Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn, phần 2

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, mà là buông bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tìm được một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, và sau đó họ lấy vào một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân cần cù thực tập, và họ tin chắc họ tiến bộ và một ngày kia Phật sẽ hiện ra ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là họ tin rằng một giáo lý thần diệu nào đó sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ. Con nhận ra đây là một ảo tưởng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã đang cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian mà nó nghĩ sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Những tiêu chuẩn này dựa trên tách biệt. Con biết là chúng không dẫn tới cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự thật là cái một, sự không thật là tách biệt và phân chia. Xin thày giúp con thấy là tự ngã nghĩ là nó có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt nó có thể trở về cái một. Nhưng điều này không bao giờ làm được. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tin rằng bước chân trên đường tâm linh là một cuộc phiêu lưu vinh quang dẫn họ tới những trạng thái tinh tiến hơn và đem lại cho họ chức vị và sự công nhận của thế gian.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày cho con thấy con đường tâm linh thật sự không vinh quang. Nó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, nhìn vào phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình, vạch trần các ngã tách biệt và cho chúng chết đi.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều đệ tử cho rằng khi họ đi theo vị đạo sư hoàn hảo thì vị đạo sư này có quyền năng thần diệu chuyển hóa họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ. Con nhận ra đấy là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn hiện thân trong thân thể vật lý thì con có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Con sẽ khiêm cung, thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một trạng thái hoàn hảo nào đó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy mọi sự đều là Phật Tánh và mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật Tánh. Xin thày giúp con nhận ra là trên cơ bản không có sinh thể nào có thể đặc biệt hơn, hoàn hảo hơn sinh thể khác.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con tiến cao hơn, con bắt đầu thấy cái tổng thể và do đó mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, thay vì nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt có khả năng nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, đi vào cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào cái một.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con học một giáo lý, con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng lý trí, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng bản sắc.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con không nắm bắt giáo lý ở tầng tình cảm, thì con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con hiểu giáo lý qua trí năng, thì con dùng sự hiểu biết trí năng để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra đấy không phải là nắm bắt giáo lý.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con cần dùng giáo lý như tấm gương để nhìn chính mình, nhìn phản ứng của chính mình, nhìn chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý, con thể nhập giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra là con đã đưa giáo lý vào hành động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra mục đích nội tại thật của một giáo lý là kết nối con với tâm một bên trong con để con ngưng phóng chiếu là tâm một ở ngoài con. Xin thày giúp con nhận ra là con có Phật tánh trong con, và con tìm thấy Phật tánh bằng cách nhìn bên trong con. Xin thày giúp con thấy là tâm tách biệt, tự ngã không thể nắm bắt điều này, nó tìm Phật ở ngoài nó.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con khám phá Phật tánh trong chính con, không qua sự hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp.  

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Xin thày giúp con thấy là nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài, nó tạo ra nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc nhưng nó không trở thành các nội dung đó.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Xin thày giúp con nhận ra là con chỉ chui vào tự ngã như con mặc vào một áo giáp, và con không mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con trau dồi khả năng bước ra ngoài tự ngã, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ tới điểm con tự nhiên trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi cái Ta Biết bước ra ngoài tự ngã thì con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Xin thày giúp con nhận ra đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực trên đường tâm linh phải nhắm tới trải nghiệm cái một, trải nghiệm nối kết. Xin thày giúp con nhận ra là tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Xin thày giúp con nhận ra con cần ngưng cố gắng, con cần ngưng các nỗ lực của ngã tách biệt muốn tạo sự tiến bộ tâm linh.   

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng nhưng không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Xin thày giúp con nhận ra con thật sự cần cho tâm con yên lặng, nhưng chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được để an tâm mình.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi tập thiền định, con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì con càng thật sự dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng bị kẹt trong tâm mình hơn. Xin thày giúp con thấy dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ khiến con rơi vào một cái bẫy mới.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con sẵn lòng tiến bước trên đường tu, khắc phục những ngã tách biệt. Xin thày giúp con nhận ra là sẽ có lúc con tới điểm trải nghiệm một cách tự phát mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên tâm mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một không phải là điều mà con có thể tạo ra, mà con chỉ có thể nhận được như một món quà, một ân huệ, nhưng không có một lực bên ngoài nào ban nó cho con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Xin thày giúp con nhận ra là con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước trên đường tu và chờ nó xảy ra. Con không dính mắc nó xảy ra hay không xảy ra.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con muốn trải nghiệm cái một xảy ra thì con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này đẩy nó xa ra khỏi con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là sẽ có một tầng trên đường tu khi con cần vượt lên trên nỗ lực, con cần vun trồng khả năng không nỗ lực.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con có thể trải nghiệm sự kết nối ngay lúc này nhưng con chỉ trải nghiệm được khi con từ bỏ nỗ lực.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là thay vì muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm, con có trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, con tiếp tục bước trên đường tu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng buông bỏ, phó thác, xả bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống. Con không nỗ lực. Con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn, phần 1

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhận ra nỗ lực cao là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã, tái lập hay mở rộng sự kết nối với cái ta cao của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả vì chúng chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí phần nào trong các tế bào vật lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là một thực tập tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng thực tập tâm linh không thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, ảo tưởng của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn nghĩ ảo tưởng là thật, chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con bị giam hãm trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi các ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng và buông bỏ chúng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là có thể có một sinh thể thấp hay tâm thức tập thể đã phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Nhưng con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con hay ra khỏi tâm con. Cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã đi vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép rất nhiều ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh và tất cả mọi thứ khác cũng là một biểu hiện của Phật tánh bất kể hình tướng vỏ ngoài như thế nào.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó vào trong tâm mình, thì cái Ta Biết bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra con giống như đang ở trong một căn nhà và căn nhà đó là các thể vật lý, bản sắc, lý trí và tình cảm của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước cửa sổ. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và qua phin lọc của ảo tưởng thì nó bị pha màu bởi rung động dựa trên sợ hãi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả, thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng đó được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể bản sắc, lý trí và tình cảm của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi năng lượng tích tụ thì nó tạo lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ, tỷ dụ, nổi giận hơn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, con quả thực đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung vào bất cứ gì, thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có có ba yếu tố. Con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Đây là điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà các thày gọi là “ngã” theo cách diễn đạt hiện đại hơn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có sự tự nhận biết của cái Ta Biết nên không tạo tác chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo tác một ngã nhưng ngã không thể tạo ra chính nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Ngã không thể thay đổi chính nó. Nó không thể cho phép nó chết đi. Nhưng nó có thể có thêm cường độ và lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngã có bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng dễ nóng giận hơn, nhưng nó không thể bớt nóng giận qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm điều này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là qua nhiều kiếp hiện thân, con đã dần dà tạo ra một tập đoàn các ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng tạo lực hút trên cái Ta Biết của con khiến nó bị hút vào tấm màn ảo tưởng. Con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng và quên khuấy con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng.  Con quên mình có sự nối kết với cái ta cao hơn của con, có Phật tính và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là người phàm, hoặc một kẻ tội đồ, hoặc một kẻ mang nghiệp quả lớn, hoặc một con vượn tiến hóa.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó, thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực cao là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra tự ngã và nó có một sự hiện hữu tạm bợ. Nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, nhưng ngày nào nó còn ở trong tâm con thì năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó và nó ảnh hưởng tâm con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một ngã tách biệt không thể chối bỏ mọi thứ đều liên thông, chối bỏ cái một. Đây là một giấc mơ bất khả thi của ngã tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con mong muốn bù đắp mất mát này. Xin thày giúp con nhận ra là con người có thể tạm thời phủ lấp khao khát kết nối bằng cách chìm đắm trong các sinh hoạt thế gian, nhưng sẽ tới điểm nỗi khao khát cái gì ở ngoài tâm sẽ trồi lên và con không thể chối bỏ nó nữa.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nâng cao nhận biết thì tự ngã sẽ nói: “Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên tới trạng thái cao này. Tôi có thể trở nên toàn hảo, bất tử.” Xin thày giúp con nhận ra đây là lời nói dối hoàn toàn và tự ngã sẽ không bao giờ đi vào được thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Xin thày giúp con nhận ra là con cần khắc phục từng ngã một bằng cách nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một số hoàn cảnh kích hoạt ngã hoạt động và khi đó nó làm chủ phản ứng của con. Xin thày giúp con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn sau khuôn nếp phản ứng. Xin thày giúp con đi sâu vào nó, đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng và dùng trực giác để thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con tới điểm bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt, nhìn nó từ bên ngoài và thấy ngã dựa trên ảo tưởng gì.   

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong cuộc sống của tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Xin thày giúp con nhận ra là một khi con thấy ảo tưởng, con sẽ giản dị tiến sang việc buông bỏ ngã, cho nó chết đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt mà con cần cho nó chết đi. Xin thày giúp con thấy ngã tách biệt là một dính mắc và con khắc phục dính mắc bằng cách buông bỏ ảo tưởng và ham muốn đằng sau sự dính mắc.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con nghĩ con phải thành tựu điều gì đó trên thế gian này để khỏa lấp cảm giác không trọn vẹn. Xin thày giúp con nhận ra là con không cần thành tựu bất cứ điều gì trên thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn. Con chỉ buông bỏ ý tưởng này và sau đó một cách tự nhiên con sẽ cảm thấy mình trọn vẹn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trạng thái mặc định là con cảm nhận sự kết nối với cái ta cao của con. Khi con buông bỏ ảo tưởng tách biệt thì con sẽ tự nhiên trở về cảm nhận kết nối. Xin thày giúp con thấy là con có thể mở rộng cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cái ta cao của con luôn có đó, nó luôn luôn gửi năng lượng tới con. Xin thày giúp con buông bỏ ý tưởng cho rằng con cần hoàn thiện cái ngã tách biệt đang ngăn cản con trải nghiệm sự kết nối. Xin thày giúp con nhận ra là con chỉ cần buông bỏ ngã là sẽ trở về trạng thái tự nhiên của sự kết nối.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cố gắng củng cố cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con đi xa hơn trên con đường tu. Xin thày giúp con nhận ra cố gắng giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối và đây là cố gắng cao.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Xin thày giúp con thấy là giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm giúp con thấy ảo tưởng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con sẵn lòng ngưng nhìn ra bên ngoài con, mà nhìn vào bên trong con. Con sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn các ảo tưởng của chính mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng. Con buông bỏ ý nghĩ cho rằng có cái gì thần diệu ở bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là một vị đạo sư không có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, đạt giác ngộ, nhập niết bàn. Vị đạo sư có thể phơi bày, kích hoạt một khuôn nếp phản ứng mà con có nhưng vị ấy không thể lấy quyết định bỏ ảo tưởng hộ con vì quyết định được làm ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con sẵn lòng nhìn một cách ý thức quyết định chấp nhận ảo tưởng và tạo ngã tách biệt mà con đã lấy trong quá khứ, và con lấy quyết định một cách ý thức cho ngã tách biệt này chết đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con nhận ra là tinh túy của con đường tu chân chính là khắc phục các ngã tách biệt, phơi bày chúng hiện lên trong tâm ý thức và sau đó con thải bỏ các ngã này một cách ý thức. Con sẽ không học và thực hành giáo lý tâm linh để chứng tỏ mình là một học trò tâm linh cao trội.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

6 | Con thỉnh cầu ý định cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhìn ra ý định cao hơn của con, đó là không ngừng nâng cao mức nhận biết của mình, hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình và biểu hiện bản thể cao của mình, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người này, con nhìn thế giới, bản thân và cuộc đời theo một cách nào đó. Con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thực hiện, một số vật mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Nhưng khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra ý định mà con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất. Con có hai loại ý định, một ý định sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất. Và con cũng có một ý định vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua thử thách muôn đời là quân bình cả hai ý định đó. Hãy giúp con dung hòa sự kiện con đang ở đây với ý định là con sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn. Hãy giúp con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng mong muốn của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con không nhìn Chánh tư duy theo cách vỏ ngoài là phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. Hãy giúp con không dán nhãn ý định này là sai, cần kìm nén, và ý định kia là đúng, cần thực hiện.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã bước vào đường tu với một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ đường tu. Nhưng một khi con đã nâng cao mức nhận biết, xin thày giúp con tái xét lại các ý định này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã tự đặt mình vào tâm thức nhị nguyên khi con quy định ý định nào là đúng, ý định nào là sai. Hãy giúp con thấy khi làm vậy, con cũng tự đặt mình vào tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực trên chính mình, sẵn lòng vận dụng ý chí, chú ý và tập trung để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có cưỡng ép tâm con để nó không suy nghĩ, để nó không có ý tưởng, và điều này đã tạo ra nỗi căng thẳng to lớn cho con. Có thể con đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Xin thày giúp con nhận ra con không cần dùng đến sức mạnh.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trước khi đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào? Đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để nâng cao mức nhận biết đó? Và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai sắp tới?”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Kế hoạch Trọn đời là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Con đã quyết định tự đặt mình vào những tình huống bắt buộc con phải nhìn thấy và giải quyết một số khía cạnh cụ thể trong tâm lý của con. Theo một nghĩa nào đó, con tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng khi con bước vào đầu thai thì con quên mất mình đã lập ra kế hoạch như vậy.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nối kết lại với Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Cho nên khi con bước vào kiếp đầu thai và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn hay người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình, con muốn trấn áp các cảm xúc và các tin tưởng, con muốn kềm chế tình huống để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con tự hỏi: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi? Tại sao tôi có khuôn nếp phản ứng này đối với một số loại người?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy chính câu hỏi đó sẽ giúp con hình thành một ý định cao hơn. Khi con sẵn lòng nhìn thấy và khắc phục các khuôn nếp, thì con cũng đang nối kết với ý định đằng sau Kế hoạch Trọn đời của con. Đây là ý định của chính con. Không còn yếu tố vũ lực nào ép buộc con nữa.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Một là tự ngã có ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Nó khiến con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Nhưng đó không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Đây mới là ý định của con, và con nối kết lại với ý định này.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhờ đó mà trả lời câu hỏi: “Tôi là ai? Ai đang thu nhận lời dạy này, và ai đang cưỡng lại lời dạy này? Ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn đóng tâm lại? Ai là cái ta nhận biết mình đang ngồi trên ghế này, và ai là cái ta có khả năng lùi lại trong tư tưởng để nhìn cơ thể đang ngồi trên ghế này?”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm con có thể bước ra khỏi cơ thể bằng tư tưởng, rằng con không phải là cơ thể vật lý. Con cũng không là các tình cảm của con, không là các ý nghĩ của con, thậm chí không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con cũng có thể bước ra ngoài cảm xúc, ý nghĩ cùng ý niệm bản sắc của con. Con giống như một diễn viên khoác vào một bộ trang phục, một lớp phấn son, thậm chí một giọng nói và một nhân cách đặc thù, và diễn viên này bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái ta của con. Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi, nó là nhiều hơn bốn thể phàm của con. Cho nên nó không thể được mô tả bằng ngôn từ hay những tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt khỏi mức nhận biết của tâm vỏ ngoài chỉ có thể nắm bắt, phân loại, gắn nhãn và mô tả. Hãy giúp con buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của con để con có được một trải nghiệm gọi là thần bí.  

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra trải nghiệm thần bí này thật chẳng thần bí gì cả. Đó là trải nghiệm về cái ta ý thức, cái Ta Biết, là cái ta đã chế tạo ra cơ thể vật lý cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, và sử dụng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường trên trái đất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là vì cái ta đã bước vào tâm con, cho nên nó cũng có khả năng bước ra ngoài tâm con. Nó có thể nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng nó cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể để ý thức chính nó vượt hơn bốn thể, nó vượt hơn tâm. Con thấy đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái ta đang bước lên các bực thang tâm thức chính là cái Ta Biết. Cái ta mà con là luôn luôn có tiềm năng thay đổi các khuôn nếp một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng mới trong lần kế tiếp.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Trong khi đó, ngã vỏ ngoài bị buộc chặt vào bực thang tâm thức hiện tại. Nó phản ứng theo một chương trình tiềm thức nơi nó thực sự không có chọn lựa, vì chương trình này đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của con mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là phản ứng, con không là cảm xúc, con không là ý nghĩ, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài trái đất.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến đây là để có một số trải nghiệm có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có trải nghiệm, cái ta đã phải tạo ra những nội dung trong tâm, để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê và mong muốn một cái gì hơn nữa. 

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Khi con chán chê và muốn hơn nữa thì con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh. Con ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào tâm, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày càng có ít hơn. Con càng ngày càng tự do hơn. Giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Khi đó, con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Nhưng con không trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của mình mà bây giờ con có thể biểu đạt trên trái đất. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con trả lời câu hỏi: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ? Liệu tôi có mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó không? Liệu tôi đã tự đặt mình vào một tình huống nơi tôi có thể có trải nghiệm này trong một thời gian để tôi có thể chán chê chuyện này?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con bước vào trải nghiệm cho đến khi con không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó nữa. Con đạt tới điểm khắc phục sự dính mắc, khắc phục sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn. Con có thể hoặc chọn ngừng hẳn hoạt động này, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc, và trong cả hai trường hợp, con tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Con thấy là nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con quân bình được cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện con là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh. Hãy giúp con ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào cũng đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Con bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Trung đạo là thăng vượt cả hai. Con không phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mọi thứ đều là Phật tánh. Con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng đang che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Không còn nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh.” Khi con tiếp cận mọi hoạt động với ý định tăng triển nhận biết của mình, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình, thì mọi hoạt động đều trở nên tâm linh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con nhận ra lũ quỷ của Mara đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến con bác bỏ lời dạy này của thày để con lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi. Xin thày giúp con biến lời dạy này thành con thuyền Bát nhã để con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với bây giờ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Con thỉnh cầu lời nói cao hơn (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thực hiện lời nói cao hơn, bằng cách dùng lời nói để phú cho năng lượng những đặc tính dựa trên tình thương, để con nâng cao tâm thức của con lẫn của mọi người, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cách dịch từ “Chánh ngữ” có thể khiến con tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Nhưng đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Để thấu triệt lời nói cao là gì, con muốn thấu hiểu năng lượng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Thế giới được cấu tạo bằng năng lượng. Tất cả mọi thứ con làm, kể cả lời nói, đều được làm với năng lượng. Nhưng năng lượng không chỉ có khía cạnh vật lý, mà năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có nhiều rung động năng lượng vượt ngoài phạm vi phổ tần số vật lý, ở các phổ cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và vượt lên nữa là cõi tâm linh với những rung động cao hơn, vượt ngoài khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thế giới không qua ý thức hệ duy vật. Sở dĩ xã hội hiện đại phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn, là vì các nhà duy vật khi họ chiếm lãnh khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thế giời không bằng tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc, chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh và phân tích. Tâm này tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con trải nghiệm cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, đây là một trải nghiệm khách quan đáng tin cậy. Trực giác là một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con tra vấn sự nhận biết của con, tra vấn tâm con. Hãy giúp con thoát khỏi thói quen muốn diễn giải trải nghiệm của mình cho ăn khớp với cách khoa học diễn giải, khi chính khoa học cũng không trung lập hay khách quan.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để trải nghiệm sự thật rằng vũ trụ đã không khởi đầu ở một điểm dị biệt độc nhất trong cõi vật lý, mà đã có một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số cao hơn để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Nhưng năng lượng từ cao không tuôn xuống qua một lỗ nhỏ độc nhất. Trái lại, một khối năng lượng rất lớn đã được giảm độ rung từ phổ tần số cao xuống phổ tần số vật chất trong một cuộc thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra khái niệm lưỡng tính hạt-sóng của khoa học duy vật cũng chỉ là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô không thể phát hiện bằng giác quan. Nhưng kỳ thực, vật chất là năng lượng và năng lượng thì là sóng, cho nên ở mức hạ nguyên tử, không có hạt nào có thể được nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm rằng cách con hình thành các khái niệm tác động đến cách con nhìn thế giới. Xin thày giúp con nhận ra dụng cụ cơ bản mà con sử dụng chính là tâm con. Giúp con nhận ra hạn chế của dụng cụ này, không những khi con dùng tâm để quan sát, mà cả khi con dùng tâm để diễn giải quan sát.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp con thay đổi hoàn cảnh vật lý của con. Liệu con có tìm một loại đũa thần trong giáo lý có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý hay không?

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế sẽ tưởng thưởng con nếu con làm theo những gì ngài bảo là đúng. Liệu con có hy vọng là bằng cách làm những gì được tôn giáo con quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn?

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra niềm tin đó là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng. Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng nỗ lực dụ dỗ của con thì con sẽ chẳng làm gì được. Con sẽ bị kẹt cứng, con bị tước mất quyền năng.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng. Xin thày giúp con chiêm nghiệm rằng sở dĩ tâm con có sự ý thức là do có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con, trước tiên nó đi vào tâm bản sắc nơi nó được phú cho đặc tính, nó khoác lấy hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Giống như một chiếc kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu sẽ tô màu ánh sáng chiếu xuyên qua nó, năng lượng từ cao cũng đi qua tâm bản sắc, đi xuống tâm lý trí nơi nó lại khoác vào một số tin tưởng gây giới hạn. Xong nó đi xuống tâm cảm xúc, khoác vào một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi hay nghi ngờ. Rồi năng lượng đi vào tâm ý thức, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tâm con tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm thế giới vật chất trên địa cầu cũng được cấu tạo bằng bốn tầng này: vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm con là một sinh thể đồng sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con đồng sáng tạo bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm con khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và con phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, vào năng lượng cấu tạo bốn tầng của vũ trụ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi. Con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn đưa năng lượng vào phổ vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Năng lượng này đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó kết tụ thành những hạt vật lý, ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng giờ đây đến lượt con cũng đồng sáng tạo theo cùng một cách, nhưng từ bên trong, khi con cho phép năng lượng chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt trong trường năng lượng rộng lớn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, lý trí, bản sắc, nhưng tất cả những tâm con người cá biệt đều nối kết, hình thành tâm tập thể.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Đây là một giáo lý trao quyền năng cho con, bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu của chính con, phối hợp với tác động liên kết của tâm tập thể và cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Với cách hiểu trao quyền năng này, con nói: “Có thể tôi không thể thay đổi từng khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số, bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống tôi không thể thay đổi, chắc chắn tôi vẫn có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là con khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng để con phú đặc tính cho năng lượng. Giọng nói chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Để biểu hiện lời nói cao hơn, con ý thức giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính, phóng chiếu năng lượng đó ra ngoài. Con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Năng lượng cũng có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có mang một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc của con, cho nên nếu có ai tức giận với con thì các khuôn nếp này sẽ bị khuấy động.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con cảm nhận điều này bằng cách trụ vào tim và tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi không? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Điều này cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Con chiêm nghiệm là bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ, vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ trở về với con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp chiêm nghiệm nghiệp quả là gì. Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi qua thể lý trí, cảm xúc, vật lý rồi được phóng ra ngoài vũ trụ. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi tấm gương vũ trụ, và nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi lý trí, cảm xúc, vật lý. Nghiệp là sự phản hồi về chính con của năng lượng con đã gửi ra.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Nhưng nếu con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương, thì nó đi vào bốn tầng của vũ trụ và khi đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu về con. Nó vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Giờ đây con nhận được nhiều năng lượng hơn với rung động cao từ cái ta cao, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Phật Gautama, con hiểu ra tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ, tại sao có Biển Luân hồi. Là vì trái đất là một hệ thống năng lượng. Khi phần lớn năng lượng trong hệ thống bị tha hóa bởi rung động thấp dựa trên sợ hãi, tâm con người bị quá tải, con người bị đau khổ, buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận… Những cảm xúc thấp này làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm phương thức để thoát khỏi khổ đau là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Con chiêm nghiệm là khi con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó được gửi trả về cho con, khiến trong năng trường của con có sự phản ứng, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp đang có mặt. Con căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Phật Gautama, xin thày giúp con loại bỏ các khuôn nếp phản ứng mà con đang có, để trong năng trường của con không có gì tương tác với năng lượng gửi đến.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Con chiêm nghiệm là khi con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một mô thức giao thoa giữa hai sóng – một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên. Kết quả là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng giọng nói của con như một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy con chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực kéo trên tâm con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Con thỉnh năng lượng có tần số cao để tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Con dùng các bài chú, bài thỉnh. Đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói cao hơn, là con dùng quyền năng của giọng nói để biến hóa năng lượng sợ hãi thành năng lượng tình thương.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra là thay vì trấn áp bằng sức mạnh một số hình thức phát biểu – như tránh nói giận dữ, tránh nói to, cố ăn nói nhỏ nhẹ trong tư cách một người tâm linh – thì con dùng giọng nói để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Con thấy đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Con xem mọi chuyện xảy ra trong đời mình như một cơ hội để nhìn ra một điều gì trong tâm thức, và con khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

12 | Con thỉnh cầu sinh kế cao hơn (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thực hiện sinh kế cao hơn bằng cách phụng sự và nâng cao cả tổng thể trong lãnh vực của con, và nhờ vậy con đạt được sự giàu có đích thực là một nội tâm trọn vẹn, viên mãn, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con tập trung vào từ “chánh” trong Chánh mạng, con sẽ định ra những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Làm vậy sẽ không chỉ hạn chế chọn lựa của con trong việc tìm kế sinh nhai, mà cả trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của con.  

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Con thấy có rất nhiều hỗn loạn trên thế giới nhưng đồng thời cũng có một hướng tiến triển, nhưng do đâu đã có tiến triển như vậy? Là vì đã có những người hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi nhận biết bình thường của con người. Mức nhận biết cao này là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh bên trong và mỗi người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Một khía cạnh trong Phật tánh là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài cho rằng con là một sinh thể tách biệt khỏi người khác và thế giới. Con vươn đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con chứng tâm thức Phật.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Khía cạnh thứ hai là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Nhờ vậy con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì trên trái đất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là cải tiến đó xảy ra khi con tham gia vào một lãnh vực của cuộc sống, đồng thời con cũng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm con, để nhận được một ý tưởng từ mức nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sinh kế thực sự của con là khi con cải thiện và nâng cao một khía cạnh của cuộc sống. Hãy giúp con không nhìn vào đủ loại nghề kiếm sống rồi bảo: “Ồ các loại nghề này, một người tâm linh sẽ không nên làm.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, hãy giúp con tìm được thế cân bằng tế nhị ở đây. Một mặt có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần, vì chúng sẽ được bỏ lại khi tâm thức loài người tiến bộ hơn, khi càng ngày càng có nhiều người giải quyết được tâm lý cá nhân của mình, và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Mặt khác, có những hoạt động mang tiềm năng xây dựng, như kinh doanh chẳng hạn. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh để nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này và đẩy nó tiến tới. Con muốn hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái này. Con không phân chia hoạt động nào là đúng hay sai.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đây chính là ý nghĩa thâm sâu của câu “Mọi thứ đều là Phật tánh.” Con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Tất cả đều có tiềm năng là việc tâm linh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Lúc ban đầu, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, nhưng con người đã kéo trái đất xuống, khiến cho đau khổ trở thành trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống. Chính con người đã tạo ra đau khổ bằng cách hình thành những tâm ảnh trong thể bản sắc, lý trí và càm xúc của mình, rồi phóng chiếu lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Nhưng đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra khổ đau và điên đảo trên trái đất được tạo ra không từ nhận biết về tổng thể, mà từ nhận biết rằng con người là sinh thể tách biệt. Nhận biết tách biệt là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Con nhìn lại một số hoạt động và con nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Những hoạt động hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả mà chúng đem lại. Chúng cũng không đếm xỉa gì tới chính những người mang tâm thái đó, họ bị chi phối như thế nào, họ gây ra những nghiệp gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao – ngay cả khi họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con áp dụng sự lượng định này cho mọi hoạt động của con, kể cả cho kế sinh nhai của con: “Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt?”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mà con đã lập ra trước khi đầu thai. Con nói: “Đâu là nơi tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Con làm vậy không những trong lãnh vực kinh doanh mà có thể trong chính trị, hành chánh, giáo dục hay rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Những khía cạnh này không hoàn toàn nguy hại, chúng có chỗ cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi con dấn thân vào trong đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Đối với người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu. Quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con để tìm xem trong đó có ghi những gì.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Con không còn nghĩ đến việc sinh kế như là chuyện kiếm tiền, rằng con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Con từ bỏ mọi giấc mơ làm giàu chớp nhoáng, hy vọng rằng con sẽ tìm ra cách kiếm được số tiền kếch sù để con đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng chuyện tiền bạc hầu có thể tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Con từ bỏ mọi giấc mơ tìm một con đường tắt, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Thay vào đó, khi con làm việc bình thường và từ từ kiếm đủ tiền, con ngộ ra là sự tham gia vào xã hội vẫn nằm trọn trong việc đeo đuổi tâm linh của con. Tất cả mọi thứ đều trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con có việc tham gia vào một lãnh vực nào đó để đem lại một số cải thiện. Thậm chí, chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo mọi người trong lãnh vực này đi lên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra tài nguyên thực trên trái đất không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng tài nguyên thực không chỉ là năng lượng, đó là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Xin thày giúp con biến tâm con thành một cửa vào cho năng lượng này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tiền bạc sẽ không bao giờ đủ để đem lại an bình cho con. Điều khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này, năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Nhờ vậy, không những con có năng lượng sáng tạo để thị hiện, mà con còn cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con, con cảm thấy mình bị bỏ rơi. Nhưng sự bỏ rơi chỉ diễn ra trong tâm con, chứ thực sự không có bỏ rơi. Kỳ thực con nối kết với cái ta cao, con là một biểu hiện của cái ta cao. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian để trải nghiệm thế giới từ bên trong.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra là con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết với cái ta cao, nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh của tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Đó là tại sao con cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn, thiếu sót, không trọn vẹn, tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng bên trong.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Tự ngã có một lỗ hổng bên trong mà nó không thể nào lấp đầy. Nó được tạo ra trong thế gian, nên nó chỉ biết cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải, thiếu hụt, là đạt được gì đó từ thế gian, kể cả tiền bạc. Tự ngã không ngừng đuổi theo thế gian vì nó tưởng nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng nó sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con là cái ta mà con là. Hãy giúp con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn trong thế gian khi con loại bỏ các ảo tưởng của Maya một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Con thiết lập sự nối kết ý thức ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, hãy giúp con có được cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn trong bản thân mình. Con không cần bất cứ gì từ thế gian để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể muốn có, muốn trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con bước ra ngoài tự ngã để con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng Phật Gautama, xin thày giúp con lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao của con và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, gọi là trải nghiệm thần bí. Hãy giúp con ngày càng nối kết nhiều hơn, để những lần bị ngã vỏ ngoài áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn, và con hiểu đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Con hiểu ra Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao. Con nối kết rộng mở hơn, nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng sai lầm hầu con làm sạch các thể đó. Con tạo ra nhiều khoảng trống hơn để năng lượng chảy xuống nhiều hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Con thỉnh năng lượng chảy xuống. Con thỉnh các chân sư thăng thiên cùng những năng lượng đặc thù mà các thày biểu tượng. Con thỉnh cả bảy tia sáng tâm linh và con gia tăng dòng chảy của năng lượng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thực hiện ngụ ngôn về các ta-lăng. Khi con dùng năng lượng nhận được từ cõi cao để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại cải tiến, khi con gửi ra ngoài một xung lực năng lượng dựa trên tình thương sẽ luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì nó vượt quá vũ trụ vật chất và được nhân lên. Và con được nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng. Con dùng năng lượng với một nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh của tổng thể, và kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Con bỏ hẳn việc dùng giáo lý tâm linh để tạo lợi thế cho ngã tách biệt, để cảm thấy an toàn yên ổn hay tốt thiện hơn người. Và đây là mục đích của Bát chánh đạo: Con ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con nối kết với mọi người, với môi trường, với mọi sự sống. Con hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể. Đây chính là Phật tánh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Đây là kế mưu sinh tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào việc đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý, gia đình, cùng những trách nhiệm khác của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

32 | Thỉnh cầu kết nối với Phật Gautama (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Phật Gautama hãy giúp con thấy liệu con đã cho phép một giáo lý vỏ ngoài hay một cách diễn giải giáo lý ngăn cản con trải nghiệm trực tiếp sự Hiện diện của thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con thấy có sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau ngôn từ giáo lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con thực sự muốn sử dụng giáo lý, và con thấy là con cần vượt lên trên diễn giải ngôn từ. Con không chỉ đi tìm cái hiểu, không chỉ đơn giản nắm bắt, mà con đi tìm trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau chữ nghĩa.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con thấy là lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và con sẵn lòng chỉ sử dụng giáo lý vỏ ngoài như một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà nơi tâm vị này lời dạy đã phát xuất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố gắng hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng giáo lý cao nhất. Con thật không đang dùng giáo lý, vì mục đích của một giáo lý là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con thấy được là khi con cố hiểu và diễn giải giáo lý với mức tâm thức hiện tại của mình, thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con nhìn ra là Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng giữa hai đối cực trên một thang điểm đường thẳng, mà Trung đạo là sự thăng vượt thang điểm nhị nguyên, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, có nghĩa là thăng vượt chính tâm đường thẳng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, con thấy là con không thể dùng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết – ở đó không có gì hết.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con thấy thày đã nói là không có một cái ngã trường cửu bất biến, mà có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt, và cái ta này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con thấy được ý định của thày là nâng cao tâm thức con vượt lên trên tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con thấy con có thể lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi cao có những sinh thể tâm linh, các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Con cũng có thể lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con thấy được giá trị thực của khái niệm trống không là không có một ngã trường cửu bất biến. Con là một cái ngã, một cái ta. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết là sự trống không, theo nghĩa cái Ta Biết không phải là bản sắc, ý tưởng và cảm xúc của con, bởi vì những thứ này ngụ trong tâm hay được sản xuất bởi tâm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì con có thể tập trung vào chính tâm thức. Tâm thức có thể trống rỗng mọi nội dung, và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con thấy là con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con hành động, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con thấy là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết thì có vẻ như con bước vào hình thức tối hậu của sự trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết bây giờ trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy là điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà trái lại có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ khi con thăng thiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không có nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, tức sự trống không tối hậu. Không hề có một trạng thái trống không tối hậu được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy là mặc dù khoảng trống (void) của đấng Sáng tạo có thể được quan niệm như là trống không, nhưng con không thể trải nghiệm khoảng trống đó, vì trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm được?

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con thấy một số người tuyên bố là họ đã trải nghiệm thực tại cao nhất, nhận biết thuần khiết, trạng thái nhận biết tối hậu, nhưng họ đã trải nghiệm một trạng thái do các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con buông bỏ xu hướng phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Con buông bỏ con quái vật đó, khuôn đúc đó, cái ngã đó trong tâm thức tập thể có vẻ như trống rỗng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con thấy đã có sự phóng chiếu một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không thể là một trạng thái tâm thức tối hậu. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Nó có một mục đích, đó là tăng triển đến những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con thấy được là con không tăng triển đến những tầng tâm thức cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con thấy là con đã được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con và vươn đến những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Đó là nơi con tìm được ý nghĩa càng ngày càng sâu sắc trong việc biểu đạt chính mình như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con sẵn lòng thăng vượt tâm thức nhị nguyên, là tâm thức tùy thuộc vào định luật thứ nhì của nhiệt động học, hầu con không cần dùng đến sức mạnh để lên thiên đàng. Con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con thấy được thiên đàng không phải là một địa điểm vật lý. Đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác. Cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy có một cái Ta ở cõi tâm linh và con đã đi ra từ cái Ta này. Con đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con. Chúng đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thấy là bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con thấy ở cõi cao có một cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó. Nói cho cùng, đó là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo, sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên, xuống tận đến dưới này là bầu cõi chưa thăng thiên ở đây.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con thấy các chân sư thăng thiên cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ của con đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con thấy là cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con thấy đó là chức năng của cái Ta Biết, đó chính là tiến trình thăng thiên. Khi con hoàn tất tiến trình này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình có thể dẫn con đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con sẵn lòng hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Một khi con thăng thiên, con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con thấy một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh, vì con luôn luôn có thể dùng nó để kết nối với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con thấy được là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày sẽ có thể cho con một điều gì đó vượt khỏi lời dạy thành văn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng kết nối và nhận được điều gì đó từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có thể thày với con sẽ hòa điệu theo một cách vượt trên ngôn từ. Con sẵn lòng có cuộc gặp gỡ đó trong tâm, và gặp gỡ đó không trống không vì con thấy được trống không là một khái niệm rỗng tuếch.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu bước theo chân Phật để nhận biết thuần khiết

Bài thỉnh này là một trong ba bài thỉnh có thể được sử dụng song song với bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama “Vượt qua tấn tuồng cuộc đời bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động” ngày 31/12/2009. Hai bài thỉnh còn lại cho bài giảng trên là:
Thỉnh cầu sự phân biện giữa phản ứng và hành động
Thỉnh cầu cách ứng xử đối với tâm thức cáo buộc

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con bước theo chân Phật, thăng vượt nhận thức ô nhiễm và có được nhận biết thuần khiết, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm quá trình cá nhân mà qua đó thày đã đạt được sự nhận biết thuần khiết.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Có những tên gọi khác cho nhận biết thuần khiết, như cái ta ý thức, hay cái Ta Biết. Nhưng thực tế là khi con vượt khỏi mọi ý niệm bản ngã thì đó là nhận biết thuần khiết.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Các nhà thần bí mọi thời đều biết là khi con vượt ngoài nhận biết giác quan – sự nhận biết đến từ tâm vỏ ngoài do cảm xúc chi phối, sự nhận biết ở mức ý tưởng, ngay cả sự nhận biết đến từ ý thức bản sắc là mình sống trong thế gian này – khi con vượt qua tất cả những thứ đó thì con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Nhận biết thuần khiết không thể bị bất cứ gì trong cõi nhị nguyên, bất cứ gì trong thế giới hình tướng làm ô nhiễm.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhận thức thuần khiết không đạt được bằng cách gạt bỏ những bất toàn, mà nhìn xuyên qua bất toàn, nhìn xa hơn bất toàn, và nhìn xem có gì vượt cả sự nhận thức.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Ngay cả việc tu tập khổ hạnh, hành hạ thân tâm, kiềm chế tâm trí, cũng đã không dẫn thày đến nhận thức thuần khiết.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, vậy thì điều gì đã giúp thày vượt lên trên mức đó và chứng được quả vị Phật? Đó là do thày đã sẵn sàng chất vấn từng khía cạnh của nhận thức. Thày sẵn sàng đặt lại vấn đề tất cả, rồi thày nhận ra các mô thức vận hành khiến cho nhận thức ô nhiễm trở thành một chu kỳ bất tận không dẫn tới đâu. Và khi đó, thày bắt đầu chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết gọi là Samadhi hay Nirvana.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, thày nhìn ra nhận biết ô nhiễm chính là nhận biết nhị nguyên khi có hai đối cực phải hiện diện. Chúng trông như hoàn toàn có thực – cái đối cực này không thể hiện hữu mà không có cái kia – và do đó cái này cũng thực như cái kia, tạo ra cảm tưởng là cái ác cũng thực như Thượng đế, rằng ác quỷ có quyền năng, có thường hằng, có thực thể.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, thày nhận ra có một cách tham gia vào cuộc sống năng động trong một thế gian đầy bất toàn mà vẫn không bị cuốn hút vào nhận thức nhị nguyên, vốn gắn nhãn mọi thứ theo một thang điểm tương đối với hai đối cực – thiện ác, đúng sai, thật giả, đẹp xấu, dễ chịu hay khó chịu.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, thày thấy được có gì đó vượt ngoài nhận thức nhị nguyên, vượt ngoài nhận thức ô nhiễm. Do nhận thức ô nhiễm mà người ta không thể tách rời hành động nhận thức với hành động gắn nhãn, lượng định, phê phán.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, thày nhìn ra là vượt lên trên cách nhận thức phê phán, gắn nhãn và đánh giá đó, có một cách nhận thức khác là nhận biết thuần khiết, qua đó thày không gạt bỏ những bất toàn trên địa cầu.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, thày không gạt bỏ tính không thực của thế gian, nhưng thày không phán xét nó, không dán nhãn nó. Thày không phản ứng lại nó trong sự cảm xúc, như cảm thấy mình bị đe dọa, bị khó chịu hay ghê tởm, hay cảm thấy nó không được quyền có mặt ở đây.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, thày nhìn vượt khỏi hình tướng bên ngoài và thấy được Phật tánh, Ánh sáng Mẫu-Vật, sự thanh tịnh, thực tại rằng tất cả được sinh tạo từ ánh sáng của Thượng đế và vì vậy có tiềm năng rũ bỏ hình tướng ô uế để được gia tốc vào sự thuần khiết của tâm thức Ki-tô, tâm thức Phật, tâm thức Thượng đế.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, thày đã đến một điểm của tâm thức Phật nơi thày duy trì được Samadhi ngay khi tham gia vào mọi sinh hoạt đời sống.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con bước theo chân thày và trải nghiệm được nhận biết thuần khiết. Con sẵn sàng chất vấn nhận thức của con. Không những con chất vấn giáo lý công truyền mà chất vấn cả nhận thức của con về giáo lý công truyền.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy rõ là để được gia nhập vào tăng đoàn của Phật, con phải chất vấn nhận thức của mình. Nếu con không chất vấn nhận thức, con sẽ tin là nhận thức hiện thời của con về cuộc sống là thực, trọn vẹn, chính xác, và con sẽ không thể vượt lên trên nhận thức này. Con sẽ không thể nhận ra sự thật mà thày đã bày tỏ trong Kinh Pháp cú cách đây 2500 năm – rằng nhận thức xuất phát từ một thể của tâm sâu xa hơn, thể bản sắc, là cái nhìn của con nơi tầng bản sắc về chính con và cuộc sống.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con nghiệm thấy chính sự nhận biết sâu xa này nơi bản sắc đã nhào nặn cách con tiếp cận cuộc sống theo lý trí và cảm xúc. Nó khiến con nhìn tình huống một cách nào đó, khiến con có một tâm trạng nào đó, chẳng hạn con cảm thấy bị kết án bất công, phải phê phán người khác, hay phải phản ứng giận dữ khi tình thế không đúng ý. Và khi con ở trong tâm thái thấp như vậy, nếu con không chịu chất vấn nhận thức thì con sẽ tin nhận thức của mình là cao nhất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con phơi bày tâm thái đã làm ô nhiễm nhận thức của con từ trong sâu, và nhận thức ô nhiễm này lại sản xuất ra tâm thái thấp kém nơi con bị kẹt. Thế là tâm thái thấp trở thành một cơ chế khép kín, một vòng phản ứng luẩn quẩn đóng chặt nơi con không ngừng phản ứng lại cuộc đời.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con nhận ra là con phản ứng lại những gì con đã phóng ra tấm gương vũ trụ. Con phản ứng lại những phản ứng của chính con do cái nhìn của con về cuộc đời tạo ra. Cho nên con bị kẹt trong một vòng xoắn ốc bất tận, phản ứng lại phản ứng của con lẫn phản ứng của người khác. Tất cả đều là phản ứng của nhau.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra là con sẽ chỉ tự do khi nào con ngừng nhìn vào người khác hầu tìm cách thay đổi tâm thức họ. Con nhìn nhận chìa khóa cho sự tự do của con là con thay đổi tâm thức của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Chìa khóa để thay đổi tâm thức là chất vấn nhận thức của con. Con đi sâu vào tầng mức của nguyên nhân và nhìn xa hơn tầng mức của kết quả. Con đi vào tầng mức của hành động và nhìn vượt khỏi tầng mức của phản ứng. Con sẽ không thể thay đổi phản ứng cho đến khi con thay đổi hành động.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy phản ứng là sự nhận thức ô nhiễm tạo ra ở các tầng cảm xúc và lý trí. Còn tầng mức của hành động nằm bên trên, ở thể bản sắc, là cách con nhìn cuộc đời và chính con, là quan hệ của con với cuộc sống, với mọi người, với Ánh sáng Mẫu-Vật, với Thượng đế. Đây là nhận thức sâu sắc khiến con hành động bằng cách phóng ra một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thấy những bất toàn của thế gian, nhưng con không dán nhãn chúng, con không phê phán chúng, con không phản ứng lai chúng. Con chỉ nhìn thấy chúng, nhưng con thấy chúng vô thường, con thấy chúng không thực.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con không phản ứng lại cái không thực, cái bất toàn. Thay vào đó, con hành động dựa trên sáng ngộ là mỗi bất toàn có thể được gia tốc vào thuần khiết.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con đi vào cuộc đời và hành động để nâng cao mọi sự sống, thay vì tìm cách kết án một sắc thái bất toàn nào đó của sự sống rồi tìm cách triệt hạ nó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thấu sự lừa dối của tâm thức cáo buộc, sự lừa dối nền tảng đằng sau tất cả những tấn tuồng cuồng đại.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Tư duy cuồng đại khiến con tin rằng có cái gì đó xấu xa hay ác hại, và cái đó cần bị triệt tiêu. Nhưng khi con muốn triệt tiêu xấu ác thì con đã khởi đầu một phản ứng chống lại xấu ác – điều này không thể xóa bỏ khổ đau trên địa cầu mà chỉ gia tăng khổ đau.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy cách duy nhất để “xoá bỏ xấu ác” là thăng vượt tâm thức nhị nguyên hầu con hành động trong tâm thức bất nhị. Con gia tốc các điều kiện mà người ta gọi là xấu ác, gia tốc nó vào thanh tịnh bằng cách nâng cao mọi sự sống thay vì lên án, chê trách, miệt thị, triệt tiêu.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự khác biệt giữa những ai đã thăng thiên và những ai chưa thăng thiên, khác biệt giữa những ai đi theo con đường của tình thương và những ai còn bị mắc kẹt trong cái nhìn sợ hãi khi họ cảm thấy nhu cầu phải phê phán, bài bác, tiêu diệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con nhận ra là thày không yêu cầu con trở nên đui mù. Thày không yêu cầu con gạt bỏ những bất toàn đầy rẫy trong thế gian, nhưng thày yêu cầu con không khiến chúng trở thành trường tồn trong tâm con bằng cách phản ứng lại chúng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con không phản ứng lại sự bất toàn, vì một khi con biết một điều gì là không thực và chính con là thực, thì con không có nhu cầu phản ứng hay chống đối lại cái không thực.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con không phản ứng vì thấy mình bị đe dọa, tức giận, sợ hãi hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác. Con chỉ đơn giản nhìn sự bất toàn và con hành động – bằng hành động không dựa trên hình dạng hay hình tướng bề ngoài, mà dựa trên nguồn sáng tạo nội tâm tự phát từ cái ta cao hơn của con, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ tất cả mọi tầng của các sinh thể tâm linh ở ngay trên con nối dài cho tới Đấng Sáng tạo.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con không ban cho hình tướng sự trường tồn, không ban cho nó thực chất. Cho nên hành động của con không nhắm tới triệt hạ và hủy diệt, mà chỉ nhắm tới gia tốc vào sự thuần khiết mà con thấy vượt khỏi hình tướng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra đó chính là nhận thức thuần khiết. Khi con nhìn cái gì đó và thấy đó là một biểu hiện không thực, con không bị lôi cuốn vào phản ứng muốn gắn nhãn cho nó là xấu, dở hay ác như người đời thường làm.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con nhất quyết vươn lên khỏi tâm thức của kẻ cáo buộc và những tấn tuồng cuồng đại. Con nguyện sẽ đóng góp vào sự gia tốc của địa cầu và sự hình thành tăng đoàn của Phật.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày ban cho con nhận thức thuần khiết của Tâm Phật, là tâm biết tất cả đều là Phật tánh và do đó thấy được khác biệt giữa sự thực thuần khiết của Phật tánh và sự không thực của các ảo tưởng Maya, chúng luôn đến cám dỗ con phản ứng lại cái không thực bằng đủ mọi cách. Con đã nhìn ra bất kỳ phản ứng nào cũng khiến con bị kẹt trong vòng xoắn ốc của không thực. Cho nên con sẽ là Phật – nhất định không phản ứng, nhất định bước vào con đường tâm linh hầu thày có thể dạy con cách hành động, hành động, hành động từ nhận thức thuần khiết.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Thỉnh cầu cách ứng xử đối với tâm thức cáo buộc

Bài thỉnh này là một trong ba bài thỉnh có thể được sử dụng song song với bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama “Vượt qua tấn tuồng cuộc đời bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động” ngày 31/12/2009. Hai bài thỉnh còn lại cho bài giảng trên là:
Thỉnh cầu sự phân biện giữa phản ứng và hành động
Thỉnh cầu bước theo chân Phật để nhận biết thuần khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con hành động chứ không phản ứng trước tâm thức cáo buộc, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Tâm thức cáo buộc người anh em đã có từ lâu trước khi bầu cõi này được tạo lập, trước cả khi vũ trụ vật chất được sáng tạo. Nó đã hiện diện trên địa cầu, không ngay từ đầu nhưng suốt một thời gian rất dài.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Tâm thức cáo buộc đã có mặt sau khi các sinh thể sa ngã đầu tiên quyết định dấn thân vào năng lượng cáo buộc hầu kéo mọi người rơi xuống với chúng. Đó phần nào là khai ngộ của Trường đời Cay đắng. Theo một cách khác, đó cũng phần nào là khai ngộ của trường bí giáo của các chân sư thăng thiên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua khai ngộ này bằng cách nhìn thấu những điểm tinh tế của năng lượng cáo buộc. Để làm vậy, con sẵn sàng nhìn nhận tất cả mọi sự đều là tạo vật của tâm thức.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con vươn lên trên năng lượng cáo buộc khi chính tâm con không còn nghĩ đến chuyện cáo buộc.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Năng lượng cáo buộc thường kích hoạt khi có ai đó nóng giận tiến về phía con, buộc tội con đã làm gì đó. Con lập tức phản ứng lại năng lượng này bằng cách đóng tâm con lại, đóng các luân xa lại và không muốn nhận vào năng lượng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Năng lượng đó khiến tâm con bắt đầu duyệt xét nội dung lời buộc tội. “Có gì thực trong lời này? Có thật là tôi đã làm chuyện đó không? Hay tôi đã không làm? Không, tôi đã không làm, tôi sẽ bào chữa thế nào đây? Làm sao để người ta tin tôi? Chuyện này sẽ hại đến danh giá của tôi như thế nào?” Tất cả những câu hỏi mà con có thể nghĩ ra cứ lặp đi lặp lại trong tâm con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Một khi tâm con vùi đầu vào chi tiết lời buộc tội, con đã dấn sâu vào vòng xoắn ốc hướng hạ. Và kẻ buộc tội đã đặt con vào đúng cái thế họ muốn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là mọi sự đều do tâm thức tạo dựng, và do đó mọi điều có mặt trên địa cầu là sự biểu hiện thành hình tướng của một trạng thái tâm thức. Nhờ nhận ra như vậy mà con có thể nhìn lời buộc tội từ một góc độ khác hơn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Bây giờ con nhận ra là lời buộc tội của người kia rất có thể không liên quan gì tới con, tới hành vi của con hay tình trạng tâm thức của con. Nó có thể chỉ là sản phẩm của tâm thức người đó.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Tuy vậy, con không làm ngơ trước lời cáo buộc. Con tự nhủ: “Tôi sẽ không phản ứng lại lời buộc tội bằng sự biện minh. Tôi sẽ tự xét mình một cách trung thực. Nếu tôi thấy mình đã có những hành vi, động lực, tình cảm, ý nghĩ hay quan điểm không trong sáng, không tối ưu, thì tôi sẽ tự tu sửa lấy mình. Nhưng tôi sẽ hoàn toàn làm ngơ người tố cáo.”

