Bốn thể phàm và quả vị Ki-tô

Hỏi: Có đúng là bốn thể phàm của dòng sống luôn luôn hiện hữu cùng một lượt, ngay cả khi dòng sống không đang hiện thân trong cõi vật lý? Khi dòng sống bắt đầu ngừng đồng hóa với bốn thể phàm của mình, liệu bốn thể này có ngừng hiện hữu hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, con cần phân biệt giữa xác thân vật lý như một vật thể, và khía cạnh đó của tâm kết nối chặt chẽ nhất với xác thân. Các chân sư giảng là khi con bước vào một kiếp hiện thân vật lý, con khoác vào một thân xác vật lý được tạo ra đặc biệt cho kiếp sống đó. Nhưng con đã mang sẵn trong bốn thể phàm của con một khía cạnh của tâm được thiết kế để nối kết trực tiếp với thân xác vật lý mà con mặc vào trong kiếp đó, và tất nhiên khía cạnh này của tâm thì con mang từ kiếp này sang kiếp khác.

Khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai, hiển nhiên thân xác vật lý của con sẽ giải thể, cho nên con không mang thân xác này theo con. Nhưng con mang theo khía cạnh của cái mà chúng ta có thể gọi là tâm vật lý, tức khía cạnh vật lý của tâm, cùng một lúc với các khía cạnh khác ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Như vậy cả bốn tầng này của tâm – chứ không phải thân xác vật lý – đi cùng với nhau khi con bước ra ngoài hiện thân, và tùy theo mức tâm thức của con, con vẫn làm việc với chúng khi con ở ngoài hiện thân.

Trên địa cầu có nhiều dòng sống chưa thức tỉnh đường tu tâm linh, cho nên họ không thể thực sự làm việc một cách ý thức với bốn thể phàm khi ở ngoài hiện thân. Họ thường bỏ hết thì giờ của họ ngoài hiện thân để nghỉ ngơi, hay để kinh qua một số trải nghiệm tác động đến sự tăng triển liên tục của họ. Nhưng đối với những ai đang bước chân trên đường tu tâm linh, đặc biệt nếu con đã đi vào các giai đoạn quả vị Ki-tô, thì con có khả năng làm việc ý thức với bốn thể phàm của con giữa hai kiếp đầu thai. Con có thể làm nhiều việc khác nhau. Con có thể thanh lọc chúng, con có thể chữa lành chấn thương hay thương tích ở nơi chúng, và tùy theo mức chứng đạt của con, con có thể tạo ra một số mô thức trong bốn thể phàm.

Cách mô tả hay nhất không phải là bảo rằng một khi con bắt đầu đạt đến quả vị Ki-tô thì bốn thể phàm không còn hiện hữu nữa, bởi vì chừng nào con còn hiện thân thì con vẫn cần đến chúng. Con nối kết trực tiếp với thân xác vật lý qua khía cạnh thấp nhất là tâm vật lý, nhưng Hiện diện TA LÀ của con, ánh sáng của Hiện diện TA LÀ vẫn tuôn chảy qua mọi tầng, từ tầng bản sắc vào lý trí, rồi vào cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Cho nên con luôn luôn cần đến bốn thể phàm khi con còn đầu thai.

Điều xảy ra khi con gần đến quả vị Ki-tô là tất nhiên, con đã thanh lọc bốn thể đó, con đã nâng cao nhận biết, nên như các thày có nói nhiều lần, con đã bỏ ý thức cá nhân khỏi đời con, và điều này có nghĩa là con không còn cho phép chúng giới hạn chính con lẫn cách biểu đạt của con. Con không bị lôi kéo vào các khuôn nếp thương tích trong bốn thể phàm.

Cho nên có thể nói, khi con đến gần hơn với quả vị Ki-tô, bốn thể phàm sẽ càng ngày càng ít những tác động giới hạn con trên cách con cảm giác, cách con nhìn cuộc sống cũng như khả năng con biểu đạt chính mình. Nói cách khác, chúng sẽ không còn kháng cự lại như khi con ở mức thấp hơn.

Nhiều người mang nhiều khuôn nếp, nhiều năng lượng tích tụ, đến độ có một lực cản trong bốn thể phàm. Và khi con cố gắng, chẳng hạn, hình dung ra một ý tưởng để thay đổi đời mình và con muốn dồn chú tâm cùng năng lực vào đó, thì bốn thể phàm sẽ phản kháng lại, khiến nỗ lực sáng tạo của con bị suy giảm. 

Khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, lực kháng cự này ngày càng ít đi, và sẽ tới một điểm khi đơn giản con không còn giới hạn nào nữa. Thật sự con rất ít chú ý đến bốn thể phàm, hoặc đôi khi con nhận thấy một phản ứng từ cảm thể trước một sự cố hay một phóng chiếu từ ngoài, nhưng con đủ ý thức để quyết định mình sẽ không bị lôi kéo vào với nó, sẽ không nuôi nó bằng năng lượng của mình, sẽ không để nó lớn mạnh thành một sinh thể riêng rẽ rồi biến thành một xoáy ốc tự lực tự cường, lấy đi mất năng lượng của mình.

Cũng tương tự như vậy trong trí thể của con: Trong tâm thức tập thể có thể có một số tin tưởng , và con có thể ở trong tình huống phải giáp mặt với những tin tưởng đó, hoặc tin tưởng đó được phóng chiếu vào con, ví dụ bởi một nhóm người, nhưng con đủ ý thức để nhìn ra đó không thực là điều mình muốn tin hay là cách mình muốn nhìn cuộc sống, và do đó con tránh nuôi sống nó bằng năng lượng của con. Con không bắt buộc phải chạy theo ý tưởng đó, hay kéo dài ý tưởng đó, hay nghĩ rằng nó có ý nghĩa gì đối với con.

Tất nhiên ở tầng bản sắc cũng vậy: Biết bao nhiêu lần người ta phóng chiếu vào con, bảo con phải xử sự giống như mọi người hay phải là một người bình thường, nhưng khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, con sẽ ngày càng ít chú ý hơn đến những chuyện đó. Con tập trung để là con người mà con là, tập trung vào sứ vụ thiêng liêng của mình, vào Hiện diện TA LÀ của mình. Con tập trung để làm cánh cửa mở hầu con có thể sống tự nhiên thanh thoát trong mỗi khoảnh khắc.

Đương nhiên, nếu con có rất nhiều khuôn nếp trong bốn thể phàm cứ lôi kéo con vào đủ loại phản ứng khác nhau, thì con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ hay cho các chân sư thăng thiên. Cho nên đây là một phần của công việc từ bỏ ý thức cá nhân trong đời con, khi con không còn lực kháng cự này trong con nữa, hay con không còn bị bốn thể phàm đánh lạc hướng khỏi những gì con đã đến đây để thực hiện.