Lạm dụng tình dục trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích cho chúng con cơ chế năng lượng của ấu dâm cùng những hành vi che giấu trong Giáo hội Công giáo. Việc sa nhân xâm hại tình dục không phải là chuyện lầm lỗi vì sa nhân rất lành nghề trong các kỹ thuật bòn rút năng lượng. Nhưng điều khiến con hoang mang là những vụ lạm dụng tình dục đã xảy ra với một số vị sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và những vụ này đã được che đậy trong nội bộ hay có khi bị truyền thông phơi bày.

Đã có rất nhiều bản tin về hành vi xâm phạm tình dục các nữ đệ tử bởi những nhà sư rất được kính trọng. Liệu việc tà dâm sẽ chẳng cản trở sự phát triển tâm linh cùng việc thăng thiên của các vị đó hay sao? Liệu chúng con có nên xem việc lạm dụng tình dục của các nhà sư Tây Tạng là hệ quả của một truyền thống tôn giáo trọng nam một cách độc đoán chăng? Hay chúng con nên giả sử là trong số các vị Rinpoche của Tây Tạng có thể có sa nhân? Con không nghĩ là một người đã đạt được một mức tâm thức cao cần đến chuyện đánh cắp năng lượng qua việc xâm hại tình dục, cho nên con hoàn toàn không hiểu nổi tại sao họ lại cư xử như vậy trong việc thể hiện tình dục của họ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 7/7/2023.

Vấn đề thực sự trong tất cả những trường hợp đó là cho dù con có theo một truyền thống tâm linh nào – có thể là truyền thống đạo Phật, truyền thống đạo Cơ đốc, truyền thống đạo Ấn – con sẽ thiết lập một loại tổ chức nào đó, một giáo hội nào đó, một truyền thống tu viện nào đó. Con thiết lập một cấu trúc thứ bậc nhất định và luôn luôn sẽ có sự phóng chiếu là những ai đã đạt được một vị trí cao hơn trong tổ chức vỏ ngoài cũng phải đạt đến một mức tâm thức cao hơn. Đây là cạm bẫy tàn hại cho tất cả mọi người tâm linh trong mọi truyền thống tâm linh. Có lẽ sự lầm lẫn này là một cách phản ứng có thể thông cảm được – ít ra là thông cảm được trong quá khứ, nhưng không thể thông cảm hay bào chữa được trong thời đại hôm nay.

Thực tế là bất cứ khi nào con tạo ra một tổ chức có cấu trúc thứ bậc nơi người càng ở trên cao càng có nhiều quyền hành, thì tổ chức này sẽ thu hút những ai mong muốn quyền lực, hay địa vị, hay uy tín. Nhưng có thật khó lắm hay chăng để nhìn ra là những ai chạy theo quyền lực, địa vị và uy tín không thể là người có tâm thức cao? Bởi vì tại sao một người có tâm thức cao, một trạng thái tâm thức tâm linh, lại muốn quyền lực, địa vị và danh vọng trên trái đất chứ? Thật không khó lắm để con xoay chuyển và nhìn ra là không một truyền thống hay tổ chức tâm linh nào có thể thoát khỏi cơ chế này. Con tạo ra một số địa vị và các địa vị này sẽ hấp dẫn những ai muốn hưởng một điều gì đó từ địa vị. Và những người này có thể là sa nhân, nhưng họ cũng có thể là những người chưa sa ngã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, thậm chí bị chi phối bởi lời gian dối cho rằng nếu họ đạt được một chức vụ trong tổ chức tâm linh chân chính độc nhất này thì nhất định họ sẽ phải được nhận vào thiên đàng.

Quả thật là trong truyền thống Tây Tạng và các truyền thống Phật giáo khác có những sa nhân đã đạt đến các chức vụ cao cấp, và do đó họ đã lạm dụng những người thấp hơn họ, như sa nhân vẫn thường làm. Có một số người đã đạt được các chức vụ đó và mở ra cho các thế lực bóng tối từ cõi cảm xúc, và các thế lực này đã khiến họ xâm hại tình dục người khác để các sinh thể ở cõi cảm xúc có thế rút lấy năng lượng từ họ.

Hiển nhiên là con hoàn toàn chính xác khi con nói một người với trình độ tâm linh cao hơn sẽ không cần lấy năng lượng từ người khác, cho dù là qua sinh hoạt tình dục hay qua việc người khác kính trọng, thờ phượng hay đưa họ lên làm thần tượng. Cho nên khi con thấy người nào cần những thứ này thì con biết họ không ở trong một trạng thái tâm thức cao. Nhưng một lần nữa, vấn đề là các tổ chức tâm linh phóng chiếu ra là những ai ở các chức vụ lãnh đạo nhất định phải là người có tâm thức cao – và sự thật thường thường không là như vậy, bởi vì trong một truyền thống tâm linh hay một giáo hội được thành lập lâu đời với một guồng máy tổ chức to lớn, những ai bị thu hút vào các chức vụ lãnh đạo chính là những kẻ mong muốn một cái gì đó của thế gian mà họ nghĩ chức vụ sẽ cung cấp cho họ.

Đơn giản là con cần điều chỉnh lại cái nhìn của con. Nếu con biết Giáo hội Công giáo đã bị nạn ấu dâm và xâm hại tình dục lũng đoạn, tại sao con lại nghĩ là Phật giáo Tây Tạng hay bất kỳ truyềng thống tâm linh nào khác sẽ không bị lũng đoạn như vậy? Điều này cho thấy là con có một xu hướng thần tượng hóa nào đó đối với một truyền thống tâm linh đặc thù, vì một cách nào đó, con nghĩ là mặc dù truyền thống này do người phàm điều hành, nhưng những người phàm này sẽ không làm giống như những người phàm kia. Nhưng niềm tin này không thực tế đâu con.

Ta hoàn toàn không dung túng hay bào chữa sự lạm dụng tình dục cho dù trong một truyền thống Phật giáo hay bất kỳ truyền thống nào khác. Đương nhiên những người làm vậy sẽ tạo nghiệp cho chính họ, và sẽ không có cách nào họ thăng thiên được sau kiếp này hay có lẽ sau nhiều kiếp, hay có thể là không bao giờ.

Nhưng câu hỏi cũng cần được đặt ra trong bối cảnh này là liệu trong thế giới hiện đại có cần tiếp tục truyền thống độc thân cho những người tâm linh trong một tổ chức tâm linh không? Rõ ràng nạn ấu dâm và xâm phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo liên hệ chặt chẽ với sự đòi hỏi là các linh mục phải sống độc thân, nhưng điều này cũng không khác gì bất kỳ truyền thống tâm linh nào khác nơi sự độc thân cũng là một yêu cầu. Nhưng liệu nó có còn cần thiết hay không? Trong quá khứ đã có lý do để đòi hỏi như vậy, nhưng liệu có cần thiết hay không trong thời đại hôm nay? Ta không cho con một câu trả lời dứt khoát là có hay không, mà ta chỉ nói rằng nếu con thực sự mong muốn khắc phục nạn lạm dụng tình dục thì con cần giải quyết vấn đề này. Việc sống độc thân có cần thiết trong thời hiện đại hay không, và nó có cần thiết hay không trong một truyền thống tâm linh?

Điều gì là cần thiết trong một truyền thống tâm linh? Đó là sự điều ngự các ham muốn tình dục. Nhưng mục tiêu này có nhất thiết đạt được một cách tự động qua việc phủ nhận các ham muốn tình dục? Hay thật ra mục tiêu sẽ đạt được hiệu quả hơn qua sinh hoạt tình dục trách nhiệm? Không có câu trả lời rõ rệt là có hay không cho những câu hỏi trên, nhưng đây là những câu hỏi cần được đặt ra để có thể khắc phục vấn đề.

Và tất nhiên, ta biết rất rõ là trong nhiều truyền thống đạo Phật sẽ có nhiều sự chống đối không muốn nhìn vào điểm này. Nhưng nếu thế thì vấn đề xâm phạm tình dục sẽ chỉ càng ngày càng trở nên tệ hơn để buộc mọi người phải xem xét vấn đề.

Thắp nến

Hỏi: Xin thày nhận xét về việc thắp nến ở nơi thờ phượng. Theo lời dạy của một chân sư thăng thiên, có nhiều biểu hiện tâm thức phản Ki-tô trong các nhà thờ. Vậy trong trường hợp này, việc thắp nến có thể hiệu quả không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 13/5/2023.

Thắp nến trong nhà thờ có thể hiệu quả trong việc thắp sáng một chỗ tối để con không bị vấp ngã khi con đi trong nhà thờ. Bảo rằng việc thắp nến có thể có bất kỳ tác dụng thần thánh nào, hay có thể làm gì đó cho một vị thánh hay cho Thượng đế, tất nhiên là chuyện hư cấu. Làm sao ta, trong tư cách một chân sư thăng thiên, lại cần đến một ai đó thắp nến cho ta trong bất kỳ nhà thờ nào trên trái đất? Làm sao ta lại có thể có nhu cầu này? Làm sao Mẹ Mary có nhu cầu người ta thắp nến cho thày trong bất kỳ nhà thờ Công giáo nào? Đó là chuyện hư cấu, nhưng một lần nữa, bất cứ gì cũng đều có thể mang lại một hiệu ứng giả dược (placebo).

Đối với những người tin đạo nói chung, thật không quan trọng nếu họ thắp nên hay không. Điều quan trọng hơn nhiều là nếu họ có thể nâng cao tâm thức cùng sự nhận biết của họ, nhưng có thể họ không có khả năng làm được như vậy. Nếu họ tin vào những chuyện vỏ ngoài thế kia – cho dù là nến hay nước thánh hay nghi lễ này nghi lễ nọ – thì điều này cho thấy là họ đang ở một tầng tâm thức chưa sẵn sàng tiếp nhận các giáo lý nội tâm mà ta đã giảng dạy cho đệ tử của ta. Họ vẫn bị vướng kẹt ở một mức cần đến những chuyện ngụ ngôn và những thứ vỏ ngoài, và do đó các chân sư thăng thiên không thể chạm được họ. Các thày thực sự không quan tâm gì đến những điều đó, nhưng tất nhiên khi con đặt câu hỏi như một học trò của chân sư thăng thiên thì thày phải nói: Đó là chuyện hư cấu. Nó không có tác dụng gì hết.

Các thày không bảo là con không nên thắp nến nếu con thích thú làm vậy. Nhưng con đừng bước vào tư duy cho rằng thắp nến sẽ khiến các thày ban cho con một loại hồng ân hay ân sủng nào đó. Nó không liên quan gì đến chuyện này. Các thày muốn con xoay chuyển tâm thức của con, và chính việc xoay chuyển tâm thức sẽ có tác dụng trên đời sống của con.

Ngay cả khi có người uống nước mà họ nghĩ là nước thánh rồi họ được chữa bệnh, không phải là nước đã chữa lành họ đâu. Lý do là vì họ đã xoay chuyển tâm thức, ít ra là nhất thời. Nhiều khi con sẽ thấy là loại chữa lành này không kéo dài và căn bệnh lại tái xuất hiện sau một thời gian. Điều các thày muốn nhìn thấy là một sự nâng cao tâm thức thường tồn, và đây chính là mục đích của tất cả mọi lời dạy của các thày.

Bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý tâm linh

Hỏi: Liệu chân sư thăng thiên Phật Gautama có cảm thấy đau buồn khi thấy một số nước như Myanmar và Sri Lanka tuyên bố đi theo đức Phật cùng giáo lý của Phật, nhưng họ lại cho phép sự cưỡng hiếp hàng loạt những phụ nữ Hồi giáo Rohingya hay sự tiêu diệt hàng loạt những người Ấn giáo Tamil? Hay sự áp chế các nhà truyền giáo Cơ đốc tại Bhutan, thậm chí cả kỹ nghệ du lịch tình dục trụy lạc đang phồn thịnh tại Thái Lan? Liệu ngày nay có quốc gia nào nơi đạo Phật chiếm đa số còn sống trọn với các lý tưởng của Phật hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 26/6/2022.

Khi con đã đạt đến trạng thái tâm thức Phật thì con không còn trải nghiệm sự đau buồn theo cách định nghĩa của con người. Và một khi con đã trao truyền một lời dạy tâm linh trên địa cầu thì con biết, ít ra là sau khi con thăng thiên, con biết là một khi giáo lý tâm linh đã được ban ra trong cõi vật lý thì con không thể kiểm soát được mọi người sẽ sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào để diễn giải hay thực hành giáo lý. Giê-su cũng đã kinh qua trải nghiệm đó y như những bậc khác đã thăng thiên. Con buông nó ra, con để cho chính lời dạy của con ra đi. Con chỉ đơn giản để cho nó ra đi và con nói: “Lời dạy đã ở cõi vật lý. Cơ hội đã được trao ra. Dù người ta có làm gì với nó thì đó là quyền tự quyết của họ.”

Hiển nhiên ta có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Phật và ta thấy được là họ không làm trọn các lý tưởng của Phật. Hiển nhiên Giê-su cũng có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Cơ đốc nhưng không sống trọn theo lý tưởng Cơ đốc. Nhưng đây là điều mà con phải buông bỏ khi con là chân sư thăng thiên, bởi vì nếu không thì con không thể thăng thiên. Nếu con bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý mà con đã ban truyền trong kiếp chót của con như thế nào, thì con sẽ phải tái đầu thai để cố kiểm soát cách thực hành đó, hay ít ra cố lèo lái, hướng dẫn mọi người đạt được một cách hiểu cao hơn. Và như vậy thì con không thể thăng thiên.

Đây chính là một điểm mà con trong tư cách là một người tâm linh cần lưu ý. Như Giê-su có nói, có những người đã quyết định cách đây 2000 năm là họ sẽ ở lại trong hiện thân suốt 2000 năm tiếp theo để giúp cho đạo Cơ đốc có được tầm ảnh hưởng tối ưu. Khi ta thăng thiên thành Phật, cũng có những vị đã phát nguyện làm y như vậy. Đối với những vị đó, điều thật quan trọng là họ nên suy nghĩ lại và nói: “Liệu tôi có dính mắc nào với cách người đời sử dụng giáo lý tâm linh?” Bởi vì nếu con có dính mắc thì làm sao con sẽ thăng thiên được? Nếu Sứ vụ Thiêng liêng của con định ra là con sẽ thăng thiên trong kiếp này, thì con cần phát hiện ra dính mắc đó và để cho nó ra đi. Bởi vì nếu không, con sẽ không muốn thăng thiên, con sẽ muốn trở lại trong một kiếp đầu thai khác cho đến khi con cảm thấy là mình đã hoàn thành công việc của mình. Nhưng đến bao giờ con mới cảm thấy được là con đã hoàn tất công việc đem lại tiềm năng cao nhất cho đạo Cơ đốc hay đạo Phật? Có thể còn rất lâu nữa.

Bây giờ nói đến các nước. Thật sự không có nước nào mà đa số người dân ở đó có được hiểu biết cao hơn về giáo lý đạo Phật hay đang thực hành đạo Phật một cách cao hơn. Tuy vậy, có một số nước rõ ràng là yên bình hơn một số nước khác, cho nên ít ra các nước này cũng có được một trình độ thể nhập giáo lý tốt. Ta không muốn nói rõ nhưng có một vài nước như vậy. Nhưng ta không nhìn họ như là những quốc gia – liệu có quốc gia nào thể nhập được đạo Phật hay chăng? Mà ta nhìn vào con người. Ta nhìn vào những cá nhân. Ta nhìn vào một số trào lưu đã thể nhập được đạo Phật nhiều hơn.

Làm thế nào cho tâm im lặng

Hỏi: Con có một câu hỏi cho các chân sư. Có cách nào hiệu quả để vượt qua thói quen không ngừng suy nghĩ, có khi nói nhảm cưỡng chế trong tâm? Con hiểu là con cần chấp nhận ngã tách biệt đó là không quan trọng, và con cần chấp nhận chính con như con đang là. Nhưng làm cách nào con có thể kéo sự chú ý của con ra khỏi đó một cách hiệu quả hơn, bởi vì nó đang lấy đi năng lượng của con?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 20/6/2022.

Có nhiều yếu tố gây ra thói quen lảm nhảm trong tâm mà nhiều người trong đạo Phật gọi là “tâm khỉ”. Nó không ngừng suy nghĩ, không ngừng nói chuyện, không ngừng phân tích, không ngừng tham gia vào chuyện này chuyện nọ hầu lôi kéo sự chú ý của con vào tiến trình không bao giờ ngưng nghỉ đó. Chắc chắn một trong các yếu tố có thể là sự phóng chiếu của những thế lực trong cõi trung giới hay cõi lý trí, là những thế lực chỉ đơn giản cố khiến cho con bị mất thăng bằng để chúng đoạt năng lượng của con. Cúng có thể là sự phóng chiếu từ tâm thức tập thể. Đối với vấn đề này, con cần dùng những bài chú, bài thỉnh của chân sư để kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ và niêm phong hào quang của con, và Elohim Astrea cắt đứt và giải thoát con khỏi các tà lực đó.

Hiển nhiên con cũng sẽ cần dùng các dụng cụ của chân sư để chữa lành nhiều loại ngã tách biệt hay nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau – chẳng hạn như khi con thấy nhiều người gặp phải xung đột hay bất đồng với ai đó, thì nó khiến cho tâm họ cứ mãi lặp đi lặp lại tình huống đó, họ không ngừng phân tích rồi bị cuốn hút vào đó. Họ không thể nào ngừng suy nghĩ về chuyện đó, và trong tâm họ mong muốn sửa đổi một tình huống mà họ không thể thay đổi ở mức vật lý. Con cần nhận ra là sự thể này khởi lên từ một số ngã tách biệt nhất định do con bị dính mắc vào tình huống, vào kết quả của tình huống, hoặc con có một cái ngã không sẵn lòng tha thứ cho người kia. Một lần nữa, bằng cách tha thứ cho người đó, con sẽ tìm được tự do. Vậy con có muốn được tự do hay không? Có rất nhiều những cái ngã tách biệt như vậy tạo ra những câu chuyện lảm nhảm liên tục trong tâm.

Nói cho cùng, không có cách nào khác hơn là con cần nhìn thấy chúng, cần giải quyết chúng và đơn giản để cho chúng ra đi. Và khi đó, những chuyện mà tâm con thường lôi kéo chú ý con vào, bỗng nhiên có vẻ như không còn gì quan trọng nữa đối với con. Con có khả năng nhìn chúng và nói: “À vậy sao? Có gì quan trọng đâu?”

Nhưng cho dù con giải quyết được thật nhiều ngã như vậy, con vẫn cần nhìn nhận là con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất hỗn tạp, với một tâm thức tập thể và biết bao nhiêu loại năng lượng vô cùng hỗn tạp. Có thể là khó tránh chuyện tâm con cứ nhặt nhạnh những thứ đó. Và như các chân sư thường giải thích, không phải con chỉ có một cái ngã tách biệt đâu, mà con có một cái ngã tách biệt to lớn hơn – nếu có thể nói như vậy – với nhiệm vụ chủ yếu là khiến cho tâm con làm việc. Đơn giản, ngã này sẽ không ngừng suy nghĩ, lượng định, phân tích.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã nhận ra là mình có một cái ngã cứ muốn giải quyết đủ mọi loại vấn đề. Và khi không có vấn đề nào để giải quyết thì nó sẽ chế ra vấn đề. Cho nên có thể con sẽ khó tránh việc tâm con cứ muốn hoạt động, cứ muốn suy nghĩ về chuyện này chuyện nọ. Có những thiền gia Phật giáo đã bỏ ra hàng chục năm trời trong thiền quán và thiền định mà vẫn cảm thấy rất khó làm yên tâm mình. Thậm chí một số còn bảo rằng việc làm cho tâm im lặng không quan trọng lắm miễn là mình vẫn tập trung vào một cái gì vượt khỏi tâm – là cái mà chúng ta có thể gọi là Hiện diện TA LÀ, hay cõi tâm linh, hay sự phát triển tâm linh.

Nhưng ta sẽ cho con một phương cách thiết thực sẽ có thể giúp được con. Nếu con quan sát tâm, điều con sẽ để ý thấy là có một ý nghĩ đi vào tâm con. Có một khoảnh khắc khi con có thể quyết định: “Tôi có nên đi theo ý nghĩ này hay không, tôi có nên nghĩ cái ý nghĩ này hay không?” Hầu hết mọi người không để ý đến sự kiện này. Nhưng khi con đặt chú ý của con vào đó, sẽ tới một điểm khi con nhận biết có một khoảnh khắc thời gian khi một ý nghĩ đến với con – có thể là từ ngoài hay từ ngay trong tâm con – nhưng cái Ta Biết, sự nhận biết thuần khiết của con có một khoảng thời gian rất ngắn để nó quyết định: “Liệu tôi sẽ bước theo cái này hay tôi sẽ không bước theo?”     

Thay vì quyết định “Tôi sẽ không bước theo cái này”, điều con làm là con chỉ nhận biết ý nghĩ đó – cho dù nó đã bắt đầu và đã tiếp diễn một chập rồi – xong con nói trong tâm: “Tôi buông bỏ. Tôi buông bỏ ý nghĩ này.” [trong tiếng Anh, surrender có mấy nghĩa: buông bỏ, hàng phục, trả lại]  

Trên căn bản, con đang ra hiệu là chuyện đó không quan trọng đối với con, rằng con sẽ không giao tiếp, không tương tác với nó, rằng con sẽ không đặt chú ý hay trao năng lượng của con cho nó. Con chỉ đơn giản buông nó ra, con để cho nó ra đi. Nó không quan trọng. Nó không có ý nghĩa. Nếu con cứ tiếp tục làm như vậy thì con sẽ đạt được một số thành quả.      

Bất cứ khi nào một ý tưởng xuất hiện thì con có thể làm như vậy, ngay cả khi con nằm trên giường buổi tối và đang cố chìm vào giấc ngủ. Con chỉ liên tục tự nhủ: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.” Có thể là sau một lúc vẫn có một ý tưởng bỗng nhiên thu hút sự chú ý của con và nó tiếp diễn một chập. Nhưng khi con nhận biết nó ở đó thì con lại nói: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.”

Ta không bảo là phương cách này sẽ hiệu quả đối với những người chưa làm những điều kia mà ta khuyên ở trên. Nhưng chắc chắn nó có thể hiệu nghiệm đối với những ai đã đạt được một độ trong sáng hơn, tinh khiết hơn nơi bốn thể phàm của mình.

Phật Gautama, giác ngộ và các tầng của tự ngã

Hỏi: Đức Phật kính quý, trong hội thảo trên mạng vừa qua, một trong các chân sư nói rằng khi con người còn có thân xác thì chưa thể thăng thiên được. Vị chân sư cũng nhấn mạnh với chúng con là đừng nên tin bất cứ ai tuyên bố là họ đã thăng thiên. Khi một người còn xác thân vật lý thì người đó vẫn còn tự ngã. Con hiểu lời dạy đó như sau: một người không thể nào đạt được toàn giác hay thăng thiên cho tới khi người đó chết và rời bỏ xác thân vật lý. Tuy thế, trong kinh điển Phật giáo đức Phật đã xác nhận thày đã đạt được toàn giác – anatta, vô ngã – ở tầng thiền cuối cùng là tầng thiền thứ tư, và đây chính là lúc đức Phật đạt được tuệ giác tối hậu. Xin thày vui lòng giảng cho con tại sao đức Phật có thể đạt được giác ngộ khi vẫn còn trong một xác thân vật lý? Và nếu điều này đúng với đức Phật, thì chúng con nên hiểu thế nào giáo lý của các chân sư thăng thiên nói rằng con người vẫn còn tự ngã khi vẫn còn xác thân vật lý?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền trong hội nghị qua mạng năm 2021 – Là Cánh Cửa Mở cho Hành tinh Trái Đất. Đăng ngày 28/10/2021.

Con đang phải đối phó ở đây với vấn đề từ ngữ và cách mọi người dùng từ ngữ và giải thích từ ngữ. Tại hội nghị này, các thày có nói tới sự kiện là sau khi thày thăng thiên như là một vị Phật, những tín đồ của thày bắt đầu tạo ra một tinh thần sùng bái thày. Một số các vị này muốn đưa ra hình ảnh thày là vị đạo sư tâm linh tối hậu chưa từng xuất hiện trên hành tinh này và do đó, ngay từ khi chào đời thày đã là người khác thường và vân vân. Đúng thật là thày đã nói là thày đạt được một tầng nào đó và thày khắc phục được ngã phàm (not-self) và đạt được tuệ giác tối hậu.

Tuy nhiên, đấy là tuệ giác tối hậu mà thày thấy được ở điểm đó. Con cần nhận ra ở đây là khi con tới những tầng cao của con đường tâm linh, con bắt đầu có một số trải nghiệm tâm linh. Nhiều người từ những quá trình khác nhau đã có trải nghiệm tâm linh, ngay cả những người không tỏ lộ rõ ràng bên ngoài họ là người tâm linh. Và khi con có một trải nghiệm tâm linh con cảm thấy nó rất rất là thực đối với con. Và điều này có nghĩa là khi con trở về thân xác vật lý và tâm vỏ ngoài, con rất dễ lý giải cảm nhận thực này là trải nghiệm tối hậu. Đây chắc phải là giác ngộ tối hậu, tuệ giác tối hậu mà con người có thể đạt được. Nhưng ý nghĩa sâu xa giản dị là đây là điều con thấy được ở tầng đó. 

Như các thày đã giải thích trong hội nghị này, thày chưa đạt tầng giác ngộ tối hậu. Sau này thày Padmasambhava đã xuất hiện như một vị chân sư thăng thiên với tầng giác ngộ cao hơn. Và trên cõi thăng thiên có nhiều tầng giác ngộ cao hơn nữa lên suốt tới mức của đấng Sáng tạo.

Bây giờ, có thể có sự hiểu lầm chung quanh ý của con gán cho các từ “tự ngã” (ego) hay “ngã phàm” (not-self). Các thày đã trao cho các con giáo lý là lúc nào cũng còn một yếu tố nào đó của tự ngã (ego) mà các thày gọi là tự ngã hay ngã tách biệt (separate self) cho tới khi con thăng thiên, vì nếu không như thế thì con không thể giữ được thân thể vật lý. Khi thày trở lại từ Niết bàn và ở trong xác thân vật lý và sống tới tuổi 81, và được người đời cho là đã giác ngộ, thì thày vẫn còn đủ tự ngã đó để thày có thể giữ được thân vật lý. Tuy nhiên tự ngã mà thày có khi thày là Phật không phải là cái mà người ngày nay gọi là tự ngã. Tự ngã thời nay là khía cạnh ích kỷ của tâm lý khiến cho con người ích kỷ.

Như thày đã giảng trong bài truyền đọc, thày đã đạt được hợp nhất, thày đã khắc phục được tách biệt, và do đó thày đã khắc phục được ngã phàm. Có thể nói, dựa trên định nghĩa của nhiều người, thày đã không còn tự ngã nữa. Nhưng các thày đã trao truyền cho các con một giáo lý rộng hơn dạy rằng có tự ngã tách biệt tương ứng với mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Mỗi tự ngã dựa trên một ảo tưởng và con chỉ vứt bỏ cái ngã cuối cùng, ảo tưởng cuối cùng khi con sẵn sàng thăng thiên. Điều này đã áp dụng cho thày, cho Giê-su và cho tất cả những người khác đã thăng thiên từ trái đất.

Cho nên con cần cẩn thận đừng quá dính mắc vào từ ngữ và sự diễn giải từ ngữ. Và con cũng nên cẩn thận nhìn lên trên tinh thần sùng bái, bởi vì những giáo lý các thày hiện trao truyền cho các con không dựa trên sùng bái, các thày không phục vụ những người có cái nhìn sùng bái. Trên cơ bản, có thể nói là khi con đạt được khai ngộ ở tầng 96 –  đó là lúc, như các thày đã giảng, con vượt lên trên sự chú tâm vào cái ngã, con không còn tu tập để nâng mình lên như một ngã tách biệt, nhưng con làm việc để nâng cao toàn thể –  thì ở điểm đó, có thể nói là con không còn tự ngã, dựa theo định nghĩa phổ thông nhất về tự ngã trong nhân gian.

Tuy nhiên, tại sao con vẫn chưa thăng thiên ở tầng đó? Bởi vì con vẫn còn muốn trải nghiệm điều gì đó, con muốn hiểu điều gì đó, con muốn giải quyết điều gì đó, và khi làm vậy, con giúp nâng cao tập thể, con tạo ra động lượng trong tập thể khiến mọi người tăng triển dễ dàng hơn.

Trong tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải Đăng trên Đỉnh), có giáo lý nói rằng con có thể thăng thiên khi quân bình được 51% nghiệp quả của mình. Các thày đã nhiều lần giải thích là giáo lý này giới hạn, bởi vì con không thể thực sự thăng thiên cho tới khi con hoàn toàn giải quyết tâm lý mình. Nhưng giáo lý này muốn nói rằng con không cần phải trở lại đầu thai nhưng con có thể giải quyết phần còn lại của tâm lý, của nghiệp quả trên cõi bản sắc và thăng thiên từ cõi này. Nói cách khác, con không thăng thiên thẳng sau khi rời bỏ thân vật lý như thày hay Giê-su đã chứng minh, tuy rằng Giê- su có trở lại trong một xác thân vật lý và sống tới tuổi 81.

Có thể nói là khi con tới tầng 97, con đã trút bỏ tự ngã, hiểu theo định nghĩa phổ thông là tự ngã ích kỷ, nhưng con vẫn còn những ngã tách biệt. Đó là lý do tại sao con vẫn còn phải giải quyết thêm một số chuyện, và điều này cho phép con giữ lại thân vật lý, và cũng cho phép con ở lại trên trái đất và con vẫn thấy rằng chuyện sống trên trái đất là quan trọng, con vẫn còn việc phải làm ở đây, con vẫn còn chuyện tốt cần làm ở đây, điều này hoàn toàn chính đáng, vì con có thể kéo tập thể lên. Nếu con thăng thiên ngay ở tầng 97, con cũng sẽ kéo tâm thức tập thể lên, nhưng con sẽ không đi qua từng bước giải quyết tâm lý ở mức cao nhất trong thân vật lý và do đó con không phụng sự được ở mức tối đa có thể làm được trên trái đất.

Dùng trí năng để hiểu các khái niệm tâm linh xưa

Hỏi: Con xin được hỏi thày Gautama. Khi thày hiện thân trên trái đất, thày đã dạy các đệ tử về Niết bàn và các bậc A la hán. Các lời dạy thuở đó đưa ra khái niệm thế nào? Và có thật là thày đã dạy Vipassana và sự tĩnh lặng như một pháp tu của đạo Phật dẫn đến Niết bàn hay chăng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Đúng là ta đã dạy nhiều giáo lý khác nhau. Một số đã trở thành Vipassana hay các giáo lý tâm linh khác hay các phép tu của Phật giáo. Tất nhiên ta cũng đã dạy về các khái niệm Niết bàn, giác ngộ cùng những khái niệm khác. Điều quan trọng con cần hiểu ở đây là câu hỏi con vừa đặt ra được hỏi từ tầng cấp lý trí. Con đang tìm cách dùng trí năng để cố hiểu người ta trải nghiệm các khái niệm đó như thế nào 2500 năm về trước.

Trước hết, điều này không thể làm được vì tâm thức tập thể trên địa cầu đã được nâng cao trong suốt 2500 năm đó. Không có cách nào con có thể thực sự nắm bắt mà dựa trên trải nghiệm con đang có ngày hôm nay, con không thể nắm bắt bằng trí thức cách con người thời đó nhìn các khái niệm này như thế nào.

Nhưng hơn nữa vào thời đó, con người không hiểu khái niệm một cách trí thức. Họ trải nghiệm. Con cũng có tiềm năng trải nghiệm như vậy, nhưng điều này hầu như không thể vì tâm thức tập thể đã tiến bước rồi. Con không thể thực sự lĩnh hội cách người ta nhìn cuộc đời như thế nào vào thời đó.

Nhưng con muốn trải nghiệm chuyện đó để làm gì chứ? Thực tế là con người vào thời đó rất ít trí thức như bây giờ. Điều này không nhất thiết là một điều tích cực nhưng nó cũng có một vài khía cạnh tích cực, theo nghĩa họ là những sinh thể sống bằng trải nghiệm, cho nên họ có thể trải nghiệm một giáo lý hay một pháp tu dễ dàng hơn, họ không mang vào lớp phủ của lý trí – một lớp phủ mà quá nhiều người trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại phương Tây, khoác vào.

Thật sự điều quan trọng cho con trong thời đại này là con không nên cố gắng dùng trí năng để hiểu các lời dạy, cho dù đó là lời dạy của đạo Phật mà ta đã ban ra thuở đó hay là lời dạy của các chân sư thăng thiên ngày hôm nay. Mà con tìm cách trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau lời dạy.

Điều này không có nghĩa là con không sử dụng tâm suy luận để xây dựng một hiểu biết nào đó về đường tu tâm linh cũng như về vũ trụ, nhưng nếu đó là tất cả những gì con rút tỉa được từ lời dạy thì con đã không hoàn thành được tiềm năng đầy đủ của lời dạy.

Sự bóp méo các lời dạy của Khổng Tử

Hỏi: Con nghe nói là Khổng Tử đã thăng thiên và hiện nay đang phụng sự ở một hành tinh khác. Khi nhìn vào Khổng Tử cùng các lời dạy của ông theo một quan điểm hiện đại, chúng ta có thể nói là các lời dạy đó đã khuyến khích sự phân biệt đối xử đối với phái nữ và cũng đã góp phần vào việc hình thành một nền văn hóa đặt nền tảng trên nhị nguyên. Tại sao những việc này đã xảy ra? Cũng giống như giáo lý của Giê-su đã bị sa nhân bóp méo, liệu giáo lý của Khổng Tử cũng đã bị bóp méo hay không? Nếu vậy thì có cách nào để phần tinh hoa của giáo lý Khổng Tử được trình bày một cách đúng đắn trong thế giới hiện đại không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết con yêu dấu, chưa bao giờ trên hành tinh này đã từng có một giáo lý tâm linh nào không bị bóp méo. Một khi lời dạy được đưa ra dưới một dạng ngôn từ có thể được sao chép và truyền bá thì ngôn từ có thể được diễn giải, nhiều điều có thể được ghép thêm vào đó, còn sa nhân thì luôn luôn cố gắng bóp méo bất cứ lời dạy nào. Tất nhiên lời dạy của Khổng Tử cũng đã bị tha hóa.

Các lời dạy này đã được người ta sử dụng để viện cớ cho một nhà nước tập trung dưới sự cai trị của một người, một lãnh đạo độc nhất. Chúng cũng đã được người ta dùng ở một mức độ nào đó để củng cố cho sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ, nhưng vào thời Khổng Tử sự kỳ thị phụ nữ đã vô cùng sâu đậm rồi cho nên thật không có cách nào bài trừ được hoàn toàn.

Khổng Tử hiểu rõ điều này và ông đã lấy một quan điểm thực tế và thực tiễn hầu cố thay đổi những gì có thể thay đổi được dựa trên tâm thức quần chúng vào lúc đó. Và tất nhiên, ông đã nhận được linh hứng từ các chân sư thăng thiên nhưng chỉ ở một cấp độ nào đó.

Vậy thì các lời dạy, phần tinh hoa các lời dạy của Khổng Tử, có đã được truyền lại trong thế giới hiện đại hay không? Hẳn nhiên là có, qua trung gian giáo lý của các chân sư thăng thiên mà các thày đang truyền rải trong thời đại hôm nay. Liệu lời dạy của ông có thể được truyền rải như là “Đây là giáo lý đích thực của Khổng Tử” hay không? À, điều này sẽ rất khó thực hiện bởi vì chính những người đang nghiên cứu hay tuân thủ lời dạy của Khổng Tử theo một cách nào đó sẽ là những người cuối cùng chịu nhìn nhận như vậy. Và do đó đối với những ai không đặc biệt quan tâm đến Khổng Tử, tại sao các thày lại gắn liền giáo lý đó với Khổng Tử, tại sao không chỉ đơn giản đưa ra những lời dạy này y như các thày đang làm trong các bối cảnh khác?

Phật (tánh) dưới dạng thực vật hay động vật

Hỏi: Theo kinh văn đạo Phật, đức Phật có nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là cỏ cây hay thú vật. Điều này có thật và chính xác hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Một lần nữa, đây là ví dụ một câu hỏi không thể trả lời “có” hay “không”, bởi vì tất cả tùy thuộc vào cách con nhìn những khái niệm này. Con cần nhìn rời ra – một điều mà hầu hết mọi người không làm được. Con cần phân biện giữa Phật như một hiện thân vật lý, một con người vật lý, với Phật như một tâm thức rộng lớn hơn. Đây là cùng vấn đề mà nhiều tín đồ đạo Cơ đốc gặp phải với khái niệm Ki-tô – một đằng con có con người cá nhân của Giê-su đã hiện thân như là Ki-tô, và đằng khác con có tâm thức Ki-tô ở mức sâu xa hơn.      

Khi con nhìn vào khái niệm Phật, con sẽ thấy được điều mà ta đã từng dạy, rằng Phật tánh ở trong tất cả mọi vật, rằng mọi vật đều mang Phật tánh nơi chính mình. Khi con nói về Phật tánh thì con có thể bảo rằng Phật tánh ở trong sỏi đá, trong cây cỏ, trong thú vật.

Nhưng giáo lý chúng tôi các chân sư giảng dạy ngày hôm nay là về cái Ta Biết. Cốt lõi con người của con là cái Ta Biết, là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và cái Ta Biết này không đi xuống vào trong sỏi đá, cây cỏ hay thú vật. Điều này có nghĩa, con trong tư cách là một dòng sống cá biệt, đã không từng là thực vật hay động vật trong tiền kiếp để rồi dần dần tiến hóa thành một con người. Lần đầu tiên con đã đi xuống hiện thân là trong một thân xác con người, và nếu con hiện thân trên một hành tinh khác thì ít nhất con đã đi xuống trong một thân xác giông giống như con người.

Ta như là Phật Gautama hiện thân cách đây 2500 năm đã không từng là sỏi đá hay cây cỏ trong tiền kiếp. Đây không phải là một điều mà ta đã nói, nhưng là sự diễn giải của người đời sau đó, vì người thời đó có một cái nhìn về thế giới không giống như ngày nay. Ngày nay ở phương Tây, cái nhìn của các con rất khác với cái nhìn của con người cách đây 2500 năm tại địa phương nơi ta hiện thân.   