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Con không tự bào chữa. Con không buộc ngược lại người kia. Xong con nhìn vào chính con, tách ra khỏi người tố cáo, vì lời buộc và năng lượng của họ sẽ không giúp con nhìn vào bên trong. Con tiếp xúc với các vị thày tâm linh của con hầu nhận được sự hướng dẫn nội tâm sẽ giúp con nhìn thấy cái xà trong mắt mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Con tách mình ra khỏi năng lượng và tâm thức của kẻ buộc tội. Con tìm xem có điều gì trong tâm thức con cần thay đổi. Và con quyết định thay đổi nó. Con quyết định tự gia tốc để vượt lên trên nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Sau đó con nhìn lại người kia và xem họ còn buộc con nữa không. Và nếu họ còn, con sẽ giải quyết chuyện này ở tầng tâm thức cao hơn mà con vừa đạt tới, là tầng tâm thức nơi người kia không còn lý do nào để buộc con nữa.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn nhận là đã bao lần con bị buộc tội ở một trạng thái tâm thức nào đó thì con đã đáp lại ở cùng tầng tâm thức đó. Điều này khiến con bị vướng kẹt trong cái bẫy của phản ứng nhị nguyên, nó chỉ có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con không phản ứng ở cùng tầng tâm thức đó, mà ngược lại con rút về, đứng sang một bên, làm việc trên chính mình, nhìn vào chính mình, làm việc với các thày tâm linh. Nếu con thấy lời buộc tội có gì đúng thì con bỏ công gia tốc vượt lên trên.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Sau đó nếu cần thiết, con có thể trở lại giải quyết với người đã buộc con. Nhưng cũng có thể con nhận ra là chuyện giải quyết với họ sẽ chẳng đem lại gì xây dựng vì con đã thăng vượt tâm thức đó rồi.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Con có thể quyết định trở lại kẻ cáo buộc để khiến họ nhận ra là con đã vượt tâm thức cũ của con. Điều này có thể khiến họ cũng muốn thăng vượt tâm thức của họ. Con và họ có thể bắt đầu một quan hệ mới ở một cấp độ mới.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Nhưng nếu con tìm ra là người kia vẫn không sẵn sàng thăng vượt tâm thức cáo buộc, thì chẳng có ích gì mà con cố bác bỏ lập luận của họ, hay tự biện bạch, hay cố thay đổi quan điểm của họ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Nếu người kia không sẵn sàng thăng vượt, con khó lòng đạt được điều gì xây dựng. Tuy vậy, họ có thể đã chỉ ra điều gì đó không ổn trong con, và như vậy con nắm lấy cơ hội này để học hỏi.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Có câu ngạn ngữ bảo rằng nếu con thấy thói xấu nơi người khác thì chính con cũng có thói xấu đó. Câu này có thể đúng với đa số mọi người.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Tuy nhiên câu nói này không đúng nếu con có tâm thức Ki-tô, vì con có thể thấy thói xấu hay cái giằm trong mắt người anh em mà nhận xét của con vẫn đúng. Trong tâm thức Ki-tô, con không cáo buộc một ai, bởi vì con đã thăng vượt năng lượng cáo buộc sinh ra từ nhị nguyên – và vì thế Ki-tô không cáo buộc.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự khác biệt quan trọng nhưng vi tế giữa việc chỉ ra một điều cần chỉnh đốn và làm cùng như vậy với một năng lượng cáo buộc nhằm hạ thấp đối tượng.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Ki-tô chỉ có một mục đích là nâng người kia lên. Và như vậy khi con chỉ ra một điều gì cần sửa đổi, con phát biểu một cách xây dựng vì con muốn giúp người kia thăng vượt nó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con gỡ bỏ cái xà trong mắt con, và nhờ vậy con thấy rõ những gì diễn ra trong tâm thức người khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra những ai sẵn sàng để cho con làm việc với họ để con có thể hết sức giúp họ. Xin thày cũng giúp con nhận ra những ai chưa tới mức chấp nhận mọi sự đều là biểu hiện của tâm thức, hầu con có thể thách đố họ hay đơn giản để họ yên thân.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là không có cách ứng xử nào là đúng hay sai, bởi vì trên đường tu có nhiều giai đoạn khác nhau.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Có giai đoạn của quả vị Ki-tô, là khi con đi ra ngoài thế gian và tìm cách giúp đỡ mọi người, hay con đặt vấn đề với những ai không chịu tiến lên cao hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Con có thể chọn làm giống như Ki-tô, tiếp nhận bất cứ ai bất kể tâm thức của họ. Ki-tô tiếp nhận người hủi lở, người bị đủ loại tật nguyền, người bị quỷ ám – đủ mọi loại người bị kẹt trong đủ loại niềm tin.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con có thể chọn làm giống như Ki-tô, đi ra ngoài thế gian và ứng xử với mọi người tùy theo khả năng sáng tạo bên trong, khả năng phân biện nội tâm và trình độ tâm Ki-tô của họ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Nhưng sau giai đoạn Ki-tô thì có giai đoạn của quả vị Phật, như khi Phật từng lánh xa xã hội và thiết lập một đạo tràng biệt lập. Nơi đó, Phật để cho học trò tự nguyện đến với thày, và thày có thể từ khước những ai chưa sẵn sàng nhận ra mọi sự đều là biểu hiện của tâm thức.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra chìa khóa cho sự tiến bộ cá nhân của con được tìm thấy trong chính tâm thức con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thoát khỏi tâm thức của kẻ cáo buộc, vòng xoắn ốc hướng hạ của kẻ cáo buộc, khi họ chỉ chú tâm vào việc cải sửa người khác. Họ tưởng là họ phải cải tổ thế giới và con người, thậm chí phải đưa ra lời phán xét hay lên án hay lật mặt người khác, và họ luôn ở trong tâm trạng muốn thay đổi tâm thức người khác thay vì tâm thức của họ.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Tất nhiên là họ có quyền tự quyết. Họ có quyền ở trong tâm thức đó và nếm mùi những trải nghiệm mà họ cần trong tâm thức đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Nhưng Phật cũng có quyền định ra một tăng đoàn đứng biệt lập khỏi tâm thức cáo buộc, mà điều kiện gia nhập là phải thừa nhận chính mình cần thay đổi tâm thức của mình thay vì cố thay đổi tâm thức người khác.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Con có thể chọn làm giống như Phật. Con không bắt buộc phải làm việc với bất cứ ai đến gõ cửa nhà con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua cuộc điểm đạo để được phép gia nhập tăng đoàn của Phật. Điểm đạo này là trước tiên con phải chấp nhận mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của tâm thức. Con nhận ra mọi sự mà chính con gặp trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của tâm thức con – nếu con phản ứng lại.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Thỉnh cầu sự phân biện giữa phản ứng và hành động

Bài thỉnh này là một trong ba bài thỉnh có thể được sử dụng song song với bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama “Vượt qua tấn tuồng cuộc đời bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động” ngày 31/12/2009. Hai bài thỉnh còn lại cho bài giảng trên là:
Thỉnh cầu cách ứng xử đối với tâm thức cáo buộc
Thỉnh cầu bước theo chân Phật để nhận biết thuần khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con phân biện giữa các phản ứng xuất phát từ ngã tách biệt và các hành động xuất phát từ nguồn sáng tạo của Hiện diện TA LÀ. Xin thày giúp con ngừng phản ứng để chuyển sang hành động, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra tại sao con đã muốn bước vào tâm thức nhị nguyên, xem mọi thứ đều có đối cực và gán ghép cho chúng những giá trị tốt-xấu, đúng-sai. Đó là vì con đã không sẵn sàng nhận trách nhiệm về bản thân con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con hiểu thấu thế nào là nhận trách nhiệm về bản thân. Đó là con sẵn sàng nhìn nhận một sự thật nền tảng, nhờ vậy con mới có thể tăng triển trên đường tâm linh thay vì ở lại trong Trường đời Cay đắng. Nhờ vậy con mới có thể trở thành học trò cá nhân của các chân sư thăng thiên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Sự thật đó là: Mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là sự biểu hiện của tâm thức, là tạo vật của tâm thức. Không có gì trong thế giới hình tướng, dù trong cõi tâm linh hay vũ trụ vật chất, có sự hiện hữu độc lập hay khách quan.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Không có gì đã đi vào hiện hữu mà không được sinh tạo bởi một vị đồng sáng tạo với khả năng tự nhận biết. Vị này – có thể là chính con – hình dung ra một hình tư tưởng, rồi dùng khả năng đồng sáng tạo của mình để áp chồng hình tư tưởng này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng này khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Không có cách nào khác để đồng sáng tạo. Cho nên để cất bước trên con đường tâm linh, con chất vấn những gì con nhận biết trong vũ trụ vật chất là thực, là có sự hiện hữu độc lập với tâm thức, là trường tồn hay bất biến, hay thay đổi rất chậm do những tiến trình bên ngoài mà con không thể kiểm soát.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt nhận thức hiện thời của con, hộp tư duy hiện thời của con, để nhận ra là không có gì trong thế giới của con mà con không thể gia tốc lên một tầng cao hơn bằng cách gia tốc chính tâm thức của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt nhận thức cho rằng trong đời con có nhiều chuyện con không có quyền năng thay đổi, do chúng tùy thuộc vào định luật tự nhiên, hay tùy thuộc vào người khác và các chọn lựa tự quyết của người khác.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là kỳ thực, con vẫn có quyền năng thay đổi một điều. Con có quyền năng thay đổi cách con phản ứng lại tình huống ngoại cảnh hay cách cư xử của người khác.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Con tự hỏi: “Làm thế nào tôi có thể gia tốc phản ứng của mình để không bị hoàn cảnh, hành động, lời nói của người khác buộc tôi phải phản ứng tiêu cực? Làm thế nào gia tốc ra khỏi khuôn nếp phản ứng cũ? Làm thế nào ra khỏi cách vận hành cố hữu của tâm thức phản ứng?” Khi đặt ra những câu hỏi này thì con mới thực sự cất bước trên con đường tâm linh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Ban đầu, con chỉ thay đổi được cách phản ứng của con đối với hoàn cảnh hay người khác. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một khi con gia tốc phản ứng của con, con sẽ đạt tới điểm không còn gặp phải một số tình huống hay loại người đặc thù nữa.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Vũ trụ này là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra ngoài.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Nếu con gửi ra ngoài ý tưởng là con luôn bị người ta đổ tội oan ức, thì dựa trên hình tư tưởng con có trong tâm, vũ trụ sẽ suy ra là con muốn kinh nghiệm một tình huống có ai đó buộc tội con. Và như thế, vũ trụ sẽ chiều theo và gửi đến con loại người buộc tội đó. Và con sẽ phản ứng lại theo cùng khuôn nếp đó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Điều đã khiến con phản ứng không phải là một tình huống bên ngoài độc lập với tâm thức của con, mà con đã phản ứng lại sự phản ứng của tấm gương vũ trụ đối với những hình ảnh mà chính con đã gửi ra.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Luật nhân quả là luật của hành động và phản ứng. Và phản ứng luôn đi theo sau hành động.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là khi con không nhận trách nhiệm về bản thân, con không thấy được chuỗi tình huống kia đã khởi sự với một hành động của con. Con đã phóng vào tấm gương vũ trụ những hình tư tưởng từ thể bản sắc của con, và cái trở ngược về con là sự phản ứng do hành động của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Con cứ tưởng là con đã phản ứng lại hành động của người khác. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự thật là khi con nhận trọn vẹn trách nhiệm về mình thì con sẽ không bao giờ phản ứng lại bất cứ gì!

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Con nhận ra là Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Và dù chuyện gì xảy ra cho con, con vẫn tự do chọn lựa những gì xảy ra trong tâm con – bất kể những gì xảy ra bên ngoài thân con và tâm con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Con ngộ ra là con hoàn toàn không có nhu cầu phản ứng lại bất cứ gì. Không có định luật tự nhiên nào bắt con phải phản ứng lại những tình huống con gặp trong vũ trụ vật chất, vì con có thể gia tốc vào một tâm thức cao hơn nơi con không phản ứng mà con hành động.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Dù có gì xảy ra bên ngoài, con vẫn chọn được tâm thức của con. Con chọn hành động dựa theo tâm thức của con chứ không theo tâm thức người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Con không bao giờ bị giới hạn bởi tâm thức và quyền tự quyết của người khác, vì chính con tự do chọn lựa hành động của mình, tâm thức của mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Con tự hỏi: “Tại sao tôi cứ gặp hoài những loại người này? Có điều gì trong tôi mà tôi chưa nhìn thấy? Có bài học nào mà tôi chưa hấp thụ khiến tôi cứ phải thi lại hoài hoài cho đến khi tôi học xong bài học?” Con nhìn vào bản thân, làm sáng tỏ cái đó là gì – có thể là một vết thương từ quá khứ, một tin tưởng nào đó – và con gia tốc để thăng vượt nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Con không còn nhu cầu phản ứng nữa và con tự do chọn lựa hành động. Thậm chí nếu con gặp lại người kia cư xử y hệt như trước, con không phản ứng lại họ. Con chọn! Và vì vậy con hành động. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Người kia không còn nắm chủ động nữa, mà con giành lại thế chủ động qua hành động của con, một hành động không bị điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức hay hành động của họ, mà là hành động xuất phát từ sự sáng tạo nội tại mà con vốn có, từ nguồn sáng tạo nằm trong Hiện diện TA LÀ của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là mỗi khi con phản ứng lại bất cứ điều gì trong thế gian này, thì trong tâm thức con vẫn còn một cái gì đó chưa rũ bỏ, chưa chữa lành hay chưa thanh lọc – và đó là tại sao con đã phản ứng. Chỉ giản dị vậy thôi!

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu trong con không có gì tương ứng với thế gian thì con sẽ không phản ứng lại thế gian. Con sẽ hành động, nhưng con không vướng mắc vào hành động.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Con nhận ra đó là sự khác biệt giữa hành động và phản ứng. Khi con phản ứng, con vướng mắc vào một thành quả, và nếu thành quả này không đạt được, con sẽ có một phản ứng vừa cảm xúc vừa lý trí, tiêu cực, bất an, không quân bình, không thương yêu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Con nhận ra là khi con hành động, con không bị vướng mắc vào thành quả. Và do đó hành động mang sẵn chiến thắng của nó, sự hoàn thành trọn vẹn của nó, thành công của nó, niềm vui của nó.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Con nhận ra là khi con phản ứng, con nghĩ sự thành công hay thất bại của phản ứng tùy thuộc vào những sự việc trong thế gian. Nhưng khi con thăng vượt tâm thức phản ứng, con vươn lên tâm thức hành động từ bên trong, và con trải nghiệm hành động tự nó đã là chiến thắng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con không cần bất cứ gì khác, không cần thành quả nào trong tâm người khác, trong hành động của người khác, trong hành động của xã hội hay trong thế giới rộng lớn. Không gì là cần thiết nữa.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Con như mặt trời cảm thấy vui mừng tỏa chiếu ánh sáng. Mặt trời không nhìn xuống trái đất để tìm xem có ai đang che chắn ánh nắng, ai đang trốn tránh tìm bóng rợp, ai đang đeo kính râm hay bôi kem chống nắng. Mặt trời không quan tâm đến phản ứng, nó tiếp tục tỏa sáng vì niềm vui tỏa sáng. Đó là tâm thức hành động.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Con nhận ra tâm thức phản ứng là khi con không vui trong việc làm mà chỉ chờ thành quả, chờ phản ứng của người khác trước khi con định được là con nên vui hay buồn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Con nhận ra là phản ứng của con phát xuất từ cách con nhận thức tình huống. Phản ứng là biểu hiện của tâm thức, là hậu quả của nhận thức. Nhận thức này không những là nhận biết của giác quan, mà còn là cách phản ứng của cảm xúc, là cách suy nghĩ về tình huống, là cách nhìn cuộc đời được lưu trữ trong thể bản sắc của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm lời thày dạy trong Kinh Pháp cú: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, đau khổ sẽ theo sau.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là bất cứ khi nào con phản ứng trước một tình huống thì con đang nhận biết ô nhiễm.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy làm thế nào con có thể vượt qua nhận biết ô nhiễm để đạt được nhận biết thuần khiết. Con nhận ra là bất kỳ nhận biết nào xuất phát từ nhị nguyên vốn đã ô nhiễm trong bản chất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm chính cái Là của con là trạng thái tâm thức thuần khiết.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Lạm dụng tình dục trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích cho chúng con cơ chế năng lượng của ấu dâm cùng những hành vi che giấu trong Giáo hội Công giáo. Việc sa nhân xâm hại tình dục không phải là chuyện lầm lỗi vì sa nhân rất lành nghề trong các kỹ thuật bòn rút năng lượng. Nhưng điều khiến con hoang mang là những vụ lạm dụng tình dục đã xảy ra với một số vị sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và những vụ này đã được che đậy trong nội bộ hay có khi bị truyền thông phơi bày.

Đã có rất nhiều bản tin về hành vi xâm phạm tình dục các nữ đệ tử bởi những nhà sư rất được kính trọng. Liệu việc tà dâm sẽ chẳng cản trở sự phát triển tâm linh cùng việc thăng thiên của các vị đó hay sao? Liệu chúng con có nên xem việc lạm dụng tình dục của các nhà sư Tây Tạng là hệ quả của một truyền thống tôn giáo trọng nam một cách độc đoán chăng? Hay chúng con nên giả sử là trong số các vị Rinpoche của Tây Tạng có thể có sa nhân? Con không nghĩ là một người đã đạt được một mức tâm thức cao cần đến chuyện đánh cắp năng lượng qua việc xâm hại tình dục, cho nên con hoàn toàn không hiểu nổi tại sao họ lại cư xử như vậy trong việc thể hiện tình dục của họ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 7/7/2023.

Vấn đề thực sự trong tất cả những trường hợp đó là cho dù con có theo một truyền thống tâm linh nào – có thể là truyền thống đạo Phật, truyền thống đạo Cơ đốc, truyền thống đạo Ấn – con sẽ thiết lập một loại tổ chức nào đó, một giáo hội nào đó, một truyền thống tu viện nào đó. Con thiết lập một cấu trúc thứ bậc nhất định và luôn luôn sẽ có sự phóng chiếu là những ai đã đạt được một vị trí cao hơn trong tổ chức vỏ ngoài cũng phải đạt đến một mức tâm thức cao hơn. Đây là cạm bẫy tàn hại cho tất cả mọi người tâm linh trong mọi truyền thống tâm linh. Có lẽ sự lầm lẫn này là một cách phản ứng có thể thông cảm được – ít ra là thông cảm được trong quá khứ, nhưng không thể thông cảm hay bào chữa được trong thời đại hôm nay.

Thực tế là bất cứ khi nào con tạo ra một tổ chức có cấu trúc thứ bậc nơi người càng ở trên cao càng có nhiều quyền hành, thì tổ chức này sẽ thu hút những ai mong muốn quyền lực, hay địa vị, hay uy tín. Nhưng có thật khó lắm hay chăng để nhìn ra là những ai chạy theo quyền lực, địa vị và uy tín không thể là người có tâm thức cao? Bởi vì tại sao một người có tâm thức cao, một trạng thái tâm thức tâm linh, lại muốn quyền lực, địa vị và danh vọng trên trái đất chứ? Thật không khó lắm để con xoay chuyển và nhìn ra là không một truyền thống hay tổ chức tâm linh nào có thể thoát khỏi cơ chế này. Con tạo ra một số địa vị và các địa vị này sẽ hấp dẫn những ai muốn hưởng một điều gì đó từ địa vị. Và những người này có thể là sa nhân, nhưng họ cũng có thể là những người chưa sa ngã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, thậm chí bị chi phối bởi lời gian dối cho rằng nếu họ đạt được một chức vụ trong tổ chức tâm linh chân chính độc nhất này thì nhất định họ sẽ phải được nhận vào thiên đàng.

Quả thật là trong truyền thống Tây Tạng và các truyền thống Phật giáo khác có những sa nhân đã đạt đến các chức vụ cao cấp, và do đó họ đã lạm dụng những người thấp hơn họ, như sa nhân vẫn thường làm. Có một số người đã đạt được các chức vụ đó và mở ra cho các thế lực bóng tối từ cõi cảm xúc, và các thế lực này đã khiến họ xâm hại tình dục người khác để các sinh thể ở cõi cảm xúc có thế rút lấy năng lượng từ họ.

Hiển nhiên là con hoàn toàn chính xác khi con nói một người với trình độ tâm linh cao hơn sẽ không cần lấy năng lượng từ người khác, cho dù là qua sinh hoạt tình dục hay qua việc người khác kính trọng, thờ phượng hay đưa họ lên làm thần tượng. Cho nên khi con thấy người nào cần những thứ này thì con biết họ không ở trong một trạng thái tâm thức cao. Nhưng một lần nữa, vấn đề là các tổ chức tâm linh phóng chiếu ra là những ai ở các chức vụ lãnh đạo nhất định phải là người có tâm thức cao – và sự thật thường thường không là như vậy, bởi vì trong một truyền thống tâm linh hay một giáo hội được thành lập lâu đời với một guồng máy tổ chức to lớn, những ai bị thu hút vào các chức vụ lãnh đạo chính là những kẻ mong muốn một cái gì đó của thế gian mà họ nghĩ chức vụ sẽ cung cấp cho họ.

Đơn giản là con cần điều chỉnh lại cái nhìn của con. Nếu con biết Giáo hội Công giáo đã bị nạn ấu dâm và xâm hại tình dục lũng đoạn, tại sao con lại nghĩ là Phật giáo Tây Tạng hay bất kỳ truyềng thống tâm linh nào khác sẽ không bị lũng đoạn như vậy? Điều này cho thấy là con có một xu hướng thần tượng hóa nào đó đối với một truyền thống tâm linh đặc thù, vì một cách nào đó, con nghĩ là mặc dù truyền thống này do người phàm điều hành, nhưng những người phàm này sẽ không làm giống như những người phàm kia. Nhưng niềm tin này không thực tế đâu con.

Ta hoàn toàn không dung túng hay bào chữa sự lạm dụng tình dục cho dù trong một truyền thống Phật giáo hay bất kỳ truyền thống nào khác. Đương nhiên những người làm vậy sẽ tạo nghiệp cho chính họ, và sẽ không có cách nào họ thăng thiên được sau kiếp này hay có lẽ sau nhiều kiếp, hay có thể là không bao giờ.

Nhưng câu hỏi cũng cần được đặt ra trong bối cảnh này là liệu trong thế giới hiện đại có cần tiếp tục truyền thống độc thân cho những người tâm linh trong một tổ chức tâm linh không? Rõ ràng nạn ấu dâm và xâm phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo liên hệ chặt chẽ với sự đòi hỏi là các linh mục phải sống độc thân, nhưng điều này cũng không khác gì bất kỳ truyền thống tâm linh nào khác nơi sự độc thân cũng là một yêu cầu. Nhưng liệu nó có còn cần thiết hay không? Trong quá khứ đã có lý do để đòi hỏi như vậy, nhưng liệu có cần thiết hay không trong thời đại hôm nay? Ta không cho con một câu trả lời dứt khoát là có hay không, mà ta chỉ nói rằng nếu con thực sự mong muốn khắc phục nạn lạm dụng tình dục thì con cần giải quyết vấn đề này. Việc sống độc thân có cần thiết trong thời hiện đại hay không, và nó có cần thiết hay không trong một truyền thống tâm linh?

Điều gì là cần thiết trong một truyền thống tâm linh? Đó là sự điều ngự các ham muốn tình dục. Nhưng mục tiêu này có nhất thiết đạt được một cách tự động qua việc phủ nhận các ham muốn tình dục? Hay thật ra mục tiêu sẽ đạt được hiệu quả hơn qua sinh hoạt tình dục trách nhiệm? Không có câu trả lời rõ rệt là có hay không cho những câu hỏi trên, nhưng đây là những câu hỏi cần được đặt ra để có thể khắc phục vấn đề.

Và tất nhiên, ta biết rất rõ là trong nhiều truyền thống đạo Phật sẽ có nhiều sự chống đối không muốn nhìn vào điểm này. Nhưng nếu thế thì vấn đề xâm phạm tình dục sẽ chỉ càng ngày càng trở nên tệ hơn để buộc mọi người phải xem xét vấn đề.

31 | Sự trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6//2023, nhân Hội nghị 2023 ở Seoul, Hàn quốc – Nối kết với cái Ta Cao và vị thày tâm linh.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Và như truyền thống trong thời gian qua, thật là một đặc ân và niềm vui cho thày được trao bài truyền đọc sẽ niêm hội nghị này, một hội nghị đã đánh dấu một chiến thắng to lớn từ nhãn quan của các thày là chân sư thăng thiên, vì nó đã tạo được một xung lực đi vào tâm thức tập thể sẽ khởi động những thay đổi sâu xa, giúp cho nhiều người kết nối chặt chẽ hơn với các chân sư thăng thiên cùng cái Ta Cao của họ. Tất nhiên, các thày cũng thấy được là nhiều người trong các con đã sẵn lòng tham gia, sẵn lòng xem xét bản thân mình, dùng các lời dạy để vươn lên cao hơn. Các thày hy vọng là các con đã cảm thấy đáng công sức cùng thời giờ bỏ ra, và các con cũng cảm thấy mãn nguyện như các thày.

Thày muốn nhân cơ hội này trao cho con một số lời dạy về một khái niệm có vẻ không liên quan đến đề tài của hội nghị này là làm thế nào nối kết với cái Ta Cao cùng các vị thày tâm linh của con, nhưng để xem, chúng ta sẽ thấy nó có liên quan hay không. Có một khái niệm đã được biết đến từ thời của Phật, là Śūnyatā hay sự trống không (emptiness). Từ này thực sự có nghĩa là gì? Một lần nữa, các nhà trí thức của đạo Phật hay truyền thống Phật giáo đã nhìn vào từ này, đã nghĩ ra nhiều cách diễn giải khác nhau và không đồng ý được với nhau cách diễn giải đúng đắn là gì. Và ở đây, thày không đang cố cho con cách diễn giải “đúng đắn” vì không có một cách diễn giải đúng đắn duy nhất nào. Luôn luôn sẽ có nhiều trình độ tâm thức khác nhau và vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về bất kỳ giáo lý tâm linh nào.

31.1. Trải nghiệm thực tại đằng sau lời dạy

Nhưng thày sẽ nói là có một sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ giáo lý. Và điều con thấy trong mọi truyền thống tâm linh được thế giới biết đến là khi truyền thống này phát triển và thu hút ngày càng nhiều người theo, thì sẽ nẩy sinh một lớp người tự xưng mình là những người diễn giải giáo lý. Xong có một nhóm người ít ỏi hơn cố gắng trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau chữ nghĩa. Và sau đó có số đông quần chúng đi theo giáo lý, và họ cũng đi theo cách diễn giải do lớp tu sĩ kia đưa ra vì họ hy vọng nó sẽ đem lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới hiện tại hay thế giới kế tiếp. Con có thể nhìn thấy mô hình này ở khắp mọi nơi. Con có thể thấy nó suốt chiều dài lịch sử, con có thể thấy nó ngày nay cả với các lời dạy tâm linh hiện đại, và thậm chí cũng có xu hướng này trong giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con thực sự mong muốn sử dụng một giáo lý tâm linh, hiển nhiên con cần vượt xa hơn việc diễn giải các ngôn từ và tìm kiếm không chỉ cái hiểu, không chỉ đơn giản cái nắm bắt, mà con cần trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ.

Chúng ta có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Hầu hết mọi người ngồi đó nhìn vào màn hình chiếu phim. Họ chỉ đang trải nghiệm phim trên màn hình. Xong có những người cố tìm hiểu xem phim đến từ đâu, và có thể họ sẽ lên tận phòng chiếu, nhìn tận mắt dải phim trong máy chiếu. Nhưng hình ảnh trên dải phim có thật là thực tại sâu xa đằng sau bộ phim? Hay thực tại sâu xa hơn là ánh sáng trắng tinh trong máy chiếu? Hay thực tại sâu xa hơn nữa là dụng ý của nhà đạo diễn bộ phim, hay của nhà biên kịch, hay của các diễn viên?

31.2. Dùng giáo lý để thăng vượt mức tâm thức hiện tại

Một lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi tâm linh hay cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và nếu con muốn tận dụng lời dạy, con cần sử dụng lời dạy vỏ ngoài như một công cụ mà thôi, một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà lời dạy đã xuất phát từ tâm vị này. Đây là cách cao nhất để sử dụng một lời dạy tâm linh. Khi con nắm bắt được điều này, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng cao nhất. Thậm chí còn có thể nói là con đã không dùng đến giáo lý, bởi vì đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh chứ? Là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con. Và khi con cứ tìm cách hiểu và diễn giải với mức tâm thức hiện tại thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Con có thể dùng giáo lý tâm linh để khiến con tưởng là bởi vì con đã có một cách diễn giải trí thức, cao cấp và tinh xảo như thế này, thì con đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Nhưng con không đạt được một tầng tâm thức cao hơn qua sự diễn giải và hiểu biết thuần trí năng. Con chỉ đạt được bằng cách dời chuyển tâm thức của con. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt. Vì tâm đường thẳng chỉ có thể định ra một chuỗi sự kiện dẫn từ điểm này đến điểm kế tiếp, chứ nó không thể tưởng tượng, không thể thấu suốt được là có một tầng thực tại hoàn toàn khác mà con không thể đặt lên một loại thang điểm đường thẳng như vậy.

31.3. Trung đạo

Đó cũng là tại sao nhiều người đã không hiểu được khái niệm Trung đạo. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của Trung đạo và những cặp đối cực, mà ngày nay chúng ta gọi là tâm thức nhị nguyên luôn có hai cực đoan. Bên này có đối cực này, bên kia có đối cực ngược lại, và có những người cho rằng Trung đạo nằm đâu đó ở giữa.

Nhiều người đã trí thức hóa các lời dạy được ban truyền qua thày cách đây 2500 năm, và họ cứ nghĩ là việc bước chân trên đường tu, con đường Trung đạo, có nghĩa là tìm được thế quân bằng. Và họ đã cố tìm một thế quân bằng nào đó giữa hai thế đối cực do họ quy định, cho dù quy định này là gì. Nhưng Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng trên một thang điểm đường thẳng giữa hai đối cực, mà Trung đạo là sự thăng vượt chính thang điểm nhị nguyên đó, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, và điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thăng vượt tâm đường thẳng.

31.4. Khái niệm trống không

Trở về với khái niệm trống không. Tâm đường thẳng sẽ lập tức đặt câu hỏi, trống không cái gì? Trống không so sánh với cái gì? Phải có cái gì để có thể so sánh chứ. Điều này cũng phần nào chính đáng, theo nghĩa là một giáo lý tâm linh luôn luôn được trao truyền trong một bối cảnh. Khi thày xuất hiện trong hiện thân vật lý 2500 năm trước đây, thày đã xuất hiện trong một xã hội đặc thù, một nền văn hóa đặc thù là văn hóa Bà la môn Ấn giáo.

Những người Bà la môn đạo Ấn đã đưa ra đủ loại cách diễn giải, đủ loại môn phái, đủ loại tư tưởng khác nhau, cho nên họ đã có đủ loại khái niệm. Giáo lý mà thày đưa ra cách đây 2500 năm được thích ứng với nền văn hóa này – một phần nó dùng lại một số khái niệm, nhưng nó cũng thách thức một số khái niệm khác đã trở nên phổ thông trong truyền thống Ấn giáo. Con không thể thực sự hiểu được khái niệm trống không nếu con không nhìn vào bối cảnh nơi nó được đưa ra. Và khái niệm vô cùng nổi trội trong đạo Ấn là khái niệm về Atman, hay Ngã, là Ngã tối thượng. Và đã có nguyên một nền văn hóa được xây dựng chung quanh khái niệm này mà ít người thời nay hiểu được thật sự.

Để cho con một tóm lược ngắn gọn về cách họ nhìn Atman, có thể nói đó là ý tưởng cho rằng ở cõi trên cao chỉ có một Ngã độc nhất này, Atman, và đó là một Ngã trường tồn bất biến. Nó không bao giờ có thể thay đổi. Có nghĩa là cho dù con có nghĩ ra bất kỳ khái niệm nào – không nhất thiết từ tầng cấp con người mà cả bất cứ những gì có thể xuất phát từ cõi tâm linh – thì trong Atman đó, trong Ngã đó, có một sự quy định mà chúng ta có thể gọi là một hình ảnh, một khuôn đúc (matrix). Thậm chí điều này có thể so sánh với khái niệm của Plato về các hình thể lý tưởng (ideal forms) ở cõi cao.

Nói cách khác, khái niệm này cho rằng ở cõi cao có một khuôn đúc toàn hảo đã được quy định cho tất cả mọi thứ có thể thị hiện trong thế gian cùng mọi sự có thể xảy ra trong thế giới. Và điều này làm nẩy sinh ý tưởng là từ Atman duy nhất đó, mọi Ngã khác đều được quy định, và mỗi Ngã này thì quy định một biểu hiện đặc trưng. Cho nên đối với trái đất, có một cái Ngã ở cõi cao sẽ quy định khuôn đúc toàn hảo bất biến cho trái đất. Cho mỗi con người, có một cái Ngã ở cõi cao quy định linh hồn này là như thế nào, và mặc dù mọi chuyện trên trái đất có thể trải bày ra để trái đất lẫn con người có thể xa rời Ngã trường tồn đó, nhưng kết cuộc thì mọi thứ cũng sẽ đều quay trở về Ngã đó. Và đây chính là khái niệm mà thày đã bác bỏ.

Khi thày nói đến sự trống không, thày nói là nó trống rỗng theo nghĩa nó không có ngã, nghĩa là nó không được định trước bởi một cái Ngã nào đó ở một cõi cao mà nó phải quay trở về. Thày Lanto cũng đã trao cho con một bài giảng vô cùng sâu sắc về đề tài này, nhưng thày muốn trình bày thêm vì nhiều người theo đạo Phật ngày nay đã sử dụng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không, hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết. Ở đó không có gì hết. Một lần nữa, đây là một điều mà tâm đường thẳng rất ưa làm.

31.5. Ngã bất biến hay ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt?

Tâm đường thẳng nhìn vào thế gian này thấy mọi thứ đều mang hình tướng, rồi nó nghe nói về khái niệm trống không, xong nó nghe nói là chính đức Phật đã dạy khái niệm này, mà Phật thì là một sinh thể cao cả đã giác ngộ, nhất định các khái niệm mà Phật dạy phải được nể trọng. Thế là tâm đường thẳng nói: “Bây giờ tôi muốn hiểu khái niệm này một cách tối hậu. Thế gian này có hình tướng, vậy trống không phải có nghĩa là vô hình tướng, không có gì ở đó cả.” Và một số người đã diễn giải theo nghĩa là chỉ có Brahman mà thôi, chỉ có sự nhận biết vô biên như một số người thời nay gọi như vậy, và đây là sự trống không. Cho nên, hoặc là có hình tướng như trong thế gian, hoặc là có sự trống không, và họ nghĩ hình tướng đi ra từ trống không, hay nói cách khác, có cái gì đó đi ra từ cái không-có-gì. Nhưng tất nhiên, chuyện không phải là như vậy.

Thày đã không nói trống không nghĩa là không có gì ở đó. Điều thày nói là không có một cái Ngã trường cửu bất biến (permanent) nào ở đó. Thày nói là thế giới không sinh ra từ trống không, và mục đích của thế giới không phải là quay trở về trống không sau một chu kỳ đầu thai dài đằng đẵng. Điều thày đã nói – và điều thày đã có ý nói – là không có một cái ngã trường cửu bất biến nào, nhưng có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt. Và cái ta luôn luôn thay đổi này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

31.6. Chúng ta có thể hiểu được gì về cõi tâm linh?

Đó không phải là điều thày đã dạy cách đây 2500 năm vì thày đã quyết định trao truyền một giáo lý tập trung vào các khía cạnh thực tiễn chứ không vào các khía cạnh vũ trụ học, cho nên chủ đích của thày là nâng cao cho tâm thức con người vượt lên trên tâm đường thẳng, vì thày thấy rõ qua những người Bà la môn là tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ học. Làm thế nào cuối cùng con sẽ hiểu được cõi tâm linh vận hành ra sao? À, tất nhiên, bằng cách thăng thiên lên cõi tâm linh, vì lúc đó con sẽ kinh nghiệm được cõi tâm linh, con sẽ có thể theo đuổi việc tìm hiểu mọi khiá cạnh, mọi cõi giới của thế giới tâm linh, con có thể đi đây đi đó, đi lên càng ngày càng cao hơn và thám hiểm mọi thứ có thể được thám hiểm.

Con cũng có thể nói: “Nhưng ích lợi gì mà cố hiểu những chuyện đó khi con còn đang đầu thai?” Và đây chính là điều thày đã suy luận 2500 năm về trước khi tâm thức tập thể còn khá thấp. Nhưng thật ra ngày nay có chút ích lợi, vì nhiều người có thể lợi lạc nếu họ nắm được một vài khía cạnh của cõi tâm linh cùng cách vận hành của cõi tâm linh. Chắc chắn con sẽ lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi đó có những sinh thể tâm linh – các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Nhưng con cũng lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Cho nên ngày nay có nhiều ích lợi hơn, nhiều giá trị hơn trong việc tìm hiểu cõi tâm linh, và đây là lý do các thày đang truyền giảng vào ngày hôm nay. Và tất nhiên, con sẽ thấy là ngày nay người ta cũng có cùng xu hướng y như 2500 năm về trước, khi có rất, rất nhiều người tìm cầu hiểu biết cao hơn nhưng lại dùng các loại giáo lý được diễn tả bằng ngôn từ để đạt được hiểu biết đó, xong họ phóng chiếu ra, họ diễn giải ra. Và tất nhiên, thời nay cũng có nhiều giáo lý được “truyền kênh” (channeled), thường thường từ cõi lý trí, cho nên chúng thường hấp dẫn tâm đường thẳng, tâm phân tích, tâm thuần trí năng.

Có những giáo lý tự xưng là vô cùng cao cấp, cao hơn cả giáo lý của chân sư thăng thiên, và có những người tin rằng sách này hay sách nọ là lời dạy tâm linh tối thượng – và chuyện này, tất nhiên, hoàn toàn phải lẽ thôi. Con người cần đến một số trải nghiệm trước khi họ có thể nâng cao khả năng phân biện của mình để thấy được sự khác biệt về rung động giữa một lời dạy đến từ cõi lý trí và một lời dạy đến từ cõi thăng thiên. Đây không phải là một điều tâm đường thẳng thấu suốt được. Nó chỉ biết nhìn vào chữ nghĩa, diễn giải chữ nghĩa, rồi suy ra một diễn giải nào đó để bảo rằng lời dạy này cao siêu hơn lời dạy kia.

31.7. Sự trống không của nhận biết thuần khiết

Trở về với “trống không”, đâu là giá trị thực sự của khái niệm này? À, trước tiên hết, khía cạnh alpha là không hề có một ngã trường cửu bất biến nào. Con là một cái ngã, một cái ta. Trong giáo lý ngày nay, các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, tức là sự nhận biết thuần khiết. Nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không. Trống không ý niệm bản sắc, trống không những ý tưởng, trống không những cảm xúc ngụ trong – hay được sản xuất bởi – các thể hay các tâm bản sắc, lý trí, cảm xúc. Con có thể nói là đối với hầu hết mọi người, sự chú ý của họ tập trung vào cảm xúc, ý tưởng hay ý niệm bản sắc của họ. Họ tập trung vào nội dung của tâm thức – nếu có thể nói như vậy – cho nên sẽ có thể ích lợi nếu họ quán chiếu về mặt kia của đồng tiền, về khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì họ tập trung vào chính tâm thức. Và tâm thức thì trống không, hay có thể trống rỗng mọi nội dung. Và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không. Chỉ có nhận biết mà không có nội dung nào trong bình chứa của tâm thức.

31.8. Những tầng hiểu khác nhau về trống không

Tất nhiên con có thể đem nó lên một tầng cao hơn và thấy rằng khi con bước chân trên đường tu, vươn cao hơn tầng 48 và đến gần với tầng 96, thì con đang khắc phục các ngã tiềm thức, trong số này có nhiều ngã dựa trên tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là ở các tầng tâm thức thấp nhất được phép hiện diện trên trái đất, con người bị bao trùm, bị mù quáng, bị đồng hóa với tâm vị kỷ, tâm tách biệt. Khi con vươn đến tầng 96 và vượt cao hơn bốn thể phàm của con, bình chứa phàm ngã của con trở nên trống rỗng cái tâm vị kỷ đó. Cho nên đây là một hình thức khác của trống không, một tầng cấp khác của trống không, nhưng tất nhiên không có nghĩa là trong tâm con không có gì.

Con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con vẫn hành động, con hồi đáp lại thế giới, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Con thấy là trống không có thể hiểu ở những cấp độ khác nhau. Không chỉ có một cách hiểu, một cách nắm bắt duy nhất. Nhưng tất nhiên con có thể đưa khái niệm này xa hơn nữa vì con có thể nói là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết, có vẻ như con bước vào hình thức tối thượng của trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ, và không còn ngôn từ nào có thể mô tả tiến trình này trọn vẹn. Nhưng dẫu sao, con có thể nói là cái Ta Biết bây giờ đã trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân. Nhưng tất nhiên, điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà giờ đây có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Như các chân sư khác có giải thích, con có khả năng lại gần một điểm trong quả vị Ki-tô nơi con ngày càng trở thành một, càng hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Nhưng cái Ta Biết không thể hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ cho đến khi con thăng thiên.

31.9. Khái niệm trống rỗng (void) và vô ngã

Để nắm bắt trọn vẹn sự trống không, con cũng cần nắm bắt là khái niệm này có thể bị tha hóa, lạm dụng như thế nào. Và đây là điều đã xảy ra trong một số hình thức xưa hơn của đạo Phật cũng như trong các giáo lý tâm linh hiện đại, thậm chí cả một số truyền thống khác như Advaita Vedanta cùng một số đạo sư hiện đại. Họ nắm lấy khái niệm trống không đó phối hợp với lời dạy của thày rằng nó không có Ngã, rồi họ đã diễn giải theo nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, là sự trống không tối hậu. Nhưng tất nhiên đây là một cách diễn giải sai lạc.

Như Lanto vừa giải thích, quả thực một sinh thể đang đầu thai trên địa cầu có thể trải nghiệm một trạng thái có vẻ trống rỗng mọi hình tướng, trống rỗng mọi biểu hiện, trống rỗng mọi ý niệm bản ngã. Nhưng đó không phải là vì có một trạng thái trống không tối hậu nào đó được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế. Các thày đã có dạy rằng ở thuở ban đầu có Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo quyết định sáng tạo. Trước hết ngài vẽ một lằn ranh chung quanh chính ngài trong cõi Tất Cả. Ngài rút mọi thứ bên trong lằn ranh đó và tạo ra khoảng trống (void).

Tất nhiên, khoảng trống này có thể được quan niệm như là trạng thái trống không tối hậu. Nhưng con là người đồng sáng tạo, con không thể trải nghiệm khoảng trống đó. Có thể nói là ngay cả Đấng Sáng tạo cũng không trải nghiệm khoảng trống. Tại sao? Trải nghiệm là gì chứ? Trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm? Trong khoảng trống không có hình tướng. Vậy làm sao con trải nghiệm được khoảng trống? Khi người ta trải nghiệm điều mà họ tuyên bố là thực tại cao nhất, là nhận biết thuần khiết, là trạng thái nhận biết tối hậu, thì cái đó là gì chứ? Họ đã trải nghiệm gì chứ? Họ đã không trải nghiệm một sự trống rỗng. Họ trải nghiệm một trạng thái đã được các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Như Lanto giải thích, sa nhân đã lấy một cách tiếp cận là tìm cách nâng ngã tách biệt lên một địa vị tối thượng, và một cách tiếp cận khác là việc phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Và như vậy chúng đã tạo ra trong tâm thức tập thể một con quái vật, một khuôn đúc, một cái ngã có vẻ như trống rỗng. Nhưng như Lanto có giảng, nếu con bảo: “Tôi không có ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm vô ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm sự trống không”, thì ở đó vẫn có một cái “tôi”, cho nên không có trạng thái vô ngã.

Vậy thì “vô ngã” là gì? Đó là sự phóng chiếu của một hình ảnh. Cũng giống như vậy, đã có một sự phóng chiếu của một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Nhưng cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm. Cho nên đó không phải là trống không.

Khi người ta có một trải nghiệm – và thày không bác bỏ là họ có một trải nghiệm, thày chỉ bác bỏ đó là một trải nghiệm tối hậu của sự trống không – nhưng khi người ta có một trải nghiệm rồi trở về mức nhận biết bình thường của mình, và họ bắt đầu sử dụng ngôn từ để bày tỏ trải nghiệm này, thì họ chỉ đang xây đắp cho tâm ảnh đó, củng cố thêm và có lẽ diễn giải tâm ảnh đó, thế là giờ đây họ sử dụng nó để phóng chiếu ra là họ đã có một trải nghiệm tối hậu. Và điều này có nghĩa gì? À, nếu có ai đó tự cho mình là một vị thày tâm linh và giảng dạy về một trải nghiệm trống không hay “vô ngã” tối hậu, thì các môn đồ của vị đạo sư này sẽ làm gì? Họ sẽ phóng chiếu ra là nhất định vị ấy phải chứng được tâm thức tối thượng vì vị ấy đã có trải nghiệm tối hậu về trống không. Nhưng làm sao trống không có thể là trạng thái tâm thức tối thượng được? Làm sao trống không có thể là thực tại tối hậu được?

31.10. Trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Tại sao con hiện hữu? Tại sao thế gian hiện hữu? Tại sao lại có một thế giới có khả năng cung cấp trải nghiệm cho con? Tại sao, như nhiều nhà khoa học hiện đại đang hỏi, lại có một cái gì đó thay vì không-có-gì? À, bởi vì luôn luôn đã có một cái gì. Chưa bao giờ mà không có gì hết. Nếu chưa bao giờ có gì thì bây giờ cũng sẽ không có gì, và nếu vậy thì cũng không có con đang ngồi đây mà đặt câu hỏi. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Có một mục đích, có một đường hướng trong sự sáng tạo đó, và đường hướng này là tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn. Và con không tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ hốt hoảng khi nghe những ý tưởng này. Nhưng trong trực giác, con có thể nắm bắt mục đích của sự sống là sự tăng triển tâm thức. Và ở đây trên trái đất, con có khả năng tăng triển để trở thành một chân sư thăng thiên, tức là cao hơn rất nhiều những gì con người đang có trên trái đất. Nhưng một chân sư thăng thiên có thể tăng triển để đạt tới tâm thức của Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo thì có thể tăng triển đến những tầm mức cao hơn nữa. Nhưng này con, khi con bàn đến các tầm mức vượt khỏi tâm thức Đấng Sáng tạo thì ngôn từ thật vô nghĩa. Con không thể thấu suốt được khi con chưa thăng thiên. Ngay cả khi con thăng thiên rồi, con cũng không thể thấu suốt mà con chỉ có thể hé thấy.

Cho nên sự trống không rỗng tuếch mọi ý nghĩa. Đó là một khái niệm vô nghĩa. Nó không có chỗ đứng trong một giáo lý tâm linh chân truyền. Những ai giảng dạy nó, tuyên bố nó là một trạng thái tối hậu nào đó, không phải là thày tâm linh đích thực. Họ không thẳng hàng với các chân sư thăng thiên. Đơn giản là họ đã gạt qua bên cõi thăng thiên, gạt qua bên cõi tâm linh, gạt qua bên tất cả các sinh thể ở giữa con người trên địa cầu và Đấng Sáng tạo. Thậm chí họ gạt cả Đấng Sáng tạo qua bên nếu họ dạy rằng sự nhận biết vô biên, hay nhận biết thuần khiết, hay Brahman, là một loại khái niệm không có bất kỳ hình tướng nào. Và do đó họ không giảng dạy một giáo lý chính đáng.

31.11. Động lực tích cực đến từ ý muốn tự thăng vượt

Họ không giảng dạy một giáo lý có thể cho con một lẽ sống hay một mục đích, và đó là tại sao nhiều người như vậy không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, giống như nhiều tín đồ Ấn giáo vào thời của Phật cũng không tìm được ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Bởi vì Ấn giáo giảng dạy về những chu kỳ vũ trụ gần như bất tận kéo dài hàng tỷ năm trời, cho nên tác động trên quần chúng vào thời đó cũng như thời nay cho họ cảm tưởng là họ đã đi ra từ cái không-có-gì, xong họ sống qua một số kiếp đầu thai gần như vô lượng nơi họ phải chịu khổ đau trong mỗi kiếp, để cuối cùng phần thưởng cho tất cả sự phấn đấu, tất cả công sức, tất cả khổ đau đó là họ quay trở về cái không-có-gì và biến mất – thật sự, một loại phần thưởng khiến người ta muốn cố gắng hết sức để đạt tới cái không-có-gì, không phải vậy sao?

Điều này cũng phần nào tương tự như nhiều người đạo Cơ đốc mang động lực chủ yếu muốn lên thiên đàng chỉ vì họ muốn tránh không rơi xuống địa ngục. Con thử nhìn xem có bao nhiêu người Cơ đốc giáo có tầm hiểu nào đó về thiên đàng, về những gì họ có thể làm ở thiên đàng, nhưng họ lại hiểu rõ địa ngục là gì cho nên đây là cái họ muốn né tránh. Chúng ta có thể gọi đó là một loại động lực tiêu cực. Và quan niệm về cái không-có-gì, quan niệm về một chu kỳ đầu thai bất tận sẽ dẫn con trở về cái không-có-gì, cùng lắm cũng chỉ là một động lực tiêu cực hay không là động lực gì hết.

Những gì các thày trao cho con ngày nay – các thày hy vọng như vậy – là một động lực khích lệ hơn, qua đó con được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con, và con vươn đến những tầng cấp cao hơn và cao hơn nữa nơi con tìm được ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc biểu đạt bản thân như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác. Thậm chí chúng ta có thể nói là ngay cả trong số các sa nhân đã rơi vào nhị nguyên, thì một số dường như cũng có một động lực. Giấc mơ của chúng là hoàn thiện ngã tách biệt để chứng tỏ là Thượng đế sai lầm và chúng sẽ được phép bước vào cõi tâm linh và trở thành bất tử, hay được giao phó việc cai trị bầu cõi chưa thăng thiên này. Con có thể nói là chúng có động lực, nhưng không phải loại động lực mà con có khi con neo mình vào việc đồng sáng tạo và tự thăng vượt. Bởi vì việc xây đắp cho ngã tách biệt ngày càng tinh xảo hơn không phải là tự thăng vượt. Đây là điểm mà nhiều người không nắm bắt, tâm đường thẳng không nắm bắt, và chắc chắn sa nhân cũng không nắm bắt.

Có một cách để minh họa sự thể này là bảo rằng con có thể quyết định, một nhóm người có thể quyết định xây cất một toà nhà vô cùng tinh xảo, và giống như trong truyền thuyết Tháp Babel, họ quyết định là tòa nhà này sẽ vươn lên cao vút, cao đến tận trời. Họ vẽ đồ án, họ thu thập vật liệu và họ bắt đầu xây tháp, họ xây cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa. Họ bỏ ra công sức khổng lồ cho cái tháp này, nhưng chuyện gì cuối cùng sẽ xảy ra? À, có một lực gọi là trọng lực, và sẽ đến một điểm khi bất kỳ cấu trúc nào trên trái đất sẽ đạt tới độ cao tối đa trước khi nó sụp đổ dưới sức nặng của chính nó. Cho dù con có xây nền móng vững chắc đến đâu bên dưới, nhưng khi con ngày càng chồng thêm sức nặng bên trên thì sẽ tới một điểm nền móng không thể chịu nổi trọng lượng ở trên được nữa, và tháp bắt đầu vỡ vụn. Thình lình toàn bộ cấu trúc bắt đầu rung chuyển, lắc lư bên này sang bên kia rồi tất cả đổ ập xuống.

Đây là điều sa nhân đang cố làm. Chúng cố dùng vũ lực để xông lên thiên đàng bằng cách xây dựng một tháp Babel từ vật liệu của ngã tách biệt. Tự thăng vượt là gì chứ? Là làm hoàn toàn khác. Để minh họa một cách thô thiển, con hãy mường tượng là con quyết định chế tạo một chiếc hỏa tiễn có khả năng đưa con lên thiên đàng thay vì xây một toà nhà cao đến chín tầng mây. Việc này, khoa học đã chứng minh là khả dĩ. Nhưng tất nhiên, một cách minh họa tinh tế hơn nữa là bảo rằng con sẽ thăng vượt toàn bộ tầng tâm thức nhị nguyên, là tầng tâm thức không những tùy thuộc vào trọng lực mà cả định luật thứ nhì của nhiệt động học. Con không cần sử dụng sức mạnh để đi lên thiên đàng, mà con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Bởi vì nói cho cùng, thiên đàng là gì? Thiên đàng có phải là một địa điểm vật lý ở cao trên mặt đất mấy kilomét như người ta vẫn nghĩ vào thời Trung cổ bên Âu châu? Hay là như các thày đã giảng, đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác? Cho nên thật ra cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã. Và tại sao đây là cách duy nhất? Bởi vì có một cái Ta ở cõi tâm linh, và con đã đi ra từ cái Ta này, đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con, đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là. Bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên. Bây giờ một số các con có thể phản bác với tâm đường thẳng: “Nhưng Gautama, chẳng phải là hồi nãy thày bảo là trên cõi cao không có Ngã hay sao?” Ủa, thày đã nói vậy sao?

31.12. Cái Ta không ngừng tự thăng vượt

Các nhà Bà la môn bảo là có một Đại ngã, một ngã trường cửu bất biến ở cõi cao. Còn thày thì nói là không có Ngã trường cửu bất biến. Thày không nói là không có Ngã. Có một cái Ngã, và đó chính là cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó, nói cho cùng là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo. Rồi sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra những phần nối dài của mình – những sinh thể đồng sáng tạo mới – xuống tận đến dưới này là các chân sư thăng thiên đang làm việc với bầu cõi chưa thăng thiên của con và cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết. Và cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên lúc đó sẽ là gì?

Là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên, và đây chính là chức năng, mục đích của cái Ta Biết, là tiến trình thăng thiên. Và khi con hoàn tất tiến trình thăng thiên này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình dẫn con trở về đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo. Những gì con làm sau đó tùy vào những chọn lựa mà con sẽ lấy ở mức đó, và nói thật ở mức hiện tại của con, con không cần lo lắng về chuyện này. Điều con cần quan tâm là làm thế nào hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Và một khi con thăng thiên thì con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

31.13. Kết nối với chân sư thăng thiên qua giáo lý

Cho nên một lần nữa, các thày đã trao cho con nhiều hơn những gì hầu hết các con có thể tiếp nhận trong một buổi – chén của con đã đầy và đang tràn ra ngoài. Nhưng các thày không chỉ cố cho con một điều gì con có thể nắm bắt ở mức nhận biết hiện tại của con. Các thày cũng cố cho con một điều gì mà con có thể đọc lại và nghiên cứu hết lần này sau lần nọ, để khi con nắm lấy một điểm giáo lý đánh động tâm con ở mức hiện thời của con và con thể nhập nó, thì con vươn lên mức kế tiếp, rồi con có thể học lại giáo lý một lần nữa, tìm ra một điểm mới mà con đã bỏ sót lần đầu nhưng bây giờ mới hấp dẫn con, con lại thể nhập và vươn lên mức cao hơn. Và đây chính là cách con tiến bộ trên đường tu.

Những ai cho rằng mình chỉ cần đọc hay nghe bài truyền đọc một lần mà thấu suốt được mọi điều có thể lãnh hội, thì họ đã bỏ lỡ sự kiện là một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh vì nếu con cởi mở, lời dạy tâm linh sẽ làm gì? Nếu con quay trở lại 20 năm nữa và đọc lại bài truyền đọc mà con vừa nghe hay vừa đọc hôm nay, thì con có tiềm năng làm gì? Con có thể nói: “Ồ, tôi đã hiểu bài này cặn kẽ bằng tâm trí thức, vỏ ngoài của tôi rồi.” Nhưng mục đích thực sự của lời dạy là gì chứ? Là kết nối con với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy đó.

Trong 20 năm nữa thày vẫn sẽ còn đây. Trong 20 năm nữa thày sẽ đã tự thăng vượt cũng như thày tin là con cũng sẽ tự thăng vượt. Và điều này có nghĩa là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày có thể cho con những điều không nằm trong lời dạy thành văn mà vượt khỏi lời dạy thành văn. Và thật sự điều này sẽ tùy con có sẵn lòng đến chừng nào để kết nối và nhận được gì từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có lẽ con đã vươn tới mức con với thày có thể hòa nhập theo một cách vượt khỏi ngôn từ. Nhưng giáo lý vỏ ngoài vẫn có thể giúp con hòa điệu tâm con với tâm thày để hai tâm gặp gỡ, và thày cam đoan với con sự gặp gỡ này không phải là trống không, mặc dù nó có thể trống rỗng cái tâm của tự ngã, trống rỗng tâm đường thẳng cùng tất cả những khái niệm và tư tưởng kia đang bay phất phơ quanh địa cầu. Cho nên có thể con sẽ không có khả năng diễn tả sự hòa điệu này bằng lời, nhưng thày cam đoan với con đó không phải là trống không. Bởi vì như thày đã cố giải thích, trống không là một khái niệm rỗng tuếch.      

Với lời này, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, khoá tu này, buổi gặp gỡ này, và một lần nữa thày bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các thày đã tham dự. Và kỳ thực ngoài các thày đã ban bài truyền đọc, còn có nhiều chân sư thăng thiên khác cũng đã tham gia. Cho nên tất cả các thày đều hy vọng là mặc dù vị chân sư gần gũi nhất với con đã không giảng dạy, hội nghị này vẫn đã giúp con hòa điệu với vị thày gần nhất với tim con. Vì nói cho cùng, tất cả các thày đều là một, cho nên con có thể dùng bài truyền đọc của bất kỳ chân sư nào để hoà điệu với bất kỳ chân sư nào khác.

Và như vậy, một lời cảm tạ thật lớn của các thày cho các con đã hiện diện ở đây trong cõi vật lý và đã sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của các thày.

Không dính mắc nhưng không thờ ơ

Hỏi: Câu này con xin hỏi Phật Gautama hay một vị chân sư nào khác. Xin thày vui lòng giải thích khác biệt giữa sự không dính mắc, sự vô cảm thờ ơ và trạng thái tâm thức trung hòa? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Không dính mắc chỉ là một từ khác cho trạng thái tâm thức trung hòa. Trung hòa có nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì có thể kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể chọn lựa đặt chú ý của mình về một hướng nào đó nhưng không có gì có thể lôi kéo được con. Tại sao không có gì lôi kéo được con? Vì con không có dính mắc. Tại sao con không có dính mắc? Vì con không có một ngã tách biệt, một ngã tiềm thức nào mong cầu một kết quả đặc thù hay tránh né một điều gì trên trái đất. Còn sự thờ ơ, tất nhiên, là khi con thụ động, tâm con thụ động.

Có lẽ chúng ta nên bước lui lại một chút và nhìn xem ta đã nói gì cách đây 2500 năm, Giê-su đã nói gì cách đây 2000 năm và các thày nói gì ngày hôm nay. Đúng thật là khi con nhìn vào, đặc biệt là những lời dạy ta đã trao truyền 2500 năm về trước trong kiếp hiện thân Phật Gautama, thì một số Phật tử đã diễn giải là nếu con đạt được trạng thái không dính mắc đó, cực lạc đó, tam muội đó (samadhi), niết bàn đó (nirvana) cho dù người ta gọi đó là gì, thì nói chung con trở nên vô cảm thờ ơ. Con không quan tâm đến bất cứ gì trên địa cầu. Không có chuyện gì con muốn làm, cho nên con rút ra khỏi xã hội, con ngồi trong tu viện hay hang đá và con thiền quán về Thượng đế bởi vì con không quan tâm bất cứ chuyện gì trong thế gian. Đây là một diễn giải sai lạc về những gì ta đã dạy, những gì Giê-su đã dạy, những gì các thày ngày nay giảng dạy.

Nói chung con có thể nói, con là một sinh thể tâm linh, Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con ở cõi thăng thiên, hay đúng hơn, nó không là một chân sư thăng thiên nhưng chắc chắn nó ở cõi tâm linh, cho nên Hiện diện TA LÀ của con có khả năng trải nghiệm cõi tâm linh. Tại sao nó lại muốn gửi một phần của nó – cái Ta Biết – xuống một thế giới hình tướng và đặc biệt một hành tinh như trái đất? Tại sao chứ?

À, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống thế gian để con có một trải nghiệm tâm linh vì nó có thể có trải nghiệm này ở ngay cõi tâm linh rồi, cho nên nó gửi con xuống thế gian để trải nghiệm thế gian. Nhưng làm thế nào con trải nghiệm được thế gian nếu con ngồi trong hang núi Himalaya, thiền quán về Thượng đế và bỏ mặc thế gian? Đó không phải là lý do con tồn tại, lý do con đang ở trong thế gian. Con ở trong thế gian là để có những trải nghiệm, và những trải nghiệm này bao gồm cả những công việc con làm, và chắc chắn con năng hoạt trong thế gian. Nếu Hiện diện TA LÀ không muốn trải nghiệm thế gian thì việc gì nó phải mất công đem một phần của nó vào một xác thân vật lý? Nó đã có thể rút lại phần này và tập trung vào việc tăng triển ở cõi tâm linh, và tất nhiên đây là điều con sẽ làm sau khi con thăng thiên, nhưng dù sao thì con cũng hiểu ý ta muốn nói.

Mục đích con hiện thân trong cõi vật lý là để tham gia vào lý duyên khởi, và thế gian chính là lý duyên khởi này. Con nếm nhiều trải nghiệm, con làm nhiều công việc, con nêu gương cho người khác thấy là mình có khả năng khắc phục sự dính mắc với thế gian, cho nên mình có thể ở trong thế gian mà vẫn an bình. Làm thế nào con ở trong thế gian mà vẫn an bình? Bằng cách vượt qua các dính mắc của mình và bước vào tâm thái trung hòa.

Nhưng trung hòa không có nghĩa là con không làm gì. Con vẫn có thể tham gia vào một hoạt động vỏ ngoài và đồng thời ở trong một tâm thái trung hòa. Chỉ có nghĩa là trải nghiệm của con sẽ khác hơn mà thôi. Kỳ thực con có thể vui hưởng hoạt động đó, bởi vì khi con ở trong một tâm thái dính mắc thì con không thể tận hưởng việc tham gia vào hoạt động vì con luôn luôn chú tâm vào thành quả của hoạt động – cho đến khi con biết rõ thành quả là gì thì con không thể thực sự vui hưởng hoạt động. Đây chính là câu ngạn ngữ quen thuộc khi người ta bảo rằng điểm đến không quan trọng mà là hành trình, kết quả không quan trọng mà là tiến trình.

Khi con bước vào tâm thái trung hòa, con có thể vui hưởng tiến trình sống trong kiếp hiện thân cho dù con có đạt được hay không đạt được thành quả vỏ ngoài. Con không có vai trong tấn tuồng muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra, con không ở trong tấn tuồng cuồng đại muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra trong thế gian. Nhưng con không thờ ơ vô cảm, con không thụ động, con không chỉ ngồi đó mà không làm gì hết.

Làm thế nào khiến thời gian đi nhanh hơn hay chậm hơn 

Hỏi: Xin thày vui lòng giải thích làm thế nào khiến cho thời gian gia tốc hay đi chậm lại? Điều này có khả thi không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

À, thời gian là gì? Tùy theo con định nghĩa thời gian.

Đây là một đề tài rộng lớn hơn những gì ta muốn đào sâu ở đây, nhưng thực tế là thời gian là một cấu trúc của tâm. Phần nào nó dựa trên ảo tưởng tách biệt, phần nào trên tâm đường thẳng.

Con có thể nói giống như nhiều người vẫn nghĩ – nhiều người tâm linh vẫn nghĩ – là khi con sinh ra đời, con có một tuổi thọ nhất định mà các thày đã gọi là tuổi thọ tự nhiên của con. Có nghĩa là con có thể sống đến 70 tuổi chẳng hạn xong con qua đời. Nhưng các thày cũng có giải thích là nếu con lạm dụng quyền tự quyết của người khác, làm một số hành vi nào đó, thì con có thể gia tốc thời gian theo nghĩa là con sẽ qua đời sớm hơn. Nhưng nếu con chân thành nỗ lực tự thăng vượt và khắc phục các khuôn nếp của mình, con có thể khiến thời gian chậm lại cho nên con sẽ sống lâu hơn.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là như một đệ tử tâm linh, con có phần nào khả năng làm cho thời gian chậm lại, theo nghĩa là con có thể ở lại kiếp hiện thân lâu hơn so với tuổi thọ tự nhiên của cơ thể con. Nhưng đồng thời con cũng gia tốc thời gian, theo nghĩa là con sẽ đạt đến các tầng tâm thức cao nhanh chóng hơn là con có thể nếu con không bước trên đường tu tâm linh.

Về đề tài làm chậm thời gian, con có thể nghĩ là ta đã không trả lời câu hỏi của con, nhưng đó là vì tâm thức tách biệt lẫn tâm đường thẳng phóng chiếu ra rằng thời gian là một thực tại khách quan – thời gian có một sự tồn tại khách quan nào đó. Nhưng không phải vậy đâu, đó là một trải nghiệm chủ quan do tâm chế tạo. Điều xảy ra trên hành tinh địa cầu là tuyệt đại đa số mọi người đang hiện thân ở đây đã chấp nhận cùng một cái nhìn về thời gian: Họ nghĩ đó là một sự vật bên ngoài, họ nghĩ nó đường thẳng – nó chỉ có thể đi về một hướng mà thôi và nó phải không ngừng đi tới.

Nhưng nếu con ở trong một trạng thái thiền định sâu, nếu cái Ta Biết của con bước ra ngoài tâm vỏ ngoài và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết, thì kỳ thực đối với con, thời gian ngừng lại.

Con cũng biết là đôi khi con có cảm tưởng thời gian như trôi chậm lại: “Đến khi nào mới hết ngày làm việc đây?” Lần khác, con nhìn ngược lại một ngày trôi qua và con nghĩ: “Chà, làm sao xảy ra quá nhiều chuyện chỉ trong một ngày?” Trên đường tu tâm linh, thông thường con nhìn lại 10, 20, 30 năm trước – là thời điểm con bắt đầu cất bước trên đường tu – và con cảm thấy mình đã kinh qua biết bao thay đổi, biết bao tiến bộ, đến độ con tưởng như thể mấy kiếp sống đã trôi qua. Bước chân trên đường tu là cách hay nhất để con khiến cho thời gian chậm lại hay nhanh lên.

Nhưng dĩ nhiên nếu con thấy vấn đề này quan trọng, con có thể suy nghiệm về bí ẩn của thời gian. Con có thể xem các lời dạy mà các thày đã trao truyền về điều này, và con có thể tự giải thoát, ít ra bắt đầu tự giải thoát khỏi tâm đường thẳng. Nếu con nhìn xem khoa học nói gì, thì khoa học bảo là không gian hiện hữu. Khoa học bảo là trái đất quay quanh chính nó và nó cũng quay quanh mặt trời. Đó là điều hầu hết mọi người đều nghĩ đến. Con biết là khi con đứng trên mặt trái đất thì con đang di chuyển nhanh kinh hồn trong không gian, vì khi trái đất quay thì cơ thể con quay theo trong không gian, và vì trái đất cũng quay quanh mặt trời cho nên con cũng quay theo một cách khác nữa. Thật sự nếu con nhìn cơ thể con trong không gian tuyệt đối, con đang di chuyển theo một hình xoắn ốc.

Nhưng điều mà ít người nghĩ đến là chính Thái dương hệ cũng di chuyển trong không gian. Và vì Thái dương hệ di chuyển một cách tương đối so với các hệ mặt trời khác, và các mặt trời di chuyển tương đối so với toàn bộ dải thiên hà, và thiên hà thì di chuyển tương đối so với các thiên hà khác trong vũ điệu toàn vũ vĩ đại này, cho nên nếu con bảo: “À đây là không gian tuyệt đối, tôi đang theo dõi quỹ đạo của cơ thể tôi bay ngang qua khoảng không gian này,” thì con sẽ thấy đây là một hình dạng vòng xoắn ốc vô cùng phức tạp. Quỹ đạo này có thể được mô tả bằng toán học, vì các nhà toán học đã khám phá ra phương trình cơ bản cần thiết, chỉ có điều là họ chưa đem ra áp dụng.

Ý ta muốn nói ở đây là thời gian là một hàm số của không gian và sự chuyển động. Sự chuyển động trong không gian là điều tạo ra ảo tưởng thời gian. Và con có thể suy nghiệm điều này. Con có thể suy ngẫm làm thế nào giải thoát tâm con khỏi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế của tâm đường thẳng muốn nhìn tất cả mọi thứ trong sự chuyển động đường thẳng: Thời gian chỉ có thể đi theo một hướng, thời gian phải không ngừng đi tới, rồi có vấn đề nhân và quả, vân vân. Và từ đó con có thể nhận ra là trái đất hay chính con đang chuyển động qua không gian, nhưng sự chuyển động này vô cùng phức tạp, nó không đường thẳng, nó không thẳng tắp theo một đường.

Con đang chuyển động trong vũ điệu vũ trụ vô cùng phức tạp này mà ta đã gọi là lý duyên khởi, và các thày thì gọi là Dòng sông sự Sống. Và khi con suy nghiệm sự thể này, con có thể đạt tới điểm con bắt đầu trải nghiệm nó. Khi đó, con sẽ trải nghiệm là thời gian hết quan trọng. Không có thời gian.

Không ngã nào có thể đem con vào trạng thái thăng thiên

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/4/2023, nhân Webinar Phuc sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc và chính con xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật có liên quan gì đến thập tự giá và việc đem một ai đó xuống khỏi thập tự giá? À, con không thật tin rằng trước khi Giê-su xuất hiện trên trái đất thì con người đã bị đóng đinh trong tâm họ rồi sao? Các biểu tượng mà các thày đã giải thích trong hội nghị này về ý nghĩa sâu xa hơn của thập tự giá tất nhiên cũng áp dụng cho Giê-su. Các biểu tượng này đã áp dụng kể từ khi con người trên địa cầu bước vào nhị nguyên.

Gautama bước xuống từ thập tự giá

Khi thuở đó ta chuẩn bị sứ vụ của ta trong tư cách là Phật, sứ vụ giáo huấn của ta, nhiều lần ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá. Ta đã lớn lên trong một môi trường vô cùng bảo bọc nơi cung điện. Ta đã sống trong một số điều kiện vỏ ngoài thật đặc thù, không bao giờ gặp người nào bệnh tật, và ta được hưởng mọi giàu sang cùng thú vui vật chất mà ta có thể mong muốn. Ta đã bị đóng đinh bởi lối sống rất trần tục, thoải mái, sung sướng đó. Ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá mấy lần trước khi ta thực sự sẵn sàng rời bỏ cung điện này, đi vào rừng để sống như một người khổ hạnh, thiền định, nhịn đói cho đến gần chết. Và khi ta ngồi đó thiền định, tất nhiên là ta xem xét tâm mình và khắc phục được một số ảo tưởng, có nghĩa là một lần nữa ta lại đem mình xuống khỏi một thập tự giá khác, vì như ta đã giải thích, con có thể nói là với mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng, có một ảo tưởng khiến con bị trói chặt vào thập tự giá.

Ta đã đạt tới mức có thể gỡ mình xuống khỏi một thập tự giá vĩ đại, một ảo tưởng vĩ đại, khi ta ngộ ra là lối sống khổ hạnh thật quá cực đoan và vì thế không phải là con đường tối thượng. Đó là khi ta chứng được Trung đạo, nhưng ngay cả khi đó, ta vẫn phải kinh qua một quá trình đã không được thực sự ghi lại trong kinh sách Phật giáo là ta phải hội đủ tư cách để có thể bắt đầu sứ vụ hoằng pháp, và một lần nữa ta lại gỡ mình xuống khỏi một loạt thập tự giá nữa. Nhưng rồi khi ta bắt đầu sứ vụ giảng dạy thì các Phật tử, đại đa số Phật tử, cứ muốn nghĩ là khi đó chắc chắn ta đã là một sinh thể toàn hảo. Nhiều Phật tử muốn nghĩ rằng ta còn toàn hảo ngay từ đầu cơ, nghĩa là ta đã không phải đi qua nguyên một tiến trình. Nhưng điều họ nghĩ thật không có căn cứ nếu họ nhìn kỹ câu chuyện cuộc đời của ta.

Ngay cả sau khi khởi sự giảng dạy, ta vẫn còn những ảo tưởng phải khắc phục, vì lý do giản dị là nếu ta đã vượt qua mọi ảo tưởng thì ta đã không thể cầm giữ một thân thể vật lý. Ta vẫn phải nhìn ra nhiều điều trong bản thân mình, vẫn phải khắc phục những cái ngã tách biệt, vẫn phải gỡ mình xuống khỏi những thập tự giá đó. Điều ta muốn nói giản dị ở đây là ta đã đi qua tiến trình bước xuống khỏi thập tự giá, và vì thế ta đủ tư cách để nói chuyện về đề tài này.

Đồng sáng tạo trong một trạng thái hợp nhất

Các thày có thể trình bày một cách nhìn nào khác về thập tự giá hay không? À như các thày khác có nói, có bốn tầng vật chất, bốn cánh hay bốn đầu trên thập tự giá, bốn điểm của thập tự giá, và vì vậy con bị đóng đinh trong vật chất. Nhưng vật chất là gì? Có thể nói vật chất là hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng không do cá nhân con tạo ra.

Các thày đã giải thích là khi con đi xuống hiện thân lần đầu tiên ở một cõi chưa thăng thiên, con là một người đồng sáng tạo. Con tự xem mình là một sinh thể nối kết, và con thấy mình đang ở trong một môi trường đã được tạo dựng bởi những sinh thể ở một tầng tâm thức cao hơn con. Con đang sử dụng sự nối kết của con để đồng sáng tạo và con cũng biết là con không đang sáng tạo qua uy lực của riêng minh. Cho nên trong hoàn cảnh này khi con chưa bước vào nhị nguyên, con không bị đóng đinh vào vật chất vì con biết con là nhiều hơn hình tướng. Thậm chí con là nhiều hơn cái ngã mà con đã khoác vào trong bầu cõi chưa thăng thiên này.

Ngay khi con đầu thai lần đầu, con đã có bốn thể phàm. Con có một bản sắc thể, một trí thể, một cảm thể và một cơ thể vật lý, và để bắt đầu đồng sáng tạo, con tạo ra một số cấu trúc trong những thể cảm xúc, lý trí và bản sắc đó. Điều này xảy ra khi từ mức Hiện diện TA LÀ của con, con bước xuống qua tầng 144, tầng 143, rồi xuống mãi đến tầng 48 trong bầu cõi của con. Theo một cách nào đó, con khoác vào tất cả những ảo tưởng này, nhưng vì con vẫn xem mình là một sinh thể nối kết cho nên con không bị đóng đinh trong tâm con, và nhờ thế khi con tạo ra một tình huống vật lý nào đó, con không đồng hóa với tạo vật của mình. Cho nên con không bị đồng hóa với tạo vật vật chất mà con đã tạo dựng và con không xem mình đồng nhất với xác thân vật lý của con.

Ảo tưởng vật chất là quan trọng

Chỉ khi con xuống dưới tầng 48 đó và bước vào cõi tách biệt thì con mới bị đóng đinh. Nhưng ta chẳng vừa nói là với mỗi tầng tâm thức, kể cả ở trên tầng 48, đều có một ảo tưởng mà con phải khắc phục và do đó, theo một nghĩa nào đó, con bị đóng đinh vào ảo tưởng này hay sao? Bây giờ có phải ta đang nói ngược lại? Không, vì ta không nói về cùng một hoàn cảnh. Khi con giáng thế lần đầu, con không đi xuống một hành tinh có nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng đã đầu thai lần đầu khi chưa một ai trên trái đất đã bước vào nhị nguyên. Nhưng khi con đầu thai trên một hành tinh như trái đất nơi tâm thức bị thấm đẫm nhị nguyên, thì con mới có thể nói là con bị đóng đinh vào từng ảo tưởng, và chỉ khi nào con lên đến tầng 144 thì thực sự mới nói được là con đã khắc phục trọn vẹn cái cảm nhận rằng vật chất là quan trọng.

Con không chỉ bị vướng kẹt, hay bị đóng đinh, hay bị ám ảnh về mặt thể xác, cảm xúc hay lý trí, mà con mang cảm nhận các điều kiện vật chất là quan trọng. Không nhất thiết là con đồng hóa với chúng, vì khi con bắt đầu lên cao hơn tầng 96 thì con ngừng không đồng hóa với vật chất nữa nhưng con vẫn nghĩ là trên địa cầu có gì đó quan trọng, có gì đó mà con muốn thấy thay đổi, và trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì con duy trì cảm nhận này cho tới chót. Như con thấy thày Giê-su treo thân trên cây thập tự mà vẫn còn chút mong muốn làm gì đó trên trái đất, mong muốn tiếp tục sứ vụ của mình, cho nên thày mới muốn Thượng đế đến cứu thày khỏi thập tự giá để thày có thể tiếp tục sứ vụ của mình. Thày vẫn còn cái cảm nhận là vật chất quan trọng, có gì đó quan trọng trong vật chất.

Mặc dù điều này không được ghi lại trong kinh sách, con cũng có thể nhìn vào sứ vụ giáo huấn của ta. Ta không còn đồng hóa với cơ thể, không còn đồng hóa với vật chất, nhưng ta vẫn còn cảm nhận là trong vật chất có điều gì quan trọng, và đó chính là tại sao ta đã ở lại địa cầu và đã giảng dạy. Ta cảm thấy ta có thể đem lại một cái gì khác biệt. Ta không bảo chuyện này là sai, mà ta chỉ muốn giải thích cho con hiểu là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, chỉ khi nào con thăng thiên thì con mới thật sự khắc phục ảo tưởng cuối cùng khiến các điều kiện của thế giới vật chất có vẻ quan trọng.

Sự (không) sẵn lòng buông bỏ hình tướng con đã tạo dựng

Này con, khi con nhìn bức tranh tổng thể và nhìn xa hơn trái đất, con có thể nói là Đấng sáng tạo thế giới hình tướng của con đã tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính bản thể ngài, tạo ra các sinh thể tự nhận biết từ chính bản thể ngài, rồi gửi họ vào bầu cõi để hoạt động trong tư cách làm người đồng sáng tạo với mục đích họ sẽ dần dần tăng triển tâm thức. Bầu cõi thứ nhất thăng thiên, bầu cõi thứ nhì được tạo dựng, nó cũng thăng thiên. Rồi bầu cõi thứ ba rồi thứ tư, và mỗi bầu cõi sau dày đặc hơn bầu cõi trước một chút, cho tới một điểm ở bầu cõi thứ tư khi một số sinh thể từ chối không thăng thiên với bầu cõi của họ, cho nên họ bị rơi xuống, họ sa xuống bầu cõi thứ năm, vân vân. Điều có thể nói về ba bầu cõi đầu là những người đồng sáng tạo nâng bầu cõi họ thăng thiên đã không bao giờ trở nên đồng hóa với hình tướng, có nghĩa là gì? Có nghĩa là, chẳng hạn, cho dù nền văn hóa mà họ tạo dựng trên một hành tinh có tinh xảo tuyệt diệu đến chừng nào thì họ vẫn không bao giờ đồng hóa với hình tướng họ đã tạo dựng.

Chúng ta không chỉ đang nói tới chuyện đồng hóa với thân xác vật lý mà thôi, chúng ta nói đến những sinh thể đã sống trong bầu cõi này suốt một thời gian dài đằng đẵng, đã làm người đồng sáng tạo từ thuở họ mới khởi lên một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn và khả năng đồng sáng tạo cũng vô cùng giới hạn, nhưng lần hồi sau một thời gian rất dài họ đã khuếch trương khả năng đồng sáng tạo này đến mức họ có thể tạo dựng những hình tướng, những hành tinh, những nền văn hóa trên hành tinh vô cùng tinh xảo. Nhưng mặc dù các hình tướng này cực kỳ tinh xảo công phu, họ đã không bao giờ đồng hoá với chúng. Không bao giờ họ bị lạc lối trong hình tướng mà họ tạo ra.

Nhưng bây giờ đến bầu cõi thứ tư, cũng có một số sinh thể đã bỏ ra một thời gian rất dài để khuếch trương khả năng đồng sáng tạo của mình, nhưng khi đến lúc bầu cõi thăng thiên thì họ không sẵn lòng bỏ lại tạo vật của họ. Trong khi các sinh thể từng thăng thiên trong các bầu cõi trước đã đạt tới điểm sẵn lòng buông bỏ những hình tướng tinh xảo mà họ đã tạo ra, thì các sinh thể này ở bầu cõi thứ tư không sẵn sàng bỏ lại. Họ chiêm ngưỡng tạo vật của họ, họ mê say tạo vật của họ, và trong cái tâm đã tạo nên tất cả tạo vật tinh xảo đó, họ không sẵn lòng bỏ nó lại. Nói cách khác, họ đã trở nên đồng hóa với hình tướng họ tạo dựng.

Tất nhiên giáo lý mà các thày đã trao cho con về cái Ta Biết nói rằng cái Ta Biết không bao giờ có thể trở thành hình tướng do nó tạo ra. Nó có thể sáng tạo những hình tướng rất công phu khi nó khuếch trương khả năng đồng sáng tạo, nhưng nó không thể trở thành hình tướng. Tại sao vậy? Con đồng sáng tạo như thế nào chứ? Con đồng sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong cõi bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý, và con đồng sáng tạo xuyên qua ngã này. Ở đây chúng ta không nói về một cái ngã tách biệt. Tuy con tự xem mình là một sinh thể kết nối nhưng con vẫn tạo ra một cái ngã, và điều tài tình ở đây là cái Ta Biết không thay đổi trong nguyên tiến trình nó đi qua. Nó không thay đổi! Chỉ có cái ngã là ngày càng trở nên tinh xảo hơn mà thôi.

Khi bầu cõi của con sẵn sàng thăng thiên, con phải buông bỏ ngã này. Con phải buông bỏ hồn ma. Và đây chính là điều các sinh thể sa ngã không muốn làm vì họ quá mê say với nó, họ quá đồng hóa với ngã do họ tạo ra, họ quá đồng hóa với hình tướng đến nỗi – theo cách diễn tả của Ki-tô hoàn vũ – họ không chịu để mất đời sống của họ vì ta. Họ không chịu đánh mất đời sống của họ để đi theo Ki-tô và bước vào một trạng thái cao hơn của sự sống là sự sống vĩnh hằng. Họ đã được phép kinh qua trải nghiệm mà họ muốn, nhưng hiển nhiên, họ không thể duy trì tạo vật của họ ở bầu cõi thứ tư, cho nên họ đã – cùng với ngã tách biệt mà họ đã tạo dựng – rơi xuống bầu cõi thứ năm. Và ở đây, họ đã có thể sử dụng cái ngã tinh xảo này để khởi sự tạo ra gì đó trong bầu cõi thứ năm, và tất nhiên tạo vật này tiến bộ hơn tất cả mọi thứ các dân cư mới trong bầu cõi này có thể đồng sáng tạo.

Tâm thức sa ngã ảnh hưởng giáo lý tâm linh như thế nào

Những điều trên liên quan thế nào với con là người đang hiện thân trong bầu cõi thứ bảy trên một hành tinh dày đặc chưa thăng thiên có tên là trái đất? À, đó là thế này: toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng chỉ đơn giản là cung cấp một môi trường cho các sinh thể tự nhận biết đồng sáng tạo để họ có thể mở rộng khả năng đồng sáng tạo, mở rộng tâm thức của họ. Nhưng trong một bầu cõi chưa thăng thiên, sự mở rộng tâm thức này không xảy ra trong bốn thể phàm, nó cũng không xảy ra ở mức cái Ta Biết, mà nó xảy ra ở mức Hiện diện TA LÀ và căn thể. Và điều này nhằm mục đích là ngay cả nếu con chọn sa ngã, nếu con chọn bị lạc lối trong tạo vật của con, thì Hiện diện TA LÀ vẫn không thể bị đánh mất, và do đó các trải nghiệm của con như một người đồng sáng tạo không bao giờ bị đánh mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là như một đệ tử bước chân trên con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, con đường dẫn đến thăng thiên, con cần nhận ra là mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu đã bị tâm thức sa ngã chi phối, kể cả mọi khía cạnh của tôn giáo lẫn tâm linh. Bất kể lời cả quyết của bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ triết lý tâm linh hay tổ chức tâm linh nào, thì mọi giáo lý tâm linh đều đã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, theo nghĩa là nếu giáo lý không thích nghi với tâm thức sa ngã một cách nào đó, thì quần chúng sẽ không thể nắm bắt được giáo lý, bởi vì tâm thức sa ngã đã tràn lan quá đỗi, đã trở nên quá thuyết phục khắp địa cầu.

Ngay cả giáo lý của các chân sư thăng thiên cũng phải thích nghi với tâm thức sa ngã, vì nếu không, không ai sẽ có thể nắm bắt được. Đấy là vì sao các thày mới nói đến phương pháp bán hàng của các nhân viên bán xe cũ gọi là “dụ mua hàng hấp dẫn để hướng sang hàng cao cấp”, và các con cần dùng giáo lý này để bước lên một tầng cao hơn nơi con có thể nhận được những giáo lý không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một cách mà các tôn giáo, chẳng hạn, bị tâm thức sa ngã chi phối là quan niệm cho rằng con có một linh hồn do Thượng đế tạo ra có khả năng bước vào vương quốc thiên đàng. Nhưng như các thày đã giải thích, hồn chỉ vỏn vẹn là những cái ngã hay ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con – và cuối cùng cũng gồm cả tự ngã – và tất cả những thứ này sẽ không bao giờ vào được thiên đàng. Hồn không thể hội đủ tư cách để thăng thiên. Chỉ có “người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể lên trở lại thiên đàng” – tức là cái Ta Biết. Đây là một lời dạy có thể làm xốn xang tuyệt đại đa số mọi người trên địa cầu nếu họ có thể thực sự nắm bắt được. Đây là một lời dạy gây xao động và nó đã bị một số đệ tử của các đợt truyền pháp trước bác bỏ. Nhưng lời dạy kia, ý tưởng kia, đến từ đâu? Đâu là gốc gác của ý tưởng cho rằng có một cái gì rõ ràng nằm trong cõi này, nằm trong một cơ thể vật lý nhưng là nhiều hơn một cơ thể vật lý, và cái đó có thể được hoàn thiện một cách nào đó, hay trở nên tinh xảo đến độ nó có thể đi lên thiên đàng hay bước vào cõi tâm linh? Ý tưởng đó đến từ đâu?

Hoàn thiện ngã hay buông bỏ ngã

À, nó đến từ sa nhân bởi vì giấc mơ của sa nhân, ít ra của một số sa nhân từ khi họ sa ngã, là họ có thể cứ tiếp tục xây đắp cái ngã mà họ đã tạo ra nơi bầu cõi khi họ sa ngã, và họ có thể cứ tiếp tục tô điểm cho nó ngày càng tinh xảo hơn cho đến một ngày kia Thượng đế sẽ phải cho nó vào thiên đàng – hay đúng hơn, các chân sư thăng thiên sẽ phải cho nó vào thiên đàng. Đây là giấc mơ cơ bản của ít nhất một số sinh thể sa ngã.

Một số sa nhân khác bị mắc kẹt trong giấc mơ muốn chứng minh là Thượng đế sai lầm, và một trong những cách này là chứng mình Thượng đế đã sai lầm khi ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng nhiều sa nhân bị kẹt trong giấc mơ là họ có thể tạo ra một cái ngã tinh xảo đến mức nó sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng. Nói cách khác, sa nhân sẽ có thể duy trì ngã đó thay vì bị rơi xuống các bầu cõi dày đặc hơn để cuối cùng phải đối mặt với cái chết thứ nhì, nghĩa là họ có thể tránh cái chết thứ nhì bằng cách trở nên tinh xảo đến độ ngã cũng hội đủ điều kiện thăng thiên. Và đây chính là điểm ẩn núp đằng sau tuyệt đại đa số các giáo lý tôn giáo lẫn tâm linh trên hành tinh, và cũng là một điểm rất khó giải thích cho mọi người khi chúng ta còn trong Thời đại Song ngư.

Đối với các đợt truyền pháp của chân sư thăng thiên khởi sự trong Thời đại Song ngư, thật khó giải thích điều đó cho mọi người. Đã có những sự gợi ý nhưng có rất ít người đã nắm được. Một số ít đã nắm được, và một số sẽ hiểu được. Nhưng trong Thời đại Bảo bình, có khả năng rất nhiều người hơn sẽ đạt tới mức nhận thức được. Những người này sẽ tới mức nhận ra là để thăng thiên, con cần phải để cho hồn ma cuối cùng chết đi. Con cần từ bỏ hồn ma cuối, cái yếu tố chót cùng này của ngã tách biệt vì nó sẽ không bao giờ hội đủ tư cách. Nó sẽ không bao giở đủ tư cách để được cứu rỗi, để bước vào thiên đàng, hay niết bàn hay thăng thiên. Cho dù con có gọi cái vượt khỏi bốn tầng vật chất đó là gì, thì cái ngã được tạo ra trong thế giới hình tướng không thể đủ tư cách. Nó không thể bước vào. Đây là chứng ngộ cơ yếu trước khi con hội đủ tư cách thăng thiên.

Điều này không có nghĩa là trước thời hiện đại chưa từng có ai thăng thiên. Tất nhiên là đã có Giê-su, có chính ta, có Mẹ Mary và nhiều người khác nữa. Họ đến từ nhiều truyền thống tôn giáo hay tâm linh, nhiều truyền thống thần bí khác nhau, và họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng tất cả đều đã làm được vậy bằng cách đạt đến nhận thức rằng đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã của mình, mà là buông nó ra, thăng vượt nó, để cho nó chết, cho dù cách nhìn hay cách diễn tả của họ là gì. Tất cả đều đã đạt đến chứng ngộ này và điều này cũng đã được truyền dạy qua những lời dạy tôn giáo và tâm linh khác nhau. Con có thể tìm thấy một số dấu vết còn sót lại của lời dạy này. Ngay cả trong tôn giáo hay giáo lý đạo Phật, con cũng có thể tìm thấy nếu con cố tìm. Con có thể tìm thấy một số lời dạy về Biển Luân hồi là cùng một thứ với Niết bàn, và con tới mức ngộ ra là cả hai không có gì khác biệt. Có những lời dạy khác nữa mà rất it người đã nắm bắt được nhưng một số thì đã hiểu.    

Việc các thày đang làm hiện nay trong đợt truyền pháp này là giải thích rõ ràng hơn trước kia, để giúp mọi người dễ dàng nắm bắt hơn rồi khởi sự áp dụng. Hiển nhiên như con có thể nói, đây là sự thách đố cùng cực đối với sa nhân, cơn ác mộng tột độ đối với sa nhân, vì nó thách đố trực tiếp giấc mơ của họ về sự bất tử của ngã tách biệt, sự thường hằng của hình tướng, giấc mơ cho rằng một cái gì được tạo ra trong thế giới hình tướng có khả năng đạt đến thường hằng mà không đi qua tiến trình thăng thiên.

Mục đích của bầu cõi chưa thăng thiên

Và con cũng có thể hỏi giống như một số người đã tự hỏi suốt các thời đại: Tại sao mọi chuyện lại như vậy? Chúng ta có bầu cõi chưa thăng thiên để làm gì? Có hàng tỷ và hàng tỳ và hàng tỷ con người đồng sáng tạo, tất cả đều đang sáng tạo – hoặc một mình, hoặc cùng nhau khi họ nâng cao tâm thức – họ tạo ra những nền văn mình công phu tinh xảo đó trên những hành tinh tuyệt đẹp đó. Rồi sau biết bao thời gian dài đằng đẵng, tất cả những thứ đó họ sẽ phải buông bỏ, họ sẽ phải bỏ lại để chính họ có thể thăng thiên và toàn bầu cõi của họ cũng thăng thiên. Và trong tiến trình thăng thiên này, tất cả những thứ mà họ đã tạo ra sẽ tiêu tan, sẽ bị cuốn mất, sẽ bị xóa bỏ, cho dù con có muốn mô tả như thế nào. Đây là một tiến trình tịch diệt.

Tại sao lại như vậy? Tại sao không có chuyện là trên một số hành tinh, họ có thể tạo ra một cái gì tinh xảo đến độ nó có thể thăng thiên khi bầu cõi thăng thiên? À, các thày đã cho con lời giải thích rồi đó: Quyền tự quyết là cách mọi người tăng triển, mọi sinh thể tăng triển, và quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, cho nên luôn luôn có khả năng là có người sẽ từ chối thăng vượt một điều gì đó, muốn bám giữ cái đó, và để tránh cho cái đó trở thành thường hằng thì bầu cõi phải thăng thiên. Nhưng con vẫn có thể nói: “Vâng, chúng con hiểu được là có những hành tinh có người không chịu buông bỏ và vì vậy sẽ sa ngã, thì các hành tinh này có thể bị phân hủy. Nhưng tại sao mọi hành tinh phải bị phân hủy?”

À, bởi vì để thực sự thăng thiên, con phải chứng tỏ sự không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào cái ngã mà xuyên qua đó con đã tạo ra hình tướng. Và con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ nó và tin tưởng rằng những trải nghiệm được thu hoạch trong nguyên hành trình của con qua bầu cõi chưa thăng thiên được bảo tồn trong Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và như vậy chúng không bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là sau khi một bầu cõi thăng thiên, tất cả mọi trải nghiệm được thu thập trong căn thể của tất cả mọi sinh thể thăng thiên vẫn còn đó. Và sau khi bầu cõi thăng thiên, năng lượng được thanh lọc, có nghĩa là nó không còn dày đặc như ở bầu cõi chưa thăng thiên, và giờ đây việc sáng tạo trong bầu cõi thăng thiên sẽ dễ dàng hơn hẳn. Điều này có nghĩa là tất cả các Hiện diện TA Là đã trở thành chân sư thăng thiên giờ đây có sự chọn lựa. Họ sẽ sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Họ sẽ đồng sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Giờ đây họ hoàn toàn tự do quyết định những gì họ sẽ sáng tạo và như thế nào.

Nhưng con thấy không, trước điểm thăng thiên thì con mang cái ngã mà xuyên qua đó con đã sáng tạo một vật gì và nghĩ nó tốt đẹp, tinh xảo. Nhưng con vẫn mang ngã đó. Có nghĩa gì? Có nghĩa là mặc dù con đang khiến cho tạo vật ngày càng tinh xảo hơn, con vẫn làm vậy xuyên qua ngã, qua các thông số của ngã đó. Tạo vật do con đang đồng sáng tạo tùy thuộc và được quy định bởi tạo vật con đã đồng sáng tạo trước đó. Nhưng giờ đây khi con đã thăng thiên và bỏ lại ngã đó, con hoàn toàn tự do đồng sáng tạo bất cứ gì trong bầu cõi thăng thiên. Con có thể rất nhanh chóng tạo lại một cái gì tương tự như cái con đã tạo ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nếu đây là điều con quyết định làm. Nhưng trên thực tế, tuyệt đại đa số các sinh thể thăng thiên sẽ muốn sáng tạo một cái gì khác hơn vì giờ đây họ có viễn quan rộng lớn hơn trước rất nhiều.

Tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã

Con thấy đó, tất cả đều là một phần của nguyên tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã khi một người đồng sáng tạo bắt đầu với một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn rồi lần hồi khuếch trương cho đến khi cuối cùng nó đạt được mức tâm thức trọn vẹn của Đấng Sáng tạo. Nhưng làm thế nào con khuếch trương ý niệm bản ngã? À, qua một tiến trình lần hồi mở rộng ngã, xong con trải qua một số xoay chuyển cách mạng trong ý niệm bản ngã – và một xoay chuyển cách mạng như vậy là khi bầu cõi nơi con đã khởi sự đồng sáng tạo thăng thiên.

Con cũng có những xoay chuyển khác. Lấy ví dụ con thăng thiên trong bầu cõi hiện thời. Trước tiên, con có thể mở rộng ý niệm bản ngã của con trong bầu cõi thứ bảy cho dù bầu cõi này chưa thăng thiên. Nhưng một khi con đã làm vậy – con đã mở rộng đến mức tối đa của con – thì con có thể thăng thiên lên bầu cõi thứ sáu. Rồi ở đó con lại mở rộng thêm nữa và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con đạt đến tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mỗi bước thăng thiên lên bầu cõi kế tiếp như vậy là một cuộc xoay chuyển cách mạng, và cho dù con đã bước vào các bầu cõi thăng thiên, con vẫn phải từ bỏ ý niệm bản ngã mà con đã mang trong bầu cõi trước.

Đạo Phật là một triết lý thực tiễn

Như con thấy, đây là một tiến trình rất phức tạp. Và tại sao nó lại phức tạp đến vậy? Bởi vì tâm thức của Đấng Sáng tạo vượt khỏi một cách gần như vô hạn những gì con có thể nắm bắt trên địa cầu. Vậy tại sao ta lại đề cập đến chuyện này làm gì? À, con sẽ thấy là 2500 năm trước đây, ta đã có một cách tiếp cận khác hẳn cách tiếp cận mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang có ngày nay. Vào thời đó hiển nhiên có nhiều tôn giáo, kể cả đạo Ấn, nói về thế giới thượng thiên cùng các cõi thánh thần và điều này điều nọ. Các giáo lý này đi ngược trở về kinh cổ Veda được ban truyền 10 ngàn năm về trước vào thời tâm thức loài người thấp hơn bây giờ – mặc dù ngày nay vẫn còn những người theo đạo Ấn nghĩ đó là giáo lý cao nhất có thể được ban ra trên địa cầu.

Vậy tình thế như thế nào vào thời ta hiện thân là Phật? Con có những người Bà-la-môn của Ấn giáo, họ hoàn toàn giống như lời mô tả mà Giê-su vừa đưa ra hồi nãy về các thày thông giáo và người Pha-ri-si của Do Thái giáo. Họ đã lấy những lời mà họ xem là chuẩn mực đích thực của kinh Veda, rồi họ đã diễn giải một cách trí thức và càng ngày càng xây dựng những cách diễn giải, những hình tư tưởng tinh xảo hơn mà họ cứ nghĩ là chân lý tuyệt đối.

Và những ai tin họ – các tín đồ Ấn giáo vào thời đó, những người dân bình thường, tuyệt đại đa số dân chúng – không thể thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của những người Bà-la-môn này. Họ không thể nhìn xuyên thấu để nhìn ra đó chỉ là hình tư tưởng, chỉ là ảo tưởng. Họ không có sự nhận biết, khả năng tri thức hay kiến thức về thế giới để nhìn xuyên thấu. Và đó là vì sao ta đã có một cách tiếp cận thật thực tiễn và ta nói: “Đạo Phật không phải là một tôn giáo như đạo Ấn. Đạo Phật không là một tôn giáo nhằm cung cấp kiến thức về các vị thần và cõi thần thánh, vì hầu hết mọi người không thể nắm bắt cõi thần thánh là gì, cho nên họ sẽ bị vướng kẹt trong các học thuyết và cách diễn giải vỏ ngoài đó. Thay vào đó, chúng ta hãy thiết lập một triết lý thực dụng nhằm đưa con người từ nơi họ đang đứng, nâng cao tâm thức của họ, ít nhất giúp họ khắc phục một số ảo tưởng của Maya. Rồi một khi họ đã nâng cao tâm thức thì họ sẽ có khả năng nắm bắt nhiều hơn. Họ sẽ phát triển khả năng trực giác và có thể biết được từ bên trong cái gì là thực, cái gì không thực.”    

Nói cách khác, điều ta đã tránh không làm trong kiếp đầu thai làm Phật là tạo ra một tôn giáo khác nữa tự xưng là cao trội hơn tôn giáo của người Bà-la-môn, vì điều này sẽ khóa chặt ta vào một cuộc chiến với người Bà-la-môn và họ sẽ tấn công ta và hành xử với ta y như họ đã cố hành xử với Giê-su. Đây là một lượng định dựa theo các chân sư thăng thiên đang hướng dẫn địa cầu vào thời đó, nhận định rằng đây là điều con người sẵn sàng làm được, ít ra ở vùng này của thế giới.

Thêm tiết lộ tuần tự

Điều xảy ra trong vòng 500 năm giữa thời của Phật và thời của Giê-su là tâm thức tập thể đã có tiến bộ. Và sự tiến bộ này phần lớn là do nhiều người đã đón nhận đạo Phật, đã chân thành nỗ lực cải hóa tâm thái của mình, nỗ lực khắc phục các ảo tưởng của Maya bằng cách bước chân trên Bát chánh đạo, là con đường ta vừa giải thích trong một bài trước nhằm giúp đỡ con người vượt qua các ảo tưởng. Đến thời của Giê-su, các chân sư thăng thiên đã xác định là các thày có thể dùng một cách tiếp cận khác xuyên qua Giê-su. Giê-su sẽ giảng dạy về Thượng đế, về cõi tâm linh và tiến trình thăng thiên, vì giờ đây đã có nhiều người hơn sẵn sàng chấp nhận tiềm năng thăng thiên một cách ý thức.

Tất nhiên các thày cũng biết là có những hạn chế do tâm thức tập thể dựng lên. Quả là có một tiềm năng rất thực tế là đạo Cơ đốc có thể trở thành cái mà nó đã trở thành sau này, một tôn giáo do sa nhân kiểm soát. Nhưng dẫu sao, đó là một cách tiếp cận mới mẻ khi Giê-su trình bày công khai về đấng Cha, nhưng như con thấy, tương đối Giê-su cũng đã đưa ra ít chi tiết về cõi tâm linh và mọi thứ ở đó. Kỳ thực, Giê-su đã nói về cõi tâm linh ít hơn là kinh Cựu ước, ít hơn rất nhiều những người Bà-la-môn của Ấn giáo. Theo một nghĩa nào đó, Giê-su cũng đã lấy một cách tiếp cận thực dụng.

Rồi những gì xảy ra kể từ thời Giê-su đến nay là, tất nhiên và trên hết do thành quả của lời dạy của Giê-su lẫn của Phật, tâm thức tập thể đã được nâng lên cao hơn. Nhưng rồi sau đó Saint Germain lại quyết định ban truyền phương pháp khoa học, và điều này lại nâng tâm thức lên cao hơn nữa. Nó khiến cho thế giới quan của con người được mở lớn. Nó cho con người một tầm hiểu biết về một số khái niệm tổng quát mà bây giờ các thày đã sử dụng trong khoảng thế kỷ vừa qua để ban truyền thêm nhiều tiết lộ tuần tự qua trung gian một số tổ chức và vị sứ giả khác nhau.

Bây giờ chúng ta đang ở một điểm khi các thày lại cảm thấy tự do hơn giảng dạy về các điều kiện trong cõi tâm linh, nhưng các con sẽ thấy là trọng điểm của các thày vẫn tập trung vào việc cho con thấy làm thế nào con có thể thăng vượt tâm thức của mình. Theo một nghĩa nào đó, các thày đang làm cùng công việc mà các thày đã làm qua tôn giáo hay triết lý của Phật, là trình bày cho mọi người cách nâng cao tâm thức hầu họ có thể biết được từ bên trong cái gì là thực và cái gì không thực, hầu họ không cần lệ thuộc vào một thẩm quyền bên ngoài, thậm chí một giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên, mà ngược lại họ biết được từ bên trong nội tâm. Và tất nhiên, đây là cách duy nhất con có thể tự giải thoát khỏi các ảo tưởng của Maya, các lời dối trá của sa nhân.

Đọc rung động là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá

Nhiều người trong số những Bà-la-môn Ấn giáo kia là sa nhân. Họ có một khả năng đặc biệt làm rối trí và gần như thôi miên những ai chưa thiết lập được mối liên lạc nội tâm với tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu nối được mối liên lạc nội tâm này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu các ảo ảnh của sa nhân. Con có thể làm điều này phần nào qua tâm vỏ ngoài khi con đánh giá là họ không nhất quán, họ không hợp lý, họ không tương hợp với những giáo lý khác mà con xem là đáng tin cậy. Nhưng nói cho cùng, con sẽ bắt đầu làm được điều này giản dị bằng cách đọc sự rung động. Con có thể đạt tới điểm đọc được rung động, con đọc một lời dạy nào đó và chỉ trong vòng một vài câu, con cảm nhận được là rung động không đến từ tâm Ki-tô. Và tất nhiên, đây chính là điểm mà các thày đã cố đưa tất cả các con đến, qua các lời dạy và các dụng cụ về việc khắc phục các ngã, vì chính những cái ngã này ngăn cản con thiết lập sự nối kết với tâm Ki-tô, ngăn cản con sử dụng tâm Ki-tô làm khung tham chiếu để đọc được rung động của bất cứ gì trong thế giới hình tướng.

Theo một nghĩa nào đó, đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá: con đọc rung động. Con có thể gọi đó là nhận thức ngoại cảm, là khả năng thấu thị – con muốn gọi là gì cũng được – nhưng khả năng này không gắn liền với giác quan vật lý. Nói cách khác, nhiều người tâm linh mơ ước có thể nhìn thấy hào quang bằng cách mở con mắt thứ ba, nhưng đây vẫn chỉ là sự nối dài của nhãn quan. Nhưng đọc được rung động thì vượt khỏi năm giác quan. Con có thể gọi là giác quan thứ sáu hay thứ bảy hay bất kỳ tên gọi nào khác, nhưng đó là khả năng đọc rung động.

Tại sao người ta có thể đọc được rung động? À, ta đã nói gì cách đây 2500 năm? Tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Điều gì đã được nói về tâm thức Ki-tô? Đó là Ngôi Lời, là Logos, là Đứa con Một, và nếu không có Lời thì không có tạo vật nào được tạo thành. Tất cả trong thế giới hình tướng đều khởi lên từ tâm thức Ki-tô, từ Phật tánh, bất kể tên gọi là gì, và tất cả đều có một rung động nào đó. Tâm thức Ki-tô, Phật tánh, không bao giờ xuống dưới một độ rung nào đó trong dạng thuần khiết của nó khi nó nối kết. Nhưng vì quyền tự quyết phải được phép trải bày, cho nên con có thể hạ thấp độ rung của năng lượng hầu tạo ra ảo tưởng tách biệt cùng ảo tưởng con tách rời khỏi nguồn cội của con. Như các thày có nói, ngay cả độ rung của vật chất trên trái đất đã bị hạ thấp dưới mức ban đầu, và đó là tại sao đã có vẻ hợp lý là con sống trong một thế giới tách biệt, và ngay cả nếu có Thượng đế thì Thượng đế này sẽ có vẻ ở tuốt trên kia nơi thiên đàng.

Phật tánh và các ảo tưởng của Maya

Có một sự khác biệt rõ rệt về rung động giữa những gì là tâm thức thuần khiết của Ki-tô, Phật tánh thuần khiết, và những gì tuy vẫn là Phật tánh nhưng đã bị ảo ảnh của Maya che mờ, khi tâm thức Ki-tô bị che lấp bởi các ảo tưởng của phản-Ki-tô. Nhưng tất nhiên, nó chỉ bị che lấp khi con nhìn hình tướng xuyên qua các ngã tách biệt đã tạo ra hình tướng. Khi đó, con không thể thấy được là mặc dù nó rung động thấp hơn tâm thức Ki-tô thuần khiết, nó vẫn chính là tâm thức Ki-tô. Kỳ thực, đó là một ảo tưởng được tạo dựng từ các rung động thấp hơn. Nó không bao giờ có thể thường hằng, nó không thể trở thành thường hằng, nó không thể nhận được sự sống vĩnh cửu, và do đó, khi con bắt đầu cảm nhận rung động, con có thể lập tức cảm nhận được đâu là rung động thấp và đâu là rung động của Ki-tô hay của Phật tánh.

Và đây là cách tối hậu để tránh khỏi bị lừa bởi sa nhân, bởi ảo tưởng cuả Maya, bởi quỷ dữ của Mara, và đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá. Vì chừng nào con không thấy được là một số rung động không phải là bản tánh thuần khiết mà chỉ là những ảo ảnh tạm thời, thì con sẽ nghĩ những hiện hình đó rất có thể thường tồn và chúng có quyền năng trên con, thậm chí chúng còn quy định được con. Con có thể đồng hóa với chúng, ngay cả con có thể say mê những gì chính con hay một ai khác, một sa nhân, đã tạo ra dưới dạng một cấu trúc tinh xảo. Và nó có vẻ thật tinh xảo từ một tầm nhìn nào đó, nhưng nó không thể trở nên thường tồn vì sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được qua Ki-tô, qua sự hợp nhất với Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng con có thể tách rời khỏi Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng hình tướng – bất kỳ hình tướng nào – có thể tách rời khỏi Phật tánh và là gì khác hơn Phật tánh.

Đây là ảo tưởng cơ bản mà các thày đã trình bày qua tâm thức nhị nguyên. Ảo tưởng cơ bản là kìa có Phật tánh, có Ki-tô, và kìa có một cái gì khác hơn. Cái này không phải là Phật tánh, cái này khác với Phật tánh, tách biệt khỏi Phật tánh. Đây là ảo tưởng cơ bản của nhị nguyên rằng thế giới có thể được phân chia làm hai, nhưng sự phân đôi này không thể là thực. Phật tánh không thể bị phân chia. Chỉ trong ảo ảnh của Maya con mới có thể tạo ra dáng vẻ có hai. Cho nên ý tưởng bảo rằng có một thượng đế và có một ác quỷ chỉ là một ảo tưởng, và thượng đế mà con nhìn thấy từ trạng thái tâm thức này không phải là Thượng đế chân thực, không phải là Thượng đế vô hình tướng. Các thày gọi là vô hình tướng vì các thày không thể đặt ra ngôn từ nào cho tâm thức Thượng đế. Thượng đế hoàn toàn vượt khỏi các hình tướng mà con có thể thấy từ một bầu cõi chưa thăng thiên.

Cho con người động lực bước trên đường tu

Thế giới không là hai, nó không bị phân chia, nó là một. Nó luôn luôn là một. Nhưng điều gì có thể thúc đẩy một sinh thể bị kẹt trong ảo tưởng của Maya muốn nỗ lực khắc phục ảo tưởng của Maya? Tại sao ta như đức Phật lại nói về niết bàn? Vì ta phải cống hiến một động cơ cho con người cất bước trên con đường khắc phục tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng của họ. Hiển nhiên những người này đang đau khổ và họ muốn thoát khổ đau. Nhưng khi con bị kẹt trong tâm thức tạo ra đau khổ, con không thể nhìn ra cách thoát khỏi khổ đau. Con cứ nghĩ là có lẽ con có thể phá hủy các điều kiện gây ra khổ đau. Có lẽ con có thể tạo ra những điều kiện tốt đẹp hơn từ tâm thức tách biệt. Nhưng điều này không thể làm được.

Con không thể thoát khỏi khổ đau nhờ tâm thức tách biệt, nhưng con cũng không thể thực sự nắm bắt thế nào là ở ngoài tâm thức tách biệt. Cho nên các thày trong tư cách là thày tâm linh, phải cho con người một động lực nào đó để họ cất bước trên con đường thoát khỏi tách biệt mà họ có thể nắm được, một động lực hấp dẫn đối với họ khi họ vẫn còn trong tách biệt. Đó là vì sao ta đã đưa ra Diệu đế thứ nhất. Cuộc đời là đau khổ, nhưng cũng có một con đường thoát khổ, và đó là Bát chánh đạo. Nhưng cái gì sẽ thúc đẩy con đây? Phải, ta có thể thúc đẩy con lánh xa khỏi đau khổ, nhưng con sẽ bước vào cái gì? Con sẽ hỏi và có những người đã từng hỏi: “Khi con bước trên Bát chánh đạo, mục tiêu chót cùng là gì? Phần thưởng ở điểm đến sẽ là gì?”

À, đấy chính là vì sao ta đã hình thành khái niệm niết bàn như một giải pháp thay thế cho đau khổ, cho Biển Luân hồi. Không phải là ta có khái niệm này trong tâm, nhưng khi người ta nghe nói về khái niệm này thì họ làm gì? Họ liền phóng chiếu một hình tư tưởng lên niết bàn dựa trên ảo tưởng tách biệt, thế là họ nghĩ mục đích con đường Bát chánh đạo là để đạt tới cái hình ảnh nhị nguyên đó về niết bàn. Đấy là tại sao mới có một lời dạy trong kinh sách đạo Phật nói rằng sẽ tới một điểm con nhận ra là niết bàn và luân hồi chỉ là cùng một thứ trên cơ bản, hay cả hai là cùng một chất liệu vì cả hai đều đi ra từ ảo tưởng tách biệt. Và vì vậy, cả hai đều cần bị tiêu diệt trước khi con tự do, trước khi con giải thoát. Và đây là điểm dối trá của nhiều tôn giáo trên trái đất, kể cả Cơ đốc giáo, Do thái giáo và truyền thống Do thái-Cơ đốc.

Như các thày đã nói, một lần nữa khi con bước vào nhị nguyên, con bắt đầu tạo ra một thượng đế trong hình ảnh của ngã tách biệt và giống như ngã tách biệt, thậm chí giống như sa nhân. Con sử dụng các điều kiện của hình tướng trong một bầu cõi chưa thăng thiên trên một hành tinh chưa thăng thiên để phóng chiếu ra cõi tâm linh là thế nào, cho nên con không thể biết được cõi tâm linh là thế nào. Các thày, các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh, sẽ không bao giờ có thể cho con một lời dạy về một số điều kiện trên cõi tâm linh. Nhưng các thày hoàn toàn không có ý định cho con một tầm nhìn toàn diện vì các thày biết nó không thể được nắm bắt, và thật chẳng ích lợi gì nếu con biết cõi tâm linh như thế nào. Bởi vì, như các thày cũng đã giải thích, con sẽ làm gì khi con bước vào tâm tách biệt đường thẳng? Con tự xem mình là một chủ thể đang tìm hiểu một khách thể từ xa. Và đối với cõi tâm linh, con cũng sẽ làm y như vậy. Khi con ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên, khi con chưa thăng thiên, con tìm hiểu cõi tâm linh như một đối tượng tách biệt.

Điều này có thể cần thiết cho con để con có được một cái hiểu nào đó về cơ học của tiến trình thăng thiên, và đó là vì sao các thày trao cho con lời dạy này. Nhưng con phải nhìn nhận là cho dù con nghĩ cái hiểu của con về cõi tâm linh tinh xảo đến đâu đi nữa, thì con không đang ở cõi tâm linh và cái hiểu này sẽ không đưa con lên đó. Con sẽ chỉ lên đó bằng cách buông bò hình tư tưởng đó, những cái ngã tách biệt đó. Rồi khi con ở đó, con sẽ trải nghiệm được cõi tâm linh, ít ra từ mức tâm thức vào lúc con thăng thiên. Con không trải nghiệm một cách trọn vẹn vì như ta nói, có nhiều tầng cấp trải dài cho đến Đấng Sáng tạo.

Một lần nữa, ta đã nói quá nhiều, ta đã cho con thật nhiều điều để con suy ngẫm, nhưng ta biết một số các con sẽ hiểu được, một số sẽ sẵn lòng suy ngẫm, sử dụng lời dạy mà các thày đã trao truyền để con đem mình xuống khỏi thập tự giá của cái hiểu cũ của con về con đường tâm linh. Không một cách mô tả vỏ ngoài nào về đường tu có thể đưa con vào trạng thái thăng thiên. Chỉ bằng cách thăng vượt mọi sự mô tả vỏ ngoài mà con có thể thăng thiên.

Và như vậy, ta sẽ niêm hội nghị này. Các thày biết ơn con đã tham dự, đã sẵn lòng tiếp nhận những lời dạy này và phóng chiếu ra qua hào quang cùng luân xa của con vào tâm thức tập thể, đã sẵn lòng thỉnh gọi qua những bài thỉnh đã có ảnh hưởng sâu xa, trong thời buổi đặc thù này khi quá nhiều tín hữu Cơ đốc giáo chú tâm vào Ki-tô bị đóng đinh thay vì Ki-tô phục sinh.

Với lòng biết ơn sâu xa, ta niêm con trong sự an bình vô biên, vô điều kiện, không thể tả xiết của Phật.

