằng thuật ngữ hư cấu là “hệ sinh thái”. Con hãy lưu ý là ta không nói rằng một số phong trào như vậy không có giá trị hay không cần thiết. Đúng là nó cần thiết, như trong hai ví dụ này: cứu cá voi và cứu rừng nhiệt đới khỏi sự khai thác kinh tế không hạn chế. Tuy nhiên điều ta muốn trình bày rộng lớn hơn, là khi người ta tập trung vào những vấn đề riêng lẻ như thế thì sự chú ý của họ sẽ bị dẫn dắt một cách “thuận lợi” để họ không nhìn thấy vấn đế tổng thể trong hậu trường.

Rất nhiều đại nghĩa bảo vệ môi trường chỉ đơn giản là ngụy trang nhằm cố tình che giấu những nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân chủ yếu bị che giấu là nhu cầu phát triển một thế giới quan cao hơn và tâm linh hơn. Và người ta che giấu bằng cách chỉ tập trung vào các nguyên nhân và các vần đề duy vật, thường thường qua việc giản dị hóa vấn đề đến độ nó chỉ còn là một chuyện vô cùng trắng-đen với một thủ phạm rõ ràng. Chẳng hạn, kỹ nghệ săn bắt cá voi là thủ phạm, kỹ nghệ khai thác gỗ là thủ phạm, và nếu chúng ta ngăn chặn họ thì chúng ta sẽ cứu được cá voi và rừng nhiệt đới.

Những đại nghĩa môi trường đầy động cảm như vậy thường dựa trên bằng chứng khoa học đáng ngờ, khi một nhà khoa học được trích dẫn bởi một nhà khoa học khác được trích dẫn bởi nhiều nhà khoa học khác, cho tới khi người ta có hẳn một “khối lượng bằng chứng khoa học” không có chút thực tế nào nhưng lại có vẻ rất thuyết phục đối với người bình thường. Kết quả chung chung là ai nấy có cảm giác mình đang đóng góp cho trái đất, nhưng sự chú ý của họ được khéo léo dẫn dắt để họ không xem xét các nguyên nhân sâu xa hơn. Tất nhiên, nó che giấu bàn tay của nhóm thượng tôn quyền lực là kẻ đích thị đang lạm dụng môi trường.

Nhóm thượng tôn quyền lực có tư duy dựa trên vũ lực

Toàn bộ thâm ý là lớp thượng tôn quyền lực biết rất rõ nguy cơ nhân loại có thể vươn lên một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Chúng biết là nếu điều này xảy ra, chúng sẽ bị lật mặt, và một khi chúng bị phơi bày, chúng sẽ bị tước mất quyền lực trên quần chúng mà chúng đã nắm từ hàng bao thế kỷ, thậm chí hàng bao thiên niên kỷ.

Lớp thượng tôn quyền lực có một cách tư duy hoàn toàn dựa trên sự tha hóa của lời răn rằng con người hãy nhân lên và cai quản trái đất. Chúng xem trái đất và con người là những kẻ thù phải trấn áp mạnh bạo, và tư duy này đã giam giữ loài người trong nền công nghệ dựa trên sức mạnh. Nhóm thượng tôn đã chiếm quyền bằng vũ lực và chúng sẽ làm mọi cách để giữ quyền, kể cả ngăn chặn toàn bộ hành tinh vươn lên một tầng cấp cao hơn. Mặc dù chúng nghĩ chúng rất tinh xảo khôn ngoan, nhưng kỳ thực chúng là những kẻ lãnh đạo mù mà ta đã cảnh báo mọi người khoảng 2000 năm về trước: 

  • “Hãy để họ vậy: họ là kẻ mù dẫn đường người mù. Và nếu kẻ mù dẫn đường người mù, cả hai sẽ té xuống hố” (Matthew 15:14).
  •  “Kìa, ta cho các con đi tựa như chiên đi vào giữa bầy lang sói. Vậy hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu” (Matthew 10:16).
  • “Hãy coi chừng tiên tri giả, họ đến với con đội lốt chiên, nhưng bên trong họ là chó sói đói ăn vô độ” (Matthew 7:15).

Thiểu số thượng tôn quyền lực đã chiếm quyền bằng cách chia rẽ quần chúng và chúng sẽ làm đủ cách đễ giữ cho quần chúng tiếp tục bị chia rẽ. Cho nên trong cuộc tranh luận về môi trường, con thấy nhiều mưu mô trái ngược nhau chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu lớn hơn là chia rẽ quần chúng, đồng thời che giấu lý do bên dưới là thâm ý kiểm soát của nhóm thượng tôn. Những người thuộc nhóm thượng tôn có cách suy nghĩ hoàn toàn dựa trên sức mạnh, và một trong những thành công lớn của chúng là Chiến tranh Lạnh khi chúng đã xoay xở tạo ra tình trạng căng thẳng giữa hai khối cộng sản và tư bản.

Điều này được thực hiện khi một số nhà tài chính ở phương Tây đã tạo ra và tài trợ – trong nghĩa đen – cho cuộc cách mạng bolshevik và xây dựng Liên Xô thành một cường quốc quân sự hàng đầu. Tình trạng này đưa đến cuộc chạy đua vũ trang đã suốt mấy thập niên giữ cho tổ hợp quân sự-công nghiệp (military-industrial complex) nắm quyền và thu lợi nhuận. Như ta vừa nói, cuộc tranh luận về môi trường tại phương Tây đã trở thành một công cụ nhằm gia tăng căng thẳng, và ngày hôm nay nó vẫn được dùng trong mục tiêu đó. Các đại tập đoàn đa quốc cũng dùng tranh luận này để tìm cách giành độc quyền trong các nền kinh tế mới mở mang nơi họ đã từng gặp khó khăn tìm được chân đứng.

Từ một góc nhìn hời hợt, có vẻ như có sự xung đột giữa các đại tổ hợp đa quốc và các phong trào bảo vệ môi sinh, nhưng đây chỉ là bề ngoài. Sâu hơn, họ làm việc cho cùng một mục tiêu rộng lớn là tạo căng thẳng và xung đột sẽ duy trì quyền kiểm soát của thiểu số quyền lực. Và thậm chí đằng sau thiểu số quyền lực còn có âm mưu rộng lớn hơn nữa là giữ vững các thế lực nhị nguyên ở địa vị kiểm soát hành tinh này và ngăn cản sự thức tỉnh tâm linh đang trên ngưỡng cửa đột phá.

Nguồn gốc của nhóm thượng tôn quyền lực đã được giải thích ở một nơi khác. Tuy nhiên như ta vừa nói, thông điệp bên dưới của chúng là loài người nói chung là nguyên nhân của các vấn đề môi trường, nhóm thượng tôn là những vị cứu tinh có thể giải quyết tất cả – chỉ cần nhân loại chịu khuất phục sự kiểm soát của chúng. Nhóm thượng tôn luôn luôn tìm cách tạo ra một vấn nạn xong tự đặt mình là giải pháp duy nhất cho vấn nạn mà chúng đã tạo ra. Nhưng như ta trình bày khắp trang mạng này, con không thể giải quyết một vấn đề khi con vẫn mắc kẹt trong chính cái trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề. Và đó là tại sao các vấn đề môi trường sẽ không có giải pháp thực sự nào cho đến khi quần chúng thức giấc và vượt xa khỏi tư duy nhị nguyên, dựa trên sức mạnh, đã khiến nhóm thượng tôn mù quáng.

Điểm chung của ta ở đây là giúp những ai cởi mở với trang mạng này nhận thức được là nếu con muốn đóng góp hiệu quả nhất trong việc giải quyết – giải quyết thực sự – các vấn đề môi trường, thì con nên khởi sự bằng cách điều chỉnh lại cách suy nghĩ của mình như sau:

  • Trái đất đã được tạo ra như một sân hoạt động cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại. Nó không được tạo ra để là một môi trường tự nhiên nguyên sơ không có tì vết và cũng không có con người.
  • Vai trò dự trù của con là trở thành người đồng sáng tạo cai quản chính tâm mình, xong cai quản môi trường địa cầu, đưa nó đứng thẳng hàng với viễn quan và quy luật của Thượng đế.
  • Trái đất được trù liệu để nuôi sống 10 tỷ người với mức sống thoải mái.
  • Điều này chỉ có thể thực hiện qua những thay đổi to lớn trong nền chính trị lẫn công nghệ.
  • Giải pháp thực sự duy nhất cho các vấn đề môi trường hiện thời là nhân loại phải vươn tới mức có khả năng tiếp nhận nền công nghệ không dựa trên sức mạnh.
  • Để việc này xảy ra, tâm thức loài người phải nhảy vọt một bước thật dài, và phần 10% trên cùng của những người có ý thức tâm linh nhất phải là người đi tiên phong trong cuộc chuyển tiếp này. Vì vậy, việc đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và gây cảm hứng cho người khác cũng đi theo con đường quả vị Ki-tô là sự đóng góp quan trọng nhất mà con có thể cống hiến để giải quyết các vấn đề môi trường. Tất nhiên, điều này bao gồm việc trình bày với người khác về mối liên hệ giữa tâm thức và các tình huống vật lý, trong đó có cả các tình huống của môi trường.

Làm thế nào là người thực sự có ý thức môi sinh

Sự nhận biết cao hơn cần xuất hiện là xã hội phương Tây đã đi sai đường trong nhiều thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, do bị cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật dẫn lạc đường, và cả hai đã bị thiểu số quyền lực sử dụng làm bình phong. Cách hiệu quả nhất để nhóm thượng tôn lũng đoạn một cuộc tranh luận là lập ra hai đối cực rồi khiến cho quần chúng tin rằng họ phải chọn một trong hai, thế nhưng cả hai đều nhằm duy trì tình trạng nhóm thiểu số có thể áp đảo quần chúng. Điều này che lấp sự hiện hữu của một giải pháp khác hẳn cả hai cách tiếp cận kia, là vượt lên một tầm hiểu cao hơn về vấn đề.

Các chân sư thăng thiên sẵn lòng và cũng sẵn sàng cộng tác với những người có nhận biết cao nhất để đem lại một tầm nhận biết cao hơn về môi trường. Kỳ thực, các thày đã khởi sự truyền rải qua một số cá nhân, nhưng tầm nhận biết này chưa được chấp nhận rộng rãi vì giới truyền thông chính mạch đã làm ngơ. Ý tưởng cơ bản cần được hiểu là hành tinh này đã được tạo ra cho một mục đích đặc thù là sự tiến hoá tâm linh của loài người.

Vì vậy, mọi thứ trên địa cầu đều được thiết lập để cống hiến cho loài người cơ hội tốt nhất để con người học hỏi bài học cơ bản của cuộc sống, cụ thể là tâm con người có quyền năng tạo ra các tình huống vật lý xảy ra cho bản thân mình. Mỗi người đã suốt nhiều kiếp sống tạo ra các tình huống cá nhân của mình, và loài người cũng đã suốt hàng thiên niên kỷ cùng nhau tạo dựng rất nhiều giới hạn mà con thấy ngày nay trên trái đất.

Tuy nhiên, quy luật của Thượng đế là khi nào con người nâng cao tâm thức thì môi trường vật lý cũng theo đó đáp ứng theo. Những mất thăng bằng hiện thời trong thiên nhiên, ngay cả sự thiếu hụt cái gọi là tài nguyên thiên nhiên, đều là sản phẩm của sự mất thăng bằng khi con người đồng sáng tạo bên ngoài quy luật Thượng đế. Quy luật của Thượng đế được thiết lập để cung cấp đời sống sung túc cho nhân loại, và bằng cách đứng thẳng hàng với các quy luật này, con người có khả năng thị hiện những điều kiện sẽ nuôi sống 10 tỷ người và cho họ một cuộc sống vật chất thoải mái mà không phải cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại thế cân bằng của môi trường hay làm trục trặc khí hậu của hành tinh.

Thực tế phũ phàng là từ nhiều thập niên, thiểu số thượng tôn quyền lực đã sử dụng vấn đề môi trường để tạo dựng niềm tin về một ngày diệt vong sắp sửa ập tới, để niềm tin này thúc đẩy mọi người chịu bỏ tự do, bỏ quyền lợi và tiền bạc của mình. Vào thời Trung cổ, nhóm thượng tôn còn dùng khái niệm địa ngục và luyện ngục của đạo Cơ đốc để dọa nạt mọi người. Thế rồi khi chúng đem khoa học duy vật vào, niềm tin này bị suy yếu và chúng phải cố nghĩ ra những chuyện dọa nạt khác. Trong số này, có bệnh đại dịch, có xâm lăng của người ngoài hành tinh, có thiên thể sắp đụng trái đất, có kinh tế sụp đổ, có chiến tranh hạt nhân và, tất nhiên… có cả sự tàn phá môi trường.

Kế hoạch của nhóm thượng tôn là tạo ra cơn hoảng loạn lan rộng khiến ai nấy tin rằng họ phải chọn giữa hai tệ đoan, và điều có thể đoán trước là họ sẽ luôn luôn chọn tệ đoan có vẻ đỡ tệ nhất. Nhưng con chỉ bị bắt buộc chọn lựa giữa hai tệ đoan bởi vì con có một tầm hiểu giới hạn về tình thế, và con hiểu giới hạn như vậy là vì con không chịu sử dụng khả năng phân biện Ki-tô của con để tìm dữ liệu từ một nguồn cao hơn, một nguồn vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên của tự ngã. Và nguồn này hiển nhiên là cái ta Ki-tô của con cùng các chân sư thăng thiên.

Khi con thỉnh dữ kiện đó, con sẽ thấy luôn luôn có một giải pháp khác hơn cho các đối cực nhân tạo. Giải pháp khác đó là vượt khỏi cách tiếp cận nhị nguyên về cuộc sống, qua đó con luôn luôn bị lôi kéo bởi hai đối cực về những hướng đối nghịch. Giải pháp khác đó là nhìn vào cuộc sống qua tâm Ki-tô để thấy được: “Điều này với con người không thể làm được, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều làm được” (Matthew 19:26). Như ta có giải thích ở trên, một khi con người đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế, thì các vấn đề môi trường sẽ có thể được giải quyết mà không phải vứt bỏ các quyền tự do dân chủ lẫn tự do kinh tế, hay cho phép nhóm thượng tôn quyền lực kiểm soát mọi khía cạnh của đời mình.

Thật ra bằng cách cho phép nhóm thượng tôn quyền lực tiếp tục kiểm soát cuộc tranh luận về môi trường, điều chắc chắn là cuộc tranh luận này sẽ tiếp tục chạy trật đường rày, và như vậy các vấn nạn môi trường sẽ chỉ càng tệ hại thêm. Nhóm thượng tôn quyền lực bị mù quáng bởi sự kiêu mạn tâm linh đến độ chúng sẽ tiếp tục tiến tới vực thẳm, và giống như bao lần trong quá khứ, nó sẽ khiến chúng giết mất con ngỗng – tức là toàn bộ hành tinh trong trường hợp này – đẻ trứng vàng.

Ta biết lời giải thích của ta có thể khiến cho một người đơn lẻ cảm thấy vô vọng không biết làm gì trước âm mưu thao túng đó, nhưng con hãy nhớ, đó chính là điều nhóm thượng tôn luôn luôn muốn con tin. Thông điệp bên dưới của chúng là một người không thể nào làm gì để thay đổi. Nhưng thông điệp sâu xa của đời ta và cuộc đời của nhiều người khác là quả thực một người CÓ THỂ tạo sự thay đổi – khi người đó làm việc cùng với Thượng đế.

Cho nên con hãy buông mọi cảm giác choáng ngợp và cho phép Thượng đế bước vào trong con để ngài chỉ cho con thấy làm thế nào cá nhân con có thể góp phần vào việc đem lại sự thay đổi. Luôn luôn nhớ rằng, muốn cho thiểu số thượng tôn quyền lực chiến thắng, chỉ cần 10% dẫn đầu nhân loại không làm gì cả.


Ghi chú: Để hiểu sâu hơn về các vấn đề môi trường, về thiểu số thượng tôn quyền lực và mối quan hệ của con người với địa cầu, xin tham khảo sách Healing Mother Earth (Chữa lành Mẹ Địa cầu).

Sự thật về Chén Thánh – Giê-su bình luận về sách The Da Vinci Code

Câu hỏi của Kim Michaels: Thưa Giê-su, con vừa đọc xong quyển sách The Da Vinci Code (Mt mã Da Vinci) của Dan Brown, và con muốn hỏi thày về Chén Thánh (Holy Grail). Trong sách đưa ra luận thuyết rằng thật ra, Chén Thánh chính là Mary Magdalene, lúc đó đang mang thai đứa con của thày khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá. Mary Magdalene sau đó thoát được sang Pháp, nơi bà khởi đầu một dòng dõi hậu bối sau này có nối kết với một số hoàng tộc tại Âu châu. Liệu luận thuyết này có phần thực nào trong đó hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước hết, ta rất vui được thấy sách The Da Vinci Code đã được nhiều người chú ý và tìm đọc đến như vậy. Điều này cho thấy rất nhiều người sẵn lòng nhìn xa hơn những học thuyết của đạo Cơ đốc chính thống, và khao khát một hiểu biết cao hơn. Điều này cũng chứng tỏ là phần lớn sự hiểu biết tâm linh, mà trong các thời đại trước chỉ được truyền bí mật cho một số vị điểm đạo ở một cấp nào đó, bây giờ có thể được phổ biến rộng rãi hơn, và thật sự nó có thể trở thành sự hiểu biết chính mạch. Đó là một tin vui, và sự ưa chuộng quyển sách này là một trong số nhiều dấu hiệu cho thấy tâm thức loài người đang có sự chuyển đổi.

Bây giờ đến lượt tin buồn. Không có sự thật nào trong giả thuyết mà quyển sách đã đưa ra. Mary Magdalene không mang thai đứa con của ta khi ta bị đóng đinh. Cô ấy đã không đến Pháp, và do đó đã không khởi sự một dòng dõi được tiếp nối cho tới ngày nay.

Kim Michaels: Vậy có phải thày nói là truyền thuyết Mary Magdalene là Chén Thánh là một tin vịt? Thuyền thuyết đó ra đời như thế nào và tại sao?

Giê-su: Phải, truyền thuyết đó là hư cấu, nhưng nó không chủ ý là chuyện hư cấu. Những người đặt ra và lan truyền giả thuyết đó thật sự tin rằng có một số sự thật trong đó. Con phải hiểu là trong những thế kỷ sau khi ta bị đóng đinh, đã có rất nhiều huyền thoại và truyện kể được lưu truyền về ta. Một số truyện kể này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa về Ki-tô hay về một Thượng đế hiện thân làm người, và các truyền thống đó thì bắt nguồn từ những tôn giáo ngày nay bị xem là tôn giáo đa thần, tôn giáo ngoại đạo, trong khi kỳ thực đó là những lời dạy tâm linh phổ quát đã hiện hữu trong thế giới cổ đại song song với các tôn giáo chính mạch được biết đến nhiều hơn.

Giáo lý của môn phái Ngộ giáo (Gnostics) cũng chứa đựng một số truyền thuyết, và con sẽ thấy là phái này cũng có một số sách Phúc âm hay học thuyết mà họ bảo là đã nhận được từ nguồn gốc khải huyền thiêng liêng. Ta có thể nói với con là một số sách Phúc âm và giáo lý Ngộ giáo đã được tiếp nhận như là sự tiết lộ tuần tự đích thực đến từ uy lực của Thánh linh. Tuy nhiên, cũng có một số tín đồ Ngộ giáo đã nhận được những lời tiết lộ giả hiệu, y như ngày nay cũng có nhiều kẻ đồng bóng tiếp xúc với các linh thể thấp kém, hay thậm chí những tà thể độc hại, cố tình đánh lừa quần chúng bằng cách lan truyền những ý tưởng sai lầm.

Kim Michaels: Quyển sách cũng nói rằng Chén Thánh biểu tượng cho khiá cạnh nữ thiêng liêng, và thày đã hiện thân để nâng cao giới phụ nữ cũng như nữ tính thiêng liêng lên vị thế xứng đáng trong xã hội. Liệu có chút sự thật nào trong thuyết đó?

Giê-su: Có, quả là có phần nào sự thật trong đó, theo nghĩa là ta đã đến với niềm hy vọng đem lại sự bình đẳng tâm linh giữa hai phái, bằng cách nâng cao phụ nữ lên vai trò xứng đáng của mình. Ta đã có giải thích điều này một cách khá chi tiết trong câu trả lời về Mary Magdalene.

Tuy nhiên, ta đã không hiện thân chỉ để đem lại những thay đổi vỏ ngoài cho xã hội. Ta cũng đã đến để giúp con người hiểu ra cách duy nhất để trở thành một con người trọn vẹn và cân bằng là đạt được quan hệ đúng đắn giữa nam tính và nữ tính của dòng sống. Ta đã giải thích điều này tường tận trong bài giảng về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, một lần nữa, ta phải nói với con, Chén Thánh không phải là một người phụ nữ, không phải là Mary Magdalene và cũng không phải là nữ tính thiêng liêng.

Kim Michaels: Còn về Tu viện Scion (Priory of Scion) thì sao? Có thật là có một hội bí mật lưu giữ các tài liệu về đạo Cơ đốc ban sơ và nữ tính thiêng liêng?

Giê-su: Đã có một số hội kín, hay tổ chức bí mật, mọc lên trong thời kỳ Tòa án Dị giáo (Inquisition). Bất cứ khi nào có tình trạng một nhà cầm quyền độc tài trấn áp quyền tự do ngôn luận, thì con sẽ thấy xuất hiện một số hội kín nhằm bảo vệ những ai không chịu tuân theo đường lối cầm quyền.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thuở đó đã bảo trợ một vài hội kín dưới thời Tòa án Dị giáo, kể cả hội Chữ thập Hồng (Rosicrucians), hội Tam Điểm (Freemasons) cùng một số phường hội đã xây cất các nhà thờ lớn tại châu Âu.

Ta không nói ở đây là các hội này vẫn được bảo trợ ngày nay. Con cần hiểu là nếu một hội kín đã được thành lập vào thời Tòa án Dị giáo, thì có ích gì mà tiếp tục hoạt động này ngày hôm nay khi quyền tự do ngôn luận đã có mặt? Vào thời đó, một điều tương đối chính đáng đối với một hội kín là không rải truyền toàn bộ giáo lý tâm linh của mình cho quần chúng, mà chỉ trao một số giáo lý cao cấp cho một số đệ tử quyết tâm hơn trên đường tu tâm linh. Tuy nhiên chúng ta đã bước vào một thời đại khi giáo lý tâm linh có thể, và nên, được truyền đạt rộng rãi cho tất cả những ai sẵn lòng học hỏi.

Một hội kín dành một phần giáo lý cho đệ tử cấp cao là một chuyện, còn một hội kín cứ nhất định giữ kín mãi mãi là một chuyện khác hẳn. Chúng tôi các chân sư thăng thiên có thể đã bảo trợ một số hội kín do tình thế đòi hỏi, nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi ưa gì hội kín. Kỳ thực, chúng tôi thà là không có hội kín bởi vì trong những hội như vậy, sự kín đáo luôn luôn mời mọc sự lạm dụng quyền hành. Thật là quá dễ cho một nhóm ưu tú nhỏ hẹp, là nhóm chóp bu đứng đầu tổ chức bí mật đó, lạm dụng quyền lực của mình. Thật sự, các thành viên của một tổ chức như vậy không có cách chi phản đối giới lãnh đạo lạm dụng, bởi vì mọi chuyện có thể được giấu giếm, viện cớ là tổ chức hay giáo lý phải tiếp tục được giữ bí mật.

Xét về Tu viện Scion như được mô tả trong sách The Da Vinci Code, đâu là ích lợi của một hội kín cứ giữ bí mật giáo lý hay tài liệu môt cách vĩnh viễn? Con có thể hiểu được sự ích lợi của việc giữ bí mật để thoát khỏi sự đàn áp của Giáo hội Công giáo và nhờ vậy lưu giữ được thông tin cho hậu thế. Nhưng nếu thông tin đó cứ giữ hoài hoài vĩnh viễn thì mục đích của hội là để làm gì? Tại sao không chỉ tiêu hủy các tài liệu đó đi thì có phải bí mật đó sẽ không bao giờ lọt được vào tay kẻ xấu? Một trong những vấn đề của một hội kín là nó dễ dàng đánh mất mục đích nguyên thủy của nó và chỉ cốt tồn tại hầu tồn tại. Nói cách khác, mục đích duy trì hội kín trở thành quan trọng hơn là việc bảo tồn những giáo lý tâm linh mà nó tưởng là nó nắm giữ.

Ta đồng ý với lập luận đưa ra trong sách rằng nếu một hội kín đang nắm giữ một giáo lý bí mật về Ki-tô, thì bí mật đó cần được tiết lộ trong thời đại hôm nay, vì giờ đây đã có tự do ngôn luận cũng như những phương tiện truyền thông tốt hơn bao giờ hết. Còn cách nào hay hơn để bảo tồn một giáo lý là đưa nó lên internet nơi mọi người có thể đọc được? Nếu để một giáo lý quý giá trong tay một nhóm nhỏ bé thì luôn luôn có hiểm họa nó sẽ bị đánh mất, y như những gì cốt truyện trong sách mô tả.

Kim Michaels: Thế còn các giáo phái tôn thờ sinh sản cùng những nghi lễ tình dục được mô tả trong sách thì sao? Những loại nghi lễ đó hay những giáo lý đằng sau nghi lễ có giá trị gì hay không?

Giê-su: Có sự mâu thuẫn cốt lõi khi một tổ chức tuyên bố là mình bảo tồn bí mật về Ki-tô mà lại đồng thời cử hành những nghi lễ tình dục không bao giờ xuất phát từ bản thân ta, và cũng chẳng bao giờ liên quan gì đến đạo Cơ đốc. Đây là cùng một loại mâu thuẫn như khi bảo rằng Leonardo da Vinci là người cầm đầu bí mật của một tổ chức thờ phượng nữ tính thiêng liêng, trong khi ông là một người đồng tính.

