25 | Tự do quyết định cách con biểu hiện quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain, và thầy rất vui, nếu con có thể dùng chữ vui cho một chân sư thăng thiên lúc nào cũng ở trong tâm thái trung hòa, có mặt ở đây với các con. Thày muốn có vài nhận xét về tình hình Hàn Quốc, thày không muốn nói tình hình vật lý nhưng hoàn cảnh được thể hiện bởi sự việc có rất nhiều các con đã đến với giáo lý này, đã làm rất nhiều công việc như dịch thuật, đọc thỉnh, tham gia canh thức, lập nhóm, học giáo lý.

25.1. Công việc tuyệt vời của các đệ tử Chân sư Thăng thiên tại Hàn Quốc

Các con có thể nhìn vào cõi vật lý và nói: “Kết quả của nỗ lực của chúng tôi là gì, chúng tôi đã đem lại khác biệt gì nơi cõi vật lý?” Thày không mấy quan tâm đến kết quả vật lý vì cõi vật lý lúc nào cũng sẽ phản ánh những gì xảy ra trên ba cõi cao. Chỉ là vấn đề thời gian để các thay đổi trên ba cõi cao đột phá xuống tầng vật lý. Qua các công việc mà các con đã hoàn thành tại đây ở Hàn Quốc, các con quả thực đã tạo ra một xoay chuyển địa chấn nơi các thể xúc cảm, tư tưởng và bản sắc của tâm thức tập thể.

Các con đã đặc biệt tạo ra thay đổi ở các tầng bản sắc và tư tưởng. Thể cảm xúc lúc nào cũng náo loạn vì quá nhiều người có một số nỗi sợ, nghi ngờ, ác cảm và giận dữ khó có thể an tịnh. Tuy nhiên, thay đổi thực lúc nào cũng bắt đầu ở các tầng bản sắc và tư tưởng, và điều mà các con đã đem lại là tải xuống một số ý tưởng từ thày vào thể bản sắc và tư tưởng, không những của tâm thức tập thể, mà còn của nhiều người dân Hàn Quốc sẵn sàng tiếp nhận các ý tưởng đó. (Thày bao gồm những người sống ở Bắc Hàn, vì Bắc Hàn cũng thuộc Hàn Quốc). Các người đó hoàn toàn không biết gì về chân sư thăng thiên và không cần biết đến chân sư thăng thiên, nhưng họ ở trong vị thế có thể hiện thực một số ý tưởng đó, và do đó trong những năm tới các con sẽ thấy thay đổi ngay cả nơi tầng vật lý.

Khi nào chuyện đó xảy ra, chúng xảy ra chính xác như thế nào, là điều không thể tiên đoán vì như các thày có giảng, có những nhân duyên liên khởi với nhiều yếu tố rất phức tạp liên quan đến con người ở cả miền Bắc và miền Nam Hàn Quốc. Ta có thể nói, điểm quan trọng là khi có đủ túc số người đứng thẳng hàng với một ý tưởng, thì ý tưởng đó có thể đột phá xuống cõi vật lý. Khi nào chuyện đó xảy ra lẽ tất nhiên tùy thuộc luật tự quyết. Điều ta có thể nói là các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã làm phần công việc của mình. Các con đã làm nhiều hơn là phần việc của mình. Các con đã làm công việc tuyệt vời và thày thành thật hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện với công việc đã hoàn thành, và đón tiếp công việc tới mà các con muốn làm, các con sẵn lòng làm, với lòng hân hoan, mãn nguyện, an bình và thành tựu.

25.2. Phương pháp đường thẳng cần thiết khi tiếp cận đường tu

Tia thứ Bảy, Tia của Tự do, con phải làm gì để hòa điệu với Tia thứ Bảy? Lẽ đương nhiên, con cần tự do nhưng tự do khỏi cái gì? Như các Thượng sư khác đã giảng, tự do khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng phóng chiếu gì liên quan đến tự do? Nó nhìn vào các điều kiện đương thời và nói: “Tôi không thể tự do vì tôi đang bị đàn áp bởi nhà độc tài này. Tôi không thể tự do vì tôi không có đủ tiền. Tôi không thể tự do vì tôi không có cái này cái kia.” Sau đó tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một lối đi đường thẳng, một tiến trình đường thẳng, nói rằng: “Tôi không có tự do vì tôi thiếu cái này hay tôi dư cái kia. Do đó, tôi cần phóng chiếu một kế hoạch từng bước dẫn tôi tới điểm tôi có những gì tôi cần để được tự do.” Con bắt đầu đi về hướng đó, con bắt đầu nỗ lực về hướng đó, con dùng tâm đường thẳng để đặt kỷ luật cho chính con và các hành động, cảm xúc và tư tưởng của con, và con nỗ lực, nỗ lực, nỗ lực.

Các thày có nói là trên con đường tâm linh con tiến từ tầng 48 lên tầng 96 bằng cách tự nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể. Con cần sử dụng phương pháp đường thẳng: “Tôi cần làm gì? Tôi cần đọc bao nhiêu bài chú? Tôi cần đọc các bài thỉnh nào? Tôi cần học hỏi những gì? Tôi cần làm gì? Tôi cần loại trị liệu nào?” Con cần tất cả những chuyện đó, và con có thể lên kế hoạch. Trên căn bản, con có thể lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước. Đây là điều hoàn toàn phải phép. Như thày Nada có nói, con dùng tâm đường thẳng để đối phó với những thực tại thực tiễn trong bát cung vật lý, trong đó có tâm thức tập thể. Con có thể định ra một lối đi, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm khi họ khám phá giáo lý chân sư thăng thiên (trong đợt truyền giáo này hay một đợt truyền giáo khác), và nói: “Tôi cần học hỏi, tôi cần tham gia các sinh hoạt này, tôi cần đọc bao nhiêu bài chú mỗi ngày.” Họ đã làm chuyện này một cách kiên định trong một thời gian, có người trong một thời gian dài. 

Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng. Điều nhiều đệ tử đã làm là họ lập ra kế hoạch với những việc họ sẽ làm, và nói: “Tôi cần tiếp tục làm theo kế hoạch này cho tới khi tôi được tự do” hoặc họ nói: “Tôi cần làm theo kế họach này cho đến hết đời.” Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do. Con làm gì khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng? Con đang, nói một cách thẳng thắn, giam mình vào nhà tù. Con đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm, và đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm cho tới khi tôi được tự do.” Con thấy chăng, con đang giam mình vào một cấu trúc: “Đây là những chuyện tôi phải làm.” Phải chăng con đã tạo trong tâm mình một loại nhà tù? 

25.3. Xoay chuyển cần thiết ở tầng 96

Con có thể nói là khi con bị tâm thức tập thể thống trị, thì con đang ở trong một loại nhà tù vì con có ít khả năng lấy chọn lựa cá nhân. Sau đó con tìm ra một giáo lý tâm linh (và nhiều người tâm linh không tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên mà một giáo lý khác cũng đã làm vậy) và con lập một kế hoạch và con nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm” để đạt bất kể mục tiêu nào đã được định ra bởi giáo lý tâm linh, có thể là giác ngộ, thức tỉnh, thăng thiên, hay bất cứ gì khác.

Như các thày có giảng, giữa tầng 48 và 96 điều thích đáng là con lập kế hoạch dùng giáo lý và dụng cụ tâm linh để nâng con lên khỏi tâm thức tập thể, tiêu trừ các ngã và theo con đường tự điều ngự. Đây là điều con cần làm để nâng mình ra khỏi nhà tù của tâm thức tập thể. Để làm việc này, con cần chú tâm, nhưng hậu quả là con đặt tâm mình vào một cấu trúc và đây lại là một nhà tù cho tâm.

Đây không phải là một vấn đề nếu con vẫn nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng như thày Nada đã giảng một cách rất hùng hồn, nó sẽ trở thành một vấn đề khi con dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu quá những thực tại thực tiễn của thế giới vật chất, kể cả bốn tầng của cõi vật chất. Điều mà rất rất nhiều người tâm linh (kể cả đệ tử chân sư thăng thiên) đã làm là họ dấn thân vào con đường tâm linh và họ dùng giáo lý để phóng chiếu kế hoạch cần theo đuổi dựa trên hiểu biết mà họ có khi bắt đầu con đường tâm linh: “Đây là điều tôi cần tiếp tục làm, nó sẽ dẫn tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn hay tâm thức Ki-tô (bất kể con gọi là gì)”.

Như các thày đã giảng, ở tầng 96 con đối diện một khai ngộ, một khai ngộ then chốt và khai ngộ này có thể được mô tả bằng nhiều cách như các thày đã làm. Một cách để mô tả là nói con phải nhận ra là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con thấy chăng, con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Các thày đã nhiều lần cố giảng điều gì? Con hãy xem lại giáo lý của các thày. Con hãy xem lại và học hỏi những điều mà các thày đã nói về quả vị Ki-tô, trở ngược mãi tận năm 2002. Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Thách thức thứ nhì của Ki-tô là gì? Đó là sau khi con đã nhận ra Ki-tô, thì con không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra. Con không thể tiến vào quả vị Ki-tô bằng tâm đường thẳng, tâm đường thẳng sẽ không thể dẫn con tới đó. Bất kể hình ảnh nào con đã phóng chiếu lên chính mình và con đường tu dựa trên tâm đường thẳng ở dưới tầng 96, chúng không thể dẫn con đến các tầng quả vị Ki-tô – áp dụng chúng không hiệu quả. Thày không nói ở đây là con cần ngưng đọc chú hay học hỏi giáo lý. Con cần một xoay chuyển tâm thức vi tế hơn nhiều.

25.4. Trạng thái lắng nghe trong hồng ân

Điều lợi ích cho nhiều người trong các con là con lấy một quyết định và nói: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách hay nhất mà tôi có thể làm để đi vào trạng thái tâm trung hòa. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói: “Trừ phi con trở thành giống như trẻ thơ, thì con không có minh triết để vào được vương quốc.” Đây là điều mà các Phật tử ám chỉ khi nói đến “sơ tâm”. Con hãy thỉnh thoảng tìm cách đi vào trạng thái lắng nghe – lắng nghe trong hồng ân.

Nếu con cảm thấy mình hòa điệu đặc biệt với một vị chân sư nào đó, thì con hãy xin vị chân sư đó neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con hãy chỉ giữ tâm trung hòa. Con hãy đừng xin giải đáp, đừng xin hướng dẫn, đừng xin đáp số cho những vấn đề hay hoàn cảnh đặc thù mà con đang phải đối diện. Các chuyện này con có thể làm lúc khác. Con hãy chỉ xin vị chân sư giúp con giữ tâm trung hòa và lắng nghe vì khi con tiến lên trên tầng 96 (và quả thực cũng vậy khi con tới gần tầng 96) thì con cần cảm nhận hướng kế tiếp mà con cần theo là gì, giai đoạn kế tiếp của con đường tâm linh của con là gì. Điều này sẽ khác cho mỗi người trong các con, do đó không có câu trả lời mẫu.

25.5. Cố gắng sống đúng theo hình ảnh đệ tử gương mẫu

Một lần nữa đây là lý do vì sao tâm đường thẳng tạo nhiều vấn đề vì điều mà ta thấy trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử lấy giáo lý của các thày và tạo ra một hình tư tưởng thế nào là một đệ tử gương mẫu. Từ đó một nền văn hóa tổ chức đuợc tạo ra với một hình tư tưởng – thế nào là đệ tử gương mẫu – và hình ảnh này rất khó noi theo. Quả thật đây giống như điều các thày đã nói về sa nhân phóng chiếu hình ảnh toàn hảo nhưng không ai có thể thực sự xác định nó là gì, do đó không thể noi theo được. Hình ảnh người đệ tử gương mẫu cũng vậy. Con có thể quy định một số yêu cầu vỏ ngoài, nhưng không có gì được quy định rõ ràng, do đó rất khó noi theo. Sống theo đúng hình ảnh đó cần một lượng thời gian và tận tụy vĩ đại vì những yêu cầu vỏ ngoài rất, rất phức tạp. Con phải đọc tất cả các bài chú này. Con phải sống một cách nào đó, ăn một cách nào đó, đi đứng một cách nào đó, nói một cách nào đó, nghĩ một cách nào đó, cảm nhận một cách nào đó và kết quả là sống theo đó rất mệt và rất khó.

Những người cố gắng sống theo đúng mẫu đó phải cố gắng quá nhiều để chu toàn hình ảnh đó nên họ bị căng thẳng tâm thần. Họ đặt họ vào tình trạng thường trực bị căng thẳng tâm thần gần như tới điểm suy sụp thần kinh. Họ giống như một sợi dây thun bị kéo dãn đến mức tối đa và gần tới điểm bị đứt. Khi con người đi vào trạng thái tâm đó thì họ có khuynh hướng rất phán xét người khác. Quả thật là họ phán xét chính họ vì họ lúc nào cũng phán xét: “Tôi có sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu hay tôi đang không làm tròn điểm gì?” Họ cũng có khuynh hướng rất phán xét người khác và đó là lý do vì sao các tổ chức đó đã tạo ra trạng thái tâm thức rất phán xét thể hiện qua việc các thành viên luôn luôn phán xét lẫn nhau.

Thày có thể bảo đảm với con là đã có người tiếp cận một trong những tổ chức chân sư thăng thiên đó và cảm nhận nền văn hóa phán xét, và họ nói: “Không thích hợp cho tôi!” Nhiều người này có tâm thức cao hơn những người trong tổ chức, và đây là điều những người trong tổ chức không thể tin là có thật. Họ nghĩ họ đang ở trong trạng thái tâm thức cao nhất vì họ đang cố gắng sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu. Khi họ thấy có người đến rồi bỏ đi, thì họ nói: “Những người này không có căn cơ đệ tử”, nhưng những người đó thực sự có căn cơ đệ tử. Họ thật sự ở tầng cao hơn những người trong tổ chức. Họ ở cao hơn tầng văn hóa phán xét. 

25.6. Các ngã nhị nguyên rất vi tế trên tầng 96

Thày chỉ muốn nói là các thày không muốn con lặp lại khuôn nếp này. Các thày muốn các đệ tử trong đợt truyền giáo này vượt thăng những khuôn nếp đó để con có thể tới điểm đạt được tự do. Đạt được tự do nghĩa là gì? Từ tầng 48 đến tầng 96, đó là đạt được tự do khỏi tâm thức tập thể, tự do khỏi các ngã nhị nguyên. Thày tin con nhận ra là con cần một hiểu biết sâu sắc về các ngã đó. Các thày có giảng là khi con đi xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 thì con đi vào tách biệt và con sử dụng tâm thức nhị nguyên để tạo ra các ngã đó, do đó chúng là các ngã nhị nguyên. Sau đó, con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thứ 48 và đi về hướng tầng 96. Vì độ dày đặc của hành tinh, con vẫn còn mang theo mình một số các ngã nhị nguyên mà con chưa khắc phục. Nói cách khác, không phải là khi con tới tầng 48 là con đã khắc phục tất cả các ngã được tạo ra trong nhị nguyên.

Con cần suy ngẫm điều này vì có lẽ các thày đã quá dùng lý đường thẳng trong những lời giải thích trước của các thày. Con hãy nhìn như thế này. Có tất cả là 144 tầng tâm thức mà con người có thể có trên trái đất. Nếu con bắt đầu từ trên cùng (là nơi con bắt đầu với Hiện diện TA LÀ) và đi về hướng tầng 144, thì để xuống tầng 144 con cần mang vào một ảo tưởng. Đây không phải là một ảo tưởng nhị nguyên. Nó chỉ là một ảo tưởng liên quan đến bát cung vật lý trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất. Con cần gì để giúp con cảm thấy con có thể đầu thai, thậm chí có thể hòa nhập vào một thân thể vật lý? Con mang vào một ảo tưởng ở tầng 144, con mang vào ảo tưởng kế tiếp, con đi xuống tầng 143, và con tiếp tục làm vậy cho tới tầng 96.

Đây là những ảo tưởng trên căn bản, ở tầng này, giúp con hòa nhập vào thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc để con có thể bắt đầu tạo những ngã trong các thể đó để giúp con trải nghiệm trong bát cung vật lý. Sau đó, ở tầng 96 con tạo ra thêm các ngã liên quan đến việc hòa nhập với thể cảm xúc nhưng cũng với thể vật lý. Khi con đầu thai lần đầu ở tầng 48, bản thể của con, cái ta ý thức của con hòa nhập với thân thể vật lý. Con có những cấu trúc trong tâm bản sắc, tâm tư tưởng, tâm cảm xúc và ngay cả tâm kết nối với thân thể cho phép con sinh hoạt và hành động trên trái đất.

Những ngã này không phải là ngã nhị nguyên. Sau đó, con đi xuống dưới tầng 48, xuống tầng 47, con mang vào thêm một ảo tưởng nữa, tạo thêm một ngã nữa và con tiếp tục như vậy cho tới tầng thấp nhất. Điều thày muốn nói là ở mỗi tầng trong số 144 tầng, có một ngã đặc thù cho phép con ở tầng tâm thức đó. Tuy nhiên, có rất nhiều hơn 144 loại ngã mà con người đã tạo ra trên trái đất. Bởi vì khi con ở một tầng tâm thức nào đó, có một ảo tưởng đặc thù lôi kéo con xuống tầng đó, và một ngã đặc thù giữ con ở tầng đó. Con vẫn có thể tạo ngã khác theo chiều ngang ở tầng đó. Điểm này có tầm quan trọng khi con đi xuống dưới tầng tâm thức 48, đi vào nhị nguyên, thì có một số rất lớn các ngã nhị nguyên mà con người đã tạo ra trong suốt dòng lịch sử và một số các ngã này đã trở nên ngã tập thể ở trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của tập thể. 

Có rất nhiều hơn 144 ngã đã được tạo ra trên trái đất, và con không thể tránh mang vào một số các ngã đó, hay đúng hơn là con tạo ra phiên bản riêng của con của các ngã đó. Điều thày muốn nói là khi con tới tầng 48 và bắt đầu con đường tâm linh thì không có nghĩa là con đã khắc phục tất cả các ngã nhị nguyên. Con vẫn còn mang theo một số với con và thậm chí con còn có thể mang theo một số các ngã nhị nguyên vi tế hơn ở trên tầng 96. Lẽ tất nhiên, các ngã này không thể gọi là hung hãn muốn hại người khác nhưng chúng vẫn là ngã liên quan đến ảo tưởng nhị nguyên, một cái nhìn nhị nguyên về thế giới.

Thày Nada đã nói là các người Bà la Môn Ấn giáo đã làm gì? Nhiều người trong họ đã sử dụng tâm thức nhị nguyên để phóng chiếu vào cõi tâm linh. Thày Lanto đã giảng một cách rất hùng hồn sự hình thành của khái niệm Vô ngã. Có khái niệm Brahman, có khái niệm hư vô, nhưng cả hai là khái niệm nhị nguyên. Con có thể mang theo những loại ngã này trên tầng 96 vì con người rất khó giải quyết chúng. Quả thật con có thể thấy có các vị thày tâm linh trong thế gian đã lên trên tầng 96 nhưng họ vẫn còn mang theo một số các ngã nhị nguyên đó vì họ chưa giải quyết ảo tưởng. Họ chưa nhìn xuyên thấu ảo tưởng.

25.7. Thách thức thứ nhì của Ki-tô ở mỗi tầng của đường tâm linh

Điều thày muốn nói là có một điểm khi con tới gần tầng 96 và vượt lên trên, thì con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144. Thày biết là con có thể có quan niệm là con chỉ tiếp tục sự tăng triển mà con đã trải qua từ tầng 48 đến tầng 96. Vì ở tầng 96, thách thức tựu chung là gì? Là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 97. Ở tầng này thách thức là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 98, vân vân. Con thấy chăng, tiến trình này không thể thực hiện với tâm đường thẳng. Thậm chí con cũng có thể nói tiến trình từ tầng 48 lên tầng 96 cũng không thể thực hiện bằng tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không giúp con nhìn xuyên thấu các ảo tưởng.

Thực sự là chỉ có tâm Ki-tô mới giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng. Đặc biệt là ở trên tầng 96, con cần bước lui lại và thực sự nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và thực sự nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện ở mỗi tầng thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng tâm thức Ki-tô để thăng vượt tầng hiện tại của con, hay con sẽ tìm cách kéo tâm Ki-tô để nó tuân theo ảo tưởng, thế giới quan mà con có ở tầng đó? Ở tầng 96 và trên nữa con cần luôn luôn nhận biết thách thức này vì con có thể trên lý thuyết ngừng ở tầng 143 và không đi lên cao hơn vì con nghĩ Ki-tô đã xác chứng thế giới quan của con ở tầng đó. Như các thày đã nói nhiều lần, không có chân lý tối hậu, thế giới quan tối hậu trên trái đất và con chỉ nâng mình lên, con chỉ thăng thiên, bằng cách vượt thăng thế giới quan mà con đang hiện có.

25.8. Nguy cơ bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào

Một lần nữa, một số đệ tử từ những đợt truyền giáo trước sẽ kịch liệt phản đối điều thày vừa nói ở trên. Họ sẽ nói đây là một giáo lý hoàn toàn sai, nó đi ngược lại tất cả những gì đã được dạy trong các đợt truyền giáo trước, nhưng thực sự là nó không đi ngược lại những điều đã được nói trước kia, nó chỉ vượt lên trên những điều đó. Con yêu dấu, nếu tiết lộ tuần tự không đi quá những gì đã được trao truyền trước kia, thì làm sao nó lại là một tiến bộ? Con hãy để ý tưởng này bắt rễ trong tâm con vì nó là chìa khóa để tiếp cận các khai ngộ rất vi tế bên trên tầng 96.

Có một chuyện khó xử, một loại phân đôi, sẽ luôn luôn có mặt trên một hành tinh như trái đất vì độ dày đặc của vật chất và tâm thức tập thể. Có thể nói là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì con đạt những tầng tâm thức cao hơn, chắc chắn là như vậy. Nhưng – và đây là một cái “nhưng” quan trọng – điều này không có nghĩa là các khai ngộ trở nên dễ dàng hơn. Khuynh hướng mà nhiều người có khi họ lên tới những tầng tâm thức cao (và ở đây thày không chỉ nói đến đệ tử chân sư thăng thiên mà các người tâm linh nói chung) là họ nhìn con đường mà họ đã đi qua, họ nhìn đoạn đường dài mà họ đã trải qua và nói: “Tôi đã có tiến bộ vĩ đại so sánh với điểm tôi khởi đầu 30, 40 năm hay không biết bao nhiêu năm trước đây.” Các người đó cũng có khuynh hướng nhìn người khác và nói: “Tôi rõ ràng ở tầng tâm thức cao hơn những người này, tôi biết về con đường tâm linh nhiều hơn họ rất nhiều, tôi đã khắc phục nhiều ảo tưởng và dính mắc.” 

Thày không hề nói là điều này sai. Có nhiều người đã đạt những tầng tâm thức cao so với người trung bình trên trái đất. Có nhiều người suốt chiều dài lịch sử đã đạt được một tầng nào đó và tự coi mình là đạo sư hay thày tâm linh. Có nhiều người hiện nay đã thực sự đạt được một tầng tâm thức cao, cao hơn tầng 96, cao hơn quần chúng. Họ đã tự coi họ là thày tâm linh và họ từ tầng tâm thức cao của họ nhìn xuống và thấy rõ: “Tôi ở một tầng cao hơn.” Điều họ có khi không nhận ra là khi con nhìn xuống những khai ngộ mà người khác đang trải qua thì con rất dễ thấy những ảo tưởng mà họ vẫn còn đang bám víu, do đó con nghĩ con đã đạt được khả năng nhìn xuyên thấu mọi ảo tưởng.   

25.9. Lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp

Con còn có thể nghĩ con đã giác ngộ hay con đã thức tỉnh hay con không còn tự ngã hay đã đạt trạng thái vô ngã hay bất kỳ nhãn hiệu nào mà con người gán cho trạng thái đó. Điều mà nhiều người không nhận ra là con chưa tới tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất, vì nếu như vậy thì con đã thăng thiên. Khi con nhìn lên những khai ngộ mà con chưa vượt qua, những ảo tưởng mà con chưa thấy, thì mặc dù con đã có nhiều thành đạt con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng kế tiếp.

Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp. Ảo tưởng mà con chưa thấy ở tầng 143 cũng khó như ảo tưởng ở tầng 48. Tại sao vậy? Vì đó là ảo tưởng đã mang con xuống tầng đó và nó khó thấy ở tầng 143 y như ở các tầng thấp hơn. Con đã tạo ra động lượng, con đã mở rộng nhận biết, con đã nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở các tầng thấp, nhưng ở tầng tâm thức hiện tại của con, con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng hiện thời của con. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng. Cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

25.10. Con không thể bảo đảm thành công cho tới khi con thăng thiên

Con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Đó là lý do vì sao con có thể bị mắc kẹt ở bất cứ tầng nào, và nhiều người suốt dòng thời gian đã rơi vào cạm bẫy này. Có nhiều người đã coi mình là đạo sư, đã được tôn sùng như đạo sư, đã được tôn vinh “vị đạo sư này chắc chắn đã giác ngộ”. Vị đạo sư có thể đã đạt được một tầng tâm thức cao, tỷ dụ như tầng 140 (là một tầng rất cao so với người trung bình), do đó ta có thể hiểu tại sao con người nhìn vào vị đạo sư đó và nói: “Ồ, vị ấy chắc chắn là đã giác ngộ, chắc chắn là vị ấy hiểu biết nhiều hơn rất nhiều.” Quả thực là vị ấy hiểu biết hơn, và vị ấy có thể có khả năng giúp đỡ con người, nhưng vị ấy có quả thực đã giác ngộ khi vị ấy ngưng ở tầng 140 và không nhìn nhận là có điều mà vị ấy chưa nhìn ra, có ảo tưởng mà vị ấy chưa thấy?

Phải chăng có nguy cơ là vị đạo sư sẽ, dù vị ấy có thể không nhận ra một cách có ý thức, truyền cho các đệ tử quan niệm đây là tầng cao nhất mà họ cần đạt tới và sau đó thì con bảo đảm thành công? Con sẽ không bảo đảm thành công khi con ở tầng 140. Con không thể thăng thiên từ tầng 140, và quả thực cũng không từ tầng 143. Nếu một đạo sư ngưng ở một tầng nào đó, thì chuyện gì xảy ra? Vị ấy trở thành một đạo sư giả. Tất cả những gì vị ấy nói vẫn có thể có đôi phần chân lý, và vị ấy vẫn có thể chỉ ra một con đường tu dẫn con người lên cao hơn. Nhưng vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy nói là không có gì cao hơn tầng đó. Hoặc vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy dạy rằng mục đích của con đường tu là đạt trạng thái vô ngã thay vì trạng thái cái ta luôn luôn tự thăng vượt.