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuận thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết cao đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều chỗ cho sự cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang có mặt, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có chỗ cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ các loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được bỏ lại. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu phai tàn, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh để con nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này và đẩy nó đi tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh là bảo: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh?” Tất nhiên sẽ không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Trên cơ bản, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và thấy là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những câu nói đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và càm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: Tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp nhị đối – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả trên người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất lý duyên khởi vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả trên tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả mà chúng đem lại. Thậm chí chúng cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị chi phối như thế nào, họ đang gây ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao – ngay cả khi họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích hợp nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh xây dựng. Không có chuyện kinh doanh biến mất khi địa cầu tiến lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ khác hẳn một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Nơi đâu là nơi tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Trên cơ bản, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có chỗ cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con ghi ra những gì?   

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu có thể tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm thấy một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nghuyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Môt trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những ngôi sao cùng dải thiên hà và con có thể tự nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một lượng năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào cái tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó, tức là một ngã tách biệt tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy mình bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian cho nên nó chỉ biết nghĩ là cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị tô màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng sai lầm hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc nhận thức sự kiện này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trên cơ bản, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy mình tốt thiện hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố tâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt xa khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là tinh tấn hay nỗ lực. Một lần nữa theo truyền thống mọi người quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Sau đó họ cố né tránh nỗ lực sai và trau dồi và thực hành nỗ lực đúng. Điều này trở nên một chiếc áo tù bó tay trong đó họ hầu như cảm thấy không làm được bất cứ điều gì vì họ quá sợ hãi mình nỗ lực sai rồi tạo nghiệp. Rốt cuộc họ cảm thấy điều duy nhất làm được là hoạt động thể chất tối thiểu và hoặc thiền định hoặc làm những thực tập tâm linh khác trong hầu hết thời gian. Sau đó điều này mang tính cách ám ảnh cưỡng chế và tuy họ cảm thấy họ rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên đường tâm linh. Họ không leo lên các tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng lúc càng trở nên xao động hơn, càng lúc càng lo sợ tất bật để có “nỗ lực đúng” theo như họ quy định.

Lẽ tất nhiên, dựa trên những điều thày đã trao truyền trước đây cho các con, giờ đây ta có thể khá dễ dàng thẩm định các nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng nhiều để giải thích mục tiêu của Bát chánh đạo, mục tiêu của Trung đạo. Đó chính là nâng cao tâm thức và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, thậm chí cho nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã đưa họ vào trạng thái tâm nghĩ rằng nỗ lực đúng là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức họ và đưa họ tới gần giác ngộ hơn, hay niết bàn hay bất cứ điều gì mà họ quy định. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là chuyện làm máy móc

Thày có nói có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí phần nào trong các tế bào vật lý. Một thực tập tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, tin tưởng của con, ảo tưởng của con, bất kể các kỹ thuật này là gì, đến từ đâu, do bất cứ ai quy định hay truyền ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con bị giam hãm trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con tới điểm chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào cấy ảo tưởng vào tâm con? Có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể đang phóng chiếu nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, ra khỏi tâm con và xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mình đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm mình trong một tiền kiếp nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Giờ đây, sau khi con đã đi vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép rất nhiều ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh và tất cả mọi thứ khác cũng là một biểu hiện của Phật tánh bất kể hình tướng vỏ ngoài như thế nào. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi các ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng và do đó con buông bỏ chúng, vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2,500 năm, nó vẫn là tình trạng trong khoảng thời gian từ đó tới nay, và nó sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Tăng trưởng tâm linh tới những tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình thấy được các ảo tưởng một cách có ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng lưu trữ giả dụ như trong tâm tình cảm của con khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con được. Con là Cái Ta Biết, là cốt lõi của bản thể con, con phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách con ý thức những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách con moi các ảo tưởng tiềm thức của con lên để con có thể thấy chúng, xem xét chúng và sau đó khi con nhận ra chúng là ảo tưởng, con buông bỏ chúng, con xua duổi chúng.

13.2. Tạo ra các ngã tiềm thức

Các thày có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đấy là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Đó là năng lượng, một hiểu biết hay tin tưởng nào đó và tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết, mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Giống như con đang ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể vật lý, bản sắc, lý trí và tình cảm của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và qua phin lọc đó, thì nó bị pha màu bởi rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả, thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng đó được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể bản sắc, lý trí và tình cảm của con. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ, tỷ dụ, nổi giận hơn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, con quả thực đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung vào bất cứ gì, thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà các thày có thể gọi là “ngã” theo cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có sự tự nhận biết của Cái Ta Biết, cho nên ngã này không tạo tác chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo tác một ngã nhưng ngã không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng triển, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, nổi giận không đúng với giáo lý tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được điều này. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng dễ nóng giận hơn, nhưng nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm điều này.

Thật vậy ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ, thì lực hút của nó trên Cái Ta Biết của con mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn các ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng tạo lực hút trên Cái Ta Biết của con khiến nó bị hút vào tấm màn ảo tưởng. Con bị hút vào đằng sau tấm màn ảo tưởng đó và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới điểm con quên khuấy con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao hơn của con và con có Phật tính và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là người phàm, hoặc một kẻ tội đồ, hoặc một kẻ mang nghiệp quả lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm của con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, thì con có thể nói nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó, thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người thuộc truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng hãy lắng nghe điều đã được nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng những hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng ngày nào nó còn ở trong tâm con thì năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó và nó ảnh hưởng được tâm con. Một trong nhiều ý nghĩa của điều này là tự ngã không thể chuyển hóa chính nó. Quả thực có nhiều người đã xây dựng một ngã tách biệt dũng mãnh và họ đồng hóa với nó đến độ họ nghĩ rằng mục đích con đường tâm linh là thay đổi ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái có thể đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2,500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên cao và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của Cơ đốc giáo thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem cá thể vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đường.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra được, không làm được. Nó giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người nảy ra giấc mơ này? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con sẽ cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con sẽ cảm thấy một nỗi mất mát và con có mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có sự khát khao cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong các sinh hoạt thế gian, nhưng sẽ tới điểm nỗi khao khát cái gì đó, trên cơ bản là khao khát cái gì đó ở ngoài chính tâm của con, ngoài tâm tách biệt của con, sẽ trồi lên và con không thể chối bỏ nó nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên, thì tự ngã biết nó không thể đáp ứng được nhưng nó sẽ cố làm cho con tin rằng con có thể đáp ứng nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nâng cao nhận biết của con, đạt được một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc, giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn và đạt tới trạng thái cao này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên tới trạng thái cao này. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta của nhất nguyên. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giảng 2,500 năm trước đây khi thày nói không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con có thể thực tiễn hơn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự giận dữ hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ bản thân mình? Tại sao con trở nên hung hãn hay tại sao con tùng phục khi bị tấn công?

Con làm việc với một phản ứng cá biệt của mình. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động và khi chuyện này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con không quyết định phản ứng thế nào với hoàn cảnh đó với tâm ý thức của mình. Giản dị là ngã tách biệt được kích hoạt, nó tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng và con có thể quán xét và dùng trực giác cho tới khi thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt cuộc đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng xuống yên lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã hạn chế con như thế nào và hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong cuộc sống của tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy con không cần giải quyết một vấn đề gì, con không cần làm gì đó với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con giản dị tiến sang việc buông bỏ ngã, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con cần cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách buông bỏ nó. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu điều gì đó trên thế gian này – trên cơ bản là để khỏa lấp cảm giác con không trọn vẹn. Khi nhận ra điều trên, con có thể buông bỏ nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ điều gì trên thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trên thế gian này và sau đó một cách tự nhiên con sẽ cảm thấy mình trọn vẹn.

Tại sao lại như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Thoạt đầu con cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Con che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng nhưng trạng thái mặc định là con cảm nhận sự kết nối đó. Khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận mình có sự kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể mở rộng cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về với sự kết nối này. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối này luôn có đó. Cái ta cao của con luôn ở đó, nó luôn luôn gửi năng lượng tới con. Chỉ là trong tâm con, con đã đi vào một ảo tưởng nên con không ý thức cảm nhận kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng con cần hoàn thiện cái ngã tách biệt đang ngăn cản con trải nghiệm sự kết nối và sau đó con sẽ cảm thấy kết nối trở lại. Không đâu, con chỉ cần buông bỏ cái ngã và trở về trạng thái tự nhiên của sự kết nối.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con đi xa hơn trên con đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối và đây là điều đưa con tiến xa hơn trên đường tu. Nó nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo và các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ rằng các giáo lý này được cất giấu đâu đó và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ chỉ giản dị bằng cách đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc một giáo lý tâm linh. Một người có thể thấy ra ảo tưởng và buông bỏ nó nhưng người kia không thấy ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Tinh túy là thấy ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay ở trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn các ảo tưởng của chính mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay con nghĩ có cái gì thần diệu ở bên ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, con còn không nghĩ là điều gì đó ở bên ngoài kia sẽ giải quyết tâm lý của con. Con nghĩ vị đạo sư bên ngoài sẽ đem cho con giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những điều một vị đạo sư không làm được cho con

Tại phương Đông có một truyền thống lâu dài về quan hệ giữa vị đạo sư và người đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng và có nhiều vị đạo sư cũng xác nhận, là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, được giác ngộ, được nhập niết bàn, hay bất kỳ con gọi nó là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức những quyết định chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt mà con đã lấy trong quá khứ, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con có. Vị ấy không thể quyết định hộ con vì quyết định được làm ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể ý thức mình đã từng lấy quyết định, hậu quả là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay vị đạo sư bên ngoài, dù mạnh tới đâu chăng nữa có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng con đang tiến tới nhưng con thật sự làm gì khi con làm thế? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam cầm con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây, con tìm thấy con đường tâm linh, giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo con đường Bát chánh đạo, nhưng nó có sẽ làm vậy chăng? Không thể bảo đảm kết quả bởi vì tinh túy của con đường tu chân chính là con khắc phục được các ngã tách biệt, con phơi bày chúng hiện lên trong ý thức của con và sau đó con thải bỏ các ngã này một cách ý thức. Nếu con không chịu làm điều trên hay con không nắm bắt điều trên, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và con sẽ dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học một giáo lý tâm linh, nếu con chăm chỉ thực hành các thực tập tâm linh, thì con sẽ trở nên một học trò càng ngày càng cao cấp khi con chứng minh mình đang làm những điều vỏ ngoài đó. Vì những điều vỏ ngoài đó, con đang tiến bộ trên đường tu. 

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến triển tâm linh nhưng họ không nắm bắt bản chất cốt yếu của đường tu và do đó họ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố tự ngã. Tự ngã tin rằng nó tách biệt và luôn cố gắng có một vị trí cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã cố gắng đạt điều này? Ấy, tự ngã có đủ nhận biết để biết mình không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu nó không bao giờ có thể vào thiên đàng nhưng nó biết nó không trọn vẹn. Nó biết con cảm thấy con không trọn vẹn và lúc nào nó cũng tìm cách che phủ sự thiếu trọn vẹn này, bù đắp nó. Tự ngã luôn luôn tìm cách được cao trội theo môt cách nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, nếu nó tinh xảo đủ trên thế gian này, thì bắt buộc nó phải được phép vào cõi cao.  

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Nhiều, nhiều người khi tin vào một Thượng đế tối cao thì trên cơ bản, họ đã tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản là Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đường. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất diệt. Như thể tự ngã đang thương thảo với Thượng đế. Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì Thượng đế phải cho con vào thiên đàng. Vấn đề là đây toàn là tưởng tượng. Trước tiên, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì tới thực tại của cõi tâm linh. Ví dụ, con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh Thượng đế giận dữ trên trời ở trong Cựu Ước kinh và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một điều không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã đang làm gì? Nó đang quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, nghĩa là chúng không thật. Sự thật là cái một, sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, con có thể rời cái một và đi vào tách biệt và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao điều này có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra, hay đúng hơn thường là họ lấy vào điều đã được những thành viên của tôn giáo đó cùng tạo ra, là một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân cần cù thực tập như thế, và họ tuyệt đối tin chắc họ tiến bộ và một ngày kia chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc người khác. Một giáo lý thần diệu nào đó sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người có tin tưởng rằng bước chân trên đường tâm linh là một cuộc phiêu lưu vinh quang dẫn họ tới những trạng thái càng ngày càng tinh thông hơn và đem lại cho họ chức vị và sự công nhận càng ngày càng nhiều hơn của thế gian dựa trên tiêu chuẩn do thế gian quy định. Những tiêu chuẩn này do tự ngã quy định và dựa trên tách biệt. Làm sao chúng dẫn tới cái một được? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Nó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và cho chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt này và cho chúng chết đi. Đấy chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn hiện thân con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa khám phá ra bởi vì nếu con không có ngã tách biệt, thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là gì

Có một tin tưởng rất xưa trong các đệ tử tâm linh cho rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư này đã giác ngộ.” Ấy ở đây có sự thật và cũng có ảo tưởng. Một mặt rõ ràng là có những người đã đạt một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những người hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập dần dần tiến tới những tầng tâm thức cao hơn so với khi con bắt đầu, và chắc chắn là những tầng cao hơn người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không có ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nữa thì con không có hiểu biết cao.

Có câu truyện về Phật nói rằng thày đạt giác ngộ. Thày nhập Niết bàn và sau đó thày quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy và do đó thày trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người phóng chiếu rằng thày, bằng một cách nào đó, là một sinh thể hoàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có được khi là một con người hiện thân. Nhưng thày chưa khắc phục tất cả ảo tưởng vì nếu được vậy thì thày không thể ở lại trong một thân vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình. Thày có đạt được như vậy. Nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không coi mình là một sinh thể hoàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này tiếp tục nghĩ. 

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu giấc mơ và ảo tưởng lên vị đạo sư như vị thày đặc biệt và hoàn hảo như thế nào. Tại sao họ làm thế? Vì vị đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử theo thày càng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này họ xây đắp tự ngã và ảo tưởng cho rằng khi đi theo vị đạo sư hoàn hảo và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày có quyền năng thần diệu biến hóa họ mà không cần họ nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói điều gì ở đây? Thày giản dị đang nói là khi con còn hiện thân trong thân thể vật lý thì con có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm cung, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một trạng thái hoàn hảo nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của vị thần nào đó hoặc họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố điều trên nhưng họ cho phép những người theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý. Nó giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyện và ý tưởng về những sinh thể hoàn hảo sống trên dãy núi Himalaya và họ duy trì được thân vật lý vài thế kỷ. Không phải là chuyện này không có một phần sự thật nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ trong trạng thái tách biệt. Họ đạt được một tầng nhận biết cao nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Sự tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố ông cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông đã không khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã làm chuyện đó được?

13.10. Nỗ lực giả để nâng mình cao hơn người khác

Khi khắc phục hết các ngã tách biệt đó, con đánh giá một cách thực tế con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng thế. Ấy, làm sao một sự biểu hiện của tâm một có thể tinh vi hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật Tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật Tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” Ấy, theo một nghĩa nào đó, đây là sự nhìn nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng môt người đặc biệt hơn người khác.

Chuyện này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào tìm cách nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao. Làm sao có thể được? Khi con tiến cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều hơn ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu thấy cái tổng thể và do đó mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chớ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Tìm cách nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và nó chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình để là một đạo sư hoàn hảo, và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt và giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể toàn hảo. Giờ đây, con có thể tìm thấy những giáo lý làm điều này nhưng chúng đã được thêm vào sau này vì con người nhìn vào đời sống và giáo lý của Phật qua màn huyễn maya, họ áp chồng tin tưởng tách biệt của họ lên đó, tin tưởng vào sự tách biệt của họ lên đó và do đó họ thần tượng hóa Phật, cho rằng Phật rất là đặc biệt, Phật sinh ra một cách đặc biệt và đo đó Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất xuất hiện trên trái đất từ trước tới giờ. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ bỏ ra nỗ lực khó khăn và khó chịu nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Đấy là những ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, đi vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào cái một. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ nói thày đang lặp đi lặp lại. Khi con đọc trở lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể hơn ba lần. Tại sao như thế? Bởi vì hầu hết người nghe không nắm bắt giáo lý lần đầu họ tiếp cận. Con có thân tình cảm, lý trí và bản sắc. Con học một giáo lý, con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng lý trí, và con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng bản sắc. Nếu con không nắm bắt ở tầng tình cảm thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý và nó không chuyển hóa tâm thức con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng sự hiểu biết trí năng để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đấy không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói hiểu biết mà thày nói nắm bắt, thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như tấm gương để nhìn chính mình, nhìn phản ứng của chính mình, nhìn chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý?À không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Ở đây con thấy Phật. Thày đã đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra trên niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận này. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó thày chọn trở lại thân vật lý để giáo huấn. Thày muốn đạt điều gì? Ấy, thày biết là thân vật lý của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết thời gian thày giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên con đường đạo, chính con đường thày đã đi qua để tới những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của con đường đạo, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục cáo ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh là gì? Con có Phật tánh trong con. Làm sao con tìm thấy Phật tánh? Làm sao con tìm thấy Phật? Chỉ bằng cách nhìn bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nắm bắt điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài nó, bên ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật và tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên dãy Himalaya. Phật ở trong kinh điển kia. Phật ở trong pháp tu tập này.” Có một vị thày Phật giáo đưa ra ý tưởng rằng nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và con nhận diện người đó là Phật, khi làm thế con sẽ cản con thấy Phật tánh trong chính con và điều này sẽ ngưng sự tiến triển của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết người ngoài kia, không phải là giết thân vật lý của họ mà là giết tâm ảnh trong tâm con để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm sao con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua sự hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là Cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra cái nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc nhưng nó không trở thành các nội dung đó. Con tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ tới điểm mà con tự nhiên trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của con và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh thật nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Do đó giờ đây con có thể đánh giá các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó, dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là con trải nghiệm sự kết nối, trải nghiệm là một với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất nói: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên trái đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật muốn tự đề cao bản thân, nâng mình lên trên tất cả mọi người khác đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin điều này thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết Phật này vì làm thế còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì tôn thờ Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Phật thật sự muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được, mọi người đều có thể làm được.” Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được. Làm thế nào Phật đạt được một trạng thái nhận biết cao? Bằng cách tìm lại được Phật tánh trong ngài. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang tạo một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? Ấy, mục đích của con trên đường tâm linh phải là trải nghiệm cái một, trải nghiệm nối kết. Bây giờ con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con phản ứng như thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con hiểu những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự điên rồ của lối tiếp cận này. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt bảo đảm trải nghiệm được cái một. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng các nỗ lực của ngã tách biệt muốn tạo sự tiến bộ tâm linh.

Giờ đây thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng nhưng không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con yên lặng nhưng làm sao con làm cho tâm yên lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực như thế nào để an tâm mình. Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được để an tâm mình.

13.13. Nỗ lực ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã suy ngẫm kỹ về thiền định và thực tập nhưng họ thấy tâm họ luôn xen vào. Cái tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng, con càng thật sự dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng bị kẹt trong tâm mình hơn. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ trở thành một cái bẫy, một cái bẫy mới. Vậy con làm được gì? Ấy, con có thể tiến bước trên đường tu. Con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có lúc con tới điểm trải nghiệm một cách tự phát mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm cái một không phải là điều gì con có thể tạo ra được. Nó là điều con nhận được. Con có thể xem nó như một món quà, một ân huệ, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào ban nó cho con. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc nó xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này đẩy nó xa ra khỏi con. Nhiều, nhiều người tâm linh quả thực đã đạt được một tầng cấp trong đó họ đã vứt bỏ nhiều chướng ngại trong tâm họ. Họ có thể trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của họ đã mở rộng đủ. Họ có thể làm được điều này nhưng trong tâm ý thức của họ, họ quá mức chú tâm nỗ lực nên họ đẩy trải nghiệm này xa ra khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể áp dụng được. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm điều này cả nhiều thập niên, thậm chi cả nhiều kiếp, họ liên tục tập trung mạnh trong tâm thay vì buông bỏ. Hầu hết những người mở tâm với giáo lý này đã có một mức cởi mở nào đó trong tâm. Do đó, con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối nhưng con chỉ trải nghiệm được khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con và thay vì ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm, con có trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, con tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tu tâm linh con có thể có những nỗ lực giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần nghĩ tới chuyện vượt lên trên nỗ lực, và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực, nhưng vượt lên trên nỗ lực, con cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, theo bất kỳ cách nhìn nào của con. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với điều này, thày niêm con. Đối với thày trao truyền bài giảng dài này hoàn toàn không có nỗ lực. Con có nỗ lực để học bài giảng này chăng? Ấy, con hãy suy ngẫm điều thày nói về buông bỏ, vì con có thể tới điểm học và thể nhập bài giảng mà không cần nỗ lực, và đấy là lúc con đã hiểu thấu trọn vẹn nỗ lực cao.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát Chánh đạo, đây là giai đoạn dồn hết sự chú ý, mà thật sự có lẽ tốt hơn nên gọi là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát Chánh đạo – tức con đường tâm linh, con đường hướng đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con đã tới điểm con tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Con không nhận định mình đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý này. Qua khắp các thời đại, nhiều người đã đưa ra nhận định: “Đối với tôi, dường như đây là một giáo lý rất vi diệu mà tôi xem là cao siêu, đặc biệt, và điều này phải có nghĩa là tôi là một học trò tâm linh tinh thông”. Điều này không hẳn đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời kỳ mà thông tin dễ dàng lan truyền hơn bao giờ hết.

Nhờ các trang mạng và sách nên mọi người hoàn toàn có thể bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nhất định trong giai đoạn đi từ mức nhận thức thấp hơn lên đến những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách ai. Thật không có tính xây dựng khi áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy con đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng đến cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực để tất cả mọi người có thể đi theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mọi người cần khởi sự tại mức tâm thức hiện tại của mình và điều này không thể khác được. Khi tìm ra một giáo lý tâm linh, người ta cần phải đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý tâm linh để củng cố thế giới quan hiện hữu hoặc dùng giáo lý này để xây dựng một thế giới quan mới. Thế giới quan này dựa trên ý niệm tách biệt và mong muốn mình dường như cao trội, hay khiến mình có cảm giác an toàn vì mình hiện đang đi theo giáo lý tâm linh này. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi đang theo giáo lý tâm linh này, cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ”. Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với các hoàn cảnh sống và đây là điều cần thiết khi còn ở mức thấp trên đường tu. Có những người vẫn cần điều này. Họ không thể làm gì khác ngoài việc dùng những nhu cầu này để tiếp cận con đường tâm linh, và họ cũng cần có những trải nghiệm này trong một thời gian cho đến khi họ mở tâm ra với một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Các thày có thể nói rằng một số người khi tìm ra con đường tâm linh cần phải đi qua một giai đoạn trong đó họ dùng giáo lý tâm linh để thật sự xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số cuối cùng có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt lên khỏi giai đoạn này, trong khi một số khác vẫn sẽ đứng yên cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Đó không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Đó là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã đề cập trong loạt bài giảng này: Đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì trước tiên thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Giờ đây khi con bắt đầu hiểu được điều này là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chính là thật sự kéo mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi thứ đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức đại chúng trong nền văn hoá và chủng tộc nơi con lớn lên. Điều con thấy trong tất cả những nền văn hoá này là có một ý niệm nào đó về sự bình thường. Đây là điều bình thường trong văn hoá của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng khiến con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi người đều có cảm nhận văn hoá của mình cao trội hơn của người khác, và việc xung đột với các nền văn hoá khác là lẽ thường tình. Để có thể đạt được tiến bộ trên con đường tâm linh, tất nhiên con cần kéo mình ra khỏi tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn tập trung chính yếu – dồn hết chú tâm – giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hoá các năng lượng mà tâm thức đại chúng có thể chụp lấy và kéo đi. Con làm điều này bằng cách nhận ra các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải toả các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể hút con khi trong bốn thể phàm của con có cái chúng có thể thu hút. Điều này cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ hấp dẫn những thứ có khối lượng. Nếu một vật không có khối lượng thì trọng lực không thể hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con đang nâng chính mình khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến và cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để kéo con quay lại khuôn nếp mà con thấy trong văn hoá của con hay ngay cả trong toàn thể nhân loại nói chung. Con không bận tâm đến việc tuân thủ các tiêu chuẩn, con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm cơ yếu trên con đường tâm linh, và nhiều người cũng cảm thấy bối rối về điểm này. Có thể con đạt đến điểm con đã giải thoát mình phần lớn hay thậm chí hoàn toàn khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách nào con giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được điều này dựa trên tầng mức nhận thức của con, và khi con khởi sự đường tu thì mức nhận thức này ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Điều tự nhiên là con người trên trái đất bị chế ngự bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách của riêng mình. 

Để đi trên con đường tâm linh, con cần đi riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hoá nào trên trái đất xem việc tu tập là một chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại với quy tắc xã hội và con chỉ có thể làm điều này như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, đó là con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm điều này bằng cách nào? À, đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý tâm linh đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm điều này bằng việc tạo nên một cái ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không bị hút vào những khuôn nếp tập thể trong nền văn hoá của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp các ngã tách biệt khiến con có thể cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm được điều này một lúc thì con tới một bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là, con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích nhưng nó vẫn không thể đưa con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tâm linh. Quả thật, nó không thể đưa con vượt quá một điểm nào đó. Thày đã giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con vượt qua tất cả các ý niệm bản ngã, tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Do đó, cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay thấy mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con tách hẳn ra khỏi người khác và tách khỏi tâm thức đại chúng.

Để có thể đến được các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con lại phải lột bỏ nó. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hoả tiễn, một chiếc hoả tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm ở bên dưới hoả tiễn được dùng để đẩy hoả tiễn lên đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hoả tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hút hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ cái ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hoả tiễn và con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà là một tổ hợp các ngã tách biệt, nên con phải tháo gỡ từng cái một.

Nhiều người suốt các thời đại đã không hiểu thấu quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt quá trình này nhưng phần đông thì chưa hiểu được, nên họ quả thật vẫn dính mắc vào ngã này hay dính mắc với bản sắc mà họ đã bồi đắp đến mức họ không thể buông bỏ được. Như thày đã từng mô tả về tự ngã, những người này giờ đây tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, vì vậy họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi cái ngã này có thể bước vào thiên đàng hay cõi tâm linh hay cõi niết bàn hoặc bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng vì nó dựa trên tách biệt, một ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn vào những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành quả tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người không theo giáo lý mà cao hơn cả những người đang theo học giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con bước lùi lại thì con có thể nhìn rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một cái ngã tách biệt, nhưng một ngã tách biệt không thể đưa con lên đến một mức nhận thức cao hơn. Nó không thể đưa con đến Quả vị Phật, nó không thể đưa con đến niết bàn hay vào thiên đàng. Không cách gì chuyện này có thể xảy ra.

Giờ đây con bắt đầu nhận thấy khi tiến đến mức này, con cần chuyển đổi tâm mình. Con cần đi qua một sự xoay chuyển khác để nhận ra là từ giờ trở đi con đang thật sự xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa vào việc nhìn mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà nhìn mình đang nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra.

Điều con cần làm ở đây là con cần bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Con có thể xác định những thành phần nào đến từ tách biệt hay ngay cả có lẽ đến từ nhị nguyên không? Con có thể bắt đầu thấy những thành phần này thật sự đang giới hạn con, chúng ngăn con có được tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng trở nên tự do. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng chế ngự đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ do ý niệm bản sắc tập thể quyết định. Họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập, vì tâm lý trí của họ đã bị chế ngự bởi tâm đại chúng. Họ thường không thể chọn theo cảm nhận riêng của mình mà lại theo bất kỳ khuôn nếp cảm xúc nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu một tình huống nào đó xảy ra khiến những người trong nhóm phản ứng lại bằng cơn giận thì họ cũng sẽ phản ứng bằng cơn giận. Thường họ thấy điều này là hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất, vì vậy họ không có tự do tâm trí, họ không có tự do lựa chọn phản ứng với hoàn cảnh, không có tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của mình.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con vượt khỏi tâm thức đại chúng thì con càng lúc càng tự do, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con vì con nghĩ con phải sống bằng cái ngã đó. Con phải sống bằng pháp tu mà con đã chấp nhận khi con còn ở trong một tầng tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do tâm trí. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng nó vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hoá mình với tâm thức đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác”. Vậy thì con vẫn đang tương quan với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần gia tốc mình để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm điều này bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì nay con gắn kết với cái ta cao hơn của con – cái ta này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu cũng là lúc con chú tâm vào tâm thức của chính mình – giải quyết các trạng thái tâm thức của mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý của mình một thời gian khá lâu, và bằng cách này con có thể đạt được nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đến một lúc con cần nhận ra mặc dù con đã nâng tâm thức mình, đã trong lọc tâm thức mình, nhưng bước tiếp theo con vẫn phải thật sự tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa vào việc con là một sinh thể có kết nối, dựa vào trải nghiệm con là một sinh thể có kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra rằng ngoài cá tính vỏ ngoài và ý thức riêng biệt tương quan với thế giới này, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính. Thật sự con không thể gọi nó là một cá tính như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào tâm ý thức và biểu lộ nó qua bản sắc thể, trí thể và cảm thể. Giờ đây con đang trong giai đoạn nối kết với cái ta cao của con thay vì tương quan với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một số sắc tính từ cái ta cao của mình.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là lúc con bắt đầu nhận ra cái ta cao không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà người ta gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem cái một từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách biệt với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang tương quan với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc nhìn chính mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt. Không nhất thiết đây là ý niệm nhị nguyên mà là ý niệm con tách khỏi người khác, tách khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc và cao hơn của chú tâm hay tập trung. Con không chú tâm vào tâm thức tập thể, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con tập trung vào tổng thể, con chú tâm kết nối, con chú tâm vào hợp nhất và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì ước đoán: “Làm sao tôi nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một số khía cạnh của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần thúc đẩy tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể dùng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng lúc càng có sức mạnh và nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến xa hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức mình nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận thức của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo này không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con chuyển đổi thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con đối với tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt hơn rất nhiều. Do đó con tạo ra một tác động lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, vì nhờ đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu thấy cần phải chuyển đổi một điều gì đấy.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người đi qua giai đoạn chuyển đổi tâm thức thì họ bắt đầu bắt gặp các ý tưởng và các lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và khi họ nâng cao nhận thức, họ cũng kéo đại chúng lên theo cho đến khi việc này bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước khi càng lúc càng có nhiều người bắt đầu thấy những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi được bởi vì quyền này được trao từ một tầng tâm thức cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả các tiến bộ đã diễn ra bằng việc nâng cao nhận thức đại chúng, trong đó một túc số tới hạn bất ngờ chuyển đổi tâm thức và thấy được điều mà họ không thấy trước đây. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhận thấy: “Nhưng điều này rõ ràng là vậy. Điều này thật hiển nhiên. Điều này là cách xã hội cần tăng triển”.

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá thể tách biệt và chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật chú tâm vào tổng thể, tập trung vào tổng thể chứ không phải chỉ vào một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đây là lý do vì sao con có thể kéo cả tổng thể lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, ấy là nếu con bị tâm thức đại chúng chế ngự thì con không kéo tâm thức này lên được. Hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức tập thể và chúng có khả năng làm điều này nếu con có những tin tưởng, có một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của những con quỷ này. Giê-su đã diễn đạt điều này theo một cách hơi khác. Thày nói ông hoàng thế gian đến và không nắm được gì trong con. Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, một tâm thức nào đấy trong thế giới này muốn kéo con vào những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao tâm thức, vì vậy con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể hướng điều gì đấy vào con – đó có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đấy ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì trong đấy để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo thày”. Hay nói cách khác, con hãy đi theo thày, hãy đi theo nhận biết cao hơn và hãy buông bỏ tất cả những cám dỗ kéo con vào những khuôn nếp phản ứng này.

Có một cách để nâng cao toàn thể là gì? Đó là biểu lộ cho mọi người thấy có một cách phản ứng khác ngoài cách đang thống trị tâm thức đại chúng trong văn hoá của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng bằng sự giận dữ trong những tình huống nào đó, và nếu con cho họ thấy con không phản ứng tức giận trong những tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta thường làm, hay phản ứng như cách anh ta đã từng làm? Chuyện gì xảy ra vậy? Có khác gì không?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể con cần một sự xoay chuyển khác nữa, hoặc tối thiểu để tạo ảnh hưởng lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã đưa ra nhận xét về giáo lý này là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc trưng rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ”. Ấy, trong thực tế không có những kết quả riêng rẽ và những nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang trong đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là con đang khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể và trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là vấn đề cần được thay đổi”. Chẳng hạn vấn đế có thể là: Chúng ta cần khắc phục vấn đề chiến tranh và biểu lộ hoà bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân”. Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được sự hiểu biết sâu sắc về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhận ra các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai”. Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người và nguyên nhân này đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, ảo tưởng là chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại nào đó bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Con có thể hỏi: “ Làm sao con có thể thay đổi được điều này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm của mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách rời một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể được loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển tâm thức và rồi họ thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây đó là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy con nên làm một điều gì và con muốn nhìn thấy sự thay đổi. Sau đó con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này, từ đó con cảm thấy con đã thành tựu được một điều gì đấy. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều làm giống như vậy. Họ tách riêng một hiện tượng trong thế giới và nỗ lực thay đổi nó. Dĩ nhiên nhiều người muốn khắc phục chiến tranh nhưng con thấy đấy, đến nay chưa ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Các giáo lý tâm linh không đem lại kết quả gì. Rõ ràng những điều tôi đã làm không có chút kết quả gì.” Đó là do con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Con có thể xoay chuyển bằng cách con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, chú tâm nâng cao nhận thức ở mức cá nhân và mức tập thể. Con đang kéo nhận thức của cả cá nhân và tập thể lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Đó là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này là kết quả của những gì xảy ra ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Con có khả năng thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể di dời cả một quả núi. Đối với những hiện tượng lớn hơn thế chẳng hạn như chiến tranh thì con không thể vượt qua bằng việc tạo nên những thay đổi vật lý. Cách duy nhất là tạo nên một quân đội hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của nước khác, điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm tạo ảnh hưởng để thay đổi ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức chính mình, bằng cách chứng tỏ cho người khác thấy con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một giáo lý ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với giáo lý đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Do đó, con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một trạng thái tâm trong đó con thăng vượt các nghi ngờ, sự thất vọng, niềm hy vọng về một số thay đổi mà mắt con có thể nhìn thấy.

Con đã thăng vượt tất cả những thất bại tiềm ẩn này và con đang đi trên đường tu mà con biết sẽ có kết quả vì con biết việc nâng cao tâm thức đem lại kết quả, con biết con đang làm công việc nâng cao toàn thể và điều này sẽ đem lại kết quả. Con chỉ cần tiếp tục làm, tiếp tục nâng cao sự nhận biết của mình, tìm cách nâng cao sự nhận biết của người khác và đây là điều khiến con cảm thấy con đang đóng góp chứ không phải con có nguy cơ thất bại hay thất vọng, vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù. Tại sao con không nên mong đạt được những thay đổi đặc thù? À, trong vài trường hợp thì điều này cần thiết vì nó nằm trong Sứ vụ Trọn đời của con nhằm tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến là tầng mức bao quát mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt mọi chiến tranh, điều mà cá nhân con thật sự không thể thực hiện được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý này đó là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết điều này có thể thực hiện được. Con có thể làm điều gì đó và khi người khác cũng làm những điều tương tự thì đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng lực kéo để kéo tâm thức đại chúng lên và tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã mang lại nền dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay, dù họ có thuộc một phong trào hay một giáo lý tâm linh hay là không, cũng đang làm việc để kéo tâm thức tập thể lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy được sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát Chánh đạo, trong con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào những mục tiêu, khía cạnh, phương pháp nhất định. Những giai đoạn con đi qua càng lúc càng cao trong đó con xoay chuyển tâm mình không còn chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt, các ngã nhị nguyên nữa, ngược lại tâm con càng lúc càng chú tâm đến sự kết nối thay vì sự tách biệt. Con có thể nói các con quỷ của Mara, ông hoàng của thế gian này, đang liên tục tìm cách cám dỗ con người và có rất nhiều các cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới những cám dỗ này là một cám dỗ toàn thể kéo con vào một trạng thái tâm khiến con nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con chú ý đến ảo tưởng tách biệt này thì con không thể thấy đằng sau những hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Vì vậy, anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đấy với đất nước tôi mà lẽ ra họ không được làm, vì thế họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới này.”

Có nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, đồng thời khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và các giáo lý tâm linh đó là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người đang theo giáo lý và những người ngoại đạo. 

Người ta có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể có những người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, và có những người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con tách mình khỏi những người không theo giáo lý. Khi con làm như vậy, con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, vì đường tu là khắc phục sự tách biệt như thày đã đề cập nhiều lần trước đây. Thày sẽ nói lại nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa hiểu được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật trong nhiều kiếp sống nhưng vẫn chưa hiểu được điều này. Họ tách ra khỏi những người không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng nên ý tưởng cho rằng bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành tâm linh trong nhiều giờ, đã sống cuộc đời tu sĩ và tận tuỵ cho sự tăng triển, cho nên có nghĩa là họ chắc hẳn đã tăng triển. Họ chắc hẳn đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ đứng biệt lập khỏi những người chưa áp dụng được giáo lý như họ. Họ chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình lên như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người thay đổi thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Trong thực tế, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và con đã dùng một giáo lý tâm linh đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng điều này không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Họ có thể cần những giáo lý khác, hoặc cần những ý tưởng phổ quát trong bản chất, không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng có nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái, chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vì vậy, họ neo trụ vào tầng mức vượt ngoài thế giới vật chất, vào tầng nhận biết cao hơn mà từ đó những ý tưởng toàn vũ đang được trao truyền, và chính những ý tưởng toàn vũ này sẽ có ảnh hưởng tối đa lên việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý tâm linh hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Lấy ví dụ, con hãy nhìn vào các nước Phương tây nơi có nhiều người tập bộ môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hoá rất đặc thù, mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát, nhưng sau đó nó bị đồng hoá với đạo Hindu. Nếu con đi ngược thời gian thì đã có thời để tập luyện bộ môn yoga, con phải là người theo đạo Hindu hoặc con phải sống theo lối sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay sống trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian chú tâm vào việc thực hành tâm linh rất gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà đức Phật đã thực hành khi thày rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Điều này có nghĩa là yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh rất cực đoan không thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Nhưng con thấy nhiều người ở thế giới Phương tây vẫn tập được yoga trong khi sống một đời sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây, một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt các tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt các tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính xác là lý do vì sao thày bị xem là mối đe dọa đối với những người có thẩm quyền trong đạo Do thái. Điều gì có thể bao quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt những ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Do đó, tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm khỏi tư tưởng cho rằng chỉ có một giải pháp cho các vấn đề trên thế giới, và giải pháp đó là cải đạo tất cả mọi người sang việc thực hành các triết lý tâm linh đặc thù của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào các tư tưởng bao quát, các diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau mà không cần đòi hỏi họ phải chuyển sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm điều này nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay nó có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều nào xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều nào chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu xa, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền, sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp các tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ ảnh hưởng lớn nhất trong việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không tạo được ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung lập 

Khi thày ban những giáo lý này lúc đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, các thày có thể đưa ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hoà hơn: “Phật” nghĩa là một nhận thức cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trên thế giới? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Đó là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt lên tất cả những biểu hiện đa dạng nhiều mặt. Họ thấy được dù mọi người trông khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Giờ đây con chỉ có thể thấy điều này khi con kết nối với một cái gì đấy cao hơn, một tầng mức nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng mức nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào khác. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hoà, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau sự khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con chưa nghe về điều này trước đây sao? Các chân sư khác chưa giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do là nhân cơ hội đây thày trao truyền những bài giảng này vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và chúng sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn, và quyển sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập đến nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hoà điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này là rất quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine và Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận thức được con cần tới một điểm, đó là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý Phật giáo. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có niềm vui nào khác ngoài niềm vui hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra thất vọng. Thày niêm tại đây, con yêu dấu. 

2 | Con thỉnh cầu sẵn lòng bị xao động (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con sẵn lòng bị xao động, để con không đè nén cảm xúc tư tưởng của mình mà giải quyết chúng. Xin thày giúp con bước theo con đường nội tâm của Bát chánh đạo tuần tự, mở rộng tầm nhìn của con đến gần hơn tầm nhìn của Phật, bằng cách buông bỏ các khuôn đúc giới hạn trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Cuộc sống đầy áp lực

1.1. Con nhận ra là khi con, như một sinh thể tâm linh, bước vào xác thân vật lý, thì con như mang vào một bộ đồ lặn gò bó, nặng, cồng kềnh. Con mang giày nặng và đeo chì ở ngang lưng khiến con di chuyển khó khăn. Độ đục của nước khiến con chỉ thấy được vài mét trước mặt, con bị áp suất của nước đè lên con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Con thực sự mặc vào bốn bồ độ lặn. Như một sinh thể tâm linh xuống đầu thai, thể đầu tiên con khoác vào là thể bản sắc, là cách con nhìn chính mình. Thể bản sắc của con bị ảnh hưởng bởi môi trường, nền văn hoá nơi con sinh ra, cách con đã được nuôi dạy, cách mọi người nhìn chính họ, nói chung là tâm thức tập thể.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Bộ đồ lặn kế tiếp là thể lý trí là cách con suy luận về cuộc sống, về những gì con làm được và không làm được. Thể lý trí tùy thuộc vào bản sắc mà con đã khoác vào.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Bộ đồ lặn thứ ba là thể cảm xúc, là trụ điểm của các cảm xúc của con. Tùy nơi con lớn lên, cách con được nuôi dạy, con khoác vào những khuôn nếp phản ứng trước những tình huống trong cuộc đời. Con có thể thụ động, phục tùng, không muốn lấy quyết định hay con có khuynh hướng hung hãn hơn, muốn áp đặt ý muốn lên người khác.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Bộ đồ lặn thứ tư là thể vật lý, gò bó nhất vì nó dày đặc nhất. Bốn thể của con mang theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ các kiếp sống trước. Cơ thể vật lý của con cũng bị ảnh hưởng từ các kiếp trước.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Khi con đầu thai xuống trái đất thì con không thể tránh cảm thấy bị gò ép, bị căng thẳng, bị áp lực rất lớn. Con nhận ra cuộc sống là đau khổ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Nguyên nhân khiến con cảm thấy bị áp lực là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị ảnh hưởng rất mạnh bởi hai đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị, như tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Các bộ đồ lặn đang trì kéo con xuống là cơ thể vật lý của con, các khuôn nếp trong thể cảm xúc, các niềm tin hay những điều con cho là bất khả vi phạm trong thể lý trí, và ý niệm bản sắc của con. Chúng là chì lặn đang kéo con xuống tận đáy đại dương.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Các vị thày tâm linh đã giải phóng mình khỏi các lực trì kéo, các bộ đồ lặn, và đã lên khỏi mặt nước, hoà mình vào ánh sáng mặt trời trong veo và nhìn được rất xa trước mặt. Các thày muốn liên lạc với những người đang trong bộ đồ lặn nặng trịch ở tít dưới đáy biển. 

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2. Giáo lý thay đổi cách con trải nghiệm áp lực

2.1. Các vị thày tâm linh mong mọi người theo con đường tuần tự đi từ mức nhận biết hiện thời của họ và rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng viễn kiến và dần dần đến gần hơn viễn kiến của các thày.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Con đang mặc bốn bộ đồ lặn nên giáo lý tâm linh chỉ có thể tới con qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm con. Giáo lý giúp con đi theo quá trình vượt khỏi nhận thức về thế giới, vượt khỏi phin lọc nhận thức, vượt khỏi cách nhìn đời hiện nay của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Nhiều người không hiểu mục đích thật của giáo lý tâm linh và tìm cách áp chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và ý niệm bản sắc của họ. Tỷ dụ họ dùng giáo lý để cảm thấy cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý. Thay vì dùng giáo lý như sợi dây giúp mình lên khỏi mặt nước thì họ lại kéo sợi dây xuống, quấn xung quanh mình và càng bị bó chặt hơn.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Mục đích của giáo lý là giúp con thấy điều mà hiện giờ con không thể thấy. Con phải bắt đầu tại tầng mức hiện nay của mình và đi dần từng bước có hệ thống để giải phóng mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Ai ai cũng muốn thoát khổ, muốn được rũ bỏ áp lực. Mong muốn này sẽ không thể toại nguyện được. Con có thể thoát một số áp lực bên ngoài nhưng sẽ vẫn bị đè nặng bởi nhiều áp lực khác. 

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Có khác biệt giữa áp lực bên ngoài và sự trải nghiệm áp lực bên trong. Áp lực đến từ thế giới bên ngoài nhưng trải nghiệm áp lực diễn ra trong tâm con. Chính những khuôn nếp cảm xúc, tư tưởng, niềm tin và ý niệm bản sắc trong tâm tạo ra trải nghiệm áp lực.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Giáo lý tâm linh không thể thay đổi điều kiện bên ngoài vì chúng tùy thuộc độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng. Giáo lý tâm linh giúp con nhận diện chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này theo tôi không?”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Con đã từng mong chờ giáo lý tâm linh giúp con thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với những thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã tạo ra trải nghiệm áp lực. Ước muốn này không thể thực hiện được.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Con người đã tạo ra những thành lũy trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể để kìm nén những cảm xúc, tư tưởng. Các thành lũy này bảo vệ con khỏi áp lực quá sức nhưng cũng ngăn con vượt lên trên mức nhận biết hiện thời của mình. Bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giúp con đứng thẳng nhưng chúng cũng giam hãm con và khiến con chìm xuống tận đáy biển.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

3.1. Khổ đau do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực. Nhưng con không thể thoát khỏi áp lực nếu con không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong tâm con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Con cần nhìn vào những cơ cấu bảo vệ con không bị choáng ngợp bởi áp lực. Chính những cơ cấu này giữ con trong áp lực vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn nếu con không nhìn vào điều gì đang trì kéo con xuống. 

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Mục đích thật sự của Bát chánh đạo là thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống giúp thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài. Bát chánh đạo không phải là giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện bên ngoài đã gây đau khổ cho con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Có những người đi theo những phong trào tâm linh từ rất lâu, rất chăm chỉ thực hành, đi đứng trong sự điềm tĩnh. Dường như họ luôn luôn kiểm soát được cảm xúc của họ. Nhưng họ đã dùng giáo lý để dựng lên những cơ chế nhằm đè nén cảm xúc và điều này không đưa đến tăng triển.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Để thay đổi kinh nghiệm sống, con có thể đè nén cảm xúc hay làm chúng tan đi. Khi đè nén cảm xúc con đạt được một trạng thái an bình nội tâm nhưng điều này thật mong manh, và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Để thật sự neo trụ vào con đường tu, con sẵn lòng bị xao động.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Tức giận là một cảm xúc, là một loại năng lượng. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ những khuôn nếp tư tưởng trong trí thể và thậm chí đến từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính những khuôn nếp này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Con có một chờ đợi những gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khi sự chờ đợi không được đáp ứng, trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm một cách tuần tự và có hệ thống, sau đó đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp nhưng tại sao tôi lại bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống”.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Nhiều người đã dùng lý trí để tạo một cảm giác cân bằng. Qua trí năng, phân tích, lý luận, họ nghĩ họ hiểu thế giới vận hành ra sao, họ nghĩ họ nắm bắt được những quy luật thiên nhiên. Do đó họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, kiểm soát ngoại cảnh.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4. Kìm nén hay giải quyết

4.1. Mục đích của một giáo lý tâm linh là giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời, trong đó có những khuôn nếp trong trí thể của con. Những khuôn nếp này đã được dùng để bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nghi ngờ. 

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con người có những tin tưởng khác nhau và có những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nhau. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa các tin tưởng của con. 

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý của mình, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt nhưng điều này chỉ làm họ mắc kẹt trong bộ đồ lặn. 

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Không có một giáo lý tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn. Cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý bên ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. An bình không do đè nén mà do giải quyết. Con có thể đạt được sự an bình này khi vẫn còn thân vật lý nhờ vậy con giữ được cân bằng lớn lao cho cả hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức đại chúng lên. Con trở thành cánh cửa mở để nhận được ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn và biểu đạt chúng trong thế giới này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Con sẵn sàng bị xáo trộn. Con nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi với trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, không cho tôi bám lấy sợi dây và leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường tu nội tâm của Bát chánh đạo.” 

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Khi một điều bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì con không coi nó là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội để con nói: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì, tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào khiến tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi ở một tầng cấp nào đó?” 

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Để giúp cho thời hoàng kim thị hiện, cần có một số người biểu lộ là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường. Con cần làm điều này bằng cách bước ra ngoài xã hội trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Con sẽ quấy rầy người khác và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Con là một phần của hơi thở-vào của đấng Vô biên, nhờ vậy con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong thế giới nhiều xáo trộn. Con có mặt ở đây để là một phần của quá trình tiếp diễn vô tận phi thời gian nâng cao mọi sự sống từng bước lên đến những tầng càng lúc càng cao hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

9 | Hành động cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề tiếp theo của chúng ta đương nhiên là điều mà theo truyền thống được gọi là Chánh nghiệp, nhưng thày sẽ chọn gọi là hành động cao hơn.

Con cần lấy các lời dạy của thày về lời nói cao hơn [Chánh ngữ], về năng lượng và việc sử dụng năng lượng vì các đề tài này cũng liên quan đến hành động. Con có thể hỏi: “Làm thê nào một hành động vật lý với một cơ thể vật lý lại liên quan đến năng lượng?” À như thày đã nói, mọi thứ đều là năng lượng. Mọi việc con làm đều được làm với năng lượng. Thày biết có thể con sẽ dễ tưởng tượng hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng xuyên qua cảm thể khi con phóng chiếu một cảm xúc thật mạnh mẽ. Và có thể con sẽ khó tưởng tượng hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng bằng cơ thể vật lý.

Vấn đề này tương đối dễ giải quyết khi con nhận ra cơ thể vật lý là thể thấp nhất trong bốn thể phàm của con. Con không thể nào có một hành động vật lý chỉ diễn ra trong cơ thể vật lý ở tầng vật lý mà thôi. Tầng vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Bất kỳ hành động nào cũng khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, đi xuống thể cảm xúc rồi mới được chuyển thành một hành động vật lý. Mỗi khi con hành động vật lý, con gửi ra một xung lực xuyên qua cả bốn thể phàm của con. Hầu hết mọi người không nhận biết điều này. Họ cứ đinh ninh là họ có thể hành động vật lý ở tầng vật lý thôi. Nhiều người cho rằng nếu họ quyết định làm việc gì đó thì họ đang quyết định bằng tâm ý thức, mà họ không biết là họ đang có những khuôn nếp trong cả ba tâm cao hơn, và những khuôn nếp này đã phần lớn định ra ranh giới cho những gì họ có thể quyết định bằng tâm ý thức.

Ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế

Như thày đã giảng, nhiều người thường hành xử giống như một loại rô-bốt, một loại máy tính với những lập trình, những mô thức mà họ mang nơi cái tâm cao hơn, là tâm tiềm thức của họ. Các chương trình này điều khiển phản ứng của họ, cho nên họ không đang lấy một quyết định vật lý, ý thức, để làm một việc gì. Quyết định được định đoạt bởi các khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Đây là một sự kiện mà một lần nữa chúng ta có thể nói nó có vẻ như là nghịch lý. Thày đã có giảng là trên cơ bản, con có thể chọn một trong hai cách tiếp cận trên đường tu tâm linh. Con có thể tìm cách kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một ý niệm bản sắc nào đó, thậm chí cả một số hành động, nhưng điều này sẽ không giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Để nâng cao nhận biết, con cần bước vào bên trong, xem xét các khuôn nếp và giải quyết chúng một cách ý thức – giải quyết thay vì phủ nhận và đè nén.

Khi nói đến hành động, có một giai đoạn trên đường tu khi quả thực con cần trau dồi một sức mạnh ý chí ý thức để chặn không cho một xung lực từ tâm tiềm thức, từ ba tầng của tâm con, bị đưa ra biểu hiện thành một hành động vật lý. Ở một tầng tâm thức nào đó, con không hoàn toàn có khả năng giải quyết các khuôn nếp đó, con không thật sự biết cách làm thế nào, có thể con không có sự quyết tâm để giải quyết, hay con không sẵn lòng nhìn vào bên trong tâm mình – nhìn vào cái xà trong mắt mình theo cách diễn tả của Giê-su.

Xuyên qua các thời đại, không chỉ đạo Phật mà nhiều tôn giáo và nhiều truyền thống tâm linh đã lập ra một quy tắc ứng xử, một quy tắc hành động về những gì con làm hay không làm khi con là tín đồ của tôn giáo đó. Chúng ta không thể chỉ đơn giản bác bỏ quy tắc này và bảo nó hoàn toàn sai trái, ngay cả nếu chúng ta dùng những từ “sai” và “đúng” trong bối cảnh này. Thày sẽ không tìm cách bác bỏ nó vì tất nhiên, khi con làm một hành động thì hành động này có thể tạo nghiệp. Như thày có giảng, nghiệp là các xung lực năng lượng đi qua bốn tầng cõi và quay trở về với con. Nếu con cứ liên tục làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nghiêm trọng hơn, con có thể phá hoại khả năng nâng cao nhận biết của con. Cho nên ở một giai đoạn nào đó, thật là tự nhiên hoặc cần thiết con dùng sức mạnh của ý chí vỏ ngoài để kỷ luật hành động của mình, bởi vì nếu không, con sẽ phá hoại bước tiến tâm linh của con. Có thể con đang theo học một giáo lý tâm linh, có thể con đang thực hành một số pháp tu, nhưng nếu con không ngừng làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nặng nề thì làm thế nào con tăng triển tâm linh được đây? Quả báo thường sẽ ngăn chặn hay cản trở đường phát triển tâm linh của con.

Có một số hành động đã được nhiều tôn giáo quy định suốt các thời đại. Chính thày đây chắc chắn cũng đã định ra một số giới luật cách đây 2500 năm. Một số điều răn được xác định trong Kinh Cựu ước qua những câu “Ngươi chớ…” Những câu này có thể hiệu nghiệm ở một tầng nào đó trong việc ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế mà nhiều người đã vướng phải suốt nhiều kiếp sống. Đến một lúc nào đó con phải chặn nó lại, và bằng cách chấp nhận một khuôn mẫu lý tưởng về những gì một tín đồ trong tôn giáo của con không làm, thì quả thực con có thể tiến bộ. Nhưng tiến bộ này chỉ có thể đưa con đến một điểm nào đó, vì thật ra nó không khiến cho vòng xoáy nghiệp quả ngừng hẳn. Nó sẽ ngăn không cho nghiệp trở thành vật lý nếu con không có hành động vật lý, và nhờ vậy nó giảm bớt độ khắc nghiệt của vòng xoáy nghiệp quả. Tuy nhiên nếu con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tất nhiên con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng. Chỉ có điều là nghiệp sẽ bớt nặng, bớt mãnh liệt.

Con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm

Vậy con sẽ làm gì khi con vượt quá giai đọan đó? Thành thật mà nói, hầu hết những người cởi mở tâm linh đều nằm trong số này. Thường thường từ rất nhiều kiếp, con đã không tham gia vào chuyện giết người, không dùng ma túy hay rượu chè cùng nhiều loại sinh hoạt như vậy mà thày đã quy định ngay từ thuở đó là không có tính xây dựng trên con đường Bát chánh đạo. Vậy bước kế tiếp từ điểm này là gì? Ấy, đó là trước hết con nhìn nhận là nếu con chỉ quy định một số hành động như vậy thôi thì thật không đủ. Bởi vì tâm vỏ ngoài, tự ngã, vô cùng khéo léo sử dụng một giáo lý tâm linh để ngăn chặn bước tiến của con, để nó lẩn trốn hầu con không thấy nó, con không thấy cần buông bỏ nó, chối từ nó, giải thể nó.