Đã từng có một số tôn giáo cổ xưa có truyền thống thờ phượng nữ tính thiêng liêng, và trong khuôn khổ sự thờ phượng đó, một số giáo phái đã có những nghi lễ tình dục. Nhưng những loại nghi lễ này không bao giờ nằm trong đạo Cơ đốc, cũng như không bao giờ được ta khoan thứ. Trước khi đạo Cơ đốc ra đời, có những lời dạy phổ quát đã có mặt rồi, trong đó một số có giá trị. Một số lời dạy thờ phượng nữ tính thiêng liêng có giá trị. Tuy nhiên, chuyện cử hành nghi thức tình dục như được mô tả trong sách The Da Vinci Code (hoặc một số biến thể của các nghi thức đó), thì không có giá trị tâm linh nào cả. Tác dụng thật sự của những nghi thức đó là lấy ánh sáng của các tham dự viên, đưa nó qua trung gian những người làm chủ lễ để nuôi béo những con quỷ hay tà thể đứng đằng sau.

Lực tình dục, hay ánh sáng Kundalini theo tên gọi tại phương Đông, là một dạng năng lượng vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy các tà lực đã nghĩ ra nhiều phương cách để khiến cho con người dùng sai năng lượng này rồi trao ánh sáng cho tà lực. Một trong những cách thức trắng trợn nhất là kỹ nghệ quảng cáo và giải trí thời nay. Có nhiều hình thức tự xưng là giải trí nhưng chỉ là những loại nghi thức tình dục trá hình không hơn không kém, nhằm đánh cắp lực sống của những ai ham mê chuyện này mà hoàn toàn không biết mình đang bị cưỡng hiếp tâm linh.

Kim Michaels: Một truyền thuyết nữa về Chén Thánh đã sống sót suốt bao nhiêu thế kỷ nói rằng Chén Thánh chính là cái ly mà thày đã dùng trong bữa tối cuối cùng. Người ta cho là cái ly này có quyền năng kỳ diệu đem lại sự sống vĩnh hằng cho bất cứ ai uống vào. Truyền thuyết có gì là thật hay không?

Giê-su: Huyền thọai này cũng khởi đầu trong mấy thế kỷ tiếp theo sau việc ta bị hành quyết, và những người loan truyền nó cũng tin là nó có phần sự thật trong đó. Một lần nữa, đây là kết quả của một trí tưởng tượng quá năng động, không hoàn toàn hiểu được những bí ẩn của Ki-tô, cho nên đã cố tạo ra một hình dạng cụ thể cho những bí ẩn này qua cái Chén của Ki-tô.

Quả thật là ta có dùng một cái ly vào buổi ăn tối cuối cùng. Cái lý đó, mẹ yêu dấu của ta đã mang đến Glastonbury tại Anh quốc và cất giấu ở đó. Bây giờ xin con đừng hỏi là nó được cất giấu ở đâu và làm thế nào mà tìm lại được, bởi vì sự thật là nó không tồn tại nữa.

Tuy nhiên, cái ly đó không có quyền năng phép lạ như người ta gán cho nó. Con chi cần dùng chút lôgíc thì đã có thể phát hiện ra sự thật. Tất cả các môn đệ của ta đã uống từ ly đó trong bữa tối cuối cùng. Vậy tại sao người ta lại nghĩ rằng, nếu “Chén Thánh” đó đã không đem lại sự sống vĩnh hằng cho môn đệ của ta – là những người đã uống từ ly đó tận tay ta – thì làm sao nó có thể đạt được quyền năng kỳ diệu bao nhiêu lâu sau?

Kim Michaels: Vậy nếu Chén Thánh không phải là Mary Magdalene, không phải là nữ tính thiêng liêng, cũng không phải là cái chén cụ thể nào cả, thì đó là cái gì? Có sự thật nào đằng sau truyền thuyết Chén Thánh hay không? Bởi vì nói thật, những truyền thuyết này đã sống rất dai dẳng khiến nhiều người bị ám ảnh phải đi tìm Chén Thánh. Liệu tất cả những người đó chỉ chạy theo bóng ảo ảnh, hay là có một thực tại ẩn giấu mà người ta chưa hiểu ra?

Giê-su: Trong ý tưởng Chén Thánh có một thực tại, một thực tại đã được giữ kín khỏi mắt quần chúng từ nhiều thế kỷ, vì chúng tôi các chân sư thăng thiên thấy rằng con người chưa sẵn sàng nắm bắt được chân lý đó – như được chứng tỏ qua sự kiện biết bao người đã đi theo giáo điều vỏ ngoài của đạo Cơ đốc chính thống thay vì nhìn vào ý nghĩa tâm linh nội tâm của Cơ đốc giáo. Vì vậy chúng tôi đã vui lòng để cho người ta tìm kiếm Chén Thánh như một đồ vật bằng vật chất, một cái Chén của Ki-tô.

Như ta đã giải thích trên trang mạng của ta, và đặc biệt trong bài giảng về các chu kỳ tâm linh, nhân loại ngày nay đã vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên đã đến lúc tiết lộ bí mật thực sự của Chén Thánh, và ta vui lòng làm điều đó ở ngay đây. Con có nhớ chăng là trong sách The Da Vinci Code có nói đến sự kiện là con không tìm thấy Chén Thánh mà Chén Thánh tìm thấy con?

Kim Michaels: Con nghĩ đó là một câu nói vô cùng thâm sâu. Con cũng giật mình là câu đó nghe khá giống một câu rất quen thuộc là, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện.

Giê-su: À ngay đó con có bí mật của Chén Thánh. Kỳ thực, Chén Thánh là cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Cho nên Chén Thánh là yếu tố cho phép một người, một đứa con của loài người, nâng cao tâm thức mình lên đến mức tâm thức của Ki-tô và trở thành một đứa con của Thượng đế.

Về mặt cá nhân, Chén Thánh chính là cái ta Ki-tô của con. Chỉ qua cái ta Ki-tô con mới có thể thị hiện tâm thức Ki-tô, và chỉ qua tâm thức Ki-tô con mới có thể đạt được sự sống vĩnh hằng bằng cách trở thành một sinh thể thăng thiên.

Chén Thánh cũng có thể là một vị thày tâm linh. Một vị thày như thế có thể là một sinh thể thăng thiên, hay một người đang đầu thai tạm thời phụng sự như một vị thày thế chân cho cái ta Ki-tô cho đến khi đệ tử sẵn sàng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là nhận ra vị thày vỏ ngoài đó không bao giờ được trở thành một thần tượng thay thế vị thày nội tâm là cái ta Ki-tô.

Nếu con cho phép một vị thày vỏ ngoài hay, như nhiều người đã làm, một đồ vật, một hoc thuyết hay một giáo hội vỏ ngoài thay thế vị thày nội tâm, thì con đã đi theo “con đường có vẻ đúng cho con người nhưng thực sự là con đường của sự chết.” Và cái đó trở thành con đường vỏ ngoài mà ta đã mô tả rất tường tận trong các bài giảng của ta.

Con có thể nhận thấy là ta đã giảng day cho số đông quần chúng qua những chuyện ngụ ngôn, và lý do là vì họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý nội tâm của ta. Đó chính là những người đã bị cuốn hút vào ý tưởng Chén Thánh là một cái chén, một đồ vật vật lý. Và họ nghĩ, ước gì mình tìm được chén đó thì chỉ cần uống vào là sẽ tự động có sự sống vĩnh hằng và không phải mất công tu tập công phu trên con đường khai ngộ tâm linh. Đó thực sự là giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động, bảo đảm – giấc mơ viển vông vĩ đại nhất trên hành tinh này.

Cho dù một số người tìm cách đoạt thiên đường bằng vũ lực, thật là không có con đường tắt. Con sẽ không bao giờ nhập được thiên đàng mà không đi theo con đường nội tâm dẫn đến tâm thức Ki-tô. Nếu con không mặc vào bộ áo cưới, con sẽ không thể ngồi vào bữa tiệc cưới, và con sẽ thấy mình trong bóng tối bên ngoài, chân tay bị trói chặt lại bởi những vết thương tâm lý và tin tưởng sai lầm của con.

Ngay cả quan niệm cho rằng Chén Thánh là một người nữ, và một người nam có thể đạt được kết hợp với Thượng đế qua sự kết hợp tình dục với một người nữ, cũng là giấc mơ cứu rỗi tự động. Tuy nhiên, có một chút sự thật ở đây, theo nghĩa là khi một người đạt được sự cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống, người đó – dù là nam hay nữ – cũng sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy tâm thức Ki-tô, và điều này sẽ dẫn đến hợp nhất với Thượng đế. Giấc mộng rằng sự hợp nhất với Thượng đế có thể được sản xuất một cách tự động và đảm bảo qua kết hợp tình dục, là lời gian dối đằng sau cách thực hành tình dục Tantra đã đặc biệt phổ biến tại phương Đông. Con hãy lưu ý là ta không hề nói triết lý đánh thức Kundalini là sai trái, hoặc điều này không thể thực hiện qua tình dục, mà ta nói rằng đó không phải là một kết quả tự động của kết hợp tình dục.

Trên hành tinh này luôn luôn đã có những kẻ muốn chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực, muốn sản xuất sự giác ngộ tâm linh mà không chịu làm công việc chữa lành tâm lý của mình cũng như thanh lọc tâm trí lẫn con tim. Đây là những người không sẵn sàng nhận sự thật về Chén Thánh. Đây là những người đã đeo đuổi từ hàng bao thế kỷ một đồ vật vỏ ngoài hay một bí mật huyền bí nào đó sẽ tự động cho họ sự sống vĩnh hằng. Bí mật của sự sống vĩnh hằng là kết hợp với cái ta Ki-tô của con, nhưng sự kết hợp này sẽ không bao giờ là kết quả tự động của những hành vi vỏ ngoài. Kết hợp đó là sự kết hợp thần bí nội tâm mà biết bao triết lý tâm linh chân thực khắp thế giới đã nói tới.

Khi ta ở một mình với các môn đệ, ta thường giảng dạy nhiều điều, kể cả sự kiện mỗi con người đều có một cái ta Ki-tô và đều có khả năng hợp nhất với cái ta Ki-tô đó. Thế nhưng ngay cả các môn đệ của ta cũng không thể nắm được hoàn toàn chân lý đằng sau lời dạy này. Đó là tại sao ta đã ban cho họ một nghi lễ vỏ ngoài gọi là nghi lễ Bẻ bánh của sự Sống để họ tưởng nhớ đến ta. Ý nghĩa nội tâm chân chính của nghi lễ này là Bánh của sự Sống chính là tâm thức Ki-tô toàn vũ đã được bẻ ra cho mỗi người dưới dạng cái ta Ki-tô cá nhân nơi mỗi người.

Khi đó, cái ta Ki-tô cá nhân trở thành cái chén chứa đựng huyết – huyết là biều tượng cho dòng tâm thức của tâm Ki-tô toàn vũ. Khi dòng sống của con hợp nhất với cái ta Ki-tô, con nâng chén lên – là cái chén của toàn bộ tâm trí và toàn bộ dòng sống – và như vậy, dòng tâm thức Ki-tô toàn vũ sẽ bắt đầu tuôn chảy xuyên qua con. Mọi ý tưởng, cảm xúc và hành động của con giờ đây được xây dựng trên tảng đá của Ki-tô, tức tâm thức Ki-tô, thay vì trên bãi sa lầy của tâm thức phàm phu.

Do đó chúng ta có thể nói là khi con thật sự tìm ra Chén Thánh trong kết hợp thần bí với cái ta Ki-tô, con cũng đã trở thành chính Chén Thánh vậy. Con trở thành cái chén của Ki-tô mà qua đó tâm thức Ki-tô toàn vũ có thể giảng dạy và trao ánh sáng cho người khác. Và chúng ta cũng có thể nói, con không thể tìm thấy Chén Thánh, mà con có thể trở thành Chén Thánh. Con trở thành cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu như ta đã từng là như vậy khi ta còn hiện thân.

Đó là bí mật đích thực của Chén Thánh mà người ta đã đi tìm suốt 2000 năm qua. Nếu họ để ý đến một trong những lời dạy quan trọng nhất của ta, thì họ đã không đi tìm bên ngoài chính họ. Lời dạy đó là, Nước Trời ở ngay trong con. Nó chứng tỏ cho con thấy Chén Thánh phải tìm kiếm bên trong con, bên trong tâm con, bên trong tâm thức của con.

Ta cũng xin nói là truyền thuyết Chén Thánh cũng đã thật có ích lợi ở chỗ nó đã giúp cho nhiều dòng sống giữ được tập trung vỏ ngoài vào một niềm khao khát bên trong đích thực hầu đạt tâm thức Ki-tô. Cho nên ta không bảo là có gì sai trái khi người ta ao ước Chén Thánh. Vấn đề xảy ra là nhiều người đã chú mục vào một đồ vật bên ngoài thay vì tìm kiếm một cách hiểu thâm sâu hơn.   

Ta cũng biết nhiều người sẽ thấy lời giải thích của ta không được lãng mạn và màu mè bằng truyền thuyết. Nhưng nếu họ chuyển dời tâm thức khỏi trọng tâm vào thế giới vật chất để tập trung vào thế giới nội tâm, thì họ sẽ khám phá ra cuộc hành trình nội tâm cùng với Ki-tô sẽ lãng mạn, hứng thú và thỏa nguyện hơn gấp bội việc đeo đuổi một cái chén.

Ta chính là Chén Thánh.
Hãy bước vào trong tim và tìm ta.
Nếu con tìm ta với tim tinh khiết và tâm cởi mở, con sẽ tìm thấy ta.
Khi đó, chắc chắn ta sẽ cho con sự sống vĩnh hằng.

Các chân sư có cảm thấy bất mãn không?

Hỏi: Chắc trong suốt 2000 năm qua, các chân sư thăng thiên đã nhìn thấy địa cầu bỏ qua hết cơ hội bằng vàng này tới cơ hội bằng vàng khác để thăng vượt lên những tầng cõi năng lượng cao hơn. Làm thế nào các thày có thể không mất kiên nhẫn với địa cầu, hay không căm ghét những tà lực đã không ngừng làm hỏng những cơ hội bằng vàng mà các thày đã sắp đặt cho chúng con? Con hiểu được là các thày quá tôn trọng quyền tự quyết để cho phép mình cảm thấy bất mãn, nhưng các thày có khi nào tự hỏi với lòng kinh ngạc bực bội là tại sao có những người có thể sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng triển?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 22/8/2011.

Câu hỏi của con thông cảm được, nhưng nó cũng dựa trên một cách phỏng đoán rất xa sự thật về bản chất của các chân sư.

Chúng tôi thấy rõ sự thật rằng mục đích của thế gian là để tạo điều kiện cho tất cả mọi sinh thể tự biết có thể tăng triển khả năng tự nhận biết của mình. Và cách thức mà Đấng Sáng tạo đã chọn để thực hiện điều này là ban quyền tự quyết cho các sinh thể tự nhận biết và cho phép họ thử nghiệm cho tới khi họ học được cách chọn lựa để làm sao nâng cao Tất Cả.

Cho nên khi chúng tôi nhìn vào địa cầu, chúng tôi không nhìn với tâm thức cho rằng có một cái chuẩn tối thượng để đánh giá sự sống trên địa cầu. Nói cách khác, chúng tôi không có tiêu chuẩn đúng-sai để mà kết luận rằng mọi chuyện hiện đang diễn ra sai trái.

Ngược lại là đằng khác. Điều gì sẽ giúp cho khả năng tự nhận biết tăng trưởng? Đó là khi các sinh thể phóng chiếu toàn bộ tâm thức của mình – những cái ngã của mình – lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật và trải nghiệm sự phản ánh dội ngược lại về mình. Họ sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến khi họ chán ngấy kinh nghiệm đó và họ quyết định: “Tôi muốn là nhiều hơn cái ý thức bản ngã hiện thời của tôi.” 

Vậy hiện tại các điều kiện trên địa cầu ra sao? Các điều kiện này chỉ đơn giản là sự phóng hình của tình trạng tự nhận biết hiện thời của nhân loại. Do đó, các điều kiện hiện tại là cơ hội toàn hảo để mọi người thăng vượt ý thức bản ngã của mình. Điều này đã luôn luôn là như vậy và sẽ luôn luôn như thế.

Hiển nhiên, vai trò của chúng tôi là nắm giữ niệm tinh khôi cho mọi người, có nghĩa là chúng tôi mang bản mẫu cho tiềm năng cao nhất của nhân loại dựa trên mức độ hiện nay của tâm thức tập thể. Nhưng nắm giữ niệm tinh khôi có nghĩa là gì? Lả chúng tôi nắm giữ viễn quan mà không phán xét dưới bất kỳ hình thức nào.

Con có thấy được tầm quan trọng không? Cầm giữ niệm tinh khôi KHÔNG có nghĩa là mình có một cái chuẩn đã được định trước về cách con người phải sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào. Chuẩn LUÔN LUÔN được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên, như chúng tôi có giải thích trong sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth). Chúng tôi không nhìn vào nhân loại rồi nói: “Ồ, điều này hoặc điều kia đáng lẽ đã phải xảy ra, cho nên thật là bực mình khi con người một lần nữa lại chọn con đường thấp kém.” Thay vào đó, chúng tôi chỉ nhìn cái gì đang là, và chúng tôi cầm giữ viễn quan về cách con người có thể bước đi bước kế tiếp. 

Có một sự hiểu lầm phổ biến nơi các học trò của chân sư là tâm thức Ki-tô có nghĩa là một cái chuẩn cao hơn mà theo đó chúng tôi sẽ phán xét mọi người. Kỳ thực, tâm thức Ki-tô có nghĩa là không có chuẩn gì hết – ít nhất không có chuẩn nào mà một người bị kẹt trong nhị nguyên có thể hiểu được.

Thế nào là ý nghĩa của sự hiện thân của ta cách đây 2000 năm? Đó là Ki-tô LUÔN LUÔN đứng ngay nơi con đang đứng. Thực sự có nghĩa là con không thể bao giờ đi xuống một tầng tâm thức nơi Ki-tô không có mặt. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”, thực sự có nghĩa là ngay cả những điều kiện hay hình tướng có vẻ thấp kém nhất cũng mang sẵn hạt mầm tâm thức Ki-tô bên trong. Có nghĩa là bất kỳ điều kiện nào trong thế gian hình tướng cũng mang sẵn trong nó chìa khóa cho sự thăng vượt cái tầng tâm thức nơi hình tướng đã được tạo ra. Không thể khác được.

Ki-tô không đến với con người với một cái chuẩn cao siêu, đòi hỏi người ấy phải bước lên mấy bước một lượt. Ki-tô không nhìn con người và bảo: “Này, khi nào con xứng đáng hơn thì lúc đó ta sẽ giúp con thăng vượt tâm thức đó.” Không, Ki-tô đến với con người với một cái khung nền để con có quyền năng tự tiến lên một bước trên con đường cá nhân của con. Ki-tô LUÔN LUÔN sẵn sàng giúp bất cứ ai thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình và tiến gần hơn với sự hợp nhất. (Xin con lưu ý, một chân sư đặc thù có thể từ chối làm việc với học trò dưới một mức tâm thức nào đó, tuy nhiên tâm Ki-tô toàn vũ thì sẽ luôn tìm ra cách để làm việc với bất cứ ai, và điểm này được minh họa qua hình ảnh ta bước xuống địa ngục).

Khi một người đi một bước, chúng tôi xem đó là một chiến thắng. Khi một người không đi bước kế tiếp, chúng tôi biết là theo quy luật, người đó sẽ chỉ gia tăng áp lực buộc mình phải thăng vượt ý thức bản ngã hiện tại, và do đó dù không bước nhưng vẫn tiến gần hơn sự thăng tiến. Điều tương tự cũng xảy ra cho những nhóm người và nhân loại nói chung. Khi là một chân sư thăng thiên, chúng tôi học cách nhìn dài hạn và thấy rằng con đường thăng tiến thường có những khúc quanh co, nhưng cuối cùng thì vẫn dẫn đến mục tiêu nâng cao khả năng tự nhận biết. Nếu con không học được bài học này, con sẽ “rơi” trở xuống hiện thân và một lần nữa lại phải tham gia vào cuộc tranh đấu nhị nguyên để “ép buộc người khác làm điều lợi ích cho họ”. Con thấy đó, bất kỳ chọn lựa nào cũng có hậu quả. Và hậu quả càng khó chịu bao nhiêu, nó sẽ càng đưa con tới điểm nhanh bấy nhiêu, tức là điểm khi con sẵn sàng thăng vượt ý thức bản ngã hiện thời của con.

Một khi con buông bỏ lời gian dối cho rằng con phải phán xét cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ, con sẽ thoát khỏi cảm giác bất mãn mà trong suốt chiều dài lịch sử đã khiến bao người cho rằng mình phải cải sửa người khác bằng vũ lực. Và sự buông bỏ này sẽ thực sự đóng góp cho sự thăng tiến của hành tinh nhiều hơn bất cứ gì khác mà cá nhân con có thể làm.

Về vấn đề con đặt ra là liệu chúng tôi có thắc mắc người ta sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng trưởng, đôi khi chúng tôi cũng đặt ra câu hỏi đó để khiến cho mọi người suy nghĩ. Nhưng trong tâm chúng tôi, chúng tôi không thắc mắc, vì chúng tôi nhớ rõ trong khiêm nhu là chính chúng tôi cũng đã từng đầu thai và không phải lúc nào cũng đã lấy con đường thẳng nhất dẫn đến thăng thiên.  

Khi con từ bỏ nhu cầu đánh giá người khác, rất nhiều những câu hỏi như vậy tự dưng tan biến. Đó là một cảm giác tự do vô cùng. Và thật sự, con phải thử thì con mới biết như thế nào. Tất nhiên, nếu con quyết định tiếp tục trong cái ý thức bản ngã chỉ đem lại khổ não, ta sẽ tôn trọng chọn lựa của con. Và ta sẽ luôn đứng đó sẵn sàng để trao cho con một chọn lựa cao hơn bất cứ lúc nào con muốn.   

Con thấy đó, ta có thời gian về phía ta, bởi vì ta biết là thời gian không hề có. Thật ra, chính cái ý thức về chuẩn và những điều không đạt chuẩn đã nuôi mãi ảo tưởng của thời gian trong tâm mọi người trên địa cầu. Và điều này cũng giải thích tại sao có người lại sống hết kiếp này tới kiếp sau mà không tăng triển – đó là vì họ chỉ lo ép người khác phải tuân theo tiêu chuẩn của họ.  

Một nhà thờ cho người da đen có cần thiết không?

Hỏi: Kính chào thày Giê-su, con là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu, lớn lên trong một giáo hội Baptist. Con không còn tự nhận mình là một tín đồ Cơ đốc nữa vì con nhận thấy giáo lý không đồng điệu với con người nội tâm của con. Một số câu hỏi của con đã không có câu trả lời và cuối cùng con đã phải đi tìm một giáo lý cao hơn.

Theo nhận xét của con, tín đồ trong các giáo hội của người da đen thường đặt các mục sư/chức sắc/giám mục của họ lên đài cao và tôn thờ họ như thể họ là Thượng đế. Khi họ thuyết pháp, nhiều lãnh đạo các giáo hội da đen lên án người đồng tính luyến ái, khiến cho những người này cảm thấy như mình nhơ nhuốc dưới mắt Thượng đế, không xứng đáng được Thượng đế thương yêu. Tiếc thay, nhiều tín đồ trong giáo hội lại mù quáng đi theo giáo lý hận thù như vậy, và chu kỳ phán xét cứ không ngừng tiếp diễn.  

Gần đây đã có những lời cáo buộc đối với một nhà truyền giáo da đen vô cùng quyền thế về việc ông đã có quan hệ bất chính với một số thanh niên. Trớ trêu thay, nhà truyền giáo này cũng là một người chống đối kịch liệt vấn đề đồng tính và hôn nhân đồng tính. Vậy câu hỏi của con là như sau: là con người, làm thế nào chúng con tìm được con đường trung hòa để đi theo tín ngưỡng của mình và không đặt trọn niềm tin vào con người? Người da đen phải làm gì để hiểu ra là việc hò hét từ trên bục giảng trong khi đeo trang sức bạch kim và kim cương và đi xe trị giá $100,000 đậu ngay giữa đường vào nhà thờ, hoàn toàn không chứng minh được mối liên kết trực tiếp, chân phước và hồng ân từ Đấng Sáng tạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2011.

Con hãy cho ta dùng câu hỏi này của con để đặt ra một câu hỏi rộng lớn hơn: Có cần nhà thờ Ki-tô giáo dành riêng cho người Mỹ gốc châu Phi hay không – có nhu cầu nào cho một nhà thờ của người da đen?

Nhưng đầu tiên, chúng ta hãy xem xét tại sao con người lại có khuynh hướng miệt thị người khác. Có một số mục sư trong các giáo hội cực chính thống (fundamentalist) – cả Mỹ gốc châu Phi lẫn da trắng – lên án đồng tính luyến ái trong khi chính bản thân họ lại có những vấn đề tình dục.

Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn vấn đề đồng tính, con sẽ thấy là đằng sau đó có cả một cơ chế tâm lý phổ biến gọi là vật tế thần. Cơ chế này đặc trưng cho một loại tổ chức nhất định, không cứ là tổ chức tôn giáo. Một ví dụ điển hình trong lịch sử là chủ nghĩa Quốc xã, nhưng đã có rất nhiều loại tổ chức áp bức khác cũng đã phân biệt một nhóm người đặc thù nào đó, hay cả những cá nhân, hầu biến họ thành những con dê tế thần.

Tại sao họ lại biến người khác thành vật tế thần? Tại sao họ không nghe lời dạy của ta là KHÔNG được chú tâm vào cái giằm trong mắt người anh em? Phải, luôn luôn là vì họ không chịu nhìn vào cái xà trong mắt họ.

Họ sử dụng việc lên án người khác để không ai chú ý đến họ cùng những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý họ. Bởi vì trên căn bản, bất cứ điều gì mà con phóng chiếu lên người khác cũng phản ánh những vấn đề chưa giải quyết trong chính tâm lý của con.