25.11. Tâm Ki-tô hình quả cầu, không đường thẳng

Đây là một số nhận xét mà thày muốn phát biểu để mang chúng ra công chúng như một phần của giáo lý mà các thày liên tục trao truyền. Liên quan đến chủ đề của hội nghị này, chủ đề hòa điệu, kết nối với các vị thày tâm linh, thì đâu là cách tốt nhất để kết nối với Tia thứ Bảy? Ta có thể nói là giáo lý mà thày vừa trao truyền có thể giúp con kết nối vì nó giúp con nhận ra là để kết nối thực sự thì con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra. 

Như thày có nói, có một giai đoạn trong đó con phải theo đường thẳng. Trên tầng 96 hay ở tầng 96, con cần nhận ra là con đường tu theo hình quả cầu hơn. Thay vì bước theo tiến trình đường thẳng thì trên tầng 96 con quả thực có thể nhảy vọt. Con có thể đang ở tầng 97 và bỗng nhiên con nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 108. Sau đó con nhảy vọt lên tầng 120, và nhảy ngược về tầng 98, và sau đó lên tầng 104. Nói cách khác, các ảo tưởng lúc đó không hoàn toàn theo đường thẳng. Con không cần nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở tầng 97, sau đó tới tầng 98, và sau đó tới tầng 99. Con có nhiều khả năng nhảy vọt từ tầng này sang tầng khác. 

Lẽ tất nhiên đây lại là một điểm vi tế vì con có thể nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 120 và do đó tôi đã ở trên ảo tưởng ở tầng 97.” Nếu con bỏ qua ảo tưởng ở tầng 97 thì, ấy, con không sẵn sàng thăng thiên. Tuy nhiên, điều con cần làm với tâm ý thức là nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng.

Thày biết đây là một điều cần hiểu một cách vi tế vì các thày có nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô ở mỗi tầng tâm thức để khi con ở tầng thấp nhất con vẫn có khả năng nhìn xuyên thấu ảo tưởng ở tầng đó. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tại sao vậy? Bởi vì tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

25.12. Giải thoát khỏi và tự do để

Con có thể nói là khi các thày trao truyền quan niệm 144 tầng tâm thức thì có nguy cơ tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về tâm thức Ki-tô và việc cái Ta Biết bước ra ngoài ảo tưởng hiện tại. Khi con sẵn lòng làm việc này, khi con khóa chặt vào tiến trình này, thì con sẽ vượt lên trên tâm đường thẳng. Điều mà các thày cũng có thể nói là giữa tầng 48 và 96, con nỗ lực để giải thoát mình khỏi. Rốt cuộc đây là giải thoát khỏi tâm thức tập thể, nhưng cũng là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Sự chuyển vọt mà con cần làm ở tầng 96 là thay vì tìm cách giải thoát khỏi, con đi tìm tự do để.

Tự do để gì? Tự do khỏi rất dễ hiểu. Con có một giới hạn mà con muốn vượt thoát. Con có thể nói: “À, tôi đang ở trong một nhà tù, nhưng bây giờ tôi có chìa khóa và tôi sẽ bước ra ngoài khung cửa, giờ đây tôi sẽ thoát khỏi nhà tù.” Con để ý là nhiều người ở trong tù lâu năm, khi được trả tự do thì họ đứng đó và nói: “Bây giờ tôi làm gì?” Họ không biết phải làm gì với cuộc đời của họ khi họ được tự do khỏi nhà tù, và đây là một khai ngộ khó mà con đối diện ở trên tầng 96. Con đã thoát khỏi tâm thức tập thể. Con đã giải thoát khỏi nhiều ảo tưởng trong tâm mình: “Tôi bây giờ làm gì đây? Tôi phải làm gì đây với tầng tâm thức hiện tại của tôi?”

25.13. “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”

Đây là điểm con cần bước lên cao hơn và nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Bởi vì nhiều người đã dùng tâm đường thẳng để tạo hình ảnh là khi con đạt tâm thức Ki-tô, thì Hiện diện TA LÀ của con hay các chân sư thăng thiên sẽ cho con biết con phải làm gì. Trên căn bản, các người đó nghĩ là con từ bỏ quyền tự quyết, con trở thành một con rối, thậm chí một số người còn lấy giáo lý của Giê-su và nói: “Tự tôi không làm được việc gì, chính là đức Cha trong tôi đang làm việc.” Họ nghĩ: “Khi tôi đạt tới tầng này, tôi có thể thở phào nhẹ nhõm và nói công việc đã làm xong, giờ đây Hiện diện TA LÀ có thể lấy quyền điều khiển, tôi không cần suy nghĩ nữa, tôi không cần lấy quyết định nữa, tôi sẽ chỉ để Hiện diện làm mọi chuyện.” Sống Ki-tô không có nghĩa như vậy, vì Giê-su đã nói gì: “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”.

Với cương vị Ki-tô, con nhận ra một điều mà con không thể nhận ra với tâm đường thẳng. Với tâm đường thẳng con nghĩ: “Tôi là một sinh thể tách biệt, tôi có một số quyền năng, tôi có một số khả năng, tôi có thể làm một số chuyện.” Con quả thật có thể. Ngay cả trong tâm thức nhị nguyên con vẫn có thể làm một số chuyện. Mọi chuyện đều có một giá phải trả, mọi chuyện đều tạo nghiệp, nhưng con có thể làm một số chuyện. Thậm chí có những người cảm thấy là chỉ khi họ đi vào nhị nguyên thì họ mới có trọn vẹn quyền tự quyết vì lúc đó họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không bị gò bó bởi nghiệp quả phi lý và hậu quả và phải quan tâm đến người khác và chìa má bên kia và những chuyện tương tự.

Có người nghĩ rằng khi con đạt tâm thức Ki-tô thì Thượng đế hay các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ nói con biết con phải làm gì. Các thày đã nói gì? Con được sinh tạo như một người đồng-sáng tạo và như một người đồng-sáng tạo con không nghĩ con là một sinh thể tách biệt có những khả năng tách biệt. Con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, do đó đấng cha, Hiện diện TA LÀ, đang làm bằng cách cho con năng lượng. Hiện diện TA LÀ cũng có thể cho con chỉ thị vì nó mong muốn trải nghiệm một số chuyện trên trái đất.

Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con muốn làm gì trên trái đất? Con muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào? Con muốn có trải nghiệm gì trên trái đất? Đây có thể là một thách thức rối rắm cho nhiều người, nhất là khi họ rất chuyên cần theo một con đường đầy kỷ luật: “Vậy bây giờ tôi làm gì?”

25.14. Nhìn quá hình ảnh của con về con đường tu

Nhiều người trong các người đó đã từ chối suy ngẫm câu hỏi này và đi vào tâm thái: “Tôi sẽ chỉ cần tiếp tục đọc thỉnh Ánh sáng Tím ba tiếng mỗi ngày cho đến hết đời và sau đó tôi sẽ được bảo đảm thăng thiên.” Họ làm như vậy (như một số đệ tử các đợt truyền giáo trước đã làm) và khi họ rời xác thân vật lý họ vui mừng nghĩ: “Tôi sẵn sàng thăng thiên.” Lúc đó có chân sư thăng thiên xuất hiện với nhiệm vụ cho họ biết: “Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Con phải trở lại và vượt qua các khai ngộ mà con chưa vượt qua.” Một số đệ tử cảm thấy tức giận và nghĩ: “Các chân sư thăng thiên đã lừa tôi.” Chuyện này đã xảy ra.

Điều con cần làm ở đây, nếu con muốn kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do là đi vào tâm thái sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Để thấy nó, con cần sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?” Con cần sẵn lòng lấy một quyết định, nhưng con không thể lấy một quyết định tự do khi con chưa giải thoát mình khỏi cách con nhìn đường tu ở các tầng thấp, do đó con cần thời gian.

25.15. Dụng cụ của Saint Germain

Như thày đã nói, con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi xuống, và thư thả. Con có thể tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Nhiều người trong các con sẽ khám phá là cả cuộc đời mình con có một ý niệm mình phải làm gì. Với nhiều người trong các con, tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên có nghĩa là con đã chuyển nó thành một phiên bản mới của những gì con phải làm. “Tôi là một đệ tử chân sư thăng thiên. Tôi phải đọc bằng này bài chú bài thỉnh mỗi ngày. Tôi phải học hỏi giáo lý. Tôi phải làm điều này điều kia.”

Điều này không có nghĩa là con phải ngưng đọc chú đọc thỉnh, nhưng con cần tự hỏi chính mình: “Nếu không có gì phải làm, nếu không có ràng buộc nào về những chuyện tôi phải làm, thì tôi muốn làm gì?” Với nhiều người trong các con, điều này có nghĩa là con có thể trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, vì đây là những trải nghiệm mà con muốn có trên trái đất và con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

25.16. Trải nghiệm hoàn tất chu kỳ

Có những người đã theo con đường tu rất thẳng để đạt một tầng tâm thức cao. Họ có một hình ảnh thế nào là một người tâm linh và sau đó họ tới điểm có cái gì đổ vỡ. Họ không thể duy trì hình ảnh đó. Họ cảm thấy như họ đã mất nền móng và họ lao mình vào một số sinh hoạt mà họ đã nghĩ họ sẽ không bao giờ làm vì những sinh hoạt đó không có tính chất tâm linh. Với nhiều người, đây là một thay đổi chấn thương, một xoay chuyển chấn thương trong đó họ lên án họ vì đã làm như vậy, vì đó là sinh hoạt không tâm linh. Nhiều người đã vật vã với tình trạng này trong nhiều năm.

Thậm chí một số người đã rời bỏ hẳn con đường tâm linh vì họ không thể quân bằng hai sinh hoạt. Các thày đã thấy cựu đệ tử chân sư thăng thiên rất chuyên cần trong 30 năm hay hơn nữa và sau đó, tỷ dụ như khi một đợt truyền giáo chấm dứt và không còn tiết lộ tuần tự qua tổ chức đó nữa, thì họ rơi vào trạng thái trầm cảm, rối loạn, không biết phải làm gì, và rời bỏ con đường tâm linh. Con có thể xoay chuyển thái độ của con trước chuyện này và nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.  

Có một số chuyện mà Thánh kinh không ghi lại, vì Thánh kinh chỉ chú trọng vào giai đoạn ba năm cuối của đời Giê-su, nhưng khi Giê-su ở tuổi từ 12 đến 30 thì thày trải qua một giai đoạn có một số trải nghiệm mà thày cần có để chán ngán chúng. Một số những trải nghiệm này được mô tả trong quyển Các kiếp sống của tôi, nhưng quyển sách này không nói đến tất cả, vì như Thánh kinh có nói, nếu tất cả những gì Giê-su nói và làm đều được ghi lại, thì cả thế giới cũng không chứa được những quyển sách cần được viết ra.

Con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng, như con thường thấy ở dưới tầng 96. Nếu con có thể xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu theo hướng đó, thì con nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con. Thày biết đây luôn luôn là một điều vi tế vì tự ngã sẽ có thể dùng nó để biện minh mọi chuyện, nhưng thày không muốn nói đến chuyện biện minh, và ở tầng này con có thể thấy sự khác biệt giữa một biện minh của tự ngã và đơn giản là nhu cầu có một trải nghiệm để hoàn tất trải nghiệm, hoàn tất chu kỳ.

25.17. Con chỉ thấy một ảo tưởng khi biểu lộ nó

Một lần nữa thày đã trao truyền nhiều hơn những gì đa số các con có thể tiếp nhận trong một bài giảng, nhưng các thày không truyền giáo lý cho riêng một người, do đó thày hy vọng là mỗi người trong các con đã tìm thấy trong bài giảng này một điểm gì có âm vang với con mà con có thể trụ vào và sử dụng để tăng triển khả năng kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do. Các thày đã nói là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất. Khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô. Điều này không có nghĩa là con bắt đầu hành hạ hay khuynh loát người khác, lẽ dĩ nhiên đây không phải là quả vị Ki-tô, nhưng con tự do hơn trong cách con muốn biểu lộ chính mình.

Con không trở nên một con rối, con có tự do, con tự do là, và con tự do khỏi tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.” Toàn bộ tâm thức này phai nhạt đi, ngay cả khi người khác nói vậy về con, nó phai nhạt đi và con chỉ tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Trên căn bản, khi con đạt những tầng tâm thức cao, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thí dụ ở tầng tâm thức 120, thì con biểu lộ chính mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại. Chỉ khi con biểu lộ chúng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp. Con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao. Có thể nói đây cũng là cách con tăng trưởng ở các tầng thấp, nhưng con chỉ không ý thức điều này.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, nhưng điều thày thực sự muốn trao không phải là ngôn từ. Thày muốn trao cho các con Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày. Thày mong rằng vượt quá lời nói, con cảm nhận được Hiện diện đó, vì thày, Saint Germain, thương yêu tất cả các con, mỗi người trong các con và tất cả các con. Thày thương yêu các con.

Con có tình thương sâu xa nhất của thày, lòng tri ơn sâu xa nhất của thày vì các con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này. Có thể có người sẽ nói: “Ồ, vị Chân sư Saint Germain này lạc quan một cách vô vọng khi ông nghĩ ông có thể đem lại thời hoàng kim trên trái đất.” Con yêu dấu, các con đang chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực. Vì vậy thày tri ân và thương yêu các con.

29 | Thăng vượt cách giao tiếp bằng lời với cái ta cao

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Padmasambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Padmasambhava. Ý định của thày là bài đóng góp này sẽ không dài dòng, nhưng thày muốn trình bày đôi chút về ngôn từ. Bởi vì nếu con nhìn lại lịch sử các giáo lý tâm linh đã được trao truyền trên hành tinh này, con có thể tự hỏi: “Đâu là cản trở lớn nhất, đâu là chướng ngại lớn nhất cho sự thăng tiến tâm linh của rất nhiều người tâm linh chân thành đã tìm thấy con đường tâm linh suốt các thời đại?” Và quả vậy, trở ngại lớn nhất đó là ngôn từ. Bây giờ con cũng có thể tự hỏi: “Vậy đâu là tài nguyên lớn nhất cho các vị thày tâm linh của nhân loại? Đâu là cơ hội lớn nhất cho sự thăng tiến của người tâm linh?” Và trả lời cũng là ngôn từ. Lý do đơn giản cho sự kiện này tất nhiên là trên một hành tinh như địa cầu, với sự dày đặc của vật chất lẫn của tâm thức đại chúng, việc thần giao cách cảm thật không thực tế trên quy mô rộng lớn. Và do đó giáo lý tâm linh phải được chuyển tải qua ngôn từ.

29.1. Ngôn từ: cơ hội lẫn trở ngại cho sự tăng triển tâm linh

Một mặt, việc dùng ngôn từ để trao truyền giáo lý quả là một cơ hội vì đây là một sự giao tiếp từ cõi tâm linh dưới dạng ngôn từ. Nhưng mặt khác, ngôn từ cũng là trở ngại lớn nhất cho sự tăng triển tâm linh. Tại sao như vậy? Ấy, là vì con người có xu hướng trở nên dính mắc với một cách diễn đạt bằng lời đặc thù, và họ muốn lời này truyền đạt hay quy định một chân lý tối hậu nào đó. Lý do là vì tâm đường thẳng – cái tâm thuần trí, phân tích, lý luận hợp lý – có khả năng làm nhiều trò phù phép với ngôn từ. Có thể con đã được xem các nhà ảo thuật trình diễn nhiều trò lạ, nhưng trí năng con người cũng có thể làm nhiều trò ảo thuật với ngôn từ. Nó có thể diễn giải theo cách của nó. Nó có thể chẻ nhỏ thật chi li và suy diễn bất tận. Và điều này, tất nhiên, con đã thấy các nhà Bà la môn đạo Ấn làm như vậy và đức Phật đã tìm cách vô hiệu hóa việc làm đó. Nhưng chẳng bao lâu sau khi Phật không còn hiện thân thì chính những nhà trí thức của đạo Phật lại bắt đầu làm y như vậy. Khi Giê-su bước chân trên trái đất, các thày thông giáo và người Pha-ri-si cũng làm như vậy, và ngay sau khi Giáo hội Công giáo được thành lập – và cả trước đó nữa – thì các nhà thần học cũng bắt đầu làm chuyện tương tự với lời dạy của Giê-su.

Và hiển nhiên trong thời hiện đại, các nhà khoa học, các nhà duy vật cũng làm đúng chuyện này với các khám phá hay giảng dạy của khoa học. Rồi nhiều người tâm linh khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh dù là mới hay cũ, thì họ cũng làm y chang như vậy. Họ tranh luận bất tận về ý nghĩa của ngôn từ, họ diễn giải bất tận để cố làm thế nào đạt tới một cách diễn giải tối hậu nào đó.

29.2. Đi tìm giáo lý cao nhất trong quá khứ

Một sự kiện, một xu hướng mà con có thể nhận thấy trong lãnh vực tâm linh là có rất nhiều người tâm linh nhìn ngược về phía sau. Họ đi tìm một lời dạy đã được truyền giảng một thời gian trước đây. Có thể đó là lời dạy cổ xưa nhất mà con người biết đến hiện nay – kinh Veda – hay đó có thể là lời dạy của Phật, có thể là Kinh Cựu ước, là lời dạy của Giê-su, là những cách diễn giải sau này hay kinh điển của Phật giáo hay kinh Koran. Đó có thể là những lời dạy mới hơn, thậm chí là lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong những đợt truyền pháp trước. Nhưng con thấy xu hướng người ta cứ nhìn ngược dòng thời gian, như thể họ cho rằng vào thuở khi các bậc hiền giả Veda còn hiện thân, đó là một thời trong sáng hơn, thuần khiết hơn, cho nên lời tiết lộ của các bậc này cũng là lời tiết lộ cao nhất có thể được trao truyền. Hay họ cho rằng thời của Mohammed mới là một thời đặc biệt làm sao, và đó là lý do kinh Koran phải là lời tiết lộ tối thượng có thể được đưa ra.

Liệu những người này chẳng bao giờ mở báo ra đọc hay sao, chẳng bao giờ xem truyền hình, đọc sách hay lên mạng? Chẳng lẽ họ không nhận ra là mức sống con người đã có tiến bộ so với mười ngàn năm về trước? Họ chẳng tự hỏi vì nguyên do gì sự tiến bộ này đã xảy ra? Họ chẳng nhìn ra là tiến bộ đã đạt được là do tâm thức tập thể ngày nay cao hơn thời các hiền giả Veda, hay thời Mohammed, hay thời Giê-su hay thời của Phật? Vậy có hợp lý lắm không khi cho rằng mười ngàn năm về trước, người ta có thể đưa ra một lời tiết lộ cao hơn bây giờ? Làm sao đó là tiết lộ cao nhất được khi tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay? Điều này có hợp lý không?

29.3. Càng ngày càng ít khoảng rộng cho việc diễn giải

Đấy, đối với một số người thì chuyện đó hợp lý, hay họ chỉ đơn giản từ chối không chịu suy nghĩ. Nhưng vì lý do gì người ta không chịu chấp nhận bất kỳ lời tiết lộ nào đến sau? Tại sao họ cứ bám vào cái cũ? Là vì lời tiết lộ ở những thời trước được trao truyền cho một mức tâm thức thấp hơn, có nghĩa là gì? Có nghĩa là lời tiết lộ có thể được đưa ra vào thời điểm đó không chính xác bằng những lời có thể được đưa ra ngày hôm nay. Không chính xác nghĩa là gì, lời diễn đạt giáo lý không chính xác bằng hôm nay, có nghĩa là gì? Có nghĩa là có nhiều khoảng rộng để người ta diễn giải. Và càng có nhiều khoảng rộng để diễn giải thì tâm đường thẳng càng dễ giở trò phù phép của nó, và những ai mắc bẫy tâm đường thẳng – chẳng hạn các nhà Bà la môn hay các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước – càng có thể sử dụng trí năng cao trội của họ để tự ban cho mình một địa vị đặc quyền. Và một khi họ đạt được địa vị này thì họ không muốn buông nó ra, và đó là tại sao họ cố bám lấy những lời dạy cũ mà họ có thể diễn giải một cách bất tận.

Ngay cả các lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong thế kỷ vừa qua cũng cho thấy một chiều hướng tiến triển rõ ràng. Con thử quay lại các đợt truyền pháp trước, đọc lại lời dạy, thì con sẽ thấy những lời dạy này không chính xác, không trực tiếp như lời dạy hôm nay. Một số các con đã bày tỏ: “Nhưng các lời dạy cũ dùng từ ngữ cao siêu hơn nhiều,” trong khi lời dạy ngày nay rất giản dị, dùng từ vựng rất hạn hẹp. Thày đồng ý như vậy, tuy nhiên ngôn từ cao siêu cho phép người ta rộng đường suy diễn hơn.

Điều các thày muốn làm trong khuôn khổ việc tiết lộ tuần tự, như một phần của tiến trình tiết lộ tuần tự, như khía cạnh Omega của tiết lộ tuần tự, là làm cho lời giảng thật bình dị để càng ngày càng có nhiều người nắm bắt được, nhưng cũng để cho ngay cả những người ở một mức tâm thức cao hơn không còn gì nghi ngờ về những điều được bày tỏ, không còn nhiều khoảng rộng để diễn giải, không còn nhiều nhu cầu để suy diễn.

29.4. Sự suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện thời

Tất nhiên, một lời dạy được trao truyền bằng lời nói luôn luôn sẽ bị suy diễn vì con người sẽ suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện tại của họ. Thày có thể đưa ra một lời dạy cho một tầng tâm thức nào đó nhưng sẽ vẫn có những người ở các tầng từ 48 đến 96, hay ngay cả những người ở các tầng bên dưới có thể diễn giải dựa theo tầng của họ, dựa theo thế giới quan và phin lọc nhận thức ở tầng đó. Điều này không thể tránh được, nhưng ít ra các thày làm những gì mình có thể làm từ cõi thăng thiên hầu giúp cho giáo lý càng khó tranh cãi, càng chính xác càng tốt.

Tất nhiên thày không bảo là những lời dạy các thày đang ban truyền là giáo lý tối thượng, không thể nào chính xác hơn được trong tương lai khi tâm thức tập thể vươn lên cao hơn nữa. Nhưng dẫu vậy, con hiểu điều thày muốn nói chứ. Thày đoan chắc là việc quay lại cái cũ không thực sự hiệu quả, đặc biệt khi chúng ta đang ở một thời kỳ chuyển tiếp giữa hai thời đại, giữa hai chu kỳ tâm linh đang chuyển từ thời Song ngư sang thời Bảo bình, vì các lời dạy trong thời Song ngư được đưa ra cho mức tâm thức của chu kỳ đó và giờ đây thì các thày đang giảng dạy cho thời Bảo bình.

29.5. Vượt quá ngôn từ

Tất nhiên, lời dạy thày trao cho con ở đây không chỉ là một lời dạy chung chung, vì nó cũng liên quan đến khái niệm nối kết với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Maitreya vừa trao truyền một lời dạy thật chính xác, và thày đây chỉ muốn đóng góp thêm từ nhãn quan của thày. Maitreya có giải thích là tới một điểm nào đó con cần phải thách thức những hình ảnh con có về Hiện diện TA LÀ của con, những hình ảnh mà con đã hình thành ở một tầng thấp hơn. Con cần ngừng phóng chiếu những hình ảnh này, vì nếu không thì Hiện diện TA LÀ sẽ phải rút lui khỏi con và ngừng trả lời các câu hỏi của con hay hướng dẫn con.

Đấy, trong khuôn khổ tiến trình này, con thử nhìn xem rất nhiều người khi họ nghe nói lần đầu về Hiện diện TA LÀ, họ thường làm điều họ vẫn quen làm dựa trên bất kỳ truyền thống tôn giáo hay tâm linh nào mà họ đã theo. Họ thỉnh gọi Hiện diện TA LÀ, họ cầu nguyện Hiện diện TA LÀ, họ đặt câu hỏi cho Hiện diện TA LÀ, nhưng làm thế nào con thỉnh gọi, cầu nguyện hay đặt câu hỏi đây? Bằng lời nói, chẳng phải vậy sao?

Có thể là ở một tầng nào đó trên đường tu tâm linh, con có thể nhận được sự hướng dẫn bằng lời nói hay câu trả lời từ Hiện diện TA LÀ của con – không phải là một giọng nói ầm ầm từ trên trời vọng xuống mà là lời nói đến với con từ bên trong tâm con. Nhưng khi con đến tầng cao hơn nơi con cần bước lên để bắt đầu trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, thì khi đó con cần nhìn nhận là con không thể đạt được hợp nhất bằng cách tiếp tục giao tiếp với Hiện diện TA LÀ qua ngôn từ, bằng cách nói chuyện với Hiện diện TA LÀ, đặt câu hỏi hay thỉnh gọi. Bởi vì tại sao con lại cần giao tiếp bằng lời chứ? Chỉ khi con nói chuyện với một sinh thể bên ngoài tâm con, một sinh thể tách biệt với con. Đương nhiên đó là cách con nói chuyện với người khác – các thày hiểu rõ là con đã quen làm vậy rồi và một lần nữa các thày không chê trách gì con. Việc con cũng làm vậy với Hiện diện TA LÀ trong một thời gian là chuyện hoàn toàn tự nhiên. Nhưng sẽ tới một điểm sự giao tiếp bằng ngôn từ trở thành một trở ngại sẽ ngăn con đạt đến sự Hợp nhất rộng lớn hơn với Hiện diện mà các thày đã giải thích.

Đến một điểm con đơn giản cần lấy quyết định ý thức là con sẽ ngừng tiếp cận Hiện diện TA LÀ của con qua từ ngữ. Con ngừng chờ đợi hay hy vọng là con sẽ nhận được một hồi đáp bằng từ ngữ. Bởi vì đến một điểm con vẫn có thể nhận được xung lực hồi đáp từ Hiện diện nhưng xung lực này sẽ không mang hình dạng lời nói, nó sẽ giống hơn một cảm giác hay một hình ảnh. Và cuối cùng như Maitreya đã mô tả, ngay cả cách đó cũng phai nhạt đi, và tới một điểm con không còn tìm cách nhận được một điều gì từ Hiện diện hay giao tiếp với Hiện diện của con, bởi vì như Maitreya đã tả chân thật hùng hồn, sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô tan biến mất.