Họ đã diễn giải theo cách đó, và họ cho rằng nếu mọi thứ đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất, thì trong cách suy nghĩ vô cùng đường thẳng – chẳng qua cũng tương tự như các thuyết tiến hóa mà các con có ngày nay – sự sinh tạo đã khởi đầu một cách lần hồi. Nghĩa là trước tiên sẽ có những dạng sống thô sơ hơn, sỏi đá và khoáng vật, rồi đến cỏ cây và thực vật, rồi đến động vật, rồi mới đến con người. Và nếu như vậy thì sự hiện thân phải khởi sự dưới các dạng thô sơ đó. 

Như ta vừa nói, nếu con nhìn tiến trình này dưới nhãn quan của tâm thức thì cái nhìn như vậy không nhất thiết là sai. Nhưng khi con nhìn vào một sinh thể cá biệt thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Sự thật là các Elohim đã đem lại những biểu hiện vật lý trên địa cầu qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên là sự biểu hiện vật lý của sỏi đá cùng khoáng vật, rồi đến cây cỏ, rồi đến thú vật, rồi đến biểu hiện cơ thể vật lý con người. Chỉ khi đó – khi mà cơ thể con người đã được tạo dựng với bộ não và hệ thần kinh phức tạp – thì các sinh thể tâm linh mới đi xuống cõi vật lý.

Học hỏi Nho giáo

Hỏi: Liệu Nho giáo có đáng để người ta học hỏi hầu cải sửa bản thân hay không? Hay Nho giáo là xấu xa và do một sa nhân lập ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Khổng Tử qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Ta không là một sa nhân. Ta chưa bao giờ là sa nhân và cũng không đến từ sinh thể sa ngã. Vào thời ta đầu thai và giảng dạy, ta đã đạt được một khả năng nhận biết khá cao, nhưng không thể gọi là cao nhất có thể đạt được trên địa cầu. Nhưng ta đã có thể nhận được một số ý tưởng từ cõi tâm linh và đã gói gọn lại thành giáo lý vỏ ngoài của Nho giáo.   

Tuy nhiên, con cần nhận ra là – và mọi lời dạy khác cũng đều phải như vậy – lời dạy của ta được trình bày trong một bối cảnh, một nền văn hóa, một dân tộc, một thời điểm đặc thù. Đương nhiên cũng có một số yếu tố, một số nguyên lý vượt thời gian trong đó, nhưng ta không khuyến cáo con học hỏi giáo lý này ngày nay bởi vì con đã có giáo lý của các chân sư thăng thiên rồi. Có thể một vài người sẽ có nhu cầu tìm hiểu Nho giáo trong một thời gian để biết rõ hơn, nhưng nói chung, ta sẽ không khuyên mọi học trò tâm linh nên học.     

Các ý tưởng đó được đưa ra vào thời buổi đó nhằm thay đổi cách hành xử vỏ ngoài của con người, chứ không chủ yếu nhắm vào việc cải sửa tâm lý con người ở mức sâu xa, bởi vì điều đó không thể làm được vào lúc đó. Cũng cần nói thêm là giáo lý được đưa ra từ quan điểm giải thích mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, và người dân cần phải cư xử như thế nào hầu giữ vững cho nhà nước được trật tự, vận hành đúng chức năng. Nhưng hiển nhiên là chế độ thời đó khác xa một nền dân chủ, và do đó những ý tưởng này không thật sự áp dụng được cho một nền dân chủ tân tiến.   

Con có thể nói được là ở một mức độ nào đó, Nho giáo đã bị các sa nhân sử dụng để biện hộ cho một nhà nước kiểm soát. Về điểm này thì con có lý. Nhưng điều này không có nghĩa là lời dạy không có những yếu tố có giá trị hay vượt thời gian. Cho dù chúng tôi có đưa ra điều gì đi nữa thì sa nhân cũng sẽ tìm cách xuyên tạc, lạm dụng. Và tất nhiên, một số kẻ sẽ cố tình lạm dụng nếu nó đem lại lợi lạc cho họ. Chẳng hạn, nó củng cố địa vị của giai cấp thượng lưu cầm quyền và khiến cho người dân phải phục tùng giai cấp đó.

Thiền tỉnh giác thuần khiết so với hòa điệu với chân sư

Hỏi: Liệu các chân sư thăng thiên có xem thiền quán, đặc biệt là thiền tỉnh giác thuần khiết, có là một dụng cụ hữu hiệu để hoà điệu với Hiện diện TA LÀ và các chân sư hay không? Liệu môt hành giả chưa quen với giáo lý của chân sư và cũng chưa quen với thiền quán, khởi sự học thiền như một phương tiện hòa điệu? Liệu một hành giả đã có kinh nghiệm thiền quán sử dụng thiền quán như một phương tiện hòa điệu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Có rất nhiều hình thức thiền quán khác nhau. Có một số pháp thiền nhằm mục đích cho con một sự tỉnh thức mà con có thể gọi là trần truồng, hay tỉnh thức thuần khiết. Con đi vào một trạng thái của tâm mà chúng tôi đã có mô tả là cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức bình thường của nó và chỉ trải nghiệm chính nó là sự tỉnh thức thuần khiết. Đây là một phương tiện hữu ích cho hầu hết mọi người. Có một số người không nên sử dụng vì họ chưa sẵn sàng, nhưng đối với nhiều người, đó có thể là một dụng cụ hữu ích.    

Khi nói vậy, ta không muốn nói là mọi học trò của chân sư đều phải tu tập cách này. Tuy nhiên theo như dụng ý của câu hỏi được đề ra, ta không cho là cách thiền này thích hợp cho sự hòa điệu. Mục đích của cách thiền này là để giúp con kinh nghiệm được sự tỉnh giác thanh tịnh, tỉnh giác trần truồng, tỉnh giác không có ý tưởng, không có bất kỳ cấu trúc nào. Điều này hữu ích ở chỗ con nhận ra là có một trạng thái khác hơn là trạng thái nhận biết bình thường của mình chứa đầy những ý tưởng, cảm xúc và cấu trúc. 

Nhưng để hòa điệu với chân sư thăng thiên, con không cần tỉnh giác thuần khiết, tỉnh giác trống không, mà con cần hòa điệu với rung động của chân sư. Và để làm vậy, ta khuyên con nên dùng các bài chú, bài thỉnh, đặc biệt là những người mới tu.

Con thường nhận thấy là nhiều người mới học giáo lý cần trải qua một giai đoạn để họ thiết lập sự bảo vệ tâm linh, biến đổi các năng lượng thiếu hài hòa trong bốn thể phàm của họ, và họ cầu thỉnh Astrea để cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc với tâm thức tập thể hay các sinh thể thấp kém. Trong giai đoạn đó, việc hòa điệu có thể khó khăn, và việc chiêm nghiệm tỉnh giác thanh tịnh cũng có thể khó khăn. 

Nhưng nếu con vượt qua được giai đoạn này, con vẫn có thể sử dụng các bài thỉnh và bài chú. Chỉ thỉnh thoảng, con hãy tĩnh lặng. Con hãy ngồi đó và giữ cho tâm trí mình mở rộng, trung dung. Điều này không có nghĩa là con không có bất cứ ý tưởng nào, và chắc chắn con không cần phải cố sức kìm nén tư tưởng lại, mà con chỉ làm thế nào ở trong một trạng thái mở rộng, trung dung nhất. Sau khi con đọc xong bài chú, sau khi con nghe xong một bài truyền đọc, con chỉ cần dành ra một vài phút để ngồi đó và hòa điệu với sự hiện diện của chân sư. 

Tất nhiên, con cũng có thể dành hẳn ra một tuần cửu nhật để cầu nguyện. Chúng tôi có tuần cửu nhật cho vị Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, và con đọc chú cho vị ấy mỗi ngày chín lần, và sau khi đọc chú, con có một quyển sổ để con ghi chép lại bất cứ ý tưởng nào hiện ra trong con mà không phê phán hay phân tích. Con cũng có thể làm điều tương tự với bất cứ vị chân sư nào có bài chú. Nếu con thích hơn, con thể làm điều đó sau khi nghe một bài truyền đọc, con thực tập với một cây bút với một quyển sổ tay, và con ghi xuống bất cứ ý nghĩ nào đến với con, không phán xét và không phân tích.

Con đường rộng và con đường hẹp

Hỏi: Trong bài Thuyết pháp trên Núi, Giê-su nói: “Hãy vào cửa hẹp. Vì cửa rộng và đường rộng dẫn đến hủy hoại, và những kẻ vào đó cũng nhiều. Còn cửa hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, và những kẻ tìm được thì ít.” Xin các chân sư thăng thiên vui lòng cho chúng con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, một lời dạy hiện đại về điểm này? Liệu có những pháp tu hoặc yêu cầu đặc thù nào sẽ giúp chúng con ở lại bên trong và băng qua cánh cửa hẹp mà Giê-su nói đến khi còn tại thế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Các thày đã cho con nhiều lời dạy về điều này. Đơn giản là có một sự khác biệt giữa con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm, con đường công truyền và con đường tâm truyền. Con đường rộng, cánh cửa rộng, là cái mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều đi theo qua các tôn giáo chính mạch, với lời hứa là khi con tuân thủ một vài quy luật vỏ ngoài, làm đúng một vài pháp tu vỏ ngoài, vâng lời giới tu sĩ vỏ ngoài, thì con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Ta sẽ đến và cứu con dùm con, ta sẽ làm mọi công việc cho con.

Đó là con đường rộng dẫn đến hủy hoại, bởi vì cánh cửa hẹp dẫn đến thăng thiên là con đường nội tâm biến đổi tâm thức của mình, thanh lọc tâm mình cho không còn khuôn nếp phản ứng nào, không còn tin tưởng sai lầm nào, không còn ngã tách biệt nào, không còn tự ngã nào. Hầu hết mọi người không biết đến sự hiện hữu của con đường này, hầu hết mọi người chưa sẵn sàng cho con đường này. Tất nhiên, các tôn giáo chính mạch đã bị sa nhân chiếm đoạt đến độ hiểu biết này không được phổ biến rộng rãi.

Như con có thể thấy qua số người quan tâm đến các giáo lý tâm linh không chính mạch, càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa những gì nhiều người đã sẵn sàng tiếp nhận và những gì được các tôn giáo chính mạch giảng dạy. Nói chung, cách đi theo con đường hẹp là con đi theo con đường tâm linh như các chân sư thăng thiên đã phác họa. Điều này không có nghĩa đây là con đường duy nhất. Chủ yếu đây là việc nhìn ra một điều gì đó trong bản thân mình và, một cách ý thức, quyết định vươn lên cao hơn. Và tất nhiên các thày đã ban truyền rất nhiều lời dạy về điều này. Ta khuyên những ai quan tâm hãy theo học khóa Con đường Tự điều ngự. Hãy khởi sự với bộ sách này, từ tầng 48 vượt lên đến tầng 96, rồi sau đó sử dụng những quyển sách khác mà các thày đã khuyên con dùng tiếp theo sau.

Mười Điều răn và các tầng tâm thức trên địa cầu

Hỏi: Con được biết qua các bài truyền đọc mới đây rằng các điều răn mà Thượng đế ban cho Môi-sê là từ một đợt truyền pháp xưa cũ và không còn áp dụng được trên địa cầu. Nhưng điều này có vẻ không thực tế từ quan điểm của phân biện Ki-tô. Xin một trong các thày làm rõ điểm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn người và cảm nhận bất toàn, đau đớn và chú tâm ra ngoài bản thân. Đăng ngày 28/5/2021.

Cái nhìn đúng đắn về vấn đề này là Mười Điều răn đã được ban cho một mức độ tâm thức nào đó. Và ngày nay vẫn còn khá nhiều người trên địa cầu đang ở mức tâm thức này. Cho nên đối với những người này, Mười Điều răn vẫn còn xác đáng vì nó tương ứng với mức tâm thức của họ. Họ cần phải có những điều răn thật nghiêm nghị như thế – phải làm điều này hay phải làm điều kia – bởi vì đó là tất cả những gì họ có khả năng nắm bắt.

Nhưng đối với rất, rất nhiều người khác trên địa cầu, đặc biệt tại các nước mà chúng ta gọi là tiền tiến, những điều này không còn áp dụng được nữa vì họ đã thăng vượt mức tâm thức đó rồi. Họ không cần điều răn mà cần hiểu tại sao họ không được làm chuyện này mà cần làm chuyện kia. Đây là kết quả của sự tăng trưởng tâm thức. Và tất nhiên, có những mức cao hơn nữa khi con người nhận biết những điều đó qua trực giác, họ biết điều gì cần làm và điều gì không nên làm.

Cho nên như con thấy, có tầng mức của những điều răn. Có tầng mức của một số nguyên tắc đạo đức hay đạo lý hướng dẫn con người, mà trên hết là nguyên tắc không được làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình. Và có tầng mức cao hơn khi cá nhân mỗi người hòa điệu vào bên trong và cảm nhận đâu là cách cư xử đúng đắn nhất cho mình. Luôn luôn sẽ có nhiều cấp độ tâm thức như vậy, tuy rằng trong tương lai nhân loại sẽ tới mức không ai còn ở lại tâm thức Kinh Cựu ước nữa, và do đó không còn cần đến Mười Điều răn.

Phật Thiền định là để bạn thiền quán

Hỏi: Trong bài thỉnh Đông Tây về việc tìm lại những mảnh hồn thất lạc và trong phần thỉnh Ratnasambhava, có đề cập đến Viên ngọc Toại ý tuyệt vời của các thày. Xin các thày vui lòng giải thích đó là gì? 


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 11/1/2021.

Thật sự tôi cảm nhận là các thày không muốn giải thích điều này vì các Phật Thiền định, ít nhất trong một số phong trào Phật giáo, được xem là những vị Phật để thiền quán. Nói cách khác, bạn cần thiền quán về các vị Phật này, và mặc dù chúng ta xem Phật Thiền định là chân sư thăng thiên – lả những sinh thể thăng thiên cụ thể – các thày không muốn cho chúng ta một cái gì cụ thể mà tâm đường thẳng có thể sử dụng để phân loại, hiểu biết hay lý giải.

Điều quan trọng về Phật Thiền định là bạn nên dùng các thày trong chức năng của các thày. Chúng ta có thể thiền quán về các thày, chúng ta có thể đọc những bài thỉnh nhắc đến các thày, và trong quyển sách “Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh cao nhất” có nhiều bài thỉnh như vậy. Bạn cũng có thể nhìn vào các phẩm chất mà các vị Phật này biểu tượng cùng những mặt tha hóa khi chúng ta làm tha hóa các phẩm chất đó. Bạn có thể thiền quán và thỉnh cầu sáng ngộ trực tiếp từ các Phật Thiền định. Nhưng bạn phải vượt qua tâm đường thẳng và bỏ nó qua bên. Và đó là tại sao các thày không muốn trao truyền một lời dạy mà tâm đường thẳng có thể chụp lấy, vì làm như vậy kỳ thực có thể chặn nghẽn sự hòa điệu trực giác của bạn.  

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người bất đồng cho là họ không nên làm theo, và trong cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó thì cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn như thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng duy nhất của con đối với tình thế là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy là mình đang có một phản ứng không bình an, thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con sẽ đạt tới một điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách khác hoàn toàn.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách mà họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay bằng cách nào khác, người ta thường chờ đợi một cách phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó, khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được sự phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa của việc đưa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại sự phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Truyền thống thần bí trong Giáo hội Chính thống và Giáo hội Công giáo

Hỏi: Cơ đốc giáo Chính thống (Giáo hội phương Đông) có khác biệt cơ bản với Công giáo (Giáo hội phương Tây hay Giáo hội La mã) là pháp tu thần bí gọi là Hesychasm (gốc chữ Hy lạp Hesychia có nghĩa là im lặng, là một pháp tu thần bí dựa trên một số kỹ thuật thiền định trong truyền thống Giáo hội phương Đông).

Khác với Công giáo đã đi theo con đường thiết lập thần học, Cơ đốc giáo Chính thống đã chọn con đường thần bí để trải nghiệm sự hợp nhất với Ki-tô qua kinh nghiệm tâm linh trực tiếp – là con đường tự thăng vượt của con người trong Ki-tô. Thày có nhận xét gì về góc nhìn so sánh giữa hai tôn giáo này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Trong truyền thống Công giáo cũng có những khía cạnh thần bí. Ngay cả trong một số hội thánh Cơ đốc Tin lành, con cũng tìm thấy một số khía cạnh thần bí. Và dĩ nhiên, con có những nhà thần bí Cơ đốc trong truyền thống Công giáo đã đạt đến những mức tâm thức rất cao. Thần bí có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo nhưng không là chính mạch ở đâu cả.

Một điều con cần nhìn nhận ở đây là mặc dù có những điểm khác biệt giữa hai giáo hội Chính thống và Công giáo, Giáo hội Chính thống cũng vẫn bị tác động bởi cùng một tư duy đã lập ra Giáo hội Công giáo. Và con sẽ thấy là đã có một thời cả hai giáo hội đã phát triển song song với nhau theo cùng một cách thức trước khi phân ra làm hai.

Có rất nhiều khía cạnh tương đồng, hay cách suy nghĩ tương đồng, đã che khuất con đường thần bí đối với quần chúng nói chung. Luôn luôn đã có những người có khả năng nhìn vượt khỏi các giáo điều và các nghi lễ vỏ ngoài để tìm thấy con đường thần bí, tuy nhiên đối với quần chúng thì tất cả các giáo hội Cơ đốc đã che lấp thực tại mà ta giảng dạy cũng như thực tại của đường tu. Con có thể nói là các giáo hội thường thường đã được thiết lập để ngăn cản không cho quần chúng rộng lớn tìm thấy và bước đi trên con đường đích thực dẫn đến quả vị Ki-tô.

Đó chính là cách mà sa nhân đã định nghĩa các giáo hội đó. Nhưng sa nhân cũng biết là sẽ có một số người không xem đó là đủ, và họ sẽ tìm kiếm con đường thần bí. Cho nên điều mà sa nhân đã cố làm là cho phép những người như vậy bước đi trên con đường thần bí, nhưng họ vẫn phải nằm trong phạm vi của giáo hội vỏ ngoài, cho dù là Chính thống hay Công giáo. Đó là lý do con có khái niệm gọi là những nhà thần bí Cơ đốc.

Kỳ thực, nếu con đã là thần bí thì con là một sinh thể phổ quát. Con có khả năng bước vào truyền thống Cơ đốc hay truyền thống Ấn giáo hay truyền thống Phật giáo hay truyền thống Hồi giáo, mà vẫn thăng vượt được truyền thống đó. Con dựa vào nền tảng truyền thống đó mà vẫn bước đi trên con đường thần bí, nhưng con không thật sự là một nhà thần bí Cơ đốc hay thần bí Ấn giáo hay thần bí Phật giáo nữa. Bởi vì khi con càng bước xa hơn trên đường tâm linh, thì việc nhìn thấy tính phổ quát đằng sau mọi tôn giáo vỏ ngoài càng trở nên quan trọng hơn.

Một điều mà Giáo hội Công giáo, chẳng hạn, đã làm với một số những nhà thần bí đó là tâng họ lên thành bực thánh, qua đó giáo hội giành lấy quyền sở hữu họ và không để cho tính phổ quát của họ được tỏa sáng. Và trong nhiều trường hợp, các nhà thần bí không thể biểu hiện tính phổ quát này và cẫn coi mình là nhà thần bí Cơ đốc. Đây là điều mà chúng ta cần thăng vượt trong thời đại hôm nay. Chúng ta cần góp chung lại tất cả các nhà thần bí từ mọi nguồn gốc, và nhìn nhận rằng đằng sau tất cả những truyền thống vỏ ngoài đó, có một con đường phổ quát mà không một truyền thống nào có thể đóng khung hay sở hữu.

Chuyện này thật là giản dị. Ki-tô không hề cấp bằng sáng chế cho bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào trong thế giới con người.

Phật tánh là gì?

Hỏi: Phật tánh là gì?


Trả lời của Chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Phật tánh mà có thể diễn tả được bằng lời nói chỉ là một khái niệm. Con có câu mở đầu tuyệt vời của Đạo Đức Kinh rằng Đạo mà nói được thành lời không phải là Đạo thật. Phật tánh cũng tương tự như thế. Như các con vừa thảo luận và chúng tôi cũng có đề cập trước đó, giác ngộ là một khái niệm. Con người sống trong vô minh và họ đau khổ. Chúng tôi phải chỉ ra cho họ thấy là có một con đường để thoát khỏi khổ đau. Chúng tôi phải cho họ một mục đích và bảo rằng: “Đây là điều mà các con có khả năng đạt được khi các con vượt qua vô minh.”  Nhưng như chúng tôi đã nói, giác ngộ chỉ là một khái niệm. Và nếu con sử dụng tâm nhị nguyên để hình thành một ý tưởng trau chuốt về bản chất của giác ngộ, con sẽ đẩy giác ngộ đi ra thật xa, bởi vì giác ngộ là khi con ngừng nhìn cuộc sống qua tâm nhị nguyên.

Phật tánh là gì? Đó là một khái niệm mà ta đã diễn đạt bằng lời. Mục đích khi ta diễn đạt như vậy thực sự là, trước hết, để nói rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng vươn lên khỏi vô minh. Vào thuở xa xưa khi ta giảng dạy, các sinh thể sa ngã chưa bày ra khái niệm về tội lỗi nguyên thủy, cho nên lúc ấy chưa có khái niệm là con người được sinh tạo như một sinh thể khiếm khuyết phải cần đến một Đấng Cứu thế từ ngoài. Khi ta nói là mọi người đều có Phật tánh ở bên trong, điều ấy có nghĩa là bất kể trình độ tâm thức của con trên địa cầu, con cũng có tiềm năng nối kết lại với Phật tánh và như vậy vượt lên khỏi vô minh.

Nhưng hơn thế nữa, muc đích cũng là để chứng tỏ rằng mọi người đều có Phật tánh trong mình. Chính khi con nối kết lại với Phật tánh của con trên bình diện cá nhân, con mới có thể thực sự nối kết với người khác. Và cách duy nhất để phát triển Tăng đoàn của Phật là phải có những cá nhân đã tái nối kết với Phật tánh trong mình. Một khi con đã thấy Phật tánh trong mình thì con cũng thấy được Phật tánh bên trong người khác, và khi có nhiều người nối kết được với Phật tánh, họ sẽ nối kết lại với nhau ở một mức cao hơn, đạt được sự hợp nhất trọn vẹn hơn. Đó là cách hình thành Tăng đoàn thực sự của Phật, chứ không chỉ là một cộng đồng vật lý của những người sống chung với nhau, học tập cùng những giáo lý và đọc cùng những bài kinh kệ. 

Trên hết, đó là một sự nối kết trong tâm thức. Và tất nhiên, trong một ý nghĩa rộng hơn nữa, tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Toàn bộ vũ trụ vật chất này nẩy sinh ra từ Phật tánh, và điều này một lần nữa sẽ giúp con vượt lên trên ý thức tách biệt, vượt lên trên cảm nhận con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất.

Nếu con cảm thấy con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất, con sẽ rất dễ dàng rơi vào cái bẫy như thời trẻ của ta khi ta thử nghiệm với tu tập khổ hạnh. Cái bẫy đó là xem cõi vật lý, vũ trụ vật chất, là kẻ thù của phát triển tâm linh, xác thân con là kẻ thù của sự thăng tiến và do đó con phải hành nó bằng đủ mọi cách tu tập cực đoan nhất. Nhiều người tâm linh cũng đã bước vào ngõ cụt này khi họ cưỡng chống lại cuộc sống trong cõi vật lý trong khi họ sống ngay giữa cõi vật lý. Và họ nghĩ rằng bằng cách kháng cự lại cõi vật chất, họ sẽ lên được cõi tâm linh – vào được Niết bàn và giác ngộ.     

Nhưng con không thể giác ngộ bằng cách cưỡng chống, bởi vì làm vậy sẽ chỉ giữ con ở lại trong vòng nhị nguyên, ở lại trong vô minh. Như trong kinh Pháp cú có nói, nó sẽ giữ con lại trong những cặp nhị đối. Khi con nhận ra là vũ trụ vật lý cũng chính là Phật tánh, con sẽ ngừng chống cự, con sẽ ôm lấy sự sống và ôm lấy cơ hội hiện thân trong một xác thân vật lý. Chỉ khi nào con ôm lấy vận hội đó, rằng con có một xác thân vật lý trên địa cầu, thì con mới đạt được tự do để rời khỏi địa cầu, bởi vì khi nào con chưa ôm lấy được hoàn toàn thì con sẽ không thể thực sự đi đâu khác.    

Sự đổi mới của đạo Phật

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích rất nhiều về các vấn đề tổng quát của Cơ đốc giáo. Con xin các thày cho biết quan điểm về những vấn đề tổng quát của xã hội Phật giáo trên toàn thế giới và xã hội Phật giáo Hàn quốc. Các xã hội này cần phương hướng thế nào để tiến về phía trước?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 14/10/2019.

Như Mẹ Mary vừa bày tỏ, kiến thức và gốc gác văn hóa của vị sứ giả có thể là một hạn chế bởi vì sứ giả này không quen thuộc với xã hội Phật giáo tại Hàn quốc hay với Phật giáo nói chung, ít nhất là các khía cạnh về tổ chức. Ông nắm vững giáo lý của đức Phật nhưng không hiểu biết nhiều về phần tổ chức.

Nhưng thật là rõ ràng Phật giáo đã tiếp tục là một tôn giáo thuần khiết hơn Cơ đốc giáo chẳng hạn. Trong Phật giáo không đến nỗi có những lớp che phủ giáo lý như trong Cơ đốc giáo. Điều này một phần là vì những giáo lý mà ta giảng dạy không dễ dàng bị bóp méo. Và phần khác là vì tư duy của người Á đông không đến nỗi “đường thẳng” như tư duy người phương Tây. Vì thế mà tâm người Á đông cởi mở hơn đối với các lời dạy về bất nhị, họ thấy được các thái cực dễ dàng hơn là tâm người phương Tây nói chung.

Cho nên nếu con nhìn một người trung bình đã lớn lên trong một nền văn hóa Phật giáo tại Á châu, không nhất thiết có nhiều điều có thể thay đổi. Ta không nghĩ là Phật giáo đã hoàn toàn đi trật đường rầy như Cơ đốc giáo rõ ràng đã đi chệch hướng. Vì vậy các xã hội Phật giáo tại Á châu, kể cả Hàn quốc, vẫn đang đưa ra những lời dạy khả dĩ có giá trị đối với một người trung bình.  

Nhưng mặt khác cũng phải nói là khi con có một vị thày đã đạt một mức tâm thức nào đó, tức là vượt khỏi nhị nguyên, thì vị thày này sẽ vô cùng khó khăn đưa ra những lời dạy về nhị nguyên và bất nhị mà một người chìm trong nhị nguyên có thể nắm bắt được. Điều này có nghĩa là cho dù người đó không có ý định xấu xa và không bị sa nhân ảnh hưởng, thì tâm nhị nguyên vẫn trải một lớp phủ nào đó lên trên giáo lý.   

Vì vậy từ góc nhìn này, điều không thể tránh được là Phật giáo đã trở thành một tôn giáo với một cách diễn giải nhị nguyên phủ chồng lên trên giáo lý bất nhị. Điều này đã mang hệ quả mà con cũng thấy trong Cơ đốc giáo, là rất, rất nhiều người xem Phật giáo là một con đường công truyền, vỏ ngoài. Nếu theo con đường này thì chỉ cần tuân thủ một số giáo huấn, thực hành một số tu tập, một số nghi lễ, và tất cả trở nên gần như máy móc. Hiện có quá, quá nhiều người cũng có cùng thái độ như tại phương Tây khi con thấy những tín đồ Cơ đốc nghĩ rằng nếu mình tin vào giáo lý vỏ ngoài, nếu mình tu tập tôn giáo vỏ ngoài, nếu mình làm đúng theo nghi thức, thì một ngày nào đó trong tương lai, có thể là sau kiếp này, mình sẽ thấy một sự chuyển đổi và mình sẽ chứng ngộ.   

Tất nhiên đây không phải là những gì ta giảng dạy thuở trước. Ta giảng dạy một con đường nội tâm đòi hỏi con phải chuyền vọt trạng thái tâm thức của con. Liệu một người trung bình tại hầu hết các nước Á châu có sẵn sàng đi theo con đường nội tâm này hay chưa? Chưa đâu, nhưng chắc chắn là có nhiều người đã sẵn sàng. Cho nên sự thay đổi có tiềm năng xảy ra là các xã hội Phật giáo sẽ nhận ra được sự khác biệt giữa con đường công truyền vỏ ngoài với con đường tâm truyền nội tâm, và trong thời đại hôm nay, ngày càng sẽ có nhiều người sẵn sàng cất bước trên con đường nội tâm này. Do đó, các xã hội này có thể nỗ lực nhiều hơn để đặt trọng tâm vào con đường tâm truyền hầu giúp được nhiều người hơn.

Một số xã hội Phật giáo có nhận thức về đường nội tâm, nhưng song song lại cảm nhận một người trung bình không làm sao theo được, và do đó con đường này không được giảng dạy cho quần chúng mà chỉ trong một số tu viện nơi người ta cho rằng chỉ các tăng ni mới sẵn sàng đi theo vì họ đã cống hiến cả đời mình cho việc tu hành. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, cách hiểu như vậy không chính xác. Như ta đã trình bày, một người trung bình có thể chưa sẵn sàng nhưng chắc chắn nhiều người khác thì thật đã sẵn sàng. Có rất, rất nhiều người sẵn sàng hơn là các vị có ý xuất gia nơi tu viện, bởi vì như ta có nói trong thời đại hôm nay, sống tâm linh không thực sự là sống trong tu viện mà là sống bình thường mỗi ngày và tham gia tích cực vào xã hội, ít ra là cho đa số.     

Lẽ tự nhiên, ta mong muốn thấy các xã hội Phật giáo nhận ra được điều này: nếu đức Phật và sự chứng đạt giác ngộ còn có chút ý nghĩa nào, thì điều đó phải là ta vẫn còn hiện diện như một đấng giác ngộ, như một Chân sư Thăng thiên, và ngày hôm nay ta vẫn hoàn toàn sẵn sàng cũng như hoàn toàn có khả năng đưa ra những lời giảng dạy trực tiếp cho những ai sẵn lòng nhận lấy. Thực sự rất có thể có những người đã lớn lên trong truyền thống Phật giáo, đã thấm nhuần truyền thống này, sẽ trở thành những vị sứ giả cho ta, không nhất thiết là phải truyền đọc bài giảng của ta như ở đây tuy rằng điều đó cũng có thể xảy ra, mà trong ý nghĩa họ có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp của ta và như vậy đưa đạo Phật lên một tầm cao mới.     

Con sẽ thấy là giáo lý mà các chân sư đưa ra hôm nay được dựa trên nguyên tắc tiết lộ tuần tự. Tình hình thật giản dị. Để cho một vị thày đang đầu thai trong thế gian đạt được một mức tâm thức nào đó không phải là điều dễ dàng, đơn giản, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Con thấy là từ khi ta hiện thân trong xác thịt, đã có một số vị thày đạt được tâm thức cao và đưa ra được một số giáo lý có thể xem là tiết lộ tuần tự. Long Thọ là một ví dụ như thế và chắc chắn có nhiều ví dụ khác nữa. Cho nên trong một nghĩa nào đó, con có thể thấy sự ích lợi nếu các xã hội Phật giáo nhận ra được những thay đổi lớn lao trong xã hội từ khi ta hiện thân vật lý, cũng như sự cần thiết phải tinh chỉnh và mở rộng thông điệp, sự cần thiết phải tiến xa hơn nữa, phải không ngừng tiết lộ thêm những điều mới một cách tuần tự.    

Con hãy nhìn vào dòng chuyển động của tâm thức. Khi một giáo lý được đưa ra ở một thời điểm nào đó và có tiềm năng giúp con người thăng vượt tâm thức mình, nếu có người nhận lấy và thực hành giáo lý thì tâm thức tập thể sẽ được nâng lên. Không thể nào có giáo lý đưa ra ở một thời điểm mà lại vẫn tiếp tục hữu ích y như vậy mãi mãi trong tương lai. Nếu giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm mang lại kết quả thì tâm thức tập thể đã được nâng lên, có nghĩa là sẽ cần giáo lý ở một mức cao hơn. Những gì ta có thể giảng dạy 2500 năm trước không phải là chân lý tuyệt đối có thể đứng yên mãi trong mọi thời đại, mà đó là giáo lý phù hợp với tâm thức tập thể của con người vào thời buổi đó, ở địa phương đó. Cho nên dù là một bậc thày giác ngộ thì cũng không thể nào đưa ra một giáo lý tuyệt đối được.      

Một vị thày giác ngộ không dạy giáo lý mà vị đó cần, mà trái lại dạy giáo lý mà con người cần. Vị thày biết rõ trình độ tâm thức của những người theo học mình và những gì mình có thể đem ra giảng dạy vào thời điểm đó. Vị thày biết rõ họ không thể nắm bắt một giáo lý cao hơn cho dù mình có thể trao cho họ giáo lý cao hơn.

Và vì vậy, đây sẽ là một sự thay đổi thật quý báu khi mà các Phật tử cũng các vị lãnh đạo Phật giáo nhận ra được là quả thực có sự cần thiết phải đổi mới đạo Phật. Ngoài ra cũng có nhu cầu vượt ra khỏi con đường công truyền, con đường máy móc chỉ lặp đi lặp lại một số nghi thức. Như con có thể thấy qua ví dụ cùng cực là bánh xe cầu nguyện Phật giáo: người ta cho rằng bằng cách quay một chiếc bánh xe, họ có thể thăng tiến tâm linh và làm cho nghiệp quả của họ tiêu sạch. Đó không phải là những điều ta giảng dạy cách đây 2500 năm, ít ra là những gì ta còn nhớ, và ta nhớ khá rõ.  

Kỹ thuật thiền Vipassana

Hỏi: 2600 năm trước đây, đức Phật Gautama đã phát minh kỹ thuật thiền Vipassana. Không hiểu các chân sư có nhận xét gì về kỹ thuật này trong thế giới Tây phương hiện đại hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Con yêu dấu, ta đã không phát minh mà đã nhận được từ một cõi cao hơn, từ các chân sư thăng thiên. Thuở đó chưa có khái niệm chân sư thăng thiên, và các chân sư cũng chưa nhận thấy đến lúc tiết lộ được khái niệm đó. Cho nên lẽ tự nhiên, các Phật tử cho rằng ta đã nghĩ ra, đã phát minh ra kỹ thuật này.

Về mặt nó có thích hợp với thế giới Tây phương hiện đại hay không, thì đối với một số người, nó sẽ thích đáng bởi vì họ là những người mà trong tiền kiếp đã có dùng nó rồi theo truyền thống đạo Phật. Tuy nhiên các chân sư đã lượng định là trong thế giới Tây phương hiện đại, nếu người tu tập sử dụng một kỹ thuật phát tỏa ra ngoài – như các bài thỉnh, bài chú – thì sẽ xây dựng hơn. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với tư duy người phương Tây đặt trọng tâm nhiều hơn vào thành quả, vào việc thực hiện một công việc.

Ví dụ, nhiều người phương Tây không có nhiều sự chú tâm hướng nội, không thiên về thiền định nhiều lắm, không kiên trì ngồi thiền được lâu lắm, và họ cần cảm thấy là mình đang tích cực làm một công việc nào đó. Nhưng một lần nữa, nếu ở mức độ cá nhân có ai cảm thấy đây là một kỹ thuật hữu ích cho mình, chắc chắn họ có thể sử dụng được. Tuy nhiên xét về tầm ảnh hưởng to lớn trên thế giới Tây phương, thì ta không lượng định chuyện đó có thể xảy ra thời nay. Có những dụng cụ khác mà các chân sư ban ra thời nay phù hợp hơn với thế giới Tây phương.

Lẽ tự nhiên, con cần nhận thức, như tất cả các con cũng đều đã biết, là chúng ta cần có một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là nói chung trên một hành tinh thay đổi nhanh chóng như địa cầu, một lời dạy được đưa ra cách đây 2600 năm không nên được xem là có giá trị muôn đời. Điều này không có nghĩa là không có một số ý tưởng phổ quát có thể áp dụng được ở mọi thời đại. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là những ý tưởng được biểu đạt ngày hôm nay bởi các chân sư thăng thiên cũng là cùng những ý tưởng đã được biểu đạt trong nhiều thời đại trước, nhưng sự biểu đạt luôn luôn phải phù hợp với bối cảnh khác nhau hầu có thể thích đáng và áp dụng được cho những người sống trong thời đại đó.

Tại sao các chân sư không dạy thiền dưới dạng truyền thống

Hỏi: Tại sao các chân sư thăng thiên không giảng dạy nhiều hơn về thiền quán và kỹ thuật thiền quán? Hình như các thày hiện không dạy về thiền quán, nhưng không phải thiền quán là phương tiện chủ yếu để đạt được Hợp nhất với Thượng đế hay sao? Hay là chúng con bước vào Hợp nhất với Thượng đế một cách tự nhiên bằng cách chữa lành tâm lý, nâng cao tâm thức, giải thoát khỏi tự ngã, v.v…? Liệu kỹ thuật hình dung (visualisation) hay tiến trình hòa điệu (attunement) cũng có thể được xem là thiền quán?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 12/9/2019.

Câu hỏi này ngụ ý một cách nhìn đặc thù về thiền quán, nhưng thiền quán trong nghĩa rộng nhất của nó cũng có thể được mô tả bằng một từ đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, đó là tỉnh thức. Làm thế nào con đọc được một bài thỉnh hiệu quả nhất? Bằng cách con tỉnh thức trong nguyên tiến trình – tất cả đều có thể là một hình thức thiền quán. Thiền quán không nhất thiết có nghĩa là con ngồi đó tĩnh lặng và tập trung vào một câu thần chú hay một kỹ thuật nào khác. Cách đó là cái nhìn cố hữu trong đạo Phật và đạo Ấn truyền thống, nhưng nhìn như vậy quá hạn hẹp.  