Con thấy có sự thiếu tự tin trong tâm lý của những người đó. Nhưng hơn thế, con cũng thấy là họ không sẵn sàng làm công việc cải thiện bản thân để trau dồi lòng tự tin đích thực. Và sự thiếu sẵn sàng này được họ “bào chữa” bằng cách tạo ra một hình tư tưởng bảo rằng con người không thể tự cải thiện do đã bị đối xử tàn nhẫn, bị áp bức hay bị chà đạp. Những người như vậy có cái nhìn rất cứng nhắc về cuộc sống. Họ nghĩ là họ bị hạn chế trong một địa vị nhất định nhưng họ vẫn cho là họ sẽ được cứu rỗi, một phần là vì vật tế thần của họ có địa vị thấp hơn, và phần khác vì họ có những lãnh đạo “cao cả” đã hứa hẹn sẽ đưa họ lên thiên đàng.  

Trong bất kỳ tổ chức nào, người lãnh đạo cũng tương xứng với các thành viên, nghĩa là lãnh đạo luôn luôn là một tấm gương cực đoan của những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa nơi đa số các thành viên của tổ chức. Do đó trong một tổ chức nhà thờ, cách cư xử của mục sư là sự phản ánh của tâm lý chưa giải tỏa trong hội chúng.

Ta không muốn nói là nếu một nhà thờ lên án người đồng tính thì điều này cho thấy phần lớn tín đồ đều có khuynh hướng đồng tính. Nhưng nó cho thấy là đa số hội chúng có những tâm lý chưa được giải tỏa mà họ không chịu xem xét, và vì vậy họ mới sẵn sàng lên án người khác để cảm thấy mình không cần phải xem xét chính mình. Đây là “tư duy bị ức hiếp”, qua đó con cảm thấy sâu xa là con có một điều gì đó không ổn dưới mắt Thượng đế, nhưng nếu con có thể làm như có nhóm nào khác còn tệ hơn mình nữa thì con cảm thấy Thượng đế sẽ chấp nhận con vì con không đến nỗi tệ như nhóm dê tế thần kia.

Khi con xem xét kỹ hơn, con sẽ thấy đây là một tư duy vô cùng phi lôgíc. Đây là cách nhìn chỉ thấy khuyết điểm, tức là con biết con không đáp ứng tiêu chuẩn mà con nghĩ Thượng đế đang sử dụng, nhưng thay vì đặt trọng tâm vào việc tự cải sửa, con lại tìm cách kéo thấp người khác. Nếu con đưa quan điểm này đến sự cùng cực hợp lý của nó, con như đang bảo rằng: “Đồng ý, chúng tôi không đủ tốt để được cứu rỗi, nhưng Thượng đế phải cứu một ai đó chứ, cho nên nếu chúng tôi khiến cho kẻ khác có vẻ tồi tệ hơn mình thì ngài sẽ phải chọn chúng tôi thôi.”

Vấn đề là Thượng đế không bắt buộc phải cứu rỗi bất kỳ một ai. Ngài đã ban quyền tự quyết cho mọi người, cho nên chính những chọn lựa của mỗi người sẽ định đoạt người đó sẽ được cứu rỗi hay không.

Đằng sau tư duy bị ức hiếp là niềm tin cho rằng một người vào được Nước Trời hay không là do những gì người đó đã làm hay không làm. Nhưng rõ ràng ta đã dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con. Và cái ở ngay trong con chính là trạng thái tâm thức của con, tức là con có vào được Nước Trời hay không là hoàn toàn do trạng thái tâm thức của con định đoạt. Vào được Nước Trời có nghĩa là con ở trong chính tâm thức LÀ Nước Trời.  

Trong vương quốc của Thượng đế, mọi sự sống là một – “Ta và Cha ta là một” – cho nên khi nào con còn nghĩ con phải phán xét người khác thì con không thể ở trong trạng thái tâm thức thấy được tính duy nhất của mọi sự sống. Bởi vì khi con thấy mọi sự sống là một, con chỉ có thể cố gắng nâng mọi sự sống đi lên mà thôi. Vì vậy, khi nào con còn phán xét hay cảm thấy nhu cầu bài bác hay thay đổi người khác, con sẽ không thể bước vào Nước Trời, như thày Portia vừa giải thích thật hùng hồn.

Nếu con hiểu giáo lý và sứ vụ nguyên thủy của ta, con sẽ thấy là đường tu mà ta từng giảng dạy và chứng tỏ – tức là Đạo, là con Đường – nhắm đặc biệt đến những ai sẵn lòng thăng vượt tư duy bị ức hiếp đó để hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của mình. Con cũng có thể thấy là vào thời đó, không có nhiều người đầu thai sẵn sàng đi theo con đường này. Cho nên nếu những lời dạy nguyên thủy của ta được bảo tồn thì đạo Ki-tô đã không bao giờ trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới. Và thật vậy, ta không bao giờ có ý định lập ra một tôn giáo được dùng để giam con người trong tư duy bị ức hiếp.

Cho nên sự thật phũ phàng là như sau: Lý do đạo Ki-tô đã trở thành một tôn giáo toàn cầu là vì có một số kẻ trong tầng lớp thượng lưu quyền lực của Đế quốc La mã đã nẩy ý là họ có thể dùng một dạng tha hóa của giáo lý của ta để áp bức quần chúng tới mức cùng cực. Hình thức áp bức cùng cực là khi người dân hoàn toàn bị kiểm soát bởi một giai cấp thượng lưu quyền lực trên thế gian mà cứ tin chắc là nếu mình đi theo các lãnh đạo thế gian đó thì mình sẽ bảo đảm được bước vào vương quốc trên thiên đàng. Điều này đặc biệt hấp dẫn đối với những ai có tư duy bị ức hiếp, những người không chịu nhận trách nhiệm về bản thân mình mà cứ muốn làm người mù đi theo những người mù.

Trong thế giới ngày nay đã có nhiều dòng sống hơn sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình trên trái đất cũng như về sự cứu rỗi của mình. Con có thể tìm thấy những người như vậy trong mọi đoàn nhóm, nhưng tất nhiên là không đồng đều. Hay nói cách khác, một số nhóm có một tỷ lệ khá thấp những dòng sống đã trưởng thành tâm linh bởi vì nhóm chủ trương tán thành lối tư duy thịnh hành nói trên.

Con có thấy điều ta muốn nói chăng? Không hề có dòng sống nào gọi là dòng sống da đen, hay dòng sống da trắng, hay dòng sống gốc Tây ban nha, hay dòng sống da đỏ, hay dòng sống da vàng, hay dòng sống chấm xanh chấm đỏ gì hết. Thế nhưng trong mỗi đoàn nhóm đều có những dòng sống ở những mức độ trưởng thành khác nhau. Và nếu một nhóm có một bản sắc tập thể làm nhụt chí những ai muốn nhận lấy trách nhiệm bản thân – tức là nếu nhóm mang tư duy bị ức hiếp – thì nhóm đó sẽ thu hút những dòng sống thiếu trưởng thành, vì lý do giản dị là những người này sẽ tìm được đúng những gì họ mong muốn, tức là một cái cớ toàn hảo để không phải nhận lãnh trách nhiệm về chính mình.  

Nếu con nhìn người Mỹ gốc châu Phi một cách trung thực – cũng như nhiều nhóm người ngay tại Phi châu – con sẽ nhận thấy một xu hướng tư duy bị ức hiếp. Như một tập thể, người Mỹ gốc châu Phi đang củng cố, tăng cường cho ý niệm bản sắc coi mình là thành phần bị thiệt thòi, bị khinh miệt và ngược đãi. Và như với tất cả mọi thứ khác, một thái độ như vậy sẽ biến thành một vòng ốc xoáy hướng hạ, tự nó cứ nuôi cho lớn mạnh thêm hoài.

Điều điển hình với các thành viên của những nhóm như vậy là họ không muốn có sáng kiến, không muốn khởi xướng, không muốn nổi bật khỏi đám đông. Hậu quả là họ sẽ thần tượng hóa lãnh đạo của họ, đặt lãnh đạo lên trên bệ cao và tin rằng lãnh đạo sẽ không bao giờ lầm lẫn. Lý do là vì chỉ khi nào con đi theo một nhà lãnh đạo không thể sai lầm thì con mới có thể tin rằng lãnh đạo đó sẽ đưa con lên tận thiên đàng.

Làm thế nào phá vỡ được vòng ốc xoáy cứ tự bồi thêm sức mạnh như thế? Có hai cách. Một cách là nhóm đó thu hút những lãnh đạo yêu thích được thần tượng hóa, và thường khi họ cũng nghĩ mình là bất khả sai lầm. Loại lãnh đạo như vậy sẽ không tránh được trở thành tâm điểm cho toàn bộ tâm thức tập thể của nhóm, cho nên họ sẽ trải bày ra những tâm lý chưa giải tỏa của tập thể. Điều này có thể biểu hiện qua những chiếc xe hay đồ trang sức thật hào nhoáng, những hành vi phản ánh xu hướng đồng tính ẩn giấu, hay nó cũng có thể biểu hiện qua chuyện ngoại tình, cờ bạc, phim ảnh khiêu dâm, hoặc bất kỳ cách hành xử nào không phù hợp với những gì người lãnh đạo luôn rao giảng.       

Nói cách khác, bất kỳ hình tư tưởng nào mà nhóm đó đã tạo ra như là một điều kiện để lên được thiên đàng cũng sẽ bị lãnh đạo của họ phá vỡ tan tành qua cách hành xử của lãnh đạo, hầu ai nấy bắt đầu nhìn ra là việc tôn thờ một thần tượng không dẫn tới đâu, và chính họ mới cần nhận lấy trách nhiệm cho bản thân họ. Các thành viên trong nhóm có được cơ hội xem xét những phần tâm lý chưa giải tỏa trong bản thân họ.

Cách thứ nhì có thể giúp ích cho các thành viên là họ nhìn thấy một số gương sáng tích cực trong nhóm họ. Ngay bây giờ đây, người Mỹ châu Phi có một cơ hội độc đáo để vượt qua tư duy bị ức hiếp vì Tổng thống Hoa kỳ là một người da đen. Trong chính quyền trước, con cũng đã thấy Colin Powell, một tấm gương xuất sắc của một người Mỹ gốc châu Phi đã vượt lên trên tư duy bị ức hiếp. Và tất nhiên, còn có tấm gương của Oprah Winfrey cùng với nhiều người khác nữa.

Nếu con nhìn xem điều gì đã khiến cho những vị đó, cũng như nhiều người Mỹ gốc châu Phi khác, đóng góp vượt bực cho xã hội, con sẽ thấy một điểm vô cùng thâm sâu. Hoa kỳ là một xã hội với nhiều phe nhóm nhỏ lẻ và một mức độ hiềm khích chủng tộc cao hơn bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác. Thế nhưng các hiềm khích đó thật sự chỉ nằm ở lớp vỏ ngoài của tâm thức. Nếu con bước vào sâu hơn, con sẽ thấy là Hoa kỳ đã được thành lập trên nền tảng một số nguyên lý phổ quát được hiện thân trong bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp.

Điều này có nghĩa là tại Hoa kỳ, mỗi cá nhân, bất kể xuất xứ của mình, đều có một cơ hội độc đáo để thành công – NẾU người đó có thể tự đặt mình cho đồng thuận với những nguyên lý phổ quát vừa kể. Nói cách khác, sự trung thực, sự liêm chính cá nhân, sự công bằng, sự tận tụy và tình yêu thương đích thực đối với đồng loại, sẽ giúp con tiến rất xa tại nước Mỹ cho dù nguồn gốc của con có là gì.

Colin Powell đã không thành công vì da ông màu đen, và ông cũng không thành công bất chấp da ông màu đen. Ông đã thành công vì ông đã thăng vượt tư duy bị ức hiếp để mà ôm lấy trạng thái tâm thức phổ quát mà các chân sư thăng thiên vẫn hằng cầm giữ trong viễn quan của mình cho tương lai nước Mỹ. Bất cứ ai cũng có khả năng noi theo tấm gương của những vị lãnh đạo như vậy vì phương châm của các chân sư thăng thiên vốn là: Việc gì một người đã làm được thì mọi người cũng làm được.

Vấn đề là nếu người ta cứ bám chặt lấy tư duy bị ức hiếp thì người ta sẽ không thấy được những tấm gương đó là tấm gương. Người ta sẽ đặt những người đó lên làm thần tượng, coi những người đó là ngoại lệ, y hệt như nhân loại đã hành xử với chính bản thân ta. Và đó là khi người ta sẽ khóa chặt mình lại trong những hệ thống kín mít để rơi vào vòng kềm toả của định luật thứ hai của nhiệt động học. Một cái gì đó sẽ phải đập tan các hình tư tưởng của con người, cho dù là qua cách hành xử của một mục sư hay qua một ai đó có cùng một thái độ nổi lửa nhà thờ của con.

Con có thấy không, vấn đề thực sự với một “nhà thờ của người da đen” tại Hoa kỳ chính là vì nó tự xem nó là một nhà thờ của người da đen. Đặc biệt tại các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, con nhận thấy rất nhiều nhà thờ là những hội chúng hoàn toàn da đen không mở tay ra chào đón người da trắng hay người da màu gốc Tây ban nha. Cho nên thái độ hiềm khích mà ta vừa đề cập được tập trung tại các tiểu bang miền Nam giữa hai nhóm người, một là các thành viên của nhà thờ da đen và hai là các nhà thờ da trắng theo xu hướng cực chính thống.

Thật là một điều đáng tiếc khi sự kỳ thị chủng tộc lại kết tụ nơi chính những con người tin chắc rằng mình là những “con chiên ngoan đạo của Ki-tô”.

Thánh Paul – người đã góp phần biến giáo lý của ta thành giáo lý phổ quát – có viết như sau trong những lá thư được cho là của thày:

“Nơi đây không có người Do thái hay người Hy lạp, không có người nô lệ hay người tự do, không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả anh em đều là một trong Ki-tô Giê-su.” (Galatians 3:28)

“Nơi đây không có người Hy lạp hay người Do thái, không có người cắt bì hay không cắt bì, không có người Barbarian hay người Scythian, không có người nô lệ hay người tự do, mà Ki-tô là tất cả, ở trong tất cả.” (Colossians 3:11)

Điều mà lớp thượng lưu quyền lực đã làm từ lâu là biến giáo lý chân thực của ta thành một công cụ để áp bức quần chúng. Và họ làm vậy bằng cách biến lời dạy bao gồm tất cả mọi người của ta trở thành một hệ thống phân mọi người ra thành những người được cứu rỗi và những người sẽ không được cứu rỗi, tức những con dê tế thần.

Nếu con mù quáng đi theo lãnh đạo thế gian để thù ghét những ai mà lãnh đạo của con bảo con phải thù ghét, thì hóa ra con chắc chắn là mình sẽ lên được thiên đàng mà không phải xem xét cái xà trong mắt mình. Hệ thống này vô cùng hấp dẫn đối với những ai mang tư duy bị ức hiếp. Nó có tác dụng giữ mãi họ lại trong trạng thái tâm thức coi mình là nạn nhân bị ức hiếp – bởi vì nếu mình không nhắm mắt đi theo lãnh đạo thì mình sẽ bị liệt vào thành phần đồ bỏ và sẽ bị hụt mất cơ hội cứu rỗi.

Thế nhưng thông điệp mà ta đã đến địa cầu để đem lại cho những ai bị ức hiếp là không hề có sự phân chia giả tạo nào dựa trên tiêu chuẩn thế gian có thể ngăn cản con người lên được thiên đàng. Nói cách khác, cho dù lớp thượng lưu quyền lực có nói gì đi nữa, thì bất cứ ai – BẤT KỂ xuất xứ của người đó trong xã hội loài người – cũng có khả năng lên được thiên đàng, MIỄN LÀ người đó thể hiện được các nguyên lý phổ quát mà ta đã thể hiện, tức là cùng những nguyên lý phổ quát được ghi trong Hiến pháp Hoa kỳ.      

Con có thấy điều này có nghĩa là gì chăng? Người Mỹ gốc châu Phi mang một tư duy bị ức hiếp đang ngăn cản rất nhiều người khởi xướng bất cứ điều gì. Họ nghĩ, bởi vì người da trắng đã áp bức họ cho nên chính người da trắng mới phải đi bước đầu để chấm dứt áp bức.

Nhưng nếu con thực sự hiểu được thông điệp của Ki-tô, con sẽ thấy tại sao cách suy nghĩ đó không đúng. Chính những người bị ức hiếp mới có cơ hội lớn nhất, cao nhất, để trở thành những vị thày của con Đường Ki-tô, bằng cách chứng tỏ là họ sẽ sử dụng giáo lý đích thực của Ki-tô để vươn lên một vị thế cao hơn trong đời sống, cao hơn vị thế mà lớp thượng lưu quyền lực lẫn tâm thức tập thể trong chính nhóm họ đã dành cho họ bấy lâu nay.    

Không hề có nhu cầu có một nhà thờ của người da đen tại Hoa kỳ, bởi vì mọi tín đồ đích thực của đạo Ki-tô sẽ thờ phượng chung với nhau bất kể sự khác biệt bề ngoài, chẳng hạn như màu da hay bất cứ gì khác. Người Mỹ gốc châu Phi không thể ngồi đó mà chờ cho người da trắng khởi xướng thay đổi này, cho dù quả thực một số vị mục sư da đen có tầm nhìn xa đã bắt đầu làm công việc này rồi. Chuyện đó không phải là trách nhiệm của người da trắng mà là cơ hội nghiệp tạo của người da đen, để người da đen khởi xướng thay đổi này trong xã hội nước Mỹ cũng như trong tâm thức đại chúng.

Con có thấy chăng thông điệp sâu kín của Ki-tô? Không phải giới thượng lưu sẽ tạo ra thay đổi trong xã hội, mà là những người xuất thân từ một vị thế khiêm tốn trong xã hội, miễn là họ sẵn lòng thăng vượt vị thế đó bằng cách hòa nhập với tâm Ki-tô phổ quát.

Đã đến lúc người Mỹ gốc châu Phi vươn lên khỏi tư duy làm người Mỹ gốc châu Phi, để thực sự thăng lên và khoác vào bản sắc làm người Mỹ Phổ quát. Bởi vì chỉ những ai xem mình cũng như xem mọi người khác là những đứa con của Thượng đế thì mới có thể tự gọi mình là tín đồ chân chính của Ki-tô – là những người Mỹ chân chính.

Không phải những gì con “làm” trên địa cầu này sẽ đưa con lên thiên đàng, mà là những gì con “buông bỏ” trên địa cầu này. Con vươn mình lên cao hơn mọi hình tượng chạm do con người tạo dựng. Chính điều đó sẽ đưa con lên vương quốc thiên đàng, là nơi tất cả đều là một trong Ki-tô, bởi vì Ki-tô là tất cả và ở trong tất cả. 

Hiện tượng troll trên internet

Hỏi: Tại sao trong các mục bình luận, chẳng hạn như trên các diễn đàn internet hay trang mạng hay Facebook, nhiều người lại cảm thấy mình bị đe dọa về mặt lý trí khi nói chuyện với người khác? Con cũng hiểu đây là phản ứng của tự ngã, là những cái ngã tách biệt đang phản ứng với nhau. Tuy nhiên con xìn thày – bất kỳ vị chân sư nào cũng được – nói rộng hơn về đề tài này. Đâu là cơ chế tâm lý ở đây? Điều gì xảy ra ở mức thể lý trí khi người ta nói chuyện với nhau? Và làm thế nào họ gửi năng lượng cho nhau khi họ nói chuyện với nhau qua thể trí?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Mạng internet đã tạo ra cơ hội mới cho con người. Con thấy là trước khi có internet, phần lớn mọi người chỉ giao tiếp giới hạn với những ai mình gặp tận mặt hay tiếp xúc trong vật lý. Bây giờ cơ hội mở ra để con có thể ngồi trước máy tính, vào xem một trang web nào đó và nhìn người khác phát biểu quan điểm của họ. Và chính con cũng có thể gõ một vài câu để bày tỏ quan điểm của con. Thậm chí con còn có thể làm vậy một cách dường như nặc danh vì con không trực diện với những người kia.

Nếu con muốn nhìn sự thể này một cách tích cực, con có thể nói là nó cho người ta cơ hội tương tác với nhiều người hơn so với việc gặp tận mặt, có nghĩa là họ thật sự có cơ hội nhận được nhiều phản hồi hơn về ý kiến của mình, về cách cư xử của mình, về cách mình diễn đạt hay quan hệ với người khác. Chúng ta có thể nói, cơ hội tích cực ở đây là họ sẽ kinh qua một giai đoạn bày tỏ bất cứ gì họ muốn bày tỏ rồi nhận được phản hồi. Tất cả đều dựa trên tự ngã và được một số ngã tách biệt phát động, đun đẩy.

Nhưng có thể rốt cuộc sẽ tới một điểm – và đối với nhiều người, điểm này đã tới rồi – khi con chán ứ chuyện này. Giống như con đã bày tỏ tất cả những gì con muốn bày tỏ, con đã phơi ra hết cả rồi, và bây giờ con nhìn vào chuyện đó và nói: “Nhưng thật sự đây không phải là con người mà tôi là. Điều này không thực sự phản ánh con người mà tôi là. Cho nên tôi sẽ đi tìm một cách tương tác nào khác, trưởng thành hơn, với người chung quanh.”  

Con cũng có thể nhìn sự thể này một cách không mấy tích cực và thấy rằng tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng, cho nên lẽ tự nhiên, ai nấy sẽ phóng năng lượng của mình để tạo dựng và nuôi béo những con quái vật trong tâm thức tập thể. Và đây là trường hợp một số diễn đàn internet nơi hầu hết các tham dự viên đều bị những con quái vật tập thể đó chiếm lấy tâm trí. Đơn giản mà nói, quái vật chỉ muốn mọi người xung đột, cãi vã với nhau hầu chúng có thể đánh cắp năng lượng của họ mà thôi.  

Con có thể nói, tiềm năng tích cực của sự thể này là, bằng cách trao cho mọi người quyền tự do phát biểu bất cứ gì họ muốn, thì cuối cùng họ sẽ kinh qua và vượt lên trên nguyên tiến trình đó. Tuy nhiên, một khi họ đã bị các tà thể và quỷ dữ đó đánh bẫy, thì nó trở thành giống như một cơn nghiện. Nó biến thành một vòng xoáy bất tận mà họ không tài nào thoát ra được. Họ cảm thấy bắt buộc phải lên diễn đàn, phải thoả mãn cơn ghiền mỗi ngày hay thậm chí nhiều lần mỗi ngày ngay cả khi họ đang lái xe. Họ phải gửi bài đăng lên cho bằng được cho dù làm như vậy sẽ nguy hiểm cho tính mạng họ. Cho nên đó là phần không mấy tích cực trong vấn đề này, nhưng một lần nữa, con làm gì được đây?

Tiềm năng tích cực của internet là mọi người có thể kết nối với khắp mọi nơi trên thế giới từ nhiều vùng khác nhau và nhiều nền văn hóa khác nhau. Và điều này mang tiềm năng giảm thiểu những khác biệt giữa con người. Ai nấy thấy được là con người cho dù ở nơi đâu cũng có những điểm tương đồng, có cùng một tâm lý cơ bản, cùng cách nhìn cơ bản về cuộc sống. Và điều này có thể tạo ra một tinh thần kết hợp rộng lớn hơn.

Nhưng tất nhiên, các thế lực bóng tối sẽ làm tất cả những gì chúng có thể để chống lại tiềm năng đó, và đó là tại sao chúng đã xâm chiếm tâm trí của một số người khiến họ bắt đầu làm chuyện gọi là troll [troll là hành vi gây rối, làm xáo trộn, phá vỡ các quy tắc hành xử trong các cộng đồng mạng]. Rất nhiều người trong số đó bị ghiền chuyện này và tâm trí họ hoàn toàn bị nó chiếm lĩnh. Và câu hỏi đặt ra là đến bao giờ họ mới cảm thấy đủ cho bằng được? Đến bao giờ những con quỷ đó mới cảm thấy chúng đã đánh cắp đủ năng lượng của người khác? Có thể là cho tới khi những người troll đó bị cạn kiệt năng lượng đến độ – giống như người ta thường nói về các loại ghiền khác – họ chạm tới đáy tận cùng và thấy rằng họ đơn giản không thể tiếp tục như vậy được nữa.

Là một người tâm linh tỉnh thức hơn, điều con có thể làm được là con thử cảm nhận năng lượng đó bằng trực giác của con. Và nếu con cảm thấy đó là năng lượng rất thấp – khi tất cả chỉ là xung đột, tất cả chỉ là luân xa rối dương (solar plexus) và mọi người chỉ lo đổ lỗi cho nhau với những phát biểu vô cùng tiêu cực về nhau – thì con chỉ cần lánh xa khỏi diễn đàn đó, rút lui khỏi đó, và không bỏ chút năng lượng nào của con vào đó. Con sẽ có thể tìm kiếm những loại diễn đàn khác, vì hiển nhiên ai nấy đều có nhu cầu tạo ra những diễn đàn không hoạt động ở tầng cấp tệ hại đó.

Con sẽ thấy là ở một mức độ nào đó, những chuyện như vậy đang hiện diện trên internet đã bị hiện tượng troll kéo thấp xuống tới mức không một người bình thường nào sẽ muốn tham gia vào đó. Nhưng điều này có nghĩa là có sự mong mỏi tạo ra một hình thức internet khác hơn, nơi ai nấy con thể giao tiếp với nhau ở mức cao hơn. Và một trong những cách để thực hiện điều này là tạo ra một mạng internet hay một diễn đàn nơi người tham dự không còn ẩn danh, nơi mọi người phải đăng ký và chứng thực danh tính của mình – con đăng ký với hình chụp của con và do đó con nhận lãnh trách nhiệm về những gì con phát biểu, y hệt như khi con nói chuyện tận mặt với một ai đó.

Đang có một nhu cầu tạo ra một hệ thống như vậy, và ngay bây giờ đã có một số sáng kiến đang đi về hướng đó, nhưng với thời gian, điều này sẽ ngày càng trở thành cần thiết hơn khi mọi người thấy được nhu cầu tìm ra một con đường văn minh và nhân bản hơn để tương tác trên internet.