Con không còn hướng bất cứ gì về Hiện diện của con nữa, con không còn chờ đợi nhận được gì nữa từ Hiện diện. Con chỉ là một với đại dương của Hiện diện và tâm con chảy theo Hiện diện, khi lên khi xuống. Và con không phân tích, con không lý giải, con không suy diễn, con không cố cắt nghĩa hay đặt chuyện này chuyện nọ vào một khuôn khổ vũ trụ hay một tầm quan trọng vũ trụ. Con chỉ – con là Hiện diện và Hiện diện cũng chính là con. Đâu còn nhu cầu giao tiếp bằng lời nữa?

29.6. Đề nghị của Padmasambhava

Nếu con cảm thấy cần sự trợ giúp để thực hiện việc trên thì thày cống hiến cho con sự giúp đỡ của thày. Con chỉ đơn giản đọc câu thần chú của thày*. Con đọc lớn 9 lần, xong con nhắm mắt lại, tập trung vào bên trong và không đọc thần chú. Con chỉ đơn giản để cho thần chú đến với con.

Có thể con sẽ thắc mắc: “Nhưng thần chú chẳng phải là từ ngữ hay sao?” Là gì chứ – từ ngữ? Đó là âm thanh con ạ, nó không mang ý nghĩa nào mà tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy. Tất nhiên con có thể lên mạng internet truy tìm cách diễn giải câu chú, nhưng nếu con tìm thêm chút xíu, con sẽ tìm thấy 17 cách diễn giải khác nhau. Cách nào mới là cách đúng? Thôi con hãy quên đi chuyện tìm ý nghĩa câu thần chú mà hãy đơn giản nhìn nó như là âm thanh. Âm thanh này làm gì chứ? Nó làm yên tâm con, tâm vỏ ngoài của con, để con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày cùng Hiện diện của con. Đó là điều thày có thể làm cho con trong bối cảnh này, và thày sẽ giúp những ai đọc câu chú này nếu con cảm thấy con cần đến nó.

Thày không bảo là việc này nên thay thế việc con hòa điệu với một vị Thượng sư hay một chân sư đặc biệt mà con cảm thấy gần gũi. Đây chỉ là thêm một dụng cụ mà các thày đã quyết định cho con.

Với lời này, thày đã cho con những gì là niềm vui mà cũng là trách vụ của thày trao cho con tại buổi họp mặt thật tuyệt vời này mà các con đã tổ chức và tham gia. Tất cả các thày mong con có thể nhìn thấy tác động mà một đại hội như thế này tạo ra trong tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của mọi người. Chỉ tiếc là các thày không thể truyền đạt điều này bằng tư tưởng nên con phải tin lời thày thôi.      

Và như vậy, thày niêm con trong tình yêu của tim thày.

* Câu thần chú của Padmasambhava: OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM

23 | Vượt quá hình tư tưởng để trực tiếp trải nghiệm Hiện diện

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Con có thể thấy điều trớ trêu là các thày nói về tâm đường thẳng, vậy mà các thày, các Thượng sư, lại nối tiếp nhau xuất hiện một cách đường thẳng.

Tuy nhiên, như các thày có nói, lẽ tất nhiên có một tiến trình đường thẳng đi từ đấng Sáng tạo xuyên qua các tầng của sự sáng tạo, các bầu cõi trước, cho tới bầu cõi này. Con không thể nói là mọi chuyện theo một tiến trình đều nhất thiết giống như những gì thày nói về tâm đường thẳng. Đó là vì tâm đường thẳng là một hiện tượng đặc thù có mặt nơi một bầu cõi chưa thăng thiên. Như các thày có nói, tâm đường thẳng không thực sự là một vấn đề khi ta thấy nó như nó là, tức là một dụng cụ để lo liệu các khía cạnh thực tiễn của đời sống.

23.1. Một tiến trình đường thẳng trong đời sống thực tiễn

Con biết rõ là trong cuộc đời của mình con có một thời biểu nào đó, một số bổn phận nào đó. Có thể là con phải đi học, có thể là con phải dẫn con đến trường, có thể là con phải đi làm, vì vậy con cần ở một số nơi vào một số lúc. Do đó, con cần một tiến trình đường thẳng, một thời biểu đường thẳng trong cuộc sống thường nhật để mọi chuyện vận hành suôn sẻ.

Đây là một chuyện rất thực tiễn. Tỷ dụ, con biết là nếu con muốn xây một căn nhà thì con cần thiết lập một tiến trình đường thẳng. Con mua mảnh đất, con nhờ người vẽ sơ đồ, con tổ chức các người thợ cần thiết để hoàn thành công việc, và mọi chuyện cần diễn ra theo một tiến trình đường thẳng, một thời khóa biểu đường thẳng. Trong xã hội cũng vậy, khi có việc cần làm, khi cần hoàn thành một công trình xây dựng lớn, hay chỉ để đời sống thường nhật vận hành trong xã hội, xe buýt phải chạy đúng giờ, xe lửa chạy phải đúng giờ và những việc tương tự, thì tâm đường thẳng là một dụng cụ rất hữu dụng.

23.2. Dùng tâm đường thẳng để lý luận về cõi tâm linh

Vấn đề khởi lên khi con người bắt đầu dùng tâm đường thẳng để giải quyết những đề tài ngoài đời sống thực tiễn trong bát cung vật lý. Đây là một vấn đề đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử. Như các thày có giảng, vào thời đức Phật, các vị Bà la môn Ấn giáo dùng tâm đường thẳng để lý luận về các đề tài không dính dáng gì đến đời sống thường nhật thực tiễn, tỷ dụ liên quan đến sự vận hành của vũ trụ, kể cả cõi tâm linh như thế nào.

Đức Phật thấy các cố gắng này đã tạo ra đủ loại ngộ nhận, vì điều mà tâm đường thẳng làm là nó nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất. Nó tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng, một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng mà nó phát hiện trong thế giới vật lý, sau đó nó muốn kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh. Do đó, nó dùng những điều kiện trong thế giới vật chất và lý luận ngược trở lại về sự vận hành của thế giới tâm linh.

Con có nắm bắt vì sao phương pháp này nguy hiểm? Các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Các thày có giảng là có một loại tiến trình đường thẳng từ đấng Sáng tạo tới tầng cao nhất của thế giới tạo vật, là bầu cõi thứ nhất. Đấng Sáng tạo đề ra một khuôn đúc. Các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất sinh hoạt trong khuôn khổ khuôn đúc đó. Họ tạo ra bầu cõi thứ hai, và sau đó cũng như vậy với bầu cõi thứ ba, vân vân. Tất cả những gì được tạo ra ban đầu trong bầu cõi của con là một biểu hiện của các tầng lớp bên trên.

Do đó, con có thể nói là có một tiến trình, nhưng trước nhất, tiến trình này đi từ tầng cao nhất tới những tầng càng ngày càng có hình tướng biểu hiện hơn. Đó không phải là một chuỗi nhân-quả đường thẳng. Đó không phải là kết quả của các định luật máy móc. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo không hoàn toàn đường thẳng. Điều thày muốn nói là con không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn. Con không thể hiểu được khi con còn đầu thai trên trái đất. Do đó, tìm cách lý luận dựa trên những gì con thấy trên trái đất để suy diễn ra cõi tâm linh là một tìm cầu vô bổ.

23.3. Phóng chiếu những điều kiện không trong sạch của trái đất lên cõi tâm linh

Sau đó lại có một tầng khó khăn khác. Các thày có giảng là lúc ban đầu bảy vị Elohim tạo ra trái đất. Các vị này tất nhiên là các sinh thể thăng thiên. Lẽ tất nhiên họ là một với toàn thể đại đoàn chưởng giáo dẫn đến tận đấng Sáng tạo. Họ tạo ra trái đất trong khuôn khổ khung sườn của những bầu cõi trước. Tuy nhiên, những gì các Elohim tạo ra không phải là những điều kiện con thấy trên trái đất ngày nay. Con có thể nói là nếu con thấy được những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra, thì con có thể thấy một số nguyên tắc, điều mà các khoa học gia gọi là luật thiên nhiên, tuy các luật này có tính chất tâm linh hơn là thiên nhiên. Con có thể nói: “Nếu ta hiểu những luật này, ta có thể suy luận lý do vì sao các sinh thể đó đã định là các luật đó như vậy. Do đó, chúng ta có thể suy luận để tìm ra ý tưởng của các sinh thể đó, tâm thức của họ. Ta có thể nhìn các điều kiện nguyên thủy của trái đất và dùng tâm đường thẳng để suy luận các đặc tính của tầng các Elohim.”  

Con có thể đạt kết quả với tâm đường thẳng, nhưng con không thể đi quá tầng các Elohim với tâm đường thẳng, vì tiến trình từ bầu cõi thứ sáu lên bầu cõi thứ năm không theo đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đi quá xa trở ngược lên cõi tâm linh. Thêm nữa, các thày cũng đã giảng là những điều kiện con thấy trên trái đất hiện nay không phải là những gì các Elohim tạo ra lúc ban đầu. Lý do là, như các thày đã giảng nhiều lần, nhân loại đã đi vào tâm thức tách biệt và đã bắt đầu sử dụng tâm thức nhị nguyên, và điều này đã đưa đến nhiều biến đổi sâu đậm trên trái đất. Độ dày đặc của vật chất, sự thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, và toàn thể tâm thức tập thể đã bị hạ xuống một tầng thấp hơn rất nhiều so với khi địa cầu được tạo ra lúc ban đầu.

Điều kiện hiện nay của trái đất không tự nhiên, không là một nối dài trong sáng của những gì các Elohim tạo ra. Các thày Bà la môn Ấn giáo đã làm gì? Họ nhìn các điều kiện hiện hành trên trái đất, họ cố tìm ra những mô thức, những gì xảy ra đều đặn, và sau đó họ dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu: các điều xảy ra đều đặn, các mô thức mà ta thấy trong cõi vật lý, có thể được phóng rộng lên trên tới cõi bên trên cõi vật lý. Chúng có thể cho ta biết về các thần linh, vì sao các thần linh lại là như họ là, và vì sao họ lại tạo thế giới như họ đã tạo ra.

Con có thấy chăng là phương pháp này sẽ không bao giờ cho con một hình ảnh chính xác về cõi tâm linh? Con lấy những điều kiện không thuần túy tâm linh và phóng chiếu chúng lên cái có tính chất tâm linh. Lẽ tất nhiên, không phải chỉ có các vị Bà la môn Ấn giáo đã làm việc này. Như các thày đã giảng, trong truyền thống Thiên chúa-Do thái giáo, vị Thượng đế giận dữ ở trên trời là một hình ảnh phóng chiếu bởi con người dựa trên tâm lý sa ngã và tâm thức nhị nguyên. Con thấy suốt dòng lịch sử, ở khắp nơi trên thế giới, con người đã lấy những điều kiện mà họ quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh, cõi thiên đường, hay bất cứ tên gì mà họ gọi. 

23.4. Cố gắng phù phiếm thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả

Trên căn bản, tại sao họ lại làm vậy? Đó là vì họ bị xáo trộn bởi những điều kiện hiện tại trên trái đất. Họ đang đau khổ, như Phật có giảng, vì khi con đi vào tâm thức nhị nguyên thì cuộc đời là đau khổ. Con bị xô đẩy từ bên này sang bên kia trong Biển Luân hồi. Con người muốn thoát khổ đau, và họ trực giác cảm nhận là phải có một lý do cho sự đau khổ của họ. Đây là một trực giác chân chính. Sự đau khổ của con có lý do.  

Sau đó họ quan sát là dường như trong bát cung vật lý một số chuyện, một số hậu quả có nguyên do. Đôi khi đó là một nguyên do sâu kín. Nếu con cầm một hòn đá trong tay và buông tay ra, thì hòn đá sẽ rơi xuống đất. Phải có một nguyên do sâu kín khiến hòn đá rơi xuống đất. Đây là một quan sát căn bản mà con người đã làm từ rất lâu. Họ cảm nhận bằng trực giác là phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau của họ, của các điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó họ tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại từ những điều kiện hiện hành trên trái đất để tìm ra nguyên do của các điều kiện này, nguyên do khổ đau của họ. Họ trực nhận là nếu họ khám phá ra nguyên do, và thay đổi nguyên do, thì họ cũng có thể thay đổi hậu quả.

Một lần nữa, đây là một trực giác chân chính. Nếu con có thể thay đổi nguyên do thì con có thể thay đổi hậu quả. Sự thật là thay đổi nguyên do là cách hữu hiệu duy nhất để thay đổi hậu quả. Lẽ tất nhiên, con người cũng đã tìm cách thay đổi nguyên do ở tầng hậu quả. Họ đã tìm cách thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả. Con thấy đây là điều mà khoa học đã làm từ mấy thế kỷ bằng cách nhìn vào bát cung vật lý và tìm cách hiểu điều kiện vật lý dựa trên nguyên do vật lý.

Có hai phương pháp mà con người áp dụng khi dùng tâm đường thẳng. Hay ta cũng có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con nhìn vào điều kiện hiện hành, con coi chúng là hậu quả, và con tìm cách dùng tâm đường thẳng để suy luận trở ngược cho tới khi con tìm ra nguyên do của hậu quả, và sau đó con tìm cách thay đổi nguyên do. Điều mà khoa học cố làm là tìm ra nguyên do trong thế giới vật lý, vật chất, và dùng hiểu biết này để thay đổi các điều kiện vật lý. Điều mà các tôn giáo đã làm từ nhiều ngàn năm là đi xa hơn các nguyên do vật lý và tìm các nguyên do phi vật lý. Do đó, họ tìm một thần linh có trách nhiệm về địa hạt mà họ đang bị đau khổ, và sau đó tìm cách cầu xin thần linh này để thần linh thay đổi điều kiện đang gây đau khổ cho họ.

23.5. Suy luận trí năng là ngõ cụt

Ta có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh thì vấn đề thực sự được tìm thấy nơi truyền thống tôn giáo. Họ không những muốn tìm một nguyên do của khổ đau hiện tại của mình, nhưng họ còn muốn tạo những hình ảnh tinh vi mô tả cõi tâm linh. Đây là điều khiến các vị Bà la môn Ấn giáo đi vào nhiều ngõ cụt khi họ dùng lý luận trí năng, đường thẳng, phân tích để phóng chiếu rằng: Thượng đế như thế này, các điều kiện như thế kia, đây là nguyên do tâm linh thật đằng sau hậu quả này, vân vân. Điều xảy ra vào thời đó là họ phân chia thành rất nhiều chi nhánh và giáo phái, họ có quá nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người đều tất nhiên khẳng định họ có hiểu biết tối hậu. 

Điều con thấy là hiện tượng rất ư phức tạp với rất nhiều người khẳng định họ có chân lý tối hậu, nhưng không có ai trong đó có chân lý tối hậu vì họ đều lý luận bằng tâm đường thẳng dựa trên những quan sát điều kiện hiện tại. Con có thể tiếp nối hiện tượng này tới thời nay và nói rằng một số những người đã đầu thai là người Bà la môn Ấn giáo mấy ngàn năm trước nay lại đầu thai là khoa học gia duy vật, họ trên căn bản lý luận giống như xưa, chỉ khác là nay họ quyết định rằng: “Chúng tôi không đi ra ngoài thế giới vật lý, chúng tôi tìm những nguyên do càng ngày càng sâu thẳm trong thế giới vật chất của các hiện tượng vật chất.” Họ vẫn phân chia thành nhiều trường phái, nhiều nhóm, họ có rất nhiều lý thuyết về sự phức tạp này hay phức tạp khác, như các thuyết đa vũ trụ, lỗ đen, năng lượng tối, vật chất tối, hay các đề tài phức tạp khác.

Những chuyện này ngăn con người làm việc gì? Chúng ngăn con người đạt tâm bình an. Con thấy gì ngày hôm nay, con thấy gì thời đức Phật? Con có thấy chăng các xung đột giữa con người, và các xung đột này dựa trên gì? Chúng dựa trên lý luận trí năng trên các điểm vi tế. Một nhóm Bà la môn diễn giải kinh Vệ đà theo lối này, một nhóm Bà la môn khác diễn giải cùng kinh đó theo cách khác. Mỗi nhóm đều tin chắc họ đúng, mỗi nhóm cảm thấy nhất định phải thuyết phục nhóm khác hay con người là các nhóm khác sai, và như vậy luôn luôn có đấu đá không ngừng.

23.6. Một triết lý mới chú trọng vào nâng cao tâm thức

Phật khi xưa đã thấy chuyện đó. Phật thấy các người đó làm chuyện phù phiếm vì họ sử dụng tâm đường thẳng. Các con nhớ là khoảng cùng thời với Phật có một triết gia Hy Lạp tên Plato có đưa ra câu truyện ẩn dụ về hang động. Câu truyện kể là có một nhóm người bị xiềng trong một hang động và không nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng bên ngoài có ánh sáng chiếu vào hang và có người đi lại giữa ánh sáng và hang động nên bóng họ chiếu lên thành hang. Nhóm người bên trong hang động chỉ thấy những bóng đó, họ quan sát các bóng và tìm cách lý luận ngược để tìm ra chuyện gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng họ chỉ thấy các bóng. Đức Phật nhận ra đây là điều các Bà la môn Ấn giáo thấy, chỉ là các bóng, và làm sao bóng của một vật lại có thể cho con biết mọi chuyện về vật đó?

Tỷ dụ, làm sao bóng của một vật có thể cho con biết vật đó màu gì? Bóng là một phóng chiếu lên một mặt hai chiều kích, làm sao nó có thể cho con biết hình dáng ba chiều kích của vật? Con thấy đấy những giới hạn. Đức Phật thấy các giới hạn đó, và đó là lý do vì sao thày nói: “Chúng ta hãy sáng tạo một triết lý mới, một phong trào mới, không tìm cách lý luận ngược để tìm ra điều kiện trên cõi tâm linh như thế nào. Chúng ta hãy chú tâm vào công việc thiết thực là nâng cao tâm thức, giúp con người khắc phục khổ đau, và khi họ đã nâng tâm thức đủ thì họ có thể nắm bắt một số chân lý vượt lên trên thế giới vật lý.”

Vì sao thày lại trao các con bài giảng dài dòng này? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu là Tia của Bình an, và điều tước đi bình an chính là lý luận với tâm đường thẳng, dùng tâm đường thẳng (là một dụng cụ thực tiễn dùng trong đời sống thường nhật trong thế giới vật chất) và tìm cách mở rộng nó ra ngoài thế giới vật chất để suy diễn điều gì vượt lên trên thế giới vật chất. Khi con còn làm điều này thì con không thể có bình an, và con cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Nếu con muốn thực sự hiểu giáo lý của Phật thì con cần nhận ra một điều giản dị, nhưng đối với tâm đường thẳng thì điều này không giản dị. Giáo lý của Phật không – KHÔNG – nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi. Đây là một điều mà đại đa số những người hiện nay tự coi là Phật tử sẽ phản đối hung hãn, hay ít ra là phản đối kịch liệt. Họ sẽ nói vì Phật là bậc giác ngộ nên điều Phật dạy là chân lý cao trội, thậm chí là chân lý tuyệt đối – nhưng điều này đơn giản không phải là sự thực.

Phật không muốn đưa ra một chân lý tối hậu vì thày thấy đây là điều các vị Bà la môn muốn làm. Vì sao các vị Bà la môn lại muốn làm vậy? Như các thày đã giảng, tâm đường thẳng muốn làm gì? Nó muốn xếp mọi chuyện vào một đường thẳng, một tiến trình, rồi nói: phải có một điểm kết tối hậu của đường đó, phải có một tầng cao nhất. Nếu ta có thể đặt chân lý lên một đường thẳng, thì sẽ có nhiều tầng của chân lý, nhiều tầng hiểu biết, và ta có thể càng ngày càng hiểu hơn về thế giới, như khoa học đã làm từ lâu nay. Nếu ta tiếp tục sự tăng trưởng hiểu biết đó thì sẽ phải đến một chân lý tối hậu. Như thày Hilarion có nói, chân lý tối hậu sẽ chỉ đến khi con tới tầng đấng Sáng tạo, và có một khoảng cách rất xa giữa tầng của trái đất và tầng của đấng Sáng tạo.

23.7. Đường lối thực tiễn của các chân sư thăng thiên

Đức Phật nhận ra điều trên nên thày chỉ chú tâm vào những gì có khả năng nâng con lên, nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy nhìn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ thời Phật tới ngày nay. Khoa học đã chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại, và khoa học cũng đặt căn bản trên tâm đường thẳng. Khoa học cho rằng ta phải bắt đầu bằng những quan sát nơi thế giới vĩ mô, sau đó khám phá các tầng vi tế, sâu thẳm hơn cho tới khi ta tới tầng tối hậu là hạt Thượng đế, hay bất cứ gì họ gọi nó.

Tại sao điều này lại quan trọng cho người tâm linh? Đó là vì con đã lớn lên trong xã hội hiện đại, con không thể tránh bị ảnh hưởng bởi tư duy đó. Con nay ở đây, con đã lớn lên với tư duy đó và sau đó con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Lúc đó con nói: “À, rốt cuộc tôi đã tìm thấy một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây là một giáo lý đến từ cõi thăng thiên, đến từ các chân sư thăng thiên là những người bên trên thế gian này. Giáo lý này phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”  

Các thày đã nhiều lần giải thích từ nhiều góc độ khác nhau là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Các thày đang làm gì ngày hôm nay? Các thày đang làm y như Phật cách đây 2500 năm, tức là nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?” Các thày không tìm cách trao cho các con chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước sẽ kịch liệt phản đối câu nói trên, nhưng vì sao họ phản đối? Đó là vì họ bị kẹt trong tâm đường thẳng: Phải có một chân lý tối hậu, và nếu ta không thể tìm thấy nó nơi các tôn giáo trên thế giới hay nơi khoa học duy vật, thì chắc hẳn ta phải tìm được nó nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày không nói là giáo lý của các thày sai, là ảo tưởng hay sự lừa gạt, nhưng chúng thích nghi với tầng tâm thức, không những của các đệ tử chân sư thăng thiên, mà thậm chí của tâm thức tập thể. Không thể có cách nào khác trên một hành tinh như trái đất.

Chuyện đã xảy ra trong các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử đã sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên. Đây là điều tâm đường thẳng vẫn làm. Nó nhìn vào điều kiện trên trái đất, tạo ra hình tư tưởng dựa trên các điều kiện này, tỷ dụ như những nguyên do của điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó, nó mở rộng hình ảnh đó ra và phóng chiếu hình ảnh đó lên cõi tâm linh.

23.8. Phóng chiếu hình tư tưởng lên các chân sư thăng thiên

Khi các đệ tử tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, thì việc đầu tiên họ làm là sử dụng những hình tư tưởng mà họ thu thập khi họ lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác mà họ đã học. Sau đó, họ lấy giáo lý chân sư thăng thiên và dùng nó để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Tại sao điều này lại dính dáng đến chủ đề của khóa nhập thất này, là kết nối với các vị thày tâm linh? Ấy, con yêu dấu, thày là một chân sư thăng thiên. Làm sao con kết nối với thày? Con có nghĩ là con có thể kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất, trong tâm con? Bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng. Thày nhìn nhận là trong các đợt truyền giáo trước, các đệ tử không dễ nắm bắt điều này vì một số giáo lý chưa được trao truyền. Họ không có được các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong đợt truyền giáo này về các ngã tách biệt, các ngã này tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã. Làm sao cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã? Chỉ bằng cách duy nhất là nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là con phải nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là thế đó: một hình tư tưởng.

Lẽ tất nhiên con có thể nói là trong khuôn khổ Luật Tự quyết, không có gì sai trái khi con người tạo hình tư tưởng của các chân sư thăng thiên vì điều này cho họ một trải nghiệm. Con có thể nhìn các đệ tử của các đợt truyền giáo trước và con có thể thấy là nhiều người có những hình tư tưởng rất cầu kỳ về các chân sư thăng thiên và họ phải tương tác thế nào với các chân sư thăng thiên. Thậm chí nhiều người trong số các đệ tử đó còn cảm thấy là họ đã kết nối với các chân sư thăng thiên, họ đã có trải nghiệm các chân sư thăng thiên. Giờ đây thì thày không nói là các đệ tử từ các đợt truyền giáo trước đó đã có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên. Có những đệ tử nghĩ họ có một trải nghiệm thực sự nhưng họ đã kết nối với những sinh thể trong cõi tư tưởng vì họ quá dính mắc vào các hình tư tưởng của họ. 

Những đệ tử có trải nghiệm thực sự là những đệ tử không quá dính mắc với hình tư tưởng của họ. Bởi vì con làm gì khi con phóng chiếu một hình tư tưởng? Con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con vì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.” Như các thày khác đã nói, nếu thày làm vậy thì kết quả là gì? Kết quả là thày xác chứng hình tư tưởng của con, và con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.” Làm sao kết quả này có thể giúp con tăng trưởng tâm linh? Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Câu hỏi luôn luôn là: nếu con muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, thì con muốn kết nối với vị chân sư hay với một hình tư tưởng của vị chân sư? Con có sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của vị chân sư thăng thiên? Đó chính là câu hỏi. Các thày không muốn trốn tránh con, nhưng nhiều đệ tử đang tìm cách trốn tránh các thày. Nếu con muốn trốn tránh các thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên các thày, thì các thày phải để con làm chuyện này. Các thày phải cho phép con có trải nghiệm đó, thậm chí các thày còn phải cho phép con kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo hình ảnh của con. Họ sẽ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con. Thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.  