Chúng tôi, các chân sư, không dạy thiền quán trong hình thức đó bởi vì đối với nhiều người sống trong thế giới ngày nay, họ rất nên có một cuộc sống năng động và vì vậy họ cần tu tập qua hình thức những bài thỉnh và bài chú. Tiến trình phóng ra ngoài hiệu quả hơn cho con người sống trong thời đại hôm nay với lối sống bận rộn hơn trước. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, tất nhiên, là thiền quán không phải là phương tiện chủ yếu để đạt được hợp nhất với Thượng đế và chưa bao giờ từng là như vậy. Phương tiện chủ yếu là sự nâng cao nhận biết, và điều này chỉ đến được từ sự giải tỏa tâm lý. Thời xưa, con người đã có thể thực hiện được điều này, nhưng ngày nay hiển nhiên con có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để giải tỏa tâm lý của mình, không những với những kiến thức và lời dạy tổng quát về tâm lý học, mà cả với những giáo lý mà các chân sư đã trao cho con về ngã gốc và các loại ngã tách biệt khác.  

Sự hợp nhất với Thượng đế sẽ không tự động thực hiện được qua sự giải hóa mọi cái ngã, nhưng một khi con giải hóa được chúng, đặc biệt khi con không còn cá nhân hóa con đường của con – như thày More vừa giảng dạy – thì cái Ta Biết của con sẽ được giải thoát để nó nhận diện nó là một sinh thể vô hình tướng. Chỉ khi nào là một sinh thể vô hình tướng thì con mới đạt được hợp nhất với Thượng đế. Đã có một quan niệm sai lầm rất lâu đời và rất phổ biến trong số những người tâm linh rằng con có thể khoác cái bản sắc mà con đang có bây giờ khi con cất bước trên đường đạo, rồi con sẽ hoàn thiện nó để bản sắc này hợp nhất với Thượng đế. Điều này đơn giản là không thể xảy ra, chưa bao giờ từng xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra.    

Cách đích thực duy nhất để hợp nhất với Thượng đế – mà cũng chính là sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con – là làm tan biến một cách lần hồi và có hệ thống mọi cái ngã mà con đã tạo ra trong bốn thể phàm của con, hầu cái Ta Biết không còn bị kéo vào mà tự đồng hóa với chúng nữa. Khi đó, cái Ta Biết sẽ tìm được chỗ đứng chính đáng của nó ở ngay điểm gặp gỡ của hình số 8 nối kết Hiện diện TA LÀ của con với bốn thể phàm của con.

Và như vậy con sẽ là cánh cửa mở, không hơn không kém, và đó là trạng thái hợp nhất với Thượng đế. Điều này sẽ không tự động xảy ra bởi vì cái Ta Biết cần có một sự chọn lựa, nó cần lấy quyết định tự đặt mình vào điểm đó, nhưng nó sẽ không thể làm được cho tới khi mọi cái ngã đã tan biến.

Đạo Phật và tiến trình tiết lộ tuần tự

Hỏi: Khoảng một ngàn năm trước đây, một trong những giáo lý cao siêu nhất của Phật giáo Tây tạng, Kali Chakra Tantra, từng được một vị thày thuyết giảng. Tuy nhiên vì một số lý do, văn bản gốc đã bị thất lạc. Liệu chúng ta có thể hy vọng rằng trong một tương lai gần, Chân sư Yêu dấu sẽ đưa ra một giáo lý hoàn chỉnh hơn để những người theo Phật giáo Tây tạng nói riêng và các Phật tử nói chung có thể tiếp cận được hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 12/9/2019.

Tiếc thay, con yêu dấu, khả năng của ta để cải cách Phật giáo Tây tạng cũng hạn chế như khả năng của Giê-su cải cách đạo Cơ đốc vậy. Điều tương tự cũng xảy ra với các tông phái chính mạch khác của đạo Phật. Các tông phái này không thực sự đón nhận ý tưởng rằng ngày nay ta có thể là một chân sư thăng thiên trong số nhiều chân sư thăng thiên khác. Tất nhiên là các chân sư sẽ tiếp tục đưa ra những giáo lý mới. Qua vị sứ giả này và qua các đợt truyền pháp trước, ta đã giảng dạy một số giáo lý tiên tiến hơn tất cả những gì có thể được giảng dạy hàng ngàn năm trước.

Con thấy không, trong hầu hết mọi phong trào tôn giáo luôn luôn có khuynh hướng nhìn về quá khứ và tôn vinh quá khứ như thể những gì được giảng dạy thuở trước phần nào cao hơn, thuần khiết hơn những giáo lý được trình bày thời nay. Nhưng với thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự, con cần nhìn nhận là khi tâm thức tập thể bước lên cao hơn thì giáo lý có thể được giảng dạy ngày hôm nay cũng phải cao hơn những gì có thể được giảng dạy 1000 năm hay 2000 năm hay 2500 năm về trước. Là một học trò của chân sư thăng thiên, con không có lý do gì tìm về quá khứ và tôn vinh các giáo lý quá khứ.

Cầu cho người quá cố

Hỏi: Tại Hàn quốc, nhiều người tổ chức cúng lễ để đưa linh hồn người thân và tổ tiên đã khuất về nơi an nghỉ tốt đẹp ở cõi trời. Các buổi lễ này thường do những người tu hành tôn giáo hay tâm linh cử hành, nhưng họ lại đòi những số tiền to lớn để làm lễ. Nhiều người thường hoài nghi không hiểu nghi lễ như vậy có thật đưa người thân của mình lên cõi phúc lành hay không. Cho nên những ai phải bỏ ra quá nhiều tiền làm lễ tất nhiên sẽ bất bình hay nghi ngờ người hành lễ gian lận. Tổn phí to lớn của cúng tế và cách hành xử gian lận của người hành lễ đang gây vấn đề trong xã hội. Liệu chúng con có thể đọc những bài cầu nguyện tràng hạt hay bài cầu thỉnh của các chân sư thăng thiên thay vì bỏ nhiều tiền ra để đưa tổ tiên và thân nhân chúng con về nơi cực lạc?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, ta có thể nói thật rõ ràng ở đây. Người hành lễ đòi càng nhiều tiền thì sự gian lận của họ càng lớn, bởi vì họ chỉ muốn kiếm tiền chứ không có ý giúp gì những vị đã khuất. Một người hành lễ đích thực trong tinh thần tâm linh có thể sẽ tính tiền để duy trì sinh hoạt nghi lễ thay vì phải kiếm sống bằng cách khác, nhưng họ sẽ tính giá phải chăng chứ không cố làm giàu qua việc phụng sự tâm linh.   

Nói vậy rồi thì ta phải nói thêm, nhiều người hành lễ có chủ tâm rất tốt nhưng sự hiệu nghiệm của những buổi lễ này rất thấp. Lý do là vì như chúng tôi đã nói nhiều lần, một buổi lễ chủ yếu trong cõi vật lý không làm sao hữu hiệu bằng một nghi lễ tâm linh. Cho nên con yêu dấu, tất nhiên là con có thể dùng những bài chú và bài thỉnh để cắt những sợi dây, giải thoát tổ tiên và thân nhân mình khỏi mọi điều kiện trong cõi trung giới. Bài chú cho Astrea rất hữu hiệu để giải thoát thân nhân con khỏi các ràng buộc, chẳng hạn, của cõi trung giới.      

Con có thể nhìn vào cuộc đời của thân nhân con và con có thể – càng nhiều càng tốt vì con biết rõ họ – lượng định xem những vấn đề tâm lý mà họ đã có thể gặp phải. Rồi con hãy tìm bài cầu thỉnh nào thích hợp nhất để giải quyết những vần đế này và con đọc cầu thỉnh cho họ. 

Một lần nữa, việc này không thể vi phạm quyền tự quyết của họ, bởi vì họ cần phải thấy được vấn đề ở trong họ hầu thoát ra khỏi vấn đề. Nhưng chắc chắn con vẫn có thể cầu gọi để giúp họ cải sửa vấn đề đó dễ dàng hơn ở bất cứ nơi nào mà họ đã thăng lên sau cái chết của cơ thể vật lý. Dĩ nhiên, nếu họ đã đi xuống một nơi thấp hơn trong cõi trung giới, con có thể tìm cách giải vây họ bằng cách cầu gọi Đại thiên thần Michael và Astrea và Ngọn lửa Tím. Và điều này sẽ tạo cơ hội cho họ nhìn lại khuôn nếp tâm lý của mình một cách hoàn toàn mới mẻ, một điều mà họ chưa từng, hoặc chưa muốn, làm khi còn sống.

Một lần nữa, con không thể gạt bỏ quyền tự quyết của họ nhưng ít ra con có thể cố cho họ một cơ hội để bước vào ánh sáng, đi theo các chân sư thăng thiên để đến nơi cư trú nơi họ có thể học hỏi, hoặc có cơ hội tốt nhất để học hỏi, hầu họ được hiện thân tốt đẹp hơn trong kiếp đầu thai kế tiếp. Chắc chắn là con không bao giờ muốn thân nhân của con bị rơi vào cõi trung giới và bị kẹt ở đó, khiến họ sẽ phải tái đầu thai trong một tình cảnh khó khăn hơn kiếp trước.

Con có thể làm rất nhiều để họ có cơ hội chọn bước theo các chân sư vào cõi cao hơn nơi họ được các chân sư chỉ dạy. Khi con biết nhiều hơn về giáo lý các chân sư, con sẽ hiểu là con không cần tốn tiền trả cho những người hành lễ đó, và dĩ nhiên con hãy cứ tùy tiện nói chuyện với gia đình con về khả năng này nếu gia đình cởi mở.  

Nhưng ta sẽ để cho cá nhân con toàn quyền thẩm định điều này, bởi vì đây thực sự là vấn đề: liệu gia đình con đã chán chê trả tiền cho người hành lễ hay chưa và đã sẵn sàng giúp đỡ thân nhân mình một cách ý nghĩa hơn hay chưa. Con yêu dấu, con có thấy tại sao một tập tục như vậy đã khởi sự hay không? Một phần đó là vì nền văn hóa của các con không nhất thiết chủ trương cúng tế tổ tiên, mà là một nền văn hóa kính trọng tổ tiên cao độ.   

Đối với nhiều người, điều này đã trở thành một gánh nặng, một bổn phận, một ý thức trách nhiệm, chứ không phải vì tình yêu thương. Họ làm vậy vì họ cảm thấy bắt buộc phải làm vậy. Cho nên có một cơ chế tâm lý được tạo ra ở đây: một số người không muốn bỏ thì giờ ra tự làm lấy nhưng họ lại cảm thấy phải làm một cái gì đó, và đối với cộng đồng chung quanh, họ phải đưa ra bộ mặt là đã làm một cái gì. Cho nên sẽ dễ dàng hơn nếu họ có thể trả tiền cho một ai đó cử hành buổi lễ để họ có thể nói: “À nhưng tôi đã trả tiền nhiều như thế đó cho người này để người ta làm lễ cho mẹ tôi”, và do đó họ là một đứa con có hiếu đã làm tròn bổn phận của mình. Và mọi người trong cộng đồng chung quanh sẽ bảo: “Đúng vậy, anh ta là một đứa con có hiếu, anh ta đã làm tròn bổn phận”. Và sau đó thì họ có thể bỏ chuyện này ra khỏi tâm trí và cảm thấy mình đã làm những gì mình phải làm.    

Và đấy là tại sao tập tục này đã khởi đầu. Người ta bỏ tiền ra mua lấy một cảm giác nhẹ nhõm là mình đã làm điều mình phải làm. Hoặc nữa, người ta cũng có thể bỏ tiền ra mua một địa vị nào đó trong cộng đồng, vì họ hiểu ra là nếu họ càng bỏ nhiều tiền để cúng lễ thân nhân thì địa vị của mình trong cộng đồng càng cao hơn. Số tiền bỏ ra chứng tỏ địa vị mình đang có.

Cho nên con thấy trong tập tục này có một tâm lý khá phức tạp. Con có thể bảo gia đình con là việc bỏ tiền ra thật sự không cần thiết, nhưng rất có thể gia đình con sẽ không chấp nhận ý kiến này chính vì cơ chế tâm lý đó. Nếu vậy, con hãy để yên cho gia đình làm theo ý muốn. Còn con, con hãy làm lễ riêng con, và biết rằng mình đã làm tất cả những gì có thể cho thân nhân mình.

Kinh Pháp Hoa và con đường nội tâm dẫn đến quả vị Phật

Hỏi: Kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra) được xem là một trong những quyển kinh quan trọng nhất của Phật giáo Hàn quốc. Kinh nói rằng mỗi người đều có Phật tánh và khả năng trở thành Phật. Con tò mò muốn biết kinh Pháp Hoa có thực là của đức Phật Gautama hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 24/4/2017.

Đúng vậy, con yêu dấu, bản kinh đó là do ta. Tuy vậy, ta cũng muốn nói rõ là đại đa số những người đọc kinh này không tin những gì nói trong đó. Họ không hoàn toàn chấp nhận là họ có Phật tánh nơi họ và do đó họ cũng có thể là Phật. Nếu chúng ta có thể giúp cho mọi người chấp nhận điều này thì chúng ta có thể tiến rất xa. Đạo Phật có thể bước lên một giai đọan mới nơi mọi người có thể bắt đầu nhìn nhận một cách công khai là mình có tiềm năng thực sự biểu hiện Phật tánh. Và tất nhiên, càng có nhiều người thể hiện Phật tánh thì con sẽ càng thấy sự thay đổi trong xã hội và tâm thức tập thể được nâng cao.  

Phải nói là khi ta dùng thuật ngữ Phật tánh vốn có trong mỗi người, con cần hiểu điều này không mâu thuẫn với lời dạy của Giê-su rằng Ki-tô ở trong mỗi người và mỗi người đều có tiềm năng trở thành Ki-tô. Không có đối nghịch gì ở đây. Hai khái niệm này không loại bỏ nhau mà chỉ đơn giản là những lời dạy được đưa ra ở những thời điểm khác nhau cho những văn hóa khác nhau. Tất nhiên là cũng có chút khác biệt về sắc thái mà chúng ta có thể thảo luận, và như ta đã có giảng trước đây, tâm thức Ki-tô là một giai đoạn trên đường đạo khi con vươn ra ngoài để giúp đỡ người khác, và sau đó là giai đọan tâm thức Phật – hay cái mà ở phương Đông thường xem là tâm thức Phật – khi con trụ vững hơn trong nội tâm, và ngay cả con có thể rút khỏi thế gian như con thấy ta đã rút về một đạo tràng để giảng dạy. Trong khi đó thì con thấy Giê-su đã đi ra ngoài xã hội để giúp mọi người nơi họ sinh sống.     

Một lần nữa, đây không phải là những điều gạt bỏ lẫn nhau mà chỉ là hai giai đọan khác nhau, và có những người đã sẵn sàng cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Phật. Tuy nhiên cũng có những người khác sinh ra tại phương Đông nhưng chưa thực sự sẵn sàng cất bước trên đường quả vị Phật, bởi vì họ cần đi qua một vài giai đọan trước đã. Họ sẽ cần đi hết con đường quả vị Ki-tô trước khi thực sự sẵn sàng cho con đường quả vị Phật.

Hiển nhiên đây là một trong những vấn đề lớn luôn luôn gặp phải khi giảng đạy giáo lý. Bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng được ban ra cho một trình độ tâm thức đặc thù nào đó. Người nào không ở trình độ đó thì sẽ không thể nắm bắt ý nghĩa bên trong của giáo lý, và đấy là lúc họ sẽ đem giáo lý biến nó thành một tôn giáo vỏ ngoài. Như ta đã có dịp đề cập, ngay cả đạo Phật cũng bị chìm trong nghi lễ và truyền thống bề nổi đến độ người ta cho rằng khi mình tuân thủ đủ các nghi thức như vậy thì mình sẽ tự động tinh tấn.        

Không cứ là không thể tinh tấn được bằng cách đó, nhưng nếu con tuân thủ tất cả mọi giáo lý vỏ ngoài của Phật giáo và cứ tiếp tục mãi như thế, con sẽ không tự động đến được điểm mà con sẵn sàng chấp nhận Phật tánh của con. Tất nhiên điều này cũng tương tự như trong đạo Cơ đốc khi các tín hữu không thấu hiểu con đường bên trong của quả vị Ki-tô cũng đã tạo ra một tôn giào vỏ ngoài. Và một lần nữa như Giê-su đã dạy nhiều lần, nếu con chỉ theo đúng cách hành đạo bề ngoài của Cơ đốc giáo như người ta vẫn làm thời nay, thì con sẽ không đến được điểm sẵn sàng bước vào con đường bên trong.  

Điều vô cùng cần thiết là mọi người phải nhận thức rõ hơn về nhu cầu nhìn xa hơn giáo lý công truyền, nhìn xa hơn nghi lễ vỏ ngoài, và thâm nhập vào thông điệp bên trong của con đường nội tâm. Đây chính là điểm mà thời nay chúng tôi, các chân sư, đang giảng dạy, rằng đường đạo có nhiều cấp độ khác nhau, và ở mỗi cấp độ con cần những giáo lý khác nhau. Cho nên ở phương Đông, có nhiều người lớn lên trong một văn hoá Phật giáo thực sự sẽ được hưởng lợi lạc rất lớn nếu họ học tập các giáo lý mà chúng tôi đang ban ra thời nay về con đường quả vị Ki-tô. Điều này sẽ giúp họ bước đi từng bước trên một con đường tuần tự giúp họ sẵn sàng hơn cho con đường quả vị Phật. 

Mặc dù ta đã cố đưa ra Bát chánh đạo như là một kim chỉ nam cho đời sống bên ngoài, nhưng việc đi theo một hệ thống bên ngoài sẽ không bảo đảm con mở tâm ra với con đường bên trong. Đây phải là một nhận biết ý thức, một quyết định ý thức, rằng con muốn bước đi trên con đường tâm truyền. Đó là tại sao cách tiếp cận cao nhất cho con không phải là nghĩ rằng bởi vì con sinh ra trong một văn hoá Phật giáo mà con sẽ sẵn sàng cho con đường nội tâm chân truyền của Phật.

Tốt hơn là con nên cởi mở và khiêm tốn để không có khoảng cách nào giữa nơi con đang đứng và nơi con nghĩ là Phật đã đứng. Đây là một điều mà con có thể thấy được nơi quá nhiều Phật tử, cũng như nơi quá nhiều tín hữu Cơ đốc, tức là họ thấy một khoảng cách giữa họ và Giê-su giống như con thấy khoảng cách giữa con và tâm thức Phật. Trong tôn giáo vỏ ngoài thì không có cách gì lấp được khoảng cách đó. Con chỉ có thể vượt qua khoảng cách bằng con đường tâm truyền, nhưng con phải nhậy bén thấy được nơi con đang đứng về mặt tâm thức và con cần làm gì để tiến lên bước kế tiếp trên đường tu của con.

Điều đã xảy ra trong quá nhiều tôn giáo và nền văn hóa là người ta đã tước mất con đường bên trong, và như vậy tôn giáo vỏ ngoài đã tạo ra khoảng cách đó. Các sa nhân, dĩ nhiên, làm đủ mọi cách để làm tha hóa cách hành đạo vỏ ngoài hầu người ta không thể lấp được khoảng cách và tìm thấy con đường bên trong. Ngày nay, điều các chân sư cố làm là giúp cho mọi người biết đến con đường bên trong và sự cần thiết phải đi theo con đường này.  

Việc thờ cúng tổ tiên

Hỏi: Tại Hàn quốc, chúng tôi có một nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ tổ tiên đã khuất. Ý kiến của ông về điều này sa sao?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 30/3/2017.

Theo tôi, đây là một nghi lễ phần nào thuộc về quá khứ và không thuộc về Thời đại Bảo bình. Nghi lễ này tạo sự ràng buộc với tổ tiên cùng những cách sinh hoạt cũ. Làm thế nào một xã hội thăng vượt được nếu quá ràng buộc vào quá khứ? Theo ý tôi, đìều này sẽ lần hồi phai nhạt đi trong Thời đại Bảo bình. Tôi nghĩ có thể các chân sư sẽ muốn bình luận gì thêm, nhưng nếu bạn nhìn vào vấn đề một cách lô-gíc, bạn có hai hướng suy nghĩ. Hoặc bạn có thể từ bỏ tập quán này và nói: “Chúng ta không thấy cần thiết nữa”. Hoặc bạn có thể tự vấn: “Đâu là tổ tiên đích thực của chúng ta?”  Đó không phải là cha mẹ hay ông bà chúng ta bởi vì trước cha mẹ và ông bà thì có ai? Nếu bạn đi ngược lên mãi, sẽ tới điểm bạn tìm ra đó là các chân sư thăng thiên. Các chân sư là tổ tiên thật sự của chúng ta, chúng ta khởi nguồn từ đó vì chúng ta là những sinh thể tâm linh.

Tôi thiển nghĩ một xã hội sẽ rất, rất khó lòng tăng triển nếu mình quá ràng buộc vào tổ tiên mình. Tôi thiết nghĩ nếu mình cho rằng tổ tiên đang chú tâm nhìn mình, theo dõi và phán đoán từng động thái trong đời mình, thì điều này phần nào không lành mạnh. Tôi cho rằng nó có thể không lành mạnh cho chính linh hồn của tổ tiên, bởi vì nếu bạn có sự ràng buộc tình cảm mạnh mẽ thì cũng giống như bạn đang muốn giữ chân cha mẹ mình ở lại với mình, và điều này sẽ gây trở ngại cho cha mẹ rời bỏ thế gian mà tiến về những chân trời mới.  

Đã có khá nhiều sách viết – tôi không rõ là sách có bán tại Hàn quốc hay không, nhưng bên Mỹ chẳng hạn thì đã có – về những người đã có trải nghiệm cận tử. Liệu ở Hàn quốc có quan niệm này không? Đây là những người đã qua đời về mặt vật lý, tuy nhiên họ vẫn có trải nghiệm và tỉnh lại để kể lại câu chuyện của họ. Họ kể rằng khi thân xác qua đời, mỗi người sẽ vẫn sống tiếp, sẽ bước vào cõi bản sắc rồi thường sẽ có một thời gian để nghỉ ngơi và học hỏi trước khi tái đầu thai trong một kiếp mới. Hầu có thể bước tới và đi vào ánh sáng, bạn phải có khả năng buông bỏ lại kiếp sống đã qua của mình, bỏ lại xác thân vật lý cũng như gia đình và xã hội của mình. Nếu con cháu quá bám giữ và không buông ra cho cha mẹ hay ông bà mình ra đi, thì làm sao linh hồn ra đi được đây?    

Tôi thiết nghĩ nhiều linh hồn sẽ bị vướng lại và đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là những hồn không xác, là hồn không thể nào bước đi tiếp để mà tái đầu thai. Hồn thường bị kẹt lại trong cõi trung giới hay cõi tình cảm. Nó bị kẹt ở đó và nó có cảm giác tựa như con cháu của nó đang ngăn cản nó bước tới, và vì thế nó cố ảnh hưởng ngược lại trên con cháu. Tình thế trở thành thật phức tạp, thật khó khăn. Điều lành mạnh hơn nhiều là bạn cứ để yên cho linh hồn các vị ấy siêu thoát. Linh hồn sẽ tiếp tục bước tới, và chính bạn cũng tiếp tục bước tới và giải thoát khỏi quá khứ.

Giáo lý trên trang mạng này có là giáo lý huyền bí?

Hỏi: Kính thưa thày Giê-su, con đã nói chuyện với nhiều người và cho họ thông tin về những cuốn sách cùng trang mạng này. Con đã rất cởi mở và trung thực với họ nhưng hầu hết đều nói với con là con đang đọc bài vở liên quan đến huyền bí. Trong hầu hết các giáo phái đạo Cơ đốc, huyền bí bị xem là thuộc về Sa-tăng và nên tránh xa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu ra câu hỏi rất quan trọng này. Ta xin khởi đầu bằng một số định nghĩa thông dụng của từ “huyền bí” (occult) trong từ điển:

Huyền bí:

  • Liên quan đến, hoặc giao tiếp với, các ảnh hưởng hay hiện tượng siêu nhiên.
  • Vượt ra ngoài lãnh vực nhận thức hay lãnh hội của con người.
  • Chỉ những người đã nhập môn mới có thể truy cập.
  • Che khuất khỏi tầm nhìn bình thường, ẩn giấu, bí mật.

Nếu con đọc Tân Ước với định nghĩa trên, con sẽ thấy mọi khía cạnh của giáo lý ta như được ghi lại trong Kinh thánh, đều liên quan đến siêu nhiên. Phần lớn những lời của ta vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của con người và không thể được lãnh hội bằng lý trí nhị nguyên tương đối, là trạng thái tâm thức bình thường của hầu hết mọi người. Con cũng thấy được là ta đã trao cho các môn đệ của ta một số giáo lý cao cấp mà ta không tiết lộ cho đại chúng [Mark 4:34].  

Cho nên, người ta rất có thể nói rằng tất cả mọi điều đã được ghi lại về ta trong kinh điển chính thức đều có thể được sử dụng để gọi ta là một vị thày huyền bí. Đây chính là nhãn hiệu mà những người đạo Do Thái chính thống đã gán cho ta khi họ đưa ta ra xét xử và đóng đinh ta trên thập tự giá. Tất nhiên là họ dùng những từ khác, nhưng cốt lõi của lập luận của họ là ta đã vượt ra ngoài các giáo lý chính thống và do đó ta không thuộc về sự thật, không thuộc về ánh sáng, không thuộc về Thiên Chúa. Kết quả là họ buộc tội ta là thuộc về quỷ.

Ta có thể cam đoan với con là nếu thuật ngữ này đã có vào thời đó, thì những người đạo Do Thái chính thống đã gọi ta, Giê-su Ki-tô, là tên cầm đầu một môn phái Thời Mới (New Age) vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ tìm thấy rất nhiều “chứng cớ” trong những lời ta đã nói để kết tội ta. Như khi ta bảo tín hữu phải rời bỏ công việc và gia đình để đặt ta trên hết và trước hết. Như khi ta bảo tín hữu phải sẵn sàng bỏ đời sống vì ta. Con có thấy không, hẳn các phong trào chống đối các môn phái sùng tín (anti-cult movements) thời nay sẽ quá đỗi vui mừng mà chụp lấy những lời tuyên bố đó của ta? Và con có thấy họ sẽ tố cáo ta và gán ghép cho ta tội làm bạn với ma quỷ như thế nào không?

Con cũng thấy đó, ngay cả những chức sắc của đạo Cơ đốc chính thống hay chính mạch, là những người tự nhận là đại diện của ta trên trái đất, đã sử dụng tư duy sợ hãi để dựng lên ý tưởng rằng bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đạo Cơ đốc chính thống đều là huyền bí, và tất cả mọi điều huyền bí đều thuộc về quỷ. Thật là sai lầm khi bảo rằng mọi điều huyền bí thuộc về quỷ. Huyền bí chỉ đơn giản là điều gì đó vượt khỏi khả năng hiểu biết bình thường của con người, và điều này cũng áp dụng cho Thượng đế. Con có cho rằng Thượng đế thuộc về quỷ hay không?

Kỳ thực, đạo Cơ đốc đã bị biến thành cùng một loại tôn giáo phát xuất từ sợ hãi y như đạo Do Thái chính trống khi trước đã đóng đinh ta trên cây thập tự. Cái nhìn sợ hãi này được đẩy xa đến độ nếu ngày hôm nay ta hiện ra trong một xác thân vật lý và giảng dạy giáo lý tâm truyền chân thực của ta, thì nhất định ta sẽ bị những người đạo Cơ đốc chính thống trù dập. Họ sẽ gán tội cho ta là của quỷ hay bôi nhọ ta là một tên cầm đầu môn phái sùng tín. Và thật vậy, đây là cách mà một số người trong số họ đã gọi những lời dạy của ta đưa lên trang mạng này.

Như ta có trình bày trong quyển sách “Cái đến thầm kín của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ), những ai có cái nhìn sợ hãi về tôn giáo sẽ bác bỏ bất cứ điều gì vượt ra ngoài giáo lý chính thống. Họ làm vậy bằng cách tạo ra một nhãn hiệu giả tạo, rồi tuyên bố bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đều mang nhãn hiệu đó, và do đó ta thuộc về quỷ.   

Đây là một cách nhìn thật thiếu chín chắn về tôn giáo, và nó bắt nguồn từ sợ hãi. Nó cũng bắt nguồn từ sự từ chối trách nhiệm để trở thành một người với tâm Ki-tô, hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình, hầu phân biện được thế nào là của Thượng đế và thế nào không của Thượng đế. Thật đáng buồn khi nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc chính thống cho rằng họ đại diện ta trên trái đất, rằng họ đang bước chân theo ta, nhưng họ lại từ chối khoác vào tâm Ki-tô và phân biện giáo lý tâm truyền chân thực cùa Giê-su Ki-tô với những tín điều công truyền trông chằng khác gì những nấm mồ được tô trắng nhưng chứa đầy xương người chết.   

Khi con khoác vào tâm Ki-tô, con sẽ dễ dàng phân biện được cái gì là của ánh sáng và cái gì là của bóng tối. Điều này sẽ cho phép con nhìn xuyên thấu các giáo điều nhân tạo nông cạn. Người tìm kiếm tâm linh chân thành cần phải nhận ra là ác quỷ có một mục tiêu rõ ràng. Nó tìm cách đánh lừa những kẻ phụng sự tốt nhất của ta trên trái đất. Nó không quan tâm gì đến những người hoàn toàn bị bao trùm trong tâm nhị nguyên bởi vì những người này đã nằm trọn trong tay nó rồi. Quan tâm chủ yếu của ác quỷ là đánh lừa những ai đã hé thấy được chân lý nhưng chưa thể hiện được tính phân biện Ki-tô sẽ giúp họ nhìn thấu qua những dối gian vi tế của ác quỷ.    

Đây chính là loại người mà con gặp trong đạo Cơ đốc chính thống. Họ đã thấy được sự thực trong giáo lý của ta và họ có tiềm năng vươn lên một tầm mức cao hơn. Nhưng vì họ không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ hãi của mình, họ vẫn bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi đó. Điều này tất nhiên là cái mà ác quỷ mong muốn. Cách duy nhất để con người tìm được tự do là sẵn sàng trải qua một giai đoạn khó khăn tìm cách thiết lập sự hòa điệu nội tâm trực tiếp với ta và cái ta Ki-tô của họ. Và hiển nhiên, toàn bộ mục đích của trang mạng này là giúp họ thực hiện được điều này.

Thực tế đáng buồn là nhiều người đạo Cơ đốc từ chối sử dụng khả năng phân biện của mình, từ chối đoái nhìn tới bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý chính thống. Điều này có thể là khôn ngoan đối với một số người, vì nếu họ chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đường tâm linh của họ và dồn hết sức đào sâu sự hoà điệu với cái ta Ki-tô, thì họ chưa có khả năng nhìn thấu dối gạt của ác quỷ, và vì vậy họ có thể sẽ an toàn hơn nếu họ tạm thời ở lại với tôn giáo truyền thống. Nếu con xem bài giàng của ta về các cấp độ tinh tấn, con sẽ hiểu rằng một số dòng sống bị bối rối và tổn thương đến mức họ cần đến sự ổn định bên ngoài của một hệ thống tín ngưỡng truyền thống hầu được chữa lành.

Tuy nhiên, thời nay cũng có nhiều dòng sống nếu muốn tiến bước xa hơn sẽ cần phải nâng tâm thức mình lên cao hơn. Những người này cần bước vào giai đọan làm người tầm đạo tâm linh, mở tâm mình ra những ý tưởng vượt ngoài học thuyết chính thống. Nếu họ không thực hiện bước này, họ sẽ ngừng lại và sẽ trở thành tù nhân của ác quỷ mà chính họ đã tìm cách trốn tránh bằng cách trú ẩn trong một giáo hội Cơ đốc. Nói cách khác, sẽ tới một điểm khi dòng sống không thể tiến lên khi họ ở lại với một tôn giáo bị bao phủ bởi sợ hãi. Nếu muốn tiến bước, họ sẽ phải nhận lấy rủi ro và mở tâm ra những tư tưởng mới. Tất nhiên là có nguy cơ mở tâm ra với những ý tưởng sai lầm, thế nhưng thực tế cốt yếu của cuộc sống là nếu con sợ té ngã thì con sẽ không bao giờ biết đi. Trong một bài giảng vô cùng quan trọng, ta có giải thích là mọi tôn giáo có thể trở thành một cái bẫy ngăn chận con tìm được cứu rỗi.  

Dĩ nhiên ta hiểu rõ nhiều dòng sống đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà con thấy nơi những người bạn đạo của con. Họ cần phải tiến về phía trước và mở tâm mình ra để hiểu biết cao hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, nhưng họ không thể hoàn toàn ngừng bám vào cái nhìn đầy sợ hãi của tôn giáo. Đó là tại sao họ phải níu lấy đạo Cơ đốc chính thống dường như đang cho họ một nơi trú ẩn an toàn. Đó là tại sao ta đã phát hành trang web này cùng các cuốn sách. Mục đích của ta là cung cấp cho những tín đồ Cơ đốc đó một lối thoát hầu họ có thể mở tâm ra đón nhận ý tưởng mới mà không phải tiếp xúc với những ý tưởng giả trá. Dĩ nhiên là các chân sư thăng thiên cũng đang dùng một số phương pháp khác để đem vào thế giới nhiều loại giáo lý tâm linh chân thực cho thời đại này.  

Tiếc thay, trong vũ trụ vật chất này không thể có gì bảo đảm được kết quả. Tình thế khó xử của ta rất dễ hiểu. Để giúp cho mọi người nâng cao tâm thức, ta phải cho họ những giáo lý đi xa hơn giáo điều chính thống. Nhưng chính vì trang mạng này và các cuốn sách của ta chứa đựng những ý tưởng đi xa hơn giáo điều chính thống mà ta có thể đoán trước được một số tín đồ Cơ đốc sẽ gọi giáo lý này là huyền bí, thậm chí còn thuộc về quỷ. Ngay cả ta cũng không có giải đáp cho bài toán này. Ta chỉ có thể cúi mình tôn trọng quyền tự quyết của mỗi người và chờ cho đến khi họ có được một quyết định sáng suốt hơn.   

Nếu con cảm thấy có sự thúc giục nội tâm muốn tìm cách giúp những người bạn của con mở tâm ra với sự hiểu biết cao hơn, kể cả đưa cho họ xem lời dạy mà ta vừa cho con, thì chắc chắn ta sẽ biết ơn sự giúp đỡ của con trong vấn đề này. Chỉ có một điều là con phải chắc chắn là con không bị vướng mắc vào kết quả của việc làm của con, như ta đã giải thích trong phần chót của quyền “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is born in you). Con hãy trình bày sự thật trong khả năng của con, xong hãy để họ tự do chọn lựa hướng đi của họ. Là một người đại diện cho Ki-tô, con không bao giờ được tìm cách ảnh hưởng sự chọn lựa của người khác. Đó là cách làm của ác quỷ và nó đã làm vậy từ khi nó nổi loạn chống lại Thượng đế, nhưng đó chưa bao giờ là cách của Ki-tô.

Con có thấy chăng là ác quỷ có thể chiến thắng bằng hai cách? Một là đánh lừa con đi theo con đường tay trái tà đạo. Và cách kia là khiến con sợ ác quỷ đến nỗi con không dám mở tâm ra cho bất cứ gì mới. Nếu con sợ huyền bí đến độ không dám nhìn ra ngoài giáo điều chính thống thì con đã cho phép ác quỷ kiểm soát con qua sự sợ hãi. Nếu các đệ tử của ta thời đó cũng có cái nhìn sợ hãi như nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay thì làm thế nào đạo Cơ đốc đã ra đời? Những người đạo Do Thái chính thống đã có thể giết nó ngay khi họ giết ta!  

Nhận xét của Giê-su về phim của Mel Gibson “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”

Hỏi: Thưa thày Giê-su, thày có thể cho con sáng ngộ gì về bộ phim mới của Mel Gibson được phát hành năm 2004 “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”? Liệu thày có xem phim này là một cản trở cho thông điệp của thày vì thày sẽ trở thành thần tượng cho hàng triệu người? Hay liệu phim này cần thiết để tăng cường cho thông điệp của thày? Đây có phải là một mô tả chính xác về sự Đóng đinh của thày hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu ta được yêu cầu làm cố vấn cho một bộ phim về đời ta, điều đầu tiên ta sẽ làm là đổi tiêu đề từ “Khổ nạn” thành “Phục sinh”. Chắc chắn ta không hài lòng là đạo Cơ đốc chính thống đã đặt chú ý và trọng tâm quá đáng như vậy vào sự kiện ta bị đóng đinh, và do đó đã bỏ qua sự kiện quan trọng hơn rất nhiều là ta đã phục sinh.

Phải, ta đã bị đóng đinh và hành quyết. Tuy nhiên, hàng ngàn người khác cũng đã bị hành quyết tương tự như vậy mà hầu như chẳng có ai chú ý. Lý do là vì, tất nhiên, việc một người bị đóng đinh chẳng quan trọng gì trong lịch sử thế giới. Vậy tại sao lại xem trọng sự kiện ta bị đóng đinh? Nó thật chẳng quan trọng gì hơn việc đóng đinh một người nào khác bị hành quyết theo lối ác độc này. “Hễ các người đã làm chuyện này cho một kẻ hèn mọn này là anh em của ta, thì các người cũng đã làm cho chính ta” (Matthew 25:40). Cho nên khi con bỏ qua sự hành quyết ác độc đối với từng nấy người, thì con cũng bỏ qua nỗi khổ của họ, là chính nỗi khổ của ta.

Điều ta cố giúp mọi người nhìn ra ở đây là việc ta bị đóng đinh không quan trọng hơn, hay kém quan trọng hơn, hàng ngàn người khác bị đóng đinh. Trải nghiệm của ta chỉ khác hơn ở chỗ là ta đã được phục sinh sau khi bị đóng đinh và ta đã hiện ra trước mặt các tông đồ trong một cơ thể phục sinh. Điều này quan trọng vì khi được hiểu chính xác, nó chứng minh là mọi người đều có thể bước trên một con đường sẽ dẫn họ đến tâm thức Ki-tô. Và khi họ đạt đến tâm thức Ki-tô đó, họ có thể chiến thắng mọi thế lực của vũ trụ vật chất, kể cả chính cái chết.

Thông điệp chủ yếu của đời ta không phải là lời tuyên bố được nhắc đi nhắc lại là ta đã chết trên thập tự giá để trả thay cho tội lỗi loài người, mà thông điệp chủ yếu là mặc dù người ta đã giết chết thân thể vật lý của ta, họ đã không thể giết được ta vì ta là nhiều hơn cơ thể và ta có thể sống còn sau khi cơ thể qua đời. Đây quả thực là thông điệp đáng lý phải được “hô lớn từ mọi mái nhà” cũng như trên màn hình chiếu phim.