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm

Hỏi: Câu trả lời hôm 16/11/2010 của thày Giê-su, hay hình như của ông Kim Michaels, có liệt ra 19 khái niệm. Thày mô tả các bầu cõi và cái Ta Biết như là những khái niệm. Điều này khiến con bị bối rối.

Những lời dạy trước đây nhắm vào việc thay đổi khung tham chiếu về mặt trí thức, và quan trọng hơn cả, về mặt nội tâm tâm linh. Ngôn từ được sử dụng càng ngày càng ít đi để làm điểm đo, hầu tập trung vào cái TA LÀ bên trong.

Như Shakespeare có nói “Cuộc sống là một sân khấu.” Cuộc sống trong thế giới vật chất chẳng phải là một khái niệm về các bầu cõi cá nhân lẫn tâm linh hay sao, trong khi cái Ta Biết là sự thật và cội nguồn của Duy nhất? Phải chăng thày đang nói rằng bầu cõi của Đấng Sáng tạo của chúng ta là một khái niệm về tạo vật của ngài?

Cho đến nay, con đã học được từ thày rằng cái ta đích thực của con nằm trong cái Ta Biết. Nếu cái Ta Biết là một khái niệm nằm trong bầu cõi, thì ái chà! Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2010.

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm. Con liên hệ với một vật nào đó bằng cách trước tiên cho phép nó đi vào tâm vỏ ngoài, hay tâm ý thức của con, như một khái niệm.

Khái niệm là một ý tưởng mà con giữ trong tâm. Ý tưởng đó có liên hệ tới một vật mà con chưa nhìn thấy, nhưng ý tưởng và vật không là cùng một thứ.

Chẳng hạn, nếu con cầm một tờ quảng cáo du lịch về một địa điểm nghỉ mát ở nước ngoài, cái mà con nhận được từ tờ quảng cáo là một khái niệm về địa điểm du lịch. Khái niệm có thể khởi lên trong con ý muốn đi du lịch ở đó, nhưng chỉ khi nào con bước chân đến đó thì khái niệm mới được thay thế bằng trải nghiệm trực tiếp.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên trải nghiệm tất cả mọi thứ mà chúng tôi đã nói với con về cõi thăng thiên, nhưng chúng tôi không thể nào cho con trải nghiệm đó. Cách duy nhất để giao tiếp với con – trong trạng thái tâm thức hiện thời của con – là cho con một số khái niệm, rồi hy vọng những khái niệm này sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm trực tiếp.

Con có khả năng nắm được trải nghiệm trực tiếp này khi con ngộ ra là cốt lõi của bản thể con là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là con có khả năng tự phóng chiếu mình vào cõi tâm linh – y như con đã tự phóng chiếu vào thân xác cùng kinh nghiệm sống hiện thời của con.

Chúng tôi đã giảng dạy về Hiện diện TA LÀ từ thập niên 1930, nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trao cho mọi người đều là khái niệm. Một số học trò đã dùng các khái niệm đó để tạo ra một “lối mòn” trong tâm họ, và sau đó cái Ta Biết đã đi theo lối mòn đó cho tới khi nó trải nghiệm được sự hợp nhất với Hiện diện.

Một số học trò khác đã không sẵn lòng làm chuyện đó, cho nên đối với họ, Hiện diện TA LÀ tiếp tục là một khái niệm. Nhóm thứ nhất đã liên hệ với Hiện diện TA LÀ của họ trực tiếp qua trải nghiệm. Nhóm thứ nhì không liên hệ với Hiện diện của họ mà chỉ liên hệ với một hình tư tưởng – một khái niệm – về Hiện diện mà họ đã tạo ra trong tâm.

Khi chúng tôi trao cho con người trên địa cầu bất kỳ khái niệm nào về cõi tâm linh, luôn luôn có rủi ro là họ sẽ dùng khái niệm đó để ngăn chặn trải nghiệm. Tuy nhiên, đó chỉ là bản chất của công việc mà chúng tôi phải đương đầu.

Tất cả các con đều là những sinh thể tâm linh không bị mắc kẹt hay bị quy định trong bất kỳ hình tướng nào. Thế nhưng trong cái ngay bây giờ và ngay đây, con chính “là” cái mà con nghĩ con là. Đó là vì con đã quên mất con là sự nhận biết thuần khiết, và thay vào đó, con đã tạo ra một khái niệm về con người mà con là.

Con bị kẹt trong “thế gian” này nơi con liên hệ với hầu hết mọi thứ như là khái niệm. Cho nên cách duy nhất mà chúng tôi có thể chạm được con là qua nhiều khái niệm hơn nữa – với niềm hy vọng rằng một vài khái niệm trong số đó sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm nhiều hơn khái niệm.

Nếu con chưa trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết thì cái Ta Biết sẽ chỉ đơn giản là thêm một khái niệm. Nhưng khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con thấy rõ cái Ta Biết chỉ là một cái tên. Theo một nghĩa nào đó, thật là vô nghĩa gán cho nhận biết thuần khiết một cái tên, vì nhận biết thuần khiết không thể được mô tả chính xác qua bất kỳ cái tên hay khái niệm nào. Nó chỉ có thể được trải nghiệm. Nhưng chừng nào con còn bị kẹt trong thế giới của khái niệm trí thức, thì…!

Về câu hỏi chót của con: “Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.”

Con là nhiều hơn một sinh thể khái niệm, theo nghĩa là con vượt khỏi hình tướng. Tuy nhiên, con chính là người đã đè chồng một số khái niệm về con người của con lên trên sự nhận biết thuần khiết mà Hiện diện TA LÀ của con đã gửi vào vũ trụ vật chất như phần nối dài của nó. Cho nên con cũng là người duy nhất có khả năng gỡ con ra khỏi cái hình ảnh đó về bản thân, bằng cách con tái trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Chừng nào con chưa tái nối kết với nhận biết thuần khiết thì trên thực tế, con không là gì hơn một sinh thể khái niệm.

Nếu con liên hệ với ý niệm bản sắc của con ở mức khái niệm, con sẽ chỉ đơn giản tạo ra thêm một khái niệm. Đó là tại sao chúng tôi đã trao cho con “khái niệm” rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết và do đó nó không thể bị giam hãm trong bất kỳ khái niệm nào.

Con thấy đó, sau khi chúng tôi bắt đầu ban truyền giáo lý về tự ngã, điều rõ ràng là nhiều học trò đã tìm cách khắc phục tự ngã của mình ở mức khái niệm. Nhưng như con thấy, tự ngã cũng chỉ là một khái niệm. Cho nên khi tìm cách loại bỏ khái niệm tự ngã bằng cách tạo ra một khái niệm khác – tâm linh hơn, hay ho hơn – con sẽ chỉ khiến cho tự ngã biến thái sang một hình dạng khác.

Đó là tại sao nhiều người đã đi trên đường tu tâm linh nhiều chục năm trời mà không đến gần hơn với trạng thái vô ngã. Đơn giản là họ đã tạo ra một tự ngã mới rất tài tình hiện ra như người tốt lành hay tâm linh. Những người như vậy cho rằng tự ngã này tâm linh đến độ nó chắc chắn sẽ được phép lên thiên đàng – nhưng họ lầm lẫn hoàn toàn. Ta đã có mô tả sự thể này trong câu chuyện ngụ ngôn về tiệc cưới.

Cho nên cách duy nhất để vượt qua tự ngã là tìm được một khung tham chiếu vượt khỏi thế giới khái niệm nơi tự ngã hiện hữu. Và cách duy nhất để vượt xa hơn khái niệm là tận dụng khả năng trở về với nhận biết thuần khiết của con, là nơi mà con ngộ ra là mọi khái niệm tìm thấy trên địa cầu – tất cả mọi khái niệm cấu tạo nên tự ngã của con – chỉ là không thực.

Con cũng trải nghiệm cái TA của con – tức nhận biết thuần khiết – là thực. Nó là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Và đó là điều duy nhất sẽ giúp con tháo gỡ tình trạng đồng hóa của con với tự ngã.

Thật không có cách nào khác. Và mặc dù đã mô tả nó bằng nhiều cách khác nhau, các nhà thần bí thuộc mọi thời đại đã trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Họ đã sử dụng nhận biết thuần khiết để đánh thức mình khỏi giấc mộng cho rằng một sinh thể tâm linh có thể bị mắc kẹt hay bị quy định bởi hình tướng.

Nếu con đối xử với cái Ta Biết như một khái niệm khác, nó sẽ chỉ giam cầm con nhiều hơn nữa. Nếu con cho phép mình trải nhiệm nhận biết thuần khiết, đó sẽ có thể là sự thức tỉnh tối hậu.

Như luôn luôn, chúng tôi chỉ có thể cống hiến một dụng cụ rồi để yên cho mọi người tự do lựa chọn cách sử dụng như thế nào. Đó là vì sao chúng tôi không ngừng nỗ lực đưa ra những dụng cụ mới để nói lên cùng một nguyên lý dưới một hình thức khác hơn, với niềm hy vọng là mỗi cách biểu đạt mới như vậy sẽ đánh thức nhiều người hơn.

Adolph Hitler và cái chết thứ hai

Hỏi: Cuộc đời của Adolph Hitler luôn khiến con chú ý, và trên trang mạng của thày, thày có nói là ông ta đã bị đưa vào cái chết thứ hai. Con xin hỏi, điều đó xảy ra như thế nào? Nếu nhìn lại cuộc đời của Hitler, có thể thấy là ở một thời điểm nào đó, ông ta đã bị mù quáng bởi tư duy của mình đến độ có vẻ không ai có thể xoay chuyển được nữa. Chẳng hạn, cuối năm 1942 và đầu năm 1943, ông ta quyết định “giải pháp cuối cùng” để diệt chủng người Do thái. Vậy ở điểm đó đã có thể đoán trước là ông ta sẽ giết hại hàng triệu người Do thái. Nếu qua quyết định này ông đã hội đủ tư cách để nhận phán xét cuối cùng, tại sao lại không ban ngay cái chết thứ hai và rút ông ra khỏi hiện thân hầu cứu lấy mạng sống của bao nhiêu người?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 25/11/2010.

Nếu con xem kỹ hơn lời dạy của ta về cái chết thứ hai, con sẽ hiểu đầy đủ hơn về tiến trình này. Thực tế đơn giản là sự phán xét cuối cùng không là một tiến trình có thể diễn ra khi dòng sống còn đang đầu thai. Tiến trình chỉ có thể xảy ra sau khi dòng sống đã rời hiện thân và có thể được đem ra – một cách toàn diện – trước Toà án Lửa thiêng. Nếu nó còn đang hiện thân thì một phần của nó phải ở lại địa cầu để giữ cho cơ thể tồn tại.  

Trong phán xét cuối cùng, không có một thế lực bên ngoài nào phán xét dòng sống cả. Các chân sư thăng thiên điều hành tiến trình này và phác thảo những nét chính của con đường đã dẫn dòng sống tới điểm này, cũng như con đường mà nó phải đi theo để trở lại với sự thuần khiết ban đầu. Sau đó tùy dòng sông sẽ chọn đường nào, hoặc nó bước vào con đường cứu chuộc, hoặc nó kết thúc tất cả. Cho nên không bao giờ các chân sư sẽ chọn lựa dùm dòng sống để nhận cái chết thứ hai, bởi vì đó sẽ là một sự vi phạm Luật Tự quyết.    

Làm sao một dòng sống có thể đối diện với phán xét cuối cùng và có sự chọn lựa tối quan trọng này nếu một phần của nó còn gắn liền với địa cầu? Sự chọn lựa chỉ có thể có được khi nào nó thấy rõ là nó không còn nơi nào khác để mà đi, hoặc là nó phải thay đổi, hoặc là nó sẽ không còn hiện hữu một cách toàn diện. Cho nên con thấy Hitler – hay Stalin hay bất cứ ai khác đã phạm những tội ác tày trời – không thể được đưa ra phán xét cuối cùng nếu còn đang đầu thai. Chưa bao giờ từng có, và sẽ không bao giờ có, một người nào nhận phán xét cuối cùng khi còn đầu thai, bởi vì luôn luôn người đó có khả năng quay đầu. 

Con cũng cần phải xem xét sự kiện là khi quyết định cho phép dòng sống của Hitler đầu thai, quyết định này không chỉ dựa trên một lượng định về dòng sống đó mà thôi. Hitler đã được cho phép đầu thai chỉ vì tình trạng tâm thức của dân tộc Đức, của dân tộc Do thái và nhiều dân tộc khác tại Âu châu vào thời đó là như vậy. Cho nên việc Hitler được phép đầu thai là một cơ hội để mọi bên có dịp thấy rõ mình sẽ phản ứng ra sao.  

Khi một dòng sống được phép đầu thai, các chân sư xem đó là một cơ hội cho rất nhiều người. Do đó chúng tôi sẽ giữ nguyên cơ hội đó cho tới khi nào còn hy vọng có người học hỏi được từ đó. Nói cách khác, có thể đã có một thời điểm khi Hitler không thể quay ngược trở lại, nhưng cơ hội cho người khác thì vẫn chưa kiệt hẳn.

Những chọn lựa của người khác đã có thể rút ngắn mạng sống của Hitler. Trong khi đó, việc đem dòng sống ông ta ra khỏi hiện thân không phải là một chọn lựa mà các chân sư có quyền lấy. Quyết định phải nằm với những người đang đầu thai lúc đó, phần nào bằng cách kêu gọi sự phán xét – và phải kêu gọi trong tinh thần không phán xét – hoặc bằng cách họ học hỏi từ người đó và thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của mình. Xem như sự việc đã xảy ra thì cách phản ứng của đa số mọi người đã kéo dài mạng sống của Hitler. Cho nên chính vì nhiều người tại Đức lẫn tại các nơi khác không sẵn lòng thay đổi mà Hitler đã có thể tiến hành “giải pháp cuối cùng”.

Ta cũng xin nhấn mạnh là mặc dù có vẻ Hitler nằm ngoải mọi khả năng thức tỉnh, nhưng Luật Tự quyết ra lệnh các chân sư không bao giờ được tiên đoán trước dòng sống sẽ chọn lựa ra sao. Vì vậy, cho đến khi nó bị tiêu tan trong Hồ Lửa thiêng, luôn luôn có khả năng là nó có thể quay đầu, và đó là điều chúng tôi chú mục vào. Chúng tôi không bao giờ xem một dòng sống nào là không thể cứu chuộc. Và chúng tôi không xử án một ai cả – chúng tôi chỉ để yên cho dòng sống tự xử án lấy mình qua chọn lựa của chính nó. Chỉ có những người trong hiện thân mới nghĩ rằng chúng tôi xử án giống như họ xử án một người, hay nghĩ rằng một người không có khả năng cứu chuộc.    

Phán quyết cuối cùng là một tiến trình không liên quan đến bất cứ ai đang hiện thân, và nó hoàn toàn không tuân theo những  điều tin tưởng của con người. Tiến trình hoàn toàn do các chân sư điều phối, là những bậc đã vượt lên khỏi tâm thức nhị nguyên – vượt lên rất xa. Nói cách khác, ngay cả một chân sư mới thăng thiên cũng không thể tham dự vào tiến trình, mà chỉ có những bậc cao cấp trong đoàn chưởng giáo tâm linh mà thôi. Con có thấy tại sao không? Một dòng sống chỉ đối diện phán xét cuối cùng khi nó đã tạo ra một cái hộp tư duy kín mít đến độ không còn cách nào khác để cho nó thấy rằng thực tại của Thượng đế không phù hợp với những gì nó tin tưởng.

Cho nên phán quyết cuối cùng là tiến trình trong đó một nhóm chân sư nỗ lực lần cuối để khiến dòng sống thức tỉnh mà ra khỏi những tin tưởng nhi nguyên của nó. Nói cách khác, chỉ những bậc vô cùng tinh thông trong khả năng nhìn thấu các ảo tưởng nhị nguyên mới có thể giúp dòng sống vượt qua thử thách này. Và ngay cả các thày cũng có thể phải bó tay cho đến khi dòng sống đối diện với Hồ Lửa thiêng và chứng nghiệm rằng các lập luận và biện bạch của nó cũng không thể ảnh hưởng được tiến trình. 

Thật là dễ hiểu khi những người đang đầu thai nghĩ rằng những kẻ đã gây ra tội ác tày trời xứng đáng với cái chết thứ hai. Thế nhưng một khi con đang hiện thân thì con không thể có cái nhìn toàn diện cần thiết để lượng định tình cảnh một cách chính xác. Có quá nhiều yếu tố cần phải xem xét – những yếu tố mà không ai trong kiếp đầu thai có thể biết được – trước khi một dòng sống được đưa ra phán xét cuối cùng. 

Nghĩa là có những dòng sống mà hầu hết ai ai trên địa cầu cũng sẽ vui mừng nhìn thấy họ bị chết lần thứ hai, nhưng kỳ thực họ vẫn chưa sẵn sàng. Ngược lại, có những dòng sống coi vẻ bình thường vô hại, vậy mà đã tận dụng mọi cơ hội cứu chuộc và tỏ ra cương quyết không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm thức của mình. Đó là tại sao ta bảo, đừng phán đoán theo vẻ ngoài. Những vẻ ngoài trong quan điểm của những người đầu thai không phải là cách nhìn của Thượng đế hay của các chân sư.   

Và đó là lý do những người đang hiện thân sẽ khôn ngoan biết mấy nếu họ không đánh giá một ai đó có xứng đáng bị phán xét cuối cùng hay không. Làm như vậy sẽ dễ dàng dẫn con đến ảo giác rằng con người hiểu rõ hơn Thượng đế, và con sẽ không dễ gì thoát ra khỏi niềm kiêu hãnh tâm linh này. Con hãy tập trung vào việc tháo gỡ cái xà trong mắt mình, và để yên cho các chân sư thăng thiên đã được giao phó trách nhiệm này định xem những ai đã sẵn sàng bước ra phán xét cuối cùng.

Như ta đã có bài giảng về điều này, Thượng đế thật sự đã thiết kế một hệ thống toàn hảo để giúp các dòng sống. Nếu cho rằng ngài cần sự giúp đỡ của bất cứ ai trên địa cầu, thì đó là một ảo tưởng của các sa nhân nghĩ rằng chúng hiểu cách điều hành vũ trụ giỏi hơn cả Thượng đế.

Thay đổi ngoại hình có là tội lỗi hay không, như các thủ thuật thẩm mỹ hay nhuộm tóc?

Hỏi: Cắt tóc hay nhuộm tóc có phải là tội lỗi không? Hay nhổ lông trên cơ thể (như người Sikh dạy như vậy)? Còn các thủ thuật thẩm mỹ thì sao? Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả. Có thật vậy không? Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới, vậy liệu những người tóc đen có tà ác không? Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ? 

Khi con 25 tuổi, con nhuộm tóc màu vàng tự nhiên thành màu đen, bà nội con hoảng loạn luôn, bà nói con nhuộm tóc đen là có tội vì Thượng đế đã sinh con ra là cô gái tóc vàng đẹp đẽ. Hồi đó con nghĩ bà con điên rồ và có nhiều thành kiến, nhưng bây giờ thì con không chắc nữa. Có vẻ như người ta ưa thích tóc vàng hơn rất nhiều, không hiểu có lý do tâm linh nào hay không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm? Liệu con có thể nhuộm tóc nếu tóc con màu bạc, như tóc con đang bạc đây? Con sắp sửa nhuộm tóc lại, nhưng con không muốn làm tha hóa năng lượng nhiều hơn những gì con đã tha hóa.

Liệu hút mỡ có là một tội lỗi nếu cơ thể con hoàn toàn thiếu cân đối, dù con béo hay gầy (con gầy)? Hoặc nếu con sửa mũi vì mũi hếch hay quá xấu xí? Hoặc ghép vú nếu vú quá nhỏ hoặc đã bị cắt vú? Con không nói tới những thứ kiểu Heidi Montag viển vông, nhưng nếu thực sự cần thiết thì có được không? Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 17/11/2010.

Để hiểu đầy đủ câu trả lời của ta, ta khuyên con nên học bài giảng của ta về “Con đường của Ki-tô so với con đường phản Ki-tô”. Trong bài giảng đó, ta có nói rõ là toàn bộ ý tưởng tội lỗi là do các sinh thể sa ngã tạo ra hầu kiểm soát nhân loại.

Thế nào là dụng ý tâm lý của khái niệm tội lỗi và phán xét? Đó là để khiến con chú tâm vào một cái chuẩn vỏ ngoài thay vì con chú tâm vào việc thiết lập hay mở rộng sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Những người thày giả muốn con tưởng là con cần một khung chuẩn vỏ ngoài do họ định ra trong thế gian này. Nhưng các vị thày chân chính thì muốn chính con đạt được khung chuẩn nội tâm để con biết được từ Hiện diện của con điều gì là điều mình nên làm tùy theo từng tình huống. Các thày giả muốn con quyết định làm hay không làm  dựa theo cái dàn tiêu chuẩn vỏ ngoài bất di bất dịch của họ. Còn các vị thày chân chính thì không có chuẩn tuyệt đối hay toàn vũ nào, mà chỉ muốn mỗi người đi theo những hướng dẫn nội tâm mà mình nhận được từ Hiện diện TA LÀ hay vị thày tâm linh của mình.

Lý do các thày giả đã thành công để khiến con người chấp nhận ý tưởng tội lỗi là vì nó cho con một công thức có vẻ quá giản tiện để lấy quyết định. Một khi con chấp nhận là giáo hội của con đã có sẵn một cái chuẩn và một giáo lý bất khả sai lầm, thì con sẽ không còn nhu cầu tham khảo Hiện diện TA LÀ của con mỗi khi con quyết định nữa. Vì vậy nếu ta đã trả lời câu hỏi của con và bảo là những việc làm đó của con không phải là tội lỗi, thì có người sẽ lý giải ngay là ta bảo con có thể làm bất cứ gì con muốn. Tuy nhiên, câu trả lời của ta sẽ tinh tế và sâu sắc hơn, dành cho những ai sẵn lòng sử dụng khả năng trực giác của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn xem một tác dụng tâm lý còn vi tế hơn nữa của ý tưởng tội lỗi. Nó khiến con trở nên vô cùng chú tâm, vô cùng quan tâm đến những gì con làm ngoài đời. Nó khiến con chú tâm vào cách hành xử của con thay vì vào trạng thái tâm thức của con. Điều ta muốn giải thích trong bài giảng là không phải hành vì của con sẽ định đoạt con lên được thiên đàng hay không, mà là tâm thức con.

Hiển nhiên, hành vi là sản phẩm của trạng thái tâm thức. Tuy nhiên con có thể cố tình kềm chế một số hành vi mà không thay đổi tâm thức. Chẳng hạn, một số người đã tập được cách kềm chế những hành vi bạo lực nhưng họ vẫn cảm thấy giận dữ đối với người khác. Và nhiều hành giả tầm đạo đã tập được cách luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ, tử tế, trong khi họ vẫn chưa giải quyết được tình cảm trong tâm tiềm thức của họ. Tất cả những cách thức đó sẽ không giúp con đạt tới tâm thức thăng thiên.

Việc nỗ lực thăng thiên bằng việc làm, hay không làm, chỉ là hệ quả của con đường cứu rỗi giả trá. Các thày giả sẽ muốn con tin rằng nếu con làm những gì họ định nghĩa là đúng, và không làm những gì họ định nghĩa là sai, thì Thượng đế sẽ bắt buộc phải nhận con vào thiên đường. Đây là ảo tưởng cho rằng nếu con có thể đánh lừa được mọi người trên địa cầu thì con cũng sẽ đánh lừa được Thượng đế. Tất nhiên, không gì xa hơn sự thật. Không gì có thể bị che giấu khỏi những vị đại diện của Thượng đế bởi vì không gì có thể bị che giấu khỏi tâm Ki-tô. Thượng đế sẽ không đem con vào vương quốc của ngài. Con phải nâng trạng thái tâm thức của con cho tới khi con đạt được chính cái trạng thái tâm thức LÀ Nước Trời.    

Con có thấy điều ta nói? Những việc làm của con sẽ không đưa con vào thiên đường, cũng như nó sẽ không ngăn con vào thiên đường. Yếu tố quyết định là trạng thái tâm thức của con, là lý do sâu xa tại sao con làm hay không làm một việc nào đó. Cho nên kết luận là những việc làm con vừa mô tả không phải là tội lỗi. Dù con có làm hay không làm cũng không quan trọng gì cả, chỉ có trạng thái tâm thức của con mới là quan trọng.

