1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng xem những gì trao truyền có thể giúp được những ai có tinh thần cởi mở đồng thời giúp cho cả hành tinh này nói chung. Hiển nhiên, nhờ có kết nối internet và cùng đọc các bài chú, bài thỉnh nên các con cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Giờ đây thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lùi lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” vậy thì đây là một cách khả dĩ để trả lời những câu hỏi này.

1.1. Cảm giác khi đầu thai 

Con có biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên sau đó người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào cái mũ bảo hiểm. Hãy hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn quá xa vì còn tuỳ thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần những đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất, còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì mà con muốn gọi, bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức đại chúng. Con đã được nuôi dạy để xác định mình theo một cách nào đấy.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như quy định về con người mình, những chọn lựa, những tuỳ chọn của con là gì.

Nhờ trí thể con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận chắc phải có cái gì đấy nằm ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà mọi người không thể đi đến thống nhất. Đây là điều diễn ra rất nhiều trong trí thể, nhưng dĩ nhiên mọi thứ bắt đầu ở bản sắc thể vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào rất nhiều các bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con khoác vào tất nhiên là thể tình cảm là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tuỳ vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào những khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người lại cảm thấy có quyền nổi giận, có người lại cảm thấy phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy việc một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này quả thật rất bị gò ép. Con hiện thân bằng cách khoác vào bốn thể này. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hoá nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ các kiếp sống trước và giờ đây con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân thể mới mỗi lần hiện thân, nhưng một số khuôn nếp từ quá khứ sẽ quyết định cơ thể vật lý kiếp này của con, quyết định sự vận hành và ngay cả xu hướng bệnh tật của nó.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực rất lớn.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con đang sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được gọi là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn đó là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một kiểu ham muốn đặc thù gây khổ đau và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức độ hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã hiểu giáo pháp của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói họ đã hiểu sai, nhưng điều con cần thấy đó là không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, thì con người có xu hướng xác định cái đúng đối lập với cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực nhưng chúng không phải chỉ đối lập như trắng và đen. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực còn lại sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên suốt mọi thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã nỗ lực quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm đây cũng chỉ là một mức hiểu biết nông cạn.

Người ta cũng có thể nói đây không phải là lời Phật dạy. Đây không phải là điều Phật đã nói 2500 năm trước vì Phật đã trao truyền những giáo lý về “các cặp” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng và sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Quả thật chính trạng thái tâm thức nhị nguyên này là nguyên nhân của khổ đau. Giờ đây thày nói rằng con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực này, nhưng đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị ảnh hưởng rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Dĩ nhiên nhiều người trên thế giới ngày nay sẽ không thể nắm bắt được điều đó. Họ sẽ không thể hiểu thấu nhị nguyên. Đây cũng là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Con hãy quay lại hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, các thày muốn nói con người trên trái đất cũng đang mặc bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Những thành phần này nằm trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó hiện đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Khả năng có thể nhìn xa thế nào tuỳ vào độ trong của nước nơi họ sống. Nhưng là những vị thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hoà mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch còn ở tít dưới đáy biển và không có khả năng nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người đang trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những điều các con đang trải nghiệm. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố gắng nói trước tiên là các con nên mong muốn đạt được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng muốn nói, mặc dù không thể đạt được một tầm nhìn toàn vẹn như các thày đang không hiện thân, nhưng các con có khả năng tối thiểu đạt được một tầm nhìn rộng lớn hơn khi vẫn đang đầu thai. 

Nhưng có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người hiểu được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý Phật giáo và nhiều giáo lý tâm linh của các tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng mọi người không thể nâng tâm thức lên để đạt được tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự đi từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, và rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, đó là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải (và họ không thể làm được gì khác) tiếp cận triết lý này ở tầng mức nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Các thày cũng có thể nói vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, giáo lý này phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ lặn này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế, một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể tới được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tuỳ thuộc những gì có trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh tới được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, tầng mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để con đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên trên giáo lý những gì họ có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một kết quả tiêu biểu của việc này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người khác. Họ sẽ thường nắm lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào để tạo dựng một lớp phủ lên giáo lý, khiến những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, tuân thủ những quy tắc, công phu tu tập, đều cảm thấy mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác đều có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một thí dụ cho thấy khi con không nắm bắt được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của chính mình ở tầng tiềm thức lên giáo lý này. Về bản chất, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của mình.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần có một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm nhưng cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp nơi trên thế giới không hề biết có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là: Họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Họ có nói: “Ô, chắc phải có cái gì ở cuối sợi dây và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy cái gì đấy ở cuối sợi dây không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo sợi dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tới tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người mình, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, cảm thấy thế nào, nên suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ khó nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là hoàn cảnh trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình lý luận rằng nếu họ xác định được những mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng việc làm này sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay các giáo lý tâm linh khác đã chứng minh điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy cái mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy cái vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác nhau giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ (và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ), con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít nhất hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình đi dần từng bước có hệ thống giúp mọi người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về điều này và thày sẽ trở lại đề tài này sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo đó là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia. 