Một trong những cách tự ngã làm là nó tạo ra, như thày đã có đề cập trước đây, khái niệm một con đường vỏ ngoài, một con đường tự động. Con đường này bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và nếu con ép mình chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ lên được niết bàn. Nếu con cứ nhắm mắt bước theo con đường tự động này thì ở một điểm nào đó trong tương lai, đùng một cái, con sẽ giác ngộ. Con kiêng những việc làm phi tâm linh và con làm những việc làm tâm linh, kể cả các pháp tu do tôn giáo con quy định, và nếu con cứ siêng năng thực hành thì con sẽ tự động tiến bước.

Như thày vừa giảng, bằng cách nhịn không làm những hành động tạo nghiệp và thực hành các pháp tu tâm linh, con có thể tiến bộ nhưng chỉ tới một tầng nào đó. Sẽ đến một điểm con không bước xa hơn tầng này cho tới khi con neo chặt vào con đường nội tâm. Thật không đủ nữa nếu con chỉ kiêng một số hành động và làm một số hành động khác. Con cần làm việc trên tâm lý của con, giải quyết các khuôn nếp, các ảo tưởng, những cái ngã mà con có trong tâm tiềm thức giống như những chương trình điều khiển phản ứng của con. Con không thể đi quá một điểm nào đó cho đến khi con nhận ra và bước chân trên con đường nội tâm này. Điều tự ngã thường làm là nó định ra một con đường vỏ ngoài rồi bảo, bởi vì con đã chuyên cần kiêng cữ việc sai và chỉ làm việc đúng, cho nên con không cần xem xét bản thân mình. Con không cần nhìn vào tâm tiềm thức của con. Con không cần làm bất cứ gì có thể phơi bày chính tôi là tự ngã của con.   

Xuyên qua các thời đại, biết bao nhiêu người – không chỉ người theo đạo Phật mà bất kỳ giáo lý tâm linh nào – đã tin vào chuyện này. Nhiều người thời nay là Phật tử, là người tâm linh, tin vào con đường vỏ ngoài này. Quả là có một giai đoạn con có thể tinh tiến với con đường vỏ ngoài, nhưng sẽ tới một điểm nó sẽ cản trở bước tiến của con vì nó sẽ ngăn con nhìn vào tâm tiềm thức.

Khi các nỗ lực tâm linh cản trở bước tiến

Có những người đã quy định thế nào là hành động bất chính hay chân chính và họ đã rất chăm chỉ sống theo cách định nghĩa đó. Nhưng dần dần họ đã cảm thấy một sự căng thẳng bất an nào đó. Lý do là vì qua trực giác, họ cảm thấy họ không đang thực sự tiến bước với cách tu này. Nhưng tâm vỏ ngoài của họ thì rất gắn bó, và họ gắn bó rất chặt với con đường vỏ ngoài. Họ có nỗi dính mắc nói rằng nếu họ thay đổi cách tiếp cận đường tu thì điều này sẽ chứng tỏ là họ đã đi lầm đường cho đến giờ. Và điều cuối cùng họ mong muốn là bị sai trật về con đường tâm linh họ đang đi.

Cho nên họ mới dính mắc, họ ôm chặt lấy quan điểm của họ, họ bám víu vào cách tiếp cận hiện thời của họ về đường tu. Do cảm giác bất an, giờ đây họ lý luận: “Tôi phải tu tập chăm chỉ hơn nữa. Tôi phải cần mẫn hơn nữa, kiêng cữ việc làm bất chính và chỉ làm những việc chân chính.” Có thể đầu tiên họ sẽ suy luận là họ không thể nào sống tiếp một cuộc đời thế tục, họ phải lánh xa xã hội, rút vào tu viện nơi họ sẽ không bao giờ bị cám dỗ vào những hành động bất chính. Nhưng ngay cả khi họ sống trong tu viện, họ vẫn cảm được sự bất an cho nên giờ đây họ nghĩ: “Tôi phải tu tập nghiêm mật hơn nữa.” Thế là nó biến thành một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, tới mức rốt cuộc họ cảm thấy hành động chân chính độc nhất còn lại là pháp tu của họ – dù đó là quỳ lạy trên sàn nhà, quay bánh xe cầu nguyện hay bất cứ gì khác. Càng ngày họ càng bị ám ảnh nhiều hơn đến độ họ cảm thấy đây là tất cả những gì họ có thể làm.

Bấy giờ tâm vỏ ngoài sẽ thì thầm vào tai họ: “Ồ xem kìa, bạn tu tập sao quá thuần thành. Hiếm có ai tu nghiêm mật như bạn. Điều này chứng minh bạn là môt đệ tử cao cấp, cho nên bạn không có nhu cầu nhìn vào tâm tiềm thức, bạn không có nhu cầu soi gương. Đừng để ý đến những loại xung lực kia và tập trung tâm trí vào việc tu tập đúng đắn.” Có những người có thể làm chuyện này nguyên một kiếp sống hay hàng chục năm trời mà không bước lên được một bước nào trên đường tu đích thực.

Trung đạo đích thực

Tất nhiên con sẽ muốn tránh điều đó, và làm thế nào con sẽ tránh được chứ? Một lần nữa, qua con đường Trung đạo, mà thật sự chúng ta có thể gọi là Thượng đạo, con đường cao hơn, hay Việt đạo, con đường siêu việt. Tâm đường thẳng nói chuyện như thế này: “Đây là một đối cực, kia là một đối cực nữa. Giữa hai đối cực có một thang điểm, có nhiều sắc thái khác nhau từ màu đen qua đủ các sắc xám ngày càng nhạt hơn cho đến khi bạn có màu trắng. Khi Phật dạy về Trung đạo, nhất định phải có nghĩa là trung điểm giữa hai đối cực.”

Và người ta lý giải: “Ồ đúng rồi, tôi cần phải nhịn không làm điều sai và tôi cần thực hành pháp tu, nhưng tôi không thể bỏ ra quá nhiều thì giở tu tập đến độ tôi không còn tham gia vào cuộc sống bình thường năng động được nữa. Tôi phải tìm ra một thế cân bằng.” Đây không phải là một cách tiếp cận hoàn toàn vô giá trị, nhưng có một cách hiểu cao hơn. Trung đạo trong nghĩa nguyên thủy, ngay cả trong cách biểu đạt nguyên thủy của nó, không phải là con đường chính giữa. Đó không phải là trung điểm giữa hai đối cực. Đó là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu việt. Là con đường vượt khỏi không chỉ hai đối cực mà toàn bộ thang điểm nhị nguyên giữa cả hai, tất cả mọi sắc đậm nhạt giữa cả hai. Cho đến giờ thày đã nói là tâm nhị nguyên quy định hai cực đối lập, nhưng tâm nhị nguyên hoàn toàn có khả năng quy định một vùng xám với những độ xám khác nhau giữa hai cực. Toàn bộ thang điểm này, không chỉ hai đối cực mà cả những sắc thái khác nhau cùng với điểm chính giữa, vẫn do tâm nhị nguyên quy định.

Hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời

Vậy thế nào là con Đường Cao hơn để tiếp cận hành động? À một lần nữa đó là tìm cách gia tăng khả năng trực giác để chạm được phần nào những gì đã được ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Như thày đã có nói, vào lúc con lập ra Kế hoạch Trọn đời, có thể con đã quyết định là có một trải nghiệm nào đó con có thể có trên trái đất mà con chưa chán chê – như thể con cần trải nghiệm nó cho thỏa thuê tới mức con hoàn toàn chán chê, và nhờ vậy con có thể giải quyết toàn bộ ham muốn này và buông bỏ nó. Con thăng vượt hoạt động đó, ham muốn đó, trải nghiệm đó. Nhưng bây giờ khi con bước vào đầu thai, con đã quên mất. Con tìm thấy một giáo lý tâm linh bảo rằng chính cái sinh hoạt mà con muốn nếm thoả thuê cho tới mức chán ngán, là không tâm linh. Và vì vậy con phải kiêng khem không được làm. Con buộc mình phải nhịn hẳn sinh hoạt đó, và kết quả là gì? Con không đạt được tiến bộ mà con đã trù liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con.

Thày đang nói gì ở đây? Thày đang nói là con không thể lập ra một thang điểm vỏ ngoài rồi bảo: “Đây là cách một người tâm linh phải hành động, và kia là những hành động mà một người tâm linh không bao giờ được làm.” Chẳng hạn: “Một người tâm linh phải sống độc thân và kiêng quan hệ tình dục.” Nhiều người tâm linh, đặc biệt trong truyền thống Phật giáo, đã lý luận kiểu đó. Nếu ham muốn trải nghiệm tình dục là dính mắc cuối cùng ngăn cản con nhập niết bàn, thì làm như vậy sẽ cản trở bước tiến của con. Đương nhiên tự ngã có thể dễ dàng dùng điểm này như một cái cớ và nói: “Ồ lời dạy này nghe hay quá. Có nghĩa là tôi có thể làm bất cứ chuyện gì tôi muốn. Có lẽ chăng trải nghiệm này nằm trong Kế hoạch Trọn đời của tôi?” Tất nhiên, làm như vậy chỉ là rơi vào cực đoan ngược lại. Tất cả là vấn đề sử dụng trực giác của con để phát hiện chính xác những gì chính con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của con. Những gì người khác nói hay đặt vào Kế hoạch Trọn đời của họ thật không quan trọng gì. Con cần khám phá chính con đã ghi gì trong Kế hoạch của con và con có thể làm vậy qua trực giác. Một lần nữa, bằng cách dùng những dụng cụ này để nâng cao nhận biết, khắc phục các khuôn nếp và chuyển hóa năng lượng thấp, con sẽ có được một tầm nhìn sáng suốt.  

Kế hoạch Trọn đời của con neo trụ ở đâu? À, nó thật sự neo trụ nơi cái ta cao của con. Kế hoạch Trọn đời của con có thể được xem như một quyển sách hay ít ra một tấm bảng trên kia ở một cõi có năng lượng cao hơn. Cách duy nhất con có thể thấy nó là nhìn từ tâm ý thức xuyên qua các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nhưng nếu các thể này chất đầy những năng lượng thấp, những ảo tưởng của Maya, thì con sẽ không thể nhìn thấy tấm bảng đó, hay ít ra con không thể đọc được.

Khi con bắt đầu dọn dẹp rác rưởi trong các thể cao hơn, loại bỏ Maya, làm sạch năng lượng, thì một cách tự nhiên con sẽ có thể bắt đầu hé nhìn thấy Kế hoạch Trọn đời. Do đó con có thể bắt đầu nhìn ra thế cân bằng cá nhân của con là gì, những hoạt động nào con nên tham gia mà con đã muốn tham gia để khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng.

Tất nhiên một khía cạnh khác trong Kế hoạch Trọn đời là con muốn đóng góp vào sự thăng tiến của cuộc sống trên trái đất, của tâm thức tập thể, của hoàn cảnh nhân loại. Một lần nữa, nhiều người tâm linh đã đặt ra chuẩn mực quy định sự đóng góp này phải như thế nào. Thường thường có thể là họ tham gia vào công việc từ thiện hay họ thực hành pháp tu tâm linh của họ vì đây là cách họ có thể thay đổi thế giới. Điều này không hẳn là sai, nhưng liệu có phải là điều chính con đã định ra trong Kế hoạch Trọn đời của con không? Mặc dù con là một người tâm linh, có thể có một đóng góp cụ thể mà con muốn cống hiến trong một lãnh vực thế tục nào đó. Con muốn đưa ra một ý tưởng mới nhằm đề xướng một cải tiến nào đó chẳng hạn trong lãnh vực kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hay nhiều thứ khác. Có lẽ con muốn viết một quyển sách đặc biệt để giúp một số người đạt sáng ngộ. Có thể là nhiều thứ khác nhau. Có muôn ngàn chuyện mà con đã có thể quyết định muốn làm nhưng lại không được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh, chính vì họ đã mang sẵn quy chuẩn kia. Một lần nữa, con có thể bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình, và điều này sẽ không giúp con tăng triển tâm linh cho dù con đã thực hành những pháp tu được thiết kế để giúp con tăng triển tâm linh. Nó sẽ giúp con cảm thấy mình tâm linh hơn, mình tinh tiến hơn, nhưng điều này không phải là tăng triển tâm linh, như thày hy vọng đã giảng rõ rồi.

Làm hay không làm đều không đủ

Có rất nhiều khía cạnh ở đây cần được cân nhắc nhưng không bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Kỳ thực, chính tâm vỏ ngoài đường thẳng mới thường ngăn cản con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con qua trực giác. Con cần vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài đường thẳng này, nó luôn luôn muốn lập ra chuẩn mực có hai đối cực đúng-sai, nó bảo tất cả những gì con cần làm là làm cái này mà không làm cái kia và như thế con sẽ đạt mục tiêu. Vì lý do gì con sẽ không đạt được mục tiêu bằng cách làm những việc tâm linh và nhịn không làm những việc phi tâm linh?

Thày đã nói mục tiêu là gì? Giác ngộ là gì? Đó là một mức nhận biết cao hơn. Làm thế nào con sẽ đạt được mức nhận biết cao hơn? Chỉ bằng cách, duy chỉ bằng một cách là thăng vượt mức nhận biết hiện tại của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con vươn tới ít nhất những tầng ờ các giai đoạn khởi đầu của giác ngộ. Khi con làm hay nhịn không làm những việc vỏ ngoài, điều này sẽ không tự động chuyển đổi mức nhận biết của con. Trên thực tế, nhiều người tâm linh đã chui vào rồi bị kẹt lại trong một ngõ cụt, và cách duy nhất để họ tiến bước là chất vấn chính cái chuẩn mực về tâm linh và phi tâm linh, trong hành động, trong lời nói, trong ý định, trong toàn bộ cái nhìn của họ về cuộc sống.

Thày có nói là con sống trong một thế giới bất ổn, rằng con không thể nào sống sót về mặt tâm lý, cho nên để sống sót con phải kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một số xung lực ở tầng bản sắc, hầu con tìm được một thế quân bình và một cảm giác liên tục nào đó. Việc kìm nén cần thiết cho sự sống còn ở một tầng nào đó, nhưng kìm nén cũng trở thành cái bẫy chủ chốt – Maya, tấm màn của Maya – sẽ giam giữ con người trong Biển Luân hồi. Do tấm màn ảo tưởng, con người không thấy được là nội dung trong chính tâm họ sản xuất ra trải nghiệm mà họ đang có về cuộc sống. Cho nên cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống là thay đổi nội dung trong tâm họ, chứ không phải một cái gì ở ngoài họ ngay cả ở mức hành động.

Con cần lượng định lại các hành động dựa theo ảnh hưởng của chúng trên trình độ tâm thức của con. Rõ ràng có một số hành động sẽ kéo thấp mức tâm thức của con. Và một trong những hành động phổ biến nhất là ma túy, rượu và các chất gây say khác. Tại Ấn Độ đã có một truyền thống khá lâu đời là một số người – thậm chí họ còn tự xưng là swami hay yogi – sử dụng nhiều loại ma túy và cho đây là cách đạt được tiến bộ tâm linh. Nếu có một chất vật lý nào có thể đưa con đến giác ngộ thì tại sao lại có truyền thống hàng ngàn năm trời của các vị thày tâm linh giảng dạy pháp tu khó khăn kia thay vì chỉ cứ giản dị sử dụng chất đó? Đấy, có lẽ là vì các vị thày tâm linh này biết rõ ma túy là một ngõ cụt. Nó cho con một cảm giác, có thể nó khiến con nghĩ vì con có một số trải nghiệm cho nên nhất định con phải là người tâm linh. Nhưng không có gì con có thể làm cho bộ não vật lý sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Trái lại nó có thể hạ thấp mức tâm thức của con, hay ít ra ngăn con vươn lên cao hơn vì con bị kẹt lại ở một tầng nhất định.

Nếu con cứ tiếp tục làm vậy thì quả thực nó sẽ kéo thấp mức tâm thức của con xuống, vì sẽ tới một điểm sau khi con dùng ma túy một thời gian, con bắt đầu trực nhận trong nội tâm là con không thể tiếp tục như vậy được nữa, con cần bước tới vì con đang không tăng triển. Như thày vừa nói, điều này gia tăng sự căng thẳng. Bây giờ nếu con phớt lờ cảm giác này và cứ nhất định làm tiếp – hay con tiếp tục ăn cắp, lừa gạt người ta hay bất kỳ thói nào khác – thì chỉ có một chuyện có thể xảy ra. Con sẽ phủ nhận mãnh liệt hơn, và chính việc gia tăng phủ nhận sẽ hạ thấp trạng thái tâm thức của con. Cho nên con bước xuống các bực thang tâm thức khi sự phủ nhận càng ngày càng sâu đậm hơn.

Có những hành động khác cũng có thể đem lại tác động tương tự nhưng lại được nhiều người tâm linh liệt vào loại việc làm tâm linh, thậm chí còn thánh thiện nữa. Ngày nay không còn nhiều thông tin về hoàn cảnh thực tế mà thày đã gặp phải trong tư cách là Phật cách đây nhiều thế kỷ. Thày đã gặp khá nhiều sự chống đối từ các nhà Bà la môn đạo Hindu, họ cho rằng họ có độc quyền giảng dạy tâm linh ở vùng này của nước Ấn. Họ rất coi trọng các loại nghi lễ vỏ ngoài. Ngày nay con cũng thấy rất nhiều lễ hội, có những nghi lễ người ta đi vào đền thờ, được một tu sĩ rưới nước trái cây lên người hay bất cứ việc gì khác, và điều này được cho là sẽ trợ giúp tiến bộ tâm linh. Tất nhiên đó là vì các nhà Bà la môn đã tự đặt minh làm kẻ trung gian giữa quần chúng và cõi tâm linh, hay các vị thần được mô tả trong đạo Hindu. Cũng giống như các chức sắc giáo hội vào thời Giê-su cũng định nghĩa một tôn giáo dạy rằng cách duy nhất để đến với Thượng đế là qua trung gian hội thánh cùng các tu sĩ, thành phần tu sĩ của giáo hội. Giê-su bị kết án tử hình và hành quyết là vì thày đã thách thức quan điểm đó với lời dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con.

Trong tinh túy, nói rằng Nước Trời ở ngay trong con cũng giống như nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh và mọi người đều có tiềm năng vươn lên quả vị Phật. Đây chính là điều mà các tu sĩ của một tôn giáo có tổ chức không thể chịu nổi. Họ đã dựng lên quan niệm là qua những hành động được tôn giáo vỏ ngoài quy định và việc kiêng khem những loại hành động khác, thì đảm bảo con sẽ được cứu rỗi, con sẽ được lên niết bàn hay bất cứ tên gọi nào khác. Đây là một động lượng vô cùng lâu đời trên trái đất, một động lượng rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Rất, rất nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin vào điều đó? Vì nó cho họ một cái cớ để họ không nhìn vào chính tâm họ cùng tâm lý của họ.

Nỗi sợ những gì nằm trong tâm tiềm thức

Tại sao họ không muốn nhìn vào? Vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy trong đó. Điều này con sẽ không hiểu nổi nếu con không hiểu về luân hồi. Con thử nhìn trường hợp đứa bé kia lớn lên tại một trong những nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà xem. Nhìn từ mọi khía cạnh, đứa bé này đã được hưởng một sự nuôi dạy lý tưởng với cả cha lẫn mẹ thương yêu nó, có thày giáo tốt ở trường học, anh chị em cũng tốt bụng. Nói chung nó có những điều kiện tốt nhất mà một người có thể mong muốn, nhưng nó lại mắc phải những chứng bệnh tâm lý trầm trọng đến độ nó không thể hoạt động bình thường trong xã hội. Có vấn đề gì trong cách nuôi dưỡng hay trong gen của nó hay không? Không ai trong gia đình nó có xu hướng mắc bệnh tâm lý cho nên không thể quy cho di truyền được. Trong suốt tuổi ấu thơ nó không bị chấn thương, cho nên cũng không thể quy cho cách nuôi dạy. Làm thế nào con giải thích được tại sao một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh lý tưởng lại mắc phải một chứng bệnh tâm lý ngặt nghèo đến thế? Chỉ có một cách giải thích là trong tiền kiếp, nó đã trải qua chấn thương trầm trọng.

Con hãy nhìn bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra chỉ trong một thế kỷ qua. Bao nhiêu người đã phải chịu cảnh chiến tranh? Bây giờ khi họ tái đầu thai, họ mang chấn thương này trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rất nhiều người trong thế giới ngày nay đã đầu thai lại nhiều lần cho nên họ đã hứng chịu đủ loại chấn thương, nhưng chính họ cũng đã làm nhiều chuyện rất ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình, dựa trên ảo tưởng họ là những sinh thể tách biệt, và những gì họ gây cho người khác sẽ không ảnh hưởng gì đến họ, hay ít ra nếu họ không phải chịu hậu quả vật lý trực tiếp thì hình như họ đã tránh khỏi tội tày trời. Nếu họ không bị bắt thì hình như họ đã thoát được hình phạt. Bây giờ họ hiện thân trong thời đại tân tiến, một trong những biến chuyển to lớn đã xảy ra trong tâm thức tập thể trong mấy thế kỷ qua là rất, rất nhiều người hơn trước bắt đầu lo việc cải sửa tâm lý, như chữa lành tâm lý, đón nhận nhiều loại giáo lý tâm linh, từ yoga qua thiền chánh niệm cho đến đủ loại liệu pháp khác nhau. Cho nên họ đã khởi sự làm việc trên tâm lý của họ.

Có một động lượng đang lớn mạnh trong tâm thức tập thể xem việc tu sửa tâm lý là bình thường, tự nhiên, cần thiết, xây dựng. Trên thế giới có một nhóm người rất đông không chỉ mang theo chấn thương từ tiền kiếp, mà họ cũng mang theo sự nhận biết là họ đã làm những chuyện mà đúng lý họ không nên làm. Và họ không muốn nhìn vào những cái đó. Họ không muốn xem xét tâm lý của họ vì họ sợ họ có thể tìm thấy điều gì trong đó. Họ sợ bị choáng ngợp đến độ không thể hoạt động bình thường được nữa. Những người đó muốn gì? Họ muốn con đường tự động, họ muốn có ai đó hứa hẹn với họ: “Con hãy tuyên bố Giê-su Ki-tô là Chúa, là Đấng Cứu rỗi, thì bảo đảm con sẽ được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy gia nhập môn phái Phật giáo này, học tập các giáo lý này, thực hành các pháp tu này thì bảo đảm bạn được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy làm bài tập này, quỳ lạy trên sàn, quỳ lạy đủ 10 ngàn lần trong kiếp này thì bảo đảm bạn được nhập niết bàn.” Đó là điều người ta muốn.

Vậy một lần nữa, đâu là cách nhìn cao hơn về hành động? Đó là con nói: “Việc này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Không những nó có nâng cao mức tâm thức của tôi hay không, mà khi tôi làm một hành động thì phản ứng của tôi là gì? Phản ứng tâm lý của tôi là gì? Nó khởi lên những gì trong tâm lý tôi? Cái gì đang bị khuấy động?” Rồi con dùng đó như một cơ hội để nhận ra chính vì con là một sinh thể tâm linh, vì con muốn tăng triển tâm linh, cho nên con đã tự đặt mình vào những tình huống sẽ buộc con – nếu có thể nói như vậy – làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý của con. Đó là một cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con tinh tiến, con bước lên cao hơn. Thêm một bực nữa trên chiếc cầu thang. Nếu con xem mình là một người tâm linh, con cần thực hiện cuộc xoay chuyển này để con sẵn lòng làm công việc này, con ngộ ra sự cần thiết của công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng kia về con đường tự động. Con cần quan sát phản ứng của con khi con nghe những ý tưởng này và nhìn thấy lực kháng cự trong con đang không muốn xem xét chính mình.

Hành động không thể đưa con vào Niết bàn

Sau đó con có thể đi thêm một bước liên quan đến hành động. Trong giới mộ đạo truyền thống có nhiều người sẽ bảo rằng nếu con làm một số chuyện thì hành động của con sẽ kết án con xuống địa ngục. Nếu con giết một người hay thậm chí nhiều người, con sẽ bị đọa xuống địa ngục. Một lần nữa, đây lại là lối suy nghĩ nhị nguyên. Con đang định ra một đối cực nhị nguyên. Có một thiên đàng, có một địa ngục, và liệu con đi đến nơi này hay nơi kia tùy thuộc vào hành động của con. Một số hành động sẽ đày con xuống địa ngục, một số hành động khác sẽ bảo đảm đưa con lên thiên đàng. Một lần nữa có một động lượng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể khiến người ta muốn tin vào chuyện đó, ít ra nếu những người này đã kiêng cữ không làm những việc đưa xuống địa ngục. Thật không có cơ sở thực tế nào trong chuyện này.

Thày không hề phủ nhận là có một tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất, vượt cả bốn tầng của vũ trụ vật chất. Thày không phủ nhận là con người có khả năng vươn lên tầng cõi đó để được giải thoát khỏi bánh xe sinh tử – con không phải trở lại hiện thân mà sẽ vĩnh viễn thăng khỏi trái đất. Tầng cõi này có đó, đó là một tiềm năng, nhưng đó không phải là cái những người mộ đạo gọi là thiên đàng. Sự khác biệt giữa cõi con đang sống và cõi cao hơn kia – mà thày không muốn dùng ngôn từ để mô tả – sự khác biệt giữa cõi hiện hữu của con bây giờ trên trái đất và tầng cõi cao hơn là mức độ tâm thức. Không phải các hành động của con sẽ quyết định con có thể thoát khỏi trái đất và vươn lên cõi cao kia nơi không còn xung đột, không còn Biển Luân hồi như trên trái đất. Điều duy nhất sẽ quyết định là mức độ tâm thức của con.

Hãy thử lấy một ví dụ cùng cực, con hãy tự hỏi loại sinh thể nào có thể bước vào cõi cao đó? Hãy thật cụ thể. Giáo hội Công giáo có dạy về thiên đàng và những tín đồ Công giáo ngoan đạo đảm bảo được lên thiên đàng. Con có thực sự hình dung được một người Công giáo trung bình tồn tại ở một cõi cao được cho là thiên giới hay chăng? Thử lấy một vị linh mục Công giáo. Từ một góc nhìn vỏ ngoài về hành động, thật con không thể tìm được ai tốt đẹp hơn một linh mục Công giáo. Nhưng nếu như vị này đã lạm dụng trẻ em thì sao? Ông là một kẻ đạo đức giả vì ông giả vờ là một linh mục và một người của Chúa, nhưng ông lại xâm hại trẻ em. Liệu con có thể nào hình dung một người như vậy được bảo đảm lên thiên đàng ở mức tâm thức đã khiến ông xâm hại trẻ em? Có thể nào không? Có thể tưởng tượng được không? Đối với những ai đã kích hoạt trực giác thì chắc chắn không thể. Con sẽ lập tức nhìn ra là tuyệt đại đa số mọi người trên trái đất không thể lên thiên đàng hay nhập niết bàn với mức tâm thức hiện thời của họ.

Điều này liên quan thế nào với hành động? À, nhiều người rất lo sợ khi họ tin vào luân hồi, là có thể họ đã làm một việc gì đó trong kiếp trước sẽ ngăn họ không lên được thiên đàng hay niết bàn, cho dù họ định nghĩa là gì. Sau đây là sự thật giản dị mà thày đã cố giải thích cách đây 2500 năm nhưng thày sẽ trao cho con dưới một hình thức trực tiếp hơn nữa. Không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ đưa con lên thiên đàng, và không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ ngăn con khỏi thiên đàng. Tại sao? Vì hành động không phải là yếu tố quyết định con có lên thiên đàng hay không, mà là mức tâm thức của con. Tất nhiên, một hành động tuôn ra từ một mức tâm thức nào đó. Nếu con đã làm một hành động thì nó cho thấy là it ra trong tiền kiếp đó khi con đã hành động như vậy – hay ngay cả trong kiếp này – con đã ở mức tâm thức đó, và mức tâm thức này sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng.

Nếu con là một người tâm linh, con không cần sợ xem xét tâm lý của mình. Bởi vì cho dù con đã làm gì đi nữa trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Vũ trụ, Thượng đế, hay bất cứ gì con có thể tưởng tượng, không quan tâm đến những hành động con làm trên trái đất. Quan tâm duy nhất là trình độ tâm thức của con. Thật chẳng quan trọng gì nếu trong một tiền kiếp con đã làm gì đó bị quy định là phi tâm linh hay phản tâm linh. Nếu con đã thăng vượt mức tâm thức này, hay nếu con sẵn lòng thăng vượt tâm thức này ngay bây giờ, thì con có thể và con sẽ thoát ra khỏi hành động. Cho nên con sẽ tiến bộ trên đường tâm linh dựa trên những tiến bộ con đạt được trong tâm thức của con. Hành động không phải là yếu tố quyết định mà là mức tâm thức. Và một khi con đã thăng vượt mức tâm thức thì con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

Nghiệp quả vận hành thực sự như thế nào

Con có thể được lợi lạc từ việc thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa xung lực năng lượng do hành động tạo ra, là điều mà nhiều người gọi là nghiệp. Con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả – nếu con đã giải quyết tâm thức. Cũng có thể nói là khi con làm một hành động, con gửi một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, và khi nó đi lên tầng bản sắc, nó được phản chiếu lại cho con, đi vào thể bản sắc của con. Đây là một xung lực năng lượng. Năng lượng làm gì? Nó tạo ra những mô thức giao thoa với năng lượng ở xấp xỉ cùng độ rung. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức đã khiến con hành động như vậy, nếu con vẫn còn một số ảo tưởng và niềm tin chưa giải quyết trong thể bản sắc của con, năng lượng nghiệp báo sẽ tương tác với những thứ này, sẽ được tăng cường bởi những thứ này. Có nghĩa là nghiệp báo bây giờ đi xuống thể lý trí dưới một dạng tăng cường. Nếu trong thể lý trí con vẫn còn những khuôn nếp và niềm tin, nó sẽ lại tương tác với chúng và được tăng cường thêm nữa. Rồi nó đi vào thể cảm xúc, và nếu con vẫn còn khuôn nếp cảm xúc chưa giải quyết, nó lại được củng cố thêm, cho nên khi nó băng qua lằn ranh của cõi vật lý, rất có thể nó sẽ thị hiện như một hậu quả dữ dội.

Nhiều người tin vào nghiệp quả tin rằng nếu con đã giết ai đó trong một kiếp trước, quả báo có thể khiến con bị giết hại trong kiếp này. Không có gì con làm có thể ngăn chặn được sự kiện này vì con đã tạo nghiệp và giờ đây nghiệp phải giáng xuống với kết quả là con bị giết. Điều này chỉ đúng nếu con chưa thăng vượt tâm thức. Nếu con đã thăng vượt tâm thức ở tầng bản sắc, nghiệp báo có thể quay trở lại nhưng không có gì để nó tương tác, không có gì để nó gia tăng. Kỳ thực nếu con đã tạo ra những khuôn nếp cao hơn hay đã tự giải phóng khỏi ảo tưởng và thỉnh cầu năng lượng, nghiệp báo có thể suy giảm.

Đến khi nó xuống đến thể lý trí và nếu con đã thăng vượt các khuôn nếp lý trí, cũng lại không có gì tăng cường cho nó và nó suy giảm thêm. Điều tương tự lại xảy ra ở thể cảm xúc, cho nên khi nó xuống đến thể vật lý, có thể nó đã được chuyển hóa toàn diện thành một độ năng lượng cao hơn, hay nó chỉ thị hiện dưới một dạng nhẹ hơn rất nhiều. Thay vì bị giết, có thể con chỉ gây cho mình một thương tích ngoài da.

Như ngành vật lý hiện đại cho thấy, hành động gắn liền với phản ứng. Không có hành động mà không có phản ứng, nhưng cũng không có phản ứng mà không có hành động. Tất cả buộc chặt với nhau trong lý duyên khởi. Con có thể nói: “Tôi đã làm một hành động vật lý. Hành động này tạo ra một phản ứng từ người khác, và phản ứng đã ảnh hưởng đến tôi.” Hay có lẽ nó không ảnh hưởng đến con vì con đã tránh né được, nhưng nó vẫn tạo ra một phản ứng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cũng tạo ra một phản ứng trong tâm con. Thật ra hành động đi theo một tiến trình trong tâm con. Nếu con bị kẹt trong Maya và các ảo tưởng, trong một trạng thái tâm thức tách biệt, trong tâm nhị nguyên, rất có thể hành động của con đã khởi lên từ các khuôn nếp phản ứng có mặt trong ba tâm cao của con. Cho mỗi hành động đều có một phản ứng, nhưng con có khả năng thăng vượt, biến hóa phản ứng từ tấm gương vũ trụ bằng cách thăng vượt cái tâm thức đã dẫn đến hành động.

Có rất nhiều người tin vào nghiệp quả, tin đó là một sự trừng phạt, nhưng thật sự nghiệp quả không phải là trừng phạt. Đó là một cơ hội. Thày đã nói gì về mục đích cuộc sống? Là để tăng triển nhận biết của con. Làm thế nào con tăng triển nhận biết? Bằng cách nhìn ra điều gì đang cầm giữ con lại ở mức nhận biết hiện thời, khiến con không thể thăng vượt và vươn lên mức cao hơn. Nếu con không nhìn ra thì làm sao con thăng vượt đây? Đôi khi con có thể cố tình nhìn và con thấy, nhưng khi khác con không cố tình nhìn. Thế rồi một tình huống bên ngoài buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con. Đấy, đó là điều nghiệp quả vốn làm. Luật nghiệp quả bảo rằng con đang làm một hành động. Con giết một người – một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự quyết của họ cũng như quyền được có cơ hội tăng triển. Nếu luật nghiệp quả trải bày tức khắc, con sẽ bị giết ngay lập tức, nhưng điều này có nghĩa là con sẽ đi ra ngoài hiện thân. Nếu con không bị giết ngay lập tức, con sẽ phải sống phần còn lại của kiếp này biết rằng mình đã giết một người.

Và điều này cho con một cơ hội để con xử lý nó trong kiếp sống đó. Trong những kiếp tiếp theo, có thể con không nhớ lại một cách ý thức, nhưng con vẫn mang cái tâm lý, các khuôn nếp trong tâm lý đã khiến con giết người. Con vẫn có cơ hội nhìn ra cái đó, xử lý nó và khắc phục nó. Mấy kiếp sau, xung lực nghiệp quả quay trở lại. Đây không phải là một trừng phạt mà là một cơ hội. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức, xung lực nghiệp quả sẽ khuấy động tâm thức đó lên, ngay cả khi không có một tình huống bên ngoài kích động. Có thể con không ở trong một hoàn cảnh bị thúc giục giết người, nhưng xung lực nghiệp quả quay trở về các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con sẽ khuấy động những gì chưa được giải quyết, để con kinh nghiệm nó và được thêm cơ hội xem xét nó trước khi nghiệp quả trở thành vật lý.

Nếu con không sẵn lòng xem xét nó, nghiệp quả sẽ trở thành vật lý, và giờ đây con hứng chịu một hậu quả vật lý mà con không thể phủ nhận. Nhưng trước khi con phải chịu hậu quả vật lý không thể phủ nhận này, con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con. Con chỉ phải chịu hậu quả vật lý nếu con không sử dụng cơ hội. Vậy đâu là trừng phạt chứ? Mọi sự đều là cơ hội. Đây là điều con có thể neo trụ vào và chấp nhận một cách ý thức. Con có thể tự hỏi, con có thể dùng trực giác mà hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”  

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con về hành động. Thày niêm con trong niềm vui của Phật biết rằng thày đã chọn một hành động cao hơn khi trao truyền lời dạy này.

7 | Lời nói cao hơn cần năng lượng cao hơn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 7 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Đề tài tiếp theo mà chúng ta cần bàn đến ở đây là khái niệm lời nói cao hơn. Một lần nữa, nhiều Phật tử đã nhìn vào khái niệm này, lấy cách dịch “Chánh ngữ” và tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Như thày đã có giảng, đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Làm thế nào vươn lên cao hơn?

À, con không thể thấu triệt khái niệm lời nói cao mà không hiểu về năng lượng. Phải công nhận đây là một điều khó giải thích cho con người 2500 năm về trước, nhưng với tiến bộ của khoa học hiện đại, việc này đã dễ dàng hơn. Như đã có đề cập, Albert Einstein đã chứng minh là thực sự thế giới được cấu tạo bằng năng lượng. Có nghĩa gì? Có nghĩa là tất cả mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng. Con không thể cảm xúc, con không thể suy nghĩ, con không thể cầm giữ một ý niệm bản sắc, con không thể nói năng và con không thể hành động mà không sử dụng năng lượng. Thày cũng biết là nhiều người nhận thức được là cơ thể của họ cần đến năng lượng, và họ nghĩ họ lấy năng lượng từ thức ăn, có lẽ từ ánh sáng mặt trời, cũng có thể từ việc hít thở không khí, nhưng đây chỉ là khía cạnh vật lý của năng lượng.

Tất nhiên điều đó không liên quan gì lắm đến lời nói, lời nói cao hơn. Để nắm bắt khái niệm lời nói cao, con cần nhận ra năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có những năng lượng cấu tạo cái con gọi là cõi vật chất, nhưng còn nhiều rung động năng lượng khác nữa. Con biết qua khoa học là người ta có cách đo những rung động năng lượng không thể nào phát hiện bằng giác quan vật lý. Có một dạng năng lượng rung động trong phạm vi cái chúng ta có thể gọi là phổ tần số vật lý, nhưng vượt ngoài phạm vi này là một dạng năng lượng rung động trong phổ tần số cảm xúc, rồi có một dạng năng lượng lý trí, và cuối cùng là năng lượng rung động ở tầng bản sắc, tức là tầng cao nhất trong vũ trụ vật chất. Vượt ngoài những cái đó tất nhiên có cõi tâm linh với những rung động còn cao hơn nữa, vượt khỏi khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Có thể con chưa biết điều này, nhưng có sự giới hạn trong những gì các dụng cụ làm bằng vật chất có thể đo lường. Cũng ví như một kính hiển vi quang học không thể nhìn thấy hạt nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến (wavelength of visible light), và đó là lý do người ta đã chế tạo loại kính hiển vi điện tử để phát hiện những hạt nhỏ hơn. Tương tự như thế, có thể có những dụng cụ khác được chế tạo để đo rung động cao hơn, và một số dụng cụ như vậy đã được sáng chế, tuy nhiên có một giới hạn trong khả năng đo đạc của những dụng cụ làm từ cõi vật chất. Cho nên con sẽ không thể nào tạo ra một dụng cụ có khả năng chứng minh sự hiện hữu của một cõi tâm linh vượt khỏi cõi vật chất. Đơn giản là không thể. Tuy vậy, những năng lượng này có thật.

7.1. Tâm đường thẳng, tâm trực giác và sự khách quan

Bây giờ con có thể nhìn sang những gì các nhà khoa học đã khám phá khi họ đưa ra thuyết Big Bang (vụ Nổ Lớn). Họ bảo là vào thuở Big Bang thật sự không có vật chất theo cách con hiểu vật chất hôm nay, vì mọi thứ đều là năng lượng bị dồn nén trong một điểm cực nhỏ gọi là điểm dị biệt (singularity). Quan niệm này về điểm dị biệt thật ra là do tâm đường thẳng mà có, và chúng ta cần nói lướt qua về vấn đề này. Thày có nói là tâm đường thẳng nhìn vào một hiện tượng xảy ra trong hiện tại, nó nhìn vào sự phức tạp đang có mặt ngay bây giờ, nhưng nó muốn gỡ nhỏ và bảo rằng sự phức tạp đến từ một trạng thái đơn giản hơn chỉ tuân theo một vài định luật tự nhiên giản dị. Cho nên nếu con cứ tiếp tục đi ngược về các trạng thái thấp hơn hay cơ bản hơn, cuối cùng con sẽ lần đến cuối đường dây nơi con tìm thấy nguyên nhân ban đầu.

Theo khoa học, đây là điểm dị biệt có mặt trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay trước Big Bang. Không ai thực sự giải thích được một điểm dị biệt là gì. Không ai thực sự giải thích được làm thế nào toàn bộ năng lượng được tạo ra trong vũ trụ mênh mông bát ngát này có thể dồn nén lại thành một điểm độc nhất. Đây là một thuyết do tâm đường thẳng dựng lên bảo rằng con phải có thể đi ngược trở lại những giai đoạn đơn giản hơn, cơ bản hơn, cho đến khi con chạm được giai đoạn nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên. Cũng giống như bảo rằng ở một thời điểm quá khứ, trong canh súp ban sơ có một tia sét đánh và sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện. Nhưng đây có thật là cách  hiểu duy nhất không? Đối với tâm đường thẳng thì đây là cách hiểu duy nhất, nhưng đối với tâm không đường thẳng thì sao? Ngày nay càng ngày càng có nhiều người ý thức được trực giác. Càng ngày càng có nhiều người nghiệm ra trực giác chỉ đơn giản là một phương pháp khảo sát thế giới nơi mình đang sống, và trực giác cũng có thể sáng giá và chính đáng như tâm phân tích đường thẳng.

Sở dĩ xã hội hiện đại ngày nay phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn chẳng hạn với môi trường, là vì các nhà chủ nghĩa duy vật khi họ chiếm lãnh nền khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ muốn bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy, và chỉ có tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc mới có thể khách quan, đáng tin cậy. Đây là một quyết đoán giả tạo đã gây ra những hậu quả sâu rộng trong xã hội hiện đại cũng như rất nhiều vấn nạn mà con thấy dường như không có giải pháp. Họ không đem lại giải pháp nào với tâm đường thẳng, vì một lần nữa tâm đường thẳng chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh, chỉ có thể nhìn cuộc sống theo cách phân tích tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.   

Ban đầu khoa học đã là một tiến trình khách quan nhằm quan sát những gì có thể được quan sát. Thay vì cho rằng một học thuyết hay một giáo điều có thể mô tả vũ trụ chính xác mặc dù sự quan sát đi ngược lại học thuyết, thì con người đã sẵn lòng nhìn vào những gì thực sự xảy ra. Đây là một nỗ lực nhằm thiết lập một phương thức khách quan để tiếp cận thế giới. Đây là một phương thức chính đáng nhưng vẫn chỉ là một mặt của đồng tiền – đồng tiền những khả năng của tâm. Trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con có trải nghiệm mà thày đã mô tả, khi cái ta, cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, đó là một trải nghiệm khách quan. Việc trải nghiệm trực giác có thể có giá trị y như việc sử dụng lô-gíc và phân tích, nhưng các nhà khoa học lại quyết định chỉ có tâm thuần trí mới đáng tin cậy. Họ đã tìm cách loại bỏ trực giác, tuyên bố là nó chủ quan, trong khi tâm thuần trí thì không chủ quan. Tất nhiên đây là một lời tuyên bố giới hạn, vì con làm gì với cả hai loại tâm đó? Cho dù con dùng lô-gíc và lý luận hay con dùng trực giác thì con vẫn đang có một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Câu hỏi trở thành như sau: Vậy liệu con có sẵn lòng, khi con trở về mức nhận biết bình thường của mình, sử dụng trải nghiệm đó để tra vấn sự nhận biết của mình, tra vấn tâm mình? Hay con sẽ cố diễn giải trải nghiệm xuyên qua mức tâm thức hiện thời của con vì con muốn nó ăn khớp với phin lọc nhận thức, với hộp tư duy mà con đang có? Các nhà khoa học diễn giải các quan sát khoa học nhiều khi không trung lập hay khách quan. Chắc chắn họ không trung lập hay khách quan nếu họ là những nhà chủ nghĩa duy vật tiếp cận khoa học theo ý thức hệ. Họ sẵn có ý về cách họ muốn vũ trụ phải vận hành ra sao, xong họ áp chồng ý này lên quan sát khoa học vì họ nhất định sự quan sát phải ăn khớp với hệ thống tư tưởng của họ.

7.2. Một giải pháp trực nhận cho thuyết Big Bang

Đó là cách họ đã tạo ra thuyết Big Bang. Phải có sự khởi đầu ở đâu đó, và nếu con dùng tâm đường thẳng để đi đến vật nhỏ nhất con có thể tưởng tượng, thì con sẽ đến một cái gì tâm không thể tưởng tượng nhưng tâm có thể dán nhãn và gọi đó là một điểm dị biệt. Có ai biết cái đó là gì không? À, nhưng con hãy thử dùng tâm trực giác và nói: Big Bang – hay đúng hơn, quá trình thị hiện của vũ trụ vật chất – đã không khởi đầu với một điểm dị biệt. Nó đã khởi đầu với một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số nằm ngay bên trên, một độ rung cao hơn vượt quá phổ tần số vật chất. Không cần thiết là toàn bộ năng lượng của vũ trụ hiện hữu bị dồn nén lại trong một điểm độc nhất, bởi vì chuyện này rõ ràng không thể xảy ra. Điều cần thiết duy nhất là có một cửa mở giữa cõi cao hơn và cõi vật chất để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Bây giờ, tất nhiên vẫn còn khái niệm giả tạo là nếu cửa chỉ mở ra ở đúng một điểm, thì sẽ khó lòng tưởng tượng nguyên vũ trụ rộng lớn này có thể khởi đầu ở một điểm độc nhất. Nếu như không phải vậy thì sao? Nếu như thay vào đó có rất nhiều cửa mở thì sao?Thay vì mọi thứ phải chui qua cái lỗ nhỏ độc nhất đó, nếu như có một lượng năng lượng rất lớn được giảm độ rung từ phổ tần số cao hơn xuống phổ tần số của vũ trụ vật chất thì sao? Nói cách khác, một sự thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Nếu vậy thì con không cần đến điểm dị biệt nữa. Bây giờ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ cãi: Chứng minh đi! Và thày sẽ nói: Con hãy dùng trực giác của con thì con sẽ trải nghiệm được sự thật. Làm sao thày diễn tả được đây? Vì tâm con có tiềm năng trở thành một điểm vào, một điểm tiếp nhận năng lượng đến từ cõi cao. Thật ra nếu tâm con không có khả năng này thì con đã không thể có ý thức. Từ ngày chủ nghĩa duy vật lên ngôi, các khoa học gia đã cố loại trừ tâm thức ra khỏi các nghiên cứu khoa học, bảo rằng: “Chúng tôi không cần nghiên cứu tâm thức làm gì vì tâm thức chỉ có thể chủ quan.”

Một nhà khoa học giỏi sẽ biết rõ các dụng cụ mình dùng, sẽ sẵn lòng xem xét những hạn chế của dụng cụ. Các nhà khoa học đã có thể dùng kính hiển vi quang học để quan sát hạt nhỏ nhất họ có thể quan sát nhưng vẫn lớn hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến. Nếu họ có cùng tư duy như những nhà duy vật kia thì họ đã có thể quả quyết: “Không có gì nhỏ hơn hạt nhỏ nhất này. Không thể có gì nhỏ hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy qua kính hiển vi quang học này.” Con cần biết hạn chế của dụng cụ con dùng để con biết liệu con có đang quan sát chính xác hay không. À, đâu là dụng cụ cơ bản mà các nhà khoa học sử dụng? Đó là tâm họ. Không những họ dùng tâm họ để xây dựng lý thuyết hầu chế tạo dụng cụ quan sát, mà họ cũng dùng tâm họ để diễn giải các quan sát đó.

7.3. Sự mở rộng nhận biết dẫn đến kiến thức mới

Bây giờ con có thể trở ngược về 2500 năm trước khi thày hiện thân trên trái đất và con người không có nhận thức về bất cứ chuyện gì vượt ngoài khả năng giác quan của họ. Nhiều người không biết là trong cơ thể họ có những bộ phận, Chắc chắn họ không biết đến tế bào, phân tử, nguyên tử, hạ nguyên tử. Họ có thể quan sát năng lượng như ánh sáng mặt trời, nhưng họ thật không có khái niệm về năng lượng. Họ cũng không có khái niệm về rung động, tần số, bước sóng, biên độ. Ngay cả khái niệm về sóng năng lượng họ cũng không có. Họ có thể nhìn thấy sóng trên mặt nước nhưng họ không quan niệm được sóng năng lượng. Không có cách chi giải thích được cho họ. Kỳ thực, không có cách chi các nhà khoa học có thể xây dựng các thuyết hiện thời dựa trên những gì con người hiểu biết vào thời đó.

Điều gì đã xảy từ thuở đó? Nhân loại đã mở rộng nhận biết của mình, không những dựa trên khám phá mới mà cũng nhờ việc hình thành khái niệm mới. Ngày nay con người có nhiều khái niệm hơn hẳn cách đây 2500 năm, và đây là tại sao con người có thể giải thích những chuyện không thể nào giải thích trước đây. Một điều các nhà khoa học không ý thức là cách họ hình thành khái niệm có tác động đến cách họ nhìn toàn bộ vấn đề. Nó tác động đến các lý thuyết mà họ có thể xây dựng, các dụng cụ mà họ nghĩ họ sẽ chế tạo, các đo đạc mà họ nghĩ họ sẽ đo đạc, cũng như cách họ diễn giải các đo đạc đó.

7.4. Cái gọi là lưỡng tính sóng-hạt

Con cũng biết nếu con đã học môn này là trong khoa vật lý lượng tử có một hiện tượng gọi là lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality). À, hạt là gì chứ? Hạt là một khái niệm đã khởi đầu trong cái tâm sử dụng giác quan để nhìn thế giới, để trải nghiệm thế giới. Mắt con có thể nhìn thấy một quả bóng bi-a, nó có thể nhìn thấy những vật nhỏ hơn rất nhiều xuống đến hạt cát. Cho nên con mang khái niệm về hạt là một hạt khả kiến, rồi khái niệm này được các nhà khoa học dùng tâm đường thẳng nới rộng ra, bảo rằng chắc phải có những hạt càng ngày càng nhỏ hơn cho đến hạt nhỏ nhất có thể. Đây là cái mà người Hy Lạp cổ gọi là nguyên tử, nghĩa là hạt bất khả phân chia. Rồi tới thời điểm các nhà khoa học hiện đại phát hiện cái họ nghĩ là hạt nhỏ nhất không thể phân chia thì họ cũng gọi là nguyên tử. Nhưng sau đó, họ khám phá là nguyên tử thật ra có thể được phân chia và có những hạt nhỏ hơn nữa – thường gọi là hạt hạ nguyên tử với những cái tên khác nhau.

Các thí nghiệm cho thấy là nếu con quan sát hiện tượng hạ nguyên tử này theo một cách nào đó thì nó cư xử như một hạt, nhưng nếu con quan sát theo cách khác, nó sẽ cư xử như một sóng. Cho nên các nhà khoa học nghĩ ra cái tên “lưỡng tính hạt-sóng”, xem như đây là một trong vài bí ẩn còn sót lại trong ngành vật lý hiện đại. Nhưng lưỡng tính hạt-sóng là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô (macroscopic) có thể được phát hiện bằng giác quan, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô (microscopic) không thể phát hiện bằng giác quan. Nếu con lấy thuyết của Einstein, thuyết này nói rằng mọi vật chất đều thực sự là năng lượng và năng lượng là sóng, thì làm gì có chuyện có hạt nào nhỏ nhất. Kỳ thực ở mức hạ nguyên tử, không hề có hạt nào mà con có thể nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy các khái niệm mà con mang trong tâm ảnh hưởng như thế nào đến cách con nhìn thế giới, đến những kết luận mà con rút tỉa, và do đó đến những trải nghiệm mà con có về thế giới.

7.5. Quan niệm một Thượng đế cá nhân

Có rất rất nhiều người cởi mở với một giáo lý tâm linh nghĩ rằng giáo lý tâm linh có thể cho họ sáng ngộ về cách vận hành của thế giới. Hiển nhiên nhiều giáo lý làm công việc này, nhưng nhiều người cũng hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp họ thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Họ tìm kiếm một loại đũa thần được cài đặt trong giáo lý để họ có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý. Ví dụ điển hình là người ta dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế mà họ nghĩ là một ông già ngồi trên ngai trắng vĩ đại, đang nhìn xuống cá nhân họ và đánh giá từng việc họ làm là đúng hay sai theo quy chuẩn tối thượng của ngài.

Nếu con làm theo những gì Thượng đế này bảo là đúng – hay đúng hơn những gì mà một con người, một tu sĩ thuộc nhân gian, một nhà Bà la môn, đã quy định là đúng dưới mắt Thượng đế – thì con sẽ được tưởng thưởng và được lên thiên đàng. Còn nếu con không nghe theo các nhà Bà la môn của tôn giáo con thì con sẽ bị trừng phạt đày xuống địa ngục. Niềm hy vọng ẩn chứa trong thế giới quan này là bằng cách làm những điều được tôn giáo mình quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn.

Tất nhiên đây là một niềm tin có từ cổ xưa và nhiều người đã sống bao nhiêu kiếp sống với niềm tin đó. Nhiều người thời nay từng sống với niềm tin này nhiều kiếp đến độ họ phải từ bỏ nó vì họ nhận ra là nó không hiệu nghiệm – ít ra là không có cách nào khiến cho nó hiệu nghiệm mỗi lần. Họ bước vào đầu thai trong thời đại hôm nay với một lòng ngờ vực sâu sắc đối với các tôn giáo truyền thống dạy về một Thượng đế sẽ toại nguyện mọi ước muốn. Lý do là vì họ trải nghiệm là mặc dù niềm tin này cho họ niềm hy vọng, nhưng rốt cuộc đây là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng (disempowering). Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng nỗ lực ảnh hưởng ngài làm theo ý muốn của họ, thì họ sẽ chẳng làm gì được. Họ bị kẹt cứng, theo nghĩa đen. Họ bị tước mất quyền năng.

7.6. Một giáo lý tâm linh trao quyền năng

Lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng (empowering) cho con. Thế nào là trao quyền năng? Là con nhận ra sự kiện thày vừa nhắc đến lúc nãy. Tâm con có ý thức là do có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con – mà chúng ta không cần đào sâu ở đây – nhưng trước tiên nó đi vào tâm bản sắc của con. Ở đây năng lượng được phú cho đặc tính, hay nó khoác lấy hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc. Điều này khiến cho năng lượng mang đặc tính, cho nên nó khoác vào một hình tướng nào đó. Con có thể so sánh với một chiếc kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu khác nhau, và khi ánh sáng đi qua lớp hạt màu đầu tiên, nó khoác vào màu sắc đó, rồi cứ vậy nó đi qua các lớp màu tiếp theo.

Trước hết con có tâm bản sắc và ở đây con có ý niệm của con về con người mà con là cùng những gì con có thể làm. Nếu con cảm nhận mình là một sinh thể thụ động không có quyền năng thì đây là đặc tính mà năng lượng sẽ khoác vào khi nó đi vào tâm bản sắc của con. Rồi năng lượng đi qua tâm lý trí nơi con có thể có một số tin tưởng khác gây giới hạn – giới hạn những gì con có thể làm hay không thể làm – và bây giờ năng lượng khoác vào những đặc tính này. Cuối cùng nó đi vào tâm cảm xúc nơi con có thể có một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ gì khác, và một lần nữa điều này lại phú thêm đặc tính cho năng lượng. Thế rồi năng lượng đi vào tâm ý thức của con, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Con làm gì với tất cả năng lượng này? À, con dùng nó để suy nghĩ, để bày tỏ cảm xúc, con dùng nó để thốt ra lời nói, và con dùng nó để hành động, những hành động vật lý. Đây không phải là tất cả những gì con làm. Tâm con kỳ thực là một máy chiếu tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

7.7. Tấm gương vũ trụ

Con có thể – và một số các con đã nghe các thày đề cập trước đây – con có thể so sánh vũ trụ vật chất với một tấm gương. Những gì con phóng chiếu ra ngoài bằng tâm con sẽ được tấm gương phản chiếu lại. Có nghĩa gì? À, đây thực sự là ý nghĩa sâu sắc hơn của lời dạy mà thày đã trao truyền 2500 năm trước về lý duyên khởi.