Cho nên lý tưởng nhất, con nên lấy quyết định dựa theo sự hướng dẫn nội tâm mà con nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên trong khi chờ đợi con có được hướng dẫn rõ ràng hơn, ta sẽ trao cho con một cái “chuẩn” để con lượng định cách cư xử của con. “Chuẩn” này có mấy yếu tố:

  • Con có quyền tự quyết, nhưng mọi người khác cũng vậy. Nếu con vi phạm quyền tự quyết của người khác, rõ ràng con đã bước qua một lằn ranh. Tuy nhiên, nếu con làm điều gì chỉ ảnh hưởng đến bản thân con, đó thật sự là chọn lựa của con. Cho nên con có một phạm vi rất rộng để con chọn lựa theo ý con. Tuy nhiên để tinh tấn tối đa, con cần nhìn vào những chọn lựa đó và xét xem nó thể hiện tinh trạng tâm thức nào của con ở bên dưới. Tại sao con lại cảm thấy mình phải chọn lựa như vậy, và đâu là những lý lẽ mà con sử dụng để biện minh cho chọn lựa đó?
  • Như ta trình bày trong bài giảng, nhiệm vụ quan trọng nhất của con là con cất bước trên một con đường sẽ giúp con lần hồi tháo gỡ sự đồng hóa của con với vai trò con đang đóng. Nói cách khác, nếu con tiến bước trên Đạo của Ki-tô, con sẽ chiêm nghiệm thấy con ngày càng ít quan tâm hơn – ít vướng mắc hơn – với những điều kiện của thế giới vật chất. Con sẽ không cho phép những điều kiện này đánh cắp sự chú tâm của con, kéo con ra khỏi sự tiếp cận nội tâm với Hiện diện của con. Như vậy, trọng tâm chủ yếu của con sẽ chuyển từ việc xem sự vật bên ngoài tự thân là quan trọng, sang việc xem ngoại cảnh chỉ là một phương tiện mà thôi. Nói cách khác, con hãy lượng định xem việc đó sẽ tăng hay giảm sự căng thẳng hay sự quân bình trong đời con. Khi con làm hay không làm, nó có khiến con bớt bám mắc, hay thêm bám mắc, vào thế gian? Liệu hoạt động đó có lấy đi sự an bình nội tâm của con hay không?
  • Khi con đã thiết lập liên lạc với Hiện diện, nhiệm vụ của con là trở thành cánh cửa mở để Hiện diện tự biểu hiện trong thế gian, và con làm tròn sứ vụ thiêng liêng của con. Cho nên khi con làm việc gì, đó là để con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng chứ không phải vì sợ hãi hay kiêu kỳ đã thúc đẩy con làm. Nghĩa là con không quyết định với cái óc phân tích vỏ ngoài. Con sử dụng khả năng trực giác và các quyết định của con chỉ dựa trên cái biết nội tâm bên trong, chứ không phải các lập luận của lý trí hay nặng phần tình cảm. Nếu con phải bước vào những tranh luận ngoài đời hay trong nội tâm hầu biện hộ cho hành vi của con thì con hãy đừng bước vào.
  • Một điều nữa là con hãy luôn luôn tìm sự quân bình trong đời con. Điểm này có liên hệ với những điểm trên, nhưng nó mang một khía cạnh đặc biệt. Làm thế nào con đạt được quân bình? Bằng cách con có tầm nhìn từ bên ngoài cái hộp tư duy của con, bên ngoài ngay cả hộp tư duy tập thể của nhân loại. Về mặt này, sẽ rất hữu ích nếu con suy ngẫm sự kiện Thượng đế không nhìn cuộc đời theo cách con người. Một trong những tác động tâm lý tinh vi nhất của đường tu giả trá là nó khiến cho con cảm thấy mình vô cùng quan trọng, thậm chí quan trọng cả đối với Thượng đế. Con tưởng rằng Thượng đế vô cùng quan tâm đến con cùng từng điều nhỏ nhặt mà con làm. Cho nên con cần suy ngẫm xem Thượng đế có thật quan tâm đến chuyện nhuộm tóc hay trang điểm của con hay không. Việc “cứu vớt” vũ trụ có thật tùy thuộc vào tóc con màu đen hay màu vàng?    

Khi con bắt đầu suy ngẫm các yếu tố này, con sẽ bắt đầu nhận thấy góc nhìn của mình chuyển hướng. Con sẽ cảm thấy sự căng thẳng từ từ tan biến và con bắt đầu có những quyết định thoái mái – cân bằng – hơn, thay vì cứ tưởng là những chuyện mình làm có tầm quan trọng to lớn cho vận mạng của mình hay vận mạng vũ trụ. Với những suy nghĩ đó, bây giờ ta sẽ nhận xét về các đề tài con vừa đề cập.

“Cắt hay nhuộm tóc, nhổ lông trên người, dùng trang điểm.”

Miễn là con giữ được quân bình trong chuyện này, bất cứ gì con làm cũng sẽ không cản trở phát triển tâm linh của con. Nếu con làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp và cảm thấy con cần ở đó để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng, con có thể – nếu con cho là thích hợp – hòa mình vào khung cảnh qua cách trang điểm hay quần áo màu đen. Nhưng con hãy làm vậy mà không quan tâm đến nó. Nếu con thích cắt tóc hay nhuộm tóc, con cứ việc làm mà đừng quan tâm gì cả. Nhiều phụ nữ cảm thấy mình sạch sẽ và tinh khiết hơn khi nhổ lông trên người. Một lần nữa, đó không phải là vấn đề mà con cần quan tâm. Nếu con làm được một cách thanh thản thì con cứ việc làm. Còn nếu con căng thẳng thì con hãy nhìn lại tâm lý mình và tìm xem lý do sự căng thẳng là gì.

“Các thủ thuật thẩm mỹ như hút mỡ, sửa mũi hay ghép ngực”.

Đây là một số thủ thuật y tế có rủi ro vật lý hay có thể gây ra biến chứng lâu dài. Vì vậy con cần lượng định rủi ro cẩn thận trước khi quyết định, và con nên cẩn trọng hơn bình thường. Hút mỡ là một thủ thuật mạnh bạo, và nếu con có thể ăn kiêng thì sẽ tốt hơn rất nhiều mà lại đạt được kết quả lâu bền hơn. Cách tốt nhất để giảm cân luôn là giảm lượng ăn và lượng calo nạp vào cơ thể. Đại đa số phụ nữ không nên – nếu họ thực hành những gì ta vừa nói ở trên – cảm thấy nhu cầu ghép ngực. Tuy nhiên, có những trường hợp ghép ngực có thể giảm thiểu sự căng thẳng trong đời sống hầu giúp con không còn chú ý vào cơ thể vật lý của mình nữa. Đối với các thủ thuật khác cũng vậy.  

Điểm mấu chốt là nếu con cảm thấy căng thẳng hay bó buộc phải làm điều gì đó thì con cần phải xem xét tâm lý mình. Tại sao mình lại quá quan tâm tới ngoại hình của mình đến thế? Mình sợ điều gì sẽ xảy ra nếu ngoại hình không đạt được tiêu chuẩn nào đó?

Ta thừa hiểu nhiều người đã từng bị trêu chọc, bài bác, chế giễu tàn nhẫn vì ngoại hình của mình từ khi còn nhỏ. Ta cũng hiểu là điều đó có thể gây ra tổn thương tình cảm và lòng thiếu tự tin. Tuy nhiên, con cũng có thể xem đó là một cơ hội để khám phá những vướng mắc của mình và vĩnh viễn vượt lên trên. Con hãy tự hỏi tại sao con lại chọn đầu thai trong một tình cảnh phải chịu đựng điều đó? Con đã mong muốn học hỏi điều gì từ tình cảnh này? Có thể chăng là để con chứng tỏ cho người khác là con có khả năng vươn lên trên và sống một cuộc đời yên bình, thỏa nguyện? Hay để con chứng tỏ là con vẫn có thể là một con người yêu thương, tốt đẹp, cho dù con phải chịu đựng sự đối xử không đẹp của người khác? Nếu vậy thì con hãy bắt đầu vươn lên ngay bây giờ đi!

Có thể con không thể thay đổi ngoại hình của con hay cách phản ứng của người khác, tuy nhiên con đường điều ngự tâm linh của con sẽ khởi đầu khi con nhận ra rằng không một điều kiện nào trong thế giới vật chất có thể có quyền năng trên Tánh linh của con. Do đó, không một điều kiện nào có thể ngăn cản con tự thay đổi để con không còn bị các điều kiện vật chất đó quấy rầy con nữa.

Bây giờ ta sẽ trả lời một số những câu hỏi khác của con.

Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả.”

Mọi điều liên quan đến ngoại hình của con đều là kết quả của một trạng thái tâm thức nào đó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, đó không phải là tâm thức của riêng con mà tâm thức tập thể của nhóm người nơi con đầu thai. Trong một số trường hợp, con đầu thai trong một nhóm đặc thù là vì con chia sẻ cùng trạng thái tâm thức với nhóm đó. Tuy nhiên cũng có những trường hợp khác khi một người tình nguyện khoác lấy một tâm thức đặc thù để chứng tỏ cho các thành viên của nhóm là họ cũng có khả năng vượt lên trên tâm thức đó.  

Sự dày đặc cũng như xu hướng bệnh tật của cơ thể vật lý con người là kết quả của tâm thức nhân loại đã bị hạ xuống thấp hơn hẳn mức tâm thức của địa cầu vào thời sinh tạo. Sự hiện diện của tất cả những người tâm linh là minh chứng hùng hôn là con người có khả năng nâng cao tâm thức mình vượt lên trên mẫu số chung thấp nhất. Vì vậy, con hãy đừng cho phép mình nghĩ rằng một số đường nét ngoại hình là chỉ dấu cho thấy con đã làm điều gì sai quấy trong quá khứ. Thay vào đó, con hãy xem xét tâm thức mình và thăng vượt mức hiện tại của mình.

“Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới”

Màu đen không xấu ác. Sau khi loài người sa ngã, màu đen đã bị gắn liền với cái mà ta gọi trong bài giảng của ta là “tà ác”, hay các sinh thể sa ngã. Tự thân nó, màu đen không có gì tà ác. Khi Đấng Sáng tạo ở ban đầu tạo ra khoảng trống thì trong đó không có ánh sáng, và vì vậy nó không có màu – gọi là tối đen. Khi con nhìn lên trời vào một đêm đầy sao, khoảng không trung trống trơn đó màu đen, nhưng đâu có nghĩa không trung tà ác.

Tuy nhiên, đúng là nếu con bao quanh mình với toàn những vật màu đen, con sẽ khiến tâm thức con đồng điệu dễ dàng hơn với các tà lực nơi cõi trung giới. Ngay cả các tâm lý gia cũng đã chỉ ra rằng những người bao quanh với màu đen có rủi ro mắc bệnh trầm cảm cao hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con không bao giờ được mặc quần áo đen, chỉ có điều ta không khuyên con mặc độc là màu đen. Nhưng khi con nâng cao tâm thức và thể hiện tính không dính mắc, con có thể mặc đồ đen mà không mở cửa con ra cho cõi trung giới. Một lần nữa, không có luật lệ vỏ ngoài nào có thể áp dụng trong mọi trường hợp được.   

“Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ?”

Con đang cố diễn giải quá đáng. Sở thích cá nhân của con thường là sản phẩm của những đặc điểm di truyền và ảnh hưởng văn hóa. Có rất nhiều nền văn hoá mà màu đen không bị xem là tà ác, thậm chí có cả những nền văn hóa nơi người ta mặc đồ trắng khi để tang và màu đen khi ăn mừng. Rất có thể nó không liên quan gì tới tiền kiếp của con, hay nó có thể bắt nguồn từ một số ảnh hưởng văn hóa trong những tiền kiếp đó. Hiện diện TA LÀ của con hoàn toàn không có sở thích gì đối với màu này hay màu kia. Thật là không quan trọng con ưa thích màu nào, miễn là con không bị dính mắc với màu đó.

“… liệu những người tóc đen có tà ác không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm?

Con người không chỉ là cơ thể vật lý, mà là linh hồn hay dòng sống. Chắc chắn là các dòng sống đầu thai từng nhóm, nhưng thật không đúng khi bảo rằng tất cả những ai mang da đen hay tóc đen đều tà ác, hoặc có tiến hoá tâm linh thấp kém. Trong mỗi nhóm đều có những dòng sống với tâm thức cao lẫn thấp, kể cả những nhóm tóc vàng da trắng. Không phải mọi người tóc vàng đều tốt đẹp, và không phải mọi người tóc vàng đều ngu dốt.

Đúng là trong cõi ether (cõi bản sắc) và cõi tâm linh, các màu sắc đều trong suốt hơn và do đó có màu nhạt hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả sự khác biệt về độ dày đặc của “chất liệu” trên các cõi đó khiến cho ánh sáng có thể rọi xuyên qua mọi hình thể. Trong khi đó nơi cõi vật lý, một vật màu xanh có thể mờ đục y như một vật màu đen. Như ta có trình bày trong bài giảng, vũ trụ vật chất được tạo ra với một mức độ dày đặc nhất định, và điều này không có gì là tà ác.

Điều ta muốn nói là màu sắc chỉ đơn giản là một đặc tính vật lý, và tự thân nó, màu sắc không tốt cũng không xấu. Chỉ có tâm thức sa ngã mới đem bực thang giá trị ra để xét đoán màu sắc và từ đó mới dán nhãn màu này là ác, màu kia là thiện. Adolph Hitler rõ ràng đã đẩy vấn đề này tới sự cùng cực và chúng ta đều biết rõ hậu quả do cái nhìn mất quân bình này của ông ta. Vì vậy, ta mạnh mẽ khuyên nhủ các hành giả tâm linh hãy vượt lên trên mọi phán xét giá trị về màu da hay màu tóc. Hơn thế nữa, ta khuyến cáo con hãy vượt lên trên mọi xu hướng đánh giá cả người khác lẫn chính con. Đây chính là điều ta đã cố giảng dạy 2000 năm trước đây qua câu: “Không phải cái gì đi vào cửa miệng khiến cho người ta dơ dáy, mà cái đi ra từ cửa miệng mới khiến người ta dơ dáy” (Matthew 15:11). Trạng thái tâm thức quan trọng hơn những việc làm của con.

“Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?”  

Đây là một câu hỏi thú vị. Trong Thời đại Hoàng kim, càng ngày sẽ càng có nhiều người đạt được nhận biết rằng tâm có quyền năng trên vật. Điều này sẽ tạo khả năng cho con người thay đổi ngoại hình của mình qua quyền năng của tâm mà thôi – ít nhất là trong một số giới hạn nào đó.

Sự chuyển đổi tâm thức đem lại Thời đại Hoàng kim chính là khi con người nhận ra là mình không bắt buộc phải sống với những gì mình đang có, kể cả những gì mà con đang thấy trên toàn thể hành tinh. Vì vậy Thời Hoàng kim sẽ chỉ thị hiện nếu có đủ túc số những con người sống với tâm thức: “Chúng tôi không bắt buộc phải sống trong tình trạng hiện tại, và chúng tôi có quyền hạn lẫn quyền năng để thay đổi.”

Sự chuyển đổi tâm thức này đã khởi sự, mặc dù cho đến nay chủ yếu được thực hiện qua công nghệ. Tuy vậy, nó đã kích hoạt một chuyển đổi trong tâm thức tập thể, mở ra trong tâm trí mọi người tiềm năng thực hiện những sự thay đổi mà chỉ một thế hệ trước đây còn bị coi là quá sức loài người. Một khi con người bắt đầu nhận thức được là quyền năng của tâm thức còn lớn hơn cả công nghệ thì con sẽ thấy những thay đổi nhanh chóng.

Về mặt này, ngay cả các thủ thuật thẩm mỹ cũng đã có tác dụng hữu ích, như môn thể dục thể hình chẳng hạn. Ta không bảo là học trò của chân sư phải mua tạ về tập tành, phải bắt đầu ăn thịt sống hay thoa dầu lên thân thể sạch nhẵn không lông. Ta chỉ nói rằng bất cứ một hoạt động nào thách thức niềm tin cho rằng không có gì có thể thay đổi, đều có tác dụng – mặc dù đôi khi một cách kỳ lạ – giúp cho tâm thức tập thể mở ra với những tiềm năng của Thời đại Hoàng kim.

Vì vậy, không con ạ, con không bắt buộc phải sống với những gì con có. Tuy nhiên, những gì con làm để thay đổi cái con có luôn luôn phải tuân theo những ý tưởng mà ta vừa chia sẻ với con vừa rồi. Và như mọi khi, ta khuyên con nên khởi sự bằng cách thay đổi chính tâm con trước khi cố thay đổi bất cứ gì khác. Không dính mắc là một đức tính mà con nên trau dồi.

Làm thế nào tìm được người bạn đời “thích hợp”

Hỏi: Làm thế nào tìm được người bạn đời thích hợp? Liệu người ta nên không làm gì hết và chờ cho đến khi có người thích hợp bước vào đời mình, hay người ta nên tìm kiếm một cách tích cực cho dù không biết rõ tìm ở đâu hay tìm ai?

Có câu thành ngữ này giông giống nhất với một lời khuyên là câu: “Bạn phải hôn một trăm con cóc thì mới tìm ra một con biến thành hoàng tử (hay công chúa), nhưng trong tâm con lại bị dội bởi câu đó. Đâu là cách tiếp cận đúng đắn nhất từ một góc cạnh tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 26/10/2010.

Từ một khía cạnh tâm linh, cả hai cách tiếp cận thụ động và năng động như con vừa mô tả đều không xây dựng lắm. Thay vào đó, ta sẽ khuyên một cách tiếp cận chủ động, theo nghĩa là con tập trung vào sự tăng trưởng tâm linh của chính con. Con hãy lưu ý câu ta từng nói cách đây 2000 năm nhưng vẫn còn áp dụng được cho mọi điều con mong muốn trong cuộc sống: “Trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)

Thay vì mang trong tâm ý tưởng “tìm kiếm” người bạn đời thích hợp, con hãy thay đổi cái nhìn đó thành “từ hóa” [thu hút qua từ trường] người bạn đời thích hợp. Như chúng tôi, các chân sư thăng thiên, giảng dạy suốt trang mạng này, mọi thứ con nhìn thấy trên địa cầu là sự trải bày của tâm thức loài người. Mọi sự xảy ra trong đời con là sự trải bày của trạng thái tâm thức của chính con.

Tìm kiếm Nước Trời là ẩn dụ cho sự tìm kiếm tâm thức Ki-tô. Cho nên thay vì tập trung vào những gì con muốn từ ngoại cảnh, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi qua đó con sẽ thu hút một cách không khó nhọc những gì con thực sự mong muốn.

Hầu hết mọi người đều bị lạc đường khi đi tìm người bạn đời “thích hợp” ở điểm là họ cho rằng người “thích hợp” đó là một người không khiến cho họ phải cải sửa bản thân. Họ tìm kiếm một người bạn đời sẽ bù đắp cho những khía cạnh chưa giải quyết trong tâm lý họ, hầu họ có thể cảm thấy mình trọn vẹn hay hạnh phúc mà không cần phải xem xét cái xà trong mắt mình. Nếu thật sự họ có thể tìm được một người như vậy, cuộc sống có thể sẽ thoải mái thật, nhưng sự tăng trưởng tâm linh sẽ bị thiệt hại.

Nếu con tìm người bạn đời dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của con, kết quả tất yếu sẽ là gì? Con sẽ thu hút một người bạn đời tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con. Điều này không có gì là dở – nếu con xem mọi chuyện như là cơ hội để tăng trưởng.

Nói cách khác, con đã thu hút người bạn đời đó vì tính tình của họ có thể làm nổi bật ra trong con chính xác những đặc điểm mà con cần thăng vượt để tiến về quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con sử dụng quan hệ này như một cơ hội để tự thăng vượt, thì đây sẽ là một bước tiến trên đường tu của con. Tuy nhiên, nếu con rời bỏ “con cóc” đó và bắt đầu chạy đi tìm “con cóc đặc biệt trong số một trăm con”, thì con sẽ không tiến bộ mà sẽ chỉ thu hút cùng một loại người bạn đời như thế. Ta cam đoan với con là chuyện đó có thể lặp lại hơn một trăm lần qua nhiều kiếp đầu thai. Và tất nhiên, hoàn toàn không có gì bảo đảm là sau khi hôn một trăm con cóc, sẽ có một con biến thành hoàng tử hay công chúa. Nếu con nghi ngờ lời ta nói, con thử ra cái áo gần nhà nhất và khởi sự hôn cóc mà xem.

Điều ta muốn nói là hầu hết mọi người đều cho rằng mình đã sẵn sàng cho người bạn đời “thích hợp”. Thế nhưng đối với tuyệt đại số, điều này không đúng. Đa số sẽ phải đi qua một hoặc nhiều mối quan hệ cũng như một tiến trình tự thăng vượt chân thành, hầu có thể đạt đến một trạng thái tâm thức khả dĩ từ hóa được một người bạn đời “thích hợp” cho mình trong kiếp này.

Vậy chúng tôi muốn nói gì qua chữ “người bạn đời thích hợp” chứ? Đúng vậy, con có một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp này, và trong sứ vụ có hoạch định là con sẽ đạt được một mức tâm thức nào đó, rồi sẽ phụng sự đời sống ở mức tâm thức đó. Cho nên người bạn đời “thích hợp” cho con là người có khả năng giúp con đi bước chót dẫn con đến mức tâm thức mà con đã hoạch định cho kiếp này, và cũng là người sẽ giúp con phụng sự cuộc sống trong khả năng cao nhất của con. Thay vì chữ “thích hợp” với ý nghĩa tương đối, ta ưa dùng chữ “người bạn đời tâm linh” nhiều hơn.

Tuy nhiên, do con cần phải kinh qua một tiến trình để có thể từ hóa người bạn đời tâm linh của con – và do điều này thường đòi hỏi con sống qua mấy mối quan hệ – con cũng có thể nói là người bạn đời hiện tại của con luôn luôn là người bạn đời “thích hợp” cho con. Con đã từ hóa, đã thu hút, người đó vì họ là cơ hội lý tưởng để con đi bước kế tiếp trên đường tu cá nhân, và nếu con học được bài học cao nhất mà con có thể học từ mối quan hệ này, thì con đã tiến gần hơn đến việc từ hóa người bạn đời tâm linh của con. Vậy thì có gì dở đâu?

Cho nên nếu con cảm thấy con chưa tìm thấy người bạn đời “thích hợp”, con hãy nhận ra là con cần nhiều nỗ lực hơn để cải sửa tâm lý của mình. Xong con hãy ngừng mơ mộng mình sẽ tìm thấy hũ vàng ở cuối cầu vồng của trò chơi hẹn hò. Con hãy xắn tay áo lên và dồn hết nỗ lực để chữa lành tâm lý mình, để con tìm ra chính con. Tuyệt đối không có cách nào để con tìm được người bạn đời tâm linh cho đến khi con đã tìm ra chính con, cho đến khi con gần thể hiện được tiềm năng cao nhất của con trong kiếp này. Cho tới khi con tìm được Nước Trời trong bản thân con, cũng như sự công chính khi con mở khóa tiềm năng cao nhất trong kiếp này, thì cuộc tìm kiếm người bạn đời “thích hợp” sẽ không thu hút được người bạn đời tâm linh.

Đi tìm người bạn đời “thích hợp” mà không cố tự cải sửa cũng tựa như con cố đặt xe ngựa trước con ngựa vậy. Điều này không thể làm được. Điều CÓ THỂ làm được là con sử dụng những dụng cụ tâm linh nhằm chữa lành tâm lý được đăng tải trên trang mạng này và ở những nơi khác.

Tất nhiên, cách này sẽ chỉ hiệu quả nếu con thực sự sẵn lòng đi tìm người bạn đời “thích hợp” của con, có nghĩa là con sẵn lòng thực hiện những thay đổi cần thiết trên bản thân trước khi con thu hút được người bạn đời tâm linh thay vì một người chỉ phản ánh lại tâm lý chưa giải quyết của con. Dạng quan hệ cao nhất sẽ không xuất hiện trừ khi con làm việc trên tâm tính của mình. Nhiều người không sẵn lòng làm công việc này, cho nên họ tiếp tục mơ mộng một người bạn đời toàn hảo đến độ họ không phải tu sửa tâm tính. Khi nào con còn mơ mộng, thì con sẽ còn phóng chiếu những đức tinh y như con tưởng là mình mong muốn mà không bao giờ có dịp đối chiếu với thực tế.

Đương nhiên, nếu ĐÓ là kinh nghiệm mà con muốn có cho tới hết kiếp này, ta sẽ không phản đối, vì ta tôn trọng Luật Tự quyết. Và trong trường hợp đó, con sẽ không cần lời khuyên của ta, và ta cũng không có lời khuyên nào cho con. Nhưng nếu ngược lại, con muốn chiêm nghiệm sự sống trong tiềm năng cao nhất của con – trong đó có việc thu hút người bạn đời tâm linh, và nhiều hơn thế nữa – ta có thể cống hiến rất nhiều cho con, bởi vì một trong những mục đích của Thời đại Bảo bình là nối kết những ai với tiềm năng cao nhất để họ hợp lại và chứng tỏ rằng một mối quan hệ tâm linh đích thực có thể thành công. Trong một quan hệ như thế, cả hai người đều nhân ta-lăng của mình lên cũng như nhân ta-lăng của người phối ngẫu, và họ đạt đươc một sự kết hợp cao hơn đa số người khác cho tới giờ.

Khi nào thời điểm thích hợp, Mary Magdalene – giờ đây là chân sư thăng thiên Magda – và chính ta sẽ ban ra những lời dạy mới về các mối quan hệ cao hơn. Nhưng không có lý do gì con phải chờ cho tới khi đó, vì hiện nay có nhiều lời dạy đã được ban ra về cach nâng cao tâm thức. Cho nên con hãy nỗ lực trở nên một người bạn đời tiềm năng tốt nhất, thì ta tin rằng rốt cuộc con sẽ thu hút được người bạn đời tâm linh của con. Hãy tìm thì con sẽ tìm thấy – câu này thật chí lý, nhưng chỉ khi nào con tìm kiếm ở trong chính mình.

Con cần buông những cái ngã đã đem lại thành tựu cho con

Hỏi: Câu hỏi này của con là về những nỗi khắc khoải nội tâm. Con tự hỏi tại sao con không thể nhìn thấy chính mình như mình là. Con cảm thấy có những chướng ngại tinh thần đang ngăn chặn con lượng định bản thân mình một cách khách quan. Chẳng hạn, mặc dù con đã đạt được một số thành tựu trong đời, con luôn bị áp lực bởi những ý tưởng bảo rằng con thật kém cỏi so với tiềm năng thực sự của con. Làm thế nào con có thể vượt qua những day dứt nội tâm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Con yêu dấu, ta biết lời giải đáp của các thày đôi khi có vẻ lặp lại, nhưng câu trả lời thật sự ở đây là con có hai cái ngã tách biệt. Một cái luôn thúc đẩy con thành tựu, và cái kia không ngừng chỉ trích và hạ thấp con, thậm chí còn dùng cái ngã muốn thành tựu để kéo con vào vòng xoắn ốc bất tận nơi con không bao giờ cảm thấy nhiều đủ cũng như tốt đủ. Khắp thế giới con thấy rất, rất nhiều người, ví dụ như trong kinh doanh, trong thể thao và nhiều nghề nghiệp khác, luôn luôn bị thúc đẩy để thực hiện nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Cho dù họ có hoàn thành được việc gì hay kiếm được bao nhiêu, họ vẫn không bao giờ thấy đủ.

