Khái niệm “tánh không” và “vô ngã” trong đạo Phật

Hỏi: Xin thày giải thích ý nghĩa thực sự của các khái niệm trong Phật giáo về “tánh không” và “vô ngã”. Đó có thật là những điều đức Phật Gautama đã dạy?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Cả hai khái niệm mà con nói đến đã được khai triển sau khi đức Phật Gautama nhập diệt. Vì vậy không hoàn toàn chính xác là đức Phật đã giảng dạy những khái niệm này như được tìm thấy hiện nay trong rất nhiều giáo lý của đạo Phật. Tuy nhiên, đức Phật có giảng dạy những khái niệm tương tự như tánh không và vô ngã.

Như ta có trình bày suốt trang mạng này, vấn đề thực sự trên hành tinh địa cầu là con người đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con người bị rơi xuống tâm thức này vì đã ăn phải trái cấm, là biểu tượng cho một trạng thái tâm thức nơi tất cả đều có vẻ tương đối. Điển hình là khái niệm thiện và ác, có nghĩa là thiện và ác tương đối với nhau. Ở cốt lõi tâm thức này là cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của mình, cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Chính cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn tâm linh của mình là nguyên nhân thực sự của mọi khổ đau. Khi dòng sống bắt đầu mất liên lạc với cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, nó đã phải dựng lên một loại ngã mới, một giả ngã, để lấp đầy khoảng trống vừa được tạo ra. Giả ngã này, thường được gọi là tự ngã hay tâm nhị nguyên, là nguyên nhân của mọi khổ đau mà dòng sống kinh nghiệm. Cũng chính cái ngã này đã làm nẩy sinh rất nhiều ý nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn, phiền não, dẫn đến đau khổ cho dòng sống.  

Mục đích của đường tu tâm linh là vượt qua giả ngã hầu dòng sống có thể tự do hợp nhất với cái ta tâm linh. Và đây là ý nghĩa thực sự của khái niệm vô ngã. Khi dòng sống đạt được trạng thái tâm thức này, nó đã vượt qua và bỏ lại cái giả ngã đã khiến nó cảm thấy tách rời khỏi cội nguồn tâm linh của nó.  

Trong trạng thái tâm thức cao hơn này, dòng sống nhận ra là nó được cấu tạo bằng chất liệu cơ bản của Thượng đế, hoặc như đức Phật sẽ nói, tất cả đều là Phật tánh. Dòng sống nhận ra sự vô nghĩa khi nghĩ rằng mình có thể có sự hiện hữu, hay một ý thức bản ngã tách biệt khỏi nguồn cội tâm linh.    

Khi đó, dòng sống không còn ý thức bản sắc như bị tách rời khỏi nguồn cội, và đây là trạng thái vô ngã. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi ý thức cá thể (individuality) hay bản sắc (identity). Cá thể đích thực của dòng sống được trụ neo nơi cái ta tâm linh, và cá thể đích thực này sẽ không mất đi khi giả ngã được từ bỏ. Kỳ thực, chỉ sau khi dòng sống đã vượt qua tự ngã phàm nhân thì nó mới có thể bắt đầu biểu hiện được cá thể đích thực của nó.

Ngoài ra còn có một khái niệm cao hơn nữa về vô ngã, là khi dòng sống cá biệt sẽ cuối cùng đạt tới hợp nhất với Thượng đế, một sự hợp nhất cao độ đến nỗi dòng sống chọn trở về tâm thức mà đạo Phật gọi là Niết bàn (Nirvana), mà ta gọi là cái Tất Cả. Dòng sống cá biệt lúc đó sẽ tự nguyên buông bỏ cả cá thể của mình để trở về trạng thái Là thuần khiết mà từ đó nó đã tuôn ra. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không mấy hữu ích đối với hầu hết mọi người đang đầu thai trên địa cầu vì họ còn rất xa mới có được lựa chọn hợp nhất với Tất Cả.  

Khái niệm về tánh không cũng có thể được hiểu ở những mức độ khác nhau. Cao hơn cả, tánh không có nghĩa là trạng thái Là thuần khiết, cái Tất Cả, cái không thị hiện nơi không còn bất cứ hình tướng hay biểu hiện nào.

Ở tầm mức cá nhân, tánh không có nghĩa là trạng thái tâm thức khi mình đã vượt qua tự ngã phàm nhân. Bằng cách vượt qua tự ngã, dòng sống chiêm nghiệm mọi ý tưởng và cảm xúc phiền não nẩy ra từ tự ngã đều trở nên im lặng.  Như vậy, dòng sống chứng nghiệm một trạng thái tự do, giải thoát khỏi tiếng ồn của trí thể và cảm thể, một trạng thái trống rỗng không còn tiếng ồn của tự ngã.

Một lần nữa, đây không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi cá thể, mọi nhận biết hay thậm chí cả những ý tưởng và cảm xúc. Chỉ đơn giản có nghĩa là dòng sống không còn những ý tưởng và cảm xúc mâu thuẫn dẫn đến khổ đau. Dòng sống nay được tự do chiêm nghiệm những ý tưởng và cảm xúc đích thực nẩy lên từ cá thể mà Thượng đế đã ban cho mình, dẫn đến sự an lạc tối hậu khi mình biểu hiện chính mình, tức là biểu hiện cái ta đích thực.

Ta cũng đã giảng dạy về trạng thái tâm thức này khi ta nói về Nước Trời ở trong con, và khi ta bảo mọi người đừng phán xét. Trong tâm nhị nguyên, con luôn nghĩ là con cần phán xét và dán nhãn mọi thứ theo tiêu chuẩn tương đối của con. Tất nhiên, tự ngã sẽ cả quyết rằng tiêu chuẩn này là một chân lý tuyệt đối, và đây chính là ảo tưởng nằm ở ngay trung tâm tự ngã. Nó khiến cho tâm con luôn luôn phán đoán, là trạng thái ồn ào nội tâm mà đức Phật gọi là cốt lõi của đau khổ. Tánh không thì ngược lại.

Con nên học tập những giáo lý của các chân sư về cái Ta Biết. Các chân sư giảng dạy về tỉnh giác thuần khiết, tức là khi con không còn tiêu chuẩn phán xét nào. Cái Ta Biết chiêm nghiệm mọi thứ như nó là – không có bất cứ phán đoán nhị nguyên nào về giá trị. Và như thế cái Ta Biết nhìn qua tâm Ki-tô. Cái Ta Biết có thể nhìn cuộc sống cách như thế – qua tâm thức Ki-tô – hoặc có thể nhìn cuôc sống xuyên qua phin lọc của tự ngã và ngã vỏ ngoài.

Thế nhưng như ta có nói, không một “người” nào có thể thăng trở lại thiên đàng trừ khi “người” đó đã đi xuống từ thiên đàng, có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên cho tới khi nó trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết mà nó đã đi xuống ở khởi đầu.