Tất cả mọi thứ trong thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu được cấu tạo bằng bốn tầng này: tầng vật lý, tầng cảm xúc, tầng lý trí và tầng bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu. Tuy nhiên, vũ trụ vật lý có sự nối kết với tâm con người. Con người là những sinh thể đồng sáng tạo. Có một số sinh thể tự nhận biết đã tạo ra hành tinh địa cầu từ bên ngoài, nhưng con người là những sinh thể đồng sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con làm việc này xuyên qua tâm con bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, phóng chiếu chúng vào năng lượng cấu tạo bốn tầng. Đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi đã không thể được giải thích 2500 năm về trước, nhưng có thể được giải thích ngày hôm nay ở một mức dễ nắm bắt hơn nhờ hiểu biết hiện thời về năng lượng.

Con thấy đó, con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực – chúng ta có thể tranh luận nó thực đến chừng nào, nhưng ngay bây giờ thì không phải là chuyện thích đáng nhất. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Nói cách khác như thày đã giảng về Big Bang, thay vì toàn bộ năng lượng cấu tạo vũ trụ hiện thời bị dồn ép vào một điểm dị biệt, đã có một thời điểm khi vũ trụ không thị hiện vì không có năng lượng nào trong phổ rung động vật lý. Tất cả năng lượng đều nằm ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rồi tới một điểm đã có một sự phóng chiếu đưa năng lượng vào phổ vật lý. Việc này không xảy ra ở một điểm độc nhất mà ở nhiều điểm, và những điểm này quy định một khoảng không gian là không gian nguyên thủy.

Năng lượng đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó bắt đầu kết tụ thành các hạt vật lý, xong các hạt này ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành như con thấy được ngày hôm nay – hay đúng hơn, còn nhiều thiên hà hơn nữa mà con chưa thấy được ngày hôm nay do vũ trụ quá vĩ đại. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng về cơ bản, nó cũng xảy ra theo cùng một cách như con đồng sáng tạo, nghĩa là năng lượng được phép chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

7.8. Một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau

Vậy ở đây con có một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Có bốn tầng trong cái chúng ta có thể gọi là vũ trụ vật chất, nhưng ở trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt hiện hữu trong trường năng lượng rộng lớn hơn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, lý trí, bản sắc. Xa hơn, tất cả những tâm con người cá biệt này đều nối kết, hình thành cái chúng ta có thể gọi là tâm tập thể. Khoa học thậm chí đã khám phá là khi một số biến cố xảy ra, có một sự mạch lạc gắn kết trong tâm tập thể, và điều này ảnh hưởng đến các bộ sinh số ngẫu nhiên (random number generator). Thày không đang cố chứng minh một điều gì cho tâm đường thẳng mà chỉ muốn khích động trải nghiệm trực nhận của con.

Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi. Tại sao nó lại trao quyền năng cho con, ngược lại với tước quyền năng? Bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu. Phải, hoàn toàn đúng là các tình huống vật lý của con không chỉ là sản phẩm của sự phóng chiếu từ riêng tâm con. Chúng cũng là sản phẩm do tác động liên kết của tâm tập thể và tất nhiên cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Đây không phải là một niềm tin thần diệu vào một Thượng đề toại nguyện mọi ước muốn, có uy lực gạt qua bên quyền tự quyết của tám tỷ con người hầu ban cho con đúng những hoàn cảnh mà con muốn, vì như vậy là tước quyền năng. Nhưng nếu như Thượng đế không làm vậy thì sao, vì trong hầu hết trường hợp ngài sẽ không làm vậy? Với hiểu biết này, con có thể nhìn theo cách trao quyền năng và nói: “Có thể tôi không thể thay đổi từng khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống vật lý tôi không thể thay đổi theo cách này, nhưng chắc chắn tôi có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, thay đổi cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực, tôi có thể đạt tới điểm tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Đây là trao quyền năng. Và mặc dù thày đã không thể giải thích điều này cách đây 2500 năm, đó vẫn là điều thày đã cố giải thích. Chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của mình.

7.9. Lời nói và năng lượng

Vậy tất cả những điều vừa rồi liên quan thế nào với lời nói và lời nói cao hơn? Ấy, lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Tuy nhiên, ngay cả khi con im lặng trong tâm bản sắc, lý trí và cảm xúc, thì con vẫn đang phóng chiếu, nhưng những phóng chiếu này không có tác động trực tiếp ở tầng vật lý như khi con hành động vật lý hay khi con phát biểu. Nói cách khác, khi con tạo ra một tác động có thể được quan sát bởi giác quan vật lý, điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hơn ở tầng vật lý so với khi con phóng chiếu từ một trong ba tầng cao.

Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng có thể được dùng để phú đặc tính cho năng lượng, và con sẽ không bao giờ hiểu được khái niệm Chánh ngữ – hay như thày chọn diễn tả ở đây: lời nói cao – nếu con không hiểu là giọng nói của con chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng. Năng lượng này sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Có thể con đã ý thức điều này vì con đã quan sát là nhiều lần con có thể có những cảm xúc mãnh liệt, thì con cảm được trong trường năng lượng của con có một sự xáo trộn. Có thể con không ý thức lắm về trường năng lượng của mình, nhưng con có thể cảm thấy có gì đó đang xảy ra. Nếu con rất tức giận, nó gần như có thể biến thành một hiệu ứng tự tăng cường, một vòng xoáy hướng hạ. Một khi con băng qua một lằn ranh nào đó, con mất hết tự chủ. Thường thường con biểu lộ nỗi giận qua giọng nói của mình và nó cuốn hút con vào một cơn lốc, một vòng xoáy đi xuống có thể rất khó lòng nào thoát khỏi. Có thể con đã quan sát sự giận dữ nơi người khác hay con đã trải nghiệm nơi chính con. Tất nhiên còn có nhiều loại cơn lốc hay vòng xoáy khác có thể khống chế con, và đây chỉ là một ví dụ về cách con sử dụng năng lượng. Con khiến cho năng lượng mang một sắc thái nào đó và nó tác động trực tiếp đến trạng thái tâm con.

Để biểu hiện lời nói cao hơn, con cần ý thức làm thế nào giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính và phóng chiếu năng lượng. Con cần không làm vậy một cách đường thẳng, lý luận. Luôn luôn có cám dỗ muốn xử lý một cách đường thẳng, và đây là một chuyện khả dĩ. Hiện nay người ta đã có những dụng cụ có thể đo đạc giọng nói con người cùng sự rung động trong giọng nói con người. Con có thể dùng dụng cụ này nếu muốn, hầu lập ra một thang điểm đường thẳng, rõ ràng, có thể phát hiện những loại rung động khác nhau do giọng nói tạo ra. Một số người đã thử nghiệm điều này, chẳng hạn con thấy những nhà khoa học thí nghiệm ảnh hưởng của âm thanh trên đống cát đặt trên một tấm kính hay những loại dụng cụ tương tự. Điểm đáng nói là thay vì giàn dựng việc này theo kiểu phân tích, điều sẽ thực sự hữu ích cho con là con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong chính trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.    

7.10. Âm thanh ảnh hưởng trường năng lượng của con như thế nào

Con cũng biết là nếu ai đó nổi giận la hét với con, điều này tác động đến con. Lý do là vì họ đang phóng chiếu năng lượng mang một rung động đặc thù nào đó vào cảm thể của con. Mọi năng lượng đều có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Nếu con có một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc và nếu người kia tức giận với con, nó sẽ khuấy động các khuôn nếp này. Chẳng hạn chính con cũng có thể nổi giận theo. Hoặc con có thể xấu hổ hay buồn phiền vì cảm thấy mình có lỗi khi người kia la hét buộc tội mình.

Điều này con có thể sử dụng. Con đã có khả năng này rồi nhưng con có thể tinh luyện và phát triển thêm nữa để con cảm rõ là có những loại lời nói phú cho năng lượng một đặc tính rung động thấp. Về cơ bản có hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con có thể học cách cảm nhận được điều này. Thật đơn giản, con trụ vào tim ngay trung tâm lồng ngực và con tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi chăng? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?” Con sẽ có thể cảm được là nếu có ai la mắng con thì năng lượng của con bị kéo thấp xuống, Và nếu có ai nói chuyện với con một cách tích cực, thương yêu, thì năng lượng của con được nâng lên.

Đây là những tiêu chí mà hầu hết người tâm linh đều có thể phát triển khá nhanh chóng. Tất nhiên một số đã làm vậy rồi. Con có thể lượng định mình sử dụng lời nói như thế nào và người khác sử dụng lời nói như thế nào. Điều này sẽ cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Bởi vì dù con có gửi ra những gì, và cho dù con nghĩ con chỉ hướng nó về đúng một người và trong phòng này không có ai khác và không ai khác có thể nghe thấy con, thì bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ trở về với con.   

7.11. Nghiệp thật ra là xung lực năng lượng

Đó là một cách để giải thích quan niệm cổ xưa về nghiệp (karma). Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm của con để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi vào thể lý trí, vào thể cảm xúc, vào thể vật lý rồi được phóng ra ngoài. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc. Ở đây, nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi cái thày đã gọi là tấm gương vũ trụ, và như vậy nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi thể lý trí, rồi thể cảm xúc, rồi thể vật lý. Đây là điều các tôn giáo và triết lý phương Đông gọi là nghiệp. Giản dị đó chỉ là sự phản hồi về chính con của năng lượng mà con đã gửi ra.

Bây giờ nếu như con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương thì chuyện gì xảy ra? À, cùng điều đó lại xảy ra. Nó lại đi xuyên qua bốn thể trong tâm con, đi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó lên đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu trở về con. Kỳ thực nó sẽ vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con. Giờ đây con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn với rung động cao từ cái ta cao của con, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con. Nói cách khác, khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao đó, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn. “Người nào đã có, sẽ nhận được nhiều hơn.” Đây là ý tưởng về các ta-lăng được nhân lên gấp bội mà Giê-su đã mô tả trong một truyện ngụ ngôn.

Vậy chúng ta cũng có thể hỏi: “Tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ? Tại sao lại có Biển Luân hồi?” Đấy, bởi vì trái đất là một hệ thống năng lượng, nhưng hiện nay phần lớn năng lượng trong hệ thống này bị tha hóa bởi một rung động thấp kém dựa trên sợ hãi. Có quá nhiều năng lượng sợ hãi trong hệ thống năng lượng và tâm thức tập thể, đến độ nó thường khiến cho tâm con người bị quá tải và con người bị đau khổ, cảm thấy buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận và đủ mọi thứ khác. Tất cả những cảm xúc thấp này liên quan đến sự kiện năng lượng trong tâm thức tập thể làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người. Phương thức để thoát khỏi sự thể này là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Con thấy đó, thày có giảng là nếu con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó sẽ được gửi trả về cho con, nhưng tác dụng sẽ ra sao trên trường năng lượng của con? Tác dụng là sẽ có sự phản ứng lại, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp vốn có trong năng trường của con. Con trở nên căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Nếu con loại bỏ năng lượng vốn có trong năng trường của con và cũng loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đã khiến con tha hóa năng lượng với lòng sợ hãi, thì sẽ chẳng có gì để năng lượng tương tác với. Xong nếu con đổ đầy năng trường của con với rung động cao, thì khi rung động thấp quay trở lại, chúng sẽ được các rung động cao này biến hóa. Một lần nữa, đây lại là một điểm khó giải thích vào thời của Phật nhưng dễ giải thích ngày hôm nay qua các nguyên tắc động học sóng đơn giản.     

Nếu con hướng một sóng năng lượng với một độ rung nào đó vào một sóng năng lượng khác, sẽ có một mô thức giao thoa giữa hai sóng với kết quả là một sóng thứ ba phối hợp cả hai. Nói cách khác, con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên nhưng thấp hơn sóng thứ nhì. Kết quả chung cuộc là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Con thử nghĩ nếu con đã mang một khuôn nếp trong mấy kiếp sống và đã tha hóa năng lượng với lòng giận dữ, và năng lượng này có phần được phóng ra ngoài, có phần tích tụ lại trong trường năng lượng của con, thì con có thể thấy khuôn nếp đó không chỉ là một niềm tin – tin rằng con cần đáp trả bằng sự tức giận hay đây là cách đáp trả duy nhất. Một phần của khuôn nếp chính là năng lượng tác động lên cảm xúc của con, và con càng nhiều năng lượng giận dữ trong cảm thể thì con sẽ càng có xu hướng đáp trả, phản ứng lại bằng sự giận dữ trong đủ loại tình huống khác nhau. Nếu con bỏ được năng lượng này đi, con sẽ dễ nhìn ra khuôn nếp phản ứng hơn, nhìn ra tin tưởng đằng sau khuôn nếp và buông bỏ nó, hầu con được tự do và con vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một cấp độ cao hơn trên đường tu.       

7.12. Dùng lời nói để chuyển hóa năng lượng

Tại sao thày lại nói tất cả những điều này khi chủ đề là lời nói? À theo truyền thống, các giáo lý đạo Phật hay các phong trào Phật giáo đã dùng nhiều dụng cụ tâm linh khác nhau để nâng cao tâm thức. Người ta đã dùng thiền quán im lặng, nhưng nhiều người cũng đã dùng pháp tụng niệm, đọc Om, đọc các câu chú hay một số âm tiết, và các pháp này cũng đã được sử dụng trong các truyền thống tâm linh hay nền văn hóa khác. Lý do làm vậy là vì con người từ thuở xưa đã biết sâu trong trực giác là việc sử dụng giọng nói của mình là một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy họ chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực kéo trên tâm họ.

Bây giờ con thấy được là có hai khía cạnh khi con mang những dính mắc mà thày đã nói đến khoảng 2500 năm về trước. Một, con có một tin tưởng là một ảo tưởng, và hai, con có một số năng lượng đã được phú cho một đặc tính xuyên qua tin tưởng đó, và năng lượng này lôi kéo tâm ý thức của con. Nếu con đã tích lũy nhiều năng lượng giận dữ, thật không cần nhiều lắm để kích hoạt phản ứng giận dữ của con trong một số tình huống nhất định. Con có thể nhìn thấy những người với thời gian càng ngày càng có xu hướng phản ứng giận dữ, và lý do đơn giản là vì họ càng ngày càng tích tụ nhiều năng lượng giận dữ hơn trong cảm thể của họ, và nó áp đảo tâm ý thức của họ.

Khi con ý thức được điều này, và bằng cách sử dụng những loại dụng cụ thích hợp để thỉnh năng lượng có tần số cao, con có thể tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Tất nhiên con có thể dùng các pháp tụng niệm truyền thống trong đạo Phật, nhưng cũng có những phiên bản hiện đại hơn, có khi gọi là bài chú hay bài thỉnh mà con có thể dùng trong mục đích này. Điều con nhận ra ở đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói, lời nói cao hơn, là con học cách dùng giọng nói của mình, quyền năng của giọng nói, để thỉnh và hướng năng lượng hầu năng lượng dựa trên sợ hãi được biến hóa trở lại thành năng lượng dựa trên tình thương. Khi làm vậy, con giải phóng tâm con để nhìn vào các khuôn nếp và bước lên một tầng cao hơn trên đường tu. Đây là điểm then chốt con cần ngộ ra liên quan đến lời nói.

Nhiều người trong các con đã sẵn cảm thấy là khi mình nói chuyện giận dữ hay bài bác thì năng lượng của mình bị kéo thấp xuống. Khi con nói chuyện tử tế yêu thương, năng lượng của con được nâng lên. Một lần nữa, với thời gian, nhiều Phật tử cũng như nhiều người tâm linh khác đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là trong tư cách người tâm linh, họ phải luôn luôn nói chuyện theo một cách nào đó. Họ phải tránh nói năng giận dữ, họ phải tránh nói to, họ phải luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ tử tế, và họ cho rằng như vậy là đủ, nhưng họ đang làm gì chứ? Họ đang dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Thày vừa cho con điều gì ở đây? Một giải pháp khác. Con không dùng sức mạnh để kềm chế xu hướng nói năng giận dữ, mà con dùng giọng nói của mình để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Con có thể cho rằng bằng cách kềm chế mọi phát biểu thiếu hài hòa thì con đã chứng tỏ một sự tiến bộ vượt bực trên đường tu tâm linh, nhưng thày thà thấy con loại bỏ chỉ một khuôn nếp còn hơn là con kềm chế cả trăm khuôn nếp. Ít ra một khuôn nếp này sẽ đưa con lên một bước cao hơn, trong khi việc kềm chế sẽ chỉ khiến con cảm thấy mình không cần bước lên bước nào vì con đã là một đệ tử tâm linh cao cấp quá rồi. Một lần nữa, con có khả năng bước lên cao hơn và nhìn mọi chuyện như một cơ hội. Nhiều người tâm linh đã chấp nhận chuẩn mực quy định mình phải nói năng nhỏ nhẹ, không bao giờ được mất hài hòa, không bao giờ được to tiếng, không bao giờ được cáu kỉnh, và nếu làm vậy thì mình cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận, mình phải tự khiển trách hay khiển trách người khác.

Thực sự tại sao một vị thày tâm linh lại muốn quan tâm đến cách cư xử như vậy? Đúng, nếu đấy là một khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại thì nó thật không xây dựng, nhưng thày vừa nói gì chứ? Con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra trong đời con như một cơ hội để nhìn ra một điều gì đó trong tâm thức của con và khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây chính là phương thức xây dựng. Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao về chủ đề này. Cho nên thày sẽ niêm con trong lời nói vui mừng của Phật.

1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng xem những gì trao truyền có thể giúp được những ai có tinh thần cởi mở đồng thời giúp cho cả hành tinh này nói chung. Hiển nhiên, nhờ có kết nối internet và cùng đọc các bài chú, bài thỉnh nên các con cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Giờ đây thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lùi lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” vậy thì đây là một cách khả dĩ để trả lời những câu hỏi này.

1.1. Cảm giác khi đầu thai 

Con có biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên sau đó người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào cái mũ bảo hiểm. Hãy hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn quá xa vì còn tuỳ thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần những đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất, còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì mà con muốn gọi, bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức đại chúng. Con đã được nuôi dạy để xác định mình theo một cách nào đấy.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như quy định về con người mình, những chọn lựa, những tuỳ chọn của con là gì.

Nhờ trí thể con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận chắc phải có cái gì đấy nằm ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà mọi người không thể đi đến thống nhất. Đây là điều diễn ra rất nhiều trong trí thể, nhưng dĩ nhiên mọi thứ bắt đầu ở bản sắc thể vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào rất nhiều các bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con khoác vào tất nhiên là thể tình cảm là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tuỳ vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào những khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người lại cảm thấy có quyền nổi giận, có người lại cảm thấy phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy việc một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này quả thật rất bị gò ép. Con hiện thân bằng cách khoác vào bốn thể này. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hoá nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ các kiếp sống trước và giờ đây con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân thể mới mỗi lần hiện thân, nhưng một số khuôn nếp từ quá khứ sẽ quyết định cơ thể vật lý kiếp này của con, quyết định sự vận hành và ngay cả xu hướng bệnh tật của nó.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực rất lớn.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con đang sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được gọi là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn đó là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một kiểu ham muốn đặc thù gây khổ đau và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức độ hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã hiểu giáo pháp của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói họ đã hiểu sai, nhưng điều con cần thấy đó là không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, thì con người có xu hướng xác định cái đúng đối lập với cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực nhưng chúng không phải chỉ đối lập như trắng và đen. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực còn lại sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên suốt mọi thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã nỗ lực quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm đây cũng chỉ là một mức hiểu biết nông cạn.

Người ta cũng có thể nói đây không phải là lời Phật dạy. Đây không phải là điều Phật đã nói 2500 năm trước vì Phật đã trao truyền những giáo lý về “các cặp” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng và sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Quả thật chính trạng thái tâm thức nhị nguyên này là nguyên nhân của khổ đau. Giờ đây thày nói rằng con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực này, nhưng đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị ảnh hưởng rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Dĩ nhiên nhiều người trên thế giới ngày nay sẽ không thể nắm bắt được điều đó. Họ sẽ không thể hiểu thấu nhị nguyên. Đây cũng là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Con hãy quay lại hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, các thày muốn nói con người trên trái đất cũng đang mặc bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Những thành phần này nằm trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó hiện đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Khả năng có thể nhìn xa thế nào tuỳ vào độ trong của nước nơi họ sống. Nhưng là những vị thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hoà mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch còn ở tít dưới đáy biển và không có khả năng nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người đang trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những điều các con đang trải nghiệm. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố gắng nói trước tiên là các con nên mong muốn đạt được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng muốn nói, mặc dù không thể đạt được một tầm nhìn toàn vẹn như các thày đang không hiện thân, nhưng các con có khả năng tối thiểu đạt được một tầm nhìn rộng lớn hơn khi vẫn đang đầu thai. 

Nhưng có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người hiểu được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý Phật giáo và nhiều giáo lý tâm linh của các tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng mọi người không thể nâng tâm thức lên để đạt được tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự đi từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, và rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, đó là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải (và họ không thể làm được gì khác) tiếp cận triết lý này ở tầng mức nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Các thày cũng có thể nói vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, giáo lý này phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ lặn này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế, một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể tới được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tuỳ thuộc những gì có trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh tới được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, tầng mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để con đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên trên giáo lý những gì họ có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một kết quả tiêu biểu của việc này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người khác. Họ sẽ thường nắm lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào để tạo dựng một lớp phủ lên giáo lý, khiến những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, tuân thủ những quy tắc, công phu tu tập, đều cảm thấy mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác đều có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một thí dụ cho thấy khi con không nắm bắt được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của chính mình ở tầng tiềm thức lên giáo lý này. Về bản chất, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của mình.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần có một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm nhưng cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp nơi trên thế giới không hề biết có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là: Họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Họ có nói: “Ô, chắc phải có cái gì ở cuối sợi dây và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy cái gì đấy ở cuối sợi dây không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo sợi dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tới tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người mình, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, cảm thấy thế nào, nên suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ khó nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là hoàn cảnh trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình lý luận rằng nếu họ xác định được những mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng việc làm này sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay các giáo lý tâm linh khác đã chứng minh điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy cái mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy cái vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác nhau giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ (và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ), con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít nhất hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình đi dần từng bước có hệ thống giúp mọi người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về điều này và thày sẽ trở lại đề tài này sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo đó là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia. 

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan nào đó, sự khác nhau giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là tầng cấp nhận biết. Rồi con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có khả năng hay không có khả năng làm. Họ thường cảm thấy hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều điều.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy buộc phải đương đầu với những ý tưởng nào đó. Và tất nhiên, nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con là một thành phần của nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Các thày có thể nói là nhiều người cảm thấy những áp lực này. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Mọi người có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, cho dù áp lực đó là gì tùy theo nơi họ lớn lên.

Con có một số mong muốn như thoát khỏi những giới hạn, giảm bớt các áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định và đều đặn nên họ không phải lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn. Nhưng như vậy họ có thoát khỏi áp lực không? Họ thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi các áp lực khác.

Nhìn chung con thấy con có thể tự do khỏi một số áp lực nào đó của cuộc sống nhưng vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực nhưng áp lực này ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Con có thể nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc thì có một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm lính là sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa con người ở mọi thời đại đã không nắm bắt được điều này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một hình thức nào đó trong khuôn khổ một thời đại và một nền văn hóa khi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Điều này có nghĩa là gì?

Ấy, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Giờ đây con tìm thấy một giáo lý tâm linh và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm tự do và sự hỷ lạc nhiều hơn vì các thày không cảm thấy áp lực này. Các thày thấy các con đang chịu áp lực, nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến mức họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì thúc đẩy những người đang chịu một áp lực rất lớn? Ấy, đó là họ muốn tự do thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời cũng không thật. Vì nếu con nhìn vào một giáo lý tâm linh và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Đó là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày vừa nói gì? Bất kỳ một xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Chúng ta không thể chối bỏ điều này. Thày không hề cố nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Những điều này tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Sử dụng một giáo lý tâm linh như thế nào 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và lúc này con nói: “Đây là giáo lý đã hứa là tôi có thể tìm thấy tâm an bình hay giác ngộ hay niết bàn”. Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng việc tìm ra một giáo lý tâm linh đặc thù rồi quyết định theo học giáo lý thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con? À tất nhiên là không phải vậy. Vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng liên quan đến tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài này? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi đâu đó trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ áp lực nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi việc đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Do đó, bằng việc thay đổi tâm thức mình, hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chính của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào tâm ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này không?” Và nếu con trả lời là không thì con hãy buông bỏ chúng.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Một mong muốn mang tính xây dựng và không mang tính xây dựng là gì? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này chống lại sự tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Khi có chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học nằm ngoài tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất, tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn điều gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Như vậy, thày đã nói gì? Trải nghiệm áp lực của con được quyết định bởi những gì có trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những thành phần này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với những thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất kỳ điều gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể thực hiện được, không bao giờ có thể thực hiện được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con thực hiện được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một viễn quan nào đó, các thày có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con cần trong lọc các mong muốn để không chờ đợi những kiểu đường tắt giúp thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực nhưng lại không chịu nhìn vào chính mình và tâm mình. Hãy nhìn những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn vào một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Giờ đây điều gì ngăn mọi người nắm bắt điều này hay hiểu ý nghĩa về mong muốn trong Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ đế? Ấy, đấy là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế gọi là sự dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại nhận ra. Các thày có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn điều này từ một viễn quan nào đó, thì con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau điều này là gì? À, điều đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương đầu nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, trước áp lực trên hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Vì họ cũng có khả năng gạt bỏ phần nào áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến vài thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Nhờ những phin lọc này mà con có thể ngăn chặn, có thể kìm nén những cảm xúc, kìm nén những tư tưởng, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con và nhờ vậy con không bị quá tải nên con mới có thể sinh hoạt được.

Điều thày có thể nói là đại đa số mọi người đã tạo dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ có đời sống sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng này khiến người ta trở nên quá tải, quá sức. Chính cơ cấu nhằm duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào những khuôn nếp cảm xúc nào đó vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với những khuôn nếp ngăn họ không nghi ngờ tôn giáo của mình. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền giáo lý này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một giáo lý sâu sắc hơn. Về căn bản, các thày có thể nói để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều dựng lên những thành luỹ bảo vệ mình khỏi những áp lực quá sức. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt khỏi mức nhận biết hiện thời của mình. Các thày có thể nói bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng. Nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển, vì thế đây là một trong những tương phản, những tình thế khó xử, những bí ẩn về đường tu. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần nhìn vào chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt một chút. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, muốn vơi đi những áp lực. Những mong muốn này không giải thoát con khỏi áp lực nếu con mong muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, vậy nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con nhìn vào những cơ cấu một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị áp lực làm choáng ngợp, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn nếu con không nhìn vào điều gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông giúp thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống giúp thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của các triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được điều này thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của mình, và trong quan hệ với mọi người họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao hơn, hiểu biết trí năng về giáo lý. Họ cũng đã miên mật thực hành nhiều năm đến mức cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong những tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ chì lặn khỏi thắt lưng và thả chúng xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tu tuần tự.

Các thày cũng có thể nói con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào cái thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng nếu con không vứt cái chì lặn đó thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà không bước lên được. Đây thật sự là cách tăng triển – nhìn vào chính mình, nhìn vào những khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày đã nói gì? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người không chỉ trong đạo Phật mà trong cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo những phong trào này từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi di chuyển. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đấy. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Con có thể nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan đi. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do tại sao con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta cách ly và cô lập mình khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong các cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con đến những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ những người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật dễ hiểu. Thày giản dị đang chỉ ra rằng nếu trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đấy con chưa giải quyết và điều này xuất phát từ cơ cấu thày đã mô tả. Con có điều gì đấy đang đè nén mà con chưa giải quyết vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự hiểu con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và những con đường tâm linh khác được thiết lập như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút và đây chính là điều quan trọng mà rất rất nhiều người không nắm bắt được.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy rất nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra những ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và buông bỏ chúng, cho tiêu tan các khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng cấp thấp nhất của tâm con. Trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ những khuôn nếp tư tưởng nào đấy trong trí thể và thậm chí đến từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải hay không được xảy ra bên ngoài kia. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng, trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm và trong vài trường hợp cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong các trường hợp khác, cơn giận chỉ làm tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực và sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra, con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, sau đó đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống như thế nào. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể thật sự nhận ra Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống những khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày từng nói về những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và mọi chuyện trong vòng kiểm soát của họ. Nhưng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được những khuôn mẫu nào đó, những quy luật thiên nhiên nào đó, những nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh.

Kết quả là con thấy có rất nhiều người đã tạo ra một ý tưởng về việc thế giới phải vận hành thế nào rồi dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu ý tưởng này lên vũ trụ. Và họ nghĩ mình có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản rồi cảm thấy họ kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể là một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì? Đó là nó giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về điều này. Tôi không cần suy nghĩ về bất kỳ điều gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Điều này không cần thiết vì tất cả đều sai, chúng không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ chúng mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và có những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa các tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt tầng tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử trải qua nhiều thời đại và ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình thì tôi được đảm bảo sẽ giác ngộ hoặc nhập niết bàn. Vì đức Phật là một vị đạo sư tâm linh chân chính và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày đã giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của mình, nghĩ ra một ý tưởng mình nên tu tập Bát chánh đạo ra sao, rồi tu bằng tâm thức hiện thời của mình và điều này đảm bảo mình sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của mình. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng việc ở yên tại mức tâm thức này. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con tiếp tục đè nén tất cả những nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, và vì vậy con không thể leo tiếp một nấc thang nữa. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt những tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây. Con hiện đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách gì làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố những khuôn nếp. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt nhưng tất nhiên điều này chỉ làm họ mắc kẹt trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống khiến họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không leo thêm một nấc thang nào nữa.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã đạt tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn khi hiểu những điều thày đã giảng ở đây – đó là quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và con luôn cần bị xao động. Như thày đã nói, một số sẽ nhận ra khi lần đầu tìm thấy giáo lý và nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, cùng với giáo lý này, cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây, mọi thứ sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có khả năng đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Giờ đây nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhận ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người khác lại tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh, rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ suy luận: “Đây rồi”. Hoặc họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Giờ đây con có thể nói: “Nhưng khi tôi lần đầu tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đấy, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Trên hết, con có thể nói vấn đề không phải là khi thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là những điều các thày dạy ngày nay. Nhưng đây không phải lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với những áp lực bên ngoài. Một phần lý do là nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được cảm giác yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Giờ đây con thấy rất nhiều người ở khắp các thời kỳ lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các tu viện để kiểm soát chặt chẽ môi trường bên ngoài. Họ được bảo vệ khỏi những hành động bạo lực xảy ra ở bên ngoài và vì vậy họ sống trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ nơi cảm nhận cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả cuộc đời trong những môi trường như vậy và quả thật đã không tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng bằng sự đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được sự an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày đã mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào. Nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén một ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con kiểm soát cảm xúc, con cảm thấy trí năng mình vượt trội, và từ đó chủ yếu cảm thấy mình cao trội hơn những ai không theo giáo lý của mình.

Còn cách tiếp cận kia là con cố đạt được một sự giải quyết. Sự khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ điều gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa đối với trạng thái cân bằng và do đó cần phải đè nó xuống. Con cần tìm cách loại bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện đó là đè nén bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng này.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn sàng bị xáo trộn. Và con có thể quả thật xoay chuyển khi nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi với trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, không cho tôi bám lấy sợi dây, leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường tu nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con nói: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì chối bỏ cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào nó. Tôi đang thật sự cảm thấy gì? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận biết tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào khiến tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Tôi quả là không thể nắm bắt được các giáo lý tâm linh tôi đang theo học vì những khuôn nếp lý trí của tôi. Các giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với điều con làm. Cảm xúc đầu tiên là con nổi giận với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, thoạt tiên con cảm nhận một sự bất lực không thay đổi được phản ứng của người kia đối với con, thay đổi cách người kia nhìn con. Nhưng con cũng cảm thấy con phải thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hoà đồng với mọi người. Con không muốn người kia giận con và con không biết làm cách nào khác, ít nhất thể cảm xúc của con không biết làm thế nào khác hơn là thay đổi cảm xúc của người kia để con không phải cảm thấy mình đã quấy rầy họ. Sau đó, con lên đến cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình hiểu quyền tự quyết, con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến họ nổi giận, không khiến họ kết tội con. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép biểu đạt mình, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút mình khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức tới người khác để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng với nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu nhìn vào những khuôn nếp này và dần dần qua thời gian (và có thể cần một thời gian rất dài) làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con quả thật có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con thật sự có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi điều gì đấy từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả những gì mà họ có thể là như một con người. Đây là tính cách mà họ cần là. Khi điều bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tu tâm linh? Con đang dần nâng nhận biết lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn mọi người chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận lúc bắt đầu truyền đạo. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng đạo. Nhưng ở một mức độ nào đấy, tất cả các vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Vài vị thày đã tìm được cách rút lui, như thày cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế gian và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là ra ngoài thế gian và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn vào toàn bộ sứ vụ trong ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có một cái gì hơn là con người con đang là bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta muốn trả tự do cho một tên sát nhân hơn là cho kẻ khuấy động họ vì họ có thể đương đầu với tên sát nhân. Đây là lẽ thường. Có những người giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thường thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động vì vậy chúng tôi sẽ giết ai khuấy động chúng tôi.”

Con thấy phần lớn những người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện? Đó là việc có một số người cần biểu lộ là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm điều này bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con khởi sự đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này để khi người khác phản ứng lại, con không cảm thấy xao động.

Thày biết rõ đây là một bài giảng dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể ban ra những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo và cách thức giúp con có thể tiến tới cảm nhận thật sự về an bình nội tại không dựa trên đè nén và chối bỏ, nhưng dựa trên việc giải trừ các ngã và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Tới đây, thày cám ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó đi tới những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama hay sẽ không bao giờ chấp nhận các ý này, nhưng ý tưởng này vẫn sẽ có một ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên thấy điều họ chưa từng thấy trước đây và từ đó sẽ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa con nhận thấy mục tiêu của các thày là nâng cao sự nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh có giá trị, các thày mong muốn họ đạt được những tầng cấp ngày càng cao hơn trong việc nắm bắt giáo lý này. Điều này có nghĩa là, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm. Đây là một quá trình không ngừng nghỉ từ lúc bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong thế giới nhiều xáo trộn, con có mặt ở đây để là một phần của quá trình tiếp diễn vô tận, vượt thời gian, nâng cao mọi sự sống từng bước lên đến những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con nếu không phải đó là một khuôn nếp con chưa giải quyết, một ngã tách biệt con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhận ra điều này, bằng cách làm việc với ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng nhiều hơn. Không có công thức thần diệu đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này và con đi nhanh hay chậm tùy vào con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những điều gây xáo trộn con. Qua bài giảng này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, đổi lại thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ quay lại và trao truyền những lời dạy uyên thâm hơn, và thậm chí còn xáo trộn con hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.

5 | Con không thể lên cao hơn ý định của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Ý định cao hơn có nghĩa là gì? Ý định là gì? Thông thường người ta nói: “Tôi có một ý định dựa trên mong muốn có một vật gì, trải nghiệm một điều gì, hoàn thành một điều gì.” Ý định hàm ý quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó hàm ý là trong quá khứ con đã hình thành một số mong muốn nào đó, một viễn quan nào đó. Ngay bây giờ, con có ý định là viễn quan này trở thành hiện thực, nhưng con nghĩ nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nhưng ý định cao nhất là gì? Chẳng có cách nhìn nào khác về ý định hay sao?

Thày đã có nói là con sống trong một thế giới khó khăn. Nhiều người có mong muốn tự bảo vệ khỏi thế giới hỗn loạn này. Họ có ý định được bảo vệ khỏi một phần của sự hỗn loạn để không bị quá tải, nhưng cũng có thể họ mong muốn sở hữu một cái gì, thực hiện một việc gì, trải nghiệm một điều gì trong thế gian này. Một lần nữa, tất nhiên là chuyện này không có gì sai trái. Con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người con là bây giờ, con nhìn vào thế giới, con nhìn vào bản thân, con nhìn vào cuộc đời theo cách nào đó. Dựa trên cái đó, con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thấy sẽ hiện thực, một số vật mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh. Không thể nào khác được.

Khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra là ý định con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất có thể. Thật con không cần nhất thiết lên án ý định của con, phán xét nó là sai lầm hay mạnh bạo trấn áp nó, mà con cần nhận ra là cuộc sống trên một hành tinh như địa cầu có hai khía cạnh. Một khía cạnh như thày đã nói, là có một số chuyện con cần làm để sống còn, để giữ cho thân xác vật lý của mình tồn tại. Và khía cạnh kia là con có một mục đích rộng lớn hơn, một mục đích dài hạn hơn, là đạt niết bàn, đạt sự an bình nội tâm, đạt sự giác ngộ, bước chân trên đường tâm linh, nâng cao trình độ nhận biết của mình cho dù con định nghĩa như thế nào.

Con cần bắt đầu suy ngẫm là thực sự con có hai loại ý định khác nhau ở đây. Con có một ý định liên quan đến việc sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất, và con có một ý định liên quan đến việc vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý. Khi con bắt đầu có sự nhận biết tâm linh, thử thách là làm thế nào quân bình được cả hai. Đây là thử thách muôn đời, là thử thách vượt thời gian mà con người đã đối mặt trong một thời gian rất dài. Làm thế nào con dung hòa được sự kiện con đang ở đây với ý định là mình sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn? Đây là điểm đòi hỏi con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng các mong muốn của mình.

5.1. Sự căng thẳng tinh thần khi quy định thế nào là ý định chân chính

Có nhiều Phật tử đã xem xét khái niệm ý định “chân chính” này [còn được gọi là Chánh tư duy] theo cách nhìn của họ, và một lần nữa họ lại tìm cách quy định một cách thức vỏ ngoài để phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. “Tôi cần tránh, tôi cần ép mình để không có ý định nào sai trái, và thay vào đó tôi sẽ ép mình để có, hay để trau dồi, những ý định chân chính.” Điều này đã khiến cho nhiều, rất nhiều người rơi vào một vòng xoắn ốc phải vận dụng càng ngày càng nhiều áp lực tinh thần để kìm nén các ý định mà họ đã dán nhãn là sai trái, để luôn luôn tỉnh thức, tập trung ý định vào việc cho phép chỉ những ý định được họ dán nhãn là đúng đắn. Điều này có thể trở thành một nỗ lực tinh thần gay gắt, một sự dồn ép căng thẳng mà con có thể chứng kiến không những nơi các Phật tử mà nơi nhiều người tâm linh hay mộ đạo, thậm chí cả nhiều người đang cố sống theo một loại lý tưởng nào đó.  

Đây là lúc chúng ta cần bước lui lại một chút. Chúng ta cần nhìn nhận là đường tu dẫn đến nhận thức cao hơn có nhiều giai đoạn. Có một số giai đoạn và con phải bắt đầu ở một điểm nào đó. Con bắt đầu ở mức con đang đứng khi con tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này. Đối với mỗi người thì mức này mỗi khác, tùy theo trình độ phát triển con đã đạt được trong tiền kiếp. Đối với cá nhân con, con đã bước vào kiếp đầu thai này với một mức độ ý định nào đó, một mức độ nhận biết nào đó. Con đạt tới điểm lần đầu tiên con khám phá giáo lý tâm linh, con nhận chân là có một đường tu tâm linh, có một quy trình con có thể đi theo. Vào lúc đó, cách con nhìn sự việc này thể hiện trình độ nhận thức tổng quát của con, và dựa theo đó, con hình thành một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ việc bước chân trên đường tâm linh. Một lần nữa, không có gì sai trái ở đây – con đâu làm gì khác được?

Điều con cần nhận ra ở đây là khi con bước chân trên đường tu, khi con nâng cao mức nhận biết, con cần tái xét các ý định đã khiến con đi theo đường tu cùng các ý định về cuộc sống trên trái đất. Con không thể chỉ đơn giản lập ra một cách đánh giá trắng-đen nhị nguyên về thế nào là ý định “đúng”, thế nào là ý định “sai”. Con không thể tự ép buộc mình. Hay đúng hơn, con có thể tự ép buộc mình nhưng làm như vậy sẽ không nâng cao nhận biết của con. Nó sẽ giữ con kẹt lại ở mức này nơi con cảm thấy bởi vì con đã tự ép mình để không có ý định sai mà chỉ có ý định đúng, cho nên con đã đạt đến một giai đoạn cao cấp nào đó trên đường tu, và vì thế con tốt thiện hơn những kẻ đã không làm giống con. Như thày đã giảng rất nhiều lần, đây không phải là tiến bộ thực.

5.2. Một lượng định cao hơn về ý định

Có một giải pháp khác là con không đánh giá các ý định của con dựa trên đúng hay sai. Thày đã giảng về sự tách biệt, về ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Chuyện gì thực sự xảy ra khi con quy định có hai đối cực nhị nguyên là đúng và sai? Con tự đặt mình vào một tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực. Như thày đã trình bày, hậu quả cùng cực là con sẵn lòng tiêu diệt một nhóm người khác với nhóm của con theo cách con định nghĩa. Là một người tâm linh, con đã vươn lên một mức cao hơn nơi con không còn quá chú tâm vào việc ép buộc người khác nữa. Thật ra hầu hết những người tâm linh đều không sẵn lòng dùng sức mạnh trên người khác, nhưng thường khi con lại sẵn lòng dùng sức mạnh trên chính con. Con có thể rất dễ bước vào tâm thái cảm nhận mình phải vận dụng ý chí, vận dụng chú ý và tập trung của mình để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Nhiều người tâm linh cho rằng họ có thể tiến bộ qua việc thiền quán, nhưng thiền quán thường bị xáo trộn bởi cái mà một số Phật tử gọi là tâm khỉ, qua đó ý tưởng cứ chạy tứ tung. Họ đã tạo dựng quan điểm cho rằng họ có thể cưỡng ép tâm họ để nó không suy nghĩ, cưỡng ép tâm để nó không có ý tưởng, và điều này có thể trở thành một nỗi căng thẳng to lớn cho một số người đã tập theo như vậy trong một thời gian dài. Có thể họ nghĩ là họ đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Giải pháp khác hơn là con tra vấn cách tiếp cận dựa trên sức mạnh này và nhận ra là con không cần dùng đến sức mạnh.

Điều có thể giúp con trong việc này là con hiểu rằng trước khi con đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã lập ra như vậy cùng với các vị cố vấn tâm linh của con tùy theo quá trình cùng mức phát triển cá nhân của con. Con đã nhận được lời khuyên từ những vị thày già dặn hơn, giàu kinh nghiệm hơn, và dựa theo đó con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Đa số con người trên trái đất hoặc không có Kế hoạch Trọn đời, hoặc có một Kế hoạch Trọn đời rất đơn giản, nhưng con là một người tâm linh cởi mở với giáo lý tâm linh thì con có một Kế hoạch Trọn đời tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Kế hoạch này nhằm mục đích chủ chốt là tăng triển trình độ tâm thức, nâng cao mức nhận biết ngày càng cao hơn. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào, đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng mà con có trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để có thể tinh tiến, và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai tới của con?” 

Và đó là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Hầu hết những người tâm linh đều chọn cha mẹ và gia đình của mình, họ chọn nền văn hóa và quốc gia, vì trong môi trường đó có một điều gì có thể giúp họ khắc phục các ảo tưởng, các dính mắc, các khuôn nếp, các khuôn nếp phản ứng mà họ muốn vượt qua trong kiếp đầu thai này.

Đây là điểm mà con có thể nói là có một yếu tố vũ lực nào đó, vì khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời thì con có một tầm nhìn rõ ràng hơn về những gì con cần khắc phục. Tất nhiên, con biết là một khi con lại bước xuống hiện thân thì con sẽ quên mất tầm nhìn này. Đây chính là bản chất của việc khắc phục một điều gì đó. Nếu con biết trước con sẽ phải khắc phục điều gì thì việc khắc phục đâu còn là thử thách gì nữa?

Làm thế nào con sẽ khắc phục trong thực tế? Con có một ảo tưởng. Nếu con biết đó là ảo tưởng thì con đã khắc phục nó rồi. Cách duy nhất để khắc phục là con bước xuống hiện thân với ảo tưởng đó, con quên mất ảo tưởng rồi trong khi con đầu thai con nhìn ra ảo tưởng. Đây là cách con khắc phục nó. Con vẫn mang một sự nhận biết nào đó trước khi đầu thai về những điều con cần khắc phục, và con quyết định tự đặt mình vào một tình huống bắt buộc con phải giải quyết cái khía cạnh cụ thể đó trong tâm lý của con. Hoàn cảnh vỏ ngoài của con, những người mà con cùng đầu thai như cha mẹ và anh chị em con chẳng hạn, tất cả đều mang một số khuôn nếp trong tâm lý của họ sẽ bắt buộc con phải phản ứng lại họ hầu con có dịp nhìn thấy các khuôn nếp nơi chính con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con đã tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng tất nhiên khi con bước vào đầu thai thì con đã quên mất, và đây chính là tại sao con thường phản ứng mạnh mẽ đến như vậy đối với cha mẹ mình, gia đình mình, hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Thử thách của con là con nối kết lại với cái đó.

5.3. Tâm muốn kềm chế

Con thấy những gì thày vừa nói đó, có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Đó có thể là mối đe dọa bị choáng ngợp, hay phải chất vấn các niềm tin của mình hay là gì đi nữa, nhưng con muốn kềm chế nó. Khi con bước vào kiếp đầu thai, điều này thường có nghĩa là trong những hoàn cảnh khó khăn phải đương đầu với một người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình. Con muốn trấn áp các cảm xúc, các tin tưởng, kềm chế tình huống con phải đối mặt để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con. Một lần nữa, đây là một điều tự nhiên trong một thời gian, nhưng nếu con là một người tâm linh, Kế hoạch Trọn đời của con có trù liệu là tới một điểm con sẽ tìm ra một giáo lý tâm linh và con được nhắc nhở một cách ý thức là có một con đường để mình bước theo.

Điều có thể đem lại lợi lạc cho con là con nắm lấy lời dạy này ở đây và nói: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn ép buộc mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi?” Bằng cách quyết định ý thức như vậy, con có thể ít nhất khắc phục được phần nào sự kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý của mình để tìm ra tại sao mình lại có khuôn nếp phản ứng như vậy đối với một số loại người.

Đây là một phần trong tiến trình con hình thành một ý định cao hơn, qua đó con nhận ra là trong cái “bây giờ và ở đây”, trong tình huống trước mắt con, con có một số khuôn nếp phản ứng đang muốn con kìm hãm việc xem xét tâm lý của con. Con có thể chọn gạt bỏ các khuôn nếp này và quyết định: “Không, tôi sẵn lòng nhìn vào tâm lý của tôi, các khuôn nếp của tôi, để nhìn thấy chúng và khắc phục chúng.” Điều này có nghĩa là giờ đây con đang nối kết với ý định đằng sau Kế hoạch Trọn đời là ý định của chính con. Và khi con nối kết vào đó thì có còn đâu yếu tố vũ lực nào nữa? Con đâu cần ép buộc mình phải xem xét điều gì khi con nối kết lại với ý muốn giải thoát khỏi điều đó? Khi con nhận ra là con muốn được tự do khỏi cái đó, con không đang ép buộc mình phải đương đầu với nó.

5.4. Con là ai?

Khi đó, con có thể bắt đầu chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Như thày vừa nói, bây giờ và ở đây, trong tình huống hiện tại, có một phần trong tâm con, tâm phàm của con có thể gọi là tự ngã, đang có một ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con. Đây là điều mà phần này của tâm vốn làm. Nó giống như một chương trình máy tính không biết làm gì khác. Đây không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục một số những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Một khi con nhận chân điều này thì không có chuyện ép buộc mình phải từ bỏ ý định thấp và chấp nhận ý định cao. Con tái nối kết với ý định cao. Con nhận ra rằng cái ta mà con là, đó là chính con có một ý định cao hơn. Đây mới là ý định của con.

Ý định muốn bưng bít và tránh né một chuyện gì không phải là ý định của con, đó là ý định của tự ngã, của ngã vỏ ngoài. Xong với thời gian, con có thể lần hồi chiêm nghiệm được điều này: Con là ai chứ? Đâu là cái ta đang có một ý định cao hơn cái ta mang ý định thấp?

Đây là điểm con sẽ được lợi lạc khi con tự hỏi một số câu hỏi mà hầu hết mọi người không thể đặt ra. Chẳng hạn, con là ai ngay lúc này, ai đang thu nhận bài giảng này? Đây là một bài giảng tâm linh. Nó có ý định giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Ai là cái ta đang thu nhận lời dạy này?

Con cũng có thể hỏi ai là cái ta đang cưỡng lại lời dạy này? Con có thể nhận ra là trong tâm con có một cố gắng nào đó để khiến con cưỡng lại lời dạy. Có một cố gắng moi ra những kiến thức và tin tưởng hiện thời của mình, rồi dựa trên đó đánh giá lời dạy, tìm xem có điểm nào, có lý do hay viện cớ nào để bác bỏ lời dạy. Nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh rồi phát hiện một chi tiết nhỏ xíu không tán thành với những niềm tin hiện tại của họ, thì họ dùng điểm này để bảo: “Ồ, toàn bộ giáo lý này sai bét.”

Ai là cái ta đang học giáo lý và ai là cái ta đang cố khiến con bác bỏ giáo lý? Nói cách khác, ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn con đóng tâm lại? Cái ta cởi mở là cái ta thực của con, trong khi cái ta cưỡng chống muốn con khép kín tâm con lại là tâm vỏ ngoài, là nhân cách tự ngã muốn con ở lại trong ảo tưởng. Toàn bộ nhân cách tự ngã này dựa trên ảo tưởng. Nó khởi lên từ ảo tưởng nhưng nó muốn con ở lại trong ảo tưởng. Đâu là cái ta mà con là? Ấy, con có thể bắt đầu cố sức tìm hiểu nó một cách trí thức, nhưng thật sự tất cả chỉ là việc trải nghiệm, cho nên con hãy thử làm bài tập đơn giản sau đây.

Một số các con đã biết bài tập này rồi nhưng đối với một số khác thì đây là điều mới lạ. Con hãy nhận biết là con đang ngồi đây thu nhận bài giảng này. Con nhận biết là có thể con đang ngồi trên một chiếc ghế, cho nên con hãy bước ra ngoài chính con bằng tư tưởng, bước ra ngoài tâm con, và con hình dung, con tưởng tượng là con đang đứng sau ghế và đang nhìn thân con ngồi trên ghế. Bây giờ con nhận ra là con đang ngồi trong một căn phòng, nhưng có gì đó bên ngoài căn phòng. Bây giờ bằng tư tưởng, con hãy lùi về thêm nữa cho đến khi con nhìn thấy nguyên căn phòng nơi con ngồi. Con thấy thân con đang ngồi trên chiếc ghế trong căn phòng. Rất có thể căn phòng này thuộc một căn nhà. Con lại lùi thêm, lại hình dung, tưởng tượng toàn bộ căn nhà, căn phòng trong căn nhà, và thân con ngồi trên ghế trong căn phòng. Bây giờ con có thể lùi lại thêm nữa trong khoảng môi trường bên ngoài căn nhà, nhìn căn nhà, căn phòng, chiếc ghế, vân vân. Con có thể lui lại, lui nữa và lui thêm nữa, nhìn thấy toàn bộ trái đất, con nhìn trái đất từ ngoài không gian, nhìn thái dương hệ, nhìn dải thiên hà, và suốt thời gian này từ nhãn quan của con, con vẫn nhìn xuống nơi thân con đang ngồi trên chiếc ghế.

Đây là một bài tập thật đơn giản nhưng một số người sẽ không thể làm được, trong khi một số khác sẽ không bị khó khăn gì hết, ít ra để tưởng tượng và hình dung là mình đang bước lùi lại. Câu hỏi bây giờ là như sau: Ai là cái ta đang lùi lại? Đâu là khả năng mà con có trong tâm con để lùi lại khỏi thân vật lý của con?

5.5. Cái ta là nhiều hơn cơ thể và tâm vỏ ngoài

Tuyệt đại đa số con người trên trái đất bị đồng hóa với cơ thể vật lý của mình đến độ họ không thể tưởng tượng là họ có thể bước ra khỏi cơ thể và đứng nhìn cơ thể. Nếu con có khả năng làm điều này thì có nghĩa là con không đến nỗi đồng hóa với cơ thể mình như hầu hết mọi người. Điều này có nghĩa là có một cái ta không phải là cơ thể, bởi vì nếu không thì làm sao con đã có thể bước ra khỏi nó bằng tư tưởng? Con không phải, như các nhà chủ nghĩa duy vật thường bảo, là một sản phẩm của những quá trình điện hóa (electrochemical) trong bộ não. Là người tâm linh, con đã chấp nhận mình không phải là cơ thể vật lý của mình. Thế thì con cũng có thể chiêm nghiệm rằng con không là thể cảm xúc của con, con không là các tình cảm của con, con không là các ý nghĩ của con, thậm chí con không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất. Vậy con là ai? Con là gì?

Khi con suy nghiệm điều này, cuối cùng con sẽ nhận ra là giống như con có thể bước ra ngoài thân xác vật lý của mình bằng tư tưởng, thì con cũng có thể bước ra ngoài các cảm xúc của mình, các ý nghĩ của mình cùng ý niệm bản sắc của mình, và con ngộ ra là thực sự mình y như một diễn viên. Con bước vào một rạp hát, con mặc vào một bộ trang phục, con trét vào một lớp phấn son, thậm chí con khoác vào một giọng nói đặc thù, một cách nói năng, một nhân cách đặc thù, và đột nhiên con có thể bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là trong đời sống bình thường. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào. Vậy đâu là cái ta của con? Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con.    

Thày biết là tâm con đang bị khó khăn, nó đang đánh lộn vì nó muốn làm những gì nó vẫn thường làm. Nó muốn có một sự mô tả, nó muốn có một cái nhãn, một tên gọi, nó muốn nắm một số đặc tính để nó có thể hiểu được cái ta là gì. Con thấy không, khi bàn đến bản sắc thế gian, tâm lý trí, cảm xúc và cơ thể vật lý của con, tất cả những thứ này đều mang những đặc tính có thể được mô tả bằng từ ngữ, bằng những tâm ảnh mà con sử dụng trên trái đất. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi cái đó. Nó là nhiều hơn bốn thể của con, cho nên nó không thể được mô tả qua ngôn từ cùng các tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nào nắm bắt cái ta thực của con, và rất có thể nó đang nổi loạn chống lại ý tưởng này, nó đang cuống cuồng muốn nắm bắt, gắn nhãn, phân loại khái niệm này. Có thể nó đang lập luận rằng thật vô nghĩa mà nói chuyện về một cái gì có thực nhưng lại không mang đặc tính nào khả dĩ được mô tả.

Đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh? Là giúp con nâng cao nhận biết, và làm thế nào con sẽ nâng cao nhận biết? Bằng cách thăng vượt mức nhận biết hiện thời của con. Đâu là mức nhận biết hiện thời của con? Đó là nội dung của các thể bẳn sắc, lý trí, cảm xúc của con. Đó là cái cho con một cái ngã vỏ ngoài, một cảm nhận vỏ ngoài rằng con là ai và con liên hệ thế nào với môi trường nơi con sống.

Ngay bây giờ đây, con có một mức nhận biết nào đó, và khi thày cho con khái niệm là có một phần trong bản thể con vượt khỏi mức nhận biết đó, thì tâm con liền muốn dùng mức nhận biết hiện thời này để cố nắm bắt, phân loại, gắn nhãn, mô tả cái phần này của bản thể con. Có những đệ tử tâm linh đã bỏ ra hàng chục năm trời để cố tìm hiểu các khái niệm tâm linh một cách trí thức bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Thậm chí một số đã cố tìm hiểu khái niệm bảo rằng có một phần của họ vượt khỏi tâm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài, nhưng họ không thể hiểu nổi với mức nhận biết hiện tại của họ. Con hãy ngẫm đi, và khi đó nếu con có khả năng buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của mình, con sẽ có thể đạt được cái người ta thường gọi là một trải nghiệm thần bí.