Giải pháp thực sự duy nhất cho sự thể này dĩ nhiên là con phải cố giải quyết tâm lý của mình cho đến khi con thấy được những ngã đó và để cho chúng chết đi. Trong ngắn hạn, con sẽ được khuây khỏa phần nào bằng cách đọc các bài thỉnh, bài chú, để kêu gọi sự bảo vệ và được cắt khỏi tất cả những sợi dây ràng buộc con vào cõi trung giới, nơi có những loài quỷ chuyên môn bơm phồng những nỗi khắc khoải như vậy. Một điều quan trọng nữa là con có thể sử dụng giáo lý mà các chân sư đã ban ra, cả trong sách “Những kiếp sống của tôi” và những quyển thực tập tiếp theo đó, hầu con hiểu ra là các sa nhân đã tạo ra tiêu chuẩn toàn hảo này để con cảm thấy bắt buộc phải tuân thủ.

Nhưng thực tế thì tiêu chuẩn đó hoàn toàn không thực. Điều duy nhất mà con cần làm là trở về trạng thái nhận biết thuần khiết mà các chân sư gọi là cái Ta Biết. Bất kỳ thành tựu nào trong nhân thế, cho dù nó to lớn biết mấy, cũng không thể mở cửa cõi thăng thiên cho con bước vào. Thật ra, có khi hoặc thường khi, nó còn tạo cản trở cho con nếu con cảm thấy con đã hoàn thành những chuyện to lớn trong thế gian. Nó khiến cho con càng khó lòng hơn buông bỏ cái ngã đã đem lại thành tựu đó để quay trở về với trạng thái nhận biết thuần khiết nguyên thủy.

Cho dù con đã xây dựng ngã đó công phu và tinh xảo đến đâu để đạt thành tựu trong thế gian, nó vẫn là một sinh thể sinh diệt, và nó sẽ không được cứu rỗi. Khi nào con còn dính mắc với một cái ngã như thế, con sẽ không thể thăng thiên – cái Ta Biết của con sẽ không thể thăng thiên.

Cho nên ngược lại với sự tin tưởng của nhiều người tâm linh, kể cả học trò của các chân sư thăng thiên, đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã vỏ ngoài và khi con đạt một mức hoàn thiện nào đó thì con sẽ đủ tư cách thăng thiên. Tiến trình thăng thiên đích thực là gỡ bỏ cái ngã vỏ ngoài, từng bước gỡ bỏ từng cái ngã riêng biệt và để cho chúng chết đi, để rốt cuộc cái Ta Biết có thể trở về trong trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Chỉ có những thành tựu mà con tích tụ nơi căn thể của con mới được con đem theo sau khi thăng thiên.

Khái niệm tự ngã, phàm linh nội tại và ngã tách biệt

Hỏi: Hồi đầu, chúng con được trao cho lời dạy về tự ngã (ego), rồi sau đó đến lời dạy về phàm linh nội tại (internal spirits), ngã tách biệt (separate selves) và ngã gốc (primal self). Vậy con xin có câu hỏi: Khái niệm tự ngã đứng ở đâu so với các giáo lý mới hơn, hay là bây giờ nó đã trở thành một khái niệm it hữu ích hay ít quan trọng hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Lời dạy của các chân sư được truyền giảng cho những cấp độ khác nhau, hầu hành giả ở mọi mức nhận thức có thể tìm được điều gì đó liên quan đến trạng thái tâm thức hiện tại của mình cũng như giai đoạn mà mình đang đi qua. Cho nên trong một nghĩa nào đó, giáo lý về tự ngã đã được đưa ra trước nhất vì đó là một giáo lý rộng rãi, phổ quát hơn. Trong các sách vở tâm linh và ngành tâm lý học ngoại mạch, khái niệm tự ngã đã được biết tới khá rộng rãi, cho nên được các chân sư đưa ra trước tiên để các con có thể khởi sự ngay tiến trình nhìn vào chính mình.

Sau đó chúng tôi đã quyết định nâng lên một bực, không phải là thay thế hẳn giáo lý về tự ngã, mà đưa ra một giáo lý đặc thù hơn để cho thấy tự ngã không chỉ là một vật mơ hồ, không có đường nét. Thường khi, sách vở hay nói đến tác động của tự ngã chứ ít nói đến tự ngã là gì. Chúng tôi đã quyết định đưa ra khái niệm phàm linh nội tại để cho thấy tự ngã có sự sống riêng của nó, và nó không phải là một vật đồng nhất. Nó bao gồm tất cả những phàm linh nội tại nói trên.

Nhưng nhìn từ một góc cạnh thì khái niệm phàm linh nội tại cũng phần nào là một quan niệm rộng rãi vì nó áp dụng cho nhiều người trên địa cầu. Và cuối cùng chúng tôi đã đưa ra khái niệm về chấn thương nhập đời và ngã tách biệt. Giáo lý này nhắm đặc biệt đến các avatar – những dòng sống từ hành tinh khác tới địa cầu – nhưng nó cũng có thể áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu, vì mặc dù cư dân nguyên thuỷ không bị chấn thương nhập đời khi đầu thai lần đầu ở đây, họ đã phải hứng chịu chấn thương khi gặp gỡ sa nhân (fallen beings).

Đơn giản là chúng tôi đã cố gắng giảng dạy ở nhiều cấp độ khác nhau cho nhiều người có mức nhận thức khác nhau. Con phải ở một mức nhận thức cao hơn thì mới thực sự nắm bắt được và thực hành giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã tách biệt.

Trên cơ bản, con phải ở một mức nhận thức nào đó thì mới có thể chấp nhận cuốn sách “Các kiếp sống của tôi” (My Lives), là cuốn sách nhắm chủ yếu vào việc chuẩn bị cho tiến trình chữa lành nội tâm, hầu giúp con khắc phục cái ngã gốc và mọi cái ngã khác mà con đã tạo ra do phản ứng lại biến cố đến địa cầu hiện thân, hay phản ứng lại việc sinh sống trên hành tinh này. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi có thể nói là tất cả các giáo lý trên vẫn đều xác đáng, vì giáo lý được thảo ra cho nhiều mức nhận thức khác nhau, và khái niệm tự ngã vẫn còn xác đáng vì ngã gốc và mọi ngã tách biệt khác cũng là những thành phần của tự ngã.

Con có thể hỏi: “Nhưng có một tự ngã hay không? Có một thực thể đơn độc nào có thể gọi là tự ngã?” và nói thật, con có thể mô tả chuyện này nhiều cách khác nhau. Con có thể nói, đúng vậy, có một cái ngã là ngã đầu tiên do con tạo ra, gọi là ngã gốc hay một danh từ nào khác, và đó là tinh túy của tự ngã.

Hoặc con có thể nói là, không, không có một ngã nào thống nhất vì tất cả chỉ là những cái ngã tách biệt và phàm linh nội tại. Và trong số đó, có cả những cái ngã chống đối lẫn nhau, và do đó con không thể tìm ra một nút bật, để khi con tắt nút đi thì tự ngã biến mất. Con phải giải quyết từng thành phần của tự ngã để khắc phục nó.

Thậm chí, con còn có thể nói rằng khi con là avatar mới đến địa cầu và con mong muốn thay đổi nhiều chuyện trên địa cầu, thì đại loại đó cũng là nguồn gốc của tự ngã đối với một avatar. Con đến đây để thay đổi người khác và lúc đó con chưa hoàn toàn thể nhập được quyền tự quyết là gì và vận hành như thế nào.

Đó là lý do tại sao, như sứ giả này có mô tả cho con, tới một lúc ông đã hiểu ra là ông không ở trên địa cầu để thay đổi người khác, mà ông ở trên địa cầu là để tự giải thoát chính mình khỏi mong muốn thay đổi người khác. Con có thể nói rằng là một avatar thì con đã đem theo hạt giống, đem theo căn nguyên của tự ngã với con khi con đến đây, trong khi các cư dân nguyên thủy thì đã phát triển tự ngã ngay trên hành tinh này. Trong nhiều trường hợp, các cư dân này đã có tự ngã trước khi các sa nhân tới đây, nhưng tự ngã của họ đã khoác lấy một sắc thái rất khác khi họ tương tác với sa nhân.

Và đó cũng là tại sao con có thể đi ngược dòng thời gian và bảo rằng tự ngã đã có mặt trên hành tinh này trước khi sa nhân đến đây, tuy nhiên sau khi chúng đến thì tự ngã đổi hẳn phẩm chất. Sa nhân là những kẻ sử dụng tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại, và vì thế đã ảnh hưởng lên tự ngã của phần lớn nhân loại trên địa cầu.

Giáo lý nền tảng về quan hệ khi người bạn đời chống đối niềm tin tâm linh của bạn

Hỏi: Con cầu xin thày giúp con. Hoặc nếu chân sư hay Kim có thể trả lời thì con sẽ vô cùng biết ơn. Con là một người làm vợ và làm mẹ với mấy đứa con nhỏ, con đã đi trên hành trình tâm linh từ nhiều năm nay. Đã có một thời con tin đạo Cơ đốc Phúc âm (evangelical Christianity) là câu trả lời cho con. Con được “cứu rỗi”, gặp chồng con ở đó, kết hôn và sinh con. Con vẫn yêu chồng con tha thiết và con không có ý muốn sống xa anh ấy. Tuy nhiên, sự thức tỉnh nội tâm đã dẫn con đến giáo lý này, và con biết sâu trong tim mình đây là chân lý. Con không đang cố thuyết phục chồng con về lẽ thật trong những lời dạy này vì anh ấy là một tín đồ Cơ đốc đã “tái sinh”, một người đàn ông tốt, nhưng anh ấy không thực sự cởi mở và sẵn sàng chấp nhận bất kỳ loại giáo lý nào không ăn khớp với kinh điển trong sách. Con cố sống trọn với tình thương vô điều kiện và lời dạy chân thực của Giê-su trong khi con bước đi trên đường tu riêng của con dẫn đến tâm Ki-tô.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng con đang gây ra cãi vã trầm trọng mỗi ngày. Chồng con nay đã hiểu là con không còn là người tin đạo theo đúng Kinh thánh nữa. Con hoàn toàn không muốn nói dối hay giữ bí mật nào đối với anh ấy – nhưng càng ngày con càng bị anh ấy tra khảo về niềm tin của con y như ở trạm công an vậy. Con tuyệt vọng, con không thể sống như thế này. Con sẽ không từ bỏ Chân lý để mong được chấp thuận và yêu thương, nhưng con yêu chồng và yêu con của con tha thiết, và con khiếp sợ là con sẽ mất cả chồng lẫn con, hoặc chồng con của con sẽ mất con, nhất là nếu gia đình chồng, một gia đình theo đạo Tin lành cực chính thống, cũng hùa theo anh ấy mà tra khảo con.

Hiện con không còn gia đình phía bên con nữa. Con lớn lên trong Giáo hội Lã mã và từ rất lâu con đã rời khỏi cách thờ phượng thần tượng đó, cho nên con đã mất đi sự hỗ trợ và tình thương của gia đình con. Con cảm thấy mình giống như Peter đi bộ trên mặt nước và chìm nghỉm. Con sợ hãi và cô đơn, rất nhiều ý nghĩ đen tối đang xâm nhập tâm con mà không phải là từ Thượng đế. Con không biết phải làm gì và phản ứng thế nào, nói làm sao. Con đã tìm xem thày Giê-su từng phản ứng như thế nào trước những lời buộc tội như khi thày phải đứng trước mặt Pilate, nhưng con thật sự không biết phải cư xử thế nào trong tình huống ngặt ngèo như thế này. Xin, xin thày giúp con. Làm thế nào con yêu được chồng con, làm thế nào sống an bình và biểu lộ an bình của Thượng đế giữa tình trạng này? Con phải làm gì đây?

Hiện giờ con kiệt quệ đến nỗi ngay cả chuyện thiền định và tìm kiếm câu trả lời trong tâm thức Ki-tô của con, con cũng không làm nổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/9/2010.

Trước tiên, con cần phải có quyết định chắc chắn là con sẽ không bao giờ lấy một quyết định có thể thay đổi đời mình trong khi con đang ở trong một tâm trạng rối loạn. Một khi con quyết định như thế rồi, con sẽ cảm thấy cường độ rối loạn của mình giảm xuống phần nào.

Việc tiếp theo mà con cần làm là nhìn nhận rằng trong bất kỳ tình huống nào mà con cảm thấy tê liệt và mất hết phương hướng nội tâm, cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ có một điều gì đó trong tình huống đó mà con không sẵn lòng nhìn vào.

Khi nào còn có điều gì mà con không sẵn lòng nhìn vào, thì con không thể nhận được sự chỉ đạo nội tâm rõ ràng. Có nghĩa là mức rối loạn của con sẽ chỉ gia tăng, cho đến khi nó dẫn đến môt cuộc khủng hoảng hay sụp đổ nào đó. Do đó, con cần nhìn ra đây là một vòng xoắn ốc đi xuống, và để phá vỡ vòng đi xuống này, con cần làm một điều gì đó mà con chưa làm cho tới nay.

Làm sao con phá vỡ được? Bằng cách lấy quyết định ý thức là con sẵn sàng nhìn vào mọi khía cạnh của tình huống. Cho nên, thay vì cưỡng lại sự chỉ đạo nội tâm, giờ đây con sẽ mở tâm trí và trái tim ra để nhận chỉ đạo nội tâm. Và khi đó, cái ta Ki-tô và các vị thày hướng dẫn con sẽ có căn bản để làm việc, thay vì trong lúc này phải tôn trọng quyền tự quyết của con và lui ra.

Làm thế nào con có thể tìm ra điều gì mà con chưa sẵn lòng nhìn vào? Trong mọi tình huống, hiển nhiên và trước nhất, con cần nhìn vào các nỗi sợ hãi của mình. Mọi sợ hãi là sợ hãi cái chưa biết, và cái chưa biết là cái mà con chưa sẵn lòng nhìn vào. Nếu con đã nhìn vào nó và đã tìm kiếm sự chỉ đạo Ki-tô, thì nó đã là cái biết rồi, và con đã giải quyết được nỗi sợ hãi của con.

Như luôn luôn, ta sẽ sử dụng câu hỏi đặc thù của con để đưa ra một lời dạy có thể hữu ích cho nhiều người, cho nên một vài điều ta nói ở đây sẽ không áp dụng trực tiếp cho người đặt câu hỏi. Tuy nhiên có một điều sẽ áp dụng được, đó là khi lá thư của con chứng tỏ rõ ràng con đang bị tê liệt vì con đang có hai nỗi sợ trái ngược nhau: Con sợ làm hại đến đường tu quả vị Ki-tô của con, và con sợ quan hệ của mình sẽ chấm dứt. Cho nên, hai nỗi sợ phối hợp lại có nghĩa là không có cách nào để con vừa bước trên đường tu mà vừa tiếp tục mối quan hệ.

Lý do con có nỗi sợ hãi đó là vì con tin rằng câu trả lời tùy thuộc vào thái độ cùng quyết định của chồng con. Vì thế con đã tự cho phép mình tin rằng kết cục của tình trạng này nằm ngoài tầm tay con, và không có gì mà con chọn làm sẽ thay đổi được tình thế. Thế nhưng ta muốn mọi người hiểu là con KHÔNG BAO GIỜ ở trong một tình thế mà con không có chọn lựa.

LUÔN LUÔN có điều gì đó mà con có thể làm, và đó là giành lấy quyền kiểm soát hoàn toàn trên cách phản ứng của mình đối với tình huống. Một khi con kiểm soát được phản ứng của con, con sẽ thấy là các nỗi sợ của con không còn nữa, và cách con tiếp cận tình huống sẽ hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách tự giải phóng mình để tìm ra một cách đáp ứng tình huống cao hơn, rất có thể – không chắc chắn nhưng rất có thể – là con cũng sẽ giải phóng chồng con để anh ấy tìm ra một cách đáp ứng cao hơn. Con ở trong một quan hệ và trong quan hệ luôn luôn có hai người. Cho nên cách phản ứng của chồng con không chỉ là sản phẩm của tâm lý anh ấy, mà cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi phản ứng của con, và phản ứng này đến từ tâm lý con.

Điều kế tiếp con cần làm là xem xét nghiêm túc cách con nhìn đường tu cá nhân của mình. Liệu con có, giống như nhiều người khác, nhìn nó như là một con đường vỏ ngoài, qua đó con mở mang kiến thức rồi chấp nhận và tin tưởng một số ý tưởng, chẳng hạn như những giáo lý được tìm thấy trên trang mạng này. Hay liệu con, như ta đã mô tả suốt trang mạng này, bắt đầu nhìn ra cốt lõi đích thực của đường tu cá nhân là một tiến trình xảy ra bên trong con. Nói cách khác, con có thấy một phần cơ yếu của con đường quả vị Ki-tô là đạt được kiểm soát toàn diện trên cách phản ứng của mình trước những điều kiện của thế gian? Đây là thông điệp nền tảng mà các chân sư thăng thiên đã giảng dạy từ thời đức Phật.

Thể hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là gì? Có nghĩa là ông hoàng của thế gian không nắm được gì nơi con, vì cho dù y có ném gì vào con, y cũng không thể buộc con có một phản ứng thấp kém hơn tình thương. Tình thương là phương thuốc sẽ tống khứ mọi sợ hãi. Khi con có thể đáp ứng bằng tình thương, con giải phóng cho người bạn đời lẫn chính con tìm ra một cách đáp ứng cao hơn – nếu người kia chọn làm như vậy.

Con có thấy điều ta đang nói không? Một mối quan hệ là một trong những cách hiệu quả nhất để dạy con người kiểm soát phản ứng của mình. Cho nên khi con quan hệ với một người chống đối niềm tin tâm linh của mình, điều này không nhất thiết là một trở ngại trên con đường quả vị Ki-tô của con. Nó có thể – nếu con chọn cách tiếp cận như vậy – là một cơ hội tuyệt diệu để kiểm soát phản ứng của mình và tự dạy mình phản ứng lại mọi tình huống với tình thương. Nói cách khác, con hoàn toàn có khả năng ở lại trong một quan hệ mà vẫn bước đi tiếp trên con đường quả vị Ki-tô. Có thể con còn tinh tấn nhanh chóng hơn trong một quan hệ khó khăn thay vì dễ dàng.

Lý do ta nói điều này là để cho con niềm hy vọng là quả thực con có thể tiếp tục mối quan hệ mà vẫn theo đuổi quả vị Ki-tô. Điều đó sẽ giảm bớt nỗi sợ hãi của con, hầu con có thể xem xét sợ hãi này kỹ lưỡng hơn. Thực tế là nếu con sợ quan hệ sẽ chấm dứt, chính sợ hãi đó có thể khiến con làm tổn hại đến đường tu của con, qua đó ta muốn nói là việc mình cam chịu do mình sợ hãi KHÔNG giống như việc nắm lấy kiểm soát phản ứng. Nhiều người đã cho phép nỗi sợ hãi khiến mình khuất phục, và có người còn nghĩ rằng bởi vì thái độ này không hung hãn cho nên nó giống như một đức tính Ki-tô, nó tâm linh và yêu thương. Nó không phải là cả hai.       .

Cho nên con cần đạt tới một điểm khi con không khuất phục do sợ hãi, và cách duy nhất để làm điều này là nhìn vào nỗi sợ hãi. Vậy thì chúng ta hãy thử xem xét nỗi sợ hãi là mối quan hệ có thể chấm dứt.

Thực tế – một thực tế phũ phàng nhưng không thể tránh được – là hầu hết những người bước đi trên đường tâm linh sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng quan hệ. Điều này đặc biệt đúng cho những mối quan hệ đã khởi đầu trước khi con tìm thấy đường tu hoặc trước khi con tiến một bước dài. Lý do là vì khi con tiến một bước dài, người bạn đời của con sẽ cảm được điều đó. Và nếu người đó không sẵn sàng cùng tiến bước với con thì nó sẽ hiện ra như là mối đe dọa. Khi đó sẽ có nguy cơ là người đó lo sợ đánh mất con, khiến họ tìm cách hạn chế các hoạt động tâm linh của con.

Có nhiều người tầm đạo đã trải qua kinh nghiệm này, và nhiều người cũng đã cho phép nó chấm dứt quan hệ của mình. Tuy nhiên trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc chấm dứt như vậy hoặc là không cần thiết, hoặc là quá vội vàng. Hãy cho ta giải thích.

Là một người tầm đạo, điều hoàn toàn hợp lý là con có thể kết thúc một mối quan hệ để nhảy một bước tiến thật dài, hay do hệ quả của một bước tiến thật dài. Ta từng cư xử như vậy khi ta đang thuyết giảng trước đám đông thì mẹ và anh chị em của ta đã bước vào bảo ta nên ngừng lại và xử sự như người bình thường. Ta đã trả lời, những ai lắng nghe và làm y theo lời của Thượng đế là gia đình thực sự của ta. Điều này phần nào cũng sẽ đúng cho bất kỳ người tầm đạo nào – vì sẽ có những thời điểm trên hành trình tâm linh khi con cần bước tới và bỏ lại đằng sau một số người.

Tuy nhiên – và đây là chữ TUY NHIÊN thật lớn – điểm này không bao giờ được sử dụng như một cái cớ để tháo chạy một tình thế khó khăn. Sự thật là nhiều người tầm đạo đã dùng gương của ta để bào chữa cho việc mình kết thúc một mối quan hệ. Họ muốn bước ra khỏi mối quan hệ nhưng lại không sẵn sàng thừa nhận chuyện đó, cho nên khi người bạn đời bắt đầu phản đối hoạt động tâm linh của họ (thường là những hoạt động không cân bằng), thì điều này trở thành một cái cớ thuận tiện để chấm dứt mối quan hệ. Thật là quá dễ đổ lỗi việc đổ vỡ cho người kia đã không chịu chấp nhận các hoạt động tâm linh của mình. Hiển nhiên, đây chỉ đơn giản là ngón bịp bợm cố hữu của tự ngã quy trách nhiệm cho một ai khác, và điều này sẽ không đem lại tinh tấn tâm linh cho dù con có tìm cách biện minh đến đâu.

Nếu con muốn rời khỏi một mối quan hệ, tất nhiên là con có quyền chọn lựa như vậy, nhưng con hãy công nhận đó là chọn lựa của con và đừng quy trách nhiệm cho ai khác.

Vậy con có thấy điều ta muốn nói? Một đằng, con cần giữ trong tâm khả năng là mối quan hệ có thể sẽ kết thúc, nhưng đằng khác con cũng cần tránh quyết định với tâm vỏ ngoài và khiến cho quan hệ chấm dứt quá vội vàng. Làm thế nào tìm ra thế cân bằng đây? Trước hết, con hãy quyết định là con sẽ không có quyết định nào để chấm dứt quan hệ, và sau đó con hãy quyết định là con sẽ ngừng đặt trọng tâm vào việc thay đổi người bạn đời của con, và thay vào đó, con sẽ tập trung tất cả sự chú ý của mình vào việc điều ngự cách phản ứng của chính mình trong quan hệ.

Điểm con muốn hướng tới là đối với con, dù mối quan hệ có tiếp tục hay chấm dứt cũng không quan trọng gì nữa. Bởi vì con đã hoàn toàn làm chủ được phản ứng của mình, cho nên con tìm được sự an bình và hạnh phúc nội tâm một cách độc lập khỏi người kia.

Một khi con tìm được an bình nội tâm này và học được cách chỉ đáp ứng bằng tình thương, rất có thể người bạn đời của con cũng sẽ thay đổi và cuộc khủng hoảng sẽ đi qua. Tuy nhiên, vì tất cả mọi chuyện đều phụ thuộc vào quyền tự quyết, cho nên người kia vẫn có thể không muốn thay đổi. Như vậy, chính người đó sẽ có thể chấm dứt quan hệ, hoặc mối quan hệ sẽ giải thể một cách có vẻ tự nhiên. Điều ta muốn nói ở đây là con hãy đặt trọng tâm vào cách phản ứng của mình và tránh lấy quyết định với tâm vỏ ngoài. Con nỗ lực tìm an bình nội tâm và mặc cho mọi chuyện tự nó trải bày ra.

Điều này có nghĩa là cho dù quan hệ có kết thúc, con sẽ vẫn an bình. Và để đạt tới điểm đó, có thể con sẽ cần nhìn vào nỗi sợ hãi của mình và vượt xuyên qua nó. Cách hay nhất là con hãy tự hỏi, “Điều gì là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra cho tôi?” Xong con hãy để cho kịch bản đó trình diễn trong tâm con cũng như cách con sẽ đối phó về mặt lý trí lẫn xúc cảm. Bằng cách cho phép con sống qua nỗi sợ hãi, cuối cùng con sẽ đi xuyên qua nó và nhận ra là kịch bản tồi tệ nhất vẫn không đến nỗi đáng sợ như con tưởng. Quả thật, con có khả năng sống sót qua cơn sợ, thậm chí con sẽ vẫn tiến bước nếu nó xảy ra.

Trở về với trường hợp mô tả trong thư, điều cũng cần thiết là xem xét một yếu tố khác nữa mà nhiều người có thể không sẵn lòng nhìn nhận. Thực tế phũ phàng là đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist Christianity) hoàn toàn xa cách với thực tại của Ki-tô. Ít phong trào tôn giáo nào trên hành tinh mà lại phán xét một cách hung hãn đến như vậy, có nghĩa là nhiều tín đồ cực chính thống đã mở tâm mình ra cho quỷ địa ngục xâm nhập vào. Những con quỷ này hoạt động ráo riết thông qua nhiều tín đồ cực chính thống, thậm chí cả nhiều nhà thuyết giáo, và thực sự họ bị sử dụng làm công cụ để khuấy động xung đột. Do đó, một điều cần thiết và chính đáng là con sử dụng các bài thỉnh và bài chú mà chúng tôi đã đăng tải trên trang dụng cụ để cầu thỉnh cho chồng con được giải vây khỏi những con quỷ này và được bảo vệ.