Nếu nói một cách rất thẳng thắn, thì trên căn bản nếu con không trải nghiệm, nếu con chưa bao giờ trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con. Một lần nữa, các thày không chê trách con vì con có quyền tự quyết, các thày hiểu là con sống trên một hành tinh rất khó khăn, các thày hiểu là con có nhiều tiền kiếp đã tạo ra biết bao ngã trong bốn tầng của tâm con. Các thày không chê trách con. Các thày chỉ nói là nếu con thực sự muốn kết nối với các thày, thì con phải sẵn sàng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

23.9. Hình tư tưởng về El Morya như một người áp dụng kỷ luật nghiêm khắc

Chuyện gì xảy ra khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này có tác dụng gì? Nó cho phép con có một quan điểm nào đó, một trải nghiệm nào đó, và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư. Để cho con một thí dụ, trong một đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, các đệ tử đã tạo ra một hình ảnh rất đặc biệt về El Morya, bây giờ là Chân sư MORE. Đó là một lý do khiến thày quyết định đổi tên, vì các đệ tử đó vẫn còn hình ảnh này về thày, hình ảnh một vị thày nóng nảy chiếu ánh sáng xanh, một vị thày áp dụng kỷ luật rất nghiêm khắc sẵn sàng thách thức đệ tử và phơi bày tự ngã của họ không chút thương hại. Họ đã tạo khái niệm là những đệ tử chân chính của El Morya có những đặc tính đó và có quyền đi khắp nơi và chiếu áng sáng xanh vào người khác bằng cách thách thức họ, nói cho họ biết những điểm sai trái của họ. Có nhiều người trong tổ chức đó hãnh diện là đã chiếu ánh sáng xanh vào những người họ cho là kém họ.

Những đệ tử đó đã làm gì? Con có thể nói là tự ngã của họ muốn có trải nghiệm cao trội hơn người khác, có quyền kỷ luật người khác và nói họ phải làm gì. Họ dùng hình tư tưởng mà họ đã tạo ra về El Morya như một cái cớ để biện minh cho cách cư xử của họ, cách cư xử dựa trên tự ngã, dù họ sẽ kịch liệt phản đối là cư xử của họ không dựa trên tự ngã – nhưng nó quả thật như vậy.

Một lần nữa, những đệ tử đó có quyền tự quyết và họ có quyền lấy một giáo lý chân sư thăng thiên, tạo hình tư tưởng về El Morya, và xác chứng trải nghiệm mà họ muốn có cho tới một ngày hy vọng họ chán chê trải nghiệm đó. Một số đệ tử đã chán chê và không còn cư xử như vậy nữa, nhưng một số chưa chán. Điều thày muốn nói là tuy một số các đệ tử đó tưởng họ có trải nghiệm thực sự về El Morya, nhưng không phải vậy. Tại sao El Morya lại xác chứng hình ảnh đó về thày khi thày thấy rõ là làm vậy sẽ chỉ giam cầm các đệ tử đó và ngăn họ thực sự kết nối với thày?

Thày chỉ giản dị muốn nói là trong đợt truyền giáo này con đã nhận được giáo lý thâm sâu hơn về các ngã, các ngã tiềm thức và tách biệt, hình tư tưởng, phin lọc nhận thức. Do đó, con có thể theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với các thày là chân sư thăng thiên. Kết nối với các thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với các thày như trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Điều này có nghĩa là thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Nếu đây là điều con muốn, thì con có các dụng cụ để hoàn thành.

23.10. Một dụng cụ thực tiễn từ Nada

Thày trao cho con một dụng cụ thực tiễn sẽ giúp con trên Tia thứ Sáu. Thày bắt đầu bài giảng này bằng cách nói về tâm đường thẳng muốn phóng chiếu hình ảnh một chân lý tuyệt đối và vì sao như vậy lại lấy đi an bình nội tâm của con. Điều con có thể làm là dùng giáo lý của các thày để nhận ra mục đích thực của con đường tâm linh không phải là biết chân lý tuyệt đối mà là nâng tâm thức từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp. Như các thày có giảng, con sẽ tới một điểm bắt đầu đi vào những tầng của quả vị Ki-tô cá nhân. Ta có thể nói quả vị Ki-tô cá nhân chính là chìa khóa của an bình, đó là lý do vì sao Giê-su đã được gọi là Hoàng tử An bình vì Giê-su đại diện Tâm thức Ki-tô cho nhân loại. Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô liên hệ ra sao với an bình?

Chính qua tâm Ki-tô mà con kết nối và trải nghiệm có thực tại vượt quá thế giới vật chất. Chỉ khi nào con trực tiếp trải nghiệm điều này thì con mới làm được điều mà đức Phật dạy con người: khắc phục những dính mắc vào thế gian. Khi con trải nghiệm Tâm thức Ki-tô thì con khắc phục dính mắc. Dính mắc của con trụ ở đâu? Chúng trụ nơi các ngã tách biệt, đúng vậy, nhưng cũng trụ nơi tâm đường thẳng và các hình tư tưởng do tâm đường thẳng phóng chiếu. Con muốn thế giới phải như thế nào đó. Con muốn cuộc đời mình phải như thế nào đó.

Nếu con xem xét hiểu biết cơ bản về đau khổ, thì cái gì tạo đau khổ? Đó là do con thiết lập trong tâm, trong tâm đường thẳng, hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào đó. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của mình chính là căn bản của khổ đau, nguyên do của khổ đau. Khi con bắt đầu trải nghiệm tâm Ki-tô thì con nhận ra có cái gì vượt quá hình tư tưởng của mình, con trải nghiệm có cái gì vượt lên trên. Nhưng sau đó con giáp mặt thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của mình, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc? Hay con sẽ làm giống như Peter khi xưa và tìm cách kéo trải nghiệm Ki-tô vào hình tư tưởng của mình để con có thể tưởng rằng Ki-tô đã chứng thực những hình tư tưởng này? Đây là điều nhiều đệ tử đã làm trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, như thí dụ về El Morya mà thày có đề cập. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể làm như vậy ngay cả trong đợt truyền giáo này – nếu con không áp dụng giáo lý. Nhưng con cũng có dụng cụ giúp con tránh làm như vậy.

Làm sao con đạt được an bình nội tâm hơn? Bằng cách lúc nào cũng với lên tâm Ki-tô, dùng tâm Ki-tô như khung tham chiếu để nhìn vào cuộc đời mình, nhìn vào những điều kiện mà con gặp phải trong đời. Các thày hiểu là một số các con gặp những điều kiện rất khó khăn. Các thày không muốn các con nghĩ là các thày không hiểu điều này. Tuy nhiên, lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc, khắc phục hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Thày biết đây là một khái niệm mà những người đang sống với các điều kiện khó khăn khó nắm bắt. Các người đang không sống với điều kiện khó khăn thì dễ nắm bắt hơn. Thày hiểu điều này, nhưng đây vẫn là chân lý muôn thuở. Điều kiện, điều kiện vật lý, không tạo khổ đau, khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng. Đây là lời hứa của Ki-tô, là Ki-tô có thể cho con tầm nhìn khác, và điều này sẽ cho con an bình nội tâm.

23.11. Hãy để Dòng sông sự Sống đưa con đi tới

Nếu con muốn có một hình ảnh thì con hãy hình dung mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, như một chiếc xuồng, và con đang chèo theo dòng nước. Khi con đang ngồi trong chiếc thuyền nhỏ và ra sức chèo, thì có thể con chú tâm vào việc mình đang làm. Con muốn đi tới một điểm đến. Có thể có những tảng đá trong dòng sông, dòng sông có thể uốn khúc, con cần điều khiển, lèo lái con thuyền, có chỗ con cần chèo nhanh hơn để vượt qua khúc quanh hay tránh thác ghềnh. Con luôn luôn tập trung vào động tác chèo thuyền để thuyền đi về phía trước. Nếu con đang trên một dòng sông an toàn, không có tảng đá hay thác ghềnh, thì con có thể hành xử khác. Con có thể buông chèo, ngồi thoải mái trong xuồng, và chỉ để xuồng trôi theo dòng nước, chỉ để dòng nước đưa xuồng đi. Hành trình có thể lâu hơn, hay không lâu hơn, nhưng con sẽ tới điểm đến.    

Con có thể tới điểm trong tâm con, con như đang ngồi trong chiếc xuồng, thư giãn, nhìn hai bên bờ lướt nhẹ vì dòng nước đang đẩy xuồng đi về hạ nguồn. Đây là trạng thái không dính mắc. Con đang ngồi trong xuồng, con đang di chuyển về hạ nguồn, và dòng nước, Dòng sông sự Sống, đang kéo con đi. Tại sao con cần chèo và vật lộn mãi? Tại sao con cần dính mắc vào những gì xảy ra trên bờ sông? Có thể có một con gấu đang đứng trên bờ gầm gừ với con, có thể có người đang la hét con. Con biết là nếu con ngồi đó không dính mắc, thì dòng nước sẽ mang con đến hạ lưu bất kể những gì xảy ra hai bên bờ sông. Con hãy chỉ hòa điệu với Dòng sông sự Sống, và để dòng nước kéo con đi tới. Tại sao con lại phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng? Tại sao con cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện? Tại sao con cần diễn giải mọi chuyện? Tại sao mọi chuyện cần phải có một ý nghĩa tối hậu, một ý nghĩa hoàn vũ, một ý nghĩa tâm linh nào đó? Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Con hãy xem xét vì sao con người tin chiêm tinh. Có chuyện gì đó xảy ra cho họ, họ đi gặp một chiêm tinh gia, họ muốn biết cấu hình chiêm tinh nào trên bầu trời đã gây ra điều kiện mà họ đang gặp phải. Các điều kiện trên trời không biểu hiện tất cả mọi chuyện trên trái đất. Điều tạo ra mọi chuyện trên trái đất là sự điên rồ của con người và sự tương tác giữa con người, là điều mà Phật đã gọi là các nhân duyên liên khởi. Không có một nguyên do hoàn vũ cho rất nhiều hoàn cảnh mà con đối mặt trong đời. Con hãy giản dị vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con hãy chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, dẫn con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc. 

Khi con dính mắc thì con làm gì? Con nắm một cành cây trên bờ sông và con vật vã cố sức ghìm xuồng ở một vị trí. Dòng nước đang kéo xuồng về phía hạ lưu. Con cần càng lúc càng thêm nỗ lực kềm giữ cho tới khi con không chịu nổi hay cành cây bị gãy. Con hãy chỉ buông tay … buông tay … buông tay. Thày biết nói dễ hơn làm, nhưng cái gì đang kềm giữ vậy? Đó là con hay là một ngã tách biệt? Con hãy nhìn vào ngã, con có dụng cụ – con hãy buông bỏ đi. Con sẽ không bao giờ đạt được an bình trên trái đất bằng tâm đường thẳng, bằng những hình tư tưởng mà tâm đó phóng chiếu phải xảy ra hay không được xảy ra.

Vì sao con nghĩ Giê-su lại để cho mình bị đóng đinh trên thập tự? Giê-su là một người đã đạt được một tầng tâm thức Ki-tô rất cao. Tại sao Giê-su lại cho phép mình bị đóng đinh? Con có nghĩ Giê-su muốn bị đóng đinh chăng? Không đâu, nhưng Giê-su thấy là các nhân duyên liên khởi của hoàn cảnh đó đang tuôn chảy và Giê-su cho phép chúng xảy ra. Giê-su buông bỏ ý niệm chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khai ngộ cuối cùng của Giê-su là gì? Giê-su bị treo trên thập tự và nghĩ rằng Thượng đế sẽ gửi thiên thần tới cứu, nhưng sau đó thày nhận ra là chuyện đó sẽ không xảy ra và thày buông bỏ ý muốn đó, buông bỏ hồn ma cuối cùng đó, hình tư tưởng cuối cùng về điều phải xảy ra và không được xảy ra trên trái đất.   

Nhiều người trong các con là avatar. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ và ngã gốc. Nhiều người trong các con tới địa cầu với một hình tư tưởng về lý do con xuống đây, con tới đây để làm gì, con tới đây để hoàn thành việc gì, thay đổi tích cực mà con nghĩ con có thể đem tới hành tinh này. Con tới đây, con chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng con phản ứng ra sao? Con đã phản ứng bằng cách tạo hình tư tưởng dựa trên tâm đường thẳng. Con lấy hoàn cảnh đã xảy ra cho con, chấn thương nhập đời đó, bất kể nó là gì, và con phân tích, con tìm nguyên do. Tại sao chuyện này lại xảy ra, tại sao những người đó đã làm vậy với tôi, tôi đã làm gì để xứng đáng bị hoàn cảnh đó? Con tạo ra hình tư tưởng và con tạo ra hình tư tưởng về những gì phải và không được xảy ra trên trái đất, và về những gì phải và không được xảy ra cho con trong phần thời gian còn lại của con trên trái đất.   

23.12. “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”

Đằng sau tất cả các hình tư tưởng đó thì con làm gì? Hầu hết các avatar đã làm gì sau khi đến trái đất? Họ đã lấy một quyết định. Con đã lấy quyết định và quyết định này đã tạo ra một ngã tách biệt, và quyết định này là: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Con hãy nghĩ về câu này: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất, phải không con? Bởi vì con không thực sự muốn được an bình. Con đã quyết định là hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và những câu chuyện kể là đức Phật an bình, thày đã đạt được an bình và con không thực sự muốn công nhận điều này, bởi vì nếu con công nhận là đức Phật có thể đạt được trạng thái an bình, thì tại sao con lại không đạt được trạng thái an bình? Con thấy chăng, con không thể đạt được trạng thái an bình nếu con không làm điều mà Phật đã làm: nhìn vào ngã mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời khiến thày quyết định “Tôi không thể an bình trên trái đất”. Tất cả các avatar đều đã làm như vậy.

Con yêu dấu, nếu con thực sự muốn an bình, nếu con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình, thì con hãy nhìn vào ngã đó. Có quả thực là con không thể an bình trên một hành tinh như trái đất chăng? Thày đồng ý với con là khó có thể an bình trên một hành tinh như trái đất vì những điều kiện ở đây quá khác những gì con đã quen thuộc trên một hành tinh tự nhiên. Có thực sự khó an bình hơn trên trái đất chăng? Hay chỉ vì tâm cảm thấy khó hơn?

23.13. Không dính mắc vào mọi điều kiện bên ngoài

Vì sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì trên hành tinh tự nhiên con không có những hình tư tưởng về những gì phải hay không được xảy ra cho con – con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. Đúng thật là trên một hành tinh tự nhiên con không tìm thấy những điều kiện như trên trái đất, tỷ dụ như sa nhân sẵn sàng giết hay tra tấn con. Tuy nhiên, tại sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì con không dính mắc. Điều mà đức Phật đã chứng minh là con cũng có thể không dính mắc trên trái đất, vì sự không dính mắc đến từ một trạng thái tâm, không phải từ điều kiện bên ngoài. Không dính mắc có nghĩa là không dính mắc vào điều kiện bên ngoài, bất kể các điều kiện này là gì.  Con có thể an bình trên trái đất nếu con không dính mắc các điều kiện bên ngoài trên trái đất. Các thày đã trao cho các con dụng cụ để đạt được trạng thái này bằng cách xem xét các ngã đang dính mắc, luôn luôn phóng chiếu: điều này phải xảy ra, điều kia không được xảy ra.

Con có thể giữ chặt trong tâm hình ảnh này chăng? Con đang ngồi trong chiếc xuồng, hay phải chăng đó chính là con thuyền Bát nhã? Con nhìn hai bên bờ sông, nhưng nếu con chỉ thư giãn thì con biết là dòng sông sẽ dẫn con đi qua bất cứ gì xảy ra hai bên bờ. Vậy tại sao dính mắc, tại sao kềm giữ? Con hãy chỉ nhìn mọi chuyện mà không có hình tư tưởng chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy chỉ nhìn một cách trung hòa. Con hãy nhìn sự việc như chuyện gì đang xảy ra, đang trải bày trên trái đất, vì một số người cần một trải nghiệm nào đó. Con không cần trải nghiệm mà các người kia đang cần. Do đó, con không cần dính mắc vào những gì họ đang làm. Con hãy để họ làm chuyện của họ, nhưng không dính mắc vào chuyện đó. Con đừng tham dự vào bi kịch của họ và trở nên một phần của bi kịch, dù họ đang tìm cách kéo con nhập cuộc bằng cách ảnh hưởng con.

Con hãy chỉ giản dị buông bỏ. Con hãy buông bỏ ý tưởng họ phải làm gì hay không được làm gì. Con hãy chỉ chú tâm vào việc không kháng cự dòng chảy đang mang con về hạ nguồn Dòng sông sự Sống. Con có thể nhìn bất cứ điểm nào hai bên bờ và cảm thấy chiếc thuyền đang di chuyển và con nói: “Chuyện này rồi cũng sẽ qua đi.” Thày biết là làm vậy có khi không giúp con khuây khỏa, vì có vẻ như con sẽ phải trải nghiệm một điều kiện cho tới cuối đời, nhưng không phải là chỉ khi con qua đời thì điều kiện kia mới sẽ qua đi. Nó có thể qua đi bất cứ lúc nào, nếu con có thể buông bỏ dính mắc trong tâm đang khiến con đau khổ vì điều kiện đó. Một lần nữa, một số người cảm thấy những lời này nghe khó khăn quá, nhưng đó vẫn là sự thực. Đau khổ là một điều kiện của tâm. Liều thuốc tối hậu chữa đau khổ là an bình nội tâm. Đau khổ do dính mắc tạo ra. An bình chỉ có thể đạt được bằng không dính mắc. 

23.14. Dụng cụ đặc biệt mà Nada trao truyền

Một dụng cụ cuối mà thày muốn trao cho con như sau. Con đã có khái niệm: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.” Thày, Nada, có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý. Mỗi người trong các con sẽ tiếp thu nó một cách hơi khác. Thày trao cho con đặc miễn là nếu con hòa điệu với âm điệu đó, âm thanh đó, âm thanh an bình đó, thì thày sẽ củng cố sự hình dung của con. Âm thanh an bình là một rung động và các con đều đã thấy hình ảnh một số âm thanh có thể làm cho nước rung động hay tạo mô thức trên mặt cát. Mọi chuyện đều là năng lượng, mọi chuyện đều là mô thức. Biển Luân hồi chỉ là năng lượng hỗn loạn. Con có thể sử dụng âm thanh an bình trong tâm con hay ngay cả trong một số hoàn cảnh bên ngoài, nhưng mục đích chính yếu của nó là dùng trong tâm.

Một lần nữa, con đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi tư thế thoải mái, khép mắt và hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con hình dung là âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Sau đó, con lên thể tư tưởng và một lần nữa, âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn luôn luôn bị tâm vượn kéo đi khắp hướng mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh. Sau đó con đi lên thể bản sắc và cùng chuyện lại xảy ra. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Sau đó, con từ thể bản sắc đi xuống thể vật lý, và con hình dung là thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, các phần thân thể có vấn đề, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh. Con có thể ngồi bao lâu cũng được trong sự yên tĩnh của đại dương này.

Con có thể lặp lại bài tập này nếu con thấy có gì xao động, và con có thể thiền quán về điều này. Ban đầu thì con không nên thiền lâu quá, nhưng dần dần thì con có thể duy trì trạng thái thiền này lâu hơn. Dần dần con cũng có thể cảm nhận Hiện diện của thày bao bọc con khi con thiền quán. Đây là món quà mà thày trao cho con để giúp các con nào cảm thấy gần gũi Tia thứ Sáu hòa điệu với Hiện diện của thày.

Tới đây thì thày niêm con trong niềm vui của sự An bình của thày, vì thày đã có niềm vui lớn chia xẻ với các con Hiện diện của thày trong khoảng thời gian này.

31 | Sự trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6//2023, nhân Hội nghị 2023 ở Seoul, Hàn quốc – Nối kết với cái Ta Cao và vị thày tâm linh.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Và như truyền thống trong thời gian qua, thật là một đặc ân và niềm vui cho thày được trao bài truyền đọc sẽ niêm hội nghị này, một hội nghị đã đánh dấu một chiến thắng to lớn từ nhãn quan của các thày là chân sư thăng thiên, vì nó đã tạo được một xung lực đi vào tâm thức tập thể sẽ khởi động những thay đổi sâu xa, giúp cho nhiều người kết nối chặt chẽ hơn với các chân sư thăng thiên cùng cái Ta Cao của họ. Tất nhiên, các thày cũng thấy được là nhiều người trong các con đã sẵn lòng tham gia, sẵn lòng xem xét bản thân mình, dùng các lời dạy để vươn lên cao hơn. Các thày hy vọng là các con đã cảm thấy đáng công sức cùng thời giờ bỏ ra, và các con cũng cảm thấy mãn nguyện như các thày.

Thày muốn nhân cơ hội này trao cho con một số lời dạy về một khái niệm có vẻ không liên quan đến đề tài của hội nghị này là làm thế nào nối kết với cái Ta Cao cùng các vị thày tâm linh của con, nhưng để xem, chúng ta sẽ thấy nó có liên quan hay không. Có một khái niệm đã được biết đến từ thời của Phật, là Śūnyatā hay sự trống không (emptiness). Từ này thực sự có nghĩa là gì? Một lần nữa, các nhà trí thức của đạo Phật hay truyền thống Phật giáo đã nhìn vào từ này, đã nghĩ ra nhiều cách diễn giải khác nhau và không đồng ý được với nhau cách diễn giải đúng đắn là gì. Và ở đây, thày không đang cố cho con cách diễn giải “đúng đắn” vì không có một cách diễn giải đúng đắn duy nhất nào. Luôn luôn sẽ có nhiều trình độ tâm thức khác nhau và vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về bất kỳ giáo lý tâm linh nào.

31.1. Trải nghiệm thực tại đằng sau lời dạy

Nhưng thày sẽ nói là có một sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ giáo lý. Và điều con thấy trong mọi truyền thống tâm linh được thế giới biết đến là khi truyền thống này phát triển và thu hút ngày càng nhiều người theo, thì sẽ nẩy sinh một lớp người tự xưng mình là những người diễn giải giáo lý. Xong có một nhóm người ít ỏi hơn cố gắng trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau chữ nghĩa. Và sau đó có số đông quần chúng đi theo giáo lý, và họ cũng đi theo cách diễn giải do lớp tu sĩ kia đưa ra vì họ hy vọng nó sẽ đem lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới hiện tại hay thế giới kế tiếp. Con có thể nhìn thấy mô hình này ở khắp mọi nơi. Con có thể thấy nó suốt chiều dài lịch sử, con có thể thấy nó ngày nay cả với các lời dạy tâm linh hiện đại, và thậm chí cũng có xu hướng này trong giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con thực sự mong muốn sử dụng một giáo lý tâm linh, hiển nhiên con cần vượt xa hơn việc diễn giải các ngôn từ và tìm kiếm không chỉ cái hiểu, không chỉ đơn giản cái nắm bắt, mà con cần trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ.

Chúng ta có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Hầu hết mọi người ngồi đó nhìn vào màn hình chiếu phim. Họ chỉ đang trải nghiệm phim trên màn hình. Xong có những người cố tìm hiểu xem phim đến từ đâu, và có thể họ sẽ lên tận phòng chiếu, nhìn tận mắt dải phim trong máy chiếu. Nhưng hình ảnh trên dải phim có thật là thực tại sâu xa đằng sau bộ phim? Hay thực tại sâu xa hơn là ánh sáng trắng tinh trong máy chiếu? Hay thực tại sâu xa hơn nữa là dụng ý của nhà đạo diễn bộ phim, hay của nhà biên kịch, hay của các diễn viên?

31.2. Dùng giáo lý để thăng vượt mức tâm thức hiện tại

Một lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi tâm linh hay cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và nếu con muốn tận dụng lời dạy, con cần sử dụng lời dạy vỏ ngoài như một công cụ mà thôi, một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà lời dạy đã xuất phát từ tâm vị này. Đây là cách cao nhất để sử dụng một lời dạy tâm linh. Khi con nắm bắt được điều này, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng cao nhất. Thậm chí còn có thể nói là con đã không dùng đến giáo lý, bởi vì đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh chứ? Là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con. Và khi con cứ tìm cách hiểu và diễn giải với mức tâm thức hiện tại thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Con có thể dùng giáo lý tâm linh để khiến con tưởng là bởi vì con đã có một cách diễn giải trí thức, cao cấp và tinh xảo như thế này, thì con đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Nhưng con không đạt được một tầng tâm thức cao hơn qua sự diễn giải và hiểu biết thuần trí năng. Con chỉ đạt được bằng cách dời chuyển tâm thức của con. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt. Vì tâm đường thẳng chỉ có thể định ra một chuỗi sự kiện dẫn từ điểm này đến điểm kế tiếp, chứ nó không thể tưởng tượng, không thể thấu suốt được là có một tầng thực tại hoàn toàn khác mà con không thể đặt lên một loại thang điểm đường thẳng như vậy.

31.3. Trung đạo

Đó cũng là tại sao nhiều người đã không hiểu được khái niệm Trung đạo. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của Trung đạo và những cặp đối cực, mà ngày nay chúng ta gọi là tâm thức nhị nguyên luôn có hai cực đoan. Bên này có đối cực này, bên kia có đối cực ngược lại, và có những người cho rằng Trung đạo nằm đâu đó ở giữa.

Nhiều người đã trí thức hóa các lời dạy được ban truyền qua thày cách đây 2500 năm, và họ cứ nghĩ là việc bước chân trên đường tu, con đường Trung đạo, có nghĩa là tìm được thế quân bằng. Và họ đã cố tìm một thế quân bằng nào đó giữa hai thế đối cực do họ quy định, cho dù quy định này là gì. Nhưng Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng trên một thang điểm đường thẳng giữa hai đối cực, mà Trung đạo là sự thăng vượt chính thang điểm nhị nguyên đó, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, và điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thăng vượt tâm đường thẳng.

31.4. Khái niệm trống không

Trở về với khái niệm trống không. Tâm đường thẳng sẽ lập tức đặt câu hỏi, trống không cái gì? Trống không so sánh với cái gì? Phải có cái gì để có thể so sánh chứ. Điều này cũng phần nào chính đáng, theo nghĩa là một giáo lý tâm linh luôn luôn được trao truyền trong một bối cảnh. Khi thày xuất hiện trong hiện thân vật lý 2500 năm trước đây, thày đã xuất hiện trong một xã hội đặc thù, một nền văn hóa đặc thù là văn hóa Bà la môn Ấn giáo.

Những người Bà la môn đạo Ấn đã đưa ra đủ loại cách diễn giải, đủ loại môn phái, đủ loại tư tưởng khác nhau, cho nên họ đã có đủ loại khái niệm. Giáo lý mà thày đưa ra cách đây 2500 năm được thích ứng với nền văn hóa này – một phần nó dùng lại một số khái niệm, nhưng nó cũng thách thức một số khái niệm khác đã trở nên phổ thông trong truyền thống Ấn giáo. Con không thể thực sự hiểu được khái niệm trống không nếu con không nhìn vào bối cảnh nơi nó được đưa ra. Và khái niệm vô cùng nổi trội trong đạo Ấn là khái niệm về Atman, hay Ngã, là Ngã tối thượng. Và đã có nguyên một nền văn hóa được xây dựng chung quanh khái niệm này mà ít người thời nay hiểu được thật sự.