Mọi con người đều có tiềm năng bước theo chân ta và làm những công việc ta đã làm. Và chìa khóa để bước theo chân ta là áp dụng cùng một cách tiếp cận đối với tôn giáo mà ta đã chứng tỏ trong suốt đời mình, là đi muốt tiến trình biến hóa tâm thức mà ta đã trải nghiệm. Đó mới đúng là thông điệp chủ yếu của đạo Cơ đốc, và như ta đã từng nói, ta mong muốn mọi hình ảnh của Ki-tô bị đóng đinh được gỡ bỏ khỏi các nhà thờ Cơ đốc và được thay thế bằng hình ảnh của Ki-tô phục sinh.

Cho nên đúng vậy, bộ phim này có tiềm năng là một cản trở cho thông điệp mà ta muốn gửi ra trong thời đại này. Nếu phim này trở nên thịnh hành trong quần chúng, quả là nó có thể tăng cường cho sự trọng tâm quá mức dành cho việc ta bị đóng đinh và đau đớn trên thập tự giá, một trọng tâm đã được củng cố suốt 2000 năm qua. Ta đã có bình luận về chủ đề “Chúa hiến thân cho loài người” ở một nơi khác cho nên như vậy cũng đủ rồi.

Khi con xem một bộ phim, con rất nên chú ý đến mức độ năng lượng của mình trước và sau khi xem phim. Nếu con nhận thấy mức năng lượng giảm xuống, con có thể chắc chắn là phim đã hút cạn năng lượng tích cực của con. Đại đa số các nhà làm phim không nhận thức rõ về sản phẩm của mình, nhưng những loại phim như vậy luôn luôn bị tà lực ảnh hưởng vì tà lực dùng bộ phim để đánh cắp năng lượng tích cực của người xem. Điều này đặc biệt đúng với các loại phim gây sốc cho khán giả qua các hình ảnh khủng khiếp, tình dục hay bạo lực.

Ta nghĩ người xem phim “Cuộc Khổ nạn” nếu họ chú ý đến mức năng lượng của mình, sẽ nhận thấy họ bị rút cạn hết năng lượng sau khi xem phim. Lý do thật đơn giản. Phim này chú tâm quá đáng vào nỗi đau đớn của ta trước và trong khi bị đóng đinh. Nói thật, ta thà không có tín hữu Cơ đốc nào nhìn thấy những hình ảnh của một người bị đóng đinh với thân thể đầy máu được trình bày là Giê-su Ki-tô.

Đó thật không phải là một cách mô tả chính xác về cách hành quyết này. Hiển nhiên là có chút máu nhưng không nhiều lắm. Những hình ảnh như vậy chỉ nhằm tạo chấn động cho người xem khiến họ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, rồi năng lượng này bị bọn quỷ dữ, tà thể cùng các linh hồn không xác hút lấy, vì chúng sống còn nhờ năng lượng tha hóa. Thẳng thắn mà nói, các rạp chiếu phim thường là vùng sinh sôi cho những loại sinh thể thấp kém đó, đặc biệt những rạp chiếu các bộ phim kinh hoàng, phim khiêu dâm và phim bạo lực giết chóc. Ta lượng định phim này là một loại phim nửa chừng giữa phim bạo lực và phim kinh hoàng.

Cho nên, không, bộ phim này không phải là một mô tả xác thực về sự đóng đinh. Đương nhiên, việc ta bị xét xử công khai và bị đóng đinh không là một trải nghiệm thú vị gì. Chính vì vậy mà vào buổi tối trước đó, ta đã băn khoăn đến độ xin Thượng đế lấy chén khỏi tay ta. Dẫu sao thì khi ta quy phục Thượng đế qua những lời: “Dẫu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con,” (Luke 22:42) thì ta đạt được một trạng thái an bình nội tâm sẽ theo ta trong suốt trải nghiệm.

Con sẽ nhận thấy là những ai trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt tột cùng thường có một cảm giác bình an nội tâm với rất ít đau đớn, khó chịu. Các nhà khoa học giải thích sự kiện này là do các hóa chất trong bộ não tạo ra. Đúng là hóa chất có một vai trò nào đó, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là trạng thái an bình nội tâm của dòng sống. Chính sự an bình nội tâm giúp cho hóa chất được phóng thích, chứ không phải hoá chất chế tạo được sự an bình nội tâm. Cho nên ta ở trong một trạng thái an bình như vậy trong toàn bộ cuộc trải nghiệm, và vì vậy ta đã không đến nỗi bị đau đớn như nhiều tín hữu Cơ đốc tưởng tượng. Chắc chắn ta đã không đau đớn như được mô tả trong phim.

Trong thời gọi là Thời kỳ Tăm tối [khoảng từ năm 500 đến 1000 SCN], việc người ta đồng cảm với nỗi khổ của Ki-tô là một chuyện tự nhiên, vì đời sống của họ thật cùng khốn, đau khổ. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, các chân sư thăng thiên luôn luôn cố gắng tiếp cận con người qua một thông điệp tâm linh có khả năng giúp họ vươn lên cao hơn, và để chạm được họ, các thày phải đến gần họ với một thông điệp phù hợp với trạng thái tâm thức của họ lúc đó. Nếu họ đang trải qua nhiều đau khổ và nếu họ thấy được một vị sáng lập tôn giáo cũng phải nếm đau khổ, thì điều này quả thực có thể giúp họ mở tim ra nhận lấy thông điệp tâm linh.

Đó là một cách phải chăng để con người mở tim ra với Ki-tô trong những thời kỳ họ phải chịu rất nhiều khổ đau. Tất nhiên trong thế giới ngày nay vẫn còn những người bị khổ suốt đời, và họ có thể được giúp qua việc nếm trải khổ nạn của ta trên thập tự giá. Nhưng dẫu sao, thông điệp chính yếu vẫn nên là: qua việc nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, con sẽ vượt qua đau khổ, sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con và đem lại vương quốc Thượng đế trên trái đất. Không bao giờ thông điệp của các chân sư là con người phải tiếp tục đau khổ cả đời mình rồi sau đó mới được hưởng vương quốc Thượng đế sau khi chết. Mục đích của các thày là chấm dứt đau khổ ngay trên trái đất và đem Nước Trời vào thế gian này.

Ta hoàn toàn thông cảm là trong thế giới hôm nay có nhiều người đã trải qua rất nhiều đau khổ, kể cả chính Mel Gibson. Rồi điều này khiến họ nhận diện chính họ trong ta, vì ta cũng đã đau khổ. Tuy nhiên, điều xảy ra cho nhiều người là đau khổ tạo ra những vết thương cảm xúc trong cỗ xe linh hồn. Cho nên nếu họ tập trung vào khổ nạn của ta trên thập tự giá mà không hiểu thông điệp rằng họ có khả năng vươn lên khỏi đau khổ, thì việc tham gia đạo Cơ đốc sẽ không giúp họ tăng triển tâm linh.

Trái lại, việc tham gia vào đạo Cơ đốc có thể làm thui chột sự tăng triển tâm linh của họ, khiến họ cảm thấy mình phải chịu khổ đau vì chính ta đã khổ đau. Thật là một cách suy luận méo mó xuyên tạc đến độ nó thách thức khả năng hiểu của ta. Vậy mà vẫn có những dòng sống bị thương tích quá nặng đến mức họ không chịu buông những vết thương đó ra. Họ bám lấy vết thương vì vết thương đã trở thành một phần trong ý niệm bản sắc của họ, và họ không thể tưởng tượng là họ có thể được chữa lành khỏi vết thương. Cho nên một cách nào đó, họ biến khổ nạn của ta trên thập tự giá cùng cái chết của ta do khổ nạn đó thành một lời biện minh là họ không được chữa lành vết thương và bước lên một tầng cao hơn. Thậm chí họ còn cố dùng tấm gương của ta để xúi giục người khác thương xót họ, thương xót nỗi đau của họ.

Như ta vừa nói, thông điệp ở trung tâm cuộc đời của ta là: Con không phải khổ đau. Khi con bước theo chân ta và để cho cái tâm ở trong Giê-su Ki-tô bước vào trong con, con có thể khắc phục đau khổ con người và đạt được an bình nội tâm. Thậm chí con có thể thay đổi cả những hoàn cảnh vỏ ngoài đã tạo vết thương trong con. Con nghĩ tại sao ta đã chữa lành người bệnh tật và vực người chết sống lại nếu không phải là để minh chứng tâm thức Ki-tô có quyền năng trên mọi điều kiện vật lý? Con nghĩ tại sao ta đã chứng tỏ là một người với tâm thức Ki-tô có thể chinh phục chính cái chết nếu không để minh chứng là mọi người đều có tiềm năng chinh phục cái chết?

Cho những ai đang đọc dòng chữ này, hãy để ta đưa ra một lời khuyên nhủ. Xin con đừng cảm thấy mình có nghĩa vụ đi xem phim này chỉ vì dường như đây là một bộ phim về Giê-su Ki-tô và con cảm thấy mình phải biết rõ ta đã phải khổ đến chừng nào vì con. Con tuyệt đối không có bổn phận đi xem một bộ phim trưng bày nỗi khổ mà ta không hề trải nghiệm, một bộ phim mô tả việc ta bị đóng đinh thật thiếu chính xác. Và như vậy ta cho phép con được tự do không có bất kỳ cảm giác nghĩa vụ nào mà con có thể có.

Ta làm vậy vì ta biết rõ nhiều tín hữu Cơ đốc sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải xem phim này chỉ vì bộ phim nói về ta. Nhưng như ta đang cố giải thích, phim này thực sự không phải về ta. Phim này là về một hình ảnh sai lạc đã được đạo Cơ đốc truyền thống củng cố từ 2000 năm qua. Và những hình ảnh được trình chiếu suốt bộ phim không phát xuất từ một viễn quan chân chính mà từ sự hư cấu của những người mang một quan niệm mất cân bằng về đau khổ.

Ta cũng biết là nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc, kể cả Tòa thánh Vatican, sẽ tuyên bố là phim này trình bày sự kiện đóng đinh đúng y như thực. Một số sẽ nói như vậy vì họ tin thật như thế. Một số sẽ nói như vậy vì họ nhìn thấy một cơ hội chính trị để quay sự chú ý của mọi người về cái họ tin là quan điểm đúng đắn duy nhất về Ki-tô, tức chính quan điểm của họ.

Ta buồn là Vatican đã bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với bộ phim, nhưng ta không ngạc nhiên. Rõ ràng, như đã được giải thích nơi khác, là Giáo hội Công giáo đã che khuất thông điệp đích thực của ta cho nên ta không ngạc nhiên khi chính đức Giáo hoàng cầm giữ một hình ảnh không thật về việc ta bị đóng đinh. Dù sao thì ta cũng không thấy được lý do tại sao người Công giáo phải có bổn phận đi xem phim này.

Ta không đang nói là con không nên xem phim, mà ta nói là con nên thoát ra khỏi mọi bó buộc phải xem phim. Con cần lắng nghe các sáng ngộ từ cái ta Ki-tô của con. Nếu con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm muốn xem phim, bằng mọi cách con hãy làm theo.

Tuy nhiên, ta rất khuyên con nên sử dụng các bài tập về sự bảo vệ tâm linh trước khi xem phim. Ta cũng rất khuyên con nên hình dung một quả cầu ánh sáng trắng tinh bao bọc con trong suốt thời gian xem phim, và con rất cẩn thận để không rơi vào những loại cảm xúc tiêu cực do xem phim.

Con hãy quan sát thật kỹ bộ phim làm thế nào để gia tăng tác động gây hết cơn sốc này đến cơn sốc khác cho đến khi người xem không còn khả năng giữ được tâm an bình nữa. Họ bị rơi vào một trạng thái chấn động lẫn chấn thương khiến họ mở toang ra với các thế lực muốn đánh cắp năng lượng của họ.

Con hãy dùng sự nhận biết của mình để tránh trở thành một nạn nhân cho sự thao túng tinh vi của phim này. Hãy tránh bị làm mồi cho mong muốn thương xót ta – vì nói cho cùng, dường như ta đang làm tất cả những chuyện này vì con – đến độ con bị đánh lừa và cảm thấy con phải mở tâm ra cho các hình ảnh hung bạo trong phim. Đây rõ ràng là một mưu toan lợi dụng tình yêu chân thực mà một số người có đối với ta, cùng ý thức bổn phận sai lạc mà nhiều người hơn nữa có đối với ta. Nó đánh lừa con để con mở tâm tiềm thức ra đón nhận thông điệp ẩn giấu bên dưới của bộ phim, và ta khuyên con chú ý đến thông điệp này. Con sẽ ngạc nhiên trước những tiết lộ mà cái ta Ki-tô của con có thể cho con nếu con lắng nghe nó với tâm cởi mở.

Ta không bảo là Mel Gibson đã làm việc này một cách ý thức. Ông chỉ đơn giản chạm vào mạch, và bị mắc bẫy, cái động lượng từ ngàn năm nhằm đưa ra một hình ảnh sai lạc về Ki-tô hầu ngăn cản mọi người bước theo gương của ta. Kết quả là bộ phim mang một thông điệp rất phá hoại. Đó là một thông điệp giả dối, và ta khuyên con nên coi chừng nó và tránh bị nó đánh bẫy.

Cho nên nếu con muốn coi phim này, con hãy xem đó như một trải nghiệm giáo dục. Con lắng nghe cái ta Ki-tô của con để học được bài học cụ thể mà cái ta Ki-tô muốn con học từ việc xem phim. Bài học này sẽ hơi khác đối với mỗi người.

Muhammad, một tiên tri đích thực bị một văn hóa hiếu chiến ảnh hưởng

Hỏi: Con đã đọc rất nhiều về đạo Hồi và con muốn biết Muhammad có phải là một vị tiên tri đích thực do Đấng Cao nhất gửi xuống?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta đã có nhận xét về đề tài này ở một nơi khác. Câu trả lời ngắn gọn là Muhammad là một vị tiên tri đích thực nhận được giáo lý từ Đại thiên thần Gabriel. Tuy nhiên ngay từ đầu, giáo lý tâm linh của đạo Hồi đã bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa hiếu chiến. Yếu tố này đã biến đạo Hồi thành một tôn giáo hiếu chiến, và đó không bao giờ là ý định của các chân sư thăng thiên.

Hãy để ta bàn thêm một chút về cụm từ “tiên tri đích thực”. Nhiều người có khuynh hướng thần tượng hóa khi họ nhìn các vị lãnh đạo tâm linh, kể cả chính ta. Họ cho rằng nếu có ai là một vị lãnh đạo tâm linh chân chính thì hẳn vị đó phải là một người đặc biệt. Vị đó khác hẳn mọi người khác đến độ không ai có thể sánh bằng, không ai có thể làm được những gì vị đó đã làm. 

Theo ta, định nghĩa của một tiên tri đích thực là một người có khả năng nâng cao tâm thức của mình vượt lên trên tâm thức thấp hơn là tâm nhị nguyên. Bằng cách tiếp xúc với cái ta Ki-tô, người đó có thể phụng sự như một công cụ để đem lại giáo lý tâm linh trực tiếp từ các chân sư thăng thiên.

Như ta có giải thích ở nơi khác, chúng tôi, các chân sư, sẽ không chiếm đoạt tâm trí của một ai. Do đó, khi chúng tôi phát biểu qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai, điều không thể tránh khỏi là thông điệp của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức người đó. Sự thể này không nhất thiết có gì sai trái, nhưng thông điệp hẳn là sẽ bị tác động. 

Ít nhất, thông điệp sẽ phải diễn đạt qua những ngôn từ, khái niệm và hình ảnh quen thuộc với người tiên tri. Điều này có thể thấy rõ trong số các vị tiên tri của Kinh Cựu ước. Riêng ta cũng vậy, con có thể dễ dàng nhận thấy ta giảng dạy bằng những lời nói và hình ảnh quen thuộc với người dân sống trong một nền văn hóa và một thời điểm đặc thù. Điểm chính yếu mà ta muốn con hiểu là ngay cả khi một người là một nhà tiên tri đích thực, con không bao giờ nên nghĩ rằng thông điệp được gửi qua vị đó là chân lý duy nhất về Thượng đế, hoặc là cách duy nhất để biểu đạt một lời dạy tâm linh.   

Suốt các thời đại, một số chân sư thăng thiên đã cộng tác với nhiều người đang hiện thân để truyền rải giáo lý tâm linh. Những giáo lý này luôn luôn được điều chỉnh để phù hợp với tâm thức của người nhận giáo lý. Điểm quan trọng là chúng tôi, các chân sư, đã không bao giờ tìm cách đưa ra một “tôn giáo đích thực duy nhất”.

Ý niệm có một tôn giáo đích thực duy nhất là một sự áp đặt của tâm thức phàm phu, của tâm thấp kém. Ý niệm này không phát xuất từ cõi tâm linh mà nó phát xuất từ con người cũng như từ những sinh thể phi vật chất đang mưu chống lại ý muốn của Thượng đế. Do đó, bất cứ khi nào có một tôn giáo nào tự xưng mình là tôn giáo đích thực duy nhất, thì lời tuyên bố đó không phát xuất từ các chân sư thăng thiên.

Ta biết rằng hàng triệu người, từ nhiều tôn giáo khác nhau, sẽ phản đối câu nói vừa rồi của ta. Nhưng không có luận lý nào của con người có thể thay đổi được thực tại của Thượng đế. Thượng đế không thể bị nhạo báng và ngài không vị nể một ai.

Bây giờ ta xin bàn về câu con hỏi là Muhammad có do “Đấng Cao nhất” gửi xuống không. Vì sùng bái thần tượng cho nên con người có khuynh hướng cho rằng một tiên tri đích thực phải nói lời nói trực tiếp của Thượng đế, và toàn bộ cuộc đời của vị tiên tri đã được định trước bởi một quyền lực cao hơn.  

Trong thực tế, Muhammad là một người đàn ông, và tương tự như bất kỳ tiên tri nào khác (kể cả chính ta), ông đã phải nâng cao tâm thức mình hầu phụng sự như một tiên tri. Để nâng cao tâm thức, ông phải trải qua một tiến trình tăng trưởng tâm linh. Ta không nói rằng bất cứ ai cũng đã có thể làm được như Muhammad, tuy nhiên không có gì bảo đảm là ông sẽ thành công đi muốt được tiến trình trở thành tiên tri. Ông đã phải có những quyết định để nâng cao tâm thức, và trong tiến trình này ông phải sẵn sàng bỏ lại một số tin tưởng cố hữu. Đây là một tiến trình hoàn toàn tùy thuộc vào quyền tự quyết của ông.

Mặc dù Muhammad quả là đã nâng cao tâm thức nhưng ông đã không hoàn toàn từ bỏ được một số yếu tố văn hóa, và điều này đã tác động đến các giáo lý được truyền dạy qua ông. Ảnh hưởng này đã phần nào dẫn đến sự kiện đạo Hồi trở thành một tôn giáo hiếu chiến. Tuy nhiên, phần lớn những điều được thêm vào sau này không phải là trách nhiệm của ông. Tương tự như vậy, người ta cũng đã thêm vào nhiều thứ trong đạo Cơ đốc mà ta không yêu cầu cũng như không muốn chịu trách nhiệm.     

Hàng triệu người Hồi giáo đã sẵn sàng thay đổi nhưng rất ít dám lên tiếng công khai

Hỏi: Sau đây là một số điểm con đã học được từ thày về Hồi giáo:

  • Muhammad là một vị sứ giả được sắc phong từ cõi thiêng liêng cho dù chưa chứng quả vị Ki-tô,
  • Nhiều phần rộng lớn của kinh Quran đã được Muhammad truyền đạt nguyên vẹn, đặc biệt là những chương surah tiên khởi,
  • Sau khi ông từ trần, những người theo ông đã bỏ thêm nhiều điều vào lời dạy của Muhammad,
  • Đạo Hồi được dự định là một tôn giáo cho các dân tộc Ả rập chứ không phải cho thế giới nói chung.  

Những câu hỏi của con:

  1. Ích lợi ngày nay của kinh Quran là thế nào như một phương tiện hướng dẫn tâm linh?
  2. Kinh Quran ngày nay có thực sự là quyển kinh mà Muhammad đã chuyển giao? Chẳng hạn, kinh được sắp xếp theo độ dài của các chương surah chứ không theo thứ tự thời gian. Nếu một quyển sách chỉ dẫn mà sắp xếp sai lộn thì có ích gì?
  3. Liệu người đạo Hồi thời nay có cầu nguyện giống như Muhammad thuở đó hay không? Hay đây là một sáng chế của con người?
  4. Liệu thế giới Hồi giáo có thể thay đổi hay không? Dường như trong các tín đồ đạo Hồi, không có chút khả năng tự xét và tăng trưởng nào. Con nghi ngờ người đạo Hồi có thể vượt lên trên các tin tưởng hiện thời của mình và xây dựng một cách hành đạo mới mẻ, hợp thời hơn.

Con biết thày đã yêu cầu chúng con phải tự tìm lấy câu trả lời, và đây là điều con đang cố làm. Con là người đạo Hồi và con có nhiều vấn đề nghiêm trọng với đạo của con. Thay vì vứt bỏ toàn bộ một sớm một chiều, con muốn thay đổi lần hồi, vì thế con mới đặt những câu hỏi này.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2010.

Câu hỏi 1: Bất kỳ phương tiện nào cũng chỉ hữu ích tới mức mà người dùng đem ra áp dụng. Nếu có một cách thức máy móc nào đó để đưa con người vào thăng thiên, thì từ lâu người ta đã tìm ra cách này rồi. Chúng tôi là những chân sư thăng thiên đã hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách tìm kiếm con đường chân chính, là con đường luôn luôn sáng tạo ở bên trong mỗi chúng tôi. Vì vậy chúng tôi không có ý định phát triển, hay trao truyền, một con đường tu tập máy móc tự động, vì chúng tôi biết điều đó không thể làm được. Chỉ có người vô minh mới đi tìm một con đường cứu rỗi hoàn toàn bảo đảm – đó chính là giấc mơ của tự ngã nhằm đạt được đời sống bất tử mà không cần phải thăng vượt chính mình và cũng không cần cho tự ngã phải chết đi.      

Dẫn dắt tâm linh đã và sẽ không bao giờ là chuyện thảo ra một quyển kinh vỏ ngoài hay một bộ quy tắc toàn hảo. Dẫn dắt tâm linh phải đến từ bên trong, từ Hiện diện TA LÀ của con như ta đã mô tả trong bài giảng của ta. Một bộ kinh vỏ ngoài – cho dù đó là kinh Quran, Kinh thánh, những lời dạy bí truyền của thuở xa xưa hay chính trang mạng này – sẽ chỉ hữu ích tới mức nó kích thích khả năng của con bước vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của con ở đó. Khi một hành giả sử dụng một nguồn tài liệu vỏ ngoài với ý xem đó là một con đường bảo đảm, thì con đường này sẽ không bao giờ dẫn tới sự tự thăng vượt đích thực. Nó sẽ chỉ dẫn vào ngõ cụt của niềm kiêu hãnh tâm linh, nơi con tưởng rằng Thượng đế sẽ phải đón nhận con vì con đã tuân thủ một chuẩn mực được dựng ra trên địa cầu.      

Kinh Quran có tiềm năng là một nguồn kích thích để con bắt liên lạc với Hiện diện TA LÀ của con nơi nội tâm. Nhưng thực tế là đại đa số người đạo Hồi không sử dụng kinh Quran như vậy, y như đại đa số người đạo Cơ đốc cũng không sử dụng Kinh thánh theo cách đó. Tuy nhiên, đâu có lý do gì một học trò tâm linh như con lại cho phép số đông đó lôi kéo con xuống? Không một người nào đã từng thăng thiên mà lại đi theo số đông, hay ngay cả để tai nghe lời đám đông.  

Cho nên nếu con có gan đọc sự thật ở giữa những dòng chữ và cho phép kinh Quran hướng dẫn con, quả thực là nó có thể là một phương tiện hữu dụng cho con – cho dù cách sắp xếp trong đó không được hoàn hảo.

Câu hỏi 2: Không, kinh Quran hiện tại không trung thành với những gì Muhammad đã giao lại. Tuy nhiên, nó vẫn gần với sự mặc khải được trao cho Muhammad hơn là kinh Tân ước gần với lời dạy chân truyền của ta. Vì vậy, nó vẫn hữu dụng cho những ai biết vượt khỏi ngôn tử vỏ ngoài và tìm kiếm LỜI bên trong.

Chắc chắn, nếu các chương surah được sắp xếp theo đúng thứ tự nguyên thủy thì sẽ tốt biết mấy, vì như vậy người học kinh sẽ có thể bỏ qua – hoặc đọc với một con mắt phân biện cao độ – những chương surah hậu sinh vì rõ ràng những chương này đậm nét rung động nhị nguyên. Một số lãnh đạo tiên khởi của đạo Hồi vô cùng lầm lạc đã cố gắng hết sức để khiến cho việc phục hồi thứ tự này gần như bất khả thi. Nhưng một lần nữa, nếu con sẵn sàng sử dụng sự hướng dẫn nội tâm trong con, thì việc cảm nhận độ rung khác biệt giữa những chương surah trước và những chương sau sẽ không khó khăn lắm.

Ở đây, ta không bảo là ta khuyến khích mọi người chỉ học một quyển kinh Quran mà thôi. Bất cứ ai mở tâm ra để vượt ra ngoài ngôn từ vỏ ngoài không nên giới hạn tâm mình vào một nguồn học hỏi duy nhất – kể cả trang mạng này. Con luôn luôn nên nghiên cứu nhiều nguồn khác nhau, và ở mỗi thời điểm, con hãy tập trung vào nguồn học nào đánh động tâm con sâu xa nhất, rồi con cho phép con thay đổi với thời gian.

Câu hỏi 3: Trong những năm đầu tiên, Muhammad hiểu được thông điệp ở trung tâm kinh Quran – cũng như mọi kinh chân truyền khác. Thông điệp đó là Thượng đế chân thực vượt khỏi mọi hình tướng, vượt khỏi tất cả những gì mà kinh sách hay nghi thức tôn giáo có thể nắm bắt. Cho nên ông đã cầu nguyện bằng cách đi sâu vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của ông theo cách hiểu của ông. Đây là điều mà mọi nhà thần bí đích thực đã làm khắp các thời đại, và Muhammad khởi đầu như một nhà thần bí đích thực.

Khi con hiểu rằng Thượng đế chân thực duy nhất vượt mọi hình tướng, thì thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng Thượng đế chỉ có thể được tìm thấy tại một địa điểm nhất định trên địa cầu. Nếu cho rằng Thượng đế vô hình tướng có thể được gắn liền hay giới hạn trong một hình tướng, thì đó chính là khuyết điểm của chủ nghĩa độc thần. Muhammad hiểu rõ điều này, nhưng những người theo ông thì không. Họ cần một tiêu điểm vật lý để mà thờ phượng, và Mohammad sau này rơi vào lỗi lầm là “cho người ta những gì người ta muốn”. Ông nghĩ rằng làm như vậy là phụng sự Thượng đế, nhưng không phải vậy.

Bản thân ta đã không rơi vào lỗi lầm đó. Ta đã không để lại kinh điển nào, và thậm chí ta cũng không để lại cả một xác thân vật lý. Tất nhiên, những điều này được thêm vào sau này, vì vậy cho dù Muhammad không làm những việc ông đã làm, thì tín đồ của ông cũng sẽ tạo ra những biểu tượng vật lý đó.

Muhammad hiểu được trung tâm điểm của đạo Hồi là một Thượng đế vô hình tướng, và ông biết rõ sự nguy hại nếu cho phép vị tiên tri trở thành quan trọng hơn cả nguồn gốc của tiên tri. Do đó ông không muốn người đạo Hồi quá tập trung vào Mecca. Thay vì cầu nguyện hướng mặt về phía Mecca, ông mong muốn họ cầu nguyện bằng cách bước vào nội tâm, và Allah cũng vậy. Con không thể tìm thấy Allah tại Mecca mà chỉ nơi vương quốc của ngài là bên trong chính con.     

Cách cầu nguyện phức tạp của nhiều người Hồi giáo thời nay một lần nữa thể hiện ý muốn tạo ra một con đường vỏ ngoài máy móc sẽ bảo đảm sự cứu rỗi của người theo đạo. Nó cũng chẳng khác gì một số người Tây tạng tin rằng nếu họ quỳ lạy một vạn lần thì họ sẽ được bảo đảm một số phúc lợi nào đó. Đây là con đường vỏ ngoài sẽ không dẫn con đến thăng thiên. Trong khi đó thì một nghi thức thật giản dị là làm cho tâm trí mình không còn chứa một định kiến nào nữa và hoà điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, sẽ lợi ích hơn gấp bội.

Câu hỏi 4: Phải nói là thỉnh thoảng các chân sư thăng thiên cũng tự đặt câu hỏi này. Nhưng một lần nữa, chúng tôi nhớ lại chỉ cách đây vài thế kỷ, thế giới Cơ đốc giáo cũng từng khép kín đến chừng nào. Mặc dù đa số người dân tại phương Tây vẫn chưa mở tâm ra để bước vào bên trong, nhưng ít nhất xã hội Tây phương ngày nay cởi mở hơn so với 2, 3 trăm năm trước rất nhiều.   

Vì thế tất cả chúng tôi đều thấy được là với thời gian, sự thay đổi trong thế giới Hồi giáo sẽ không thể tránh được. Nếu không thì định luật thứ hai của nhiệt động học chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hỗn loạn đến độ người Hồi giáo bắt buộc sẽ phải thay đổi mà thôi. Nhưng tất nhiên, tất cả chúng tôi đều hy vọng là sự thay đổi sẽ xảy đến do sự sẵn sàng cởi mở của mọi người.

Và đây là điểm mà con và những người như con có thể đóng góp. Con hãy đừng vứt bỏ đức tin Hồi giáo của con. Thay vào đó, hãy làm tất cả những gì con có thể làm để nêu lên vấn đề và tìm kiếm những người có cùng quan tâm như con. Hãy tổ chức và giúp đỡ lẫn nhau để quảng bá một cách tiếp cận mới, cởi mở hơn.

Con có thể nghĩ là con lẻ loi một mình, nhưng ta có thể cam đoan với con là có hàng triệu người đạo Hồi chia sẻ cùng quan tâm với con cũng như nhu cầu phải thay đổi. Hàng triệu dòng sống đã, như con, tình nguyện hiện thân trong đức tin đạo Hồi là để đem lại thay đổi trong thời điểm này. Sự thay đổi này gần kề hơn là con nghĩ, cho dù nó chưa đạt được túc số quyết định sẽ khiến nó biểu hiện ra một cách công khai và không thể chối cãi.  

Con hãy tìm hiểu bài giảng của ta về những nguyên nhân kích hoạt sự thay đổi, và con sẽ nhận ra là trong số tín đồ đạo Hồi có một lớp 10% ở trên cùng với sức mạnh tiềm năng rất lớn, đặc biệt là khi họ thức tỉnh và hợp sức lại với nhau. Cho nên con hãy đừng bỏ rơi đức tin Hồi giáo, mà con hãy nâng nó lên bằng cách con nâng cao chính tâm thức của con rồi giúp người khác cũng làm tương tự như con.

Đạo Sufi tương tự như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác

Hỏi: Trong đạo Hồi, Mohammad đã giảng dạy giáo lý công truyền qua kinh Quran. Phải chăng Ali, em họ của Mohammad, đã giảng dạy giáo lý tâm truyền? Và đâu là nguồn gốc của đạo Sufi trong Hồi giáo?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 30/12/2007. Đăng ngày 17/11/2012.

Đạo Sufi có thể so sánh như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác. Trong bất kỳ tôn giáo nào trên địa cầu quy tụ được một số tín đồ, con sẽ thấy sự kết tinh thành hai phong trào cơ bản. Một phong trào gắn bó hơn với con đường công truyền – tức là lời nói bên ngoài, kinh sách vỏ ngoài, quy tắc và luật lệ vỏ ngoài. Và một phong trào đi theo con đường nội tâm, tâm truyền, thường lấy  nguồn mặc khải trực tiếp từ cõi trên làm nền tảng.    

Khi một dòng sống còn ở mức độ nhận biết tâm linh chưa cao, y thường không có khả năng kinh nghiệm Thượng đế một cách trực tiếp, và do đó y sẽ cần tới con đường công truyền để tiến bước, cho tới khi – thường là sau nhiều kiếp đầu thai – y có được nhiều phân biện nội tâm hơn, nhiều tư tin hơn về khả năng của mình biết được cái gì là chân, cái gì là giả. Và khi đó, y sẽ mở tâm ra cho con đường tâm truyền, nơi y sẽ phải bước theo những thúc giục sáng ngộ từ bên trong, sự hướng dẫn từ bên trong, mà không con tin cậy hay tuân thủ một cách mù quáng một giáo lý hay một vị thày vỏ ngoài nữa.  

Cho nên con đường công truyền có một giá trị nhất định đối với những ai chưa sẵn sàng đi theo con đường tâm truyền, và đó là lý do bản thân ta đã từng giảng dạy ở hai trình độ khác nhau – đối với quần chúng thì ta giảng dạy bằng ngụ ngôn, còn đối với môn đồ thì ta giảng giải mọi điều. Con sẽ thấy cùng mô thức này trong nhiều tôn giáo, kể cả đạo Do thái với giáo lý Kabbalah là con đường thần bí. Cho nên đạo Sufi cũng là một con đường khả thi cho những ai xuất thân từ đạo Hồi nhưng đã tiến bước xa hơn trên đường tu.

Tuy nhiên như với bất kỳ phong trào thần bí nào, con không thể nhìn vào đó một cách đơn giản và bảo rằng mọi chuyện trong phong trào đó đều thuộc về ánh sáng. Bởi vì bản chất của thần bí là tự do phóng khoáng hơn, và thường sẽ có nhiều người đạt được – hoặc tuyên bố là họ đạt được – sự tiếp xúc với tánh linh. Và như vậy, họ sẽ bảo là họ nhận được một hình thức mặc khải nào đó từ một cõi cao hơn. Và thường sẽ có những người nhận được mặc khải chân chính và một số người khác thì không. Vì thế trong một phong trào thần bí, sự phân biện là một yếu tố thiết yếu. Và đó cũng chính là lý do tại sao những ai chưa đủ chín chắn để phân biện thường thường sẽ tránh né các phong trào thần bí, vì trong tiềm thức họ phần nào biết được là họ chưa sẵn sàng.  

Và tất nhiên, vấn đề đặt ra là trong nhiều trường hợp, các dòng sống đó sẽ trở nên gắn bó với tôn giáo vỏ ngoài, và họ có thể bắt đầu tin vào những lời dạy của tôn giáo vỏ ngoài đó, là những lời dạy phát xuất từ lòng sợ hãi. Cho nên thậm chí họ sẽ không dám sử dụng khả năng phân biện của họ. Vì vậy con sẽ thấy nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay – mặc dù trong nội tâm họ đủ trưởng thành để đón nhận khía cạnh thần bí của đạo Cơ đốc – nhưng ngoại tâm của họ thì không dám buông tin tưởng rằng họ sẽ được bảo đảm cứu rỗi nếu họ cứ mù quáng đi theo con đường vỏ ngoài. Và họ không dám buông cảm giác an toàn vỏ ngoài đó để chấp nhận giai đoạn xáo trộn mà hầu hết mọi dòng sống đều kinh qua khi họ bỏ lại con đường công truyền và cất bước trên con đường tâm truyền.

Hỏi: Vậy có phải Ali đã đem lại giáo lý tâm truyền của kinh Quran? Bởi vì một số người theo phái Shia tin rằng Ali bình thường sẽ được trao trách vụ tiên tri, và Ali đưa ra giáo lý tâm truyền, còn Mohammad thì đưa ra giáo lý công truyền?

Giê-su: Câu trả lời là có và không, theo nghĩa là ta không hề mong muốn khiến cho một phái của đạo Hồi cảm thấy hơn trội các phái khác. Đúng là Ali đã nhận được một số mặc khải nội tâm, nhưng điều này không có nghĩa là các giáo lý của Ali đều hoàn toàn chính xác. Bởi vì Ali cũng đã phần nào bị tô màu bởi những niềm tin cá nhân lẫn văn hoá của mình – y như Mohammad vậy.   

Cho nên sự thật đáng tiếc là không có một nhánh chính mạch nào của đạo Hồi là hoàn toàn thuần khiết. Có một số môn phái Sufi có một độ thuần khiết cao hơn. Nhưng thành thật mà nói với con, đạo Hồi như một tôn giáo đã không phát huy được tiềm năng cao nhất của mình. Và đối với chúng tôi là chân sư thăng thiên, khi nhìn vào tình trạng tâm thức của các nhánh chính của đạo Hồi, chúng tôi thật khó thấy được làm thế nào tôn giáo này sẽ có thể đổi mới,  

Đạo Hồi đã được trao truyền trong một nỗ lực kết hợp các bộ tộc khác nhau tại Trung Đông, là những bộ tộc đã giao chiến với nhau từ hàng ngàn năm trời. Thế nhưng con chẳng thấy hay sao, người ta đã sử dụng đạo Hồi để tạo thêm chia rẽ với nhau? Bởi vì ta có thể nói với con rằng sẽ tốt hơn nhiều nếu những chia rẽ này không còn nữa và trong thế giới Hồi giáo có một phong trào đoàn kết hơn.

Shia hay Sunni chỉ là những cách phân chia nhân tạo, giả tạo, hoàn toàn không có thực tế nào trong Thượng đế. Và do đó ta không muốn đưa ra cảm giác là có một phái thuần khiết hơn, vượt trội hơn phái kia. Bởi vì nếu họ thực sự hiểu được giáo lý đích thực đằng sau kinh Quran, thì mọi môn phái trong đạo Hồi, mọi tín đồ Hồi giáo, sẽ phải cố vươn lên cao hơn nhiều, cao hơn cả giáo lý nguyên thủy mà Mohammad đã trao cho họ. Và khi đó, con sẽ phải tự hỏi là liệu có ích gì tiếp tục tôn giáo cũ hay không, hay là nên khởi xướng một tôn giáo hoàn toàn mới dựa trên nền tảng cũ.  