Một lần nữa, điều quan trọng là con làm những việc trên mà không sợ hãi, và con có khả năng khắc phục nỗi sợ bằng cách con nhận ra là những con quỷ đó không có quyền năng gì trên con một khi con làm chủ được phản ứng của mình. Tuy nhiên cho tới khi đó, điều quan trọng là con cũng cầu gọi sự bảo vệ và sự cắt đứt những sợi dây buộc trói con, buộc trói con cái, chồng và gia đình của con. Con cũng có thể kêu gọi ta đến phán xét những thế lực đã lạm dụng danh ta hầu biện minh cho những hành vi không Ki-tô. Con hãy sử dụng bài thỉnh Đại thiên thần Michael và bài thỉnh cho kẻ tố cáo người anh em. Nhưng con cũng hãy dùng những bài thỉnh nhẹ nhàng hơn như bài thông sạch con tim, và bài về tình thương vô điều kiện.

Bây giờ đến bước chót. Một khi con đã cầu thỉnh sự bảo vệ và con đã đạt được một khả năng kiểm soát nào đó trên phản ứng của mình, con sẽ cần nói chuyện với chồng con. Tuy nhiên, con cần lưu ý là chuyện này sẽ không khả thi hay sẽ không xây dựng cho tới khi con kiểm soát được phần nào phản ứng của con. Vì nếu không, rất có thể nó sẽ biến thành một cuộc đối đầu khiến cho khủng hoảng chỉ càng leo thang.

Vậy khi tình thế có vẻ mang tính xây dựng, con hãy nói chuyện với chồng con về hai điều. Trước hết, hãy thử hỏi anh ấy xem liệu anh có nghĩ là cách hành xử của anh đối với con phù hợp với lý tưởng của Ki-tô hay không. Liệu anh có thực sự chìa má kia ra, hay anh lại là người cứ đánh con tới tấp trên một má trong khi con chìa má kia? Con hãy cho anh thấy là con không tìm cách thay đổi niềm tin của anh, nhưng anh lại không làm vậy đối với con.

Có thể anh sẽ trả lời là bởi vì con sẽ bị xuống địa ngục do không có đức tin, cho nên anh ấy đang làm y như Giê-su muốn anh làm. Con thử hỏi anh ấy xem liệu anh nghĩ Giê-su có tôn trọng quyền tự quyết của con người hay không? Liệu anh thực sự tin là Ki-tô muốn anh coi thường quyền tự quyết của con? Thử hỏi anh xem anh sẽ cảm thấy thế nào nếu có ai đó hung hãn bắt anh phải chối bỏ niềm tin Cơ đốc giáo của anh? Liệu anh sẽ coi đó là một việc phải? Nếu không thì liệu anh có thấy là nếu anh không muốn ai buộc anh phải thay đổi niềm tin, thì anh cũng nên làm cho người khác những gì anh muốn người khác làm cho anh. Và khi anh tấn công niềm tin của con hung hãn, anh không đang tuân thủ điều răn của ta.

Con cũng hãy hỏi, liệu Ki-tô có muốn anh trù rủa vợ anh, hay là Ki-tô muốn anh tìm ra cách sống chung hòa bình cho dù không cùng chung tín ngưỡng? Con có thể nhắc anh là ta đã dạy mọi tín đồ Cơ đốc hãy thương yêu nhau như ta thương yêu họ, và ta thương yêu mọi người bất kể tôn giáo, và đó là tại sao ta đã dang rộng vòng tay với người Samaritan, người La mã, những người thu thuế và đủ loại người tội lỗi.

Điểm tiếp theo mà con đề cập là tình cảm của anh ấy đối với con. Trước hết, con hãy nói rõ tình cảm của con đối với anh, như con đã mô tả trong thư. Rồi con xin anh thành thật nói cho con biết tình cảm của anh đối với con như thế nào. Hồi đó có thể là hai con đã không bao giờ kết hôn nếu cả hai không được “cứu rỗi”, nhưng bây giờ thì tình cảm của anh ra sao? Liệu anh có yêu con người của con, hay anh yêu con với điều kiện con được “cứu rỗi”? Liệu anh có thể tách rời con người của con và tư cách tín đồ của con? Liệu anh còn yêu con như con thực là, và liệu tình yêu của anh có đủ sâu đậm để cho phép con đi theo một con đường sống mà anh không hiểu? Liệu anh có yêu con đủ để cho con tự do đi theo con đường nội tâm của con, y như con cũng yêu anh đủ để cho anh đi theo con đường của anh?

Nếu anh trả lời là anh yêu con vì con người của con, thì kết luận hiển nhiên là cả hai cần cố gắng tìm ra cách sống với nhau trong tình yêu và tôn trọng, thay vì cứ liên tục cãi vã và đổ lỗi cho nhau. Nếu anh thành thật nói rằng anh không còn yêu con nữa vì con không được “cứu rỗi”, thì hiển nhiên hai con cần nói chuyện xem mối quan hệ này còn ý nghĩa gì nữa không.

Ta cũng hiểu là một cuộc đối thoại mang tính quyết định như vậy có thể khiến con lo lắng, căng thẳng. Đó là tại sao ta đã khuyên con hãy cố gắng điều ngự phản ứng của mình, hầu con có thể nói chuyện với chồng con mà vẫn hoàn toàn an bình cho dù kết cục có như thế nào. Con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài – có nghĩa là an bình nội tâm và làm chủ phản ứng – và tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Truyền rải năng lượng tâm linh – tại sao và như thế nào?

Hỏi: Thày có giảng về việc các chân sư thăng thiên truyền rải năng lượng tâm linh theo một số chu kỳ. Xin thày vui lòng cho chúng con một cách hiểu chi tiết hơn về tiến trình này và những tiêu chuẩn được sử dụng để truyền rải những loại năng lượng nào và bao giờ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 12/8/2010.

Trái tim yêu dấu của ta, hãy cho ta nói thật rõ là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không hề gây ra thiên tai hay bất kỳ tai họa nào khác. Dù đó là những đám cháy ở Nga hay nạn lụt ở Pakistan, chúng tôi không ngồi đó mà hoạch định biến cố này hay biến cố nọ để đánh thức hay để trừng phạt loài người. Chúng tôi chỉ có tình yêu và lòng từ bi đối với mọi người trên trái đất, và chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu con người tránh được mọi cảnh tai ương và thị hiện được Thời Hoàng kim càng sớm càng tốt. Chúng tôi thà sử dụng khả năng của chúng tôi để chỉ dạy trực tiếp cho mọi người, thay vì để họ phải học hỏi trong Trường đời Cay đắng. Tuy vậy, chúng tôi cũng tôn trọng Luật Tự quyết, qua đó mỗi người đều có quyền trải nghiệm bất cứ gì họ muốn và học các bài học theo cách mà họ muốn.  

Những gì chúng tôi có thể làm – và được giao phó trách vụ theo quy luật – là truyền rải năng lượng tâm linh vào tâm thức tập thể. Đây là một chức năng của Luật Tự Quyết, theo đó mặc dù con người được phép trải nghiệm bất cứ gì mình muốn, nhưng họ không được phép có những trải nghiệm này một cách vô hạn định. Theo một số chu kỳ – được định đoạt bởi sự tăng trưởng tâm thức của toàn vũ trụ vật chất và toàn bầu cõi nơi vũ trụ này hiện hữu – sẽ đến một thời điểm khi các cư dân của một đơn vị hành tinh cần đi bước kế tiếp, cần thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của mình.  

Nếu người trên hành tinh đó không sẵn lòng làm vậy, chúng tôi có trách vụ truyền rải một khối năng lượng tâm linh. Những năng lượng này là dạng thanh khiết của tâm thức mà con người đã làm tha hóa, và vì vậy không phải là một hình thức trừng phạt, mà thay vào đó, là một cơ hội để họ thể nhập và sinh sôi năng lượng, qua đó họ có thể nhanh chóng vươn lên trên tâm thức tha hóa cũ. Bởi vì năng lượng này quá khác biệt với năng lượng tha hóa mà họ quen thuộc, cho nên năng lượng mà chúng tôi truyền rải sẽ thách thức mọi người phải xem xét và tra vấn lại trạng thái tâm thức của mình cũng như cách hành xử của mình. Nếu họ không sẵn lòng nhìn vào chính mình, các năng lượng ấy sẽ tạo ra một căng thẳng, và khi căng thẳng gia tăng, nó sẽ xô đẩy cho một số biến cố vật lý phải thị hiện.

Bây giờ con thấy được là có hai lý do chính khiến cho tai họa có thể xảy ra, dù là trong đời sống của một người, một nhóm người, một quốc gia hay của cả toàn điạ cầu:

  • Tâm thức tập thể tương tác với những năng lượng mà chúng tôi truyền rải, hay đúng hơn, con người từ chối thể nhập và sinh sôi năng lượng đó.
  • Tâm thức tập thể đã trở thành một vòng tròn đóng kín, tạo ra một vòng xoáy ốc đi xuống khiến cho tai ương thị hiện.

Nói cách khác, ngoài nguyên nhân năng lượng do chúng tôi rải xuống, tai ương còn có thể là hệ quả của cái xoáy ốc hướng hạ mà con người tạo ra. Khi các năng lượng trí năng và cảm xúc tiêu cực đạt đến một cường độ nào đó, chúng trở thành gánh nặng to lớn trên đời sống tinh linh đến độ các tinh linh kiến tạo hình tướng không thể duy trì trạng thái cân bằng bình thường của thiên nhiên được nữa, và khi đó năng lượng sẽ bung ra một cách dữ dội. Sự kiện này cũng giống như một người cứ dồn nén và chồng chất cơn tức giận, cho đến lúc nó bộc phát mãnh liệt và người đó cảm thấy nhẹ nhõm – ít ra là một lúc.  

Những vòng xoáy tiêu cực mà con người tạo ra cùng những biến cố được thị hiện, tất nhiên là nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi. Chúng tôi có thể kiểm soát những gì được truyền rải nhưng không kiểm soát được cách phản ứng của con người. Thật ra, chúng tôi thường rải năng lượng khi chúng tôi thấy có một nhóm người tạo ra một vòng xoáy tiêu cực sắp sửa xô đẩy biến cố vật lý. Chúng tôi rải năng lượng ra để những người đó có cơ hội gia tốc tâm thức bằng cách thể nhập và sinh sôi năng lượng của chúng tôi. Thế nhưng nếu họ không nắm lấy cơ hội đó thì việc từ chối năng lượng tích cực này – hay ngay cả việc tha hoá những năng lượng này – sẽ gia tăng sự căng thẳng, và hệ quả sẽ càng thêm dồn dập. Cho nên con thấy đó, có một cân bằng rất tinh tế mà chúng tôi lượng định xem năng lượng nào được truyền rải và vào thời điểm nào.   

Khi một khối năng lượng tâm linh được truyền xuống – như đã xảy ra trong hội nghị tại St Petersburg và là kết quả của bao nhiêu người đã đọc cầu nguyện tràng hạt một cách kiên trì suốt bao nhiêu năm – chúng tôi có thể nhìn vào tâm thức của một dân tộc, vào các đặc tính vật lý và tiên đoán một số sự kiện có thể xảy ra. Chúng tôi có thể thấy những nơi nào dân tộc đó không chịu tiến bước, và bằng cách nhận diện những điểm căng thẳng, chúng tôi thấy được nơi nào có nguy cơ tan vỡ. Và chúng tôi điều chỉnh sự truyền rải năng lượng tâm linh vào nơi có tiềm năng lớn nhất cho nhóm người cần được đánh thức và cần thay đổi.    

Tuy nhiên như ta đã nói, cũng có một số chu kỳ, cho nên không phải lúc nào chúng tôi cũng kìm hãm được những năng lượng có tiềm năng gây tai họa. Và cũng không có cách nào tiên đoán chính xác những gì sẽ xảy ra, vì điều này tùy thuộc phần lớn vào cách phản ứng của nhân loại đối với năng lượng của chúng tôi. Nếu loài người phản ứng tích cực, chúng tôi có thể rải năng lượng mà không gây ra bất cứ tai ương nào. Nhưng nếu loài người không chịu thay đổi thì cùng khối năng lượng đó sẽ có thể gây ra một thảm hoạ to lớn.    

Một khi một biến cố đã được tâm thức tập thể xô đẩy vào thị hiện, điều chúng tôi có thể làm là sử dụng biến cố đó như một công cụ giảng dạy cho những ai mở tâm ra nghe lời dạy của chúng tôi. Nhưng đương nhiên, vấn đề căn bản là những người đã khiến cho biến cố thị hiện hầu hết đều không mở tâm ra để nghe lời dạy của chúng tôi về nguyên nhân biến cố. Lý do là vì lời dạy của chúng tôi luôn luôn đòi hỏi con người phải lấy trách nhiệm về tình trạnh tâm thức của mình, và nếu nhóm người đó đã nhận lấy trách nhiệm đó thì họ đã không gây ra biến cố rồi. Cho nên điều chúng tôi cố làm là tập trung vào việc chỉ dạy cho số 10% dẫn đầu tâm thức của một nước, hầu những người này có thể kéo theo tâm thức của số 80% ở giữa.

Ta cần nói rõ cho các con, những người tâm linh, rằng không phải lúc nào các con cũng giảm thiểu được một số biến cố, bởi vì như vậy sẽ ngăn cản mọi người nhận được cơ hội học hỏi. Nhưng điều này không nên khiến con nản lòng mà ngừng đọc cầu nguyện tràng hạt, mà trái lại phải thúc đẩy con đọc tiếp cho dù có vẻ như không có tác dụng vật lý trước mắt. Cầu nguyện tràng hạt LUÔN LUÔN có tác dụng. Nó tẩy sạch năng lượng tiêu cực và nâng cao tâm thức tập thể lẫn cá nhân. Cho dù con cầu nguyện để giảm thiểu một biến cố cụ thể mà biến cố đó vẫn xảy ra, thì bài cầu nguyện của con đã có những tác động khác. Nó chỉ có nghĩa là biến cố đó không thể được giảm thiểu do sự thiếu trách nhiệm của một số người và do đó tâm thức họ đã trình diễn ra như vậy trong cõi vật lý. Tuy nhiên, bất cứ bài cầu nguyện hay cầu thỉnh nào của con cũng có tác động sâu xa nơi những cõi cao hơn. Phúc cho những ai không thấy được mà vẫn cầu thỉnh – bởi vì cầu thình sẽ bắt buộc phải có trả lời.

Ngoài ra con cũng nên biết, toàn bộ mục đích của cuộc sống là đề học hỏi và tăng trưởng. Luật Tự quyết cho mọi người quyền học hỏi như mình muốn, có nghĩa là họ có thể học từ một giáo ý tâm linh, hay họ học từ tấm gương vũ trụ phản chiếu lại những hoàn cảnh vật lý mà tâm ảnh của họ đã phóng ra. Cho nên mục đích của cuộc sống KHÔNG PHẢI là để đem lại sự thoải mái. Muc đích của các chân sư không phải là tránh cho địa cầu không bị mất cân bằng. Chúng tôi không yêu cầu người tâm linh đọc bài cầu nguyện hay làm bất kỳ nghi thức nào hầu tránh tai ương và giúp cho dân chúng sống thoải mái mà không thay đổi tâm thức. Nói cách khác, cho dù chúng tôi có lòng yêu thương và từ bi đối với mọi người – hay đúng hơn, bởi vì lòng yêu thương và từ bi của chúng tôi – chúng tôi sẽ cho phép biến cố vật lý xảy ra nếu đó là cơ hội cho con người học hỏi.     

Con hãy cẩn thận đừng rơi vào tư duy cuồng đại là cưỡng ép người khác. Chúng tôi, các chân sư, không hề có mục đích khiến cho con người lấy một số chọn lựa nhất định nào. Chúng tôi chỉ có mục đích đem đến cho mọi người một cơ hội học hỏi. Một khi cơ hội đã được đưa ra, chúng tôi sẽ để yên cho họ hoàn toàn tự do chọn lựa. Cho dù họ có chọn gì đi nữa thì chúng tôi vẫn sẵn sàng giúp họ tăng trưởng tâm thức từ mức của họ. Và như vậy, chúng tôi sẽ lại đưa thêm những cơ hội học hỏi mới, và chúng tôi lại để yên cho họ tự do chọn lựa.

Tất nhiên, nhiều người trên địa cầu đã tự cắt đứt không học được trực tiếp từ chúng tôi, và vì vậy cơ hội học hỏi duy nhất của họ sẽ là khi họ gặp những hoàn cảnh vật lý mà chính họ đã trình diễn ra qua tâm thức của họ. Và tất nhiên chúng tôi cũng dư biết, hầu hết mọi người đều từ chối xem những hoàn cảnh đó là kết quả của trạng thái tâm thức của họ. Thay vào đó, họ phóng chiếu trách nhiệm của họ ra bên ngoài, và họ đổ cho Thượng đế, hay cho số mạng, hay hên xui may rủi, hay người khác, hay cả định luật của thiên nhiên. Nhưng quá khứ suốt bao nhiêu thời đại đã chứng minh rằng khi người ta cứ liên tục gặp hoài cùng một hoàn cảnh, thì rốt cuộc sẽ đến một điểm khi họ bắt đầu tự hỏi liệu CHÍNH HỌ có cần thay đổi hay không. Lối học này thật là đau đớn, nhưng trên dài hạn, nó có một tỷ lệ thành công rất cao. Và một khi dòng sống đã học được bài học đau đớn đó rồi, nó sẽ không dễ quên được đâu.

Bất kỳ đối thủ nào cũng là sản phẩm của trạng thái tâm con

Hỏi: Con có một câu hỏi rất quan trọng. Khi nhìn ngược về lịch sử, chúng ta thấy nhiều lần con người bị tấn công dữ dội do niềm tin của mình. Chẳng hạn hàng ngàn hay hàng triệu người đã bị thiêu sống. Nước Đức của Hitler có hàng triệu người bị giết hại. Và cả trại tập trung nữa. Và bây giờ có thể trong thế giới văn minh hơn, chúng ta có bác sĩ tâm thần? Bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta không?

Con gặp một tình huống vô cùng khó chịu khi con nói chuyện về những phép lạ mà con chiêm nghiệm khi sử dụng các giáo lý, kỹ thuật của thày cùng các chân sư khác. Có một người ghét con đến độ họ bảo con bị bệnh tâm thần và người ta phải nhốt con vào bệnh viện tâm thần… và con bắt đầu nghĩ có lẽ sắp tới lúc mình phải gặp bác sĩ tâm thần. Có lẽ chúng con là học trò tâm linh phải sẵn sàng trước tình thế này?

Và đây là câu hỏi quan trọng: Liệu bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta? Việc họ nhốt người ta vào bệnh viện tâm thần do niềm tin tâm linh vào phép lạ có hợp lý không? Đối với nhiều người, việc đó thật kỳ lạ, thậm chí đáng tởm. Và chúng ta phải đối phó thế nào với đe dọa đó, nếu đó là một đe dọa?

Vậy làm thế nào để hét to cho mọi người nghe được khi chúng ta bị đe dọa như vậy? Làm thế nào chúng con nói lớn về Nước Trời như thày? Thượng đế có phải là người bảo vệ an toàn cho chúng con? Hay có lẽ đó là rủi rỏ và cái giá mà chúng con phải chịu vì Nước Trời và cứu rỗi? Chắc hẳn là có nhiều rủi ro và đe dọa như vậy? Và làm thế nào vượt qua sợ hãi? Xin thày giải thích. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/8/2010.

Chúng ta hãy nhìn vấn đề này ở mức độ cá nhân và mức độ xã hội, trước hết là cá nhân. Nếu con, với tư cách một người tâm linh, muốn các bác sĩ tâm thần là mối đe dọa cho con, thì theo Luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền có trải nghiệm đó. Bất kỳ hình tư tưởng nào mà con phóng ra tấm gương vũ trụ cuối cùng sẽ được phản chiếu trở về con dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất.

Như chúng tôi, các chân sư, đã đề cập nhiều lần và từ nhiều khía cạnh khác nhau, một số hành giả tầm đạo vẫn bị mắc kẹt, hoặc it nhất bị phần nào mù quáng, trong tư duy cuồng đại. Trong khung tư duy này, con cố tình – nhưng tâm ý thức của con không hề hay biết – tìm kiếm một đối thủ, một kẻ thù mà con có thể chỉ định làm mối đe dọa, để con có cái cớ mà không nhận lấy hoàn toàn trách nhiệm về trạng thái tâm con. Chẳng hạn, con có thể trong tiềm thức tin rằng con không thể bình an hoặc biểu đạt được tâm Ki-tô của con bởi vì một số điều kiện ngoại cảnh không hội đủ. Những điều kiện này không hội đủ là vì có một đối thủ đang chống lại những điều kiện “toàn hảo” sẽ cho con sự an bình hay tâm Ki-tô mà con đang thiếu. Và như vậy, con có cái cớ để tập trung vào việc giao chiến với đối thủ đó thay vì thể hiện tâm Ki-tô của con – là điều mà đáng lý con phải làm bất kể mọi điều kiện ngoại cảnh, vì TẤT CẢ mọi điều kiện vật chất đều chống lại sự biểu hiện tâm Ki-tô.     

Kỳ thực, đối thủ đó không hề có, nhưng vì thế gian đang bị tác động quá nặng bởi tư duy nhị nguyên, nên con luôn luôn có thể tìm thấy một ai đó có vẻ là đối thủ của con. Lý do là vì chính con là người đã tạo ra hình tư tưởng về một đối thủ nguyên mẫu. Và bởi vì con không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm con, con tự thuyết phục là thật sự có một đối thủ đang sẵn sàng nhảy bổ vào con bất cứ lúc nào, không liên quan gì tới trạng thái trong tâm con.  

Khi con phóng chiếu hình tư tưởng này vào xã hội nơi con sinh sống, thế nào cũng có một ai đó có vẻ như xác nhận hình tư tưởng của con là đúng – và như vậy con chỉ định người đó, hay nhóm người đó, là đối thủ cá nhân của con. Con càng “đánh nhau” với đối thủ bao nhiêu thì hình như đối thủ càng đánh lại bấy nhiêu (và trong một số trường hợp, đối thủ sẽ đánh lại thật do chính họ cũng có người bị kẹt trong tư duy nhị nguyên). Như vậy, mọi hành động của đối thủ dường như xác nhận hình tư tưởng là người đó thực sự là đối thủ của con.

Cuộc vật lộn này sẽ kéo dài bao lâu? Đúng vậy, do phần vật lộn của con thực sự diễn ra trong tâm con, cho nên nó sẽ phải tiếp diễn cho tới khi con quyết định con đã chán ngấy trải nghiệm đó và con quyết định xét lại những hình tư tưởng mà con phóng ra. Như ta có trình bày trong một câu trả lời khác, một số người đã biến chính quyền của họ thành đối thủ, và cuộc vật lộn này sẽ không bao giờ đem lại Thời Hoàng kim.

Không một vị thày tâm linh nào sẽ có thể thuyết phục được con là cuộc giao chiến của con chỉ xảy ra trong tâm con cho tới khi con sẵn lòng xem xét cách con nhận thức cuộc sống, là cách con nhìn cuộc sống xuyên qua cái tư duy nhị nguyên cho rằng phải có một đối thủ. Việc xem xét này có thể khiến con nhận ra là nhận thức về cuộc sống không phải là một sinh hoạt thụ động, qua đó con đứng nhìn ngoại cảnh như một cái gì hiện hữu độc lập với tâm con. Kỳ thực, đó là một sinh hoạt tích cực qua đó con phóng chiếu hình tư tưởng vào tấm gương vũ trụ, và tấm gương này chỉ phản chiếu lại dưới một hình thức trông như ngoại cảnh. Điều này đã được cơ học lượng tử chứng minh – cho những ai sẵn sàng “nhìn” vượt khỏi nhận thức của mình.

Tất nhiên, như được giải thích ở nơi khác, nhận thức được sinh ra từ một trạng thái nào đó của tâm, và một khi cái Ta Biết tự đồng hóa với trạng thái này, nó sẽ “nhìn” xuyên qua phin lọc của tự ngã. Còn tự ngã thì không bao giờ có khả năng chất vấn trạng thái đã sinh ra nó. Và như vậy, tự ngã sẽ không bao giờ thăng vượt được tâm thức mong muốn một đối thủ. Điều này có nghĩa, lối thoát duy nhất là cái Ta Biết phải tự nhận diện nó là tỉnh giác thuần khiết, không những đứng vượt ngoài nhận thức của tự ngã, mà vượt ngoài cả trạng thái nơi tự ngã khởi lên.  

Nếu con nghiên cứu trạng web này kỹ lưỡng, con sẽ thấy ta đã nhiều lần cảnh báo các hành giả tầm đạo là phải cố gắng cân bằng, tránh cực đoan. Nếu con nghe theo lời khuyên này, các bác sĩ tâm thần sẽ không trở thành mối đe dọa cho con đâu, và con sẽ không có nguy cơ bị “nhốt trong bệnh viện tâm thần”. Lý do thật giản dị. Một bác sĩ tâm thần làm đúng theo khoa mình sẽ không đánh giá tín ngưỡng tâm linh hay tôn giáo của con, bởi vì bác sĩ tâm thần được huấn luyện để coi mọi tin tưởng là sản phẩm của tâm (điều này không sai, như ta vừa giải thích, đối với một người chưa đạt được tâm thức Ki-tô).

Cho nên, dù con hay những người quanh con có thể xem niềm tin tâm linh của con là kỳ lạ, một nhà chuyên nghiệp về tâm thần sẽ không nhìn vào những niềm tin đó mà sẽ tập trung vào cách cư xử của con. Chỉ khi nào có mối liên hệ rõ ràng giữa niềm tin và cách cư xử mất quân bình hay cực đoan, thì niềm tin của con mới được xét đến. Và ngay cả khi đó, bác sĩ tâm thần cũng sẽ không có vấn đề gì với niềm tin của con mà sẽ chỉ xem xét nó hầu hạn chế cách cư xử mất quân bình.

Tất nhiên ở đây, ta chỉ nói tới các bác sĩ tâm thần đúng đắn với nghề nghiệp, và đối với họ, mọi tín ngưỡng đều là sản phẩm của tâm, thậm chí cả tín ngưỡng cho rằng không có Thượng đế cũng là sản phẩm của tâm. Đương nhiên, sẽ có một số bác sĩ tâm thần không giữ được khoảng cách nghề nghiệp đó khi họ tin rằng niềm tin vào chủ nghĩa duy vật không phải là một niềm tin mà là thực tại. Và những kẻ duy vật “ngoan đạo” này có thể trở thành cuồng tín không khác gì những tín đồ “ngoan đạo” trong tôn giáo.