Để cho con một tóm lược ngắn gọn về cách họ nhìn Atman, có thể nói đó là ý tưởng cho rằng ở cõi trên cao chỉ có một Ngã độc nhất này, Atman, và đó là một Ngã trường tồn bất biến. Nó không bao giờ có thể thay đổi. Có nghĩa là cho dù con có nghĩ ra bất kỳ khái niệm nào – không nhất thiết từ tầng cấp con người mà cả bất cứ những gì có thể xuất phát từ cõi tâm linh – thì trong Atman đó, trong Ngã đó, có một sự quy định mà chúng ta có thể gọi là một hình ảnh, một khuôn đúc (matrix). Thậm chí điều này có thể so sánh với khái niệm của Plato về các hình thể lý tưởng (ideal forms) ở cõi cao.

Nói cách khác, khái niệm này cho rằng ở cõi cao có một khuôn đúc toàn hảo đã được quy định cho tất cả mọi thứ có thể thị hiện trong thế gian cùng mọi sự có thể xảy ra trong thế giới. Và điều này làm nẩy sinh ý tưởng là từ Atman duy nhất đó, mọi Ngã khác đều được quy định, và mỗi Ngã này thì quy định một biểu hiện đặc trưng. Cho nên đối với trái đất, có một cái Ngã ở cõi cao sẽ quy định khuôn đúc toàn hảo bất biến cho trái đất. Cho mỗi con người, có một cái Ngã ở cõi cao quy định linh hồn này là như thế nào, và mặc dù mọi chuyện trên trái đất có thể trải bày ra để trái đất lẫn con người có thể xa rời Ngã trường tồn đó, nhưng kết cuộc thì mọi thứ cũng sẽ đều quay trở về Ngã đó. Và đây chính là khái niệm mà thày đã bác bỏ.

Khi thày nói đến sự trống không, thày nói là nó trống rỗng theo nghĩa nó không có ngã, nghĩa là nó không được định trước bởi một cái Ngã nào đó ở một cõi cao mà nó phải quay trở về. Thày Lanto cũng đã trao cho con một bài giảng vô cùng sâu sắc về đề tài này, nhưng thày muốn trình bày thêm vì nhiều người theo đạo Phật ngày nay đã sử dụng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không, hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết. Ở đó không có gì hết. Một lần nữa, đây là một điều mà tâm đường thẳng rất ưa làm.

31.5. Ngã bất biến hay ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt?

Tâm đường thẳng nhìn vào thế gian này thấy mọi thứ đều mang hình tướng, rồi nó nghe nói về khái niệm trống không, xong nó nghe nói là chính đức Phật đã dạy khái niệm này, mà Phật thì là một sinh thể cao cả đã giác ngộ, nhất định các khái niệm mà Phật dạy phải được nể trọng. Thế là tâm đường thẳng nói: “Bây giờ tôi muốn hiểu khái niệm này một cách tối hậu. Thế gian này có hình tướng, vậy trống không phải có nghĩa là vô hình tướng, không có gì ở đó cả.” Và một số người đã diễn giải theo nghĩa là chỉ có Brahman mà thôi, chỉ có sự nhận biết vô biên như một số người thời nay gọi như vậy, và đây là sự trống không. Cho nên, hoặc là có hình tướng như trong thế gian, hoặc là có sự trống không, và họ nghĩ hình tướng đi ra từ trống không, hay nói cách khác, có cái gì đó đi ra từ cái không-có-gì. Nhưng tất nhiên, chuyện không phải là như vậy.

Thày đã không nói trống không nghĩa là không có gì ở đó. Điều thày nói là không có một cái Ngã trường cửu bất biến (permanent) nào ở đó. Thày nói là thế giới không sinh ra từ trống không, và mục đích của thế giới không phải là quay trở về trống không sau một chu kỳ đầu thai dài đằng đẵng. Điều thày đã nói – và điều thày đã có ý nói – là không có một cái ngã trường cửu bất biến nào, nhưng có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt. Và cái ta luôn luôn thay đổi này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

31.6. Chúng ta có thể hiểu được gì về cõi tâm linh?

Đó không phải là điều thày đã dạy cách đây 2500 năm vì thày đã quyết định trao truyền một giáo lý tập trung vào các khía cạnh thực tiễn chứ không vào các khía cạnh vũ trụ học, cho nên chủ đích của thày là nâng cao cho tâm thức con người vượt lên trên tâm đường thẳng, vì thày thấy rõ qua những người Bà la môn là tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ học. Làm thế nào cuối cùng con sẽ hiểu được cõi tâm linh vận hành ra sao? À, tất nhiên, bằng cách thăng thiên lên cõi tâm linh, vì lúc đó con sẽ kinh nghiệm được cõi tâm linh, con sẽ có thể theo đuổi việc tìm hiểu mọi khiá cạnh, mọi cõi giới của thế giới tâm linh, con có thể đi đây đi đó, đi lên càng ngày càng cao hơn và thám hiểm mọi thứ có thể được thám hiểm.

Con cũng có thể nói: “Nhưng ích lợi gì mà cố hiểu những chuyện đó khi con còn đang đầu thai?” Và đây chính là điều thày đã suy luận 2500 năm về trước khi tâm thức tập thể còn khá thấp. Nhưng thật ra ngày nay có chút ích lợi, vì nhiều người có thể lợi lạc nếu họ nắm được một vài khía cạnh của cõi tâm linh cùng cách vận hành của cõi tâm linh. Chắc chắn con sẽ lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi đó có những sinh thể tâm linh – các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Nhưng con cũng lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Cho nên ngày nay có nhiều ích lợi hơn, nhiều giá trị hơn trong việc tìm hiểu cõi tâm linh, và đây là lý do các thày đang truyền giảng vào ngày hôm nay. Và tất nhiên, con sẽ thấy là ngày nay người ta cũng có cùng xu hướng y như 2500 năm về trước, khi có rất, rất nhiều người tìm cầu hiểu biết cao hơn nhưng lại dùng các loại giáo lý được diễn tả bằng ngôn từ để đạt được hiểu biết đó, xong họ phóng chiếu ra, họ diễn giải ra. Và tất nhiên, thời nay cũng có nhiều giáo lý được “truyền kênh” (channeled), thường thường từ cõi lý trí, cho nên chúng thường hấp dẫn tâm đường thẳng, tâm phân tích, tâm thuần trí năng.

Có những giáo lý tự xưng là vô cùng cao cấp, cao hơn cả giáo lý của chân sư thăng thiên, và có những người tin rằng sách này hay sách nọ là lời dạy tâm linh tối thượng – và chuyện này, tất nhiên, hoàn toàn phải lẽ thôi. Con người cần đến một số trải nghiệm trước khi họ có thể nâng cao khả năng phân biện của mình để thấy được sự khác biệt về rung động giữa một lời dạy đến từ cõi lý trí và một lời dạy đến từ cõi thăng thiên. Đây không phải là một điều tâm đường thẳng thấu suốt được. Nó chỉ biết nhìn vào chữ nghĩa, diễn giải chữ nghĩa, rồi suy ra một diễn giải nào đó để bảo rằng lời dạy này cao siêu hơn lời dạy kia.

31.7. Sự trống không của nhận biết thuần khiết

Trở về với “trống không”, đâu là giá trị thực sự của khái niệm này? À, trước tiên hết, khía cạnh alpha là không hề có một ngã trường cửu bất biến nào. Con là một cái ngã, một cái ta. Trong giáo lý ngày nay, các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, tức là sự nhận biết thuần khiết. Nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không. Trống không ý niệm bản sắc, trống không những ý tưởng, trống không những cảm xúc ngụ trong – hay được sản xuất bởi – các thể hay các tâm bản sắc, lý trí, cảm xúc. Con có thể nói là đối với hầu hết mọi người, sự chú ý của họ tập trung vào cảm xúc, ý tưởng hay ý niệm bản sắc của họ. Họ tập trung vào nội dung của tâm thức – nếu có thể nói như vậy – cho nên sẽ có thể ích lợi nếu họ quán chiếu về mặt kia của đồng tiền, về khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì họ tập trung vào chính tâm thức. Và tâm thức thì trống không, hay có thể trống rỗng mọi nội dung. Và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không. Chỉ có nhận biết mà không có nội dung nào trong bình chứa của tâm thức.

31.8. Những tầng hiểu khác nhau về trống không

Tất nhiên con có thể đem nó lên một tầng cao hơn và thấy rằng khi con bước chân trên đường tu, vươn cao hơn tầng 48 và đến gần với tầng 96, thì con đang khắc phục các ngã tiềm thức, trong số này có nhiều ngã dựa trên tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là ở các tầng tâm thức thấp nhất được phép hiện diện trên trái đất, con người bị bao trùm, bị mù quáng, bị đồng hóa với tâm vị kỷ, tâm tách biệt. Khi con vươn đến tầng 96 và vượt cao hơn bốn thể phàm của con, bình chứa phàm ngã của con trở nên trống rỗng cái tâm vị kỷ đó. Cho nên đây là một hình thức khác của trống không, một tầng cấp khác của trống không, nhưng tất nhiên không có nghĩa là trong tâm con không có gì.

Con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con vẫn hành động, con hồi đáp lại thế giới, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Con thấy là trống không có thể hiểu ở những cấp độ khác nhau. Không chỉ có một cách hiểu, một cách nắm bắt duy nhất. Nhưng tất nhiên con có thể đưa khái niệm này xa hơn nữa vì con có thể nói là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết, có vẻ như con bước vào hình thức tối thượng của trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ, và không còn ngôn từ nào có thể mô tả tiến trình này trọn vẹn. Nhưng dẫu sao, con có thể nói là cái Ta Biết bây giờ đã trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân. Nhưng tất nhiên, điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà giờ đây có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Như các chân sư khác có giải thích, con có khả năng lại gần một điểm trong quả vị Ki-tô nơi con ngày càng trở thành một, càng hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Nhưng cái Ta Biết không thể hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ cho đến khi con thăng thiên.

31.9. Khái niệm trống rỗng (void) và vô ngã

Để nắm bắt trọn vẹn sự trống không, con cũng cần nắm bắt là khái niệm này có thể bị tha hóa, lạm dụng như thế nào. Và đây là điều đã xảy ra trong một số hình thức xưa hơn của đạo Phật cũng như trong các giáo lý tâm linh hiện đại, thậm chí cả một số truyền thống khác như Advaita Vedanta cùng một số đạo sư hiện đại. Họ nắm lấy khái niệm trống không đó phối hợp với lời dạy của thày rằng nó không có Ngã, rồi họ đã diễn giải theo nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, là sự trống không tối hậu. Nhưng tất nhiên đây là một cách diễn giải sai lạc.

Như Lanto vừa giải thích, quả thực một sinh thể đang đầu thai trên địa cầu có thể trải nghiệm một trạng thái có vẻ trống rỗng mọi hình tướng, trống rỗng mọi biểu hiện, trống rỗng mọi ý niệm bản ngã. Nhưng đó không phải là vì có một trạng thái trống không tối hậu nào đó được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế. Các thày đã có dạy rằng ở thuở ban đầu có Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo quyết định sáng tạo. Trước hết ngài vẽ một lằn ranh chung quanh chính ngài trong cõi Tất Cả. Ngài rút mọi thứ bên trong lằn ranh đó và tạo ra khoảng trống (void).

Tất nhiên, khoảng trống này có thể được quan niệm như là trạng thái trống không tối hậu. Nhưng con là người đồng sáng tạo, con không thể trải nghiệm khoảng trống đó. Có thể nói là ngay cả Đấng Sáng tạo cũng không trải nghiệm khoảng trống. Tại sao? Trải nghiệm là gì chứ? Trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm? Trong khoảng trống không có hình tướng. Vậy làm sao con trải nghiệm được khoảng trống? Khi người ta trải nghiệm điều mà họ tuyên bố là thực tại cao nhất, là nhận biết thuần khiết, là trạng thái nhận biết tối hậu, thì cái đó là gì chứ? Họ đã trải nghiệm gì chứ? Họ đã không trải nghiệm một sự trống rỗng. Họ trải nghiệm một trạng thái đã được các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Như Lanto giải thích, sa nhân đã lấy một cách tiếp cận là tìm cách nâng ngã tách biệt lên một địa vị tối thượng, và một cách tiếp cận khác là việc phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Và như vậy chúng đã tạo ra trong tâm thức tập thể một con quái vật, một khuôn đúc, một cái ngã có vẻ như trống rỗng. Nhưng như Lanto có giảng, nếu con bảo: “Tôi không có ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm vô ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm sự trống không”, thì ở đó vẫn có một cái “tôi”, cho nên không có trạng thái vô ngã.

Vậy thì “vô ngã” là gì? Đó là sự phóng chiếu của một hình ảnh. Cũng giống như vậy, đã có một sự phóng chiếu của một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Nhưng cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm. Cho nên đó không phải là trống không.

Khi người ta có một trải nghiệm – và thày không bác bỏ là họ có một trải nghiệm, thày chỉ bác bỏ đó là một trải nghiệm tối hậu của sự trống không – nhưng khi người ta có một trải nghiệm rồi trở về mức nhận biết bình thường của mình, và họ bắt đầu sử dụng ngôn từ để bày tỏ trải nghiệm này, thì họ chỉ đang xây đắp cho tâm ảnh đó, củng cố thêm và có lẽ diễn giải tâm ảnh đó, thế là giờ đây họ sử dụng nó để phóng chiếu ra là họ đã có một trải nghiệm tối hậu. Và điều này có nghĩa gì? À, nếu có ai đó tự cho mình là một vị thày tâm linh và giảng dạy về một trải nghiệm trống không hay “vô ngã” tối hậu, thì các môn đồ của vị đạo sư này sẽ làm gì? Họ sẽ phóng chiếu ra là nhất định vị ấy phải chứng được tâm thức tối thượng vì vị ấy đã có trải nghiệm tối hậu về trống không. Nhưng làm sao trống không có thể là trạng thái tâm thức tối thượng được? Làm sao trống không có thể là thực tại tối hậu được?

31.10. Trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Tại sao con hiện hữu? Tại sao thế gian hiện hữu? Tại sao lại có một thế giới có khả năng cung cấp trải nghiệm cho con? Tại sao, như nhiều nhà khoa học hiện đại đang hỏi, lại có một cái gì đó thay vì không-có-gì? À, bởi vì luôn luôn đã có một cái gì. Chưa bao giờ mà không có gì hết. Nếu chưa bao giờ có gì thì bây giờ cũng sẽ không có gì, và nếu vậy thì cũng không có con đang ngồi đây mà đặt câu hỏi. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Có một mục đích, có một đường hướng trong sự sáng tạo đó, và đường hướng này là tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn. Và con không tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ hốt hoảng khi nghe những ý tưởng này. Nhưng trong trực giác, con có thể nắm bắt mục đích của sự sống là sự tăng triển tâm thức. Và ở đây trên trái đất, con có khả năng tăng triển để trở thành một chân sư thăng thiên, tức là cao hơn rất nhiều những gì con người đang có trên trái đất. Nhưng một chân sư thăng thiên có thể tăng triển để đạt tới tâm thức của Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo thì có thể tăng triển đến những tầm mức cao hơn nữa. Nhưng này con, khi con bàn đến các tầm mức vượt khỏi tâm thức Đấng Sáng tạo thì ngôn từ thật vô nghĩa. Con không thể thấu suốt được khi con chưa thăng thiên. Ngay cả khi con thăng thiên rồi, con cũng không thể thấu suốt mà con chỉ có thể hé thấy.

Cho nên sự trống không rỗng tuếch mọi ý nghĩa. Đó là một khái niệm vô nghĩa. Nó không có chỗ đứng trong một giáo lý tâm linh chân truyền. Những ai giảng dạy nó, tuyên bố nó là một trạng thái tối hậu nào đó, không phải là thày tâm linh đích thực. Họ không thẳng hàng với các chân sư thăng thiên. Đơn giản là họ đã gạt qua bên cõi thăng thiên, gạt qua bên cõi tâm linh, gạt qua bên tất cả các sinh thể ở giữa con người trên địa cầu và Đấng Sáng tạo. Thậm chí họ gạt cả Đấng Sáng tạo qua bên nếu họ dạy rằng sự nhận biết vô biên, hay nhận biết thuần khiết, hay Brahman, là một loại khái niệm không có bất kỳ hình tướng nào. Và do đó họ không giảng dạy một giáo lý chính đáng.

31.11. Động lực tích cực đến từ ý muốn tự thăng vượt

Họ không giảng dạy một giáo lý có thể cho con một lẽ sống hay một mục đích, và đó là tại sao nhiều người như vậy không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, giống như nhiều tín đồ Ấn giáo vào thời của Phật cũng không tìm được ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Bởi vì Ấn giáo giảng dạy về những chu kỳ vũ trụ gần như bất tận kéo dài hàng tỷ năm trời, cho nên tác động trên quần chúng vào thời đó cũng như thời nay cho họ cảm tưởng là họ đã đi ra từ cái không-có-gì, xong họ sống qua một số kiếp đầu thai gần như vô lượng nơi họ phải chịu khổ đau trong mỗi kiếp, để cuối cùng phần thưởng cho tất cả sự phấn đấu, tất cả công sức, tất cả khổ đau đó là họ quay trở về cái không-có-gì và biến mất – thật sự, một loại phần thưởng khiến người ta muốn cố gắng hết sức để đạt tới cái không-có-gì, không phải vậy sao?

Điều này cũng phần nào tương tự như nhiều người đạo Cơ đốc mang động lực chủ yếu muốn lên thiên đàng chỉ vì họ muốn tránh không rơi xuống địa ngục. Con thử nhìn xem có bao nhiêu người Cơ đốc giáo có tầm hiểu nào đó về thiên đàng, về những gì họ có thể làm ở thiên đàng, nhưng họ lại hiểu rõ địa ngục là gì cho nên đây là cái họ muốn né tránh. Chúng ta có thể gọi đó là một loại động lực tiêu cực. Và quan niệm về cái không-có-gì, quan niệm về một chu kỳ đầu thai bất tận sẽ dẫn con trở về cái không-có-gì, cùng lắm cũng chỉ là một động lực tiêu cực hay không là động lực gì hết.

Những gì các thày trao cho con ngày nay – các thày hy vọng như vậy – là một động lực khích lệ hơn, qua đó con được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con, và con vươn đến những tầng cấp cao hơn và cao hơn nữa nơi con tìm được ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc biểu đạt bản thân như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác. Thậm chí chúng ta có thể nói là ngay cả trong số các sa nhân đã rơi vào nhị nguyên, thì một số dường như cũng có một động lực. Giấc mơ của chúng là hoàn thiện ngã tách biệt để chứng tỏ là Thượng đế sai lầm và chúng sẽ được phép bước vào cõi tâm linh và trở thành bất tử, hay được giao phó việc cai trị bầu cõi chưa thăng thiên này. Con có thể nói là chúng có động lực, nhưng không phải loại động lực mà con có khi con neo mình vào việc đồng sáng tạo và tự thăng vượt. Bởi vì việc xây đắp cho ngã tách biệt ngày càng tinh xảo hơn không phải là tự thăng vượt. Đây là điểm mà nhiều người không nắm bắt, tâm đường thẳng không nắm bắt, và chắc chắn sa nhân cũng không nắm bắt.

Có một cách để minh họa sự thể này là bảo rằng con có thể quyết định, một nhóm người có thể quyết định xây cất một toà nhà vô cùng tinh xảo, và giống như trong truyền thuyết Tháp Babel, họ quyết định là tòa nhà này sẽ vươn lên cao vút, cao đến tận trời. Họ vẽ đồ án, họ thu thập vật liệu và họ bắt đầu xây tháp, họ xây cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa. Họ bỏ ra công sức khổng lồ cho cái tháp này, nhưng chuyện gì cuối cùng sẽ xảy ra? À, có một lực gọi là trọng lực, và sẽ đến một điểm khi bất kỳ cấu trúc nào trên trái đất sẽ đạt tới độ cao tối đa trước khi nó sụp đổ dưới sức nặng của chính nó. Cho dù con có xây nền móng vững chắc đến đâu bên dưới, nhưng khi con ngày càng chồng thêm sức nặng bên trên thì sẽ tới một điểm nền móng không thể chịu nổi trọng lượng ở trên được nữa, và tháp bắt đầu vỡ vụn. Thình lình toàn bộ cấu trúc bắt đầu rung chuyển, lắc lư bên này sang bên kia rồi tất cả đổ ập xuống.

Đây là điều sa nhân đang cố làm. Chúng cố dùng vũ lực để xông lên thiên đàng bằng cách xây dựng một tháp Babel từ vật liệu của ngã tách biệt. Tự thăng vượt là gì chứ? Là làm hoàn toàn khác. Để minh họa một cách thô thiển, con hãy mường tượng là con quyết định chế tạo một chiếc hỏa tiễn có khả năng đưa con lên thiên đàng thay vì xây một toà nhà cao đến chín tầng mây. Việc này, khoa học đã chứng minh là khả dĩ. Nhưng tất nhiên, một cách minh họa tinh tế hơn nữa là bảo rằng con sẽ thăng vượt toàn bộ tầng tâm thức nhị nguyên, là tầng tâm thức không những tùy thuộc vào trọng lực mà cả định luật thứ nhì của nhiệt động học. Con không cần sử dụng sức mạnh để đi lên thiên đàng, mà con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Bởi vì nói cho cùng, thiên đàng là gì? Thiên đàng có phải là một địa điểm vật lý ở cao trên mặt đất mấy kilomét như người ta vẫn nghĩ vào thời Trung cổ bên Âu châu? Hay là như các thày đã giảng, đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác? Cho nên thật ra cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã. Và tại sao đây là cách duy nhất? Bởi vì có một cái Ta ở cõi tâm linh, và con đã đi ra từ cái Ta này, đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con, đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là. Bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên. Bây giờ một số các con có thể phản bác với tâm đường thẳng: “Nhưng Gautama, chẳng phải là hồi nãy thày bảo là trên cõi cao không có Ngã hay sao?” Ủa, thày đã nói vậy sao?

31.12. Cái Ta không ngừng tự thăng vượt

Các nhà Bà la môn bảo là có một Đại ngã, một ngã trường cửu bất biến ở cõi cao. Còn thày thì nói là không có Ngã trường cửu bất biến. Thày không nói là không có Ngã. Có một cái Ngã, và đó chính là cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó, nói cho cùng là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo. Rồi sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra những phần nối dài của mình – những sinh thể đồng sáng tạo mới – xuống tận đến dưới này là các chân sư thăng thiên đang làm việc với bầu cõi chưa thăng thiên của con và cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết. Và cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên lúc đó sẽ là gì?

Là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên, và đây chính là chức năng, mục đích của cái Ta Biết, là tiến trình thăng thiên. Và khi con hoàn tất tiến trình thăng thiên này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình dẫn con trở về đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo. Những gì con làm sau đó tùy vào những chọn lựa mà con sẽ lấy ở mức đó, và nói thật ở mức hiện tại của con, con không cần lo lắng về chuyện này. Điều con cần quan tâm là làm thế nào hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Và một khi con thăng thiên thì con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

31.13. Kết nối với chân sư thăng thiên qua giáo lý

Cho nên một lần nữa, các thày đã trao cho con nhiều hơn những gì hầu hết các con có thể tiếp nhận trong một buổi – chén của con đã đầy và đang tràn ra ngoài. Nhưng các thày không chỉ cố cho con một điều gì con có thể nắm bắt ở mức nhận biết hiện tại của con. Các thày cũng cố cho con một điều gì mà con có thể đọc lại và nghiên cứu hết lần này sau lần nọ, để khi con nắm lấy một điểm giáo lý đánh động tâm con ở mức hiện thời của con và con thể nhập nó, thì con vươn lên mức kế tiếp, rồi con có thể học lại giáo lý một lần nữa, tìm ra một điểm mới mà con đã bỏ sót lần đầu nhưng bây giờ mới hấp dẫn con, con lại thể nhập và vươn lên mức cao hơn. Và đây chính là cách con tiến bộ trên đường tu.

Những ai cho rằng mình chỉ cần đọc hay nghe bài truyền đọc một lần mà thấu suốt được mọi điều có thể lãnh hội, thì họ đã bỏ lỡ sự kiện là một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh vì nếu con cởi mở, lời dạy tâm linh sẽ làm gì? Nếu con quay trở lại 20 năm nữa và đọc lại bài truyền đọc mà con vừa nghe hay vừa đọc hôm nay, thì con có tiềm năng làm gì? Con có thể nói: “Ồ, tôi đã hiểu bài này cặn kẽ bằng tâm trí thức, vỏ ngoài của tôi rồi.” Nhưng mục đích thực sự của lời dạy là gì chứ? Là kết nối con với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy đó.

Trong 20 năm nữa thày vẫn sẽ còn đây. Trong 20 năm nữa thày sẽ đã tự thăng vượt cũng như thày tin là con cũng sẽ tự thăng vượt. Và điều này có nghĩa là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày có thể cho con những điều không nằm trong lời dạy thành văn mà vượt khỏi lời dạy thành văn. Và thật sự điều này sẽ tùy con có sẵn lòng đến chừng nào để kết nối và nhận được gì từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có lẽ con đã vươn tới mức con với thày có thể hòa nhập theo một cách vượt khỏi ngôn từ. Nhưng giáo lý vỏ ngoài vẫn có thể giúp con hòa điệu tâm con với tâm thày để hai tâm gặp gỡ, và thày cam đoan với con sự gặp gỡ này không phải là trống không, mặc dù nó có thể trống rỗng cái tâm của tự ngã, trống rỗng tâm đường thẳng cùng tất cả những khái niệm và tư tưởng kia đang bay phất phơ quanh địa cầu. Cho nên có thể con sẽ không có khả năng diễn tả sự hòa điệu này bằng lời, nhưng thày cam đoan với con đó không phải là trống không. Bởi vì như thày đã cố giải thích, trống không là một khái niệm rỗng tuếch.      

Với lời này, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, khoá tu này, buổi gặp gỡ này, và một lần nữa thày bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các thày đã tham dự. Và kỳ thực ngoài các thày đã ban bài truyền đọc, còn có nhiều chân sư thăng thiên khác cũng đã tham gia. Cho nên tất cả các thày đều hy vọng là mặc dù vị chân sư gần gũi nhất với con đã không giảng dạy, hội nghị này vẫn đã giúp con hòa điệu với vị thày gần nhất với tim con. Vì nói cho cùng, tất cả các thày đều là một, cho nên con có thể dùng bài truyền đọc của bất kỳ chân sư nào để hoà điệu với bất kỳ chân sư nào khác.