Điều này, tất nhiên, cũng là một câu hỏi đặt ra cho đạo Cơ đốc và những tôn giáo lớn khác trên thế giới – nghĩa là liệu các tôn giáo đó đã trở thành xơ cứng do các tin tưởng bám giữ từ bao nhiêu thế kỷ, và có thể đổi mới được hay chăng? Hay là các tôn giáo đó phải được thay thế bởi một tôn giáo hoàn toàn mới?      

Hy vọng của ta, và cũng là một trong các mục tiêu của trang web AskRealJesus, là rốt cuộc, nhiều người tự xem mình là tín đồ Cơ đốc sẽ bắt đầu lắng nghe lời hằng sống của ta, và từ đó sẽ dùng những lời này để thay đổi đạo Cơ đốc. Nhưng ta có thể nói với con là ngay bây giờ, đó vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Liệu đạo Cơ đốc có khả năng đổi mới hay không – hay là nó sẽ chỉ ngày càng thu nhỏ lại cho tới khi nó mất hết sinh khí và được thay thế bởi một hình thái tâm linh mới phù hợp hơn với Thời đại Bảo bình.

Các linh mục Công giáo có nên được phép lấy vợ?

Hỏi: Thưa Giê-su, con hiểu được sự cần thiết thực sự cải tổ Giáo hội Công giáo, và con mong nhiều tín hữu Công giáo sẽ lắng nghe lời của thày về nhu cầu cải tổ này. Tuy nhiên con xin hỏi, liệu thày có nghĩ là các linh mục Công giáo nên được phép lấy vợ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta là một thày tâm linh, và quan tâm của ta luôn luôn hướng về sự phát triển tâm linh của mỗi dòng sống cá nhân. Tăng trưởng tâm linh có nghĩa là giải quyết những tin tưởng sai lầm và vết thương tình cảm đang ngăn cản dòng sống đạt được sự viên mãn, trọn vẹn, cũng gọi là sự thánh thiện. Đây là một sự giải quyết tâm lý nội tâm, không thể là kết quả tự động, hay máy móc, của việc cử hành một số hành động vỏ ngoài. Vì vậy, việc cưỡng ép độc thân có rất ít giá trị và sẽ là một gánh nặng cho những dòng sống chưa sẵn sàng ngừng hẳn tình dục. Thay vì đưa đến việc giải quyết các vấn đề tâm lý, thì rất có thể nó sẽ khiến cho những vấn đề này gia tăng. Đây chính là lý do tại sao Giáo hội đang gặp phải một vấn nạn khổng lồ là sự xâm hại tình dục.

Điều ta muốn nói ở đây là mục đích thực sự của cuộc sống là bước trên một con đường tuần tự sẽ dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Con đường này có thể ví như một cầu thang có nhiều bậc. Khi dòng sống bước lên cầu thang, y sẽ dần dần mất đi – một cách tự nhiên – những gắn bó, dính mắc, ham muốn hay quan tâm đến những thứ của thế gian này, đặc biệt là những khoái cảm giác quan do cơ thể vật lý tao ra. Nói cách khác, điều tự nhiên sẻ xảy ra là dòng sống sẽ lần hồi mất đi ham muốn tình dục của mình, và sẽ chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh tâm linh của cuộc sống.

Nếu con khảo sát toàn bộ loài người, con sẽ thấy một số người đã đạt được trạng thái tâm linh này và đã bỏ lại đằng sau các ham muốn thể xác của họ. Con cũng thấy một số người dần dần vượt qua được ham muốn tình dục chỉ trong một kiếp sống. Nhưng con cũng thấy nhiều người trên địa cầu chưa sẵn sàng từ bỏ tình dục. Và nếu một người chưa sẵn sàng thì rất có thể việc ép buộc bản thân phải kiêng cữ tình dục sẽ không giúp cho người đó phát triển tâm linh. Sự kiêng cữ tình dục phải dựa trên căn bản một sự giải quyết đích thực vấn đề ham muốn tình dục trong sâu thẳm của nội tâm, thay vì chỉ là một quyết định của ý chí và tâm vỏ ngoài.

Ý định và hy vọng nguyên thủy của ta cho phong trào Ki-tô giáo là đưa ra một con đường tuần tự dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Lý tưởng, sự tăng trưởng này phải phát xuất từ một sự thấu hiểu, một thấu hiểu nội tâm đích thực, về những bí ẩn tâm linh của sự sống.

Khi dòng sống nhận được sự thấu hiểu như thế, y sẽ tìm được những lời giải đáp đích đáng cho những câu hỏi của y về sự sống. Những lời giải đáp này sẽ đem lại sự giải quyết sâu xa cho dòng sống. Y sẽ dần dần đặt thẳng hàng các tin tưởng của mình cho đồng bộ với thực tế cuộc sống, và y sẽ từ từ giải quyết được các vết thương cùng bế tắc tình cảm của mình. Do đó, sẽ không cần thiết phải tự ép mình làm một số hành động vỏ ngoài, mà y sẽ tự nguyện chọn ra những hành động nào mà y biết sẽ phục vụ cho quyền lợi sáng ngộ của mình.

Điều xảy ra với Giáo hội Công giáo là Giáo hội đã đi chệch đường so với chủ ý nguyên thủy của ta. Rồi Giáo hội bị cuốn mắc vào những cuộc tranh giành quyền lực, với kết quả là một số giáo lý ban đầu của ta bị loại bỏ. Vì thế Giáo hội đã không thể đưa ra cho tín đồ một hiểu biết đích thực khả dĩ dẫn đến một sự giải quyết đích thực. Hệ quả là Giáo hội đã rơi vào một truyền thống ép buộc tín đồ phải tuân theo giáo điều vỏ ngoài cũng như những luật lệ cư xử cứng nhắc.

Trong lý tưởng, một tổ chức tôn giáo cần có một hệ thống thứ bậc cho phép tín đồ tuần tự leo lên những mức cao hơn khi họ đạt được khả năng và họ sẵn lòng làm điều đó. Cấu trúc thứ bậc đó sẽ có nhiều trình độ dựa trên trình độ chứng đạt tâm linh khác nhau của mỗi người. Chẳng hạn, đa số nhân loại chưa đạt tới mức có thể xem việc kiêng cữ tình dục là một chuyện tự nhiên, hay thậm chí hữu ích cho mình. Những người này phải được quyền sống trong một khung cảnh gia đình bình thường, như rất nhiều người trong số họ vẫn đang làm.  

Một giáo hội cần một lớp tu sĩ phục vụ cho những thành phần như thế. Đây sẽ là những vị linh mục Công giáo có trách vụ quản trị bình thường. Nếu con muốn làm việc mục vụ hữu hiệu cho quần chúng, con phải hiểu biết những vấn đề mà người thường phải đối mặt. Làm sao con hiểu được những vấn đề này nếu chính con chưa sống qua? Nói cách khác, nếu con muốn phục vụ hiệu quả cho những gia đình, những cặp vợ chồng có con cái, điều vô cùng hữu ích cho con là con cũng là một người đã lập gia đình, có con cái phải chăm lo hàng ngày.

Thực tế đơn giản là nhiều vị linh muc Công giáo trở thành vô hiệu trong vấn đề muc vụ cho những cặp vợ chồng, những gia đình và trẻ nhỏ. Lý do là vì họ không hề có kinh nghiệm bản thân để dùng làm căn bản cho mục vụ của mình. Cho nên để trả lời câu hỏi của con, ý định của ta không bao giờ là tạo ra một tổ chức đòi hỏi các tu sĩ có trách vụ bình thường phải độc thân. Điều này đã được người ta thêm vào sau này, và không đúng với ý muốn cũng như ý định của ta. Điều này chỉ có mặt do nhu cầu tranh giành quyền lực và kiểm soát.

Bây giờ hãy trở về ý tưởng một hệ thống thứ bậc dựa trên những mức độ chứng đạt tâm linh khác nhau. Khi dòng sống leo con đường tâm linh, y sẽ mất dần một cách tự nhiên, qua một sự giải quyết nội tâm, các dính mắc của mình đối với những thứ của thế gian. Vì vậy, một tổ chức giáo hội phải cung ứng một cách thức cho những ai đã đạt được mức chứng đạt đó có thể sống trong một môi trường nơi họ có thể tập trung vào hoạt động tâm linh. Việc này có thể thực hiện qua các tu viện, hoặc một số khung cảnh khác được đặc biệt thiết kế cho những ai không mong muốn có đời sống gia đình. Việc này cũng có thể thực hiện qua những tổ chức phục vụ quần chúng, và một ví dụ tuyệt vời là tổ chức do Mẹ Teresa lập ra.

Trong những tổ chức như thế, việc sống độc thân sẽ là cách sống tự nhiên chứ không là một quy luật vỏ ngoài bị áp đặt. Đó sẽ là một việc làm tự nguyện dựa trên một sự giải quyết nội tâm và sự phát triển tâm linh đích thực. Những ai chưa đạt được mức này sẽ đương nhiên không chọn sống trong một môi trường như thế. Có thể nói, một tổ chức giáo hội nên có một khía cạnh công truyền nhắm vào việc phục vụ đa số quần chúng sống trong quan hệ gia đình bình thường, và đồng thời cũng có một khía cạnh nội tâm nhằm tạo cơ hội tối đa cho những ai muốn sống tập trung vào hoạt động tâm linh.

Nhưng hãy cho ta đưa ra một lời cảnh báo. Đúng là khi một dòng sống trưởng thành trên đường tâm linh, y sẽ lần hồi bỏ rơi sự vướng mắc vào những ham muốn trần thế một cách tự nhiên. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả những ai chứng đạt tâm linh đều không nên lập gia đình và sống độc thân. Việc không kết hôn và bị bắt buộc sống độc thân sẽ không tự động đem lại phát triển tâm linh, và đây chính là tin tưởng sai lạc mà Giáo hội Công giáo cổ võ. Sự sai lầm này được chứng minh rõ ràng qua việc phơi bày tệ nạn xâm hại tình dục do các linh mục. Tệ nạn này cũng chứng minh hiểm họa khi giáo hội cố tình ép buộc một người phải tuân thủ luật lệ vỏ ngoài cứng nhắc khi dòng sống người đó chưa sẵn sàng sống được như vậy.

Điều ta muốn nói là các lãnh đạo của một giáo hội không nhất thiết phải là người độc thân. Một lần nữa, một tu sĩ chỉ có thể làm việc mục vụ hữu hiệu khi tự thân mình biết rõ những vấn đề của tín đồ. Vì vậy, một giáo hội có thể có những vị lãnh đạo, ngay cả những vị lãnh đạo cao cấp, đã lập gia đình. Thật sự, ta cũng không bảo rằng một dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ phải ly dị và sống độc thân. Con hoàn toàn có thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân mà vẫn kiêng cữ tình dục, hoặc con sinh hoạt tình dục một cách cân bằng hơn so với đa số cặp vợ chồng khác.

Cho nên ta không muốn nhìn thấy một tổ chức với một nền văn hóa quy định rằng những ai độc thân là tốt đẹp hơn, hay chứng đạt tâm linh hơn, những người không độc thân. Ta không khuyến khích bất kỳ hình thức phân biệt cao thấp nào vì nó nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh, và kiêu hãnh thì ngược hẳn với tăng trưởng tâm linh. Con hãy nhớ lời này: “Ai là người cao nhất trong số các người, thì sẽ làm đầy tớ cho mọi người.”

Ki-tô và Phật

Hỏi: Con biết là Giê-su hiện thân cho nguyên lý Ki-tô và con cũng biết là thày mong muốn mọi người nối kết với đấng Ki-tô trong chính mình. Con xin hỏi có phải thày đang nói là chúng con không thể tìm Phật? Theo những gì con hiểu, cả Ki-tô lẫn Phật đều thuộc về tia sáng thứ hai của Tình thương và Trí tuệ. Tình thương do Ki-tô biểu tượng và Trí tuệ do Phật biểu tượng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có mâu thuẫn hay sự cạnh trạnh nào giữa hai con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, những dòng sống khác nhau sẽ cần những phương tiện, những cỗ xe khác nhau, và do đó một tôn giáo duy nhất không thích hợp cho mọi người. 

Con đường của Phật thường thích hợp hơn cho người phương Đông, còn đường của Ki-tô thích hợp hơn cho người phương Tây. Có thể nói là tâm thức Ki-tô chỉ đơn giản là những giai đoạn giác ngộ tiên khởi hơn, và vì vậy, quả vị Phật là một dạng tâm thức cao hơn quả vị Ki-tô, hay một giai đoạn cao hơn quả vị Ki-tô.

Khi con đạt đến tâm Ki-tô, con nhận ra rằng con là một với nguồn cội của con (Thượng đế) và qua đó con có được tánh phân biện giữa những gì thuộc về Thượng đế và những gì không thuộc về Thượng đế. Con nhìn thấy rõ ràng là rất nhiều biểu hiện trong thế gian đi ngược lại quy luật của Thượng đế cũng như ý định của ngài cho vũ trụ này. Cho nên con nhìn thấy tính không thực của tất cả mọi điều phản-Ki-tô, và nhiệm vụ của con là giải phóng các dòng sống khỏi ảo tưởng của phản-Ki-tô.

Khi con đạt đến quả vị Phật, con nhận ra rằng tất cả đều là Phật tánh, có nghĩa là tất cả đều được tạo bằng bản chất của Thượng đế. Những biểu hiện của thế gian này chỉ đơn giản là ảo ảnh, là Maya. Chúng có thể hiện ra như là tách biệt, hay đối lập lại Thượng đế, nhưng chúng chỉ đơn giản là bản chất cuả Thượng đế đã khoác lấy một lớp ngụy trang tạm thời, thoáng vụt qua. Cho nên con xác nhận thực tại của Thượng đế đằng sau mọi dáng vẻ bề ngoài.

Cả đức Phật lẫn ta đều là những vị thày tâm linh và chúng tôi thuộc cùng một êkíp. Đức Phật đã được các chân sư thăng thiên phái xuống để truyền dạy các pháp về quả vị Phật, nhưng tiếc thay, không mấy người có khả năng nắm được giáo lý của thày. Vì vậy mà ta đã được phái xuống để bắc một nhịp cầu hầu giúp con người bước sang bến giác ngộ. Đối với hầu hết mọi người, việc hiện thân các giáo lý của Ki-tô sẽ dễ hơn giáo lý của Phật, với điều kiện là họ hiều được giáo lý đích thực của Ki-tô chứ không phải cái phiên bản đã bị pha loãng, chứa đầy xương người chết, do đạo Cơ đốc chính thống cống hiến.

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây truyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sông có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Phục sinh là câu chuyện của mỗi người

Hỏi: Thày có điều gì muốn chúng con biết về ngày Phục sinh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu chuyện Phục sinh là một câu chuyện thật phong phú, thâm sâu, và do đó nó có thể hiểu nhiều cách – mỗi cách hiểu đều có giá trị vì nó mở ra một khía cạnh đặc thù về toàn chuyện. Tuy nhiên, có một góc cạnh đặc biệt mà ta muốn trình bày để các con suy ngẫm.

Một trong những thông điệp chính mà ta mong muốn truyền đạt qua trang mạng là ta không bao giờ muốn được nâng lên thành một thần tượng đứng tách biệt khỏi phần còn lại của nhân loại trên hành tinh. Ta không là một kẻ muốn được tâng bốc, thế nhưng nhiều tín đồ Cơ đốc lại cứ nhất định lấy nguyên văn câu chuyện trong Kinh thánh, thậm chí còn thêu dệt thêm để biến ta thành một Thượng đế hay một đấng Cứu thế. Ta không bao giờ muốn có ai xem ta là một đấng phi thường, vượt hẳn người đời, đến độ không ai có thể với tới được ta hoặc bước chân theo ta.

Do đó, thông điệp mà ta muốn mọi người với tâm rộng mở thấu hiểu về câu chuyện Phục sinh là câu chuyện này không phải là về một người. Đây không phải là câu chuyện của riêng ta, mà thực sự là câu chuyện của mỗi người, mỗi dòng sống, nhằm minh họa cho con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo. Ta hiểu là nhiều tín đồ Cơ đốc đã lớn lên với một hình ảnh thần tượng hóa về Giê-su Ki-tô, và họ cảm thấy rất khó khăn thoát khỏi thành kiến tôn thờ này. Vì thế họ cứ khăng khăng cho ta là một đấng độc nhất vô nhị đứng cao hơn mọi người, vượt trội lên trên bất kỳ ai khác đã từng bước chân trên hành tinh này.

Tất nhiên ta là một người độc nhất, và ta cũng đến đây với một sứ vụ tâm linh độc nhất, nhưng phần lớn sứ vụ này là để đem lại một giáo huấn tâm linh rộng khắp về tiềm năng tâm linh của mỗi dòng sống trên địa cầu – bởi vì thực sự mỗi người là một con người độc nhất dưới mắt Thượng đế. Không những ta đã giảng dạy giáo huấn đó qua lời nói, mà trên hết ta đã thể hiện giáo huấn qua chính cuộc đời của ta. Vì vậy, mỗi khía cạnh của đời ta là sự minh họa cho một khía cạnh của giáo lý nội tâm phổ quát mà ta đã đến đây để truyền bá cho địa cầu, và câu chuyện Phục sinh cũng không đi ra ngoài điểm chung này. Nói cách khác, Phục sinh là câu chuyện nói lên con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo để đạt được quả vị Ki-tô, thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh. Câu chuyện Phục sinh biểu tượng cho giai đoạn sau cùng trong cuộc hành trình đó của dòng sống.  

Câu chuyện Phục sinh có thể chia thành ba yếu tố chính. Yếu tố đầu là khi ta bước vào thành Jerusalem nơi ta được dân chúng chào đón nồng nhiệt như một vị vua. Chúng ta có thể ví sự việc này như sự ra đời của mọi đứa trẻ, bởi vì hầu hết trẻ sơ sinh đều được cha mẹ và gia đình của em đón mừng như một người thật đặc biệt – và quả thật mỗi em nhỏ đều là đặc biệt.

Giai đoạn thứ hai của câu chuyện Phục sinh là những gì xảy ra giữa thời điểm ta bước vào Jerusalem cho tới ngày ta phục sinh, biểu tượng cho giai đoạn dòng sống bắt đầu khôn lớn. Con sẽ nhận xét thấy lý do mọi người chào đón ta vào Jerusalem là vì ai nấy đều có một hình ảnh nào đó về ta. Họ có những kỳ vọng nhất định rằng ta là vị vua sẽ giải thoát họ khỏi người La Mã, và họ muốn ta phải đáp ứng được nguyện vọng đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau thì nhiều người bắt đầu hiểu ra là ta sẽ không thỏa mãn kỳ vọng này. Con để ý xem họ đã quay mặt tấn công ta nhanh chóng như thế nào khi họ nhận ra là ta sẽ không bị ràng buộc trong những kỳ vọng của họ. Chính những người vừa mới hô to “Hosanna” ở cổng thành nay lại là người la hét “Đóng đinh nó!” tại cái gọi là toà án xử tội ta.

Phần này là câu chuyện mà dòng sống trải qua khi lớn lên, bắt đầu khám phá và biểu hiện cá thể của mình. Sự chọn lựa mà mỗi dòng sống phải đối mặt là liệu mình sẽ chiều theo những kỳ vọng của thế gian, kể cả của cha mẹ, gia đình và xã hội, hay là mình sẽ phát triển và thể hiện sắc thái tâm linh độc đáo của mình và hoàn thành sứ vụ tâm linh của mình.  

Ta không có ý nói là mọi dòng sống đều ở cùng mức trưởng thành tâm linh hay có cùng sứ vụ tâm linh. Nếu con đọc bài giảng của ta về các giai đoạn phát triển tâm linh, con sẽ thấy một số dòng sống sẽ chưa sẵn sàng đi trọn hành trình tâm linh vì họ còn cần chữa lành hay giải quyết một số vấn đề tâm lý. Cho nên nếu họ có sống một cuộc đời không mấy tâm linh, hoặc nếu họ không thách đố các kỳ vọng của xã hội, thì điều này cũng hoàn toàn chấp nhận được.   

Tuy nhiên, đối với các dòng sống già dặn hơn, sẽ tới một điểm khi con phải đối diện với sự chọn lựa là liệu con có chối bỏ cá thể chân thực và sứ vụ tâm linh của mình để chiều theo kỳ vọng của xã hội. Cuộc đời của ta là để minh họa cho điểm trưởng thành mà con đạt đến khi con cần phải chân thật với con người thực của con, cần phải hoàn thành sứ vụ của con cho dù thế giới có phản ứng dữ dội thế nào đi nữa đối với con. Câu chuyện của ta nhằm khơi dậy nơi mỗi người lòng can đảm vượt qua bất kỳ sự khủng bố nào từ thế gian, thậm chí đi tới cùng và chấp nhận cho thế gian giết hại thân xác mình nếu thế gian thật sự muốn thế.   

Rất may mắn là hành tinh nay đã chuyển sang một giai đọan văn minh hơn vậy, và tại nhiều nơi trên thế giới, khó lòng nào con có thể bị người ta giết hại vì con đã thể hiện cá thể tâm linh của con hay đã đeo đuổi sứ mệnh tâm linh của con. Dù sao đi nữa, con vẫn có thể phải nhận chịu nhiều sự trấn áp, như con thấy đã xảy ra trong những phản ứng tiêu cực đối với trang mạng này. Và thật sự, một số những trấn áp đó lại đến từ những người tự xem mình là những tín hữu ngoan đạo của Ki-tô giáo.   

Điểm quan trọng trong câu chuyện Phục sinh không phải là sự kiện ta đã bị ám hại. Điểm quan trọng là ta đã sẵn sàng để cho thế giới giết ta nếu thật sự thế giới muốn như vậy. Điều này được diễn tả qua câu ta nói: Ai tìm cách cứu mạng mình thì sẽ mất mạng, và ai sẵn sàng mất sự sống cho ta sẽ tìm thấy sự sống. Ý nghĩa là nếu con khuất phục trước kỳ vọng của thế gian và chối bỏ cá thể tâm linh của con thì con sẽ đánh mất sự sống trong nghĩa tâm linh. Và ngược lại, nếu con chân thực với cá thể và sứ mạng tâm linh của con, thậm chí con sẵn sàng để cho thế gian tước mất mạng sống vật lý của con, thì dòng sống của con sẽ tìm thấy sự sống vĩnh hằng trong tâm thức Ki-tô.

Thực tế là hầu hết những ai dám thể hiện bản sắc chân thực và theo đuổi sứ vụ tâm linh của mình đều sẽ bị thế gian trấn áp. Thậm chí thế gian có thể đóng đinh họ trên thập tự trong nghĩa tâm linh, nghĩa là không phải đóng đinh trên cây thập tự bằng gỗ mà cây thánh giá tâm linh của kỳ vọng con người. Chẳng hạn, nhiều người bị giới truyền thông đóng đinh tâm linh qua những chiến dịch miệt thị hay đả phá danh dự nhằm đưa ra một hình ảnh dối trá về họ, y như trước kia ta từng bị các thày tu trong nhà thờ bôi nhọ.

Điểm chủ yếu là nếu con sẵn sàng để cho thế gian làm bất cứ điều gì nó muốn với con, nhưng song song con không lúc nào phủ nhận bản sắc tâm linh của mình, thì đó là cơ hội cho con trải nghiệm cuộc điểm đạo tâm linh của phục sinh. Trong trường hợp của ta, đây là một cuộc phục sinh thể xác để minh họa cho tiềm năng phục sinh của mỗi con người vào một tâm thức và một bản sắc cao hơn. Đó là aự minh họa rằng dòng sống có khả năng khắc phục cái chết và giành lại sự sống bất tử. Điều mà hầu hết các tín hữu Cơ đốc không hiểu là để giành sự sống vĩnh cửu, dòng sống phải sẵn sàng để cho ý niệm bản sắc vô thường của mình chết đi trên thánh giá.

Ngay cả khi ta bị treo trên cây thập tự, ta vẫn phải đối diện với thử thách là liệu ta có còn bám giữ bất kỳ một mảnh nhỏ nào của ý niệm bản sắc phàm phu, hay là ta đã sẵn sàng buông bỏ hoàn toàn bản sắc đó cho Thượng đế. Cho dù trong phút chốc ta có cảm thấy bị Thượng đế bỏ rơi, nhưng cuối cùng ta đã đầu phục một cách toàn diện cho Thượng đế. Ngay lúc đó, xác thân vật lý cùng bản sắc phàm phu của ta cũng chết đi, và đó là lúc ta vượt qua cuộc điểm đạo tâm linh và giành được phục sinh của mình.

Hiển nhiên, ta không có ý nói rằng mọi người đều phải sống qua cực hình thân xác bị đóng đinh và phải chết trên cây thập tự để có thể phục sinh. Thế nhưng mỗi dòng sống sẽ phải trải qua kinh nghiệm thể hiện bản sắc tâm linh của mình bất kể những khủng bố mà thế gian có thể ném về phía mình. Nếu dòng sống vẫn chân thực với bản sắc tâm linh của mình và sẵn sàng từ bỏ mọi dấu vết của bản sắc phàm phu – tức là nhị nguyên – thì mình sẽ giành được sự phục sinh. Phục sinh có nghĩa là bây giờ dòng sống đã thăng vượt mọi bản sắc phàm phu, đã kết hợp trọn vẹn với bản sắc mới là trở thành đứa con của Thượng đế. Dòng sống đã vượt qua kỳ thi cuối cùng trên địa cầu và đủ tư cách thăng thiên vào cõi tâm linh. Nói cách khác, dòng sống không còn bị ràng buộc vào vòng sinh tử, không còn phải trở lại đầu thai trên trái đất. Dòng sống có thể vĩnh viễn ở lại cõi tâm linh và tiếp tục cuộc hành trình đến những cõi cao hơn nữa.   

Ta có hy vọng rất lớn là những ai đã sẵn sàng về mặt tâm linh, những ai có tai để nghe, sẽ ôm lấy lời dạy nội tâm này về câu chuyện Phục sinh hầu trong trái tim và tâm trí, họ có thể chứng nghiệm một sự phục sinh của các giáo lý tâm truyền của ta. Nói cách khác, điều đầu tiên mà một người có nhận thức tâm linh cần làm là sẵn sàng sống thực với giáo lý tâm truyền của ta, bất kể mọi loại áp bức mà con có thể nhận được từ thế giới, kể cả từ những người đồng đạo của con đang bám chặt lấy giáo điều chính thống.

Nếu con chịu bỏ lại tất cả mọi thần tượng mà con người đã tạo ra về ta và giáo lý của ta, nếu con chịu để cho các thần tượng này chết đi, nếu con chịu để cho bản sắc phàm phu của con do các thần tượng này nặn ra chết đi, thì còn sẽ được phục sinh vào sự chứng ngộ giáo lý tâm truyền của ta. Ngay lúc đó con sẽ thấy – con sẽ biết bằng cái biết nội tâm vượt khỏi mọi ngờ vực – rằng toàn bộ cuộc đời của ta đã vạch ra cho con một con đường mà con cũng có thể đi theo, cho tới khi chính con cũng sẽ chiến thắng và được thượng thăng vào ánh sáng. Một khi con nhận ra đó là con đường đúng đắn, con sẽ có thể cất bước trên đường nhanh hơn bao giờ hết.  

Ta hy vọng những lời dạy tâm truyền của ta sẽ tới được đủ số người mà nội tâm đã sẵn sàng để thể nhập con đường chân truyền dẫn tới phục sinh và thăng thiên. Đây quả thật là mục đích chủ yếu đằng sau các biến cố nguyên thủy của ngày Phuc sinh, và cũng là một trong các mục tiêu chính ta đã mở ra trang mạng của ta. Ước sao các giáo lý chân truyền của ta được phục sinh trong tim con, ước sao dòng sống của con được phục sinh và bước theo chân ta cho tới khi ta được mừng đón con bước vào vương quốc của Cha chúng ta.    

Sự đổi mới của tất cả mọi tôn giáo

Hỏi 1: Giê-su kính yêu, sau 2000 năm thày đến để cải tổ đạo Cơ đốc đã hiểu lầm những lời dạy của thày, để làm sáng tỏ những mối liên kết còn thiếu sót trong giáo lý cũng như để giải thích tinh túy của giáo lý của thày. Liệu chúng con có thể mong đợi sự xuất hiện sớm sủa của Đại thiên thần Gabriel, là đấng đã tiết lộ kinh Qur’an, trên một trang mạng tương tự như trang mạng của thày để làm sáng tỏ những thiên khải cho Muhammad? Con nghĩ những lời giải thích và sáng tỏ này ngày nay đã trở thành vô cùng cấp thiết cho phúc lợi của các tín đồ Hồi giáo, y như lời giải thích của thày đối với các tín đồ Cơ đốc giáo.   

Hỏi 2: Con thật phấn khích khi nghĩ đến bao nhiêu thay đổi lớn lao đã xảy ra, như trang mạng và sách vở của Kim Michaels đã đến với mọi người khắp thế giới. Những lời dạy chân chính của thày thực sự đã là một phúc lành cho hành tinh này. Con tự hỏi liệu có một số công cuộc tương tự cũng đang diễn ra, hay sẽ diễn ra trong tương lai, để đem lại những giáo lý chân truyền mà các tôn giáo khác hơn là Cơ đốc giáo chưa biết đến rộng rãi. Chẳng hạn, liệu các bậc như đức Phật Gautama, Khổng Tử, Lão Tử, Mohammed, Zarathustra và Krishna có đang thực hiện những điều tương tự như thày hầu nâng cao tâm thức các tín đồ của các tôn giáo lớn? Thật là vui mừng biết bao khi nghĩ đến một sự thức tỉnh rộng khắp thế giới bao gồm mọi tôn giáo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta có thể cam kết với con là các chân sư thăng thiên vô cùng mong muốn đổi mới tất cả mọi tôn giáo trên địa cầu. Tuy nhiên, mục tiêu rộng lớn của các chân sư là đưa ra cho mọi người thấy được rằng, vượt lên trên mọi tôn giáo công truyền, là một tôn giáo tâm truyền, phổ quát toàn vũ. Tôn giáo này không thể bị giam hãm trong một giáo hội hay một giáo điều nhất định. Nó phổ quát chính là vì nó vượt ra ngoài bất kỳ cách biểu hiện nào về bản chất của nó. Con có thể dùng một cái hộp nào đó để làm bực thang vươn tới tôn giáo phổ quát, nhưng con không thể giam tôn giáo phổ quát trong một cái hộp nhất định.

Công việc đổi mới các tôn giáo của nhân loại đang trên đà tiến hành. Quả là có nhiều người hiện đang phụng sự để làm công cụ hay sứ giả cho sự đổi mới này bằng nhiều phương cách và trong nhiều tư cách khác nhau. Các chân sư mong muốn tất cả mọi tôn giáo truyền thống được đổi mới qua tiến trình tiết lộ tuần tự. Tuy nhiên, để điều này có thể xảy ra, có hai điều kiện cần hội đủ:

  • Phải tìm ra một hay nhiều người sứ giả thích hợp. Chẳng hạn, để ban ra những tiết lộ tuần tự hầu đổi mới đạo Hồi, các chân sư phải có một sứ giả hiểu biết đạo Hồi, là người tận tụy sâu xa với đạo Hồi nhưng đồng thời cũng đón nhận sự đổi mới đạo mình. Nói cách khác, người làm sứ giả không được vướng mắc vào một khía cạnh nào đó của đạo mình và không thể có động lực muốn đạo của mình trở thành tôn giáo chiếm ưu thế hay tôn giáo độc tôn. Người sứ giả cũng phải có tâm thức thực sự phổ quát, nghĩa là đã đạt được một mức độ then chốt trong tâm Ki-tô.
  • Để các chân sư có thể đỡ đầu cho một sứ giả đứng ra đổi mới một tôn giáo nào đó, thì phải có đủ túc số những tín đồ của tôn giáo này đạt tới một trạng thái tâm thức khiến họ sẵn sàng nhìn xa hơn tôn giáo vỏ ngoài, hay giáo điều vỏ ngoài, hầu nắm lấy tôn giáo phổ quát nằm đằng sau tín ngưỡng của họ. 

Rất có thể các chân sư sẽ khởi sự đưa ra các tiết lộ tuần tự cho các tôn giáo khác. Không nhất thiết là dưới hình thức một trang mạng tương tự như trang này, bởi vì trang này thật sự chỉ là một thử nghiệm. Những gì có thể hoặc sẽ xảy ra cho trang mạng này tùy thuộc phần lớn vào sự đón nhận của những người tìm thấy nó. Cho tới nay thì hầu hết những ai cởi mở với trang mạng này đều thuộc thành phần đã sẵn cởi mở với tôn giáo toàn vũ mà ta vừa đề cập. 

Đa số các tín đồ Cơ đốc thuộc các giáo hội chính thống hay chính mạch đã không sẵn sàng xem kỹ trang mạng này và nhìn xa hơn những giáo điều cố hữu của mình. Họ đã không sẵn lòng cho ta – Giê-su Ki-tô hằng sống – cơ hội để ta nói cho họ những điều đi xa hơn các giáo điều của giáo hội “giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và mọi điều dơ bẩn” (Matthew 23:27).

Lý do ta đã có thể có trang mạng riêng là vì ta có một vị sứ giả, và thật sự cũng có đủ túc số những người ở các nước Tây phương đã từng lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo nhưng lại sẵn lòng nhìn xa hơn và cố vươn tới một giáo lý tâm linh phổ quát hơn, như có đăng tải ở nhiều nơi. Ta chỉ có thể ngợi khen tất cả những vị đó đã giúp ta tìm lại tiếng nói trong thời đại hôm nay. Ta sẽ mãi mãi biết ơn sự yêu thương cùng sự cởi mở trong trái tim và tâm trí các con.  

Hiển nhiên, trang mạng của ta được ra đời qua một vị sứ giả đặc thù. Tuy nhiên  chính trái tim và tâm trí của những người cởi mở với giáo lý trên trang mạng của ta đã cho ta cánh cửa mở để biểu đạt ra ngoài. Hãy tìm thì con sẽ thấy – có nghĩa là cho tới khi có đủ số người tìm kiếm thì các chân sư không thể ban ra  giáo lý mới.

Cho nên có thể nói rằng tiềm năng đổi mới tôn giáo chỉ bị giới hạn bởi trí tưởng tượng và sự sẵn lòng của những ai tham gia vào sứ mạng. Riêng các chân sư thăng thiên thì luôn sẵn lòng đáp ứng và sinh sôi mỗi cơ hội mà các anh chị em chưa thăng thiên trao cho chúng tôi. Tuy nhiên, chỉ khi nào các con nắm lấy những gì chúng tôi trao cho các con rồi sinh sôi khả năng của mình – thay vì đem chôn xuống dưới đất của giáo điều truyền thống – thì chúng tôi mới có thể truyền dạy những giáo lý cao hơn. Ta cam đoan với các con là có rất nhiều giáo lý mà chúng tôi mong muốn phổ biến, và nếu có sự đón nhận tích cực thì các con sẽ thấy những thay đổi lớn lao trong đời sống tôn giáo trên hành tinh này.    

Tại sao gọi là trung đạo?

Hỏi: Chúng con biết rằng lời dạy của đức Phật về trung đạo không phải là trung điểm nằm giữa hai đối cực nhi nguyên. Con thắc mắc không hiểu tại sao lại gọi là trung đạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Chúng tôi, các chân sư, có giải thích nhiều lần là khi giảng dạy, chúng tôi không tìm cách đưa ra lời dạy cao nhất có thể được. Lý do là vì chúng tôi không giảng dạy trong khuôn khổ cái cao nhất, bởi vì tất nhiên, đó là một khái niệm nhị nguyên có cao, có thấp và có sự so sánh. Điều chúng tôi đưa ra là một lời dạy thích hợp với những người mà chúng tôi cố chạm được. Và chúng tôi phải thích ứng lời dạy cho hợp với văn hóa của họ, với hệ thống tín ngưỡng của họ, với trạng thái tâm thức của họ.

Cho nên vào thời khi ta truyền giảng các giáo lý của đạo Phật, tình thế chung là xã hội Ấn giáo đã trở nên xơ cứng do bao nhiêu lớp xây dựng ngụy tạo của người Bà la môn được đúc lại thành một con đường vỏ ngoài đầy nghi thức. Nhưng song song, Ấn độ cũng có một truyền thống lâu đời các vị khổ hạnh rút lui khỏi xã hội, tu tập hành xác với đủ mọi cách thức tra tấn xác thân cực đoan, gần như là để trừng phạt cơ thể đã giam cầm tâm trí mình bên trong.    

Và như vậy mục đích của ta là thu hẹp khoảng cách, vì nhiều người tâm linh thời bấy giờ cho rằng họ phải lựa chọn đi theo hoặc cực đoan này hoặc cực đoan kia. Và như chính ta đã ngộ ra, cả hai cực đoan đều không dẫn tới giác ngộ. Nhưng giác ngộ phải tìm được ở đâu đó, không phải ở giữa, mà trong một hướng nhìn mới.  

Cho nên vào thời điểm đó, khái niệm trung đạo, nhất là trong văn hóa phương Đông, không mang cùng ý nghĩa mà con thấy thời nay tại phương Tây. Tâm trí người Tây phương suy nghĩ theo lối đường thẳng hơn, và vì thế họ nghĩ tưởng trung đạo là trung điểm, là điểm ở giữa hai đối cực. Nhưng đối với tâm người Đông phương, nhất là vào thời buổi đó, trung đạo mang một khái niệm khác, một sắc thái khác về một cái gì đó vượt ra ngoài, vượt khỏi mọi cái nhìn cũ.

Thực tại nằm trong tâm người đọc

Hỏi: Một trong những quyển sách thất lạc của Kinh thánh, quyển kinh Jasher, có thuật lại là Abraham, vì không tôn thờ các thần giả vào thời của ông, đã bị ném vào lò lửa và thoát thân bình an vô sự, trong khi người anh em của ông thì bị thiêu cháy. Đó có phải là một câu chuyện thật, và liệu quyển kinh của Jasher có chính xác hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có và không! Theo nghĩa là, con yêu dấu, có nhiều câu chuyện trong kinh Cựu ước, và thậm chí cả kinh Tân ước, không có cùng một loại thực tại mà con có thể quan niệm ngày nay khi con nghe về khái niệm thực tại. 

Con thấy đó, con yêu dấu, tâm thức nhân loại đã thay đổi lớn lao trong vòng mấy ngàn năm qua theo những cách mà con người hiện đại không sao hiểu được. Và do đó khi con nhìn lại một số lời dạy trong Kinh thánh – và ngay cả trong các kinh điển khác của thế giới như kinh Veda hay kinh Phật giáo – thì một người với một tâm thức hiện đại, do đã quen lối suy nghĩ duy vật và đường thẳng, sẽ đặt lên câu hỏi: “Ủa, chuyện này có thật không?” Và khi họ hỏi như vậy thì họ cũng nhìn vào đó theo cách họ quan niệm thực tại.  