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan nào đó, sự khác nhau giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là tầng cấp nhận biết. Rồi con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có khả năng hay không có khả năng làm. Họ thường cảm thấy hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều điều.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy buộc phải đương đầu với những ý tưởng nào đó. Và tất nhiên, nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con là một thành phần của nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Các thày có thể nói là nhiều người cảm thấy những áp lực này. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Mọi người có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, cho dù áp lực đó là gì tùy theo nơi họ lớn lên.

Con có một số mong muốn như thoát khỏi những giới hạn, giảm bớt các áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định và đều đặn nên họ không phải lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn. Nhưng như vậy họ có thoát khỏi áp lực không? Họ thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi các áp lực khác.

Nhìn chung con thấy con có thể tự do khỏi một số áp lực nào đó của cuộc sống nhưng vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực nhưng áp lực này ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Con có thể nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc thì có một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm lính là sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa con người ở mọi thời đại đã không nắm bắt được điều này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một hình thức nào đó trong khuôn khổ một thời đại và một nền văn hóa khi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Điều này có nghĩa là gì?

Ấy, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Giờ đây con tìm thấy một giáo lý tâm linh và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm tự do và sự hỷ lạc nhiều hơn vì các thày không cảm thấy áp lực này. Các thày thấy các con đang chịu áp lực, nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến mức họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì thúc đẩy những người đang chịu một áp lực rất lớn? Ấy, đó là họ muốn tự do thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời cũng không thật. Vì nếu con nhìn vào một giáo lý tâm linh và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Đó là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày vừa nói gì? Bất kỳ một xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Chúng ta không thể chối bỏ điều này. Thày không hề cố nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Những điều này tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Sử dụng một giáo lý tâm linh như thế nào 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và lúc này con nói: “Đây là giáo lý đã hứa là tôi có thể tìm thấy tâm an bình hay giác ngộ hay niết bàn”. Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng việc tìm ra một giáo lý tâm linh đặc thù rồi quyết định theo học giáo lý thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con? À tất nhiên là không phải vậy. Vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng liên quan đến tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài này? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi đâu đó trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ áp lực nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi việc đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Do đó, bằng việc thay đổi tâm thức mình, hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chính của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào tâm ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này không?” Và nếu con trả lời là không thì con hãy buông bỏ chúng.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Một mong muốn mang tính xây dựng và không mang tính xây dựng là gì? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này chống lại sự tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Khi có chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học nằm ngoài tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất, tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn điều gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Như vậy, thày đã nói gì? Trải nghiệm áp lực của con được quyết định bởi những gì có trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những thành phần này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với những thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất kỳ điều gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể thực hiện được, không bao giờ có thể thực hiện được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con thực hiện được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một viễn quan nào đó, các thày có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con cần trong lọc các mong muốn để không chờ đợi những kiểu đường tắt giúp thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực nhưng lại không chịu nhìn vào chính mình và tâm mình. Hãy nhìn những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn vào một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Giờ đây điều gì ngăn mọi người nắm bắt điều này hay hiểu ý nghĩa về mong muốn trong Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ đế? Ấy, đấy là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế gọi là sự dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại nhận ra. Các thày có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn điều này từ một viễn quan nào đó, thì con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau điều này là gì? À, điều đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương đầu nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, trước áp lực trên hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Vì họ cũng có khả năng gạt bỏ phần nào áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến vài thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Nhờ những phin lọc này mà con có thể ngăn chặn, có thể kìm nén những cảm xúc, kìm nén những tư tưởng, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con và nhờ vậy con không bị quá tải nên con mới có thể sinh hoạt được.