Cái gọi là trải nghiệm thần bí đó thật chẳng thần bí gì cả. Nó dựa trên sự kiện có một cái ta. Chúng ta có thể gọi đó là cái ta ý thức, hay cái Ta Biết, nhưng ở một thời điểm nào đó có một cái ta đã bước vào cơ thể vật lý của con cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nó đến từ ngoài, nó đã bước vào đó, và nó đang dùng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường của con trên trái đất. Nó không do các thể này sản xuất ra, mà nó đã khoác vào các thể này. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí nó đã chế tạo ra các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc trong những kiếp trước. Chính sự kiện nó đã bước vào tâm hiện thời của con cũng có nghĩa là cái ta này có khả năng bước ra ngoài tâm con. Con có thể nói là ngay bây giờ đây, cái ta đang nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng cái ta có khả năng bước ra ngoài bốn thể này và ý thức được chính nó vượt hơn bốn thể, vượt hơn tâm. Đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Nếu con lại dùng tâm đường thẳng thì con có thể ví con đường này như một chiếc cầu thang có nhiều bực riêng rẽ. Ngay bây giờ con đang đứng ở một bực nào đó trên cầu thang. Câu hỏi là làm thế nào con bước lên bước kế tiếp? Ai đang bước lên chứ? À, đó không phải là các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc của con. Đó không phải là ý niệm bản ngã hiện thời của con, ý niệm con là ai, ai đang bước lên, bởi vì cái ngã hiện tại này của con bị buộc chặt vào bực thang hiện tại. Vậy cái gì bước lên? Cái Ta bước lên.  

5.6. Tự quan sát là cốt tủy của con đường tâm linh

Điều này xảy ra khi con nhìn vào bản thân, chẳng hạn một khuôn nếp phản ứng. Con thấy mình có xu hướng phản ứng một cách nhất định nào đó trong một số hoàn cảnh. Thay vì cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất, con đạt tới điểm tự hỏi: “Tại sao tôi lại phản ứng cách này? Tôi thật không muốn nổi giận khi có ai đó không làm theo ý tôi. Tôi không muốn có trải nghiệm giận dữ này. Nếu tôi nghĩ đây là cách duy nhất thì làm thể nào tôi có thể thoát ra khỏi nó? Vậy tôi hãy nhìn vào nó, nhìn vào cái gì ở đằng sau nó. Tại sao tôi lại cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất?”

Xong con có thể nhận ra là người khác không phản ứng cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Có những cách phản ứng khác. Thật ra, Phật có nói là luôn luôn có một cách phản ứng khác dựa trên sự không dính mắc. Nói cách khác, con không mang một khuôn nếp khiến con bị dính mắc với một cách phản ứng nhất định. Điều này con có thể ngộ ra, con có thể nhìn ra là có một ảo tưởng khiến con tin rằng đây là cách phản ứng duy nhất. Khi con nhìn xuyên thấu ảo tưởng này, khi con thấy đó là một ảo tưởng đang giới hạn con, đang cầm giữ con lại, thì con sẽ tự động buông nó ra.

Có một câu chuyện quen thuộc được nhiều vị thày tâm linh sử dụng là nếu con đang đứng trong bóng tối, con nắm một vật gì đó và tưởng đó là sợi dây thừng thì có thể con sẽ nắm tiếp. Nhưng nếu người ta bật đèn lên và con thấy đó là một con rắn, thì con không phải nặn óc phân tích phức tạp dài dòng. Con chỉ tự động mở tay ra và buông con rắn. Điều tương tự cũng xảy ra ở đây. Khi con thấy rằng cái con tưởng là cách phản ứng duy nhất hay sự thật chỉ là một ảo tưởng, thì con tự động buông ảo tưởng ra, thế rồi con bước lên bực kế tiếp. Tất nhiên, con sẽ vẫn đem theo các ảo tưởng khác còn sót lại trong ba thể. Nhưng khi con xem xét ảo tưởng kế tiếp và buông nó ra, con lại vươn lên một bước nữa, và đây là cách làm thế nào con lần lần tiến bước trên đường tu. Nhưng công việc này chỉ có cái Ta của con mới làm được, không phải là tâm vì tâm không thể xem xét chính nó.

5.7. Máy tính sẽ không bao giờ có khả năng tự nhận biết

Hiện trong các giới khoa học đang có một phong trào nỗ lực tạo ra thông minh nhân tạo, vì nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu hành xử con người, chẳng hạn, đã tìm ra là các phản ứng của con người gần giống như máy tính. Đối với hầu hết mọi người thì nhận xét này không sai. Con đặt người ta vào một tình huống nào đó thì họ sẽ phản ứng y như cách họ đã phản ứng mười lần trước đó trong cùng tình huống này. Lý do là vì như thày đã giải thích, con mang một số khuôn nếp trong tâm tiềm thức của con. Thông thường một khuôn nếp nằm yên như đang ngủ, nhưng khi con gặp một tình huống đặc thù, tình huống sẽ kích hoạt khuôn nếp, sẽ tiếp quản phản ứng của con, thế là bây giờ con phản ứng theo đúng cách đó. Tâm tiềm thức của con có nhiều mặt giống như một chiếc máy tính, nó mang sẵn một số chương trình và khi chương trình được kích hoạt, chúng sẽ điều khiển phản ứng con, con sẽ phản ứng theo một cách nào đó, rồi có thể sau đó con sẽ hối hận hay con lập luận rằng: “Ồ, đó là cách duy nhất mình có thể phản ứng.”       

Điều các nhà nghiên cứu thông minh nhân tạo đã hiểu lầm là đối với một con người, đó không phải là cách duy nhất. Một con người luôn luôn có tiềm năng thay đổi khuôn nếp của mình một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng khác trong lần kế tiếp. Một chiếc máy tính sẽ không thể làm được vậy. Tại sao? Vì nó không có sự tự nhận biết. Nó không có một cái ta nhận biết. Cái ta mà thày vừa nói đến là cái ta có khả năng trở nên ý thức về chính nó. Lúc đầu nó trở nên ý thức về chính con, nhưng nó cũng nhận biết nó không phải là ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao chính con có tiềm năng – như một con người và mọi con người – thay đổi phản ứng cùng hành động của mình một cách ý thức và cố tình. Con có thể chọn một phản ứng khác so với cách phản ứng trong quá khứ. Trong quá khứ có thể con đã phản ứng theo một chương trình nơi con thực sự không có chọn lựa. Đúng, con đã chọn lựa trong một quá khứ xa xôi khi con tạo ra chương trình, nhưng mỗi khi chương trình kích hoạt thì con không đang chọn lựa ý thức. Đây chính là lý do tại sao một số nhà khoa học đã khám phá là con đã có một phản ứng trong bộ não trước khi con chọn lựa ý thức trong một tình huống đặc thù. Lý do là vì có một chương trình tiềm thức đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Vấn đề rộng lớn hơn ở đây là con mang tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của mình mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là các phản ứng của con, con không là các cảm xúc của con, con không là các ý nghĩ của con, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là cái mà một số người gọi là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài cái môi trường mà con gọi là trái đất. Theo một nghĩa nào đó, Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

5.8. Không có giác ngộ tức thì

Một lần nữa, tâm vỏ ngoài của con sẽ lại nói: “Vậy tại sao thày không cho con ngay mức tự nhận biết tối thượng đó đi, cái bí ẩn tối hậu về sự tự nhận biết, để con nhảy tất cả những bước này và bước vào cõi Niết bàn ngay bây giờ? Con có thể giác ngộ ngay lập tức.” Con thấy đó, điều này không thể làm được. Không có sự giác ngộ tức thì và lý do thật đơn giản. Cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến trái đất là để có một số trải nghiệm ở đây có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ của con. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có những trải nghiệm này, cái ta mà con là phải tạo ra những nội dung, trước tiên trong tâm bản sắc, xong trong tâm lý trí, rồi trong tâm cảm xúc của con. Chính những khái niệm này đặt nền tảng cho các trải nghiệm con đã có trên trái đất, với mục đích để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê các loại trải nghiệm này và mong muốn một cái gì hơn nữa. 

Đó là lúc con sẵn sàng cất bước trên đường tu. Cho đến khi đó, con vẫn có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, rằng mình là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới với những sinh thể tách biệt khác, và con đang tranh đấu chống lại các sinh thể này. Con có thể nói bằng tâm ý thức: “Tôi không bao giờ mong muốn chuyện tranh đấu này. Đó không phải là lý do tôi đã đến địa cầu.” Nhưng thật ra đó chính là lý do. Khi con bước lui lại khỏi trải nghiệm hiện thời của mình, con nhận ra đây chính là tại sao con đã đến địa cầu. Con có thể có nhiều lý do khác nhau, nhiều động lực khác nhau, nhiều ý định khác nhau ở bên sau, nhưng đó chính là tại sao con đã đến trái đất – để có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất. Sẽ tới một điểm sau rất nhiều kiếp sống nếm mùi loại trải nghiệm này, con sẽ chán chê và bây giờ con muốn cái gì khác hơn. Đó là lúc con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh dưới bất kỳ phiên bản nào con có khả năng nắm bắt.

Mục đích của con đường tâm linh bây giờ là giúp con dần dần trở nên ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào các tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày con càng có ít hơn trong những tâm này. Con trở nên ngày càng tự do hơn. Thực sự giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào nữa dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt. Con đã khắc phục tất cả mọi ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt, rằng con có thể sử dụng các đối cực nhị nguyên để biện minh cho mọi việc mình muốn làm như một sinh thể tách biệt. Đó là khi con giác ngộ. Có thể nói là trong khi con bước chân hướng đến giác ngộ, con lấy từng nội dung từ trong tâm và bỏ nó đi, con để nó ra đi, mỗi lần một ảo tưởng, cho đến khi con không còn ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nào còn sót lại.

5.9. Con có đánh mất nhân cách của mình?

Tuy nhiên một số người sẽ phản đối chuyện này và cho rằng: “Liệu sẽ có nghĩa là tôi không còn quan điểm, niềm tin hay lý thuyết nào về cuộc sống, không còn khuôn nếp nào trong cảm xúc? Liệu có nghĩa là tôi không còn nhân cách nào, bản sắc nào?” Phải, có nghĩa đúng như vậy. Con không còn nhân cách cùng bản sắc vì những thứ này được định nghĩa trên trái đất dựa trên các ảo tưởng của Maya, các ảo tưởng của tách biệt và nhị nguyên. Con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Không có nghĩa là con trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của con mà bây giờ con có thể bắt đầu biểu đạt trên trái đất. Cái con mất đi là cái chúng ta có thể gọi là cá tính, nhân cách và bản sắc nhân gian. Nếu con cởi mở với một giáo lý tâm linh, đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của mình.

Điều này có nghĩa là giờ đây khi con nhìn vào đời mình và các hoạt động của mình, con không phải làm điều mà nhiều Phật tử đã làm, là đánh giá lại xem ý định nào là chân chính, ý định nào là bất chính: “Tôi cần phải ép buộc mình không được có ý định bất chính.” Thay vào đó, con có thể nói: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ?” Lấy ví dụ con nhận diện trong con mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó. Trên trái đất có thể có nhiều loại trải nghiệm khác nhau, nhưng như trong trường hợp nhiều người, con quyết định mình muốn một mối quan hệ riêng tư, một quan hệ tình dục với ai đó. Đây là một loại mong muốn rất phổ biến, ngay cả trong số những người tâm linh.

Có rất rất nhiều sự hiểu lầm về điểm này trong số những người tâm linh, và con vẫn thấy rất nhiều Phật tử tu học giáo lý rồi dùng tâm vỏ ngoài để bảo: “Ồ, bất cứ hoạt động nào không tâm linh đều sai trái cả và tôi phải tránh làm chuyện đó.” Có một điều khác con có thể xem xét ở đây. Giả dụ con đang thảo Kế hoạch Trọn đời của mình, khi đó con có một tầm nhìn rộng lớn hơn bây giờ. Con nhận ra là con vẫn còn mong muốn trải nghiệm một quan hệ riêng tư, ngay cả một quan hệ vật lý. Con quyết định là con sẽ tự đặt mình vào một tình huống nơi con có thể gặp một người và có được loại quan hệ này. Có sai trái gì đâu trong việc trải nghiệm như vậy nếu con đã lượng định là mình cần có trải nghiệm này trong một thời gian để mình có thể chán chê chuyện này? Nhờ vậy con sẽ có thể thoát ra khỏi nó, để sau đó con có thể tập trung vào những trải nghiệm khác mà con muốn cho phần còn lại của kiếp này. Có sai trái gì đâu trong việc này?

Đó là một phần trong Kế hoạch Trọn đời của con sẽ cuối cùng dẫn con lên một mức nhận biết cao hơn. Thay vì ép buộc mình phải kìm nén một trải nghiệm, con bước vào trải nghiệm cho đến khi con chán chê, con chán ngán nó, rồi con có thể lượng định – không nhất thiết là con phải từ bỏ tình huống vỏ ngoài đó, mà con đạt tới điểm mình không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó. Thật chẳng có gì tự thân là phi tâm linh trong hoạt động tình dục, nhưng nếu con dính mắc với nó, nếu đó là một ám ảnh cưỡng chế, thì tất nhiên nó có thể cản trở sự tăng triển lên những tầng nhận biết cao hơn. Nếu con đạt tới điểm khắc phục được sự dính mắc, khắc phục được sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn, thì hoặc con có thể chọn ngừng hẳn hoạt động đó, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, nó sẽ tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Con thấy đó một lần nữa, đâu là ý định cao hơn của con ở đây? Có phải là giải quyết các ảo tưởng, giải quyết Maya trong tâm con? Hay có phải là sử dụng một lời dạy tâm linh để che đậy các ảo tưởng để con, ở mức ý thức, có thể giả vờ như thể con không có ảo tưởng? Con có thể nghĩ: “Ồ, tôi đã hiểu lời dạy tâm linh cao cấp này rồi, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời giờ thực hành các pháp tu này, cho nên tôi đã vượt xa mong muốn này, ý định này.” Nhưng con chỉ giả vờ thôi con. Con đang che phủ mong muốn đó và điều này sẽ không giúp con vươn lên bước kế tiếp của chiếc thang hay của cầu thang.

5.10. Xét lại các ý định của mình

Đây là bước tiếp theo trên con đường Bát chánh đạo, là xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức. Nhiều người tâm linh đã ép buộc mình phải sống trong một khung cảnh tu viện nơi họ phải kìm nén ham muốn tình dục của họ. Có thể là họ đã sống được như vậy suốt một kiếp dài, hay ngay cả mấy kiếp, nhưng sẽ tới một điểm họ nhận ra – khi họ ở ngoài hiện thân – là họ đã không tự giải phóng khỏi ham muốn mà chỉ kìm nén ham muốn. Họ sẽ cần trở lại trải nghiệm hoạt động đó cho dù nó là gì, cho đến khi họ có thể buông bỏ ham muốn một cách ý thức và cố tình: “Tôi đã chán chê trải nghiệm này rồi.” Việc này không thể cưỡng ép được, nhưng tiếc thay, rất rất nhiều người đã dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra ý tưởng là họ phải tự cưỡng ép. Nếu con thực sự muốn tiến triển tâm linh, ý định của con phải là giải quyết, từ bỏ, buông xả, khắc phục, vượt qua các mối dính mắc của mình, các khuôn nếp, các nội dung trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Đây phải là một ý định bao trùm tất cả, và khi con vươn lên đến mức đó và ý thức được điều đó, con có thể lượng định tất cả mọi ý định khác của con.

Một lần nữa, con phải kiếm sống để nuôi cơ thể, giữ cho nó sống còn. Có thể con có một số bổn phận đối với gia đình và với người khác. Làm thế nào con quân bình được một cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện mình là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh? Con chỉ có thể làm được bằng cách ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào – ừm, hầu hết mọi hoạt động trên địa cầu – đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Nguyên cái ý tưởng cho rằng con phải từ bỏ cuộc sống trần tục, phải lui vào tu viện để tiến bộ tâm linh không luôn luôn đúng. Có thể có một số người cần làm như vậy trong một hay vài kiếp sống, nhưng chắc chắn không phải là mọi người. Kỳ thực, trong thời buổi con đang sống hôm nay, điều quan trọng hơn so với các thời đại trước là mọi người cần bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội. Đây là điểm sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người hơn trước để họ cởi mở với đường tu khi họ thấy là họ không phải từ bỏ đời sống bình thường, rút vào tu viện trên đỉnh núi hầu là người tâm linh.

Bây giờ là một thời đại, một thời điểm có rất nhiều người đã tình nguyện bước vào hiện thân để chứng tỏ là con có khả năng tìm ra một sự quân bình giữa đời sống trần thế và sự tăng triển tâm linh, tăng triển nhận biết. Tuy nhiên, thày cũng nói là điều này quan trọng hơn bao giờ hết do thời buổi, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng trong quá khứ. Con nghĩ tại sao thày đã gọi con đường này là Trung đạo? Một lần nữa, Trung đạo là một cách dịch đáng tiếc về một khái niệm phức tạp hơn. Dẫu vậy, Trung đạo không phải là pháp tu khổ hạnh cực đoan mà thày đã đi theo trong thời non trẻ dại dột, cũng không phải là cuộc sống thế tục hoàn toàn mù quáng mà đa số con người đi theo. Nó thăng vượt cả hai, qua đó con sống một cuộc sống năng động trong xã hội với bổn phận gia đình, nhưng con vẫn bước chân trên con đường tâm linh vì con có ý định sử dụng các hoạt động thế tục của mình để tạo thuận lợi cho mình tăng trưởng nhận biết.

Làm thế nào thực hiện được việc này? À, một phần bằng cách xem xét phản ứng của mình trong các tình huống thế tục, và phần khác bằng cách nhận ra là con có khả năng tạo cảm hứng cho người khác qua tấm gương của con. Điều gì xảy ra khi người ta rút lui khỏi xã hội, trở thành tăng ni và sống trong thiền viện? Họ tránh được nhiều áp lực của đời sống thường nhật khả dĩ kích hoạt các khuôn nếp phản ứng của họ. Họ sống trong một môi trường kiềm chế, và một khi họ đã chấp nhận các ràng buộc của môi trường này, rất có thể không có nhiều thứ sẽ kích hoạt phản ứng của họ. Họ có thể tự đánh lừa là họ không còn các phản ứng này nữa, rằng bằng cách chọn sống trong một hoàn cảnh không kích động khuôn nếp thì họ đã khắc phục khuôn nếp. Nhưng không, tất nhiên là họ chỉ áp chế nó thôi.

5.11. Trung đạo thực sự nghĩa là gì

Toàn bộ khái niệm Trung đạo là con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Có một con đường khác cho tình trạng “hoặc cái này hoặc cái kia”, một giải pháp khác cho cái nhìn trắng đen đó. Con có thể tìm ra một cách để là người tâm linh trong khi vẫn năng động trong xã hội. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn, và bỗng nhiên tất cả mọi thứ đều hiện ra dưới một sắc thái mới. Con có được một nhãn quan mới về mọi khía cạnh đời con. Bỗng nhiên con có thể bắt đầu xem lại một vấn đề đã là một trong những cản trở lớn nhất cho người tâm linh. Đó là sự phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Tất nhiên đây là một chủ đề thày sẽ quay trở lại khi trình bày về hành động cao [Chánh nghiệp]. Nhưng dẫu vậy, điều quan trọng khi con xem xét ý định của mình là con cần vượt qua cái nhìn nhị nguyên về con đường tâm linh.

Đâu là một trong những lời dạy nền tảng của đạo Phật? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Hiển nhiên, con người trên địa cầu không nhìn thấy mọi thứ là Phật tánh. Tại sao họ không thấy được mọi thứ là Phật tánh? Bởi vì tâm họ bị mù quáng bởi tấm màn Maya. Nhưng cái gì cấu tạo tấm màn Maya? Đó là tâm thức nhị nguyên luôn luôn tạo ra hai đối cực nghịch lại với nhau một cách đen trắng. Tâm thức này ngụ ý một sự phán xét giá trị, nó bảo hoạt động này không tâm linh và hoạt động kia thì tâm linh. Nếu tất cả đều là Phật tánh thì có nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh?” Sẽ ý nghĩa hơn không nếu con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng? Ảo tưởng là cái che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Có nghĩa mục đích thực của đường tu không phải là định nghĩa thế này là tâm linh, thế kia là phản tâm linh để rồi phải tránh cái phản tâm linh và chú tâm vào cái tâm linh.

Mục đích thực của con đường tâm linh, của Trung đạo, là ngộ ra mọi hoạt động trên trái đất đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con khi con tiếp cận chúng với ý định thăng tiến nhận biết, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình. Đó là khi hoạt động đó trở nên tâm linh. Bảo rằng một hoạt động là không tâm linh cho nên việc tham gia vào đó – như việc lập gia đình chẳng hạn – sẽ phá hoại bước tiến tâm linh, chỉ đơn giản là một mức độ hiểu biết thấp hơn về đường tu. 

Hiển nhiên là có một số hoạt động sẽ không tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết vì chúng càng nhốt con sâu hơn sau tấm màn Maya, nhưng bất kỳ hoạt động nào cũng có thể được sử dụng để giúp con nhìn ra ảo tưởng đằng sau hoạt động. Vì vậy thày không bảo là việc xông ra ngoài kia giết hại người khác sẽ giúp con tăng triển nhận biết, nhưng quả thực việc nhìn ra các ảo tưởng đằng sau việc giết người có khả năng tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Một lần nữa, tâm nhị nguyên luôn luôn muốn tạo ra sự phân biệt và tách biệt để giàn dựng một thế nhị đối, nhưng đường tu, con đường Bát chánh đạo, là nhìn vượt lên trên tấm màn Maya để nhìn thấy mọi sự là Phật tánh. Phật tánh ở trong mọi thứ, cho nên ý định đích thực là nhìn ra điều này, chứ không phải là nhận diện cái này hay sinh hoạt này là tâm linh và sinh hoạt kia thì không. Điều gì sẽ giúp con thấy được Phật tánh đằng sau tấm màn Maya? Nếu điều đó giúp con thấy được thì làm sao nó không tâm linh cho được? Nếu điều gì buộc chặt con vào các ảo tưởng nhị nguyên, thì cho dù con có dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho ảo tưởng, làm sao nó tâm linh cho được?

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao trong bài này. Những ngọn sóng chấn động chắc chắn đang được gửi vào tâm thức tập thể, làm khuấy động lũ quỷ của Mara. Chúng đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến cho mọi người bác bỏ những xung lực này để họ lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi.   

Nhưng các con cởi mở với những lời dạy này, các con có thể tránh được chuyện đó bằng cách biến lời dạy thành con thuyền Bát nhã, nhưng con sẽ chỉ làm được vậy nếu con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với ngay bây giờ. Thày đã hoàn thành ý định của thày trong việc ban truyền lời dạy này. Thày hy vọng nó sẽ giúp con hoàn thành ý định của con trong kiếp đầu thai này.  

Điều gì sẽ quyết định kiếp sống tới?

Hỏi: Phật giáo Tây Tạng dạy rằng ý nghĩ cuối cùng trước khi qua đời sẽ quyết định kiếp đầu thai sắp tới của mình. Điều này có vẻ hơi không thỏa đáng đối với con. Chẳng hạn, nếu một người đã tu tập trên con đường tâm linh nhiều năm trời nhưng trước khi rời thân xác họ lại cảm thấy một nỗi sợ chết mãnh liệt, thì điều này sẽ ảnh hưởng kiếp đầu thai tới của họ như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Phật giáo Tây Tạng mang mốt số yếu tố điển hình của cái mà các thày đã gọi là con đường vỏ ngoài, con đường máy móc. Con có thể nhìn vào sự kiện họ có những chiếc bánh xe cầu nguyện có ghi những lời cầu nguyện. Thay vì trì tụng lời kinh trên bánh xe, họ lại quay bánh xe và cho rằng làm như vậy sẽ cân bằng nghiệp quả của họ. Họ cũng tạo nên ý tưởng là họ cần bỏ ra cả đời chuẩn bị tâm trí cho giây phút lâm chung vật lý, để họ có thể có những ý nghĩ sẽ đảm bảo một kiếp hiện thân tối hảo cho kiếp sau.

Tất nhiên con nói đúng hoàn toàn khi con bảo rằng điều sẽ quyết định kiếp sống tới của con không phải là ý nghĩ cuối cùng trước khi xác thân qua đời, mà là tổng thể trạng thái tâm thức của con. Tất cả những tiến bộ mà con đã đạt được trong kiếp này là điều sẽ định đoạt nơi con sẽ đi đến bằng từ trường sau khi con rời xác thân, và những tiến bộ con đạt được giữa hai kiếp hiện thân sẽ định đoạt hoàn cảnh mà con sẽ sinh trưởng trong kiếp sống tới – nếu có.

Như các thày đã giải thích rất nhiều lần, vấn đề chủ yếu là con giải quyết tâm lý của con. Trong Phật giáo Tây Tạng không đề cập nhiều đến việc giải quyết tâm lý – và cũng tương tự như vậy trong đạo Cơ đốc chính mạch cùng hầu hết các tôn giáo chính mạch khác. Đây là một chỉ dấu cho thấy là Phật giáo Tây Tạng, mặc dù những lời khẳng định được đưa ra, hoàn toàn xa rời giáo lý nguyên thủy của ta trên nhiều mặt, cũng như xa rời các giáo lý mà các chân sư thăng thiên trao truyền ngày hôm nay.

Hãy tĩnh tâm và xuôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022, nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền Dân chủ.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” [Bài chú 8.06 Gautama, con an bình trọn vẹn].

Khi ta còn hiện thân là Phật nhiều thế kỷ về trước, một phần lớn trong sứ vụ của ta – mà con có thể gọi là trong Tăng đoàn của Phật – là giúp cho các đệ tử tĩnh tâm hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng. Điều này cần thiết 2500 năm về trước. Thời nay con khó lòng tưởng tượng được thời đó con người sống như thế nào. Con có tưởng tượng nổi không? Đối với những ai trong số các con đủ lớn tuổi để còn nhớ, liệu con có nhớ cuộc sống như thế nào khi chưa có internet? Con có tưởng tượng cuộc sống như thế nào khi chưa có truyền hình? Chưa có máy phát thanh? Con có thể tưởng tượng khi chưa có sách vở và hầu hết mọi người đều không biết đọc?

Ý nghĩ lăng xăng

Chắc chắn đa số con người thời đó đều bận rộn làm lụng thể xác để kiếm sống. Và so với ngày nay, họ chẳng có gì để tiêu khiển hay khích động tinh thần. Con thử nhìn xem thế giới hiện đại có biết bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con? Có lạ lắm không nếu con không có nhiều ý nghĩ lăng xăng? Thật có quá nhiều thứ đang đòi hỏi sự tập trung của con, đòi hỏi con phản ứng lại và làm gì đó. Nhưng ngay cả thuở trước cũng vậy, thử thách lớn nhất mà ta đã gặp trong cương vị một vị thày tâm linh chính là các ý nghĩ lăng xăng nơi mọi người.

Vậy con hãy tưởng tượng ngày nay với tất cả những thứ kích thích đó, thì liệu việc neo trụ vào Ngọn lửa Hòa bình hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng sẽ khó khăn đến chừng nào? Việc tĩnh tâm đã luôn luôn là một thách đố, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử ghi chép mà thách đố này to lớn như ngày nay. Các thày, các chân sư thăng thiên, biết rất rõ là khi các thày trao cho con bấy nhiêu giáo lý như đã ban truyền, thì không nhất thiết là các thày sẽ giúp con tĩnh lặng các ý nghĩ lăng xăng của con dễ dàng hơn.

Đa số mọi người – và chắc chắn vị sứ giả này có thể chiêm nghiệm điều này nơi bản thân ông – đều trải qua một giai đoạn khi họ lần đầu tiên khám phá đường tu tâm linh, và hẳn giai đoạn này đã phấn khích họ mãnh liệt. Nhiều người trong số các con đã lớn lên trong một cuộc sống thiếu vắng chất liệu tâm linh, nhưng con vẫn biết là có một điều gì đó cần tìm kiếm, một điều gì đó còn thiếu sót, một hiểu biết nào đó mà con hằng khao khát. Khi con tìm ra giáo lý tâm linh thì bấy giờ tâm con được dịp rồ máy. Con muốn học giáo lý, con muốn hiểu giáo lý, con muốn thể nhập giáo lý, con muốn thực hành mọi pháp tu mà giáo lý đưa ra. Và con tập trung hết mình vào đó.

Không cứ là việc này có gì sai trái – đó là một tiến trình mà con cần kinh qua. Nhưng liệu con có thấy là kỳ thực nó tạo ra một mức độ suy nghĩ lăng xăng cao hơn nữa hay không? Nhiều người chú tâm vào giáo lý vỏ ngoài, cách tu tập vỏ ngoài, nét văn hóa vỏ ngoài của tổ chức tâm linh mà họ tham gia. Và họ bị cuốn hút vào đó đến độ gần như không còn lúc nào tâm họ có thể tĩnh lặng, có thể trung hòa, có tai lắng nghe.

Sự phóng chiếu liên tục vào tâm con

Thế rồi tới điểm khi con trụ chặt vào đường tu nội tâm. Bây giờ con nhận ra đường tu không thực sự là chuyện tuân theo pháp tu vỏ ngoài hay học hỏi lời dạy vỏ ngoài, mà là giải quyết tâm lý. Con tập trung vào việc giải quyết tâm lý của con, như nhiều người trong các con và sứ giả này đã làm suốt nhiều năm. Nhưng đây lại là thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng nữa. Bỗng nhiên một ý tưởng nảy ra: “Ồ, có lẽ chăng tôi mang xu hướng này trong tâm lý mình? Tại sao tôi lại phản ứng cách đó trong hoàn cảnh đó? Có điều gì tôi chưa nhìn ra? Có điều gì tôi chưa giải quyết? Ồ, tốt hơn tôi nên nhìn xem, tôi nên tìm xem cái đó là gì, vì chắc chắn tôi không muốn trong tâm mình có vấn đề gì chưa giải quyết.” Cho mỗi tầng trên đường tu đều có nguyên một bộ ý nghĩ lăng xăng. Chúng được phóng chiếu vào tâm con từ các tà lực, các sa nhân, từ tâm thức tập thể và từ những cái ngã tách biệt mà con còn sót. Đây là một sự phóng chiếu liên tục.

Lẽ tự nhiên, con có thể làm gì đó về chuyện này. Các thày có dạy con là con có thể thỉnh gọi Đại thiên thần Michael để thày niêm phong tâm con cùng các luân xa của con. Con có thể thỉnh gọi Astrea để thày cắt đứt cho con thoát khỏi nhiều sợi dây ràng buộc với tà lực.

Nhưng có sự phóng chiếu liên tục những ý nghĩ lăng xăng. Một số vị thày trong đạo Phật gọi đó là “tâm khỉ” không ngừng suy nghĩ. Con bị phóng chiếu liên tục. Con có thể làm gì đây? Có thể nào con tắt nó đi? Con không thể thực sự tắt nó đi. Sa nhân sẽ tiếp tục làm những gì chúng vẫn làm. Tâm thức tập thể sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Con có thể giải quyết những cái ngã và điều này sẽ giảm bớt các ý nghĩ. Nhưng dù sao con vẫn có một bộ não, một bộ não vật lý. Và bộ não vật lý được thiết kế để suy nghĩ, hay ít ra để chuyên chở suy nghĩ. Nhưng bộ não vật lý cũng có khả năng tạo ra ý nghĩ vì nó có thể tạo ra một số trải nghiệm và cảm thọ khác nhau. Khi con bước chân trên đường tâm linh, não của con sẽ bắt đầu tạo ra những ý nghĩ tâm linh. Và con có thể cảm thấy mình bắt buộc phải suy nghĩ chúng. Sứ giả này đã bước trên đường tu nhiều năm trời trước khi ông ngộ ra là ông thực sự không bắt buộc phải suy nghĩ bất kỳ ý nghĩ nào đi vào trong đầu ông.

Chuỗi tư tưởng cưỡng chế

Con thử xem xét điều này. Có một ý tưởng đột ngột xuất hiện trong đầu con. Nó có thể được phóng chiếu từ đâu đó không liên quan gì tới con. Nhưng tâm con vẫn cảm thấy bị bó buộc phải suy nghĩ về nó. Con cho rằng, và hầu hết mọi người cũng cho rằng, ý nghĩ đó là của mình. Và con thấy bó buộc phải suy nghĩ nó. Có nguyên một tiến trình khi ý tưởng trải bày ra trong tâm con, thế rồi ý tưởng này dẫn đến một sự liên tưởng, và đột nhiên một ý tưởng khác xuất hiện. Và trước khi con biết chuyện gì xảy ra, mấy phút đã trôi qua và con đã nhảy vào đủ loại đề tài vớ vẩn khác dẫn con thật xa khỏi ý tưởng ban đầu. Sứ giả này đã phải mất một thời gian dài trước khi ông chịu nhìn nhận là ông đã có hiện tượng này suốt đời ông. Những chuỗi tư tưởng, những quy trình này chẳng dẫn tới đâu và chẳng chế tạo được gì. Chúng chẳng giải quyết được gì mặc dù đôi khi chúng khoác lấy hình dạng một vấn đề. Nhưng chúng không bao giờ ngừng, không bao giờ giải quyết hay tạo ra bất cứ gì.

Ta không bảo là con không thể có những ý tưởng xây dựng dẫn đến một hành động tạo ra một kết quả. Nhưng rất nhiều khi con chỉ có ý nghĩ chạy loanh quanh luẩn quẩn, nhảy từ đề tài này sang đề tài khác và không sản xuất được gì. Đây là cái ta gọi là ý nghĩ lăng xăng. Nhiều người, hầu hết mọi người, đều cho rằng: “Ồ, chắc đây là ý tưởng của tôi. Tại sao nó lại nảy lên trong đầu tôi nếu nó không phải là ý tưởng của tôi? Và nếu nó là ý tưởng của tôi thì tôi phải suy nghĩ nó, tôi phải đi theo nó, tôi phải chú ý đến nó.” Nhiều người bỏ ra cả đời trong tâm thái này, không ngừng có những ý nghĩ lăng xăng mà họ cảm thấy họ phải suy nghĩ. Ý tưởng dẫn đến liên tưởng, nó tiếp tục như vậy một vài giây, xong nó dẫn đến một ý tưởng khác, và nó nhảy từ cái này sang cái kia rồi cái nọ, chẳng khác gì một con khỉ đu cây. Nó chẳng đi tới đâu, giống như con khỉ cũng chẳng đi tới đâu. Con khỉ nhảy từ cành này sang cành nọ nhưng vẫn ở nguyên trên cây.

Tâm muốn bận rộn

Tới một điểm trên đường tu con cần nhận thức hiện tượng này và tự hỏi: “Tôi có thực sự muốn các ý nghĩ lăng xăng này chiếm trọn tâm tôi? Tôi có muốn cảm thấy bó buộc phải suy nghĩ về chúng và bị cuốn vào các quy trình tư duy đó, những liên tưởng đó, nhảy qua nhảy lại kiểu đó?” Là một học trò tâm linh, con thường vô hiệu hóa nó, vì khi con học tập một giáo lý tâm linh thì con chú tâm vào lời dạy, và nhiều khi không hay biết, con bỗng gạt đi rất nhiều ý nghĩ như thế do con tập trung vào giáo lý. Ý tưởng nhập vào tâm con vì tâm con lẫn bộ nảo được thiết kế để suy nghĩ, cho nên chúng tưởng là chúng phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con, và ngay cả não của con, cảm thấy là nếu nó không đang suy nghĩ thì có gì đó không ổn và nó không đang làm nhiệm vụ của nó. Cũng từa tựa như nếu tim con ngừng đập. Tim ngừng đập quả sẽ là một vấn đề, nhưng tâm mà ngừng suy nghĩ thì thật sự không là vấn đề, thế nhưng tâm lại cho đó là một vấn đề. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Con cũng có thể vô hiệu hóa quy trình đó bằng cách đọc chú, đọc thỉnh, vì nó khiến tâm con bận việc. Con thấy đó, tâm con phải bận làm một chuyện gì đó. Nó có thể bận học giáo lý, nó có thể bận đọc thỉnh đọc chú, nó có thể bận làm một công việc thực tiễn, nhưng tâm phải chất chứa một chút nội dung nào đó. Phải có chuyện gì diễn ra trong tâm, vì nếu không thì tâm cảm thấy có vấn đề không ổn. Con sẽ thấy là tâm có khuynh hướng muốn bận rộn. Tâm muốn làm việc. Cách đây khá nhiều năm, sứ giả này phát hiện có một phần trong tâm ông muốn giải quyết những vấn đề. Nó được tạo ra để giải quyết vấn đề. Và nó phải có vấn đề để mà giải quyết. Nếu nó không có vấn đề nào để giải quyết ở bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề ở bên trong. Và ông nhận ra là ông có thể bỏ ra cả phần đời còn lại để giải quyết những vấn đề trong tâm do chính tâm ông tạo ra. Nhưng liệu làm vậy sẽ giúp ông đạt được gì chăng trên đường tu hay đường đời?

Làm thế nào con có thể thoát khỏi ý tưởng?

Nếu con quan sát chính mình khi con đang nghe hay đang đọc bài giảng này, chuyện gì xảy ra trong tâm con ngay lúc này? Con đang nhận diện ta là một vị thày tâm linh và một chân sư thăng thiên. Ta đang trao cho con một lời dạy và ta có một mục đích khi làm việc này. Ta muốn giúp con bước chân trên đường tu tâm linh, cho nên con cảm thấy bó buộc phải đặt chú ý vào lời dạy. Và điều gì xảy ra khi con làm vậy? Con có những ý tưởng nảy lên trong tâm. Đó có thể là nhiều loại ý tưởng khác nhau tùy theo từng người, nhưng con có ý nghĩ: “Lời dạy này ý nghĩa là gì? Tôi có thể áp dụng thế nào? Tôi có thể làm gì? Làm thế nào tôi có thể tránh các ý nghĩ lăng xăng đó? Bởi vì đây chính là điều mà hình như Gautama đang ngụ ý tôi phải làm.” Một số các con có thể cảm thấy vô vọng, và một số có thể đang suy nghĩ về cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Làm sao chuyện này có thể được? Và câu hỏi trở thành: Con sẽ làm gì đây?

Nhiều vị thày tâm linh và nhiều đệ tử tâm linh khắp các thời đại đã cố gắng giải quyết vấn đề này theo nhiều cách. Nhiều người, đặc biệt trong truyền thống đạo Phật, đã biết về tâm khỉ. Nhiều người đã tự đặt ra mục tiêu làm cho tâm tĩnh lặng. Họ đã sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, thiền định, quán chiếu, để làm yên tâm họ. Rất nhiều người thời nay, cả tại Mỹ lẫn khắp các nơi khác, đang tu tập đạo Phật và cố gắng áp dụng các kỹ thuật của đạo Phật. Họ sống trong thế giới Âu Tây nhưng họ cho rằng họ phải có thể làm yên tâm họ, y như người ta có vẻ làm được trong một đạo tràng hay một đoàn tăng trên núi ở phương Đông.

Nhưng nếu các con đang sống trong một thế giới Âu Tây bận rộn, liệu điều này có thực tế lắm không? Với tất cả những thứ đang níu kéo sự chú ý của con, tất cả những chuyện được phóng chiếu vào con, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không? Ngay cả nếu con có thể bay đến núi Himalaya để sống trong một tu viện, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không trong một thế giới hiện đại với tâm thức đại chúng bao quanh? Con có thể tự cô lập về mặt địa lý, nhưng đâu là giới hạn của tư tưởng? Thậm chí, liệu tư tưởng có phải tuân thủ giới hạn vận tốc của vũ trụ hay tốc độ của ánh sáng hay không? Không đâu, một ý tưởng không cần bay đến một địa điểm cụ thể để hiện diện tại nơi đó trong vật lý. Nó có mặt ở đó tức thì. Làm thế nào con có thể thoát khỏi các ý nghĩ? Làm thể nào con có thể thoát khỏi tâm thức đại chúng? Chắc chắn là có những cường độ khác nhau, nhưng con không bao giờ có thể thực sự thoát khỏi nó. Và làm thế nào con có thể thoát khỏi chính tâm con khi nó cứ muốn suy nghĩ suốt ngày để cảm thấy nó đang làm nhiệm vụ của nó?

À, xuyên qua các thời đại, một số người đã tìm kiếm nhiều cách khác nhau để cố xử lý cái tâm này. Một số vị thày Phật giáo đã nhìn nhận là chuyện này không thể làm được. Và họ còn đặt vấn đề là liệu việc khiến cho tâm tĩnh lặng có cần thiết hay không.

Con không thể tĩnh tâm bằng cách suy nghĩ về phương cách tĩnh tâm

Điều ta muốn gợi ý, duy chỉ như một cách để xử lý vấn đề này, là con nhìn nhận rằng con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và các chân sư đã trao cho con một số dụng cụ. Tất nhiên, con sẽ dùng các dụng cụ này. Con sẽ thỉnh gọi sự bảo vệ tâm linh, thỉnh cầu để mình được cắt ra, thỉnh cầu cho tâm được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng. Đó là một việc quan trọng và cũng là một việc chính đáng. Nhưng ta cũng sẽ gợi ý là ở giữa tất cả những bài chú, bài thỉnh, ở giữa tất cả việc học tập giáo lý cùng các sinh hoạt thường nhật, con hãy dành ra một chút thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì khi con cố làm cho tâm yên tĩnh thì con đang làm gì chứ? Con đang sử dụng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Và làm thế nào tâm có thể khiến cho tâm tĩnh ngoại trừ bằng cách suy nghĩ về một cách khiến cho tâm tĩnh? Và khi con suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh thì con vẫn đang suy nghĩ đó. Tâm đang làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm, cho dù hình như con đang muốn nó tĩnh lặng.

Buông các ý nghĩ

Ta đề nghị con tiếp cận một cách khác hơn. Trước hết, con quyết định là con sẽ dành ra một khoảng thời gian, con vào một phòng yên tĩnh và con có thể bắt đầu đọc chú, đọc thỉnh, nhưng con hãy vào một phòng yên tĩnh. Con không ngồi trong tư thế thiền định, khoanh chân như người ta thường làm. Con nằm trên một chiếc giường hay đi-văng êm ái nơi con có thể thư giãn thân thể, hầu con không có cảm giác nào, không bị khó chịu phải giữ một tư thế nhất định nào. Con chỉ nằm đó, tốt nhất là trong phòng tối, chắc chắn một phòng yên tĩnh. Và sau đó mục tiêu của con là tĩnh tâm, ở trong một trạng thái trung hòa của tâm. Tâm trung hòa (neutral) quan trọng hơn là tâm tĩnh (still) không có ý tưởng. Thay vào đó, con cố gắng, con nỗ lực, con có mục tiêu rằng: “Tôi sẽ trung hòa.”

Điều này có nghĩa là con không đóng chặt để ý tưởng không vào được, mà con không giao tiếp với nó. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Và như vậy, con nằm đó với mắt nhắm. Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông [surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại]. Tôi để cho nó đi.” Con buông ý nghĩ. Thay vì suy nghĩ về nó, đặt chú ý vào nó, cho phép nó liên kết bay ra mọi phía, thì con buông nó, con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi. Lúc đầu, việc này có thể khó khăn. Nhưng con càng giải quyết được nhiều ngã tách biệt trong tâm thì sẽ càng dễ dàng hơn. Và con có thể đạt tới điểm khi, ít nhất trong một khoảng thời gian, con có thể tiếp tục nói: “Tôi buông. Tôi cho nó đi. Tôi buông. Tôi buông.” Bất kỳ ý tưởng nào hiện lên, con chỉ buông nó ra. Con không giao tiếp với nó. Rất có thể con sẽ nhận thấy là tâm con bị chuyện này làm khuấy động, nó có thể cuống cuồng hoảng sợ: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ những ý tưởng tôi đang gửi cho bạn? Tại sao bạn lại làm ngơ, phớt lờ tôi đi? Bạn không còn ưa tôi nữa sao?” Tất cả những điều đó có thể khởi lên với con. Hoặc có thể con chỉ cảm thấy một sự xao động hay bối rối, vì tâm không biết nó phải làm gì khi con không suy nghĩ các ý tưởng đó. Nhưng con có khả năng cứ tiếp tục như vậy.

Thỉnh thoảng sẽ có một ý tưởng thu hút sự chú ý của con. Con đi theo nó. Và con đi tới chỗ này chỗ nọ, xong thình lình con chợt nhận ra: “Ồ, tôi lại đang suy nghĩ rồi.” Khi đó, con chỉ quay trở lại: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông.” À, con cần thận trọng ở đây. Con đừng cuồng loạn khi làm chuyện này. Đừng biến nó thành một áp lực. Đừng bị căng thẳng bởi nó. Đừng cảm thấy là con phải có khả năng làm bài tập nói trên và con phải có khả năng buông bỏ các ý nghĩ. Con chỉ việc thực tập một cách thoải mái, càng thư giãn càng tốt. Quả thực những giây phút như thế sẽ giúp con rất nhiều, như các thày đã có đề cập, khi cái Ta Biết của con đứng bên ngoài tâm ý thức và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là gì? À, đó là khi con ý thức mà không có ý nghĩ. Giống như thể con ý thức nhưng không có nội dung chất chứa trong tâm thức.

Sử dụng thần chú

Một số kỹ thuật thiền lấy điều này làm mục tiêu. Một số kỹ thuật thiền sử dụng một câu thần chú không mang ý nghĩa nào, và con chỉ lặp đi lặp lại câu đó. Và khi nào con nhận ra là con đang suy nghĩ, con chỉ quay trở lại với câu thần chú. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là điều mà con đang làm ở đây, chỉ có điều câu thần chú của con là: “Tôi buông.” Nếu chuyện này không hiệu quả thì con có thể dùng một câu chú. Ta đề nghị con dùng câu OM, con đọc OM lặng lẽ trong tâm con. Khi con có một ý nghĩ, con chỉ quay trở lại với OM. Con chú tâm vào OM, con lặp lại OM. Nhưng đối với nhiều các con, sẽ hiệu quả hơn nếu con nói: “Tôi buông. Tôi buông ý nghĩ này.”

Ta hoàn toàn không có ý nói rằng đây là một liệu pháp thần kỳ, rằng nó nhất thiết sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ lăng xăng. Nhưng nó có thể hữu ích nếu con thực hành. Con không cần phải làm thật lâu, thậm chí con không phải làm mỗi ngày. Chẳng hạn, con có thể thực tập buổi tối khi con nằm trên giường chuẩn bị đi ngủ. Nó có thể sẽ mở tâm con ra một cảm giác an bình – “niềm thanh thản cho Biển động Luân hồi được yên lắng.”

Tâm tĩnh do trung hòa

Thế nào là Biển động Luân hồi? Nhiều người nghĩ đó là thế gian cùng các hoạt động vật lý trong thế gian, nhưng thật ra đó là tâm. Khổ đau xảy ra ở đâu? Trong tâm. Và con khăc phục khổ đau ở đâu? Trong tâm. Nhưng những ai không nắm được lời dạy của Phật sẽ chú tâm vào các thứ vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng chính các cảnh huống vỏ ngoài khiến cho tâm trải nghiệm khổ đau. Và do vậy họ nghĩ giải pháp duy nhất là thay đổi cảnh huống vỏ ngoài. Nhưng trong nhiều trường hợp, họ không thể thay đổi cảnh huống vỏ ngoài, một phần là vì người khác không chịu hợp tác, cho nên họ sống trong nỗi bực bội không nguôi tức là Biển Luân hồi.  

Bây giờ là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con cũng có thể tạo ra phiên bản riêng của con về Biển Luân hồi, qua đó – như PadmaSambhava có nói – con không ngừng tập trung vào việc giải quyết một vấn đề gì đó trong tâm lý của con, hay thay đổi thế giới, hay đọc bài thỉnh, hay tìm hiểu giáo lý, hay một việc để cải thiện thế giới, quảng bá giáo lý, hay bất kỳ điều gì khác. Con có thể nhìn vị sứ giả này và nói: “Đấy, ông ấy đã đi trên đường tu tâm linh rất nhiều năm trời, ông đã làm sứ giả được gần 20 năm, ông đã có một cuộc sống đầy ý nghĩa và ông được làm việc với các chân sư thăng thiên để ban truyền tất cả những lời dạy kia với sách với trang mạng kia, vân vân.” Nhưng có lẽ con không nhận ra là việc làm này đã khó khăn đến chừng nào. Ông đã có thể làm việc cho tới kiệt sức, ông đã có thể bị căng thẳng đến độ suy sụp tâm thần, ông đã có thể bị choáng ngợp bởi tinh thần trách nhiệm phải chu toàn điều này hay điều nọ. Và chắc chắn đã có những thời kỳ ông phải nếm mùi sự bực tức cao độ khi ông cảm thấy cho dù mình có làm nhiều đến đâu thì vẫn chưa đủ, hay chưa tốt đủ, và mình luôn luôn muốn làm nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì ông đã sống sót, và các con cũng vậy, các thày muốn tất cả các con sống còn. Ông đã sống còn bằng cách xem xét tất cả những gì ta vừa trình bày với con, bằng cách tìm ra một thế quân bình, tìm ra Trung đạo, và không bị bực bội, không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng, bằng cách tĩnh tâm.

Điều đã giúp cho sứ giả này là ngay từ buổi đầu, ông đã nhận ra là để nhận được thông điệp từ các chân sư thăng thiên, ông phải ở trong một tâm thái trung hòa. Có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không hoạch định con sẽ trở thành một sứ giả, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ của con có việc tiếp nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ các thày thay vì từ một giáo lý vỏ ngoài. Hầu nghe được Hiện diện TA LÀ của con hay một chân sư thăng thiên, con cần ở trong tâm thái trung hòa đó. Con cần dành ra một thời gian để nỗ lực ở trong tâm thái trung hòa đó mà không phấn đấu. Thay vào đó, con đánh gạt tâm con, con khiến cho nó bối rối, để các ý nghĩ lăng xăng không chiếm trọn sự chú ý của con.

Một cách tiếp cận giáo lý cân bằng

Biết bao nhiêu thứ níu kéo tâm con. Biết bao nhiêu thứ. Các thày nhìn nhận là các lời dạy của các thày có thể dễ dàng biến thành một lực níu kéo khác đối với tâm con. Các thày đành nhận lấy rủi ro này, một rủi ro có tính toán. Khi con quan sát diễn biến trong thời gian gần 20 năm qua khi đợt truyền pháp này hoạt động, con sẽ thấy – như các thày đã có đề cập – là giáo lý được ban ra có nhiều cấp độ. Đã có những giáo lý vượt xa hơn giáo lý ban đầu. Con sẽ thấy là một số người đã khám phá ra giáo lý, tham gia được một thời gian rồi bỏ đi làm công việc khác. Lại có một số người đã buộc tội sứ giả này trở thành một sứ giả giả trá. Còn một số khác thì đã tìm được một giáo lý khác để chuyên chú đi theo.

Các thày xác định được là sứ giả này đã sẵn lòng thăng vượt mức tâm thức của ông đến độ các thày có thể ban truyền những cấp độ giáo lý khác nhau đó. Cho nên các thày đã và đang tiếp tục ban truyền giáo lý vì các thày muốn gửi càng nhiều giáo lý càng tốt vào cõi vật lý. Nhưng điều này không có nghĩa là con phải cảm thấy bó buộc luôn luôn theo sát những lời dạy mới nhất. Điều hoàn toàn phải lẽ là con có thể thấy một lời dạy nào đó – ngay cả một lời dạy được ban ra cách đây nhiều năm – hấp dẫn con, có vẻ quan trọng đối với con. Điều hoàn toàn phải lẽ là con tập trung vào lời dạy đó, học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, và không để ý đến những lời dạy đang được ban ra.     

Con không cần phải tham dự tất cả mọi hội nghị hay hội thảo trên mạng. Con không cần phải đọc tất cả mọi quyển sách hay mọi bài truyền đọc hay mọi lời giải đáp được đăng tải. Con không cần cảm thấy áp lực phải dự phần vào những giáo huấn đó. Đây quả thực là một sự thay đổi so với các tổ chức trước đây mà trọng tâm được đặt nhiều hơn vào việc đệ tử phải làm cái gì đó suốt ngày, thậm chí phải đọc chú hàng giờ liền để thay đổi thế giới. Nhưng các thày muốn các con được tự do đi vào nội tâm. tập trung vào những giáo lý mà con cảm thấy mình cần tập trung và bỏ qua phần còn lại. Thật hoàn toàn phải lẽ nếu con bỏ ra mấy tháng trời hay mấy năm trời để chú tâm vào một lời dạy cụ thể, rồi khi con cảm thấy mình đã tiến xa đủ với nó thì con có thể quay trở lại và nói: “À các chân sư có vừa dạy thêm gì nữa không?”        

Không có một cách duy nhất để bước chân trên đường tâm linh. Việc đi theo một giáo lý tâm linh không được biến thành một cái áo tù bó tay bó chân như từng xảy ra cho nhiều người, cả đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn các đệ tử tâm linh khác, hay tất nhiên như đang xảy ra cho hầu hết mọi người sùng đạo. Nhưng để tránh sự thể này, con cần sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình và nhận ra là phản ứng đó đến từ một cái ngã trong tâm. Chân sư MORE có nói: “Hãy nhìn cuộc đời. Mọi thứ xảy ra trong đời đều là một cơ hội để con làm việc trên tâm lý của con.” Vậy con hãy nhìn vào một lời dạy tâm linh, một đường tu tâm linh và một tổ chức tâm linh cũng theo cách tương tự. Tất cả mọi thứ đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì đó chưa giải quyết trong chính tâm con, trong tâm lý của con. Tại sao con phản ứng cách con đang phản ứng?  

Nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngay trong tâm

Con thử nhìn xem những ai đã rời bỏ giáo lý tâm linh và bây giờ đổ lỗi cho đạo sư hay vị thày hay sứ giả hay chính giáo lý đó. Họ đang làm gì vậy? Họ đang phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm của họ nằm ngoài tâm họ. Trải nghiệm thì xảy ra trong tâm nhưng nguyên nhân thì nằm ngoài tâm. À, nếu thế thì con không thực sự là một học trò tâm linh rồi, vì cốt lõi của con đường tâm linh chính là việc điều ngự tâm con. Và làm sao con có thề điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngoài tâm? Nếu con nghĩ một vị đạo sư hay một sứ giả nào đó có quyền lực trên trải nghiệm nội tâm của con, thì con bất lực không thể thay đổi được trải nghiện nội tâm. Và nếu con bất lực không thay đổi được trải nghiệm nội tâm thì làm sao con có thể tinh tấn trên đường tu tâm linh khi tinh túy của đường tu tâm linh là việc điều ngự trải nghiệm nội tâm? Khi con tự xưng là một học trò tâm linh mà lại phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm nội tâm của con nằm ngoài tâm con, thì đây chính là một bất nhất nhận thức (cognitive dissonance).

Chờ đợi giáo lý sẽ chứng thực phin lọc nhận thức của mình

Các thày thấy, không cứ trong phong trào này mà chắc chắn trong nhiều phong trào tâm linh, là có một tỷ lệ những người tìm ra một giáo lý tâm linh – một giáo lý tâm linh chính đáng và chân truyền – nhưng họ lại rơi vào phản ứng như vậy. Hoặc họ ở lại trong phản ứng đó vì họ đã từng ở trong đó trước khi tìm ra giáo lý, và họ phóng chiếu ra. Thày Giê-su đã giảng dạy điều gì về tâm thức Phêrô (Peter)? Phêrô công nhận là có điều gì đó đặc biệt nơi Giê-su, nhưng ông không nắm bắt được sự kiện Giê-su đặc biệt là vì Giê-su ở ngoài tâm của Phêrô cho nên có thể cho Phêrô một khung tham chiếu từ ngoài tâm ông. Thay vào đó, Phêrô lại muốn kéo Giê-su vào chính tâm mình và khiến Giê-su phải tuân theo những hình ảnh cùng chờ đợi mà ông có trong tâm.