Nhưng điều ta muốn nói ở đây là khuyên mọi hành giả tầm đạo nên cố gắng cân bằng, và điều này thực sự có nghĩa là thăng vượt tư duy nhị nguyên cũng như cuộc tranh đấu cuồng đại. Nếu con cho phép con giữ mãi tư duy cuồng đại thì ở buổi bình minh của Thời đại Bảo bình, con sẽ bị tâm thức tập thể đang tăng mạnh “bắt buộc” tư duy cuồng đại đó ngày càng trở nên cực đoan thì mới duy trì được, với kết quả là hành vi của con sẽ mất quân bình hơn nữa, thu hút sự chú ý của các nhà tư vấn, tâm lý, tâm thần, thậm chí cả nhân viên pháp luật.      

Rồi nếu con phản ứng lại tình thế đó trong tư duy cuồng đại, con sẽ chỉ định những nhà chuyên nghiệp đó – là những người nói chung chỉ cố làm phận sự của mình – là những đối thủ mới của con, và con sẽ lại dùng các niềm tin cuồng đại để biện minh cho những hành vi cực đoan hơn. Điều này hẳn sẽ đưa con vào một cơn xoắn ốc tiêu cực có thể đem con vào trại tâm thần hay nhà tù (trong những trường hợp cùng cực, nó có thể dẫn đến tự vận mà người ta gọi là “tự vận do cảnh sát phụ lực”). Ta mong là những học trò chân chính của trang web này sẽ tránh khỏi cơn xoáy lốc đó. Tất nhiên, ta cúi đầu trước Luật Tự quyết cũng như sự kiện con cần trải nghiệm mọi chuyện con muốn hầu vượt qua tư duy cuồng đại. Một số người thực sự phải đưa tư duy này cho đến cùng cực trước khi ngộ ra là họ không còn muốn vật lộn với một đối thủ nào nữa, và khi đó, họ sẽ quyết định từ bò cái tư duy đã tạo ra đối thủ (và do đó đã “bắt buộc” tấm gương vũ trụ phải gửi về họ một đối thủ bằng xương băng thịt).  

Ta cũng thấy được là một số người có thể chỉ vào cuộc đời của ta, hoặc tiền kiếp của một số chân sư khác, và bảo rằng đã là Ki-tô thì phải có lập trường không khoan nhượng. Nhưng giữ vững lập trường cho sự thật KHÔNG đồng nghĩa với hành vi mất quân bình hay cực đoan. Quả là đã có rất nhiều người đã giữ lập trường cương quyết rồi bị bức hại, nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy họ không giữ vững một lập trường phát xuất từ tâm trạng mất quân bình. Tương tự, con cũng tìm thấy nhiều người tin chắc là mình ùng hộ những nguyên lý cao cả, nhưng kỳ thực họ bị sai khiến bởi nhu cầu của tự ngã muốn chiến đấu hoặc muốn tâng mình lên cao hơn mọi người.     

Nói cách khác, hành động bên ngoài nhằm giữ vững lập trường có thể mang động cơ là tâm Ki-tô hay tâm vị kỷ. Và chỉ những ai cố giữ quân bình mới có thể tránh rơi vào cái bẫy mà tự ngã đã cài đặt, là “giữ vững lập trường” cho hình tư tưởng của mình thay vì cho sự thật cao cả. Đâu là sự khác biệt? Một điểm sẽ giúp con lượng định là sự sẵn lòng tha thứ những ai đã hành hạ mình. Người bị tự ngã sai khiến sẽ nhảy vào đấu tranh nhị nguyên, sẽ quy trách nhiệm và đổ lỗi cho bên ngoài, và do đó sẽ không sẵn lòng tha thứ (thật vậy, chính mong muốn quy trách nhiệm của tự ngã đã khiến người đó giữ vững lập trường). Ngược lại, người thực sự đến từ tâm Ki-tô sẽ sẵn sàng tha thứ, như trong câu ta đã nói: “Thưa Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”. Con cũng có thể nghiên cứu cuộc đời của Thomas More đã hoàn toàn tha thứ nhà vua ích kỷ đã kết án ông tử hình.    

Ngày nay chúng ta đang đi vào một thời đại khi con người ngày càng có thể giữ vững lập trường của mình mà không rơi vào lối cư xử quá khích. Nói cách khác, cho dù người ta, hay thậm chí cả xã hội rộng lớn, có thể xem quan điểm của con là cực đoan, cách cư xử của con không bắt buộc phải cực đoan. Đúng hơn, thời nay con sẽ có tác động lớn lao hơn nếu con giữ vững lập trường một cách quân bình, và con dạy dỗ một cách tiếp cận tâm linh quân bình – thay vì một cách có thể bị xem là cuồng tín. Lịch sử đã chứng kiến quá nhiều người cuồng tín theo đạo. Điều cần thiết trong thời đại Bảo bình là có những con người có khả năng làm sáng tỏ các nguyên lý tâm linh để quần chúng có thể hiểu và liên hệ được – do nó vang dội và đánh thức một cái gì đó trong lòng quần chúng.

Phản ứng thế nào khi tu tập tâm linh không đem lại kết quả vật lý mong muốn?

Hỏi: Trong suốt lịch sử, nhiều người có đạo và hành giả tầm đạo đã từng cầu nguyện, đọc bài chú hay thỉnh cầu tràng hạt để đem lại những thay đổi vật lý cụ thể trên địa cầu hay trong xã hội. Trong nhiều trường hợp, những thay đổi này đã không xảy ra. Làm thế nào chúng con có thể tránh được tâm trạng nản chí, vì cá nhân con có quen biết một số người đã bỏ cuộc khi Thượng đế không ban cho họ những gì họ cầu nguyện? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2007.

Các học trò yêu dấu của ta cùng mọi người đã đọc những bài nguyện tràng hạt của ta để đem lại thay đổi trên thế giới, hãy đừng rơi vào sự cám dỗ luôn luôn có mặt mà trở nên chán nản vì con đã không nhìn thấy kết quả cụ thể của công việc tâm linh của con. Hãy luôn luôn nhớ rằng các con đang làm công việc TÂM LINH, và vì thế, con có thể thấy hay không thấy những kết quả trong cõi vật lý, hoặc con có thể không thấy kết quả nhanh chóng như con mong đợi. 

Tại sao vậy? Trước hết vì Luật Tự quyết. Nếu chỉ cần một số ít người đọc bài nguyện tràng hạt để “bắt buộc” hàng trăm triệu người khác phải hành xử một cách nào đó, thì các con đã kiểm soát được số người to lớn kia rồi, và điều này đã vi phạm Luật Tự quyết. Học trò của chân sư thăng thiên tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết và KHÔNG BAO GIỜ tìm cách ép buộc người khác. Chỉ có những kẻ theo hàng ngũ phản-Ki-tô – cho dù họ có biết hay không biết – mới tìm cách cưỡng ép người khác qua công việc tâm linh.

Không có gì ban ra cho địa cầu này mà không thể bị lạm dụng bởi những người bị mù quáng bởi tâm thức nhị nguyên. Ta đã nỗ lực rất nhiều để khiến cho việc lạm dụng những bài nguyện tràng hạt của ta vô cùng khó khăn, nhưng người ta vẫn lạm đụng được dù với ý định tốt đẹp nhất. Nếu con đọc bài nguyện với tâm bám mắc của tự ngã để đạt được một số kết quả nhất định, con sẽ gửi một xung lượng nhị nguyên của sợ hãi vào tâm thức tập thể, và đây là một hình thức tà thuật nhằm bắt ép người khác.

Con hãy lưu ý, ngay cả khi con tìm cách ép buộc người khác phải làm những điều có vẻ lợi lộc cho họ, con vẫn đang làm chuyện tà thuật vì con đang vi phạm Luật Tự quyết. Tà thuật là bất kỳ hoạt động nào sử dụng sức mạnh tâm linh để ảnh hưởng hay lật ngược quyền tự quyết của người khác – ngay cả khi thực hiện với ý định có vẻ nhân từ. Con thấy đấy, mục đích của hành tinh địa cầu là một phòng học vũ trụ – KHÔNG PHẢI để sản xuất ra những kết quả vật lý nhất định. Mọi thứ đều tùy thuộc vào con người sử dụng quyền tự quyết của mình, và điều mà Thượng đế muốn thấy là con người sẽ học hỏi, ngay cả khi họ phải học qua sự trải nghiệm hậu quả đau đớn do chọn lựa của họ. 

Ta không có ý nói là những ai đọc bài nguyện tràng hạt của ta đều đang làm trò ma thuật – ta chỉ muốn nhấn mạnh một điểm. Sự thật là mọi người tâm linh đều phải đối mặt với thử thách mình sẽ phản ứng thế nào khi mình không đạt được kết quả mong muốn trong công việc tâm linh. Có hai cám dỗ chính. Một là dùng sức mạnh tâm linh để ảnh hưởng người khác, và điều này là tà thuật. Hầu hết mọi người tâm linh đều không dùng tà thuật, nhưng nhiều người sẽ rất dễ rơi vào cám dỗ thứ hai sau đây, là trở nên chán nản khi không nhìn thấy kết quả cụ thể từ công việc tâm linh của mình. Đây hiển nhiên là trường hợp của nhiều tín đồ các tôn giáo truyền thống, những người cầu nguyện Thượng đế để đời sống mình thay đổi nhưng mình lại không sẵn lòng, hay không có khả năng, thay đổi tâm thức mình – như ta đã giải thích trong sách của ta.         

Con cần nhìn nhận rằng mọi công việc tâm linh chân chính là một mối đe doạ cho các tà lực. Tuyến phòng thủ đầu tiên của chúng là ngăn cản con tham gia vào việc tâm linh. Khi không thành công, tuyến phòng thủ thứ hai của chúng là gây chán nản trong lòng con để con buông xuôi không cố tạo sự thay đổi, đặc biệt những thay đổi trên tầm vóc thế giới. 

Để làm điều này, chúng chỉ cần sử dụng chính cái tâm lý đã khiến con quyết định tham gia vào việc tâm linh. Con thấy đó, người tâm linh biết rõ là có những điều không ổn trên hành tinh và họ thấy nhu cầu phải làm việc tâm linh để cải thiện tình thế. Thật là điều tự nhiên khi những người ở một mức tâm thức nào đó tham gia vào việc tâm linh vì họ muốn đóng góp đem lại thay đổi tích cực cho thế giới. Đây chính là động cơ – nếu có thể nói như vậy – thúc đẩy những người đó đã hy sinh thời gian của mình để cầu nguyện, lần tràng hạt hay sử dụng một số kỹ thuật khác.

Con cần lưu ý, điều này không có gì sai trái – ở một mức nào đó trên con đường tâm linh. Tuy nhiên, điều không tránh được là khi con bước vào tiến trình, con sẽ phải đối mặt với cám dỗ của chán nản. Con càng bám mắc vào những kết quả cụ thể trong cõi vật lý bao nhiêu thì cám dỗ sẽ càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Chúng tôi đã chứng kiến rất nhiều học trò chân thành đã đảo lộn cuộc sống mình và nỗ lực lớn lao để đem lại một thay đổi nhất định trong đời mình hay, trên một bình diện rộng lớn hơn, cho quốc gia hay cho toàn cầu. Và khi sự thay đổi mong muốn không thành hình vào ngày dự kiến, họ bắt đầu lắng nghe kẻ cám dỗ, kẻ luôn luôn ở đó tìm cách lợi dụng tình thế để khiến họ uống ly thuốc độc của chán nản – là một loại rung động rất đặc thù sẽ sinh sôi một cách hung hãn trong trường năng lượng của họ một khi họ mở cửa cho nó vào.     

Nhưng cũng có một số người sẽ cưỡng lại được cám dỗ, và họ sẽ tiếp tục công việc tâm linh suốt mấy chục năm trời và có khi cả đời. Tuy nhiên, ta không cho đây là cách phản ứng hay nhất. Vì con thấy đó, nhiều người sẽ vẫn tiếp tục đeo đuổi một số thay đổi vỏ ngoài nhất định – giống như là họ cứ đẩy nó tiếp về phía trước như con lừa đẩy củ cà-rốt treo lủng lẳng trước mũi nó. 

Vậy đâu là cách phản ứng mà ta đang cố giúp con thấy được? Đó là con phải nhận ra là đường tu tâm linh có nhiều giai đoạn, và những gì phù hợp với một giai đọan sẽ không phù hợp với một giai đoạn cao hơn. Khi con lần đầu tiên nhận thức nhu cầu làm việc tâm linh, thật là điều tự nhiên nếu con bị thúc đẩy bởi mong muốn đóng góp đem lại những thay đổi vật lý. Nhưng một khi con đã trưởng thành hơn trên đường tu, con cần phải xét lại động cơ của mình và bước lên một động cơ cao hơn. Như Albert Einstein có nói, thật là điên rồ nếu con cứ tiếp tục làm một điều gì đó mà lại kỳ vọng một kết quả khác hơn. 

Sau một thời gian làm việc tâm linh – mà chiều dài tùy theo từng người – với động lực muốn giúp thay đổi cụ thể trong cõi vật lý, con cần xét lại cách tiếp cận của con và bước lên một động lực cao hơn. Động lực đó là con phải ngừng tập trung vào những kết quả bên ngoài mà nhận ra rằng bất cứ thay đổi nào trong cõi vật lý cũng PHẢI bắt đầu với một sự thay đổi trong ba cõi cao của tâm con hay của vũ trụ. Cho nên cách thật sự để thay đổi vật lý là đầu tiên con phải làm việc để thay đổi tâm thức con người.

Khi con ngộ ra điều này, con hiểu ra là địa cầu là một phòng học vũ trụ. Ở đây, tiến trình học hỏi không bao giờ ngừng lại vì các dòng sống trên hành tinh ở nhiều tầng tâm thức khác nhau. Điều này dẫn đến hai kết luận quan trọng. Một là việc làm tâm linh của con không bao giờ kết thúc, vì luôn luôn có khả năng tâm thức tập thể lẫn cá nhân đã tăng trưởng. Và hai là công việc tâm linh của con sẽ không bao giờ uổng phí.

Bởi vì, cho dù con không thấy một thay đổi nhất định trong cõi vật lý, SẼ có một thay đổi xảy ra trong các cõi cao của vũ trụ vật chất. Công việc tâm linh của con SẼ mang lại kết quả tích cực trong các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc và biến hóa tâm thức tập thể. Người ta SẼ dễ dàng hơn có được những chọn lựa tốt đẹp hơn trong tâm ý thức, và chính những chọn lựa này bởi tâm ý thức sẽ định đoạt điều gì sẽ thị hiện ra trong vật lý và khi nào nó thị hiện.

Nói cách khác, con không thể kiểm soát, và không nên có bất kỳ ý định nào để kiểm soát những chọn lựa của người khác. Vì vậy con không thể có bám mắc vào những thay đổi vật lý vì con để đó cho mọi người chọn lựa. Con thấy rõ là vai trò của con là làm nhẹ bớt tâm thức hành tinh hầu mọi người có nền tảng để chọn lựa tốt hơn. Và một khi con làm điều đó, con hãy để mặc phần còn lại cho sự tự quyết.

Điều này cũng có nghĩa là con ngừng định ra một thời điểm nhất định mà thay đổi phải xảy đến, vì con hiểu là ngày giờ cũng tùy thuộc vào quyền tự quyết của người khác. Mọi người không ở cùng mức tâm thức với con, cho nên những thay đổi hiển nhiên đối với con có thể hoàn toàn vô hình cho người ở tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên con biết chắc là nếu con cứ tiếp tục làm việc tâm linh, nếu con cứ làm nhẹ gánh tâm thức tập thể, sẽ chỉ là một vấn đề thời gian khi một sự khai ngộ xảy đến trong tâm ý thức của một túc số cần thiết những con người trên hành tinh.  

Con có thấy điều ta nói? Công việc tâm linh KHÔNG BAO GIỜ bị uổng phí! Sẽ chì là một vấn đề thời gian trước khi túc số đó sẽ đạt được và con sẽ thấy được kết quả trong cõi vật lý – nhưng chính xác sẽ bao lâu nữa thì đây là một phương trình thật phức tạp vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào cách con người sử dụng quyền tự quyết của mình.

Cho nên khi con làm bất kỳ công việc tâm linh nào, con luôn phải nhớ rằng con KHÔNG tìm cách ép buộc bất cứ ai chọn lựa, mà con chỉ tìm cách CHO HỌ MỘT NỀN TẢNG ĐỂ HỌ CHỌN LỰA TỐT HƠN bằng cách họ nâng cao tâm thức và sự nhận thức về một số vấn đề đặc thù.

Vì vậy, mặc dù nhiều bài nguyện tràng hạt có đề cập đến một số vấn đề cụ thể và những thay đổi cần thiết, con cần nhớ rõ là con KHÔNG tìm cách “ép buộc” người khác phải thực hịên thay đổi. Con đang nói chuyện với tâm thức tập thể lẫn cá nhân để nâng cao nhận thức của mọi người hầu họ thấy được những gì họ không thể thấy được hiện thời, rồi họ chọn lựa theo sự hiểu biết cao nhất của họ. 

Chúng tôi, các chân sư, KHÔNG tìm cách cưỡng ép sự thay đổi trên nhân loại – chúng tôi để chuyện đó cho các thế lực phản-Ki-tô. Chúng tôi tìm cách giúp nhân loại chọn lựa tốt hơn, giúp họ thay đổi khi chính họ đã thực sự hiểu được quyền lợi của họ một cách sáng suốt. Nhưng để chuyển đổi cái nhìn như vậy, con cần vượt khỏi hình ảnh một Thượng đế nóng giận mà các tôn giáo truyền thống đã vẽ lên – bởi vì loại thượng đế này thật sự đang tìm cách ép uổng con người thay đổi.

Khi con nhìn ngược lại lịch sử, con sẽ thấy các thay đổi tích cực đã đến chính vì một túc số nhân loại đã thay đổi tâm thức và bắt đầu hành xử theo cách hiểu mới. Đó là lý do tại sao người ta không còn tin là địa cầu này bằng phẳng, và con sẽ thấy là CÓ một chiều hướng tổng quát hướng thượng, là dấu hiệu rõ ràng tâm thức nhân loại đang nở rộng.

Tất nhiên, con cũng thấy một số giai đoạn ngưng trệ hay thậm chí lùi bước. Nhưng khi con vươn lên động lực cao hơn, con thấy được là ngay cả những giai đoạn này cũng chỉ đơn giản là bước đệm cho những bước đột phá mở mang hiểu biết.

Hình ảnh ta muốn trao cho con ở đây là như sau: sự kiện con có niệm tinh khôi KHÔNG có nghĩa là con có viễn quan về một kết quả vật lý nhất định và nếu kết quả không thành thì con nghĩ ngay là có điều gì khổng ổn – và con đánh rơi viễn quan. Cầm giữ niệm tinh khôi có nghĩa là con sẽ giữ viễn quan là chiều hướng đi lên vẫn tiếp diễn bất kể điều gì xảy ra trong ngắn hạn. Bởi vì dáng vẻ vật lý chỉ là hệ quả của những nguyên nhân ở ba tầng cao của vũ trụ cũng như ở cõi tâm linh.    

Nó giống như một làn sóng hình sin, thăng trầm lúc cao lúc thấp, chỉ khác là thay vì cứ chạy ngang như hình sin, làn sóng tâm thức đi lên cái dốc. Mặc dù có những lúc suy yếu tạm thời nhưng hướng chung vẫn là đi lên. Tương tự như vậy, mặc dù hoàn cảnh thế giới có thăng có trầm, nhưng cử động chung là trong chiều hướng đi lên, bởi vì chính Dòng sông của Sự sống luôn tiến lên cao hơn, và không một thế lực nào trên địa cầu sẽ đủ mạnh để ngăn chặn lại.      

Trong phần chót cuốn sách của thày Maitreya (Master Keys to Spiritual Freedom) có một lời dạy vô cùng quan trọng về nhu cầu phải tách rời công việc tâm linh khỏi lòng mong muốn thấy kết quả cụ thể, và tại sao đây là cái bẫy thật nguy hiểm cho những người trưởng thành tâm linh hơn. Đó là một lời giải thích rất bao quát mà ta sẽ không lặp lại ở đây, và ta sẽ chỉ khuyên tất cả các học trò trưởng thành tâm linh hãy học tập sách này và cố gắng nhập tâm bài học.  

Bởi vì, con yêu dấu, khi con mới bước đi trên đường tâm linh, con vẫn nhìn phat triển tâm linh qua phin lọc của nhị nguyên. Trong con vẫn còn sự sợ hãi, khiến con sợ cây gậy và ham củ cà-rốt. Con làm việc tâm linh để trốn tránh địa ngục hay để ngăn chặn thảm họa cho hành tinh. Hoặc con làm việc tâm linh để nhận được phần thưởng cá nhân hay phần thưởng của một hành tinh địa đàng. Khi con tiến xa hơn, con cần vượt lên trên động lực nhị nguyên đó và ôm lấy động lực cao hơn, tức là mọi điều con làm đều phát xuất từ mong muốn thể hiện bản sắc tâm linh của con – con để cho mặt trời tâm linh của con tỏa chiếu vào thế giới vật chất. Con chuyển từ một động lực sợ hãi sang động lực tình thương, là tình thương toàn hào đánh bay mọi sợ hãi.   

Rồi sẽ tới một điểm khi con không còn làm việc tâm linh với kỳ vọng nhìn thấy kết quả cụ thể nữa. Con làm vì đó là sự thể hiện con người của con. Sự thay đổi thái độ này – bước ra ngoài nhị nguyên và bước vào bất nhị – được mô tả thật rõ ràng và ngắn gọn trong cuốn sách mới, “Nghệ thuật bất chiến” (The Art of Non-war).

Ở dưới, hãy là tất cả những gì ở Trên. Đây là điều tất nhiên sẽ đem lại những thay đổi to lớn nhất, bởi vì bây giờ con nhận ra là không phải cái ngã vỏ ngoài của con đang làm việc, mà là Cha của con ở trong con – cái ta tâm linh – đang làm việc qua trung gian con. Ngã ý thức của con bây giờ thấy nó là một phần nối dài của Thượng đế, như Giê-su từng bày tỏ, “Cho đến nay Cha ta làm việc và ta làm việc.” Và đây là bước tiến mà các học trò ở Nga cũng như ở mọi nơi khác có thể làm để đưa công việc phụng sự của mình lên một mức cao hơn gấp bội.

Bản sắc sa ngã và bản sắc tách biệt

Hỏi: Liệu đã từng có một thiền thần sa ngã nào đã quay đầu, nhập lại con đường và trở thành Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/5/2007.

Không, một thiên thần sa ngã không thể được cứu chuộc – vì lý do giản dị là cái Ta Biết của mọi sinh thể là điều mà nó nghĩ nó là. Cho nên nếu con nghĩ con là một thiên thần sa ngã, con không có bất kỳ hy vọng nào quay ngược trở lại, cất bước trên con đường tu tâm linh và bước vào Nước trời.

Và đó là lý do ta đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống của mình sẽ mất sự sống, còn ai sẵn lòng bỏ mạng sống của mình vì ta, sẽ tìm thấy sự sống”. Vậy những ai sẵn lòng từ bỏ bản sắc sa ngã của mình, tức là bản sắc tách biệt khỏi Thượng đế, chắc chắn có thể quay đầu, và điều này đã xảy ra cho nhiều cá nhân. Tuy nhiên ta phải nói là trong số những sinh thể sa ngã cứng nhắc và khép kín nhất – nhóm những sinh thể cứng nhắc và khép kín nhất – không có một ai đã được cứu chuộc cho tới giờ.  

Như chúng tôi nay đã giải thích trong quyển sách của Maitreya lẫn quyển của Mẹ Mary, con thực sự là điều mà con nghĩ con là. Cho nên để vĩnh viễn bước vào cõi tâm linh và thăng thiên, con phải vượt qua mọi bản sắc thế gian. Ta phải nói cho con sự thật trung thực: điều gì áp dụng cho thiên thần sa ngã cũng áp dụng cho mọi ai khác đã gia nhập vào tâm thức nhị nguyên – con phải để cho ý niệm bản sắc tách biệt chết đi trước khi con thăng hoa.  

Và như vậy trong một nghĩa nào đó, thật là không quan trọng con đã sa ngã như thế nào hay sa ngã ở đâu, bởi vì ai ai cũng phải đi theo cùng một tiến trình. Và ta cũng nói cho con, có những sinh thể đã không sa ngã ở những bầu cõi cao hơn do đã chống đối lại Thượng đế, mà họ đã sa ngã vì những lý do có thể gọi là “ngây thơ” hơn – có thể thậm chí vì họ đã đi theo một người thày giả, vì họ đã không hẳn sẵn lòng nhận trách nhiệm về đời của mình và do đó đã mong muốn ai khác lấy quyết định dùm cho mình. Và một số sinh thể như thế – là những sinh thể chưa từng biểu lộ bất kỳ xấu ác nào, chưa từng thể hiện mong muốn kiểm soát người khác – vẫn bị bao trùm trong bản sắc vị kỷ đến độ họ không chịu buông nó ra. Và như thế, ngay cả những sinh thể có vẻ vô hại và ngây thơ cũng đã đi vào cái chết thứ hai khi thời gian của họ đã hết.    

Vậy con thấy đó, con yêu dấu, con không thể nhìn sự việc một cách hoàn toàn trắng đen rồi bảo rằng chỉ có các sinh thể sa ngã mới đi vào cái chết thứ hai. Vì thật ra con cũng có thể nói là bất cứ ai mang một bản sắc tách biệt cũng là một sinh thể sa ngã. Và nếu sinh thể đó không sẵn sàng từ bỏ bản sắc sa ngã này, cái bản sắc tách biệt, thì rốt cuộc nó cũng sẽ đi vào cái chết thứ hai khi nó hết thời gian.