Và như vậy, một lời cảm tạ thật lớn của các thày cho các con đã hiện diện ở đây trong cõi vật lý và đã sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của các thày.

27 | Là hay không là Hiện diện

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023 nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Maitreya. Chắc các con đang nghĩ: “Các thày đã dạy chúng ta rất nhiều về cách làm thế nào nối kết với các vị thày tâm linh của chúng ta, nhưng không nhiều lắm về cách nối kết với cái ta cao hay với Hiện diện TA LÀ của chúng ta.” Thật ra các thày cũng đã nói cho các con rất nhiều điều liên quan đến việc kết nối với Hiện diện TA LÀ của con đó, bởi vì tất cả những gì giúp con nối kết với vị thày tâm linh tất nhiên cũng giúp con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng bây giờ thày muốn trao thêm cho con một vài ý tưởng về đề tài này.

27.1. Hình ảnh Hiện diện TA LÀ ở những giai đoạn khác nhau của đường tu

Như các Thượng sư đã giải thích rất kỹ lưỡng, trên đường tu có một số giai đoạn. Sẽ chẳng ích lợi gì cho các thày đến với một người ở tầng tâm thức 48 và trao cho họ lời dạy mà thày sắp sửa trao cho con trong bài truyền đọc này. Bởi vì khi con ở tầng 48, con không thể nắm bắt lời dạy này. Tất nhiên con có thể đã nghe về Hiện diện TA LÀ của con và đã nghe nhiều lời giảng về Hiện diện TA LÀ, và những lời dạy liên quan đến Hiện diện TA LÀ đi ngược trở về các phong trào trước vẫn còn hiệu lực và có giá trị – như tập The I AM Discourses (Thuyết giảng về TA LÀ) thời I AM Movement (Phong trào TA LÀ).

Nhưng ở tầng 48 cũng như giữa tầng 48 và 96, con sẽ có xu hướng cảm thấy mình tách rời với Hiện diện TA LÀ, và giữa con và Hiện diện TA LÀ của con có một khoảng cách hay một hố sâu. Tất nhiên đây không thực là một khoảng cách. Thày biết là các thày đã nói Hiện diện TA LÀ của con cư ngụ nơi các tầng thấp của cõi tâm linh. Con có thể nói là có một khoảng cách trong độ rung giữa cõi tâm linh và cái Ta Biết vốn chú tâm vào những cõi dày đặc hơn của bát cung vật lý nơi đây. Tất nhiên là có khoảng cách. Và đó là tại sao con sẽ, ở những giai đoạn sơ khởi trên đường tu, trải nghiệm cảm nhận khoảng cách này.

Nhưng như các thày đã cố giải thích, thực sự con không chia cách khỏi cõi tâm linh theo nghĩa là cõi tâm linh thâm nhập vào cõi vật lý. Hiện diện TA LÀ của con bao quanh con, nó ở trong con, nó ở với con cho dù con ở đâu. Nhưng hiển nhiên con không thể trải nghiệm điều này ở các tầng thấp hơn. Và đó là lý do tại sao trong các đợt truyền pháp trước, các thày đã trao cho con cái biểu đồ về Hiện diện TA LÀ cho thấy con là nhân vật nằm bên dưới, và ở một khoảng cách bên trên thì có Hiện diện TA LÀ của con với các vòng tròn đủ màu bao quanh, và các vòng này tượng trưng cho căn thể của con.

Việc sử dụng hình ảnh này là một việc hữu lý trong một thời gian. Trong giai đoạn đó, cũng sẽ hữu lý nếu con thỉnh gọi Hiện diện TA LÀ, con cầu nguyện Hiện diện TA LÀ, con xin Hiện diện TA LÀ giúp đỡ con, hướng dẫn con, chỉ đường cho con. Nhưng tất nhiên sẽ tới một điểm khi điều này không là một việc con cần làm nữa, vì giờ đây con cần xoay chuyển và nhận ra là con sẽ không thực sự nối kết được với Hiện diện TA LÀ bằng cách phóng chiếu ra hình ảnh đó – là hình ảnh đã được bao nhiêu tôn giáo truyền tải, coi Hiện diện TA LÀ giống như một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn của con.

Trước hết, Hiện diện TA LÀ của con không phải là một thượng đế, bởi vì cho dù các đệ tử trong những đợt truyền pháp trước có nghĩ gì đi nữa thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể thăng thiên. Nó sẽ trở thành một sinh thể thăng thiên khi con, cái Ta Biết, thăng lên nhập lại với Hiện diện. Con cần nhận chân ở đây sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và một chân sư thăng thiên. Chân sư thăng thiên đã thăng thiên. Còn Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa là một chân sư thăng thiên mặc dù nó cư ngụ nơi những tầng thấp của cõi tâm linh.

27.2. Buông bỏ hình ảnh cũ về Hiện diện TA LÀ

Bây giờ ở các tầng cao hơn trên đường tu, chắc chắn ở tầng 96 nhưng ngay cả trước đó, con có thể bắt đầu suy nghiệm về sự kiện đó. Con cần bỏ đi cái biểu đồ cho thấy Hiện diện TA LÀ nằm bên trên chính con. Con có thể quán chiếu hình ảnh Hiện diện TA LÀ bao quanh con, con hình dung điều này trong tâm con, nhưng thật ra đây là một chuyển đổi vi tế hơn. Đây là con xoay chuyển tâm con qua đó con bắt đầu thách thức hình ảnh về một khoảng cách giữa con và Hiện diện. Con bắt đầu thách thức bất cứ hình ảnh nào con đã hình thành trong tâm khi con bước trên đường tu, bất cứ hình ảnh nào mà con đã hình thành dựa trên các lời dạy của các thày ban ra về Hiện diện TA LÀ. Vì đâu là điều các thày đã cố giải thích cho con thật tường tận? Đó là cho dù con đã tìm thấy con đường tâm linh ở tầng nào đi nữa – lấy ví dụ ở tầng 48 – thì con nhìn đường tu tâm linh qua tâm thức mà con đang có ở tầng 48.

Điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên là họ tìm thấy một lời dạy của chân sư – trong nhiều trường hợp khi họ ở cao hơn tầng 48 – nhưng cho dù họ ở tầng tâm thức nào đi nữa thì khi họ tìm thấy giáo lý, họ tiếp cận giáo lý xuyên qua mức tâm thức đó, thế giới quan đó, phin lọc nhận thức đó mà họ đang có. Không thể tránh được sự kiện con phóng chiếu ra một tâm ảnh vốn là sự pha trộn giữa giáo lý và phin lọc nhận thức của con vào lúc con tìm thấy giáo lý. Con hình thành tâm ảnh này trong tâm con, và rất có thể nó sẽ giúp con nâng cao thế giới quan, nâng cao tâm ảnh của con, nhưng con vẫn đang phóng chiếu một hình ảnh nào đó lên giáo lý. Đây là một điều tự nhiên, không thể tránh được, và các thày hoàn toàn không trách móc gì con đã làm vậy.

Thày chỉ đơn giản trình bày là khi con bước lên các tầng cao hơn của đường tu, con cần nhận biết điều này. Và con cần sẵn lòng nhìn lại đường tu của mình và nói: “Có thể nào khi tôi tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên bao nhiêu năm về trước, tôi đã hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ dựa trên tầng tâm thức của tôi lúc đó, và do đó tâm ảnh này không chính xác, không thích hợp, không có khả năng giúp tôi nối kết với Hiện diện?” Và nếu con xem xét một cách trung hòa, con sẽ thấy câu trả lời luôn luôn là “có”. Bởi vì như thày vừa nói: “Con đâu làm gì khác được?”

27.3. Lời dạy xuất hiện khi đệ tử cần đến lời dạy

Tiếc thay điều con nhận thấy, đặc biệt trong các đợt truyền pháp trước, là người ta đã đưa ra tiền đề – một tiền đề được khuyến khích bởi nét văn hóa của đợt truyền pháp, và như các thày có giảng, đây là những đợt truyền pháp của Thời Song ngư – rằng bởi vì họ đã có thể tìm thấy giáo lý cao siêu của chân sư thăng thiên cho nên nhất định họ cũng phải có một mức tâm thức rất cao siêu. Có thể là con có mức tâm thức cao hơn một người trung bình, nhưng dẫu vậy con vẫn ở một tầng tâm thức nào đó. Nhiều người đã tìm thấy giáo lý của chân sư ở tầng 48, trong khi một số đã tìm thấy ở tầng cao hơn, và một số khác ở tầng cao hơn hẳn.  

Nhưng đa số, tuyệt đại đa số những ai đã tìm thấy giáo lý của chân sư đều tìm thấy ở dưới tầng 96, thậm chí dưới hơn rất nhiều. Tại sao như vậy? Bời vì hiển nhiên, giáo lý được thiết kế để giúp con người leo từ tầng 48 lên tầng 96, kể cả các giáo lý của những đợt truyền pháp trước. Liệu sẽ ích gì cho con nếu con tìm được một giáo lý cao hơn trong khi con cần giáo lý ở những mức thấp hơn? Điều xây dựng là con cần khiêm tốn một chút và nhận ra là khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày sẽ xuất hiện. Có nghĩa là vị thày sẽ xuất hiện, hay giáo lý sẽ xuất hiện khi nào đệ tử cần đến giáo lý. Liệu sẽ ích gì nếu vị thày cứ chờ xuất hiện cho đến khi đệ tử không còn cần đến giáo lý nữa? Con thấy đó, một lượng định thực tế sẽ cho thấy là khi con tìm thấy giáo lý, đó là vì con cần đến nó, và điều này có nghĩa là con không ở tầng tâm thức cao nhất.

Nhưng tiếc thay trong các đợt truyền pháp trước, nhiều người đã giả định theo một cách khác. Họ nghĩ: “Tôi phải ở một mức tâm thức cao lắm thì tôi mới có thể tìm ra giáo lý cao siêu này.” Họ đã tạo ra một nét văn hóa trong tổ chức, một lối tư duy nơi nhiều cá nhân đệ tử, bảo rằng: “Cách tôi nhìn giáo lý khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất có thể.” Và điều này có nghĩa là như các Thượng sư đã giải thích, nhiều người cho rằng: “Cách tôi nhìn các chân sư thăng thiên khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất mà người ta có thể nhìn chân sư thăng thiên.” Nhưng họ cũng nghĩ: “Cách tôi nhìn Hiện diện TA LÀ của tôi khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất mà tôi có thể nhìn Hiện diện TA LÀ của tôi.”

27.4. Dính mắc với hình ảnh cũ về giáo lý

Điều này có nghĩa là họ tìm thấy giáo lý ở một trạng thái tâm thức thấp hơn, họ sử dụng giáo lý để hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ của họ – Hiện diện TA LÀ là gì, thế nào là nối kết với Hiện diện TA LÀ, Hiện diện TA LÀ sẽ làm gì cho họ. Và họ cứ tưởng tâm ảnh này là chính xác, là cao nhất có thể, cho nên họ tiếp tục phóng chiếu nó ra. Nhiều đệ tử đã trở nên vô cùng dính mắc với tâm ảnh của họ. Bởi vì điều đáng tiếc xảy ra – khi con cho rằng con ở một mức rất cao lúc con tìm thấy giáo lý – là nếu con phải thừa nhận hình ảnh của con về Hiện diện TA LÀ là không thích đáng thì con sẽ bắt đầu nghi ngờ sự cao siêu của con khi tìm thấy giáo lý. Và điều này sẽ là một cú giáng cho tự ngã, cho nên tự ngã sẽ không muốn thừa nhận như vậy. Tiếc thay đây là một cơ chế mà các thày đã chứng kiến nơi nhiều đệ tử.

Đây chính là một trong những lý do tại sao nhiều đệ tử đã không thể chuyển tiếp từ phong trào I AM Movement sang Summit Lighthouse, tại sao nhiều đệ tử đã không thể chuyển tiếp từ Summit Lighthouse để chấp nhận sứ giả này. Đó không phải là lý do duy nhất vì nhiều đệ tử không cứ là cần chuyển tiếp. Nhưng điểm thày muốn nói là nhiều đệ tử đã nắm lấy một lời dạy đặc thù, đã hình thành một tâm ảnh rồi trở nên dính mắc với việc duy trì ảo tưởng cho rằng tâm ảnh này đúng đắn. Và vì vậy họ không sẵn lòng chất vấn nó.

Sẽ đến một điểm khi họ gần hơn với tầng 96, thì tâm ảnh được hình thành ở các tầng thấp hơn về Hiện diện TA LÀ sẽ không thoả đáng nữa, vì giờ đây họ cần bước lên một trình độ quan hệ cao hơn với Hiện diện của họ. Khi họ từ chối xét lại điều này thì đây là một cách phản ứng đáng tiếc. Cách phản ứng này có thể thực sự chặn nghẽn đường tu của họ. Có những người đã bước chân trên đường tu mấy chục năm nhưng không thực sự thăng tiến trong một thời gian dài. Hay họ không thăng tiến nhiều như họ đã có thể nếu họ sẵn lòng thay đổi tâm ảnh của họ về chân sư lẫn về Hiện diện TA LÀ.

27.5. Tìm hiểu Hiện diện TA LÀ từ xa

Tất nhiên đó là một sai lầm mà các thày không muốn thấy con rơi vào trong đợt truyền pháp này với những lời dạy cao hơn hẳn mà con đang có. Các lời dạy này cao hơn vì con có khái niệm về cái Ta Biết cùng các ngã tách biệt. Đây là một khái niệm cách mạng so với các lời dạy trước đây vì lý do đơn giản là khi con nắm bắt được nó, khi con trải nghiệm được nó, khi con trải nghiệm cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài một cái ngã tiềm thức, thì con có một dụng cụ, con có một quy trình có thể dẫn con lên tận tầng 144. Nhưng nó cũng có thể giúp con phát triển một mối quan hệ khác với Hiện diện TA LÀ không dựa trên một tâm ảnh.

Như các Thượng sư đã giảng thật kỹ lưỡng, con đang làm gì khi con hình thành tâm ảnh này với tâm đường thẳng rồi phóng chiếu nó ra? À, con đang nhìn từ xa. Con nhìn thấy: “Tôi đang ở đây. Tôi là chủ thể. Hiện diện TA LÀ của tôi đang ở trên kia. Đó là một đối tượng mà tôi đang tìm hiểu, đang tiếp cận, đang cầu nguyện.” Nhưng chừng nào con còn thấy mình như một chủ thể và Hiện diện TA LÀ như một khách thể thì con đang làm gì? Con đang xác nhận có một khoảng cách giữa con và Hiện diện TA LÀ. Nhưng làm thế nào con vượt qua khoảng cách này? Làm thế nào nối kết được đây? Làm thế nào trở thành một với Hiện diện TA LÀ nếu con cứ phóng chiếu ra một khoảng cách?

27.6. Trải nghiệm sự Hợp nhất với Hiện diện TA LÀ

Một số đệ tử đã chui vào cái tâm thái gần như ám ảnh cưỡng chế khi họ nghĩ: “Nếu như tôi thỉnh gọi đủ lửa tím để chuyển hóa nghiệp của mình thì tôi sẽ hợp nhất với Hiện diện của tôi. Mỗi ngày tôi đã đọc chú lửa tím 3 giờ đồng hồ nhưng tôi vẫn chưa nhập một được với Hiện diện. Có lẽ nếu tôi đọc chú lửa tím 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày, tôi sẽ nhập một với Hiện diện chăng? Và nếu chuyện này vẫn chưa đem lại kết quả thì tôi có thể đọc thêm bao nhiêu nữa mỗi ngày?”Con nghĩ là để đạt mục tiêu, con phải cố đẩy tới. Và nếu con không đạt được mục tiêu thì con phải đẩy tới mạnh hơn, hay con phải cứ tiếp tục đẩy tới theo cùng cách đó lâu hơn. Nhưng làm sao con có thể đạt được mục tiêu nếu con cứ đẩy nó về phía trước hay đẩy nó ra xa hơn? Sẽ tới lúc con phải bước lui lại và ngừng đẩy.

Và con cần nhận ra cách vận hành thật đơn giản mà các thày đã giảng giải qua các lời dạy về những cái ngã tiềm thức. Điều ngăn cản con đạt được sự Hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con là những cái ngã tiềm thức mà con mang. Khi con vượt qua chúng, càng ngày cái Ta Biết sẽ càng dễ rút ra khỏi tâm vỏ ngoài – là tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc. Cái Ta Biết sẽ dễ dàng hơn bước ra khỏi những cái ngã còn sót lại. Có nghĩa là khi con đến gần hơn với tầng 96, điều tự nhiên là con sẽ trải nghiệm được Hiện diện TA LÀ của con không từ một khoảng cách, mà nó bao quanh con. Có thể nói là con trải nghiệm con là một phần của Hiện diện, con ở bên trong Hiện diện.

Thay vì xem Hiện diện như nằm ở trên cao, con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện ở quanh con, và giống như hình ảnh các Thượng sư đã trao cho con về một ngọn sóng dâng lên từ đại dương, con chỉ là một ngọn sóng dâng lên từ đại dương của Hiện diện TA LÀ của con. Khi con chú tâm, khi sự chú tâm của con được tập trung nơi đỉnh sóng thì thật khó thấy được như vậy. Nhưng khi con cho phép con trầm mình ngày càng sâu hơn vào ngọn sóng, con sẽ có thể cảm nhận được chính đại dương. Và con có thể xuôi theo sự chuyển động đó của đại dương. Và đó là khi con bắt đầu trải nghiệm ngày càng nhiều hơn, không phải một sự nối kết với Hiện diện TA LÀ, mà sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con.

27.7. “Tôi chính là Hiện diện”

Tại sao các thày lại nói đến sự nối kết với một chân sư thăng thiên nhưng sự hợp nhất với Hiện diện? À, là vì con không phải là vị chân sư đó, nhưng con chính là Hiện diện TA LÀ. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Đúng, về mặt kỹ thuật con có thể nói Hiện diện TA LÀ của con được tạo ra từ Hiện diện TA LÀ của các chân sư thăng thiên, nhưng dẫu vậy từ góc nhìn của con, không phải là một ngày kia con sẽ hoàn toàn hợp nhất được với một chân sư thăng thiên. Con có thể có một cảm nhận hợp nhất nhưng con vẫn nhận ra chân sư MORE hay Saint Germain là những sinh thể cá biệt. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con thì không phải là một sinh thể cá biệt mặc dù nó có vẻ như vậy ở các tầng thấp hơn của đường tu. Đó là ảo tưởng mà con cần bắt đầu thách thức khi con vươn lên cao hơn.

Con cần thách thức ảo tưởng Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tách rời khỏi con. Như thày vừa nói, con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Con là một ngọn sóng trên đại dương của Hiện diện. Cho nên nói thế này sẽ ích lợi hơn: Con nối kết với một chân sư thăng thiên, con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Hay đúng hơn, con khắc phục ảo tưởng cho rằng con tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, rằng con là một cái gì khác hơn Hiện diện TA LÀ… cho đến khi con ngộ ra: “Tôi chính là Hiện diện.” Và tất nhiên tất cả mọi điều các chân sư khác đã trao cho con về việc nối kết với các vị thày tâm linh của con cũng đều áp dụng cho Hiện diện TA LÀ. Con càng chuyển đổi tâm thức, càng vượt qua tâm đường thẳng, càng khắc phục nhiều ngã tách biệt, thì con sẽ càng dễ cảm nhận được sự hợp nhất này với Hiện diện TA LÀ.

Nhưng thày cũng muốn cho con một dụng cụ tuy có vẻ thật đơn giản – một số người sẽ gọi là đơn sơ – nhưng nó lại có tiềm năng tạo ra một tác động sâu xa. Con cũng biết người ta thường bảo là diễn viên kia có một sự hiện diện tuyệt vời trên sân khấu? Hay một người kia có một sự hiện diện nào đó? À, Hiện diện TA LÀ của con là một sự hiện diện. Phải, nó có cá thể của nó nhưng nó là một sự hiện diện. Con đã quen nhìn Hiện diện TA LÀ như một sự hiện diện ở trên cao tách biệt khỏi con, hay thậm chí con còn có thể nói: “Tôi là Hiện diện TA LÀ.”

Nhưng dụng cụ thày muốn cho con là con xoay đi một chút, con giản dị dành ra một chút thời gian, con vào một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại. Sau đó con quán câu chú này: “Tôi là Hiện diện.” Không phải “Hiện diện TA LÀ,” mà “Tôi là Hiện diện.” Con thấy đó, sự khác biệt có vẻ như một thuật chơi chữ nhưng nó nhiều hơn như vậy. Thay vì nghĩ đến Hiện diện của con như Hiện diện TA LÀ, con dùng câu chú: Tôi là Hiện diện, Tôi là Hiện diện, Tôi là Hiện diện.” Và khi con thiền quán câu này, đây có thể là một cách rất hiệu quả để con thực sự đi vào trải nghiệm sự Hiện diện.

27.8. Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên

Và thật sự con sẽ không bắt đầu nối kết hay cảm thấy hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con cho đến khi cái Ta Biết đã có trải nghiệm bước ra ngoài nhân cách vỏ ngoài và trải nghiệm sự Hiện diện, trải nghiệm chính con như là Hiện diện. Nhưng tất nhiên, đây mới chỉ là thử thách đầu tiên của Ki-tô liên quan đến Hiện diện TA LÀ. Thử thách thứ nhì của Ki-tô là giờ đây khi cái Ta Biết trở về trạng thái tâm bình thường của nó, con phải rất cẩn thận không bị rớt thử thách thứ nhì này của Ki-tô mà bắt đầu phóng chiếu các tâm ảnh của con lên trên trải nghiệm sự Hiện diện. Con lại bắt đầu phóng chiếu các tâm ảnh của con áp lên Hiện diện.

Đặc biệt một khi con đã bắt đầu trải nghiệm hợp nhất với Hiện diện, con phải thận trọng không phóng chiếu lên Hiện diện hình ảnh mà con có thể có về một thần linh toại nguyện mọi mong ước hay về các chân sư thăng thiên. Như thày vừa nói, Hiện diện TA LÀ của con chưa phải là một sinh thể thăng thiên. Con không thể chờ đợi Hiện diện TA LÀ của con biết mọi chuyện. Đây là một sự phỏng đoán mà con tìm thấy trong các đợt truyền pháp trước khi người ta nghĩ rằng Hiện diện TA LÀ giống như một vị thần linh, giống như một chân sư thăng thiên, hiểu biết tất cả, có những khả năng siêu nhân siêu phàm, và có thể ban cho con đủ loại ân huệ, bảo vệ con khỏi nghiệp chướng và làm cho con đủ điều. Nhưng thật không phải vậy.

Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên. Tất nhiên nó không ở trong nhị nguyên, nó không ở cả trong những cõi thấp kém của bát cung vật lý. Nó có nhãn quan rộng lớn hơn con, nhưng con cần nhìn nhận là nó vẫn còn một số mong muốn về những điều nó muốn trải nghiệm trên trái đất, là những mong muốn đã khiến nó gửi con xuống – con, cái Ta Biết, như một phần nối dài của Hiện diện. Và Hiện diện TA LÀ không có một cái hiểu trọn vẹn về tất cả mọi thứ một chân sư thăng thiên có thể hiểu được. Mặc dù nó ngụ ở các tầng thấp của cõi tâm linh, nó vẫn chưa là một sinh thể thăng thiên. Nó không có được tầm nhìn của một sinh thể thăng thiên. Hiện diện TA LÀ vẫn tập trung vào chính nó như nó đang thấy chính nó. Đó là tại sao con không thể xem Hiện diện TA LÀ của con như một sinh thể có khả năng trả lời mọi câu hỏi của con.

Có những người nghĩ rằng họ có thể hỏi Hiện diện TA LÀ của họ về bất cứ vấn đề vũ trụ nào. Nhưng thật không phải như vậy. Con thật không muốn nhìn Hiện diện TA LÀ của con như một sinh thể sẽ làm gì đó cho con. Chính vì con vẫn duy trì hình ảnh Hiện diện TA LÀ sẽ bảo vệ con hay làm gì cho con, sẽ giải đáp câu hỏi của con hay bảo con phải làm gì, chính vì vậy mà con vẫn củng cố cho cảm nhận khoảng cách. Và như các chân sư khác đã có đề cập, có một bí ẩn, có một mâu thuẫn khó xử, gần như có một giai đoạn tâm thần phân liệt (schizophrenic) trên đường tu tâm linh khi con phải cân bằng những thứ có vẻ như không thể đi đôi với nhau.

27.9. Bước lên sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện

Và thật sự khi con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, con cũng bước vào một giai đoạn hơi phân liệt một chút. Vì con vẫn có cuộc sống bình thường hàng ngày, con vẫn đảm đương những trách nhiệm trong thế gian, tuy nhiên con lại bắt đầu trải nghiệm Hiện diện vốn có một tầm nhìn khác hơn về cuộc sống trong thế gian. Có thể con sẽ khó cân bằng được cả hai. Điều có thể khó đặc biệt là cưỡng lại sự cám dỗ muốn sử dụng Hiện diện TA LÀ để nó giúp con thoát ra khỏi một tình thế khó khăn, hay để nó bảo con cần làm gì trong một số hoàn cảnh cụ thể. Nhiều người đã xin Hiện diện TA LÀ khuyến cáo cho họ.

Nhưng con thấy đó, khi con bắt đầu bước vào giai đoạn này, Hiện diện TA LÀ cũng ở trong một vị thế tế nhị do nó muốn cái Ta Biết tăng triển cho đến khi nhập lại với nó. Và điều này có nghĩa là nếu con yêu cầu Hiện diện TA LÀ khuyên nhủ con hay hướng dẫn con, và nếu nó trả lời thì điều này sẽ xác nhận hình ảnh rằng con tách biệt với nó, rằng Hiện diện nằm ở tuốt trên kia, rằng Hiện diện giống như một ông thần trong chai có khả năng ban cho con mọi điều mong ước. Con thấy không, nếu con cho phép mình duy trì tâm ảnh tách biệt này thì đến một giai đoạn Hiện diện TA LÀ của con sẽ phải rút lui khỏi con – nếu có thể gọi như vậy – và không trả lời các câu hỏi của con, không trao cho con một khung tham chiếu. Và đã có những người cảm nhận được điều này, họ cảm thấy như thể họ bị cắt ra khỏi một sự nối kết mà họ đã có trước đó. Đây có thể là sự nối kết với một chân sư thăng thiên, nhưng trong nhiều trường hợp đây là sự nối kết với Hiện diện. Và nguyên nhân là vì họ đã không bước lên cao hơn.