Điều thày có thể nói là đại đa số mọi người đã tạo dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ có đời sống sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng này khiến người ta trở nên quá tải, quá sức. Chính cơ cấu nhằm duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào những khuôn nếp cảm xúc nào đó vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với những khuôn nếp ngăn họ không nghi ngờ tôn giáo của mình. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền giáo lý này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một giáo lý sâu sắc hơn. Về căn bản, các thày có thể nói để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều dựng lên những thành luỹ bảo vệ mình khỏi những áp lực quá sức. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt khỏi mức nhận biết hiện thời của mình. Các thày có thể nói bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng. Nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển, vì thế đây là một trong những tương phản, những tình thế khó xử, những bí ẩn về đường tu. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần nhìn vào chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt một chút. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, muốn vơi đi những áp lực. Những mong muốn này không giải thoát con khỏi áp lực nếu con mong muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, vậy nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con nhìn vào những cơ cấu một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị áp lực làm choáng ngợp, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn nếu con không nhìn vào điều gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông giúp thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống giúp thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của các triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được điều này thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của mình, và trong quan hệ với mọi người họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao hơn, hiểu biết trí năng về giáo lý. Họ cũng đã miên mật thực hành nhiều năm đến mức cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong những tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ chì lặn khỏi thắt lưng và thả chúng xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tu tuần tự.

Các thày cũng có thể nói con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào cái thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng nếu con không vứt cái chì lặn đó thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà không bước lên được. Đây thật sự là cách tăng triển – nhìn vào chính mình, nhìn vào những khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày đã nói gì? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người không chỉ trong đạo Phật mà trong cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo những phong trào này từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi di chuyển. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đấy. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Con có thể nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan đi. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do tại sao con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta cách ly và cô lập mình khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong các cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con đến những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ những người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật dễ hiểu. Thày giản dị đang chỉ ra rằng nếu trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đấy con chưa giải quyết và điều này xuất phát từ cơ cấu thày đã mô tả. Con có điều gì đấy đang đè nén mà con chưa giải quyết vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự hiểu con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và những con đường tâm linh khác được thiết lập như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút và đây chính là điều quan trọng mà rất rất nhiều người không nắm bắt được.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy rất nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra những ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và buông bỏ chúng, cho tiêu tan các khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng cấp thấp nhất của tâm con. Trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ những khuôn nếp tư tưởng nào đấy trong trí thể và thậm chí đến từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải hay không được xảy ra bên ngoài kia. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng, trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm và trong vài trường hợp cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong các trường hợp khác, cơn giận chỉ làm tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực và sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra, con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, sau đó đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống như thế nào. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể thật sự nhận ra Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống những khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày từng nói về những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và mọi chuyện trong vòng kiểm soát của họ. Nhưng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được những khuôn mẫu nào đó, những quy luật thiên nhiên nào đó, những nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh.

Kết quả là con thấy có rất nhiều người đã tạo ra một ý tưởng về việc thế giới phải vận hành thế nào rồi dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu ý tưởng này lên vũ trụ. Và họ nghĩ mình có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản rồi cảm thấy họ kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể là một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì? Đó là nó giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về điều này. Tôi không cần suy nghĩ về bất kỳ điều gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Điều này không cần thiết vì tất cả đều sai, chúng không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ chúng mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và có những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa các tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt tầng tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử trải qua nhiều thời đại và ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình thì tôi được đảm bảo sẽ giác ngộ hoặc nhập niết bàn. Vì đức Phật là một vị đạo sư tâm linh chân chính và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày đã giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của mình, nghĩ ra một ý tưởng mình nên tu tập Bát chánh đạo ra sao, rồi tu bằng tâm thức hiện thời của mình và điều này đảm bảo mình sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của mình. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng việc ở yên tại mức tâm thức này. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con tiếp tục đè nén tất cả những nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, và vì vậy con không thể leo tiếp một nấc thang nữa. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt những tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây. Con hiện đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách gì làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố những khuôn nếp. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt nhưng tất nhiên điều này chỉ làm họ mắc kẹt trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống khiến họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không leo thêm một nấc thang nào nữa.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã đạt tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn khi hiểu những điều thày đã giảng ở đây – đó là quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và con luôn cần bị xao động. Như thày đã nói, một số sẽ nhận ra khi lần đầu tìm thấy giáo lý và nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, cùng với giáo lý này, cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây, mọi thứ sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có khả năng đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Giờ đây nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhận ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người khác lại tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh, rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ suy luận: “Đây rồi”. Hoặc họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Giờ đây con có thể nói: “Nhưng khi tôi lần đầu tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đấy, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Trên hết, con có thể nói vấn đề không phải là khi thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là những điều các thày dạy ngày nay. Nhưng đây không phải lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với những áp lực bên ngoài. Một phần lý do là nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được cảm giác yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Giờ đây con thấy rất nhiều người ở khắp các thời kỳ lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các tu viện để kiểm soát chặt chẽ môi trường bên ngoài. Họ được bảo vệ khỏi những hành động bạo lực xảy ra ở bên ngoài và vì vậy họ sống trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ nơi cảm nhận cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả cuộc đời trong những môi trường như vậy và quả thật đã không tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng bằng sự đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được sự an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày đã mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào. Nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén một ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con kiểm soát cảm xúc, con cảm thấy trí năng mình vượt trội, và từ đó chủ yếu cảm thấy mình cao trội hơn những ai không theo giáo lý của mình.