Hàng ngàn, hàng vạn người, cả ở phương Tây lẫn phương Đông nhưng đặc biệt ở phương Tây, đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính nhưng họ lại phóng chiếu ra ngoài. Họ nhận diện một điều gì đó trong giáo lý đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu phóng chiếu ra để khiến cho vị thày phải tuân theo những chờ đợi của họ. Họ không nắm được là toàn bộ mục đích của con đường tâm linh là thoát khỏi, là thăng vượt, là giải quyết các hạn chế trong chính tâm mình.

Điều kiện vỏ ngoài kích hoạt chứ không gây ra

Khi con nắm được điểm này, con sẽ thấy là không thể nào có một nguyên nhân bên ngoài tạo ra các hiện tượng bên trong tâm con. Không thể nào. Hiện tượng trong tâm là do tâm sản xuất ra. Chúng có thể được kích hoạt, chúng có thể là phản ứng trước một cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài. Đây là tinh túy của lời dạy mà ta đã trao cách đây 2500 năm. Con sẽ không tìm thấy lời dạy này trong bất kỳ giáo lý nào được ghi lại. Nó đã không được diễn đạt với ngôn từ đó, nó đã không được diễn đạt rõ ràng như chúng ta có thể ngày nay, vì tâm thức tập thể đã được nâng lên. Nhưng đó chính là điều ta đã cố gắng trao cho đệ tử của ta. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không. Đó cũng là điều mà Giê-su đã cố trao cho đệ tử của thày. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không, và Phêrô nằm trong số người này.

Các thày mong mỏi là những ai trong các con cởi mở với những lời dạy này có thể làm cuộc xoay chuyển đó trong tâm mình, tức là con có thể chấp nhận không có gì bên ngoài tâm con là nguyên nhân cho những gì xảy ra bên trong tâm con. Mọi chuyện xảy ra trong tâm con là kết quả của những điều kiện trong tâm con. Con có thể nghĩ là ta đang mâu thuẫn với những gì ta vừa nói ở trên liên quan đến rất nhiều ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con. Nhưng con thấy đó, ý nghĩ chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một cái ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm. Ta đã trình bày về điểm nay 2500 năm trước đây, về hành uẩn (samskara) trong tâm, về các khuôn nếp trong tâm. Bây giờ các thày gọi là ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến, một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi một trong những cái ngã đó hoạt động. Nhưng nếu con cứ tập trung vào cái nguyên do bên ngoài, cái điều kiện bên ngoài, và tưởng đó là nguyên nhân, thì làm thế nào con có thể thay đổi được phản ứng bên trong tâm con? Con không thể đóng chặt không cho các ý tưởng phóng chiếu đi vào tâm con. Là một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi chính tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

Tĩnh tâm có nghĩa là gì

Và đây là điều có thể xảy ra lần hồi khi con giải quyết các ngã đó, khi con thực hành bài tập này và buông ý nghĩ. Con có thể đạt tới điểm khi không phải là con không có ý nghĩ nào phóng chiếu vào tâm từ ngoài, không phải là con không có bộ não và tâm vỏ ngoài sản xuất ý nghĩ từ trong, mà cái Ta Biết của con, sự nhận biết ý thức của con, không giao tiếp với chúng. Chúng chỉ lướt xuyên qua.

Con hãy nghĩ đến hình ảnh của PadmaSambhava, của người đứng đó, hay người đứng trong phong cảnh bao la đó nhưng không nhìn thấy phong cảnh mà chỉ tập trung vào đám mây đen. Đấy, con có thể nghĩ là có nhiều ý nghĩ đi vào đầu con, nhưng trong thế giới vẫn còn rất, rất nhiều điều kiện mà con không nhận thấy, không chú ý. Con có thể đi bộ trên đường phố, bước qua nhiều người khác nhau nhưng con không để ý đến họ. Hay có lẽ con để ý một hai người nhưng số còn lại thì chỉ lướt xuyên qua. Con có thể đạt tới điểm khi con có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. Và đây chính là khi con đã làm yên tâm con. “Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngừng hẳn, mà có nghĩa là chúng ngưng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con. Đó là cách mà ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

Trải nghiệm Ngọn lửa Hoà bình Hoàn vũ

Thế thì câu điệp khúc mà các con vừa đọc lên nói gì? “Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ, chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”. Con có thể suy ngẫm và hòa điệu với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ mà ta giữ cho địa cầu, và con cũng có thể sử dụng để tránh tập trung vào các ý nghĩ. Nhưng đây là một điều mà hầu hết mọi người không thể làm được khi mới bắt đầu, và đó là tại sao ta đã cho con các bài tập kia trước. Nhưng chắc chắn một khi con đã đạt được một trình độ không dính mắc nào đó đối với ý tưởng, một khi con đã bỏ ra một thời gian để nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông,” thì sau đó con có thể quyết định chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta, hòa điệu vào đó, mở tâm con ra với nó và đơn giản được nó bao bọc chung quanh.

Tuy nhiên con hãy cẩn thận ở đây. Điều gì xảy ra cho tâm con khi ta nói Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ? Điều xảy ra trong tâm sứ giả là ông nghĩ ông phải thấy nó như một ngọn lửa. Phải có một loại lửa nào đó có một hình thù nào đó, và ông phải có thể hòa điệu vào ngọn lửa. Nhưng làm vậy thì đã khiến cho tâm suy nghĩ rồi – con không hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang suy nghĩ về chuyện hòa điệu vào ngọn lửa. Và chừng nào con còn nghĩ ngợi về nó, con còn suy nghĩ, con còn nhìn ngọn lửa như một cái gì tách biệt với con, một cái gì ở ngoài kia: “Lửa ở đó, tôi ở đây, tôi phải hòa điệu vào cái ở đó,” thì con không thể làm được. Không thể nào làm được. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc không ở trong ngọn lửa. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc suy nghĩ về chuyện ở trong ngọn lửa. Nhưng ở trong đó hay nghĩ tới việc ở trong đó – hai cái này khác nhau. Đó là tại sao con cần một chút thực tập để tới điểm con không thực sự hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang trải nghiệm ngọn lửa, con đang ở trong đó, con đang được nó bao trùm.

Trong chương trình canh thức chữa lành tâm lý, con vừa được thày Hiện diện Tình thương ban truyền một bài thực tập, một bài thỉnh cầu, qua đó con hình dung một cái tháp quan sát [xem bài truyền đọc ở đây] và con nhận thấy có một chiếc cầu thang dẫn lên một mặt phẳng và có một vị chân sư đang đứng trên mặt phẳng. Khi sứ giả này bắt đầu làm bài tập đó, ông hình dung trong tâm có một chân sư đứng đó như một hình người đứng trên mặt phẳng, và ông bước chân lền cầu thang rồi ôm lấy chân sư như thể ông ôm một người. Nhưng sau vài ngày, ông nhận ra là kỳ thực, làm vậy sẽ khiến ông bị rối trí, vì ông cho rằng mình phải hình dung tiến trình và điều này kéo chú tâm của ông ra khỏi việc trải nghiệm vị chân sư. Thế rồi ông nhận ra là thay vì hình dung hình một người và chính ông cũng là một hình người đang ôm lấy chân sư, thì ông có thể thay đổi cách hình dung để cảm thấy mình không phải là một hình người đang leo lên cầu thang, mà mình chỉ là một điểm chú ý, mình được bao bọc trong quả cầu là vị chân sư, quả cầu tâm thức, Hiện diện của vị chân sư. Thậm chí ông có thể cảm thấy mình là một cái chấm bên trong quả cầu của chân sư đang nhìn xuyên qua Hiện diện của chân sư, và làm như vậy sẽ cho ông một trải nghiệm mật thiết hơn.

Một điều tương tự cũng xảy ra với Ngọn lửa Hòa bình. Con không ngồi đó như một hình người cố gắng hòa điệu với ngọn lửa ở ngoài kia đang bốc cháy giống như những đám lửa mà con thường thấy. Ngọn lửa ở đây là một quả cầu, và con thì là một cái chấm. Con ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm ngọn lửa, thậm chí con trải nghiệm xuyên thấu qua ngọn lửa. Khi con đã làm nhiều lần và có trớn, con còn có thể nhìn thế giới xuyên qua ngọn lửa. Đây là cách con có thể dùng Ngọn lửa Hòa bình. Và khi con chỉ trải nghiệm Ngọn lửa Hòa bình và chính con cũng ở trong ngọn lửa, chính con là một với ngọn lửa, thì các ý nghĩ lăng xăng sẽ chấm dứt. Nhưng như ta vừa trình bày, ít người làm được điều này ngay từ đầu, và con cần đi qua một số bước.

Một lần nữa đối với một số người, điều này sẽ khó thực hiện. Con đừng quá lo lắng. Đừng cảm thấy là mình phải làm cho được. Ta chỉ cống hiến cách này cho những ai đã sẵn sàng. Nếu con chưa sẵn sàng thì chẳng có vấn đề gì, và cũng không có gì để xấu hổ. Con không đang làm gì sai trái cả. Con hãy tìm một lời dạy hấp dẫn đối với con rồi chú tâm vào đó. Đôi khi như PadmaSambhava có nói, con có thể bị ghiền chuyện giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm lý con, gần như thể con nghiện bước chân trên đường tâm linh, và con cảm thấy mình phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày đưa ra, con phải có thể sử dụng, phải có thể tận dụng, phải có thể hình dung cái này hay cái nọ.

Dùng trực giác để bước trên đường tu

Hãy đứng lui lại. Con không phải làm tất cả mọi thứ. Con không phải tận dụng mọi thứ mà các thày đề nghị ở đây. Con cần tìm ra cái khía cạnh của giáo lý thu hút con ở mức tâm thức hiện thời của con trong số 144 tầng tâm thức. Con không nhất thiết cần biết mình đang đứng ở tầng nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác rằng lời dạy này hấp dẫn đối với con. Xong con hãy tập trung vào đó chừng nào con cảm thấy mình còn cần đến nó. Sự thể là nhiều người trong các con đã không làm như vậy. Con đã tiếp cận một cách năng động hơn, con tìm ra giáo lý, con hào hứng với giáo lý và con nói: “Ồ, tôi muốn làm mọi thứ. Tôi muốn học hỏi tất cả, đọc hết tất cả. Tôi muốn thực hành tất cả, đọc tất cả các bài thỉnh và điều này điều nọ.” Làm như thế cũng phải lẽ thôi, nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Mong thay sẽ tới một giai đoạn khác khi con bắt đầu có nhiều trực giác hơn. Thay vì cố bước trên đường tu với tâm vỏ ngoài, con bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Và thay vì cố làm mọi thứ một lượt, con tập trung vào đúng một thứ mà con cần ngay bây giờ, và con không tiếc nuối, con không có cảm tưởng mình bị bắt buộc, hay cảm giác là mình phải làm nhiều hơn. Con chú tâm vào đúng một chuyện, xong con tận dụng nó chừng nào mà con còn cần đến nó, sau đó con lại tìm đến điều kế tiếp sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Các thày đã cho con rất nhiều thứ vì các thày biết khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên, con thường chưa có một phương hướng nội tâm mạnh mẽ. Con nói: “Tôi có thể làm gì? Hãy cho tôi một việc gì đó mà tôi có thể làm.” Đó cũng chính là cảm nhận của sứ giả này khi lần đầu tiên ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Ông vô cùng háo hức – chúng ta có thể gọi là ám ảnh cưỡng chế – khi đọc chú, học hỏi giáo lý, dọn sang Hoa Kỳ, tu học tất cả những khóa tu kia và vân vân. Một lần nữa, ông cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng sẽ tới điểm khi ông nhận ra đã tới lúc ông cần tiếp cận một cách khác. Tới lúc ông cần ngưng tập trung vào việc cứu nguy thế giới cho Saint Germain, và thay vào đó, ông tập trung vào việc giải quyết tâm lý của chính mình. Và điểm đó đã tới khi thay vì để cho tâm vỏ ngoài của ông cuống cuồng muốn làm chuyện này chuyện nọ, ông đã bắt đầu lắng nghe trực giác, và nhờ vậy ông đã bắt đầu nhận được nhiều sự hướng dẫn hơn từ các chân sư, cho đến khi ông có khả năng nhận được lời hướng dẫn của Giê-su muốn thực hiện một công việc xuyên qua ông, và tất cả đã dẫn đến việc phụng sự mà ông đã cống hiến.

Bước từng bước một là đủ rồi

Con cũng có thể đi theo cùng mô thức như vậy. Tất nhiên, tất cả các con sẽ không phụng sự giống nhau, nhưng các con vẫn có thể đi theo tiến trình lắng nghe đó, bước đi từng bước một, tập trung vào từng bước một. Con không thể leo nguyên cái cầu thang bằng cách bước tất cả mọi bực thang cùng một lúc. Con có thể toan nhảy hai ba bước một, nhưng làm vậy sẽ khiến con kiệt sức trước khi con leo đến đỉnh. Con hãy vừa lòng với việc bước đi từng bước. Chẳng có gì sai trái nếu con ở tầng tâm thức 48 và chú tâm tìm cách bước lên tầng 49. Con sẽ luôn luôn ở một tầng nào đó cho tới khi con thăng thiên, và thử thách sẽ luôn luôn là bước lên bực kế tiếp. Đường tu là như thế đó.

Tâm đường thẳng muốn làm đủ mọi trò trống. Các ngã tách biệt của con cứ muốn nói: “Ồ, lẽ ra tôi phải tiến bộ hơn thế này. Đáng lý tôi phải ở một tầng cao hơn hiện nay. Tôi không được ở tầng hiện tại của tôi. Tôi phải cao hơn 10 hay 50 tầng. Tôi phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày chỉ bảo. Tôi phải biết hết giáo lý.” Tất cả những chuyện này chỉ là tâm vỏ ngoài đó thôi, là những ý nghĩ lăng xăng do các ngã tách biệt sản xuất ra, hay là phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường đạo.

Hãy đứng lui lại. Lắng nghe từ bên trong. Khi tâm vỏ ngoài phóng chiếu tới con: “Bạn phải làm cái này hay bạn phải làm cái kia,” con sẽ phản ứng ra sao? “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Và con cứ tiếp tục buông hoài cho tới khi con đạt tới trạng thái có khả năng lắng nghe từ bên trong. Rồi một ý tưởng sẽ đến với con: “À, tôi sẽ làm điều này, vì nó không đến từ bên ngoài, nó không đến như một bổn phận tôi phải làm điều đó.” Nó chỉ đến như một ý nghĩ về một điều con có thể làm. Không có chút áp lực nào, cho nên con làm theo. Nhưng đây là một thử thách, một thử thách to lớn để có thể hành xử như vậy trong một thế giới hiện đại quá bận rộn, nơi có quá nhiều thứ níu kéo chú ý của con, lôi con về phía này hay phía nọ, nơi có quá nhiều áp lực mình phải làm cho giỏi, phải làm tốt hơn nữa, phải học hành, phải có giáo dục hay nghề nghiệp, phải kiếm nhiều tiền, phải có ngôi nhà thật lớn, tất cả những thứ như vậy, đặc biệt tại Hoa kỳ nơi mọi người đều phải cố sánh kịp với ông A bà B, và không một ai bỏ ra một phút để tự hỏi: “Ủa, thế ông A bà B đang cố sánh kịp với ai đây? Liệu người đó có thật không? Có ai đã gặp ông Nặc danh bao giờ chưa?”

Con nhận ra ở đây là khi lần đầu con tìm thấy một con đường tâm linh, như ta có nói về sứ giả này, ông đã đương đầu với nó như một thách đố. Cũng giống như chuyện chinh phục một ngọn núi vậy. Đó là một nhiệm vụ phải làm cho được, là một sự nghiệp khi ông bước trên đường tu tâm linh. Đó là một cuộc phấn đấu. Ông cảm thấy ông phải đạt được kết quả tốt. Ông phải làm tròn những mong đợi của chính mình cũng như mong đợi của người khác, mong đợi của một vị sứ giả và mong đợi của các chân sư thăng thiên. Có quá nhiều thứ mà ông phải cố xứng đáng và ông háo hức muốn làm tròn. Nhưng rất may, thay vì bị kiệt lực, ông đã tới điểm đứng lui lại và nhận ra nhu cầu tập trung vào tâm lý của mình. Và tất cả các con có thể làm được tương tự.

Đây không phải là một sự nghiệp, không phải là một áp lực, không phải là một chuyện con phải hoàn thành và đạt được. Các thày đã nói gì về những ai sẵn sàng dùng vũ lực? Rằng vũ lực sẽ không đưa con đến đâu trên đường tu tâm linh. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con có thể cưỡng chiếm bằng vũ lực một vật mô phỏng thiên đàng, nhưng đó không phải là thiên đàng. Con đừng tự ép mình phải đi trên đường tu. Vũ lực đến từ ngã tách biệt. Hãy nhận diện nó và buông nó ra. Rồi sau đó, làm thế nào con sẽ bước trên đường tu tâm linh khi con không còn tự ép mình chứ? Bằng cách xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Ta cũng biết đây là một khái niệm khó khăn, đặc biệt đối với những ai đã lớn lên trong thế giới Âu tây – xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Nhưng dù sao thì đó vẫn là một điều để con ngẫm nghĩ cùng với các lời dạy mà các thày đã trao và sẽ trao.

Cho phép mình xuôi chảy

Câu kinh thánh nói gì chứ? “Tốt lắm, hỡi người đày tớ trung tín kia. Con đã từng trung tín trong một ít việc. Ta sẽ giao cho con trọng trách của nhiều việc.” Một lần nữa, đây là câu chuyện nhân lên các ta-lăng. Con đã nhân lên các ta-lăng mà các thày đã giao cho con. Con đã tinh tấn. Hãy nhìn nhận điều đó. Đứng lui lại. Hãy nhìn xem con đã tiếp cận con đường tâm linh như thế nào cho tới giờ, rồi hãy quyết định buông bỏ cách đó, và nhìn xem những gì đến với con từ nội tâm. Con có thể nghĩ sứ giả này có một số khả năng hay chứng đạt đặc biệt và đó là lý do ông làm sứ giả. Chắc chắn người ta đã phóng chiếu ý tưởng này trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây khi vị sứ giả được xem là vô cùng đặc biệt. Nhưng tại sao sứ giả này lại là sứ giả chứ? Tại sao ông lại trở thành sứ giả? Tại sao ông vẫn là sứ giả 20 năm sau? Bởi vì ông đã sẵn lòng buông xả hết lần này đến lần khác. Ông đã sẵn lòng buông ra bất kỳ dính mắc nào về giáo lý cũng như về việc làm sứ giả. Tới một điểm khi cách duy nhất để tiến bước trên đường tu tâm linh không phải là bằng vũ lực hay bằng nỗ lực, không phải là qua trung gian tâm vỏ ngoài. Cách duy nhất để tiến tới là buông ra, là từ bỏ, là cho phép chính mình xuôi chảy với dòng chảy.

Với những lời này, ta đã cho con những gì ta muốn cho con, và ta chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các chân sư đối với sự tham gia của con trong hội nghị này cũng như việc con sẽ sử dụng các lời dạy. Ta niêm hội nghị này trong ngọn lửa vui mừng của Hòa bình Hoàn vũ của đức Phật mà TA LÀ. Hãy an bình. An bình. Tĩnh lặng.

Bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý tâm linh

Hỏi: Liệu chân sư thăng thiên Phật Gautama có cảm thấy đau buồn khi thấy một số nước như Myanmar và Sri Lanka tuyên bố đi theo đức Phật cùng giáo lý của Phật, nhưng họ lại cho phép sự cưỡng hiếp hàng loạt những phụ nữ Hồi giáo Rohingya hay sự tiêu diệt hàng loạt những người Ấn giáo Tamil? Hay sự áp chế các nhà truyền giáo Cơ đốc tại Bhutan, thậm chí cả kỹ nghệ du lịch tình dục trụy lạc đang phồn thịnh tại Thái Lan? Liệu ngày nay có quốc gia nào nơi đạo Phật chiếm đa số còn sống trọn với các lý tưởng của Phật hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 26/6/2022.

Khi con đã đạt đến trạng thái tâm thức Phật thì con không còn trải nghiệm sự đau buồn theo cách định nghĩa của con người. Và một khi con đã trao truyền một lời dạy tâm linh trên địa cầu thì con biết, ít ra là sau khi con thăng thiên, con biết là một khi giáo lý tâm linh đã được ban ra trong cõi vật lý thì con không thể kiểm soát được mọi người sẽ sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào để diễn giải hay thực hành giáo lý. Giê-su cũng đã kinh qua trải nghiệm đó y như những bậc khác đã thăng thiên. Con buông nó ra, con để cho chính lời dạy của con ra đi. Con chỉ đơn giản để cho nó ra đi và con nói: “Lời dạy đã ở cõi vật lý. Cơ hội đã được trao ra. Dù người ta có làm gì với nó thì đó là quyền tự quyết của họ.”

Hiển nhiên ta có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Phật và ta thấy được là họ không làm trọn các lý tưởng của Phật. Hiển nhiên Giê-su cũng có thể nhìn vào những nước tuyên bố theo đạo Cơ đốc nhưng không sống trọn theo lý tưởng Cơ đốc. Nhưng đây là điều mà con phải buông bỏ khi con là chân sư thăng thiên, bởi vì nếu không thì con không thể thăng thiên. Nếu con bị dính mắc vào cách người đời thực hành giáo lý mà con đã ban truyền trong kiếp chót của con như thế nào, thì con sẽ phải tái đầu thai để cố kiểm soát cách thực hành đó, hay ít ra cố lèo lái, hướng dẫn mọi người đạt được một cách hiểu cao hơn. Và như vậy thì con không thể thăng thiên.

Đây chính là một điểm mà con trong tư cách là một người tâm linh cần lưu ý. Như Giê-su có nói, có những người đã quyết định cách đây 2000 năm là họ sẽ ở lại trong hiện thân suốt 2000 năm tiếp theo để giúp cho đạo Cơ đốc có được tầm ảnh hưởng tối ưu. Khi ta thăng thiên thành Phật, cũng có những vị đã phát nguyện làm y như vậy. Đối với những vị đó, điều thật quan trọng là họ nên suy nghĩ lại và nói: “Liệu tôi có dính mắc nào với cách người đời sử dụng giáo lý tâm linh?” Bởi vì nếu con có dính mắc thì làm sao con sẽ thăng thiên được? Nếu Sứ vụ Thiêng liêng của con định ra là con sẽ thăng thiên trong kiếp này, thì con cần phát hiện ra dính mắc đó và để cho nó ra đi. Bởi vì nếu không, con sẽ không muốn thăng thiên, con sẽ muốn trở lại trong một kiếp đầu thai khác cho đến khi con cảm thấy là mình đã hoàn thành công việc của mình. Nhưng đến bao giờ con mới cảm thấy được là con đã hoàn tất công việc đem lại tiềm năng cao nhất cho đạo Cơ đốc hay đạo Phật? Có thể còn rất lâu nữa.

Bây giờ nói đến các nước. Thật sự không có nước nào mà đa số người dân ở đó có được hiểu biết cao hơn về giáo lý đạo Phật hay đang thực hành đạo Phật một cách cao hơn. Tuy vậy, có một số nước rõ ràng là yên bình hơn một số nước khác, cho nên ít ra các nước này cũng có được một trình độ thể nhập giáo lý tốt. Ta không muốn nói rõ nhưng có một vài nước như vậy. Nhưng ta không nhìn họ như là những quốc gia – liệu có quốc gia nào thể nhập được đạo Phật hay chăng? Mà ta nhìn vào con người. Ta nhìn vào những cá nhân. Ta nhìn vào một số trào lưu đã thể nhập được đạo Phật nhiều hơn.

Làm thế nào cho tâm im lặng

Hỏi: Con có một câu hỏi cho các chân sư. Có cách nào hiệu quả để vượt qua thói quen không ngừng suy nghĩ, có khi nói nhảm cưỡng chế trong tâm? Con hiểu là con cần chấp nhận ngã tách biệt đó là không quan trọng, và con cần chấp nhận chính con như con đang là. Nhưng làm cách nào con có thể kéo sự chú ý của con ra khỏi đó một cách hiệu quả hơn, bởi vì nó đang lấy đi năng lượng của con?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 20/6/2022.

Có nhiều yếu tố gây ra thói quen lảm nhảm trong tâm mà nhiều người trong đạo Phật gọi là “tâm khỉ”. Nó không ngừng suy nghĩ, không ngừng nói chuyện, không ngừng phân tích, không ngừng tham gia vào chuyện này chuyện nọ hầu lôi kéo sự chú ý của con vào tiến trình không bao giờ ngưng nghỉ đó. Chắc chắn một trong các yếu tố có thể là sự phóng chiếu của những thế lực trong cõi trung giới hay cõi lý trí, là những thế lực chỉ đơn giản cố khiến cho con bị mất thăng bằng để chúng đoạt năng lượng của con. Cúng có thể là sự phóng chiếu từ tâm thức tập thể. Đối với vấn đề này, con cần dùng những bài chú, bài thỉnh của chân sư để kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ và niêm phong hào quang của con, và Elohim Astrea cắt đứt và giải thoát con khỏi các tà lực đó.

Hiển nhiên con cũng sẽ cần dùng các dụng cụ của chân sư để chữa lành nhiều loại ngã tách biệt hay nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau – chẳng hạn như khi con thấy nhiều người gặp phải xung đột hay bất đồng với ai đó, thì nó khiến cho tâm họ cứ mãi lặp đi lặp lại tình huống đó, họ không ngừng phân tích rồi bị cuốn hút vào đó. Họ không thể nào ngừng suy nghĩ về chuyện đó, và trong tâm họ mong muốn sửa đổi một tình huống mà họ không thể thay đổi ở mức vật lý. Con cần nhận ra là sự thể này khởi lên từ một số ngã tách biệt nhất định do con bị dính mắc vào tình huống, vào kết quả của tình huống, hoặc con có một cái ngã không sẵn lòng tha thứ cho người kia. Một lần nữa, bằng cách tha thứ cho người đó, con sẽ tìm được tự do. Vậy con có muốn được tự do hay không? Có rất nhiều những cái ngã tách biệt như vậy tạo ra những câu chuyện lảm nhảm liên tục trong tâm.

Nói cho cùng, không có cách nào khác hơn là con cần nhìn thấy chúng, cần giải quyết chúng và đơn giản để cho chúng ra đi. Và khi đó, những chuyện mà tâm con thường lôi kéo chú ý con vào, bỗng nhiên có vẻ như không còn gì quan trọng nữa đối với con. Con có khả năng nhìn chúng và nói: “À vậy sao? Có gì quan trọng đâu?”

Nhưng cho dù con giải quyết được thật nhiều ngã như vậy, con vẫn cần nhìn nhận là con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất hỗn tạp, với một tâm thức tập thể và biết bao nhiêu loại năng lượng vô cùng hỗn tạp. Có thể là khó tránh chuyện tâm con cứ nhặt nhạnh những thứ đó. Và như các chân sư thường giải thích, không phải con chỉ có một cái ngã tách biệt đâu, mà con có một cái ngã tách biệt to lớn hơn – nếu có thể nói như vậy – với nhiệm vụ chủ yếu là khiến cho tâm con làm việc. Đơn giản, ngã này sẽ không ngừng suy nghĩ, lượng định, phân tích.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã nhận ra là mình có một cái ngã cứ muốn giải quyết đủ mọi loại vấn đề. Và khi không có vấn đề nào để giải quyết thì nó sẽ chế ra vấn đề. Cho nên có thể con sẽ khó tránh việc tâm con cứ muốn hoạt động, cứ muốn suy nghĩ về chuyện này chuyện nọ. Có những thiền gia Phật giáo đã bỏ ra hàng chục năm trời trong thiền quán và thiền định mà vẫn cảm thấy rất khó làm yên tâm mình. Thậm chí một số còn bảo rằng việc làm cho tâm im lặng không quan trọng lắm miễn là mình vẫn tập trung vào một cái gì vượt khỏi tâm – là cái mà chúng ta có thể gọi là Hiện diện TA LÀ, hay cõi tâm linh, hay sự phát triển tâm linh.

Nhưng ta sẽ cho con một phương cách thiết thực sẽ có thể giúp được con. Nếu con quan sát tâm, điều con sẽ để ý thấy là có một ý nghĩ đi vào tâm con. Có một khoảnh khắc khi con có thể quyết định: “Tôi có nên đi theo ý nghĩ này hay không, tôi có nên nghĩ cái ý nghĩ này hay không?” Hầu hết mọi người không để ý đến sự kiện này. Nhưng khi con đặt chú ý của con vào đó, sẽ tới một điểm khi con nhận biết có một khoảnh khắc thời gian khi một ý nghĩ đến với con – có thể là từ ngoài hay từ ngay trong tâm con – nhưng cái Ta Biết, sự nhận biết thuần khiết của con có một khoảng thời gian rất ngắn để nó quyết định: “Liệu tôi sẽ bước theo cái này hay tôi sẽ không bước theo?”     

Thay vì quyết định “Tôi sẽ không bước theo cái này”, điều con làm là con chỉ nhận biết ý nghĩ đó – cho dù nó đã bắt đầu và đã tiếp diễn một chập rồi – xong con nói trong tâm: “Tôi buông bỏ. Tôi buông bỏ ý nghĩ này.” [trong tiếng Anh, surrender có mấy nghĩa: buông bỏ, hàng phục, trả lại]  

Trên căn bản, con đang ra hiệu là chuyện đó không quan trọng đối với con, rằng con sẽ không giao tiếp, không tương tác với nó, rằng con sẽ không đặt chú ý hay trao năng lượng của con cho nó. Con chỉ đơn giản buông nó ra, con để cho nó ra đi. Nó không quan trọng. Nó không có ý nghĩa. Nếu con cứ tiếp tục làm như vậy thì con sẽ đạt được một số thành quả.      

Bất cứ khi nào một ý tưởng xuất hiện thì con có thể làm như vậy, ngay cả khi con nằm trên giường buổi tối và đang cố chìm vào giấc ngủ. Con chỉ liên tục tự nhủ: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.” Có thể là sau một lúc vẫn có một ý tưởng bỗng nhiên thu hút sự chú ý của con và nó tiếp diễn một chập. Nhưng khi con nhận biết nó ở đó thì con lại nói: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.”

Ta không bảo là phương cách này sẽ hiệu quả đối với những người chưa làm những điều kia mà ta khuyên ở trên. Nhưng chắc chắn nó có thể hiệu nghiệm đối với những ai đã đạt được một độ trong sáng hơn, tinh khiết hơn nơi bốn thể phàm của mình.

Làm thế nào loại bỏ đau khổ con người

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2022, nhân dịp Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Một truyền rải chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình

Hòa bình là một ngọn lửa, một năng lượng, một tâm thức, một sinh thể – một sinh thể vũ trụ mà sự chứng đạt vượt khỏi tầng mức nơi ta đang đứng trong tư cách đức Phật cho trái đất. Sinh thể vũ trụ này đã được từ hóa (magnetized) đến địa cầu bởi các chân sư thăng thiên, bởi các con là đệ tử của chúng tôi và bởi sự xoay chuyển tâm thức vừa xảy ra do hệ quả cuộc xâm lăng nước Ukraine. Biến cố đó đã tạo ra một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể đến độ chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khẩn khoản sinh thể vũ tru đó từ hóa sự hiện diện của thày trong cõi ê-the bên trên địa cầu và rải xuống một sự phát tỏa chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình.

Hiển nhiên ngọn lửa hòa bình này không có nghĩa là trên địa cầu sẽ tức khắc có hòa bình theo nghĩa hòa bình vật lý. Ý nghĩa thực sự là ngọn lửa sẽ phơi bày ra tất cả mọi năng lượng, mọi tâm thức, mọi sinh thể của phản hoà bình, cho nên có vẻ như ngọn lửa sẽ đem lại cái đối nghịch của hòa bình, nhưng điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian. Chúng tôi đã từng nói là địa cầu không thể cưỡng lại lực kéo hướng thượng của toàn bộ bầu cõi. Và địa cầu cũng không thể cưỡng lại Ngọn lửa Hòa bình Toàn vũ. Cho nên đây là một sự đặc miễn, một cơ hội cho một địa cầu đã được từ hóa bởi bao nhiêu người trên trái đất mong muốn hòa bình. Họ mong muốn một tương lai được hưởng thái bình khỏi tay những kẻ sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực.

Tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực

Thế nào là tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Đó là một chất độc tâm linh. Nó có mấy yếu tố. Thật ra nó khởi lên từ tất cả những chất độc kia, từ vô minh cho đến dục vọng, thèm muốn, tham lam, bởi vì tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực không bao giờ thấy đủ. Những người, những sinh thể sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực tạo ra điều gì? Họ tạo ra đau khổ, thường là cho người khác, nhưng họ luôn luôn tạo ra đau khổ cho chính họ. Những kẻ chủ mưu chiến tranh, chẳng hạn, không thể tránh tạo ra trong chính tâm họ và bốn thể phàm của họ một sự nhiễu loạn có thể sẽ nhanh chóng khiến họ không sao chịu đựng nổi. Đó là tại sao con thấy một số nhà lãnh đạo khởi sự chiến tranh đã trở nên điên loạn – trong nghĩa đen – và họ bước vào một tâm trạng hoàn toàn hoang tưởng, xa rời thực tế. Cho nên liệu con có thể nói được là khi một sinh thể bước vào tâm thức mong muốn hay sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực, thì sinh thể đó có còn quyền tự quyết, còn ý chí tự do nữa hay không? Hay chẳng phải là họ đã nộp quyền tự quyết của họ cho những con quái vật tập thể, những quỷ dữ hay sa nhân chỉ muốn gây rối loạn hoặc mưu toan chứng minh Thượng đế sai lầm? Liệu những người như thế có còn ý chí tự do hay không? Họ có một ý chí, nhưng ý chí đó không tự do.

Điều gì xảy ra trong tâm lý những người đi vào tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Hiển nhiên, họ cũng bước vào tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là họ có thể dùng tiến trình lý luận nhị nguyên để biện minh cho hành động của mình, nhưng chỉ từ một góc cạnh nào đó thôi. Con thấy đó, sức mạnh hướng thượng của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là tâm thức Ki-tô đưa tất cả mọi thứ xích lại ngày càng gần hơn với duy nhất. Chắc chắn, duy nhất là một cái gì khó mường tượng cho những người đầu thai trên một hành tinh với vật chất dày đặc như địa cầu, nhưng dù sao đi nữa, trong vũ trụ có một hướng chuyển động đi lên. Khi con đi vào tâm thức chiếm đoạt bằng vũ lực, con không thể ở trong duy nhất. Bởi vì nếu con ở trong duy nhất, con sẽ nhận ra là nếu con lấy của người khác bằng vũ lực thì con cũng lấy từ chính con, và thử hỏi có ai lại điên rồ đến mức làm chuyện đó?

Trạng thái phi hòa bình và phi tự do

Các sinh thể đó đi ngược lại sức mạnh hướng thượng của vũ trụ và họ không thể nào không cảm thấy điều đó. Thường thường họ không cảm thấy một cách ý thức. Họ không nhận thức được tại sao họ lại có cảm giác đó, nhưng họ cảm được một sự nhiễu loạn. Họ liên tục ở trong tâm trạng phi an bình, bất ổn này. Họ không thể bình an trong tâm. Cuối cùng nó có thể khiến họ điên loạn – cho dù con có định nghĩa từ này như thế nào – nhưng trong trung hạn, họ sẽ rơi vào một tâm trạng hoang tưởng nơi họ không thể nhìn ra hậu quả việc làm của mình. Họ không có khả năng nhìn nhận hậu quả việc làm của họ. Tại sao thế? Bởi vì để có thể sống còn về mặt tâm lý trong trạng thái phi an bình đó, họ phải cố tìm ra trong tâm một cách biện luận hầu bênh vực cho hành động hung hãn bạo ngược của họ, và họ không thể nhìn nhận hậu quả vì hậu quả sẽ vô hiệu hóa cách biện luận đó. Họ bắt buộc phải đi vào tâm trạng hoang tưởng, phủ nhận thực tế, hầu sống còn trong tâm lý.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là giờ đây họ bước vào tâm trạng cùng cực của phi tự do. Họ có còn tự do nào nữa hay chăng khi họ không thể rút lại những chuyện bạo lực mà họ đã làm, không thể hủy bỏ hay tháo gỡ những hậu quả mà họ đã gây ra cho tha nhân? Và nếu họ nhìn nhận các hậu quả đó, dù chỉ là hậu quả trên nhân dân họ và chính họ, thì họ sẽ phải công nhận là cách biện minh của họ không sao đủ được.

Có nghĩa là trong tâm, họ sẽ phải nhìn nhận là mình sai lầm, nhưng nếu họ đã ở trong trạng thái cùng cực muốn cưỡng chiếm thì họ cũng tự coi mình là cao trội hơn, vì cái cho họ ý muốn nắm quyền lực cao nhất cũng chính là cái khiến họ cưỡng chiếm. Và nếu đã là một sinh thể cao trội hơn thì họ không thể sai lầm – hay đúng hơn, họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và do đó họ cũng không thể nhìn nhận là mình sai lầm. Họ không thể nhìn nhận thực tế của những gì đang xảy ra trên thế giới, và do đó họ hoàn toàn phi tự do.

Họ không thể thay đổi quan điểm, vì khi họ thay đổi quan điểm hay thay đổi cách hành động, họ sẽ phải thừa nhận là hành động nguyên thủy của mình là sai trái và cách biện minh cho hành động đó cũng sai trái. Cho nên họ đã sai lầm, và khi đã là một sinh thể cao trội thì họ không thể chịu đựng mình đã sai lầm, và vì thế họ phải phủ nhận. Trong sự phủ nhận toàn diện đó, họ đánh mất tất cả mọi tự do trong tâm.

Bề ngoài có vẻ như sa nhân có tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải cân nhắc những hậu quả cho người khác mà một người bình thường sẽ cân nhắc. Có vẻ như họ thường hay trốn tránh được hậu quả việc làm của họ vì họ khiến cho những ai đi theo họ phải gánh dùm nghiệp chướng. Nhưng khi con nhìn sâu vào tâm của sa nhân, con sẽ thấy ở tầm mức của tâm, họ là những sinh thể ít tự do nhất. Họ có vẻ tự do ở tầm mức hành động vật lý, nhưng họ ít tự do nhất ở tầm mức của tâm.

Những lãnh đạo không chịu nổi là mình sai

Từ khá lâu nay chúng tôi đã có đề cập đến các thiên thần sa ngã qua một đợt truyền pháp trước. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi nói đến các sinh thể sa ngã và đưa ra một số lời dạy rất thâm thuý về sa nhân. Lời dạy đó đã đi vào tâm thức tập thể, đã chạm được những ai có tâm cởi mở do họ đã nhìn vào lịch sử và tự hỏi tại sao trên địa cầu lại có loại lãnh tụ như vậy, những người thiếu hẳn lòng trắc ẩn hay quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác. Hẳn lời dạy này đã chạm được các con, những học trò trực tiếp của chúng tôi. Các con đã suy ngẫm những ý tưởng đó, đã đọc thỉnh dựa trên những bài truyền đọc của chúng tôi, và tất cả đã tạo ra một động lượng hướng thượng – giờ đây được tăng cường và kết tinh do cuộc xâm lăng nước Ukraine – đến độ hành tinh đã đạt đến một khối lượng tới hạn (critical mass).

Hiện nay đã có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể khi có nhiều người hơn thấy được, nhận ra được, sự cần thiết phải hiểu biết tại sao ngay cả trong thế giới hiện đại vẫn có những loại lãnh đạo như thế, những lãnh đạo sẵn sàng hành động bạo lực rõ ràng, gây ra biết bao hậu quả khốc liệt cho nhân dân xứ họ cũng như các xứ khác. Hơn thế, họ không sẵn lòng công nhận hậu quả đó để mà thay đổi hành động, thay đổi quan điểm của mình. Họ không có lòng trắc ẩn. Họ xem thường hậu quả mà họ gây ra, tại sao chứ? Như ta vừa nói, vì họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và đây chính là điểm mà nhiều người đã bắt đầu nhìn ra: sự xơ cứng hoàn toàn, sự thiếu vắng khả năng cùng thiện chí để chấp nhận là mình đã sai lầm, hay việc làm của mình đã không tối ưu mà lại còn gây tổn hại cho chính quyền lợi của mình.

Sự xơ cứng của các chế độ độc tài

Điều này dẫn đến sự tỉnh ngộ rằng các nền dân chủ là những xã hội có đủ khả năng cho phép một lãnh đạo sai lầm. Những xã hội đó có đủ khả năng cho phép người ta sai lầm. Người ta có đủ khả năng nhìn nhận là mình đã sai lầm, rồi dựa vào đó, thay đổi cách nhìn và cách làm của mình. Đây là một trong những khác biệt cơ bản giữa một chế độ độc tài và một thể chế dân chủ. Người lãnh đạo trong một chế độ độc tài không thể công nhận là mình sai lầm, người dân không thể công nhận là mình đã sai lầm về lãnh đạo độc tài của mình, và sự thể này tạo ra một sự xơ cứng ở mức cơ bản, có nghĩa là một chế độ độc tài không có khả năng thích ứng với những tình huống thay đổi. Họ phải tiếp tục hành xử y như trước mà cứ chờ đợi kết quả sẽ khác đi, và như con cũng biết Einstein đã từng nói, đó chính là một hình thức điên rồ. Họ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ cứ đi xuống mãi cho tới khi một biến cố xảy đến, một biến cố gây sốc đến độ nó sẽ đập tan sự phủ nhận của họ. Có thể biến cố đó là một thảm bại toàn diện như con thấy trong trường hợp Đức quốc xã. Đó có thể là sự phơi bày những dã man khủng khiếp như con thấy với Đức quốc xã và cuộc diệt chủng người đạo Do Thái. Hay đó có thể là hiểm họa một sự sụp đổ kinh tế toàn diện như con thấy trong trường hợp Liên Xô.

Con cũng thấy đôi khi một chế độ độc tài có thể chuyển hướng và bước vào một vòng xoắn ốc hướng thượng. Con đã thấy Đế chế Anh đã phải tự xét mình như thế nào do tấm gương của Gandhi và phong trào bất bạo động, và vì thế họ đã chuyển đổi từ cách cư xử chuyên chế đối với Ấn Độ sang nhận thức là họ không thể tự xưng là một nền dân chủ ở trong nước mà lại hành xử độc tài ở ngoài nước. Con đã thấy nước Đức chuyển đổi từ một quốc gia độc tài dưới Hitler thành một quốc gia dân chủ. Gần đây con thấy nước Đức nhìn nhận là chính sách của họ đối với Nga và Putin là một sai lầm và họ sẵn sàng thay đổi. Con cũng thấy các nước dân chủ khác nhìn nhận là họ đã đánh giá sai về Putin cùng tình hình ở Nga và họ cũng sẵn sàng thay đổi theo đó. Nhưng con cũng thấy một số nước dân chủ chưa sẵn sàng làm chuyện đó.

Uyển chuyển có nghĩa là sống còn

Dù sao đi nữa, điều ta muốn nêu ra ở đây là ta đã từng đầu thai trên trái đất rất nhiều ngàn năm trước khi hiện thân là Phật Gautama. Ta đã không là Phật trong suốt thời gian đó – ta chưa chứng được tâm thức Phật nhưng ta đã đầu thai trong một thời gian rất dài. Ta thăng thiên cách đây 2500 năm và kể từ đó, ta đã là một chân sư thăng thiên trong tâm thức Phật. Ta có một kinh nghiệm rất dài, một cái nhìn vô cùng dài hạn về địa cầu. Điều này có nghĩa là khi nói về xã hội, ta biết cái gì có thể sống còn và cái gì không thể sống còn. Và quả thực, cái duy nhất có thể sống còn là khả năng thích nghi, tính linh hoạt uyển chuyển, sự sẵn lòng thay đổi. Không chỉ thay đổi chiều ngang mà thay đổi chiều dọc, thay đổi trong sự thăng vượt mức tâm thức cũ của mình.

Bất cứ ai có cái nhìn dài hạn như ta đều có thể thấy sự tiến bộ là một đòi hỏi tuyệt đối, không chỉ trên địa cầu mà khắp mọi nơi trong vũ trụ. Thăng vượt trạng thái cũ, tiến lên một trạng thái cao hơn, đó chính là nền tảng để sống còn. Con cũng có thể thấy được điều này khi con nhìn vào lịch sử, nhìn xem những xã hội đã ra đời và biến mất như thế nào. Con có thể nhìn vào các loài động vật và dòng tiến hóa. Tại sao loài khủng long lại tuyệt chủng? Vỉ chúng không thể thích nghi. Thật sự con có thể thấy, đây chính là một định luật tự nhiên. Tất nhiên, đây cũng là một định luật tâm linh nhưng con có thể nhìn hoàn toàn trung hòa và gọi đó là một định luật tự nhiên. Khi xã hội trở nên xơ cứng, thiếu uyển chuyển và từ chối thích ứng, xã hội đó sẽ không thể bền vững trong thời gian. Nó có một thời hạn, một thời điểm hết hạn. Điều gì khiến cho một xã hội trở nên xơ cứng? Khi người ta không thể nhìn nhận, không nhất thiết rằng mình sai lầm, mà người ta không thể nhìn nhận là mình có khả năng làm tốt hơn những gì mình đang làm.

Sự sụp đổ của các nền văn minh và sức kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ

Tiến tới cái tốt đẹp hơn là một định luật. Tất nhiên, dựa theo lịch sử ghi chép thì con không nhất thiết thấy được là đã từng có những thời đại trong quá khứ khi toàn bộ hành tinh rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khiến cho các nền văn minh bị sụp đổ. Một hành tinh như địa cầu hoàn toàn có khả năng rơi vào một vóng xoáy hướng hạ và đi ngược lại định luật tự nhiên của sự tự thăng vượt tuần tự. Nhưng hiển nhiên biến cố đó cũng đã gây ra sự sụp đổ cho các nền văn minh, sự hủy diệt của các nền văn hiến và dân số bị suy giảm xuống một mức rất thấp so với ngày nay. Tình trạng này tất nhiên không thể duy trì mãi, và đã tới một điểm khi không còn nơi nào thấp hơn để đi xuống và vòng xoáy hướng hạ đã chạm đáy.

Thế rồi lực kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ bắt đầu vực địa cầu lên trở lại, và lần hồi loài người lại đáp ứng, tạo nên một động lượng đi lên. Có những thế lực hoạt động chống lại một động lượng đi lên như vậy và chúng có thể phần nào thành công dựng lên những đế quốc tạm thời chặn đứng sự tăng trưởng. Và mặc dù đôi khi chúng có thể kéo dài cả ngàn năm nhưng chúng không thể tồn tại mãi mãi.

Và ngay cả nếu con nhìn vào lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy tuổi thọ của những đế quốc như vậy rõ ràng ngày càng ngắn ngủi hơn. Đế chế La Mã sống sót được khá lâu. Đế chế Công giáo La Mã sống sót được một thời gian. Đế chế Nga hoàng, các vị vua tại Âu châu, các vương quốc châu Âu, cũng sống sót một thời gian, nhưng con thấy ngày càng ngắn hơn. Rồi con chứng kiến các lãnh tụ với tham vọng chinh phục toàn thế giới, như Napoleon thành công một thời gian nhưng không được bao lâu. Con thấy Hitler cũng thành công một thời gian nhưng rất ngắn ngủi. Con thấy là lãnh đạo càng hành xử bạo ngược bao nhiêu thì tuổi thọ của chế độ càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Liên bang Sô viết sống sót được như vậy là vì họ tránh được chiến tranh lạnh trở nên quá nóng. Putin đã kéo dài được như vậy cũng là vì ông đã tránh vượt qua lằn ranh đó. Nhưng bây giờ lằn ranh đã bị vượt qua thì không có đường nào để quay trở lại được nữa.

Một nhận biết mới tại các quốc gia phi dân chủ

Đây là một điểm mà nhiều người có thể nhận biết và nắm bắt được, không những tại các nước dân chủ mà cả các nước phi dân chủ. Có một động lượng đang được vun đắp trong tâm thức tập thể, đó là: Rất, rất nhiều người tại các nước phi dân chủ đã hiểu ra – đột nhiên mà không cần suy nghĩ gì đặc biệt – rằng họ cũng đang mang các nhược điểm nói trên trong quốc gia của họ, trong chính quyền cũ và trong các chế độ độc tài. Họ bắt đầu thấy được là mình đang ở trong một vòng xoắn ốc tự hủy diệt không thể kéo dài lâu hơn. Và nếu xã hội của họ muốn tránh khỏi phần nào bị đổ vỡ thì phải có một sự thay đổi.

Có những người tại Trung quốc thấy được là một cuộc xâm lăng Đài Loan sẽ là một hành động tự sát đối với đảng Cộng sản và thiểu số tự tôn quyền lực Trung quốc. Có những người tại các nước Ả rập thấy được là không thể nào kéo dài tình trạng đạo Hồi chi phối chính quyền đến mức đó. Có những người tại một số nước khác thấy được là âm mưu của một số lãnh đạo nhằm khuynh đảo và phá hoại nền dân chủ, cũng như tự trao cho mình những quyền hạn vi hiến, là không bền vững. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ hiển nhiên của tệ trạng này. Đổi tên thôi thật không đủ mà cần đổi cả cách hành xử, có nghĩa là cần đổi người cầm đầu ở trên cùng.

Hẳn là có một động lượng như vậy đang được bồi đắp ở hạ tầng nhưng hầu như chưa được người ta nhìn thấy hay công nhận – một động lượng hướng tới việc nhận thức rằng đau khổ không phải là một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Đau khổ phần lớn do con người tạo ra, và nó được tạo ra bởi những kẻ chiếm đoạt bằng vũ lực, những kẻ biện minh cho bạo lực và nhất định không thừa nhận là mình sai lầm. Chính sự xơ cứng đó, chính sự kháng cự lại nhu cầu phải thích nghi và thay đổi, là nguyên nhân thực sự của hầu hết mọi khổ đau có mặt trên địa cầu. Hay nói cách khác, đó là động lực chủ yếu làm khuấy động biển luân hồi.

Chìa khóa để khắc phục đau khổ con người

Như ta có nói, động lượng hướng thượng đã phần nào do các học trò của chân sư thăng thiên xây dựng lên, phần nào do rất nhiều Phật tử suốt 2500 năm qua đã cố gắng hiện thân những lời dạy mà ta truyền giảng, phần nào do rất nhiều tín hữu Cơ đốc đã cố gắng hiện thân những lời dạy của Giê-su, và phần nào cũng do rất nhiều người tại các nước dân chủ lẫn phi dân chủ đã suy ngẫm về sự khác biệt giữa chế độ độc tài và thể chế dân chủ. Họ đã suy ngẫm: “Tại sao lại có đau khổ con người? Đâu là nguyên nhân? Có thể làm gì được để giảm bớt, thậm chí loại bỏ, đau khổ con người? Có thể nào trừ hẳn mọi đau khổ con người?” Nhiều người đã đặt ra câu hỏi đó. Một số đã kết luận là chuyện đó không thể làm được, vì họ không thấy được làm thế nào. Nhưng một số đã suy ngẫm là chuyện đó phải có cách làm được. Họ có thể trực nhận, hoặc có thể họ biết được từ tiền kiếp, hay trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai, rằng có cách giảm bớt, loại bỏ, giải quyết đau khổ con người.

Nói cho cùng, chẳng phải đó là những gì Phật đã nói hay sao? Chẳng phải là những gì Giê-su đã nói? Chẳng phải là những gì nhiều tôn giáo khác và nhiều phong trào tâm linh khác cũng đã nói? Có cách vượt qua đau khổ. Một số sẽ bảo, người ta chỉ thoát được đau khổ sau khi nhắm mắt bỏ lại cõi đời này. Nhưng nhiều người khác, đặc biệt trong thời đại hôm nay, bắt đầu tự hỏi: “Hẳn là phải có cách nào thoát khỏi khổ đau ngay trong thế giới này chứ?” Điều mà nhiều người trong số đó bắt đầu cảm nhận là con người có khả năng thoát khỏi khổ đau không qua một phương thức vỏ ngoài, không bằng cách tạo dựng một xã hội lý tưởng hay không tưởng. Vì nói cho cùng, đau khổ xảy ra ở đâu? Con có thể bảo rằng nếu con ngã ngựa và gẫy chân thì có một cơn đau vật lý khiến con đau khổ. Nhưng đau khổ đó được trải nghiệm ở đâu? Trong tâm con. Khi con được tiêm một mũi thuốc tê để làm dịu cơn đau, liệu thuốc tê có ảnh hưởng gì trên cái chân gẫy của con? Hay là thuốc tê ảnh hưởng đến bộ não cảm nhận cơn đau vật lý?

Nhưng xa hơn cơn đau vật lý, tất nhiên còn có trải nghiệm tâm lý về nỗi đau, và đây chính là đau khổ. Cơn đau, nỗi đau vật lý, ngay cả khi được trải nghiệm bởi bộ não, không thật là đau khổ, bởi vì đau khổ không là cùng một thứ như cơn đau. Cơn đau có thể gây ra hay kích hoạt đau khổ, nhưng tự thân cơn đau không phải là đau khổ. Đau khổ là một trải nghiệm của tâm. Nó có thể bao gồm một số yếu tố nhưng luôn luôn có yếu tố này: “Đúng ra tôi không được cảm thấy cơn đau này. Đúng ra tôi không phải trải nghiệm điều kiện này. Đúng ra những người kia không được hành xử như vậy với tôi.” Luôn luôn trong tâm có một ý niệm rằng chuyện đó đúng lý không được xảy ra. Nhưng bởi vì nó đang xảy ra và con không thể làm cho nó biến mất, cho nên đó là cái gây ra đau khổ.

Nhiều người ít ra đã bắt đầu ngờ ngợ và cảm nhận được là đau khổ diễn ra trong tâm, có nghĩa là mặc dù nó có thể được những yếu tố bên ngoài kích hoạt, nhưng nguyên nhân thực sự của đau khổ phải nằm bên trong. Và điều này có nghĩa là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là làm việc trực tiếp trên tâm mình. Chắc chắn các xã hội dân chủ đã cố gắng tạo ra một môi trường nơi các công dân không phải trải nghiệm rất nhiều điều kiện vỏ ngoài thường hay gây ra đau khổ hay kích hoạt đau khổ. Có nhiều người lớn lên trong một xã hội dân chủ đã sống cả đời mà không phải trải nghiệm những loại tình huống vật lý khắc nghiệt đó. Thế nhưng nhiều người vẫn đau khổ. Họ đau khổ mặc dù họ không có lý do vật lý nào để đau khổ, nhưng họ có một lý do tâm lý gây ra đau khổ.

Các nền dân chủ đã chứng minh là cho dù người dân được cung cấp những điều kiện vật chất lý tưởng, điều này vẫn không loại bỏ được đau khổ. Giờ đây đã rõ ràng là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là phải làm việc trên tâm. Và như con cũng biết, đó chính là điều ta đã nói cách đây 2500 năm. Đó là điều Giê-su đã nói cách đây 2000 năm. Và đó cũng là điều mà Khổng Tử và Lão Tử cùng bao nhiêu vị sứ giả tâm linh khác đã nói rất nhiều lần trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thường người ta đã không lắng nghe các vị đó, bởi vì mặc dù người ta có thể nghe được lời dạy vỏ ngoài nhưng người ta không thể hoàn toàn thể nhập được lời dạy. Nhưng ngày nay chúng ta đã tiến gần hơn đến một thời đại khi càng ngày sẽ càng có nhiều người có khả năng nắm bắt lời dạy, nắm bắt nội dung thực sự của lời dạy, và đó là: Chìa khóa để vượt qua đau khổ nằm trong tâm con người.

Con có thể toan tính tạo dựng một xã hội không tưởng, và con có thể toan tính tạo dựng một xã hội lý tưởng, nhưng con sẽ không bao giờ giảm thiểu được đau khổ. Con thấy được điều gì trong một xã hội dựa trên vũ lực với một chính quyền dựa trên vũ lực? Con thấy đau khổ ở một mức cao trong lo