Trong khi đó thì một người sống vào thời buổi đó sẽ có một quan niệm khác hơn về thực tại, nghĩa là họ không đến nỗi đường thẳng, không đến nỗi quá tập trung vào khía cạnh vật chất, và do đó họ không nhất thiết sẽ nhìn mọi chuyện một cách đen trắng, đường thẳng. Cho nên ở một mức độ nào đó, họ hiểu rằng các lời kinh dạy mang một tính chất biểu tượng, và cái lò lửa kia không nhất thiết là một lò lửa vật lý, mà nó biểu tượng cho cuộc thử lửa mà mỗi việc làm của mọi người đều được thử thách, cho dù là có thật hay không thật.    

Cho nên, con yêu dấu, đó là cái đã tạo ra vấn đề – và qua đó phong trào cực chính thống (fundamentalist) hiện đại đang bị ảnh hưởng bởi cách suy nghĩ hiện đại, cách tư duy đường thẳng duy vật hiện đại, nhưng họ lại không biết. Và khi họ nhìn vào Kinh thánh, nhìn vào một số lời dạy và câu văn trong đó, thì họ bảo: “À, đây nhất định phải là chuyện đã thực sự xảy ra trong thế giới vật lý, đúng y như cách CHÚNG TA hiểu bản văn Kinh thánh.” Và họ không nhận ra là con người thuở xưa không nhất thiết đã hiểu theo cùng cách như vậy.

Vì thế chẳng hạn, khi con nhìn vào trận đại hồng thủy thời Noah, con có thể nói, đúng là có một thực tế nào đó theo nghĩa là có một trận lụt đã phát sinh ra câu chuyện về con tàu của Noah. Nhưng đó không phải là loại lụt mà con quan niệm thời nay. Bởi vì, con yêu dấu, vào thuở con người nhận được lời dạy và trải nghiệm tai biến đó, thì người ta chưa có quan niệm về trái đất mà con hiện có. Họ không thấy trái đất rộng lớn như con thấy bây giờ, họ không thấy trái đất tròn, họ không biết là trên trái đất có những rặng núi cao hơn gấp bội những ngọn núi như núi Ararat mà họ quen thuộc.

Cho nên, con yêu dấu, khi con – với một tư duy hiện đại – nhìn vào trận lụt của Noah, con nói: “Chà, nếu Kinh thánh phải được hiểu theo nghĩa đen thì nhất định có nghĩa là một trận đại hồng thủy toàn cầu đã trải rộng khắp trái đất và nước lụt đã lấp cả đỉnh Everest.” Và đó là lúc con rơi vào cái khía cạnh kia của tư duy hiện đại là tư duy khoa học hoài nghi, bảo rằng: “Ái chà, làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Khối nước khổng lồ đó từ đâu mà có?”

Con yêu dấu, con có thấy điều ta muốn nói ở đây không? Có một sự kiện vật lý đã khởi đầu cho câu chuyện nói trên, nhưng đó không phải là cùng loại biến cố mà con mường tượng với tư duy hiện đại. Nói cách khác, một huyền thoại đã được dựng lên khiến cho biến cố đó trong tư duy hiện đại trở nên to lớn hơn hẳn sự kiện thực tế.

Và đây là chuyện xảy ra với rất nhiều điều của quá khứ, con yêu dấu. Đó là tại sao ngay câu đầu, ta đã nói là quyển sách đó vừa chính xác vừa không chính xác. Bởi vì điều này thực sự tùy thuộc vào tư duy của con khi con đọc một bản văn cổ, tức là cái phin lọc mà con nhìn xuyên qua để mà diễn giải.  

Con yêu dấu, quả thực là Đại thượng sư [khi thày hiện thân là Homer] đã đưa ra các lời dạy trong hai bộ sách Odyssey và Iliad. Nhưng liệu điều này có nhất thiết có nghĩa là nhân vật chính trong quyển Odyssey đã chạm trán với tất cả những sinh vật được mô tả trong sách hay không? Hay đó là một biểu tượng cho những gì anh ta đã đối mặt trong chính tâm thức của anh? Cho nên liệu con có phải khoác vào cái tư duy cho rằng nếu ngày nay con không tin những loại sinh vật như vậy có thể hiện hữu, thì bắt buộc quyển Odyssey cũng hoàn toàn hư cấu và do đó không có chút giá trị nào cho loài người hiện đại hay sao?

Và tất nhiên – một lần nữa với Kinh thánh – câu hỏi đặt ra là liệu các biến cố được kể lại trong Kinh thành có nên được diễn giải từng chữ trong nghĩa đen bởi tư duy hiện đại hay không? À, sự kiện chúng mang một ý nghĩa biểu tượng thâm sâu hơn đã không khiến chúng trở thành lỗi thời đâu con. Cho nên một lần nữa, con đừng bám mắc vào những cách diễn giải đó, bởi vì như chúng tôi đã bày tỏ qua các lời dạy hiện đại, có rất nhiều điều hơn nữa cần được con người thấu hiểu. Và như con sẽ thấy qua cuốn sách của thày Maitreya [Master keys to spiritual freedon – Bí quyết của tự do tâm linh], có một cách hiểu về kinh Sáng thế sâu xa hơn hẳn cách diễn giải thông thường theo nghĩa đen.

Như vậy ta cũng muốn tạo ấn tượng trong con là các giáo lý tâm linh có nhiều cách diễn giải. Điều này không có nghĩa là có một cách đúng và mọi cách khác bắt buộc phải sai. Đây lại là một hệ quả khác của tư duy hiện đại, qua đó dựa trên cách suy nghĩ khoa học, con tin rằng mỗi câu hỏi đặt ra chỉ có một câu trả lời duy nhất, hay mỗi sự đo đạc khoa học chỉ có một kết quả đúng đắn duy nhất. Ấy nhưng ta nói vói con, có một tầng mức tâm thức chỉ biết đến số lượng, và đó chính là tầng tâm thức mà khoa học thời nay đang bị kẹt vào. Đó là lý do tại sao người ta muốn đo đạc và định lượng mọi chuyện.    

Nhưng vượt trên tầng mức của thực tại có thể được đo lường, còn có một tầng mức thâm sâu hơn nơi con không thể định lượng bằng cách đo đạc, bằng cách chia ra thành từng đơn vị nhỏ, bởi vì thực tại không hề đường thẳng. Cho nên để hiểu và tiếp cận với tầng mức thực tại thâm sâu đó, con phải sẵn lòng vượt quá cái tư duy trí thức, phân tích, cứ muốn đo lường mọi chuyện rồi dán nhãn lên mọi chuyện.

Điều thực sự quan trọng không phải là liệu một bản văn tâm linh có chính xác hay có diễn ra đúng như mô tả hay không. Điều thực sự quan trọng là con sử dụng câu chuyện đó để kích hoạt một trải nghiệm nội tâm sẽ giúp con thăng vượt một mức tâm thức nào đó. Kinh sách và văn bản tâm linh không được thảo ra để cống hiến một số thông tin trí thức, đường thẳng, hay một số dữ kiện nào đó. Chúng được viết ra để giúp con người thăng vượt một mức tâm thức. Không một ai trong thế giới hiện đại đã hoàn toàn thoát khỏi trạng thái tâm thức thần thoại, cho nên mọi người đều có thể tìm thấy lợi ích trong việc đọc các bản văn cổ và sử dụng bản văn để làm bàn đạp cho những khám phá trực giác.

Cho nên, con yêu dấu, ta cũng biết là ta đã không trả lời câu hỏi của con một cách đường thẳng, nhưng ta tin tưởng trả lời như vậy cũng là đủ rồi.

Ngày lễ Giáng Sinh

Hỏi: Đâu là ý nghĩa THẬT của ngày Giáng sinh? Có phải là ngày sinh trần thế thực sự của thày Giê-su gần hơn với ngày 16 tháng 4 năm 6 trước Công nguyên hay không? Khi chúng con không thần tượng hóa thày như giáo hội chính thống vẫn làm, thì chúng con nên xem mùa này gọi là “mùa Giáng sinh” như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi câu hỏi này vào đúng ngày hôm nay [15 tháng 12 năm 2003]. Ta đón nhận cơ hội được trả lời về ngày lễ Giáng sinh.

Đầu tiên hãy để ta nhận xét về vấn đề ngày giờ. Ở điểm này, ta không muốn tiết lộ chính xác ngày giờ sinh của ta. Lý do là vì mục đích chính của trang mạng của ta là để giúp mọi người vượt qua sự sùng bái thần tượng về cá nhân ta. Chính sự kiện nhiều người bị ám ảnh đến như vậy bởi ngày giờ sinh là một biểu hiện của sự sùng bái thần tượng này. Nếu ta cho con ngày giờ sinh chính xác, nhiều người sẽ sử dụng thông tin đó để nhìn thấy một đặc tính nào đó khác hẳn mọi người, và họ sẽ nắm lấy đó làm bằng chứng để bảo ta có gì khác thường và do đó có thể biểu thị tâm Ki-tô dễ dàng hơn.

Thực tế là ngày giờ sinh của ta không có một ý nghĩa vũ trụ phổ quát nào hết. Vì ta có tiềm năng trở thành vị Thày tâm linh cho thời đại tiếp theo sau, cho nên ta đã sinh ra vào thời buổi đánh dấu sự chuyển tiếp vào Thời đại Song ngư. Ngày sinh chính xác của ta có một ý nghĩa quan trọng về mặt nghiệp quả cá nhân mà ta phải giải quyết trong kiếp đầu thai cuối cùng trên địa cầu, và đây là sự chuẩn bị tốt nhất cho sứ vụ cá nhân của ta. Do đó, hình dạng các tinh tú trên bầu trời chiêm tinh vào thời điểm đó hoàn toàn không quan trọng đối với các dòng sống khác, bởi vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng của mình phải giải quyết.

Nếu con phóng tâm trở về lối tư duy của nhân loại cách đây 2000 năm, con sẽ nhận thấy nhiều người bị ám ảnh bởi ngày sinh. Không những người Do thái chỉ phân biệt đối xử với những ai không phải là người Do thái, mà còn có sự phân biệt đối xử ngay trong cộng đồng người Do thái dựa trên gốc gác gia đình. Cho nên khi các tác giả Phúc âm khởi sự viết những quyển Phúc âm, họ quyết định là, để câu chuyện kể dễ chấp nhận hơn đối với quần chúng, họ phải nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của hoàn cảnh ra đời của ta.

Nói chung, các học giả đều chấp nhận là các quyển Phúc âm được viết theo một thứ tự nào đó, với Phúc âm Mark (Máccô) là quyển đầu tiên. Con sẽ thấy là Phúc âm Mark hầu như không đề cập đến hoàn cảnh chung quanh ngày ta sinh ra, trong khi Phúc âm John (Gioan) lại coi đó là một biến cố có tầm quan trọng vũ trụ. Giản dị, sự kiện này cho thấy sự chú trọng lớn hơn mà các tác giả Phúc âm kế tiếp nhau đã dành cho ngày sinh của ta, và thậm chí họ đã tô vẽ thêm tới một mức nào đó. Đây là một trong những lý do chính đã gây ra hiện tượng thần tượng hóa chung quanh con người vỏ ngoài của ta, được xây dựng và duy trì suốt 2000 năm qua.

Cho nên nói cho cùng, ngày giờ cùng hoàn cảnh ta sinh ra không có gì là quan trọng đặc biệt. Ta xin nói là ngày mà con đề cập gần với ngày sinh thực sự của ta hơn là ngày 15 tháng 12 cùa năm 0. Nhưng dù sao thì đó cũng không là ngày chính xác.

Kỳ thực, ta sinh ra vào mùa xuân, và những lễ hội chung quanh điểm đông chí – là ngày ngắn nhất trong năm – là một chuyện được thêm vào sau này. Ta không có vấn đề gì khi người ta ăn mừng ngày đản sinh của Ki-tô vào dịp đông chí, vì ta không xem chuyện người ta biết đến hay ăn mừng ngày sinh chính xác của ta là đặc biệt quan trọng. Thật ra, ta còn xem đó là một sự sắp đặt rất thiết thực. Chính trong ngày ngắn nhất, ít ánh sáng nhất trong năm, mà ai nấy cần được nhắc nhở về tiềm năng trở thành Ki-tô của mỗi người. Và tiềm năng này mới cần là trọng tâm trong các lễ hội Giáng sinh.

Đối với những ai sẵn lòng nhìn xa hơn hoàn cảnh chính xác về cuộc đời vỏ ngoài của ta, và nếu họ có thể giải phóng tâm trí họ khỏi cách diễn giài Kính thánh một cách từ chương, thì câu chuyện cuộc đời của ta có thể được nhìn như là biểu tượng cho sự ra đời của Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Một lần nữa, sự sùng bái thần tượng vô độ chung quanh sự ra đời của ta đã che khuất mất thực tế. Có quá nhiều người tin rằng khi ta sinh ra, ta đã mang sẵn một quả vị Ki-tô viên mãn, đã có khả năng nhớ rõ nguồn gốc và sứ mệnh thần thánh của mình. Điều này rất xa sự thật. Măc dù dòng sống của ta đã đạt được một thành tựu tâm linh cao trong nội tâm, ta không nhớ gì đặc biệt về chuyện đó khi sinh ra. Ta có trực giác rất bén nhạy, nhưng ta đã phải lần hồi khám phá ra bản sắc tâm linh cũng như sứ vụ tâm linh của mình. Do đó ta có thể cam đoan với con rằng cuộc sống của ta không có gì là khác biệt hay dễ dàng gì hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất. Ai ai cũng phải đối mặt với thử thách phát hiện ra bản sắc thật của mình, và quyết định xem là mình sẽ hoàn thành sứ mệnh tâm linh của mình hay không.

Vì vậy, cách đúng đắn để tiếp cận ngày lễ Giáng sinh là xem câu chuyện cuộc đời của ta như là biểu tượng cho những giai đoạn mà mỗi dòng sống phải đi qua khi đứa bé Ki-tô sinh ra trong lòng dòng sống đó, rồi lớn lên cho đến trưởng thành hoàn toàn, và khi đó dòng sống sẽ có khả năng thể hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình trong thế gian.

Ta sinh ra như một đứa bé sơ sinh yếu đuối như mọi người khác. Không một người nào có thể bỗng nhiên đi từ một trạng thái tâm thức vô minh bước ngay vào tâm thức Ki-tô viên mãn. Đối với những người có thiên hướng tâm linh, thời điểm sẽ đến trong đời họ khi tâm thức Ki-tô được sinh ra trong tâm họ. Đây là một kinh nghiệm nội tâm, qua đó dòng sống cảm thấy cuộc sống là nhiều hơn như vậy, thực tại là nhiều hơn như vậy, và bản sắc mình cũng nhiều hơn là tâm thức phàm phu bình thường.

Tâm thức Ki-tô mới sinh ra giống như một đứa sơ sinh mong manh và yếu đuối trên nhiều mặt. Thánh Paul hiểu điều này, và thày có mô tả một số người vẫn là trẻ sơ sinh trong Ki-tô. Lý do là vì ở khởi đầu, ý niệm tâm thức Ki-tô của dòng sống rất mỏng manh. Nó cần được bảo vệ, hỗ trợ, nuôi nấng. Lý tưởng nhất, giai đoạn này nên diễn ra trong một cộng đồng tâm linh nơi những người đã tiến bước xa hơn trên đường tu quả vị Ki-tô có thể hỗ trợ dòng sống. Tiếc thay, trong thế giới ngày nay, cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật không thể cung ứng sự hỗ trợ và hiểu biết này, và do đó hầu hết mọi dòng sống đều phải gần như tự mình chiến đấu để vượt qua hoang địa của tâm thức loài người. Ta không mấy ưa sự thể này, và ta hy vọng tình trạng này sẽ thay đổi với sự xuất hiện của những cộng đồng tâm linh nơi mọi người có thể hỗ trợ nhau tăng triển trên đường tiến lên quả vị Ki-tô.

Trở về với các lễ hội Giáng sinh, ta không thấy lý do gì phải bãi bõ các lễ hội này. Ta không thấy lý do gì phải dời ngày lễ sang một ngày khác trong năm. Đó là một truyền thống đã ăn sâu vào văn hóa phương Tây, và nó có thể dễ dàng được chuyển hóa thành một trải nghiệm tâm linh rất sâu đậm.

Tuy vậy, ta nghĩ rằng Giáng sinh tại nhiều quốc gia đã trở nên thương mại hóa một cách không cần thiết và quá chú trọng đến thú vui vật chất, từ việc tặng quà cho đến ăn uống quá độ, thậm chí cả uống rượu rồi say chếnh choáng. Tất nhiên điều này không liên quan gì đến sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong dòng sống. Thực tế thì ta không thấy chuyện này sẽ thay đổi được trong tương lai gần.

Tuy nhiên, đối với những ai sẵn sàng tìm kiếm ý nghĩa sâu xa hơn, ta đề nghị nên phát triển một cách ăn mừng ít chú trọng hơn vào cuộc đời cũng như ngày sinh của ta, mà thực sự nhìn ra đó là một biểu tượng cho sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi con người. Một khi con bắt đầu nhìn đứa bé Ki-tô không chỉ là đứa sơ sinh sẽ lớn lên thành nhân vật Giê-su, thì con đang đi đúng hướng. Khi đó, con sẽ thấy đứa bé Ki-tô đó là sự ra đời hồn nhiên của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Như thế con có thể tạo ra một lễ mừng nhằm hỗ trợ cho dòng sống trải nghiệm được sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi chính mình, và con có thể mở rộng lễ mừng đó ra khắp cộng đồng của những người đang hỗ trợ lẫn nhau để bảo vệ và nuôi lớn tâm thức Ki-tô này cho đến khi nó trưởng thành.

Trong thế giới ngày nay, nhiều người đã đạt được một mức tâm Ki-tô rất cao, như ta đã có giải thích ở nơi khác. Do đó đối với họ, việc tâm thức Ki-tô trưởng thành sẽ không mất đến 30 năm mà sẽ ngắn hơn nhiều. Dù sao thì một lễ mừng tập trung vào sự ra đời của Ki-tô trong cá nhân dòng sống cũng sẽ là một nguồn cảm hứng to lớn sẽ giúp cho người đó nhận ra trong ý thức sự chứng đạt Ki-tô của mình. Nhờ thế họ có thể nuôi dưỡng đứa bé Ki-tô trong tâm họ cho đến khi nó trưởng thành và được biểu lộ hoàn toàn, là lúc dòng sống biến nước của tâm nhị nguyên thành rượu của tâm thức Ki-tô. Khi sự biến hóa này diễn ra trong một cá nhân, người đó sẽ không thể quay đầu lại được nữa, cũng như chính ta đã không thể quay đầu lại sau khi ta làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới ở Canaan.

Khi đó, dòng sống không còn có thể che được ánh sáng của mình nữa, và dòng sống sẽ bước tiếp để hoàn thành sứ vụ của mình. Điều này sẽ bao gồm cả việc thách đố những sự áp bức trong thế gian, nhưng tất nhiên là thời nay, không ai sẽ cần bị đóng đinh trên thập tự giá để thể hiện quả vị Ki-tô.

Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy tiếp tục cử hành thánh lễ Ki-tô vào điểm ít ánh sáng nhất trong năm, nhưng hãy biến nó thành một lễ mừng sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống. Khi ta sinh ra cách đây 2000 năm, thánh lễ Ki-tô là sự ra đời của một đứa bé duy nhất mang sứ mệnh thể hiện tâm thức Ki-tô. Ngày nay, thánh lễ Ki-tô đã khoác lấy một ý nghĩa mới.

Sự tái lâm của Ki-tô thực sự có nghĩa là sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi hàng ngàn, hàng triệu con người trên hành tinh này. Khi điều này xảy ra, con sẽ có thể cử hành thánh lễ (mass) Ki-tô đích thực qua đó đông đảo quần chúng (mass) sẽ chiêm nghiệm sự ra đời của đứa bé Ki-tô trong tim mình. Ta có thể cam đoan với con rằng những sinh thể minh triết khắp cõi tâm linh sẽ tụ về để làm chứng cho sự ra đời này, và sẽ đem lại thật nhiều món quà tâm linh hầu thiết lập một ý thức cộng đồng mới giữa những sinh thể ở Trên và con người ở dưới.

Mật mã trong Kinh thánh

Câu hỏi 1: Liệu các mật mã Kinh thánh trong quyển kinh Torah là thật hay không?

Câu hỏi 2: Hình như mọi người đều đang bàn tán sôi nổi về một đoạn mã được tìm thấy trong ấn bản gốc tiếng Do thái của Kinh Cựu ước, hay Torah. Liệu mật mã này có thật hay không? Nó có tiên đoán một số biến cố thực trên địa cầu? Liệu nó chỉ chứa đựng một hậu quả duy nhất hay mấy hậu quả khác nhau có thể xảy đến? Có phải Thượng đế hay người ngoài hành tinh đã đặt nó vào trong đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con hãy tự đặt một vài câu hỏi. Tại sao Thượng đế lại đi giấu mật mã trong một lời dạy tâm linh được trao truyền ban đầu như một lời tiết lộ trực tiếp và sau đó được truyền khẩu cho đến ngày nay? Tại sao lại cài vào trong đó một đoạn mã mà không ai có thể giải thích được cho tới 2000 năm sau, khi máy tính được phát minh?

Để tin vào một mật mã như vậy, con phải tin rằng mặc dù Thượng đế đã trao cho nhân loại Kinh thánh trong một sự tiết lộ trực tiếp, tự dưng ngài đã đánh mất khả năng tiết lộ trực tiếp đó sau khi ban ra Kinh thánh. Nói cách khác, ngài đã phải biết trước là ngài chỉ có đúng một dịp duy nhất để ban tiết lộ thiêng liêng cho loài người, và do đó ngài đã phải cài vào một đoạn mã để sau này người ta có thể diễn giải khi người ta có máy tính nhưng không còn nhận được tiết lộ nữa.

Khi con suy nghĩ một chút, con sẽ thấy chuyện này hoàn toàn vô lý. Thượng đế là đấng toàn năng, cho nên ngài không thể đánh mất khả năng giao tiếp với loài người. Vậy tại sao ngài lại cài đặt mật mã vào một lời được ban ra cách đây hàng ngàn năm để truyền đạt một thông điệp mà ngày nay ngài có thể dễ dàng truyền đạt qua sự tiết lộ trực tiếp? Một khi con nắm vững thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự – một tiến trình đã tiếp diễn từ trước khi lịch sử được ghi chép và sẽ còn tiếp diễn một cách vô hạn định trong tương lai – thì hiển nhiên không hề có nhu cầu giấu mã trong Kinh thánh.     

Điều hoàn toàn đúng là bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng có thể được diễn giải ở nhiều tầng cấp khác nhau. Điều này được diễn tả qua câu: “Giê-su chẳng hề giảng cho quần chúng mà không sử dụng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng, thày cắt nghĩa tất cả mọi điều cho môn đồ của mình.” (Mark 4:34)

Cho nên giáo lý của ta có những tầng cấp thông hiểu khác nhau tương ứng với trình độ tâm linh của người nhận trưởng thành tới đâu. Dù sao thì ý nghĩa “ẩn giấu” như vậy không mang hình thức mật mã chỉ được giải trình bởi một chiếc máy tính, mà nó được ban ra dưới dạng một lời dạy mà tâm nhị nguyên không có khả năng hiểu được. Ý nghĩa thực của nó có thể được mở khóa khi người tầm đạo nâng cao tâm thức của mình vượt lên khỏi tư duy nhị nguyên và bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình.   

Tại sao bỗng nhiên nhiều người lại quan tâm và phát hiện ra những cái gọi là mật mã Thánh kinh chứ? Một phần là vì tâm thức loài người đang được nâng lên, và điều này khiến cho con người dễ dàng nhận diện hơn các mô thức “ẩn giấu”.

Tuy nhiên còn một phần giải thích khác nữa, đó là kể từ biến cố Sa ngã, một số người đã tìm cầu một cách thức máy móc để đạt cứu rỗi. Những người như vậy ham chuộng máy tính, và ngược lại với một ý tưởng thịnh hành, máy tính là một thiết bị hoàn toàn máy móc sẽ không bao giờ đạt được khả năng thông minh thật sự. Một chiếc máy tính chỉ có thể nhận dạng những mô thức máy móc, nhưng quả vị Ki-tô thì không thể chứng được một cách cơ học máy móc – cho dù nhiều thày giả muốn con tin là chuyện này có thể làm được. Đây chính là “con đường có vẻ đúng cho con người, nhưng cuối cùng lại là con đường của sự chết” (Châm ngôn 14:12).    

Thực tế đơn giản là máy tính không có khả năng rút tỉa thông tin thực. Nó chỉ có thể phân tích một tác phẩm văn chương và so sánh với những con số đã được người dùng máy lập trình vào trong máy. Cho nên những loại mã mà người ta có thể tìm thấy trong Kinh thánh đã được định sẵn bởi những gì người dùng máy muốn tìm. Điều này rất giống như khám phá của ngành vật lý lượng tử, cụ thể là tâm thức của người quan sát sẽ nhất định ảnh hưởng đến kết quả được quan sát.

Sự thật đằng sau việc “khám phá mật mã” này là: Chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên thì họ sẽ còn xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi nào con vươn lên cao hơn nhị nguyên và chứng được tầm nhìn đích thực của tâm Ki-tô thì con mới thấy được cái thực.  

Trên thực tế, con có thể lấy hầu như bất kỳ tác phẩm văn chương nào đủ dài và đủ phức tạp và tìm thấy trong đó một loại mã hay mô thức nào đó. Tuy nhiên, như nhà vật lý lượng tử sẽ hỏi: “Liệu thế giới thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai đứng nhìn?” thì cũng vậy, con có thể hỏi: “Liệu mật mã Thánh kinh thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai tìm nó?”  

Cũng có một vài tác phẩm văn chương mà tác giả đã cố tình cài vào một mật mã. Người ta làm chuyện này trong những xã hội bị nhà nước hay giáo hội đàn áp và tác giả gặp nguy hiểm khi tiết lộ một loại thông tin nhất định nào đó. Cho nên thông tin được bảo mật dưới một dạng mã mà chỉ những ai nắm được chìa khóa mới có thể đọc được. Có một số ví dụ như vậy là các tác phẩm của Francis Bacon và Shakespeare. Tuy nhiên như ta vừa giải thích ở trên, Thượng đế không hề có nhu cầu sử dụng những loại mã như thế. Thượng đế cùng các chân sư thăng thiên có khả năng, bất cứ lúc nào, sử dụng sự tiết lộ trực tiếp để truyền đạt thông điệp của mình.  

Vai trò của Giu-đa

Hỏi: Điều gì đã xảy ra cho Giu-đa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Như đa số những ai đã tự vận, Giu-đa đã tái đầu thai nhanh chóng. Tuy nhiên, Giu-đa là một dòng sống già dặn, và đó là vì sao ông đã được chọn làm một tông đồ của ta và ông đã nhận lời gọi. Thế rồi dòng sống của ông đã thăng thiên kể từ đó.

Giu-đa hiện không phải là một thành viên của chân sư thăng thiên – theo nghĩa một sinh thể đã thăng thiên đang làm việc với các dòng sống trên địa cầu – nhưng thày đã chuyển sang những tầng khác nơi cõi tâm linh. Lý do là vì có quá nhiều sự lên án đổ lên thày từ các tín hữu đạo Cơ đốc cho nên Giu-đa sẽ không thể hiệu năng nếu thày quyết định phụng sự các dòng sống trên trái đất. Do đó thày có thể dùng khả năng của mình hữu hiệu hơn bằng cách làm việc với dòng sống nơi các hệ thống thế giới khác.

Trên thực tế, ta rất mong muốn nhìn thấy các tín đồ Cơ đốc tha thứ cho Giu-đa và hoàn toàn buông xả mọi cảm xúc tiêu cực đối với ông. Người đạo Cơ đốc sẽ được lợi lạc rất nhiều nếu họ tha thứ cho hành vi của ông và chỉ đơn giản bỏ qua tất cả. Cách nhìn đúng đắn về Giu-đa là nhìn ông trong mối liên hệ với người mù bẩm sinh trong câu chuyện Phúc âm. Con có nhớ là sau khi ta chữa lành cho anh mù ấy, các tông đồ có hỏi ta liệu nguyên nhân sự mù lòa là do chính anh đã làm tội hay do cha mẹ của anh đã làm tội. Thì ta đã trả lời: “Chẳng phải anh ấy, cũng chẳng phải cha mẹ anh ấy đã làm tội, mà do sự vận hành của Thượng đế được biểu lộ ở trong anh.” (John 9:3)

Câu nói đó cho thấy anh mù ấy là một dòng sống già dặn đã chọn khoác vào tật bẩm sinh kia để chu toàn một vai trò trong sứ vụ của ta. Cũng vậy, Giu-đa là một dòng sống già dặn đã chọn đảm nhận một vai trò đặc thù trong sứ vụ của ta.

Giu-đa là một người có nhiều mối quan hệ với giới lãnh đạo Do Thái thời đó, và kết quả tốt nhất có thể xảy đến là ông thành công thuyết phục được một số lãnh đạo này công nhận ta như một vị tiên tri chân chính có khả năng đóng góp đổi mới tôn giáo Do Thái. Mong mỏi này không thành hình vì các lãnh đạo Do Thái đã không sẵn lòng muốn thấy tôn giáo của họ đổi mới. Họ lo sợ sẽ mất quyền lực cùng quyền kiểm soát của họ – một nỗi sợ không phải là không có cơ sở.

Khi Giu-đa thấy rõ là ông không thể thuyết phục giới quyền chức rằng ta là một vị tiên tri chân thực, thì điều hay nhất là ông nên buông hẳn chuyện đó đi. Nhưng không may, ông trở nên dính mắc với ý muốn giúp ta hoàn thành sứ vụ của ta. Ông tin rằng nếu ông có thể thúc ép một cuộc chạm trán giữa chính ta và giới quyền chức, thì ta sẽ sử dụng những quyền năng tâm linh mà ông đã thấy ta sử dụng mấy lần. Giu-đa tin rằng nếu giới quyền chức được chứng kiến tận mắt các quyền năng này thì họ sẽ cảm hoá và chấp nhận ta như một tiên tri. Điều không may là ông không hiểu mục đích sâu xa của sứ vụ của ta, và các tông đồ còn lại của ta cũng vậy. Về điểm này, phải nói là chính ta cũng không hiểu một cách ý thức tât cả mọi hệ quả của sứ vụ của ta cho đến khi phục sinh.

Cho nên thực sự Giu-đa đã hy vọng rằng điều mà các tín đồ Cơ đốc thời nay coi là một sự phản bội, chính thực là một hành động sẽ cuối cùng đem lại sự vinh quang cho ta. Tuy nhiên, ông cứ tưởng là vinh quang tối hậu của ta là sẽ trở thành vua của người Do Thái – một viễn quan phát xuất từ tâm nhị nguyên. Hành động của Giu-đa quả thực đã dẫn đến vinh quang tối hậu cho ta nhưng là sự vinh quanh tâm linh, qua đó dòng sống của ta đã chiến thắng phàm ngã và nhờ vậy chứng tỏ được con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Và trong cùng tiến trình này, giới quyền chức Do Thái từng kết án ta tử hình, cũng đã đem lại bản án cho chính họ.

Các tín đồ đạo Cơ đốc cũng nên xem xét việc ta bị nộp cho nhà cầm quyền rồi bị xử án là một điều cần thiết cho sứ vụ của ta được hoàn thành. Nếu Giu-đa không hành xử như ông đã hành sử thì câu chuyện đã có thể khác, và nếu ta không muốn nó xảy ra thì ta đã có thể dễ dàng trốn thoát khỏi thành Jerusalem, hay ta đã có thể thỉnh gọi 12 đạo thiên sứ đến giải cứu (Matthew 26:53). Cho nên đây là thêm một lý do để tha thứ cho Giu-đa và xem ông như một người đóng một vai trong một vở tuồng.

Có hai bài học quan trọng mà mọi người có thể rút tỉa từ cuộc đời của Giu-đa. Một là sự quan trọng của lòng tha thứ. Việc Giu-đa tự vận là một sự kiện đáng tiếc đã không đẩy nhanh sự phát triển tâm linh của ông. Lẽ ra ông đã nên thực sự tha thứ cho chính mình và cống hiến phần đời còn lại để tập trung vào đường tu tâm linh mà ta đã chứng tỏ. Nếu ông làm vậy thì ông đã được hoàn toàn tha thứ, và ông cũng đã quân bình được mọi năng lượng tha hóa, hay nghiệp, mà ông đã gây ra do hành vi của ông. Ý ta muốn nói là tha thứ luôn luôn là một điều chúng ta có khả năng làm được, và tự vận không bao giờ là cách phản ứng hay nhất trong một tình huống khó khăn.

Bài học quan trọng khác là cuộc sống trên hành tinh này có thể được xem như một màn trình diễn trên sân khấu. Mỗi con người là một diễn viên đóng một vai nhất định trong vở tuồng cuộc sống. Khi con đi xem kịch ở nhà hát, con dư biết khi một người bước lên sân khấu trong trang phục của Hamlet là con không đang nhìn Hamlet thực. Con đang nhìn thấy một người có cuộc sống hoàn toàn độc lập với vai trò mà họ đang đóng trên sân khấu. Người đó chỉ đơn giản khoác vào một bộ quần áo và đang đóng một vai tuồng. Khi tuồng kết thúc, diễn viên sẽ cởi áo ra và trở lại cuộc sống bình thường.

Điều này cũng tương tự như điều xảy ra khi một dòng sống đầu thai trên trái đất. Dòng sống là con người thực của con. Thân xác mà con khoác vào cùng cuộc đời mà con sống có thể ví như vai tuồng trong màn trình diễn có tên là “Cuốc sống trên địa cầu.” Một khi vai tuồng trong vở kich đời sống chấm dứt, con sẽ cởi bộ trang phục đó ra và trở về nhà của con nơi cõi tâm linh.

Ý tưởng vừa rồi quan trọng ở chỗ con không bao giờ nên cho phép mình dính mắc vào vai tuồng mình đang diễn, hay quá say mê trơng vai tuồng đến độ con đánh mất bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Nếu một diễn viên quá say mê với vai diễn để tưởng rằng mình thực là Hamlet rồi từ chối cởi trang phục sau buổi trình diễn, thì hiển nhiên con sẽ bảo là người đó có chuyện gì không ổn, và người đó phải kiểm tra lại thực tế của mình ở đâu. Cũng vậy, những ai sống trên địa cầu mà lại đồng hóa với thân xác vật lý và cuộc đời thay vì giữ lấy bản sắc mình là một sinh thể tâm linh, cũng cần kiểm tra lại thực tại của mình và nhìn xa hơn cái trang phục (cơ thể) mà mình đang mặc cùng những vai tuồng mà mình được giao phó trong vở kịch cuộc đời.

Và điều này cũng áp dụng cho Giu-đa. Khi vai trò của ông không diễn ra như ông mong đợi, tình cảm của ông đã trở nên dính mắc với một thành quả nhất định, rồi ông toan ép buộc cuộc đời phải tuân theo mong đợi của ông. Khi chuyện đó không xảy ra, sự dính mắc đã ngăn cản ông kiểm tra lại thực tại để nhận ra là có lẽ vở kịch không được thiết kế để diễn ra theo ý muốn của ông. Cho nên ông đã không thể vượt qua cảm giác tội lỗi và ông đã chọn sự tự vận thay vì phát triển tâm linh.

Ta mong mọi người sẽ học hỏi được từ tấm gương của ông và quyết định kiểm tra thực tại để mình có thể nhìn xa hơn những trang phục mà mình đang mặc, tức xác thân vật lý, cùng những vai trò mà mình đang trình diễn trong vở kịch cuộc đời. Ai ai cũng biết là một diễn viên sẽ đều đặn bước khỏi sân khấu, cởi trang phục và trở về với trạng thái sống bình thường của mình. Sẽ rất tốt cho mọi người nếu ai nấy đều thỉnh thoảng dành thời gian để bước ra khỏi các sinh hoạt thường nhật và đi sâu vào nội tâm để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Việc này sẽ cho con sự kiểm tra thực tại, giúp con nhìn xa hơn vai trò mà con đang diễn trên địa cầu.

Sẽ vô cùng lành mạnh nếu mọi người có thể nhận ra cuộc sống là nhiều hơn vậy, rằng có cái gì nhiều hơn nữa trong cuộc sống – tức sự sống tâm linh – vượt quá những gì mình đang trải nghiệm trong thế gian này. Chỉ khi nào con nối kết lại với bản sắc thực của con thì con mới có thể tránh khỏi dính mắc vào vai trò mình đang diễn trên sân khấu cuộc đời. Và chỉ khi nào con tránh không dính mắc thì con mới không bị lạc vào vai trò hiện thời của con cùng ý niệm bản sắc mà con đã vun bồi dựa trên vai trò đó.

Con thấy đó, không như vở kịch cứ diễn đi diễn lại mỗi tối trên sân khấu, vở tuồng cuộc đời trên trái đất đã được thiết kế để là một vòng xoắn ốc hướng thượng, trong đó con sẽ lần hồi tăng trưởng để có thể bỏ lại vai đó và thăng lên một vai trò cao hơn – cho đến khi con vượt kỳ thi cuối cùng và vĩnh viễn thăng lên cõi tâm linh. Ta không muốn thấy mọi người cứ phải trở lại hết kiếp này tới kiếp khác và diễn lại cùng vai tuồng mà không bao giờ học được bài học cần học. Ta muốn thấy mọi người thăng vượt hết vai này tới vai khác cho đến khi họ thăng vượt chính cuộc trình diễn.

Đó là lý do tại sao ta đã chọn xuống hành tinh này và đóng vai trò đặc thù của ta trong vở kịch này. Tiện thể cũng xin nói thêm, vai trò của ta là đặt ra câu hỏi y hệt như câu hỏi được đặt cho Hamlet: “Là hay không là?” Tuy nhiên, ta sẽ nói thêm là trái với Hamlet, ta có câu trả lời cho bí ẩn của cuộc sống.

Tôn giáo chân chính duy nhất là tôn giáo phổ quát

Hỏi: Phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu trả lời cho câu hỏi phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất là: “Có và không.”

Chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất, nhưng tôn giáo này là tôn giáo phổ quát (universal), tôn giáo nội tâm của Thượng đế. Trên hành tinh địa cầu không hề có tôn giáo chân chính duy nhất. Có nhiều tôn giáo chân chính vì nhiều tôn giáo giảng dạy một số yếu tố của con đường phổ quát.

Có nhiều cách để biểu đạt sự thật của Thượng đế. Cho nên có thể có nhiều tôn giáo đều giảng dạy một phiên bản đặc thù của sự thật Thượng đế và của con đường phổ quát dẫn đến vương quốc Thượng đế.

Không một tôn giáo nào có khả năng cho con một hiểu biết trọn vẹn về Thượng đế. Đơn giản là sự hiểu biết đó vượt khỏi mọi ngôn từ. Nếu con suy nghiệm điều này, con sẽ nhận ra tại sao như vậy. Kinh điển có viết là nếu tất cả mọi điều ta nói hay làm được ghi lại thành sách thì nguyên thế gian này cũng không thể chứa hết sách. Câu này có phần nào quá đáng từ tác giả đoạn văn đó, tuy nhiên đúng thực là nó áp dụng cho sự thật của Thượng đế.    

Thượng đế đã tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng, một thế giới rộng lớn đến độ không một người nào có thể nắm bắt được sự vĩ đại của tạo vật của ngài. Nếu có ai có thể mô tả được trọn vẹn Thượng đế thì hành tinh địa cầu sẽ không thể nào chứa hết sách được viết xuống. Nhưng việc diễn tả toàn bộ bản thể của Thượng đế bằng lời nói là một việc bất khả thi. Đơn giản, bí ẩn của Thượng đế không thể nào được biểu lộ qua ngôn từ.

Không một tôn giáo nào có khả năng đưa ra một lời mô tả chính xác về Thượng đế. Câu này quan trọng ở chỗ cách duy nhất để biết được Thượng đế là nhìn vượt khỏi giáo lý vỏ ngoài cùng học thuyết được tìm thấy trong bất kỳ tôn giáo nào. Cách duy nhất đề biết được Thượng đế là khám phá con đường phổ quát tâm truyền đằng sau tôn giáo công truyền.

Tại sao lại có nhiều tôn giáo trên thế giới? Thượng đế không cần đến tôn giáo. Thượng đế là một sinh thể tự đủ. Thượng đế không cần được thờ phượng, không cần được kính trọng, không cần được sợ hãi. Cho nên Thượng đế không đưa ra một tôn giáo đặc thù vì ngài cần đến tôn giáo đó. Thượng đế đưa ra một tôn giáo đặc thù vì có một nhóm người đặc thù cần đến tôn giáo đó.

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.

Khái niệm “tánh không” và “vô ngã” trong đạo Phật

Hỏi: Xin thày giải thích ý nghĩa thực sự của các khái niệm trong Phật giáo về “tánh không” và “vô ngã”. Đó có thật là những điều đức Phật Gautama đã dạy?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Cả hai khái niệm mà con nói đến đã được khai triển sau khi đức Phật Gautama nhập diệt. Vì vậy không hoàn toàn chính xác là đức Phật đã giảng dạy những khái niệm này như được tìm thấy hiện nay trong rất nhiều giáo lý của đạo Phật. Tuy nhiên, đức Phật có giảng dạy những khái niệm tương tự như tánh không và vô ngã.

Như ta có trình bày suốt trang mạng này, vấn đề thực sự trên hành tinh địa cầu là con người đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con người bị rơi xuống tâm thức này vì đã ăn phải trái cấm, là biểu tượng cho một trạng thái tâm thức nơi tất cả đều có vẻ tương đối. Điển hình là khái niệm thiện và ác, có nghĩa là thiện và ác tương đối với nhau. Ở cốt lõi tâm thức này là cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của mình, cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Chính cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn tâm linh của mình là nguyên nhân thực sự của mọi khổ đau. Khi dòng sống bắt đầu mất liên lạc với cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, nó đã phải dựng lên một loại ngã mới, một giả ngã, để lấp đầy khoảng trống vừa được tạo ra. Giả ngã này, thường được gọi là tự ngã hay tâm nhị nguyên, là nguyên nhân của mọi khổ đau mà dòng sống kinh nghiệm. Cũng chính cái ngã này đã làm nẩy sinh rất nhiều ý nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn, phiền não, dẫn đến đau khổ cho dòng sống.  

Mục đích của đường tu tâm linh là vượt qua giả ngã hầu dòng sống có thể tự do hợp nhất với cái ta tâm linh. Và đây là ý nghĩa thực sự của khái niệm vô ngã. Khi dòng sống đạt được trạng thái tâm thức này, nó đã vượt qua và bỏ lại cái giả ngã đã khiến nó cảm thấy tách rời khỏi cội nguồn tâm linh của nó.  

Trong trạng thái tâm thức cao hơn này, dòng sống nhận ra là nó được cấu tạo bằng chất liệu cơ bản của Thượng đế, hoặc như đức Phật sẽ nói, tất cả đều là Phật tánh. Dòng sống nhận ra sự vô nghĩa khi nghĩ rằng mình có thể có sự hiện hữu, hay một ý thức bản ngã tách biệt khỏi nguồn cội tâm linh.    

Khi đó, dòng sống không còn ý thức bản sắc như bị tách rời khỏi nguồn cội, và đây là trạng thái vô ngã. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi ý thức cá thể (individuality) hay bản sắc (identity). Cá thể đích thực của dòng sống được trụ neo nơi cái ta tâm linh, và cá thể đích thực này sẽ không mất đi khi giả ngã được từ bỏ. Kỳ thực, chỉ sau khi dòng sống đã vượt qua tự ngã phàm nhân thì nó mới có thể bắt đầu biểu hiện được cá thể đích thực của nó.

Ngoài ra còn có một khái niệm cao hơn nữa về vô ngã, là khi dòng sống cá biệt sẽ cuối cùng đạt tới hợp nhất với Thượng đế, một sự hợp nhất cao độ đến nỗi dòng sống chọn trở về tâm thức mà đạo Phật gọi là Niết bàn (Nirvana), mà ta gọi là cái Tất Cả. Dòng sống cá biệt lúc đó sẽ tự nguyên buông bỏ cả cá thể của mình để trở về trạng thái Là thuần khiết mà từ đó nó đã tuôn ra. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không mấy hữu ích đối với hầu hết mọi người đang đầu thai trên địa cầu vì họ còn rất xa mới có được lựa chọn hợp nhất với Tất Cả.  

Khái niệm về tánh không cũng có thể được hiểu ở những mức độ khác nhau. Cao hơn cả, tánh không có nghĩa là trạng thái Là thuần khiết, cái Tất Cả, cái không thị hiện nơi không còn bất cứ hình tướng hay biểu hiện nào.

Ở tầm mức cá nhân, tánh không có nghĩa là trạng thái tâm thức khi mình đã vượt qua tự ngã phàm nhân. Bằng cách vượt qua tự ngã, dòng sống chiêm nghiệm mọi ý tưởng và cảm xúc phiền não nẩy ra từ tự ngã đều trở nên im lặng.  Như vậy, dòng sống chứng nghiệm một trạng thái tự do, giải thoát khỏi tiếng ồn của trí thể và cảm thể, một trạng thái trống rỗng không còn tiếng ồn của tự ngã.

Một lần nữa, đây không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi cá thể, mọi nhận biết hay thậm chí cả những ý tưởng và cảm xúc. Chỉ đơn giản có nghĩa là dòng sống không còn những ý tưởng và cảm xúc mâu thuẫn dẫn đến khổ đau. Dòng sống nay được tự do chiêm nghiệm những ý tưởng và cảm xúc đích thực nẩy lên từ cá thể mà Thượng đế đã ban cho mình, dẫn đến sự an lạc tối hậu khi mình biểu hiện chính mình, tức là biểu hiện cái ta đích thực.

Ta cũng đã giảng dạy về trạng thái tâm thức này khi ta nói về Nước Trời ở trong con, và khi ta bảo mọi người đừng phán xét. Trong tâm nhị nguyên, con luôn nghĩ là con cần phán xét và dán nhãn mọi thứ theo tiêu chuẩn tương đối của con. Tất nhiên, tự ngã sẽ cả quyết rằng tiêu chuẩn này là một chân lý tuyệt đối, và đây chính là ảo tưởng nằm ở ngay trung tâm tự ngã. Nó khiến cho tâm con luôn luôn phán đoán, là trạng thái ồn ào nội tâm mà đức Phật gọi là cốt lõi của đau khổ. Tánh không thì ngược lại.

Con nên học tập những giáo lý của các chân sư về cái Ta Biết. Các chân sư giảng dạy về tỉnh giác thuần khiết, tức là khi con không còn tiêu chuẩn phán xét nào. Cái Ta Biết chiêm nghiệm mọi thứ như nó là – không có bất cứ phán đoán nhị nguyên nào về giá trị. Và như thế cái Ta Biết nhìn qua tâm Ki-tô. Cái Ta Biết có thể nhìn cuộc sống cách như thế – qua tâm thức Ki-tô – hoặc có thể nhìn cuôc sống xuyên qua phin lọc của tự ngã và ngã vỏ ngoài.

Thế nhưng như ta có nói, không một “người” nào có thể thăng trở lại thiên đàng trừ khi “người” đó đã đi xuống từ thiên đàng, có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên cho tới khi nó trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết mà nó đã đi xuống ở khởi đầu.

Phật giáo Tây Tạng nói không có hồn, chỉ có tâm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, Phật giáo Tây Tạng nói là không có hồn (soul) mà chỉ có tâm (mind). Cho nên con không hiểu. Có hồn nghĩa là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để bắc chiếc cầu băng qua hàng rào ngôn ngữ giữa các tôn giáo hay các truyền thống tâm linh khác nhau, con cần rất nhiều tế nhị và tâm không dính mắc. Điều được một tôn giáo mô tả bằng một từ có thể chính là điều mà một tôn giáo khác sẽ mô tả bằng một từ khác. Cho nên thật sự, con có thể nói rằng tất cả đều là tâm, vì hồn phát xuất từ đâu chứ? À, nó phát xuất từ tâm. Nó phát xuất từ cái tâm rộng lớn hơn của con, cái Ta Biết, và nó được tạo ra sau khi cái Ta Biết bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Cho nên con có thể nói rằng hồn được tạo ra từ tâm của con.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo là Phật giáo Tây Tạng nói chính xác, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là các truyền thống tâm linh khác khi nói về hồn đều nói sai. Các truyền thống đó chỉ sử dụng một từ khác cho cùng một thứ. Bởi vì thật sự ngay cả trong đạo Phật, cũng phải có một cỗ xe cho tâm đi xuống cơ thể vật lý và tương tác với cơ thể vật lý.

Maitreya có phải là đấng cứu tinh đích thực?

Hỏi: Có đúng chăng đức Maitreya [Phật Di Lặc] là vị cứu tinh sắp tới sẽ xuất hiện trong một biểu hiện không thể phủ nhận và sẽ đưa địa cầu cùng nhân loại vào một thời đại hoàng kim? Có đúng chăng đức Maitreya đã hiện thân trong cõi vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 23/11/2010. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con đọc các bài giảng của ta về con đường chân chính của Ki-tô, con sẽ thấy là chúng tôi các chân sư thăng thiên có mục đích đánh thức tất cả mọi người về nguồn gốc và tiềm năng thần thánh của mình bằng cách giúp con người khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng của phản-Ki-tô. Điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ không đến “cứu nhân loại” và cũng sẽ không xuất hiện trong một biểu hiện ngoạn mục mà không ai có thể chối cãi. Làm như vậy sẽ chỉ củng cố thêm cho ảo tưởng tách biệt, và điều này sẽ đi ngược lại sứ vụ thực sự của chúng tôi.

Nếu muốn hành tinh này được nâng lên để bước vào một Thời đại Hoàng kim, thì điều này sẽ không xảy ra do một thế lực bên ngoài – cho dù đó là chính ta, là Maitreya hay là một UFO (vật thể bay không xác định) nào đó sẽ ra tay làm mọi chuyện dùm cho loài người. Mà điều đó sẽ xảy ra do có một túc số tới hạn (critical mass) những con người trên hành tinh này phát hiện và nhận diện chính tiềm năng Ki-tô của mình. Thượng đế sẽ không giải cứu địa cầu qua trung gian của ta, mà Thượng đế sẽ giải cứu thế giới qua trung gian chính con cùng rất nhiều người giống như con – nếu các con trở thành những cánh cửa mở.

Cho nên lập luận cho rằng Maitreya sẽ hiện ra trong một biểu hiện thật ngoạn mục và sẽ giải quyết mọi vấn đề của nhân loại, là hoàn toàn không phù hợp với các chân sư thăng thiên cũng như với thời đại Bảo bình. Đó là một biểu hiện của tâm thức tha hóa thời Song ngư và từ lâu nay đã lỗi thời rồi. Đây là cùng cái tâm thức của các sinh thể sa ngã khi chúng tâng bốc ta lên thành một ngoại lệ để khiến mọi người không thể nào nắm bắt được thông điệp đích thực của ta rằng ai ai cũng đều có một tiềm năng Ki-tô.

Tương tự, lời cả quyết rằng Maitreya đã hiện thân vật lý cũng không phù hợp với lời dạy của đạo Phật về đức Phật tương lai. Maitreya sẽ không hiện thân như một người độc nhất. Maitreya sẽ có thể “hiện thân” qua nhiều người, là những người đã trở thành cánh cửa mở cho thày cùng ánh sáng và sự thật của thày. Tuy nhiên, điều này sẽ không hoàn toàn là một sự hiện thân, không hơn gì khi bảo rằng Thượng đế đã hiện thân qua chính bản thân ta khi ta đầu thai là một con người. Nói cách khác, sự viên mãn của một sinh thể thăng thiên sẽ không hiện thân qua một cá nhân hay ngay cả một nhóm người.

Nhịn ăn có là cách gia tốc sự tăng triển tâm linh?

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thày có ý kiến gì về việc nhịn ăn – theo nghĩa là kiêng hẳn mọi loại thức ăn – như một cách để gia tốc sự tăng triển tâm linh của một người? Ý nghĩ rằng con có thể sống 40 ngày nhịn ăn hoàn toàn như thày đã từng làm khi thày đi vào vùng hoang dã – cũng tương tự như nhiều người tầm đạo khác, những người tu khổ hạnh cùng những vị ẩn sĩ – đã gây rất nhiều cảm hứng cho con. Cho nên câu hỏi của con là như sau: Làm vậy có thể đem lại ích lợi hay tổn hại gì không? Làm thế nào một người có thể nhịn ăn mà không gây tổn hại cho bản thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 26/5/2011. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta thực sự không khuyến khích bất cứ ai tính chuyện nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày liền. Đơn giản là không có cách nào làm vậy mà không gây hại cho cơ thể của con, và làm vậy cũng không đem lại lợi ích tâm linh nào.

Đây là một hiểu lầm về câu chuyện ta đã sống 40 ngày trong sa mạc mà không ăn uống gì. Đối với bất kỳ khía cạnh nào của đời ta, con có thể có hai cách tiếp cận cơ bản. Một là cách tiếp cận hoàn toàn theo nghĩa đen, tức là con cho rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế đúng từng chữ một, cho nên bất cứ gì ghi chép trong kinh sách đều đã xảy ra y như mô tả. Với cách tiếp cận này, con sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa chân thực của các lời dạy cùng tấm gương của ta. Còn cách thứ hai là con nhận ra là ngay cả những sự việc gọi là cụ thể trong kinh sách cũng có ý nghĩa sâu xa hơn, và vì vậy con phải luôn luôn nhìn xa hơn cách diễn giải theo nghĩa đen. Vậy đâu là ý nghĩa sâu xa của việc ta sống 40 ngày ở vùng hoang dã?

Con có thể coi chuyện này minh họa cho sự tương phản giữa hai loại môi trường. Một đằng con có xã hội loài người, một môi trường nơi hầu như mọi thứ đều nằm dưới sự kiểm soát của luật lệ và tư duy con người. Đằng khác, con có “vùng hoang dã”, một môi trường không do con người điều khiển và gần gũi hơn với trạng thái tự nhiên. Cho nên đây là biểu tượng cho sự kiện ta đã rút lui trong một thời gian ra khỏi thế giới của các quy luật, các tín điều, các niềm tin cùng tư tưởng do con người tạo ra. Tuy nhiên, làm vậy không nhất thiết có nghĩa là ta đi vào thiên nhiên, vì con có thể làm vậy gần như ở mọi nơi miễn là con ở một nơi yên tĩnh và con tắt bớt các loại phiền nhiễu bên ngoài. Thậm chí con có thể ở ngay giữa thành phố, mặc dù điều này sẽ khó hơn một chút do tâm thức tập thể náo nhiệt hơn.

“Nhịn ăn” không nhất thiết liên quan gì đến thức ăn. Ta đã “nhịn ăn” bằng cách làm rỗng tâm mình cho không còn những ý tưởng nhân tạo, và như vậy ta đã tạo ra một khoảng trống giúp tâm mở ra đón nhận những ấn tượng trực giác từ một nguồn cao hơn, tức là từ Hiện diện Ta Sẽ Là và các vị thày tâm linh của ta.

Con có thấy điều ta muốn nói? Đâu là mục đích của con khi con muốn nhịn ăn? Nếu đó là để đạt đến một trạng thái tâm thức tâm linh hơn thì con đâu cần gì phải kiêng ăn. Con sẽ cần kiêng một vài loại thực phẩm nặng nề như thịt chẳng hạn, và con cần không ăn quá nhiều. Nhưng không nhất thiết con phải nhịn tất cả mọi thức ăn – và quả thực, làm vậy còn có thể phản tác dụng.

Con sẽ cần gì để có trải nghiệm tâm linh hơn? Tất cả mọi thứ trong đời con đều xoay quanh sự chú ý. Nếu chú ý của con tập trung vào việc thế gian thì con sẽ khó lòng hơn có được trải nghiệm tâm linh. Cho nên để có những trải nghiệm cao hơn, con cần hướng chú ý ra khỏi những chuyện nhân thế, kể cả cơ thể vật lý.

Thế nhưng thực tế đơn giản là việc nhịn ăn không phải là cách hay nhất để hướng chú ý ra khỏi cơ thể. Hầu hết những ai đã nhịn ăn toàn diện đều nghiệm được là việc nhịn ăn thật khó thực hành đến độ họ sẽ càng chú ý nhiều hơn đến cơ thể nếu họ nhịn ăn càng lâu. Cho nên ý nghĩa thực sự của “nhịn ăn” là con quay chú ý ra khỏi các vấn đề thế gian để tập trung vào những việc tâm linh. Nhưng ngay cả điều này cũng cần được hiểu một cách sâu sắc hơn. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng tập trung vào chuyện tâm linh có nghĩa là họ phải dùng trí năng để tìm hiểu một giáo lý tâm linh hay tu tập một kỹ thuật tâm linh nào đó.

Điều này, ở một mức nào đó trên đường tu, không cứ là vô giá trị, nhưng một khi con đạt đến những tầng cao hơn thì “nhịn ăn” thực sự có nghĩa là làm rỗng tâm mình và hòa điệu tâm với Hiện diện của con. Nhịn ăn có nghĩa là tập trung vào việc trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết để con thực sự trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện, có nghĩa là không có định kiến nào sẽ pha màu các ấn tượng từ Hiện diện gửi xuống. Con không thể làm được điều này ở các tầng thấp hơn trên đường tu, nhưng ở các tầng cao hơn, đây chính là mục tiêu chủ yếu của con.

Có hai điều đã xảy ra trong nhiều thế kỷ đã qua. Trước hết, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng đoạt bởi những kẻ chỉ biết hiểu theo nghiã đen, họ cho rằng mọi thứ phải được diễn giải theo nghĩa đen, theo định nghĩa của họ về nghĩa đen. Và thứ nhì, vào thời Trung cổ, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng chiếm bởi những kẻ chỉ biết coi cuộc sống là sự khổ đau.

Nếu con nhìn hầu hết các tác phẩm nghệ thuật vào thời đó, con sẽ thấy người ta vẽ hình ta bị treo thân trên thập tự giá, đang đau đớn vô cùng tận. Cho nên thay vì chú tâm vào lời dạy tích cực của ta – tức là ta đến đây để ban sự sống cho con người cùng sự sống dồi dào hơn nữa – thì đạo Cơ đốc đã chú tâm vào mấy tiếng đồng hồ ta bị khổ nạn trên thập tự giá. Thế rồi khởi lên niềm tin cho rằng chính khổ nạn của ta trên thập tự giá đã “mua chuộc” được sự cứu rỗi cho loài người qua việc, một cách nào đó, ta đã đền bù cho tội lỗi của mọi người.

Con dễ dàng thấy được là điều này đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin lâu đời cho rằng khi người ta hiến tế một con vật – bằng cách để nó chảy máu cho đến chết – thì người ta có thể trả tội cho chính mình. Niềm tin này ngược hẳn với lời dạy chân chính của ta, thế nhưng nó đã dần dần chi phối cái nhìn của con người về sứ mạng của ta. Kết quả là người ta dần dần tin rằng Thượng đế – mà ai nấy đều xem là thiện lành – đòi hỏi con phải đau khổ trước khi con có thể rửa sạch tội lỗi của con. Con có thể thấy được sự điên rồ của niềm tin này khi con xem xét điều sau đây. Con đã làm một việc gì khiến ai đó bị đau khổ. Con nhìn nhận sự kiện này, thế là bây giờ con tự nguyện đặt mình vào một tiến trình tạo đau khổ cho chính mình, vì con nghĩ cái khổ thứ nhì này sẽ một cách nào đó đền bù cho cái khổ đầu tiên kia.

Thế nhưng trong thế giới ngày nay, con biết rõ là mọi thứ đều là năng lượng. Con gây cho ai điều gì thì nó sẽ tạo ra một khối năng lượng tha hóa. Và khi con khiến con cũng phải đau khổ thì con lại tạo thêm năng lượng tha hóa nữa. Hai cái sai không tạo thành một cái đúng, vì năng lượng tha hóa không thể loại trừ năng lượng tha hóa. Cách duy nhất để bù lại tội lỗi của mình là tạo năng lượng tích cực, và quả vậy năng lượng tích cực có khả năng biến hóa năng lượng tha hóa. Nhưng nó chỉ làm được chuyện này nếu cả hai bên đều thực sự tha thứ cho nhau. Đây chính là tại sao ta nhấn mạnh đến việc tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Cho nên ý ta muốn nói là suốt nhiều thế kỷ, chính sự tập trung vào khổ đau đã khiến con người nghĩ rằng, bởi vì việc nhịn ăn tạo ra đau đớn, cho nên đó là một cách để con trả tội. Xong lại có thêm niềm tin bảo rằng con đau đớn càng nhiều thì con càng trả được nhiều tội. Rồi giờ đây người ta nối liền niềm tin này với quan niệm là ta đã nhịn đói suốt 40 ngày, thế là một số người tưởng rằng đó là phương cách tối hậu để đạt được đau đớn qua nhịn ăn. Thậm chí một số còn nghĩ là nếu họ bỏ mạng sau khi nhịn đói 40 ngày, nhất định họ sẽ được tưởng thưởng trên cõi thiên đàng. Họ nghĩ: “Chắc chắn tôi sẽ không chết.”

Con có thấy chăng đây là một sự hiểu lầm toàn diện? Trước hết, việc cố nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày sẽ khiến cho nhiều người bỏ mạng, và hiển nhiên việc tự vận không phải là cách đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Thứ nhì, những ai sống sót sau khi nhịn đói từng nấy ngày sẽ rốt cuộc tập trung gần như toàn bộ chú ý của mình vào nỗi đau của cơ thể, và điều này sẽ tước mất khả năng chú ý của họ ra khỏi việc làm cánh cửa mở cho Hiện diện. Vậy con được lợi gì khi làm vậy chứ? Thứ ba, việc cố tình gây ra đau khổ cho chính mình sẽ sản xuất năng lượng tha hóa sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Về con số 40 ngày, con cần suy xét sự kiện là cách đây 2000 năm, con người không có cùng khái niệm về con số như ngày nay. Trong thế giới hôm nay, hầu hết mọi học sinh đều hiểu được là người ta có thể đếm tới những con số rất cao. Chính các con đây khi còn nhỏ, có bao nhiêu người đã thử đếm đến một ngàn? Thế nhưng cách đây 2000 năm, đa số người lớn còn không biết đếm đến một ngàn chứ đừng nói tới chuyện hình dung ra con số này. Cho nên vào thời đó, người ta đơn giản không thể hiểu được những loại số mà ngày nay con thường dùng để tính toán món nợ quốc gia. Và ngay cả ngày nay, con sẽ thấy nhiều người khó lòng nào hình dung được số nợ khổng lồ của một quốc gia như nước Mỹ – vì đơn giản, con số quá lớn để có thể so sánh với bất cứ gì trong cuộc sống hàng ngày.

Có lẽ con có nghe nói là một số loài động vật không thể đếm nhiều hơn hai. Cũng giống như một số người thổ dân có thể phân biệt một với hai, nhưng bất cứ gì nhiều hơn hai thì họ sẽ gọi là “nhiều”. Cách đây 2000 năm có một cơ chế gần giống như vậy. Người ta có thể đếm đến một chục, nhưng bất cứ gì nhiều hơn đều được xem là “nhiều”. Từ được dùng vào thời đó nay được phương Tây dịch là “vô khối”, nhưng ngay cả từ “vô khối” cũng được dùng ban đầu để chỉ một số lượng không xác định, và chỉ ngày nay người ta mới gắn liền với một con số chính xác.

Cho nên khi Kinh thánh bảo rằng ta đã nhịn ăn 40 ngày thì con số thật sự không phải là 40. Đơn giản đó chỉ là một con số “nhiều” – ta đã trải qua nhiều ngày trong sa mạc.

Và sau đây là một điểm nữa. Ta đã đi vào vùng hoang dã – ta đã thật sự đi xa khỏi những nơi có người sinh sống – để có một trải nghiệm tâm linh, và ta đã chỉ ở đó vừa đủ lâu để có được trải nghiệm này. Và trong thời gian đó, ta đã ăn bất cứ thức ăn nào ta có thể tìm thấy để giữ cho cơ thể vừa đủ thoải mái mà không phải chú tâm đến cơ thể. Trái lại, ta giữ trọn sự chú ý xa khỏi mọi xao lãng bên ngoài để tập trung vào bên trong.

Cho nên nếu con cố bắt chước ta bằng cách cưỡng ép mình nhịn ăn 40 ngày liền, điều con thực sự làm là tự đặt mình vào một tâm trạng sẽ cản trở con đạt đến một trải nghiệm tâm linh đích thực. Bởi vì đơn giản, con sẽ không mở tâm ra và để yên cho trải nghiệm đó xảy ra theo nhịp riêng của nó, mà con sẽ tìm cách cưỡng ép nó. Và cái gì con cưỡng ép thì con cũng sẽ đẩy nó về phía trước mặt, giống như con lừa đẩy củ cà-rốt treo trên cái gậy trước mũi nó.

Bất cứ khi nào – ta nói rõ, BẤT CỨ khi nào – con tìm cách cưỡng ép một trải nghiệm tâm linh, thì con sẽ không có một trải nghiệm đích thực. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra cho các thế lực thấp kém, và quả thực chúng có khả năng cho con một trải nghiệm vượt trội trạng thái tâm thức bình thường của con, nhưng đó không phải là một trải nghiệm tâm linh đích thực vì nó không biến con thành cánh cửa mở cho Hiện diện của con hay cho các sinh thể thăng thiên. Suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã toan tính cưỡng đoạt thiên đàng bằng vũ lực và họ đã mở ra với các thế lực thấp kém mà cứ tưởng là mình vừa có một trải nghiệm tâm linh chân chính. Đó là tại sao những ai chưa quân bình, chưa có sự bảo vệ cá nhân cùng khả năng phân biện tâm linh (chưa phân biện được các linh thể), không nên toan tính chuyện nhịn ăn.

Con có thấy chăng là nhịn ăn có thể rất dễ dàng trở thành một trò chơi của tự ngã? Tự ngã muốn làm một chuyện gì đó cực đoan, vì hoặc nó muốn cao trội hơn người khác, hoặc thậm chí nó nghĩ nó có thể ghi điểm trước mắt Thượng đế.

Vì vậy để kết luận, cách nhịn ăn đúng đắn là con quay sự chú ý của con khỏi những gì đang kéo chú ý ra bên ngoài. Con cần làm rỗng tâm mình để con có thể là cánh cửa mở cho Hiện diện.

Cách duy nhất để thực hiện điều này là tiếp cận vịêc nhịn ăn y như con tiếp cận mọi chuyện khác trên đường tu: luôn luôn cố đạt được sự cân bằng. Đơn giản, đây là cách duy nhất để con vượt qua khai ngộ chạm trán với kẻ cám dỗ, như con sẽ làm mỗi khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn, hay như con cũng thấy khi ta từng bị ác quỷ cám dỗ sau “nhiều” ngày ở vùng hoang dã.

Con cũng cần nhìn ra là sẽ không xây dựng cho con nếu con chụp lấy những điều ta vừa nói ở đây để rút lui khỏi xã hội và tự cô lập mình. Việc rút lui trong một thời gian để thiết lập sự kết nối nội tâm với Hiện diện của con là một chuyện chính đáng, nhưng một khi con đã bắt đầu kết nối thì con có thể tham gia vào xã hội mà không đánh mất sự kết nối. Trong Thời Hoàng kim, các thày sẽ cần đến những người có khả năng tham gia vào xã hội mà đồng thời làm cánh cửa mở cho các tư tưởng từ cõi thăng thiên.

Thời nay, ta sẽ nói là cách quan trọng nhất để nhịn ăn KHÔNG PHẢI là từ chối ăn uống. Cách nhịn ăn tốt nhất là ăn đủ để cơ thể không là một vấn đề, và sau đó giữ cho tâm lánh xa khỏi toàn bộ hiện tượng “ô nhiễm thông tin” đang tấn công tới tấp con người hiện đại. Đối với con người hiện đại, trở ngại lớn nhất không phải là cơ thể vật lý, mà là tâm con bị kích thích quá đáng bởi đủ loại nguồn thông tin phóng tới con từ mọi phía.

Cho nên cách tốt nhất để nhịn ăn là tắt luồng thông tin đến từ ngoài. Sau đó con tắt sự oanh tạc nội tâm bởi chính tâm con, nó tạo ra đủ loại vấn đề để nó cố thuyết phục con phải giải quyết các vấn đề. Tất cả chỉ là chuyện theo dõi xem chú ý của con đang hướng về đâu. Vương quốc Thượng đế nằm ngay trong con, cho nên con sẽ không thể bước vào đó chừng nào con còn tập trung chú ý ra ngoài điểm tĩnh lặng bên trong con.

Vậy con hãy cố nhịn “thức ăn thông tin” trong một thời gian. Tin mừng là khi con nhịn không theo dõi những gì nhóm bạn của con đang làm trên Facebook, thì con sẽ không chết đâu con – cho dù là sau 40 ngày.

Sự thật về Chén Thánh – Giê-su bình luận về sách The Da Vinci Code

Câu hỏi của Kim Michaels: Thưa Giê-su, con vừa đọc xong quyển sách The Da Vinci Code (Mt mã Da Vinci) của Dan Brown, và con muốn hỏi thày về Chén Thánh (Holy Grail). Trong sách đưa ra luận thuyết rằng thật ra, Chén Thánh chính là Mary Magdalene, lúc đó đang mang thai đứa con của thày khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá. Mary Magdalene sau đó thoát được sang Pháp, nơi bà khởi đầu một dòng dõi hậu bối sau này có nối kết với một số hoàng tộc tại Âu châu. Liệu luận thuyết này có phần thực nào trong đó hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước hết, ta rất vui được thấy sách The Da Vinci Code đã được nhiều người chú ý và tìm đọc đến như vậy. Điều này cho thấy rất nhiều người sẵn lòng nhìn xa hơn những học thuyết của đạo Cơ đốc chính thống, và khao khát một hiểu biết cao hơn. Điều này cũng chứng tỏ là phần lớn sự hiểu biết tâm linh, mà trong các thời đại trước chỉ được truyền bí mật cho một số vị điểm đạo ở một cấp nào đó, bây giờ có thể được phổ biến rộng rãi hơn, và thật sự nó có thể trở thành sự hiểu biết chính mạch. Đó là một tin vui, và sự ưa chuộng quyển sách này là một trong số nhiều dấu hiệu cho thấy tâm thức loài người đang có sự chuyển đổi.

Bây giờ đến lượt tin buồn. Không có sự thật nào trong giả thuyết mà quyển sách đã đưa ra. Mary Magdalene không mang thai đứa con của ta khi ta bị đóng đinh. Cô ấy đã không đến Pháp, và do đó đã không khởi sự một dòng dõi được tiếp nối cho tới ngày nay.

Kim Michaels: Vậy có phải thày nói là truyền thuyết Mary Magdalene là Chén Thánh là một tin vịt? Thuyền thuyết đó ra đời như thế nào và tại sao?

Giê-su: Phải, truyền thuyết đó là hư cấu, nhưng nó không chủ ý là chuyện hư cấu. Những người đặt ra và lan truyền giả thuyết đó thật sự tin rằng có một số sự thật trong đó. Con phải hiểu là trong những thế kỷ sau khi ta bị đóng đinh, đã có rất nhiều huyền thoại và truyện kể được lưu truyền về ta. Một số truyện kể này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa về Ki-tô hay về một Thượng đế hiện thân làm người, và các truyền thống đó thì bắt nguồn từ những tôn giáo ngày nay bị xem là tôn giáo đa thần, tôn giáo ngoại đạo, trong khi kỳ thực đó là những lời dạy tâm linh phổ quát đã hiện hữu trong thế giới cổ đại song song với các tôn giáo chính mạch được biết đến nhiều hơn.

Giáo lý của môn phái Ngộ giáo (Gnostics) cũng chứa đựng một số truyền thuyết, và con sẽ thấy là phái này cũng có một số sách Phúc âm hay học thuyết mà họ bảo là đã nhận được từ nguồn gốc khải huyền thiêng liêng. Ta có thể nói với con là một số sách Phúc âm và giáo lý Ngộ giáo đã được tiếp nhận như là sự tiết lộ tuần tự đích thực đến từ uy lực của Thánh linh. Tuy nhiên, cũng có một số tín đồ Ngộ giáo đã nhận được những lời tiết lộ giả hiệu, y như ngày nay cũng có nhiều kẻ đồng bóng tiếp xúc với các linh thể thấp kém, hay thậm chí những tà thể độc hại, cố tình đánh lừa quần chúng bằng cách lan truyền những ý tưởng sai lầm.

Kim Michaels: Quyển sách cũng nói rằng Chén Thánh biểu tượng cho khiá cạnh nữ thiêng liêng, và thày đã hiện thân để nâng cao giới phụ nữ cũng như nữ tính thiêng liêng lên vị thế xứng đáng trong xã hội. Liệu có chút sự thật nào trong thuyết đó?

Giê-su: Có, quả là có phần nào sự thật trong đó, theo nghĩa là ta đã đến với niềm hy vọng đem lại sự bình đẳng tâm linh giữa hai phái, bằng cách nâng cao phụ nữ lên vai trò xứng đáng của mình. Ta đã có giải thích điều này một cách khá chi tiết trong câu trả lời về Mary Magdalene.

Tuy nhiên, ta đã không hiện thân chỉ để đem lại những thay đổi vỏ ngoài cho xã hội. Ta cũng đã đến để giúp con người hiểu ra cách duy nhất để trở thành một con người trọn vẹn và cân bằng là đạt được quan hệ đúng đắn giữa nam tính và nữ tính của dòng sống. Ta đã giải thích điều này tường tận trong bài giảng về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, một lần nữa, ta phải nói với con, Chén Thánh không phải là một người phụ nữ, không phải là Mary Magdalene và cũng không phải là nữ tính thiêng liêng.

Kim Michaels: Còn về Tu viện Scion (Priory of Scion) thì sao? Có thật là có một hội bí mật lưu giữ các tài liệu về đạo Cơ đốc ban sơ và nữ tính thiêng liêng?

Giê-su: Đã có một số hội kín, hay tổ chức bí mật, mọc lên trong thời kỳ Tòa án Dị giáo (Inquisition). Bất cứ khi nào có tình trạng một nhà cầm quyền độc tài trấn áp quyền tự do ngôn luận, thì con sẽ thấy xuất hiện một số hội kín nhằm bảo vệ những ai không chịu tuân theo đường lối cầm quyền.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thuở đó đã bảo trợ một vài hội kín dưới thời Tòa án Dị giáo, kể cả hội Chữ thập Hồng (Rosicrucians), hội Tam Điểm (Freemasons) cùng một số phường hội đã xây cất các nhà thờ lớn tại châu Âu.

Ta không nói ở đây là các hội này vẫn được bảo trợ ngày nay. Con cần hiểu là nếu một hội kín đã được thành lập vào thời Tòa án Dị giáo, thì có ích gì mà tiếp tục hoạt động này ngày hôm nay khi quyền tự do ngôn luận đã có mặt? Vào thời đó, một điều tương đối chính đáng đối với một hội kín là không rải truyền toàn bộ giáo lý tâm linh của mình cho quần chúng, mà chỉ trao một số giáo lý cao cấp cho một số đệ tử quyết tâm hơn trên đường tu tâm linh. Tuy nhiên chúng ta đã bước vào một thời đại khi giáo lý tâm linh có thể, và nên, được truyền đạt rộng rãi cho tất cả những ai sẵn lòng học hỏi.

Một hội kín dành một phần giáo lý cho đệ tử cấp cao là một chuyện, còn một hội kín cứ nhất định giữ kín mãi mãi là một chuyện khác hẳn. Chúng tôi các chân sư thăng thiên có thể đã bảo trợ một số hội kín do tình thế đòi hỏi, nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi ưa gì hội kín. Kỳ thực, chúng tôi thà là không có hội kín bởi vì trong những hội như vậy, sự kín đáo luôn luôn mời mọc sự lạm dụng quyền hành. Thật là quá dễ cho một nhóm ưu tú nhỏ hẹp, là nhóm chóp bu đứng đầu tổ chức bí mật đó, lạm dụng quyền lực của mình. Thật sự, các thành viên của một tổ chức như vậy không có cách chi phản đối giới lãnh đạo lạm dụng, bởi vì mọi chuyện có thể được giấu giếm, viện cớ là tổ chức hay giáo lý phải tiếp tục được giữ bí mật.