Còn cách tiếp cận kia là con cố đạt được một sự giải quyết. Sự khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ điều gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa đối với trạng thái cân bằng và do đó cần phải đè nó xuống. Con cần tìm cách loại bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện đó là đè nén bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng này.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn sàng bị xáo trộn. Và con có thể quả thật xoay chuyển khi nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi với trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, không cho tôi bám lấy sợi dây, leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường tu nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con nói: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì chối bỏ cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào nó. Tôi đang thật sự cảm thấy gì? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận biết tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào khiến tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Tôi quả là không thể nắm bắt được các giáo lý tâm linh tôi đang theo học vì những khuôn nếp lý trí của tôi. Các giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với điều con làm. Cảm xúc đầu tiên là con nổi giận với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, thoạt tiên con cảm nhận một sự bất lực không thay đổi được phản ứng của người kia đối với con, thay đổi cách người kia nhìn con. Nhưng con cũng cảm thấy con phải thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hoà đồng với mọi người. Con không muốn người kia giận con và con không biết làm cách nào khác, ít nhất thể cảm xúc của con không biết làm thế nào khác hơn là thay đổi cảm xúc của người kia để con không phải cảm thấy mình đã quấy rầy họ. Sau đó, con lên đến cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình hiểu quyền tự quyết, con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến họ nổi giận, không khiến họ kết tội con. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép biểu đạt mình, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút mình khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức tới người khác để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng với nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu nhìn vào những khuôn nếp này và dần dần qua thời gian (và có thể cần một thời gian rất dài) làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con quả thật có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con thật sự có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi điều gì đấy từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả những gì mà họ có thể là như một con người. Đây là tính cách mà họ cần là. Khi điều bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tu tâm linh? Con đang dần nâng nhận biết lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn mọi người chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận lúc bắt đầu truyền đạo. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng đạo. Nhưng ở một mức độ nào đấy, tất cả các vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Vài vị thày đã tìm được cách rút lui, như thày cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế gian và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là ra ngoài thế gian và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn vào toàn bộ sứ vụ trong ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có một cái gì hơn là con người con đang là bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta muốn trả tự do cho một tên sát nhân hơn là cho kẻ khuấy động họ vì họ có thể đương đầu với tên sát nhân. Đây là lẽ thường. Có những người giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thường thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động vì vậy chúng tôi sẽ giết ai khuấy động chúng tôi.”

Con thấy phần lớn những người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện? Đó là việc có một số người cần biểu lộ là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm điều này bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con khởi sự đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này để khi người khác phản ứng lại, con không cảm thấy xao động.

Thày biết rõ đây là một bài giảng dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể ban ra những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo và cách thức giúp con có thể tiến tới cảm nhận thật sự về an bình nội tại không dựa trên đè nén và chối bỏ, nhưng dựa trên việc giải trừ các ngã và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Tới đây, thày cám ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó đi tới những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama hay sẽ không bao giờ chấp nhận các ý này, nhưng ý tưởng này vẫn sẽ có một ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên thấy điều họ chưa từng thấy trước đây và từ đó sẽ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa con nhận thấy mục tiêu của các thày là nâng cao sự nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh có giá trị, các thày mong muốn họ đạt được những tầng cấp ngày càng cao hơn trong việc nắm bắt giáo lý này. Điều này có nghĩa là, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm. Đây là một quá trình không ngừng nghỉ từ lúc bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong thế giới nhiều xáo trộn, con có mặt ở đây để là một phần của quá trình tiếp diễn vô tận, vượt thời gian, nâng cao mọi sự sống từng bước lên đến những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con nếu không phải đó là một khuôn nếp con chưa giải quyết, một ngã tách biệt con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhận ra điều này, bằng cách làm việc với ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng nhiều hơn. Không có công thức thần diệu đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này và con đi nhanh hay chậm tùy vào con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những điều gây xáo trộn con. Qua bài giảng này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, đổi lại thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ quay lại và trao truyền những lời dạy uyên thâm hơn, và thậm chí còn xáo trộn con hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.