Con đã không buông bỏ tâm ảnh kia dựa trên cảm nhận khoảng cách. Và vì vậy, Hiện diện TA LÀ buộc phải rút lui cho đến khi con giải quyết nó trong tâm, con khắc phục cảm giác xa cách và bắt đầu thách thức nó. Khi đó Hiện diện của con sẽ lại có thể tương tác với con. Nhưng điều con cần đạt đến, điều thày đang tìm cách giúp con đạt đến, là con đạt tới điểm không yêu cầu Hiện diện TA LÀ của con trả lời những câu hỏi đặc thù, hay hướng dẫn con phải làm gì hay không được làm gì trong một số tình huống. Con tiến về hướng một điểm nơi con có khả năng – như thày vừa chỉ ra trong câu chú hồi nãy – nhận chân rằng “Tôi là Hiện diện” ngay đây trong thế gian. Không phải “Tôi là Hiện diện TA LÀ” mà “Tôi là sự Hiện diện” vì Hiện diện đang ở ngay đây với con. Hiện diện có thể được biểu đạt xuyên qua con người phàm của con. Và đây mới thực là ý nghĩa của việc con ở trong giai đoạn này của quả vị Ki-tô cá nhân.

Thày cũng biết là các thày đã giải thích rằng chính tâm Ki-tô tự biểu đạt xuyên qua con, và điều này chính xác. Đúng là con cần đến tâm Ki-tô, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không tách rời với tâm Ki-tô. Điều các thày đã từng nói, và Saint Germain cũng từng giải thích, là khi con bước lên những tầng này của quả vị Ki-tô, con không biến thành một con múa rối. Con không biến thành một con rối trên một sợi dây, bởi vì con phải quyết định là con sẽ biểu đạt quả vị Ki-tô của mình như thế nào. Tuy nhiên cái Ta Biết không phải quyết định một mình hay trong tư cách một sinh thể tách biệt. Khi con đạt đến sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện như thế này thì ai là người quyết định chứ? Có phải là cái Ta Biết hay là Hiện diện? Như Giê-su đã diễn tả, “Cha ta làm việc cho đến giờ và ta cũng làm việc.”

27.10. Khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện

Có thể đến một điểm con bắt đầu cảm thấy: “Đâu là sự khác biệt giữa Hiện diện và cái Ta Biết? Đâu là sự khác biệt giữa Hiện diện và chính tôi?” Ngay cả việc đặt câu hỏi như vậy cũng ngụ ý một khoảng cách. Nhưng có thể đến một điểm con vượt xa hơn câu hỏi đó và chỉ vỏn vẹn trải nghiệm: “Thật không có nghĩa lý gì mà đặt câu hỏi vì không còn sự khác biệt nào nữa.” Con bắt đầu ngộ ra cái Ta Biết chính là Hiện diện. Con là Hiện diện trong bát cung vật lý, trong cõi cảm xúc, trong cõi lý trí, trong cõi bản sắc.

Con là Hiện diện. Nhưng như các thày đã có nói một thời gian trước đây, con là khía cạnh “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” của Hiện diện, đối chiếu với khía cạnh “TA LÀ CÁI TA LÀ” của Hiện diện.

“Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là omega, khía cạnh nữ hay khía cạnh biểu đạt của Hiện diện. Và có “TA LÀ CÁI TA LÀ” nằm ở cõi tâm linh và sẽ tiếp tục ở cõi tâm linh hầu nó không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ gì xảy ra trong bầu cõi chưa thăng thiên. Nhưng “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là khía cạnh đã quyết định biểu đạt chính nó trong bầu cõi chưa thăng thiên. Con có thể nói là tâm Ki-tô cho con một năng lượng và một động lượng đang chuyển động. Nhưng chính khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện chỉ đạo cho chuyển động này hướng vào những hoàn cảnh cụ thể, hiển thị thành những biểu hiện cụ thể hay có những trải nghiệm cụ thể.

Đến một điểm những phân biệt như vậy sẽ tan biến mất. Đâu là sự khác biệt giữa tâm Ki-tô, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết? Ở các tầng thấp hơn, đúng là sự phân biệt còn có ý nghĩa vì nó có thể giúp cho cái Ta Biết xoay chuyển nhận biết. Nhưng đến một điểm sự phân biệt sẽ tan biến đối với cái Ta Biết. Con không quan tâm chuyện đó nữa. Đến một điểm con không quan tâm là con đang ở tầng nào trong số 144 tầng tâm thức. Liệu con đang ở tầng 97 hay 108 hay 128? Con không còn quan tâm nữa vì con biết con vẫn tiếp tục tìm kiếm bất kỳ ảo tưởng nào con cần nhìn thấy. Gần như mọi lúc, con tập trung vào việc biểu đạt chính mình trong thế gian này, vào những gì con muốn thể hiện trong cuộc sống. Thật không quan trọng con đang ở tầng nào. Thật không quan trọng việc phân biệt giữa các tầng, hay phân biệt giữa tâm Ki-tô, tâm Ki-tô hoàn vũ, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Tất cả đều hòa quyện với nhau.

27.11. Sự hợp nhất của cái Ta Biết với Hiện diện

Đến một điểm con sẽ có thể nhận ra là khi con nhìn vào tâm và những gì xảy ra trong tâm, con trải nghiệm cảm thể của con an bình hơn rất nhiều, vì con đã khắc phục tất cả những dính mắc đó với hoàn cảnh vỏ ngoài. Nói chung, cảm xúc của con rất an hòa. Nhưng vẫn có thể có những trải nghiệm hay những tình huống khi cảm xúc của con bị khuấy động. Nhưng con cũng trải nghiệm là chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, chúng lại chìm xuống, vì con không nhân chúng lên, con không góp mặt với chúng. Có một sự kiện đang diễn ra trong cảm thể và sự kiện này không liên hệ gì đến con.    

Con có thể nhìn vào trí thể và nhận thấy tâm lý trí của con cũng đã trở nên tĩnh lặng hơn nhiều, nhưng tâm khỉ thì vẫn là tâm khỉ. Khỉ đã học thói thì khỉ chỉ biết làm theo. Luôn luôn sẽ có những ý nghĩ khởi lên – đơn giản chúng khởi lên từ tâm. Nói cách khác, con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức tâm thức cao hơn khi cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể yên tĩnh hơn rất nhiều. Không còn nhiều ngã tách biệt hay năng lượng tồn đọng nữa, nhưng con vẫn đang hiện thân trên một hành tinh có vật chất dày đặc. Tâm thức tập thể luôn hỗn loạn và con không hoàn toàn cách ly khỏi tâm thức đại chúng. Con đang bơi trong Biển Luân hồi, hay ít nhất con đang ngồi trong chiếc thuyền Bát nhã trên mặt Biển Luân hồi. Sẽ có một chút động sóng. Sẽ có cảm xúc, sẽ có ý tưởng, có thể thỉnh thoảng có cả chút ý niệm bản sắc, nhưng con không dính mắc với nó.

Điều con bắt đầu nhận ra ở điểm này là: “Cái gì đang cảm thấy những cảm xúc tích cực này, đang có những ý tưởng tích cực này, đang khoác vào ý niệm bản sắc tích cực này, đang làm những hành động tích cực này?” Cái đó là cái Ta Biết hay là Hiện diện? À, thật sự đó là cả hai. Đó là sự hợp nhất của cả hai. Đây là điểm con có thể nhận ra: “Hiện diện của tôi làm việc cho tới giờ và tôi cũng làm việc.” Và sự phân biệt giữa cả hai trở nên vô nghĩa. Và thật sự một điều con có thể nhận thấy là rất nhiều ý tưởng của con đến từ Hiện diện. Đó là Hiện diện đang suy nghĩ xuyên qua con. Ý niệm bản sắc của con đến từ Hiện diện. Ý tưởng của con trong trí thể đến từ Hiện diện. Cảm xúc của con đến từ Hiện diện. Và do đó hành động của con cũng tuôn chảy từ Hiện diện. Đây là trạng thái con muốn đạt được.

Thày không đang bảo là con có thể đến đó bằng cách lần theo một chuỗi đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đưa con đến đó. Thày chỉ đơn giản trao cho con hình ảnh là sẽ tới điểm sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô trở nên vô nghĩa. Con không quan tâm đến nó. Nhưng để đến được điểm đó, con phải làm việc một cách ý thức với chính bản thân con để xem xét những tâm ảnh mà con có, sẵn sàng lần lượt thách thức chúng rồi khắc phục chúng. Con phải nhận ra là chúng đã phục vụ cho con, chúng đã đưa con đến một điểm nào đó trên đường tu, nhưng bây giờ đã đến lúc con buông chúng ra.

Các thày đã cho con hình ảnh chiếc hỏa tiễn mang theo một tầng máy đẩy khổng lồ bên dưới nhằm phóng hỏa tiễn lên một độ cao nhất định. Thế rồi để hoả tiễn có thể bay lên tiếp, tầng máy này cần được bỏ lại, rơi xuống mặt đất. Đây cũng là điều xảy ra trên đường tu tâm linh. Con đã xây dựng một cái ngã tâm linh giữa các tầng 48 và 96 và ngã này đã đưa con đến đó, nhưng sau tầng 96 con cần lần hồi bỏ nó lại cho nó rụng xuống để con không còn những sự phân biệt như vậy. Có thể nói là thực sự con không bao giờ nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Hoặc con có thể là Hiện diện, hoặc con không là Hiện diện. Là hay không là.

Trên đây là những khái niệm mà thày muốn trao cho con liên quan đến Hiện diện TA LÀ cùng mối quan hệ giữa cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là đến một điểm sẽ không còn một mối quan hệ nữa, vì quan hệ ngụ ý là có hai sinh thể trong mối quan hệ đang liên hệ với nhau. Nhưng khi không có phân biệt nào thì thật không thể nói là có quan hệ. Đây là tiềm năng mà con có với Hiện diện. Con luôn luôn sẽ có một mối quan hệ với các chân sư thăng thiên hay với người khác. Nhưng với Hiện diện, con có khả năng thăng vượt quan hệ. Con chỉ đơn giản là Hiện diện. Con là Hiện diện.

Với lời này thày cảm ơn con đã cống hiến hiện diện của con trong đại hội này ở cõi vật lý, và hiển nhiên nó nhiều hơn là một sự kiện vật lý vì nó chạm đến các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, lên tận đến các cõi thăng thiên. Đây là sự hiệp thông của các vị thánh, là dòng chảy hình số 8 giữa trên và dưới. Và để bảo đảm các con không tạo ra thêm một hình ảnh ở đây, có một điểm trên đường tu khi con có thể xem xét câu này: “Trên sao, dưới vậy,” và nói: “Ở trên như thế nào trong Hiện diện TA LÀ thì ở dưới cũng như vậy trong cái Ta Biết.” Nhưng như thày vừa giảng, sẽ đến một điểm khi Hiện diện TA LÀ không ở trên và cái Ta Biết không ở dưới. Con đã hoà nhập. Cái Ta Biết ngộ ra nó là Hiện diện. Và tất nhiên đây là nơi con muốn trụ.

Thày hy vọng đã cho con một số dụng cụ cùng ý tưởng có thể giúp con đạt đến nơi đó. Thày khen ngợi và cảm ơn các con đã sẵn lòng tương tác với các thày, và điều này đã gửi những ngọn sóng chấn động, nếu có thể gọi như vậy, vào tâm thức tập thể. Điều này sẽ khiến cho nhiều người khác ngoài các con ra có thể dễ dàng hơn nối kết với thày tâm linh của họ để bắt đầu tiến trình hợp nhất với cái ta cao của họ. Chắc chắn con đã nhận thấy là các thày dùng một số từ đặc thù, “Hiện diện TA LÀ” và “chân sư thăng thiên”, nhưng luôn luôn đã từng có “thày tâm linh” và “cái ta cao”. Và nhiều người từ đủ mọi truyền thống tâm linh, hay ngay cả không có truyền thống tâm linh nào, cũng đã tìm ra cách nối kết.

Các thày đang cho con một lời dạy và một dụng cụ đặc thù, nhưng ngay cả những ai không tìm thấy dụng cụ này tất nhiên vẫn có thể nối kết. Và công việc các con đã hoàn thành qua đại hội này sẽ giúp cho mọi người dễ nối kết hơn. Hiển nhiên đây là điều các thày muốn thấy. Các thày không quan tâm đến chuyện người ta công nhận mình hay không, mà các thày quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của hành tinh, nâng cao tâm thức của những cá nhân có tiềm năng làm người đi tiên phong cho Thời Hoàng kim của Saint Germain hay hội đủ tư cách để thăng thiên. Một lần nữa, thày cảm ơn nỗ lực của các con, và thày niêm con trong Hiện diện vui mừng của thày. Maitreya TA LÀ.

9| Khắc phục cảm giác xa cách giữa con và cái ta cao của con

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng. Thật là một niềm vui cho thày được trình bày về thể bản sắc. Điều gì nơi thể bản sắc ngăn chặn sự hòa điệu của con với các chân sư thăng thiên và với cái ta cao của con? À, chúng ta có thể đặt một câu hỏi khác. Điều gì nơi thể bản sắc của con không ngăn chặn sự hòa điệu với các thày? Bởi vì thật sự, hòa điệu với cõi tâm linh có nghĩa gì? Có nghĩa, là một với cõi tâm linh. Và làm sao con có thể là một với cõi tâm linh nếu con tự đồng hóa mình là một sinh thể vật chất? Và tất nhiên đây chính là điều xảy ra trên trái đất ngày nay khi chín tầng thấp nhất của cõi bản sắc đầy rẫy những hình ảnh nhân tạo đó về thế nào là một con người. Và khi thày nói “nhân tạo” thì tất nhiên thày cũng muốn nói “bị ảnh hưởng bởi sa nhân”, và trong số đó có những sa nhân cư ngụ nơi các tầng thấp nhất của cõi bản sắc, kể cả Chúa tể Bóng tối mà các thày đã có đề cập trước đây.

9.1. Khía cạnh Alpha và Omega của bản sắc

Tình trạng trên trái đất thật rất khó khăn và các thày hiểu rõ nó khó khăn đến chừng nào. Các thày không chờ đợi là các con với tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên sẽ chuyển đổi ý niệm bản sắc của mình ngay tức khắc. Các thày chỉ đơn giản muốn con nhận ra là đối với cá nhân con khi con lui lại nhìn vào bản thân mình và xem xét điều gì đang ngăn chặn sự kết nối của con với các thày, thì chắc chắn con cần xét xem con tự nhận diện mình như thế nào. Và điều này hiển nhiên có hai khía cạnh, Alpha và Omega. Omega là nền văn hóa đặc thù nơi con đã lớn lên, rất có thể là quốc gia của con, nhưng cũng là tôn giáo, chủng tộc, những yếu tố địa phương ở khu vực và văn hóa nơi con đã lớn lên. Đây là một điều cần xét đến.

Ngoài ra cũng cần xét đến khía cạnh Alpha là cách tổng quát con người tự nhận diện mình là gì trong tâm thức tập thể của nhân loại nói chung. Tất nhiên, bản sắc chung này làm nền tảng cho sự hình thành các bản sắc địa phương mà con thấy. Và mặc dù con sẽ tìm thấy một số khác biệt trong các bản sắc địa phương đó, những khác biệt này vẫn nằm gọn trong phạm vi tổng quát của cái bản sắc chung được áp đặt lên nhân loại và đã được nhân loại đồng sáng tạo trong một thời gian rất dài.

9.2. Tác dụng tự tăng cường khi vật chất trở nên dày đặc hơn

Trước tiên chúng ta hãy xét đến ý niệm bản sắc chung này. Điều mà hầu hết mọi người, thậm chí hầu hết mọi người tâm linh trên trái đất, không nắm bắt được là trái đất đã thay đổi đến chừng nào so với trạng thái nguyên thủy khi được các Elohim sinh tạo. Đối với con người và ngay cả đối với những người tâm linh, thật khó lòng nào nắm bắt được mức độ to lớn của những thay đổi đã xảy ra. Qua các lời dạy, các thày đã cho con một cái nhìn hé thoáng về điều này, và một điểm các thày có giải thích là vật chất tự thân nó đã trở nên dày đặc hơn. Qua sự dày đặc hóa của vật chất, ý thày muốn nói là giác quan vật lý của con người đã mất đi khả năng nhìn thấy vật chất thực sự là năng lượng. Trong trạng thái nguyên thủy, vật chất trên trái đất rung động ở một mức cao hơn, có nghĩa là với thị giác chẳng hạn, mắt vật lý của con người thuở đó có khả năng nhìn thấy vật chất phần nào trong suốt.

Con thử đi vào rừng mà xem, đặc biệt vào lúc sang xuân khi lá cây còn non xanh. Con đứng dưới một tàng cây và ngước nhìn lên mặt trời, nhìn ánh nắng chiếu xuyên qua lá và lá cây hiện ra gần như trong suốt. Màu lá nhạt hơn vì ánh sáng mặt trời như thể chiếu xuyên qua lá. Đấy, con thử tưởng tượng toàn bộ vật chất đều giống như vậy, và mắt vật lý của con có thể nhìn thấy không chỉ một mặt trời vật lý mà một nguồn năng lượng cao hơn đang chiếu xuyên qua mọi vật chất. Vào thuở đó, con người thật khó lòng tự xem mình là tách biệt khỏi một cõi cao hơn, vì qua giác quan vật lý họ có thể phát hiện một cái gì đó vượt khỏi vật chất. Có một ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật chất.

Nhưng với tâm thức tập thể trở nên dày đặc hơn thì chính vật chất cũng dày đặc hơn, qua đó độ rung của tất cả vật chất trên hành tinh bị kéo thấp xuống. Điều này có nghĩa là con mắt vật lý, chẳng hạn, khó lòng nào thấy được ánh sáng chiếu xuyên qua vật chất. Ánh sáng vẫn chiếu xuyên qua vật chất nhưng giác quan vật lý khó thấy nó hơn. Một khi sự thể này xảy ra, có một tác động tự tăng cường khởi sự, vì giờ đây con người dễ chấp nhận ý tưởng cho rằng cõi vật lý tách riêng khỏi cõi tâm linh, rằng có một khoảng cách, có một hàng rào.

Và điều này có nghĩa là con người bắt đầu phóng chiếu với tâm mình rằng vật chất là một chất tách biệt khỏi tánh linh, gây ra hậu quả là giác quan vật lý trở nên mờ đục, hòa điệu nhiều hơn với vật chất thay vì hòa điệu với ánh sáng chiếu xuyên qua vật chất. Và một khi giác quan mờ đục hơn, con người cũng tin chắc hơn rằng tánh linh với vật chất là tách biệt, và điều này khiến cho giác quan càng đờ đẫn thêm nữa. Đây là một chuỗi tác động đã tự tăng cường suốt một thời gian rất dài, và quá trình này chỉ thực sự lật ngược với sự hiện thân của Phật cách đây 2500 năm và Giê-su cách đây 2000 năm khi càng ngày càng có nhiều người bắt được sóng của cõi tâm linh. Và nhờ vậy đã có một sự chuyển động trong tâm thức đại chúng, qua đó con người có khả năng chất vấn ảo tưởng cơ bản nhất trên trái đất mà chúng ta có thể nói là sự tách biệt giữa vật chất và tánh linh.

9.3. Ảo tưởng cơ bản trên trái đất: sự tách biệt của vật chất và tánh linh

Thật vậy, ảo tưởng này làm nền tảng cho ý niệm bản sắc mà hầu hết mọi người đều có, rằng mình là con người, rằng hoặc mình là một xác thân vật lý hoặc là một sản phẩm của xác thân vật lý, rằng mình sống trên một hành tinh vật lý, rằng mình cùng với hành tinh đều tách biệt khỏi tánh linh. Tất nhiên con sẽ thấy một số người phủ nhận sự hiện hữu của một thế giới tâm linh, họ đã xoay sở để dựng lên một ý niệm bản sắc cho rằng họ chỉ là những con thú tiến hóa, họ chỉ là những sinh thể vật lý, và tâm họ tách biệt khỏi bất cứ gì vượt quá bộ não – tâm họ là sản phẩm của bộ não. Nhưng này con, làm sao họ có thể lý luận rằng một bộ não không có tâm thức mà lại sản xuất được tâm thức? Vì tất nhiên điều này không dựa trên lô-gíc đích thực, mà như các thày đã có giải thích, nó khởi lên do tâm con người có khả năng chứng thực cũng như bác bỏ bất kỳ quan điểm nào. Có sự phủ nhận hợp lý (plausible deniability) và có sự hợp lý hợp lý (plausible plausibility). Bất cứ điều gì con muốn tin thì con đều có thể loại bỏ mọi chứng cớ trái ngược hầu ra vẻ như tin tưởng của con là chính đáng. Và tất nhiên đây là điều những người theo chủ nghĩa duy vật đã làm, nhưng họ đã bỏ sót một sự thật lô-gíc đơn giản: Chỉ do họ có tâm thức mà họ mới có khả năng phủ nhận là họ có tâm thức! Tâm thức không thể được sản xuất bởi một vật chất vô thức.

Dẫu sao thì hiển nhiên, có nhiều người trên địa cầu tin rằng có một cõi tâm linh nào đó, một loại thiên giới nào đó, có một loại sinh thể nơi cõi đó ở mức cao hơn con người. Nhưng họ vẫn tự nhận diện mình là con người, có thể là người có tội hay bất toàn theo một nghĩa nào đó, có thể họ tự nhận diện mình là những sinh thể bị giam hãm trong một xác thân vật lý và xác thân vật lý này là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của họ.   

Con thấy biết bao những loại bản sắc như vậy khắp nơi, nhưng khi con đi ra sau lưng chúng, khi con bước lui lại, thì con thấy bản sắc cơ bản vẫn là như sau: “Chúng tôi không phải là sinh thể tâm linh, chúng tôi là con người, có lẽ thậm chí là những con thú tiến hóa.” Nhưng cũng có một ý niệm bản sắc như thế này khi con thấy một số người bảo: “Phải, chúng tôi là sinh thể tâm linh, nhưng chúng tôi bị giam hãm trong cõi vật lý cùng xác thân vật lý này, cho nên chúng tôi bị tách rời khỏi tánh linh.” Và điều này dẫn đến niềm tin là có một khoảng cách to lớn, trong nhiều trường hợp một khoảng cách vật lý giữa trái đất và thiên đàng.  

9.4. Những sinh thể trong cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc

Con thấy đó, cách đây không lâu lắm, nhiều người ở các nước phương Tây vẫn tin rằng trái đất là một cái đĩa phẳng có mái vòm bên trên, và bên ngoài mái vòm bao phủ trái đất là thiên đàng. Có một khoảng cách vật lý giữa mặt đất bằng phẳng và thiên giới. Và con thấy nhiều phiên bản của niềm tin này cho rằng có một khoảng cách như vậy. Và tất nhiên đây lại là một bí ẩn trong số các bí ẩn, vì đúng là có một khoảng cách rung động giữa cõi vật lý và cõi tâm linh, và xen vào giữa là các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc. Như các thày đã giải thích, trong ba cõi này có những sinh thể sinh sống, mà một số tự nhận mình là sinh thể tâm linh, là thày tâm linh, thậm chí là thần linh dù nam hay nữ, hay còn mạo nhận là chân sư thăng thiên bằng cách sử dụng danh tính của các thày. Có những người nghĩ là họ cần dùng tâm để với ra ngoài tâm, hầu bắt liên lạc với một sinh thể nào đó ở một cõi cao hơn, và một số quả đã có thể liên lạc với những sinh thể như vậy, tin rằng đó là sinh thể tâm linh chân chính. Con thấy đó, có những sinh thể, đặc biệt ở cõi lý trí và cõi bản sắc thấp, không phải là những sinh thể có thể gọi là xấu ác. Họ không nhất thiết có ý định xấu ác muốn tiêu diệt loài người hay biến loài người thành nô lệ, nhưng họ cần đến năng lượng từ con người. Họ không ở mức các chân sư thăng thiên vì các chân sư không cần và cũng không muốn bất cứ gì từ con người.

9.5. Cái Ta Biết so với những ngã tách biệt

Điều con thấy là toàn bộ ý tưởng, toàn bộ ý niệm bản sắc cho rằng “Chúng ta những con người trên trái đất tách biệt khỏi tánh linh bởi một khoảng cách” – đây chính là điều ngăn chặn con nối kết với các chân sư thăng thiên và cái ta cao của con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là ý tưởng cho rằng con phải nối kết – nếu con hiểu nối kết theo nghĩa sự nối kết trên một khoảng cách rất xa – cũng có thể ngăn chặn con. Nếu con thấy một sự chia cách, nếu con thấy một hố sâu, một vực cao giữa con và cõi tâm linh, thì cái đó có thể ngăn chặn con. Ngay cả quan niệm rằng con ở trên bờ này của Biển Luân hồi và con phải băng qua bờ kia cũng có thể ngăn chặn con. Điều thày muốn nói ở đây là bất kỳ hình ảnh nào mà các thày có thể cho con từ cõi thăng thiên cũng có thể bị tâm sử dụng để ngăn chặn nối kết. Và do đó, điều hay hơn, điều xây dựng hơn, ít ra đối với các con là đệ tử trực tiếp của các thày, là con nhìn xem vấn đề không cứ là chuyện nối kết mà là ngộ ra rằng khoảng cách không có, tách biệt không có.

Ngày nay con sống trong thế giới hiện đại mà nhiều người gọi là một thế giới nối kết. Mạng internet đã nối kết con người ở khắp mọi nơi. Nhưng khi con nối kết trên internet với ai đó ở một nước khác, con biết có một sự xa cách vật lý. Con thường gán ý này lên các thày và con nghĩ: “Ừ, các chân sư ở trên kia nơi cõi tâm linh có rung động cao hơn. Tôi cần nâng cao tâm thức của tôi, tôi cần tạo một sự nối kết với các thày ở xa tuốt trên kia vượt khỏi tầm với bình thường của tôi.” Nhưng các thày đã cho con gì chứ? Con ngẫm xem những lời dạy mà các thày đã cho con. Con hãy ngẫm lời dạy rằng nhân cách vỏ ngoài của con, cảm xúc, ý nghĩ và ngay cả ý niệm bản sắc của con đều được cấu tạo bởi tất cả những cái ngã riêng rẽ kia trong tiềm thức – mà rất nhiều là ngã tách biệt. Và những ngã tách biệt này được tạo ra để phản ứng lại, để đáp trả lại các điều kiện có mặt trong cõi vật lý. Đây là những cái ngã hướng ra ngoài. Chúng liên quan đến một thế giới mà rõ ràng con đang trải nghiệm ở bên ngoài cơ thể vật lý của con, thậm chí bên ngoài cả tâm con. Những ngã đó được tạo ra để nhìn ra ngoài. Chúng được tạo ra dựa trên cảm nhận con là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới vật lý. Cơ thể con là một đơn vị tách biệt sống trong một thế giới vật lý. Thày không đang bảo những ngã này là xấu ác hay tiêu cực, chắc chắn nếu con đã vươn lên cao hơn tầng tâm thức 48. Ngã không xấu ác hay tiêu cực, nhưng vấn đề là chúng không tự nhận biết. Chúng chỉ có thể làm những gì chúng đã được thiết kế để làm, là nhìn ra ngoài.