Xét về Tu viện Scion như được mô tả trong sách The Da Vinci Code, đâu là ích lợi của một hội kín cứ giữ bí mật giáo lý hay tài liệu môt cách vĩnh viễn? Con có thể hiểu được sự ích lợi của việc giữ bí mật để thoát khỏi sự đàn áp của Giáo hội Công giáo và nhờ vậy lưu giữ được thông tin cho hậu thế. Nhưng nếu thông tin đó cứ giữ hoài hoài vĩnh viễn thì mục đích của hội là để làm gì? Tại sao không chỉ tiêu hủy các tài liệu đó đi thì có phải bí mật đó sẽ không bao giờ lọt được vào tay kẻ xấu? Một trong những vấn đề của một hội kín là nó dễ dàng đánh mất mục đích nguyên thủy của nó và chỉ cốt tồn tại hầu tồn tại. Nói cách khác, mục đích duy trì hội kín trở thành quan trọng hơn là việc bảo tồn những giáo lý tâm linh mà nó tưởng là nó nắm giữ.

Ta đồng ý với lập luận đưa ra trong sách rằng nếu một hội kín đang nắm giữ một giáo lý bí mật về Ki-tô, thì bí mật đó cần được tiết lộ trong thời đại hôm nay, vì giờ đây đã có tự do ngôn luận cũng như những phương tiện truyền thông tốt hơn bao giờ hết. Còn cách nào hay hơn để bảo tồn một giáo lý là đưa nó lên internet nơi mọi người có thể đọc được? Nếu để một giáo lý quý giá trong tay một nhóm nhỏ bé thì luôn luôn có hiểm họa nó sẽ bị đánh mất, y như những gì cốt truyện trong sách mô tả.

Kim Michaels: Thế còn các giáo phái tôn thờ sinh sản cùng những nghi lễ tình dục được mô tả trong sách thì sao? Những loại nghi lễ đó hay những giáo lý đằng sau nghi lễ có giá trị gì hay không?

Giê-su: Có sự mâu thuẫn cốt lõi khi một tổ chức tuyên bố là mình bảo tồn bí mật về Ki-tô mà lại đồng thời cử hành những nghi lễ tình dục không bao giờ xuất phát từ bản thân ta, và cũng chẳng bao giờ liên quan gì đến đạo Cơ đốc. Đây là cùng một loại mâu thuẫn như khi bảo rằng Leonardo da Vinci là người cầm đầu bí mật của một tổ chức thờ phượng nữ tính thiêng liêng, trong khi ông là một người đồng tính.

Đã từng có một số tôn giáo cổ xưa có truyền thống thờ phượng nữ tính thiêng liêng, và trong khuôn khổ sự thờ phượng đó, một số giáo phái đã có những nghi lễ tình dục. Nhưng những loại nghi lễ này không bao giờ nằm trong đạo Cơ đốc, cũng như không bao giờ được ta khoan thứ. Trước khi đạo Cơ đốc ra đời, có những lời dạy phổ quát đã có mặt rồi, trong đó một số có giá trị. Một số lời dạy thờ phượng nữ tính thiêng liêng có giá trị. Tuy nhiên, chuyện cử hành nghi thức tình dục như được mô tả trong sách The Da Vinci Code (hoặc một số biến thể của các nghi thức đó), thì không có giá trị tâm linh nào cả. Tác dụng thật sự của những nghi thức đó là lấy ánh sáng của các tham dự viên, đưa nó qua trung gian những người làm chủ lễ để nuôi béo những con quỷ hay tà thể đứng đằng sau.

Lực tình dục, hay ánh sáng Kundalini theo tên gọi tại phương Đông, là một dạng năng lượng vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy các tà lực đã nghĩ ra nhiều phương cách để khiến cho con người dùng sai năng lượng này rồi trao ánh sáng cho tà lực. Một trong những cách thức trắng trợn nhất là kỹ nghệ quảng cáo và giải trí thời nay. Có nhiều hình thức tự xưng là giải trí nhưng chỉ là những loại nghi thức tình dục trá hình không hơn không kém, nhằm đánh cắp lực sống của những ai ham mê chuyện này mà hoàn toàn không biết mình đang bị cưỡng hiếp tâm linh.

Kim Michaels: Một truyền thuyết nữa về Chén Thánh đã sống sót suốt bao nhiêu thế kỷ nói rằng Chén Thánh chính là cái ly mà thày đã dùng trong bữa tối cuối cùng. Người ta cho là cái ly này có quyền năng kỳ diệu đem lại sự sống vĩnh hằng cho bất cứ ai uống vào. Truyền thuyết có gì là thật hay không?

Giê-su: Huyền thọai này cũng khởi đầu trong mấy thế kỷ tiếp theo sau việc ta bị hành quyết, và những người loan truyền nó cũng tin là nó có phần sự thật trong đó. Một lần nữa, đây là kết quả của một trí tưởng tượng quá năng động, không hoàn toàn hiểu được những bí ẩn của Ki-tô, cho nên đã cố tạo ra một hình dạng cụ thể cho những bí ẩn này qua cái Chén của Ki-tô.

Quả thật là ta có dùng một cái ly vào buổi ăn tối cuối cùng. Cái lý đó, mẹ yêu dấu của ta đã mang đến Glastonbury tại Anh quốc và cất giấu ở đó. Bây giờ xin con đừng hỏi là nó được cất giấu ở đâu và làm thế nào mà tìm lại được, bởi vì sự thật là nó không tồn tại nữa.

Tuy nhiên, cái ly đó không có quyền năng phép lạ như người ta gán cho nó. Con chi cần dùng chút lôgíc thì đã có thể phát hiện ra sự thật. Tất cả các môn đệ của ta đã uống từ ly đó trong bữa tối cuối cùng. Vậy tại sao người ta lại nghĩ rằng, nếu “Chén Thánh” đó đã không đem lại sự sống vĩnh hằng cho môn đệ của ta – là những người đã uống từ ly đó tận tay ta – thì làm sao nó có thể đạt được quyền năng kỳ diệu bao nhiêu lâu sau?

Kim Michaels: Vậy nếu Chén Thánh không phải là Mary Magdalene, không phải là nữ tính thiêng liêng, cũng không phải là cái chén cụ thể nào cả, thì đó là cái gì? Có sự thật nào đằng sau truyền thuyết Chén Thánh hay không? Bởi vì nói thật, những truyền thuyết này đã sống rất dai dẳng khiến nhiều người bị ám ảnh phải đi tìm Chén Thánh. Liệu tất cả những người đó chỉ chạy theo bóng ảo ảnh, hay là có một thực tại ẩn giấu mà người ta chưa hiểu ra?

Giê-su: Trong ý tưởng Chén Thánh có một thực tại, một thực tại đã được giữ kín khỏi mắt quần chúng từ nhiều thế kỷ, vì chúng tôi các chân sư thăng thiên thấy rằng con người chưa sẵn sàng nắm bắt được chân lý đó – như được chứng tỏ qua sự kiện biết bao người đã đi theo giáo điều vỏ ngoài của đạo Cơ đốc chính thống thay vì nhìn vào ý nghĩa tâm linh nội tâm của Cơ đốc giáo. Vì vậy chúng tôi đã vui lòng để cho người ta tìm kiếm Chén Thánh như một đồ vật bằng vật chất, một cái Chén của Ki-tô.

Như ta đã giải thích trên trang mạng của ta, và đặc biệt trong bài giảng về các chu kỳ tâm linh, nhân loại ngày nay đã vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên đã đến lúc tiết lộ bí mật thực sự của Chén Thánh, và ta vui lòng làm điều đó ở ngay đây. Con có nhớ chăng là trong sách The Da Vinci Code có nói đến sự kiện là con không tìm thấy Chén Thánh mà Chén Thánh tìm thấy con?

Kim Michaels: Con nghĩ đó là một câu nói vô cùng thâm sâu. Con cũng giật mình là câu đó nghe khá giống một câu rất quen thuộc là, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện.

Giê-su: À ngay đó con có bí mật của Chén Thánh. Kỳ thực, Chén Thánh là cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Cho nên Chén Thánh là yếu tố cho phép một người, một đứa con của loài người, nâng cao tâm thức mình lên đến mức tâm thức của Ki-tô và trở thành một đứa con của Thượng đế.

Về mặt cá nhân, Chén Thánh chính là cái ta Ki-tô của con. Chỉ qua cái ta Ki-tô con mới có thể thị hiện tâm thức Ki-tô, và chỉ qua tâm thức Ki-tô con mới có thể đạt được sự sống vĩnh hằng bằng cách trở thành một sinh thể thăng thiên.

Chén Thánh cũng có thể là một vị thày tâm linh. Một vị thày như thế có thể là một sinh thể thăng thiên, hay một người đang đầu thai tạm thời phụng sự như một vị thày thế chân cho cái ta Ki-tô cho đến khi đệ tử sẵn sàng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là nhận ra vị thày vỏ ngoài đó không bao giờ được trở thành một thần tượng thay thế vị thày nội tâm là cái ta Ki-tô.

Nếu con cho phép một vị thày vỏ ngoài hay, như nhiều người đã làm, một đồ vật, một hoc thuyết hay một giáo hội vỏ ngoài thay thế vị thày nội tâm, thì con đã đi theo “con đường có vẻ đúng cho con người nhưng thực sự là con đường của sự chết.” Và cái đó trở thành con đường vỏ ngoài mà ta đã mô tả rất tường tận trong các bài giảng của ta.

Con có thể nhận thấy là ta đã giảng day cho số đông quần chúng qua những chuyện ngụ ngôn, và lý do là vì họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý nội tâm của ta. Đó chính là những người đã bị cuốn hút vào ý tưởng Chén Thánh là một cái chén, một đồ vật vật lý. Và họ nghĩ, ước gì mình tìm được chén đó thì chỉ cần uống vào là sẽ tự động có sự sống vĩnh hằng và không phải mất công tu tập công phu trên con đường khai ngộ tâm linh. Đó thực sự là giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động, bảo đảm – giấc mơ viển vông vĩ đại nhất trên hành tinh này.

Cho dù một số người tìm cách đoạt thiên đường bằng vũ lực, thật là không có con đường tắt. Con sẽ không bao giờ nhập được thiên đàng mà không đi theo con đường nội tâm dẫn đến tâm thức Ki-tô. Nếu con không mặc vào bộ áo cưới, con sẽ không thể ngồi vào bữa tiệc cưới, và con sẽ thấy mình trong bóng tối bên ngoài, chân tay bị trói chặt lại bởi những vết thương tâm lý và tin tưởng sai lầm của con.

Ngay cả quan niệm cho rằng Chén Thánh là một người nữ, và một người nam có thể đạt được kết hợp với Thượng đế qua sự kết hợp tình dục với một người nữ, cũng là giấc mơ cứu rỗi tự động. Tuy nhiên, có một chút sự thật ở đây, theo nghĩa là khi một người đạt được sự cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống, người đó – dù là nam hay nữ – cũng sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy tâm thức Ki-tô, và điều này sẽ dẫn đến hợp nhất với Thượng đế. Giấc mộng rằng sự hợp nhất với Thượng đế có thể được sản xuất một cách tự động và đảm bảo qua kết hợp tình dục, là lời gian dối đằng sau cách thực hành tình dục Tantra đã đặc biệt phổ biến tại phương Đông. Con hãy lưu ý là ta không hề nói triết lý đánh thức Kundalini là sai trái, hoặc điều này không thể thực hiện qua tình dục, mà ta nói rằng đó không phải là một kết quả tự động của kết hợp tình dục.

Trên hành tinh này luôn luôn đã có những kẻ muốn chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực, muốn sản xuất sự giác ngộ tâm linh mà không chịu làm công việc chữa lành tâm lý của mình cũng như thanh lọc tâm trí lẫn con tim. Đây là những người không sẵn sàng nhận sự thật về Chén Thánh. Đây là những người đã đeo đuổi từ hàng bao thế kỷ một đồ vật vỏ ngoài hay một bí mật huyền bí nào đó sẽ tự động cho họ sự sống vĩnh hằng. Bí mật của sự sống vĩnh hằng là kết hợp với cái ta Ki-tô của con, nhưng sự kết hợp này sẽ không bao giờ là kết quả tự động của những hành vi vỏ ngoài. Kết hợp đó là sự kết hợp thần bí nội tâm mà biết bao triết lý tâm linh chân thực khắp thế giới đã nói tới.

Khi ta ở một mình với các môn đệ, ta thường giảng dạy nhiều điều, kể cả sự kiện mỗi con người đều có một cái ta Ki-tô và đều có khả năng hợp nhất với cái ta Ki-tô đó. Thế nhưng ngay cả các môn đệ của ta cũng không thể nắm được hoàn toàn chân lý đằng sau lời dạy này. Đó là tại sao ta đã ban cho họ một nghi lễ vỏ ngoài gọi là nghi lễ Bẻ bánh của sự Sống để họ tưởng nhớ đến ta. Ý nghĩa nội tâm chân chính của nghi lễ này là Bánh của sự Sống chính là tâm thức Ki-tô toàn vũ đã được bẻ ra cho mỗi người dưới dạng cái ta Ki-tô cá nhân nơi mỗi người.

Khi đó, cái ta Ki-tô cá nhân trở thành cái chén chứa đựng huyết – huyết là biều tượng cho dòng tâm thức của tâm Ki-tô toàn vũ. Khi dòng sống của con hợp nhất với cái ta Ki-tô, con nâng chén lên – là cái chén của toàn bộ tâm trí và toàn bộ dòng sống – và như vậy, dòng tâm thức Ki-tô toàn vũ sẽ bắt đầu tuôn chảy xuyên qua con. Mọi ý tưởng, cảm xúc và hành động của con giờ đây được xây dựng trên tảng đá của Ki-tô, tức tâm thức Ki-tô, thay vì trên bãi sa lầy của tâm thức phàm phu.

Do đó chúng ta có thể nói là khi con thật sự tìm ra Chén Thánh trong kết hợp thần bí với cái ta Ki-tô, con cũng đã trở thành chính Chén Thánh vậy. Con trở thành cái chén của Ki-tô mà qua đó tâm thức Ki-tô toàn vũ có thể giảng dạy và trao ánh sáng cho người khác. Và chúng ta cũng có thể nói, con không thể tìm thấy Chén Thánh, mà con có thể trở thành Chén Thánh. Con trở thành cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu như ta đã từng là như vậy khi ta còn hiện thân.

Đó là bí mật đích thực của Chén Thánh mà người ta đã đi tìm suốt 2000 năm qua. Nếu họ để ý đến một trong những lời dạy quan trọng nhất của ta, thì họ đã không đi tìm bên ngoài chính họ. Lời dạy đó là, Nước Trời ở ngay trong con. Nó chứng tỏ cho con thấy Chén Thánh phải tìm kiếm bên trong con, bên trong tâm con, bên trong tâm thức của con.

Ta cũng xin nói là truyền thuyết Chén Thánh cũng đã thật có ích lợi ở chỗ nó đã giúp cho nhiều dòng sống giữ được tập trung vỏ ngoài vào một niềm khao khát bên trong đích thực hầu đạt tâm thức Ki-tô. Cho nên ta không bảo là có gì sai trái khi người ta ao ước Chén Thánh. Vấn đề xảy ra là nhiều người đã chú mục vào một đồ vật bên ngoài thay vì tìm kiếm một cách hiểu thâm sâu hơn.   

Ta cũng biết nhiều người sẽ thấy lời giải thích của ta không được lãng mạn và màu mè bằng truyền thuyết. Nhưng nếu họ chuyển dời tâm thức khỏi trọng tâm vào thế giới vật chất để tập trung vào thế giới nội tâm, thì họ sẽ khám phá ra cuộc hành trình nội tâm cùng với Ki-tô sẽ lãng mạn, hứng thú và thỏa nguyện hơn gấp bội việc đeo đuổi một cái chén.

Ta chính là Chén Thánh.
Hãy bước vào trong tim và tìm ta.
Nếu con tìm ta với tim tinh khiết và tâm cởi mở, con sẽ tìm thấy ta.
Khi đó, chắc chắn ta sẽ cho con sự sống vĩnh hằng.

Một nhà thờ cho người da đen có cần thiết không?

Hỏi: Kính chào thày Giê-su, con là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu, lớn lên trong một giáo hội Baptist. Con không còn tự nhận mình là một tín đồ Cơ đốc nữa vì con nhận thấy giáo lý không đồng điệu với con người nội tâm của con. Một số câu hỏi của con đã không có câu trả lời và cuối cùng con đã phải đi tìm một giáo lý cao hơn.

Theo nhận xét của con, tín đồ trong các giáo hội của người da đen thường đặt các mục sư/chức sắc/giám mục của họ lên đài cao và tôn thờ họ như thể họ là Thượng đế. Khi họ thuyết pháp, nhiều lãnh đạo các giáo hội da đen lên án người đồng tính luyến ái, khiến cho những người này cảm thấy như mình nhơ nhuốc dưới mắt Thượng đế, không xứng đáng được Thượng đế thương yêu. Tiếc thay, nhiều tín đồ trong giáo hội lại mù quáng đi theo giáo lý hận thù như vậy, và chu kỳ phán xét cứ không ngừng tiếp diễn.  

Gần đây đã có những lời cáo buộc đối với một nhà truyền giáo da đen vô cùng quyền thế về việc ông đã có quan hệ bất chính với một số thanh niên. Trớ trêu thay, nhà truyền giáo này cũng là một người chống đối kịch liệt vấn đề đồng tính và hôn nhân đồng tính. Vậy câu hỏi của con là như sau: là con người, làm thế nào chúng con tìm được con đường trung hòa để đi theo tín ngưỡng của mình và không đặt trọn niềm tin vào con người? Người da đen phải làm gì để hiểu ra là việc hò hét từ trên bục giảng trong khi đeo trang sức bạch kim và kim cương và đi xe trị giá $100,000 đậu ngay giữa đường vào nhà thờ, hoàn toàn không chứng minh được mối liên kết trực tiếp, chân phước và hồng ân từ Đấng Sáng tạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2011.

Con hãy cho ta dùng câu hỏi này của con để đặt ra một câu hỏi rộng lớn hơn: Có cần nhà thờ Ki-tô giáo dành riêng cho người Mỹ gốc châu Phi hay không – có nhu cầu nào cho một nhà thờ của người da đen?

Nhưng đầu tiên, chúng ta hãy xem xét tại sao con người lại có khuynh hướng miệt thị người khác. Có một số mục sư trong các giáo hội cực chính thống (fundamentalist) – cả Mỹ gốc châu Phi lẫn da trắng – lên án đồng tính luyến ái trong khi chính bản thân họ lại có những vấn đề tình dục.

Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn vấn đề đồng tính, con sẽ thấy là đằng sau đó có cả một cơ chế tâm lý phổ biến gọi là vật tế thần. Cơ chế này đặc trưng cho một loại tổ chức nhất định, không cứ là tổ chức tôn giáo. Một ví dụ điển hình trong lịch sử là chủ nghĩa Quốc xã, nhưng đã có rất nhiều loại tổ chức áp bức khác cũng đã phân biệt một nhóm người đặc thù nào đó, hay cả những cá nhân, hầu biến họ thành những con dê tế thần.

Tại sao họ lại biến người khác thành vật tế thần? Tại sao họ không nghe lời dạy của ta là KHÔNG được chú tâm vào cái giằm trong mắt người anh em? Phải, luôn luôn là vì họ không chịu nhìn vào cái xà trong mắt họ.

Họ sử dụng việc lên án người khác để không ai chú ý đến họ cùng những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý họ. Bởi vì trên căn bản, bất cứ điều gì mà con phóng chiếu lên người khác cũng phản ánh những vấn đề chưa giải quyết trong chính tâm lý của con.

Con thấy có sự thiếu tự tin trong tâm lý của những người đó. Nhưng hơn thế, con cũng thấy là họ không sẵn sàng làm công việc cải thiện bản thân để trau dồi lòng tự tin đích thực. Và sự thiếu sẵn sàng này được họ “bào chữa” bằng cách tạo ra một hình tư tưởng bảo rằng con người không thể tự cải thiện do đã bị đối xử tàn nhẫn, bị áp bức hay bị chà đạp. Những người như vậy có cái nhìn rất cứng nhắc về cuộc sống. Họ nghĩ là họ bị hạn chế trong một địa vị nhất định nhưng họ vẫn cho là họ sẽ được cứu rỗi, một phần là vì vật tế thần của họ có địa vị thấp hơn, và phần khác vì họ có những lãnh đạo “cao cả” đã hứa hẹn sẽ đưa họ lên thiên đàng.  

Trong bất kỳ tổ chức nào, người lãnh đạo cũng tương xứng với các thành viên, nghĩa là lãnh đạo luôn luôn là một tấm gương cực đoan của những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa nơi đa số các thành viên của tổ chức. Do đó trong một tổ chức nhà thờ, cách cư xử của mục sư là sự phản ánh của tâm lý chưa giải tỏa trong hội chúng.

Ta không muốn nói là nếu một nhà thờ lên án người đồng tính thì điều này cho thấy phần lớn tín đồ đều có khuynh hướng đồng tính. Nhưng nó cho thấy là đa số hội chúng có những tâm lý chưa được giải tỏa mà họ không chịu xem xét, và vì vậy họ mới sẵn sàng lên án người khác để cảm thấy mình không cần phải xem xét chính mình. Đây là “tư duy bị ức hiếp”, qua đó con cảm thấy sâu xa là con có một điều gì đó không ổn dưới mắt Thượng đế, nhưng nếu con có thể làm như có nhóm nào khác còn tệ hơn mình nữa thì con cảm thấy Thượng đế sẽ chấp nhận con vì con không đến nỗi tệ như nhóm dê tế thần kia.

Khi con xem xét kỹ hơn, con sẽ thấy đây là một tư duy vô cùng phi lôgíc. Đây là cách nhìn chỉ thấy khuyết điểm, tức là con biết con không đáp ứng tiêu chuẩn mà con nghĩ Thượng đế đang sử dụng, nhưng thay vì đặt trọng tâm vào việc tự cải sửa, con lại tìm cách kéo thấp người khác. Nếu con đưa quan điểm này đến sự cùng cực hợp lý của nó, con như đang bảo rằng: “Đồng ý, chúng tôi không đủ tốt để được cứu rỗi, nhưng Thượng đế phải cứu một ai đó chứ, cho nên nếu chúng tôi khiến cho kẻ khác có vẻ tồi tệ hơn mình thì ngài sẽ phải chọn chúng tôi thôi.”

Vấn đề là Thượng đế không bắt buộc phải cứu rỗi bất kỳ một ai. Ngài đã ban quyền tự quyết cho mọi người, cho nên chính những chọn lựa của mỗi người sẽ định đoạt người đó sẽ được cứu rỗi hay không.

Đằng sau tư duy bị ức hiếp là niềm tin cho rằng một người vào được Nước Trời hay không là do những gì người đó đã làm hay không làm. Nhưng rõ ràng ta đã dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con. Và cái ở ngay trong con chính là trạng thái tâm thức của con, tức là con có vào được Nước Trời hay không là hoàn toàn do trạng thái tâm thức của con định đoạt. Vào được Nước Trời có nghĩa là con ở trong chính tâm thức LÀ Nước Trời.  

Trong vương quốc của Thượng đế, mọi sự sống là một – “Ta và Cha ta là một” – cho nên khi nào con còn nghĩ con phải phán xét người khác thì con không thể ở trong trạng thái tâm thức thấy được tính duy nhất của mọi sự sống. Bởi vì khi con thấy mọi sự sống là một, con chỉ có thể cố gắng nâng mọi sự sống đi lên mà thôi. Vì vậy, khi nào con còn phán xét hay cảm thấy nhu cầu bài bác hay thay đổi người khác, con sẽ không thể bước vào Nước Trời, như thày Portia vừa giải thích thật hùng hồn.

Nếu con hiểu giáo lý và sứ vụ nguyên thủy của ta, con sẽ thấy là đường tu mà ta từng giảng dạy và chứng tỏ – tức là Đạo, là con Đường – nhắm đặc biệt đến những ai sẵn lòng thăng vượt tư duy bị ức hiếp đó để hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của mình. Con cũng có thể thấy là vào thời đó, không có nhiều người đầu thai sẵn sàng đi theo con đường này. Cho nên nếu những lời dạy nguyên thủy của ta được bảo tồn thì đạo Ki-tô đã không bao giờ trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới. Và thật vậy, ta không bao giờ có ý định lập ra một tôn giáo được dùng để giam con người trong tư duy bị ức hiếp.

Cho nên sự thật phũ phàng là như sau: Lý do đạo Ki-tô đã trở thành một tôn giáo toàn cầu là vì có một số kẻ trong tầng lớp thượng lưu quyền lực của Đế quốc La mã đã nẩy ý là họ có thể dùng một dạng tha hóa của giáo lý của ta để áp bức quần chúng tới mức cùng cực. Hình thức áp bức cùng cực là khi người dân hoàn toàn bị kiểm soát bởi một giai cấp thượng lưu quyền lực trên thế gian mà cứ tin chắc là nếu mình đi theo các lãnh đạo thế gian đó thì mình sẽ bảo đảm được bước vào vương quốc trên thiên đàng. Điều này đặc biệt hấp dẫn đối với những ai có tư duy bị ức hiếp, những người không chịu nhận trách nhiệm về bản thân mình mà cứ muốn làm người mù đi theo những người mù.

Trong thế giới ngày nay đã có nhiều dòng sống hơn sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình trên trái đất cũng như về sự cứu rỗi của mình. Con có thể tìm thấy những người như vậy trong mọi đoàn nhóm, nhưng tất nhiên là không đồng đều. Hay nói cách khác, một số nhóm có một tỷ lệ khá thấp những dòng sống đã trưởng thành tâm linh bởi vì nhóm chủ trương tán thành lối tư duy thịnh hành nói trên.

Con có thấy điều ta muốn nói chăng? Không hề có dòng sống nào gọi là dòng sống da đen, hay dòng sống da trắng, hay dòng sống gốc Tây ban nha, hay dòng sống da đỏ, hay dòng sống da vàng, hay dòng sống chấm xanh chấm đỏ gì hết. Thế nhưng trong mỗi đoàn nhóm đều có những dòng sống ở những mức độ trưởng thành khác nhau. Và nếu một nhóm có một bản sắc tập thể làm nhụt chí những ai muốn nhận lấy trách nhiệm bản thân – tức là nếu nhóm mang tư duy bị ức hiếp – thì nhóm đó sẽ thu hút những dòng sống thiếu trưởng thành, vì lý do giản dị là những người này sẽ tìm được đúng những gì họ mong muốn, tức là một cái cớ toàn hảo để không phải nhận lãnh trách nhiệm về chính mình.  

Nếu con nhìn người Mỹ gốc châu Phi một cách trung thực – cũng như nhiều nhóm người ngay tại Phi châu – con sẽ nhận thấy một xu hướng tư duy bị ức hiếp. Như một tập thể, người Mỹ gốc châu Phi đang củng cố, tăng cường cho ý niệm bản sắc coi mình là thành phần bị thiệt thòi, bị khinh miệt và ngược đãi. Và như với tất cả mọi thứ khác, một thái độ như vậy sẽ biến thành một vòng ốc xoáy hướng hạ, tự nó cứ nuôi cho lớn mạnh thêm hoài.

Điều điển hình với các thành viên của những nhóm như vậy là họ không muốn có sáng kiến, không muốn khởi xướng, không muốn nổi bật khỏi đám đông. Hậu quả là họ sẽ thần tượng hóa lãnh đạo của họ, đặt lãnh đạo lên trên bệ cao và tin rằng lãnh đạo sẽ không bao giờ lầm lẫn. Lý do là vì chỉ khi nào con đi theo một nhà lãnh đạo không thể sai lầm thì con mới có thể tin rằng lãnh đạo đó sẽ đưa con lên tận thiên đàng.

Làm thế nào phá vỡ được vòng ốc xoáy cứ tự bồi thêm sức mạnh như thế? Có hai cách. Một cách là nhóm đó thu hút những lãnh đạo yêu thích được thần tượng hóa, và thường khi họ cũng nghĩ mình là bất khả sai lầm. Loại lãnh đạo như vậy sẽ không tránh được trở thành tâm điểm cho toàn bộ tâm thức tập thể của nhóm, cho nên họ sẽ trải bày ra những tâm lý chưa giải tỏa của tập thể. Điều này có thể biểu hiện qua những chiếc xe hay đồ trang sức thật hào nhoáng, những hành vi phản ánh xu hướng đồng tính ẩn giấu, hay nó cũng có thể biểu hiện qua chuyện ngoại tình, cờ bạc, phim ảnh khiêu dâm, hoặc bất kỳ cách hành xử nào không phù hợp với những gì người lãnh đạo luôn rao giảng.       

Nói cách khác, bất kỳ hình tư tưởng nào mà nhóm đó đã tạo ra như là một điều kiện để lên được thiên đàng cũng sẽ bị lãnh đạo của họ phá vỡ tan tành qua cách hành xử của lãnh đạo, hầu ai nấy bắt đầu nhìn ra là việc tôn thờ một thần tượng không dẫn tới đâu, và chính họ mới cần nhận lấy trách nhiệm cho bản thân họ. Các thành viên trong nhóm có được cơ hội xem xét những phần tâm lý chưa giải tỏa trong bản thân họ.

Cách thứ nhì có thể giúp ích cho các thành viên là họ nhìn thấy một số gương sáng tích cực trong nhóm họ. Ngay bây giờ đây, người Mỹ châu Phi có một cơ hội độc đáo để vượt qua tư duy bị ức hiếp vì Tổng thống Hoa kỳ là một người da đen. Trong chính quyền trước, con cũng đã thấy Colin Powell, một tấm gương xuất sắc của một người Mỹ gốc châu Phi đã vượt lên trên tư duy bị ức hiếp. Và tất nhiên, còn có tấm gương của Oprah Winfrey cùng với nhiều người khác nữa.

Nếu con nhìn xem điều gì đã khiến cho những vị đó, cũng như nhiều người Mỹ gốc châu Phi khác, đóng góp vượt bực cho xã hội, con sẽ thấy một điểm vô cùng thâm sâu. Hoa kỳ là một xã hội với nhiều phe nhóm nhỏ lẻ và một mức độ hiềm khích chủng tộc cao hơn bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác. Thế nhưng các hiềm khích đó thật sự chỉ nằm ở lớp vỏ ngoài của tâm thức. Nếu con bước vào sâu hơn, con sẽ thấy là Hoa kỳ đã được thành lập trên nền tảng một số nguyên lý phổ quát được hiện thân trong bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp.

Điều này có nghĩa là tại Hoa kỳ, mỗi cá nhân, bất kể xuất xứ của mình, đều có một cơ hội độc đáo để thành công – NẾU người đó có thể tự đặt mình cho đồng thuận với những nguyên lý phổ quát vừa kể. Nói cách khác, sự trung thực, sự liêm chính cá nhân, sự công bằng, sự tận tụy và tình yêu thương đích thực đối với đồng loại, sẽ giúp con tiến rất xa tại nước Mỹ cho dù nguồn gốc của con có là gì.

Colin Powell đã không thành công vì da ông màu đen, và ông cũng không thành công bất chấp da ông màu đen. Ông đã thành công vì ông đã thăng vượt tư duy bị ức hiếp để mà ôm lấy trạng thái tâm thức phổ quát mà các chân sư thăng thiên vẫn hằng cầm giữ trong viễn quan của mình cho tương lai nước Mỹ. Bất cứ ai cũng có khả năng noi theo tấm gương của những vị lãnh đạo như vậy vì phương châm của các chân sư thăng thiên vốn là: Việc gì một người đã làm được thì mọi người cũng làm được.

Vấn đề là nếu người ta cứ bám chặt lấy tư duy bị ức hiếp thì người ta sẽ không thấy được những tấm gương đó là tấm gương. Người ta sẽ đặt những người đó lên làm thần tượng, coi những người đó là ngoại lệ, y hệt như nhân loại đã hành xử với chính bản thân ta. Và đó là khi người ta sẽ khóa chặt mình lại trong những hệ thống kín mít để rơi vào vòng kềm toả của định luật thứ hai của nhiệt động học. Một cái gì đó sẽ phải đập tan các hình tư tưởng của con người, cho dù là qua cách hành xử của một mục sư hay qua một ai đó có cùng một thái độ nổi lửa nhà thờ của con.

Con có thấy không, vấn đề thực sự với một “nhà thờ của người da đen” tại Hoa kỳ chính là vì nó tự xem nó là một nhà thờ của người da đen. Đặc biệt tại các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, con nhận thấy rất nhiều nhà thờ là những hội chúng hoàn toàn da đen không mở tay ra chào đón người da trắng hay người da màu gốc Tây ban nha. Cho nên thái độ hiềm khích mà ta vừa đề cập được tập trung tại các tiểu bang miền Nam giữa hai nhóm người, một là các thành viên của nhà thờ da đen và hai là các nhà thờ da trắng theo xu hướng cực chính thống.

Thật là một điều đáng tiếc khi sự kỳ thị chủng tộc lại kết tụ nơi chính những con người tin chắc rằng mình là những “con chiên ngoan đạo của Ki-tô”.

Thánh Paul – người đã góp phần biến giáo lý của ta thành giáo lý phổ quát – có viết như sau trong những lá thư được cho là của thày:

“Nơi đây không có người Do thái hay người Hy lạp, không có người nô lệ hay người tự do, không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả anh em đều là một trong Ki-tô Giê-su.” (Galatians 3:28)

“Nơi đây không có người Hy lạp hay người Do thái, không có người cắt bì hay không cắt bì, không có người Barbarian hay người Scythian, không có người nô lệ hay người tự do, mà Ki-tô là tất cả, ở trong tất cả.” (Colossians 3:11)

Điều mà lớp thượng lưu quyền lực đã làm từ lâu là biến giáo lý chân thực của ta thành một công cụ để áp bức quần chúng. Và họ làm vậy bằng cách biến lời dạy bao gồm tất cả mọi người của ta trở thành một hệ thống phân mọi người ra thành những người được cứu rỗi và những người sẽ không được cứu rỗi, tức những con dê tế thần.

Nếu con mù quáng đi theo lãnh đạo thế gian để thù ghét những ai mà lãnh đạo của con bảo con phải thù ghét, thì hóa ra con chắc chắn là mình sẽ lên được thiên đàng mà không phải xem xét cái xà trong mắt mình. Hệ thống này vô cùng hấp dẫn đối với những ai mang tư duy bị ức hiếp. Nó có tác dụng giữ mãi họ lại trong trạng thái tâm thức coi mình là nạn nhân bị ức hiếp – bởi vì nếu mình không nhắm mắt đi theo lãnh đạo thì mình sẽ bị liệt vào thành phần đồ bỏ và sẽ bị hụt mất cơ hội cứu rỗi.

Thế nhưng thông điệp mà ta đã đến địa cầu để đem lại cho những ai bị ức hiếp là không hề có sự phân chia giả tạo nào dựa trên tiêu chuẩn thế gian có thể ngăn cản con người lên được thiên đàng. Nói cách khác, cho dù lớp thượng lưu quyền lực có nói gì đi nữa, thì bất cứ ai – BẤT KỂ xuất xứ của người đó trong xã hội loài người – cũng có khả năng lên được thiên đàng, MIỄN LÀ người đó thể hiện được các nguyên lý phổ quát mà ta đã thể hiện, tức là cùng những nguyên lý phổ quát được ghi trong Hiến pháp Hoa kỳ.      

Con có thấy điều này có nghĩa là gì chăng? Người Mỹ gốc châu Phi mang một tư duy bị ức hiếp đang ngăn cản rất nhiều người khởi xướng bất cứ điều gì. Họ nghĩ, bởi vì người da trắng đã áp bức họ cho nên chính người da trắng mới phải đi bước đầu để chấm dứt áp bức.

Nhưng nếu con thực sự hiểu được thông điệp của Ki-tô, con sẽ thấy tại sao cách suy nghĩ đó không đúng. Chính những người bị ức hiếp mới có cơ hội lớn nhất, cao nhất, để trở thành những vị thày của con Đường Ki-tô, bằng cách chứng tỏ là họ sẽ sử dụng giáo lý đích thực của Ki-tô để vươn lên một vị thế cao hơn trong đời sống, cao hơn vị thế mà lớp thượng lưu quyền lực lẫn tâm thức tập thể trong chính nhóm họ đã dành cho họ bấy lâu nay.    

Không hề có nhu cầu có một nhà thờ của người da đen tại Hoa kỳ, bởi vì mọi tín đồ đích thực của đạo Ki-tô sẽ thờ phượng chung với nhau bất kể sự khác biệt bề ngoài, chẳng hạn như màu da hay bất cứ gì khác. Người Mỹ gốc châu Phi không thể ngồi đó mà chờ cho người da trắng khởi xướng thay đổi này, cho dù quả thực một số vị mục sư da đen có tầm nhìn xa đã bắt đầu làm công việc này rồi. Chuyện đó không phải là trách nhiệm của người da trắng mà là cơ hội nghiệp tạo của người da đen, để người da đen khởi xướng thay đổi này trong xã hội nước Mỹ cũng như trong tâm thức đại chúng.

Con có thấy chăng thông điệp sâu kín của Ki-tô? Không phải giới thượng lưu sẽ tạo ra thay đổi trong xã hội, mà là những người xuất thân từ một vị thế khiêm tốn trong xã hội, miễn là họ sẵn lòng thăng vượt vị thế đó bằng cách hòa nhập với tâm Ki-tô phổ quát.

Đã đến lúc người Mỹ gốc châu Phi vươn lên khỏi tư duy làm người Mỹ gốc châu Phi, để thực sự thăng lên và khoác vào bản sắc làm người Mỹ Phổ quát. Bởi vì chỉ những ai xem mình cũng như xem mọi người khác là những đứa con của Thượng đế thì mới có thể tự gọi mình là tín đồ chân chính của Ki-tô – là những người Mỹ chân chính.

Không phải những gì con “làm” trên địa cầu này sẽ đưa con lên thiên đàng, mà là những gì con “buông bỏ” trên địa cầu này. Con vươn mình lên cao hơn mọi hình tượng chạm do con người tạo dựng. Chính điều đó sẽ đưa con lên vương quốc thiên đàng, là nơi tất cả đều là một trong Ki-tô, bởi vì Ki-tô là tất cả và ở trong tất cả.