Cho nên con đứng ở đây, con nhận ra là phải có cái gì nhiều hơn thế giới vật chất. Con tìm thấy giáo lý tâm linh nói đến chân sư thăng thiên ở một tầng cõi cao hơn. Liệu con có thể làm gì khác hơn là tiếp cận đường tu tâm linh dựa trên tất cả những cái ngã con mang? Nhưng con có thấy chăng cái kết quả không thể tránh được? Con đang tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua những cái ngã được tạo ra để phản ứng lại thế giới vật chất. Con không thể tránh phóng chiếu hình ảnh từ các ngã đó lên đường tu tâm linh, lên cõi tâm linh cùng các thày tâm linh. Một lần nữa, các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Con đâu làm gì khác được ở khởi đầu khi con mới tìm thấy đường tu? Các thày đã nhìn thấy hàng triệu và hàng triệu người suốt bốn, hay năm, hay sáu thập niên vừa qua khi sự quan tâm về tâm linh đã gia tăng khắp thế giới. Các thày đã nhìn thấy hàng triệu người tìm thấy đường tu tâm linh dưới một hình thức nào đó, rồi đã phóng chiếu lên đường tu này những hình ảnh từ những cái ngã mà họ mang trong bốn thể phàm. Điều này không thể tránh khỏi.

Nhưng các thày đã cố trao cho con, các đệ tử trực tiếp và đặc biệt qua đợt truyền pháp này, một nhận thức cao hơn – một nhận thức cao hơn cho phép con nhận ra rằng con không là cơ thể vật lý của con, con không là tâm cảm xúc của con, con không là tâm lý trí của con, con không là ngay cả tâm bản sắc của con. Con là nhiều hơn tất cả những tâm đó. Con là nhiều hơn tất cả những ngã đó, vì khi con bước vào cốt lõi bản thể con, có cái các thày đã gọi là cái Ta Biết, mà các thày cũng mô tả bằng từ “nhận biết thuần khiết”. Từ này là để chuyên chở ý nghĩa rằng cái ta, cái ta ý thức, cái Ta Biết không phải là ngã vỏ ngoài. Nó là nhiều hơn ngã vỏ ngoài. Nó là cốt tủy của bản sắc đã bước vào hiện thân. Cái Ta Biết đã tạo ra ngã vỏ ngoài nhưng không biến thành ngã vỏ ngoài. Con thấy là con không thể nối kết với các chân sư thăng thiên qua những ngã vỏ ngoài đó, ngay cả những cái ngã con mang trong thể bản sắc của con. Và ngay cả nếu con tạo dựng một ngã mới xem mình là một sinh thể tâm linh thì con cũng không thể nối kết với các thày xuyên qua ngã này. Đây là điều các thày đã có thể quan sát qua các đợt truyền pháp trước của giáo lý chân sư thăng thiên.

9.6. Ngã tâm linh giữa tầng 48 và 96

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã trao truyền một lời dạy cao hơn, rằng giữa tầng tâm thức 48 nơi con thực sự neo chặt vào con đường tâm linh và tầng 96, con vươn lên cao hơn tâm thức tập thể bằng cách gầy dựng một ngã mới trong thể bản sắc, và tất nhiên những cái ngã trong thể lý trí và cảm xúc, nhưng con xây dựng một ý niệm bản ngã mới, một ý niệm bản sắc mới trong thể bản sắc xem mình là một người tâm linh. Một lần nữa, điều này hoàn toàn không thể tránh được. Con không thể làm gì khác trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Con cần tự kéo mình lên khỏi tâm thức tập thể và con làm vậy bằng cách xây dựng một cái ngã nói rằng: “Tôi không phải là cái này, tôi không đồng hóa với cái này, tôi sẽ không tham gia vào hoạt động này, tôi sẽ không tham gia vào hoạt động này vì nó không tâm linh. Tôi sẽ tập trung vào cái kia và cái nọ vì đó là tâm linh.” Cho nên con tạo dựng một cỗ xe, con chế tạo chiếc hỏa tiễn sẽ nâng con rời khỏi mặt đất, đưa con lên không gian cho tới khi con nhập vào vòng quỹ đạo cao hơn ở tầng 96.

Nhưng ngã này mà con xây dựng vẫn là một cái ngã đang phần nào phản ứng lại thế giới nơi con sống. Có thể con đã tạo ngã này dựa trên một giáo lý tâm linh nhưng đây vẫn là sự phản ứng đối với tâm thức tập thể: “Tôi không dự phần vào tâm thức tập thể vì tôi là người tâm linh. Cho nên tôi khác với tâm thức tập thể ở điểm này hay điểm nọ, ở cách này hay cách nọ, và tôi không làm chuyện này hay chuyện nọ, tôi không tin những gì người ta tin và thay vào đó tôi tin điều này.” Nhưng con vẫn đang xây dựng ngã tâm linh này trong sự phản ứng đối với các điều kiện trên trái đất. Một lần nữa, đây là chuyện hoàn toàn tự nhiên, con đâu làm gì khác được? Dẫu vậy, ngã này cũng là một cái ngã hướng ngoại. Điều này có thể khó hiểu vì nhiều người sẽ nói: “Nhưng con đã thiền tập suốt 30 năm trời và chú tâm vào bên trong.” Nhưng nếu con đã xây dựng một cái ngã là một thiền gia, đây vẫn là một ngã phản ứng các điều kiện trên trái đất. Chẳng hạn, nhiều người rút về một tu viện và thiền quán hàng giờ mỗi ngày đã xây dựng một ý niệm bản sắc vi tế nói rằng: “Tôi là một người tâm linh, tôi tâm linh hơn những người kia ở bên ngoài vì tôi tuân thủ những điều kiện này mà giáo lý tâm linh của tôi quy định.”

9.7. Cái Ta Biết: một cái ta thay đổi liên tục

Con thấy đó, con vẫn đang phóng chiếu một hình ảnh ra thế giới, phóng chiếu một hình ảnh lên chính con về người tâm linh là như thế nào. Và như các thày đã giảng, điều này rất hữu ích cho con trên hành trình từ tầng 48 lên 96. Nhưng cao hơn 96, con cần bắt đầu ngẫm xem điều này có còn hữu ích cho con nữa không. Đó là lúc con cần thực sự bắt đầu suy nghiệm lời dạy về cái Ta Biết vì những lời dạy này được ban ra với dụng ý giúp con tránh khỏi cạm bẫy mà hầu hết người tâm linh đều vướng phải suốt các thời đại – cụ thể là họ xây dựng ý niệm bản sắc tâm linh đó, họ từ chối buông bỏ nó, tiếp tục tìm cách tinh luyện nó và khiến nó trở nên tinh xảo hơn. Và khi làm vậy, họ nghĩ: “Khi cuối cùng tôi tạo được cái ngã tâm linh này, đủ tinh xảo căn cứ theo giáo lý của tôi, thì ngã này sẽ đưa tôi lên thiên đàng.” Nhưng Phật đã dạy gì cách đây 2500 năm? Phật đã đi ngược lại các nhà Bà la môn trong truyền thống Ấn giáo vốn tuyên bố tự ngàn xưa rằng mỗi con người là một cái ngã bất tử, là Atman, một cái ta bất tử không bao giờ thay đổi. Phật nói rằng dựa trên toàn bộ quá trình quán chiếu của mình, thày đã không bao giờ phát hiện trong chính mình một cái ta bất di bất dịch. Thay vào đó, thày dạy về một cái ta không ngừng thay đổi, một cái ta thay đổi liên tục.    

Xong con có thể quay sang thời Giê-su, khi thày dạy rằng chỉ có con người, hay đúng hơn chỉ có cái ta đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng lên trở lại thiên đàng. Làm thế nào con dung hòa được cả hai lời dạy đây? À, cái ta đi xuống từ thiên đàng, nếu có thể nói như vậy, là cái Ta Biết. Nhưng cái Ta Biết không phải là một cái ta bất di bất dịch, vì cái Ta Biết không ngừng chuyển đổi tùy theo nó đặt chú ý vào đâu. Cái Ta Biết nhìn chính nó như thế nào? Đối với hầu hết mọi người, cái Ta Biết tự nhìn nó xuyên qua tất cả những cái ngã trong các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc, thậm chí cả cơ thể vật lý.

Như vậy cái Ta Biết trải nghiệm chính nó và trải nghiệm thế gian xuyên qua tất cả những ngã đó, và nó không ngừng chuyển từ cái này sang cái khác. Khi một tình huống khởi lên, con người phản ứng ra sao? À, cái Ta Biết dời chuyển vào một số những cái ngã tiềm thức đó và nó hồi đáp lại tình huống xuyên qua đó. Khi tình huống thay đổi, cái Ta Biết chuyển sang những ngã khác và giờ đây nó phản ứng dựa theo những ngã này, và cứ như vậy. Cho nên khi con dấn thân vào đường tu tâm linh từ tầng 48 đến 96, con không chỉ làm giống như hầu hết mọi người là phản ứng bằng cách chuyển vào đủ loại ngã theo chiều ngang, nhưng con bắt đầu vươn lên theo chiều dọc, con bước lên chiếc cầu thang vòng xoắn ốc bằng cách tạo dựng những cái ngã ngày càng cao hơn. Cho nên con dời chuyển theo hướng đi lên, nhưng con vẫn dời chuyển.

Con có thể nói là cái Ta Biết luôn luôn là nhận biết thuần khiết. Nhưng liệu nó có thường xuyên nhận biết chính nó là nhận biết thuần khiết hay không? Cái Ta Biết không được tạo ra như một cái ta vĩnh hằng, một cái ta không thay đổi, bất di bất dịch. Cái Ta Biết được tạo ra để là một cái ta liên tục thay đổi.

Vậy thì khi con lên cao hơn tầng tâm thức 96, cái Ta Biết bắt đầu ngộ ra: “Tôi KHÔNG phải là những ngã vỏ ngoài kia, tôi là nhiều hơn những ngã vỏ ngoài.” Đây là điều tâm thức Ki-tô chỉ ra cho con thấy. Và đó là khi con bắt đầu nắm bắt được vấn đề không phải là tinh lọc cái ngã tâm linh con đã xây dựng, mà là tháo gỡ nó, thoát ra khỏi sự đồng hóa với nó, để cho các ngã riêng biệt đó chết đi từng cái một, cho đến khi con có thể lại đứng đây như sự nhận biết thuần khiết đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ.

9.8. Không có chia cách giữa con và Hiện diện TA LÀ của con

Vậy bài thuyết giảng dài dòng này dẫn đến đâu, nó liên quan thế nào với chủ đề kết nối? À, nó liên quan đến sự kiện cái Ta Biết không thể kết nối với các chân sư thăng thiên hay với Hiện diện TA LÀ – bởi vì cái Ta Biết không hề chia cách khỏi các chân sư thăng thiên và Hiện diện TA LÀ. Thoạt tiên điều này có thể khó nắm bắt. Cho nên tạm thời, chúng ta sẽ nói là khi cái Ta Biết chú tâm vào cõi vật lý, hay ít ra vào bầu cõi chưa thăng thiên, nó vẫn ở một độ rung động nào đó và các chân sư thăng thiên thì ở một độ rung cao hơn, cho nên con sẽ thấy sự cần thiết phải nối kết với các thày. Nhưng liên quan đến Hiện diện TA LÀ, con cần nhìn nhận ở đây là đúng vậy, Hiện diện TA LÀ của con ngụ ở cõi tâm linh, còn con thì tập trung vào bầu cõi chưa thăng thiên. Dẫu vậy, con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, giống như một ngọn sóng là sự nối dài của đại dương. Con không thể thực sự chia cách, con không bao giờ có thể chia cách khỏi Hiện diện TA LÀ của con.

Và như vậy, đây là điểm khi cái Ta Biết cần khởi sự xoay chuyển, nghĩa là thay vì nhìn thấy một khoảng cách và nhu cầu nối kết xuyên qua khoảng cách đó, con khắc phục ảo tưởng khoảng cách. Có thể con sẽ hỏi: “Còn sự khác biệt trong độ rung thì sao?” Nhưng liệu sự khác biệt trong độ rung có hàm ý một khoảng cách hay không? Đối với các ngã tách biệt thì quả là có một khoảng cách – vì chúng không thể kinh nghiệm cái một, chúng đã không được sinh tạo trên nền tảng cái một. Còn cái Ta Biết vỏn vẹn là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ, và chỉ có một chuyện nó cần ngộ ra: “Tôi không hề chia cách khỏi đại dương, tôi là một phần của đại dương.”

Bây giờ con hãy tưởng tượng một ngọn sóng. Có một đại dương mênh mông, có nhiều ngọn sóng, nhiều ngọn sóng rất cao. Và ở đây có một ngọn sóng nhận biết được chính nó. Và từ trên đỉnh của chính nó, nó nhìn quanh. Nó thấy tất cả những ngọn sóng kia, những cái đỉnh của tất cả những ngọn sóng kia, và nó chỉ chú tâm vào những cái đỉnh này. Nó cố liên tục chú tâm vào đỉnh sóng để nó luôn luôn nhìn thấy đỉnh của nó lẫn đỉnh của các con sóng khác, cho nên nó thấy: “Tôi khác tất cả những sóng kia.”

9.9. Sự xoay chuyển ở trên tầng 96

Nhưng cái Ta Biết kinh nghiệm điều gì khi con vươn lên cao hơn tầng 96? Con bắt đầu nhận ra: “Tôi là một ngọn sóng, nhưng tôi là sóng trên đại dương, và đại dương thì chuyển động. Và như một con sóng, thay vì chỉ chú tâm vào bề nổi của đỉnh sóng, tôi cảm nhận được sự chuyển động sâu xa bên dưới, tôi có thể dự phần vào sự chuyển động sâu xa này.” Thế là bỗng chốc, ngọn sóng nhận biết được đại dương cùng sự chuyển động của đại dương. Và thay vì cố cưỡng lại động tác của đại dương, sóng bắt đầu xuôi chảy với nó. Đây là điều cái Ta Biết của con có khả năng ngộ được, là nó không cưỡng lại sự chuyển động của tánh linh, nó nhận ra Hiện diện TA LÀ chính là đại dương: “Tôi là một con sóng trên đại dương này, nhưng tôi có thể chuyển động cùng với đại dương, chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ.” Và hơn thế, con có thể nhận ra là các chân sư thăng thiên cũng chính là đại dương, và con có thể chuyển động cùng với các thày khi con chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ. Nói cho cùng, đây là cách con kết nối.

Thật ra con không kết nối mà con khắc phục cảm nhận khoảng cách. Và tất nhiên lúc đầu, có thể con sẽ chỉ khắc phục được khoảng cách trong một giây phút ngắn ngủi. Nhưng tất cả các con đều có thể có trải nghiệm này như các thày mô tả, là cái Ta Biết bước ra ngoài các ngã tách biệt và tự trải nghiệm nó như sự nhận biết thuần khiết, nó tự trải nghiệm như là một phần của đại dương, chuyển động với đại dương của Hiện diện TA LÀ, chuyển động với đại dương của các chân sư thăng thiên. Con chuyển động đồng nhịp với đại dương thay vì chống cự lại, thay vì cố làm điều mà chúng ta có thể gọi là “lướt sóng” – lại thêm một hình ảnh nữa! Con thử hình dung một người đứng trên chiếc ván, lướt một ngọn sóng, nhưng bây giờ con tưởng tượng người đó thốt lên: “Tôi đã chán chê chuyện lướt sóng rồi. Tôi cho phép mình chìm vào làn sóng, cảm nhận sự chuyển động của đại dương và xuôi chảy với chuyển động của đại dương.”

9.10. Giai đoạn phân liệt của đường tu tâm linh

Hiển nhiên, tự ngã của con sẽ la lớn: “Nhưng nếu bạn xuôi theo đại dương thì bạn sẽ là ai đây? Bạn sẽ không còn là tôi, bạn sẽ không là một cái tôi tách biệt. Tôi sẽ làm gì đây nếu bạn nhập làm một với đại dương, số phận của tôi sẽ ra sao?” Phải công nhận đây là giai đoạn khó khăn nhất trên đường tu tâm linh, qua đó con vẫn quen sống trong các ngã tách biệt, xem mình là một sinh thể tách biệt trong thế gian, nhưng giờ đây con lại bắt đầu cảm nhận được một sự chuyển động nào đó của đại dương của cái ta. Và làm thế nào con sẽ hoà giải cái hố khác biệt đó giữa việc con ở trong một cơ thể vật lý – có thể là con có gia đình, có việc làm, có sự nghiệp, có nhiều trách nhiệm trong thế gian – và đồng thời bên dưới những thứ này, con bắt đầu cảm thấy cử động của đại dương?

Các thày là chân sư thăng thiên hiểu hoàn toàn việc kinh qua giai đoạn này khó khăn đến chừng nào trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Đây gần như là một chuyện tâm thần phân liệt (schizophrenia) vì bản sắc của con bị lôi kéo về những hướng khác nhau. Và con yêu dấu – xin con thật chú ý ở đây – đó là tại sao các thày giảng dạy một con đường tu, một con đường tuần tự, qua đó con tuần tự lột bỏ các ngã tách biệt hầu con không bị sốc, là cú sốc mà một số người đã trải qua khi bỗng nhiên họ cảm thấy điều họ gọi là “cái chết của tự ngã”, hay một trạng thái “vô ngã”,  tức là họ đột nhiên cảm thấy như thể mình không còn ý niệm bản sắc nữa, mình không biết mình là ai nữa và mình trải qua một cơn khủng hoảng bản sắc. Đây không phải là điều các thày giảng dạy trong tư cách chân sư thăng thiên. Các thày giảng dạy một con đường tuần tự.

Có những người phóng chiếu ra là khi con đạt đến tầng 96 thì con giác ngộ – con đã kinh qua một cuộc thức tỉnh tâm linh, con đã giác ngộ tâm linh, và bây giờ con chứng được một trình độ tối thượng nào đó. Nhưng đây chính là điều thường phóng chiếu họ vào cuộc khủng hoảng bản sắc đó, vì làm sao họ sẽ hòa giải được cái hố khác biệt kia? Tất nhiên là họ vẫn còn ngã tách biệt, cho nên rất có thể họ sẽ ngừng lại ở tầng 96, có nghĩa là họ sẽ bắt đầu tuột xuống trở lại, sau một thời gian.

9.11. Kỳ vọng một sự đột phá ấn tượng

Cho nên lý do các thày đã nói với con ở trên tầng 96 còn nhiều bước nữa chính là để con có thể tiếp tục bước chân trên một con đường tuần tự sẽ không đẩy con lao xuống một cuộc khủng hoảng bản sắc, không biết mình là ai nữa và tại sao mình ở đây. Và như vậy, hầu hết các con đã khởi sự bước đi trên con đường này. Điều quan trọng, cực kỳ quan trọng, là con xoay chuyển trong tâm và chấp nhận đây là một đường tu tuần tự, đây phải là một đường tu tuần tự. Có một xu hướng – có lẽ thịnh hành ở phương Tây hơn là ở phương Đông, nhưng vẫn có mặt tại phương Đông – là khi đệ tử tâm linh tìm thấy con đường tâm linh thì họ bước vào tư duy mong muốn một cuộc thay đổi ấn tượng, một sự đột phá ấn tượng, một thành quả ấn tượng qua đó họ đột nhiên thay đổi và giờ đây họ đạt tới một trạng thái cao siêu. Dù họ gọi đó là thức tỉnh hay giác ngộ hay cái chết của tự ngã – hay bất kỳ tên gọi nào hợp thời ở ngoài kia – thì đó cũng là một kỳ vọng, hay một tư duy có khả năng ngăn chặn hoàn toàn sự kết nối đích thực với các chân sư thăng thiên.    

Nhiều người đã dùng tham vọng này để nối kết với những sinh thể ở cõi lý trí hay cả ở cõi bản sắc thấp, và họ nghĩ các sinh thể này phần nào tâm linh. Nhưng đây là một ngõ cụt, một con đường không lối thoát. Một số người khác đã đuổi theo một sự đột phá, mong mỏi rằng nó sẽ xảy đến, và nếu nó không xảy đến với đạo sư này thì họ sẽ tìm kiếm một đạo sư khác. Nếu nó không xảy đến với giáo lý này thì họ tìm kiếm một giáo lý khác. Bởi vì họ đinh ninh rằng một ngày nào đó họ sẽ tìm thấy cái sáng ngộ tuyệt đỉnh kia. Một ngày nào đó họ sẽ gặp được vị đạo sư kia sẽ gõ lên con mắt thứ ba của họ và họ sẽ giác ngộ. Một ngày nào đó họ sẽ đọc được một câu gì đó trong sách và mọi chuyện sẽ vỡ ra, thế là họ giác ngộ.

9.12. Con đường tuần tự ở trên tầng 96

Nhưng đó không phải là con đường các thày giảng dạy. Các thày dạy một con đường tuần tự có nhiều bước giữa các tầng tâm thức 96 và 144, và con bước đi từng bước một để không bao giờ bị lạc lối. Con không bao giờ đánh mất cảm nhận tại sao mình ở đây trong thế gian. Con không bao giờ đánh mất khả năng chu toàn các trách nhiệm của mình. Nhưng mặt khác, con không bao giờ đánh mất hướng đi của mình là đạt tới điểm mình không còn những cái ngã kia phản ứng lại thế gian. Và đó là lúc con trở thành một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ cùng các chân sư thăng thiên hành động xuyên qua con, trong khi con vẫn không đánh mất cảm nhận mình là ai và mình đang đứng ở đâu trên đường tu. Đây là tại sao con có khả năng tuần tự xoay chuyển ý niệm bản sắc của con.

Vậy thày đang nói gì chứ? Thày đang nói là nhiều người mang kỳ vọng là họ có thể đi từ một cảm giác ít nối kết với chân sư thăng thiên rồi đột ngột có được một sự nối kết trọn vẹn. Nhiều người mong mỏi sự đột phá này. Một số còn phóng chiếu ra là sứ giả này có sự nối kết hoàn toàn rộng mở với các thày. Nhưng đây là một kỳ vọng thiếu thực tế. Tiến trình xảy ra tuần tự. Đúng là sứ giả này có sự nối kết với các thày, nhưng phần lớn thời gian ông lo làm một công việc gì đó và ông chú tâm vào công việc này. Thật ông không cần nối kết nhiều lắm với các chân sư để rà đọc lại một bài truyền giảng, là công vịêc ông bỏ ra nhiều thì giờ thực hiện. Ông không cần nối kết nhiều lắm với các chân sư để đi chợ, hay đổ rác, hay dọn dẹp nhà cửa, hay bất kỳ hoạt động nào ông làm trong đời sống thường nhật.

Cho nên việc nối kết với các chân sư thăng thiên không phải là một trải nghiệm thần sầu quỷ khốc nào đó. Phần lớn thời gian khi con làm lụng công việc hàng ngày, con không cần nối kết với các thày, ít ra là con không nhận biết một cách ý thức. Cái Ta Biết chỉ chú tâm vào hoạt động vỏ ngoài, thậm chí chú tâm xuyên qua những cái ngã kia mà con còn sót lại, tùy theo con ở mức nào trên đường tu. Và điều này hoàn toàn tự nhiên thôi, thật trong đó chẳng có gì phản tâm linh. Nhiều người tâm linh có một cái nhìn hoàn toàn thiếu thực tế về thế nào là giác ngộ hay thức tỉnh hay thế nào là một trình độ tâm thức cao.

9.13. Hãy tìm đúng một khái niệm hấp dẫn con

Thày cũng biết thày đã cho con quá nhiều điều để suy ngẫm. Nhưng thày mong con nhận ra là khi các thày trao một bài truyền đọc, các thày không chỉ nhắm vào một người mà nguyên một loạt người khác nhau. Cho nên các thày phải trao một số lời dạy cho những người ở các tầng tâm thức thấp hơn, một số cho các tầng cao hơn, và một số cho những người ở giữa. Đó là tại sao các thày thường đưa ra nhiều khái niệm có vẻ choáng ngợp. Nhưng con không cần tập trung vào tất cả mọi thứ. Con chỉ cần tìm ra đúng một khái niệm nào đó hấp dẫn đối với con, đánh động con ở mức tâm thức hiện thời của con. Xong con chú tâm vào đó, con học tập, con thể nhập, con suy nghiệm, con yêu cầu các thày giúp con nắm bắt và con thực sự thể nhập, và điều này sẽ giúp con bước lên bước kế tiếp. Và rồi có thể lại có một khái niệm khác con có thể tập trung vào. Cho nên con không cần cảm thấy choáng ngợp khi con gặp một bài truyền giảng chứa đựng quá nhiều ý tưởng khiến con nghĩ con bị quá tải. Con chỉ cần tìm đúng một ý tưởng thu hút con và con chú tâm vào đó. Con không quan tâm đến phần còn lại, vì con luôn luôn có thể trở lại sau đó, đọc lại bài truyền đọc, nghe lại bài truyền đọc và tìm ra cái ý tưởng kế tiếp mà con sẵn sàng tiếp nhận.

Vậy để tóm lược bài giảng này, tới một điểm con sẽ thấy lợi ích xem xét điều này: “Đâu là bản sắc tôi có khi lớn lên? Bản sắc này là gì trong nền văn hóa của tôi cho dù ở Hàn quốc hay một nơi nào khác? Người ta tự nhận diện như thế nào, và làm người có nghĩa là gì trong môi trường đó?” Xong con bắt đầu chất vấn bản sắc đó. Con dùng giáo lý tâm linh để hỏi: “Đây có thực là cách duy nhất để làm người hay chăng?” Và con có thể bắt liên lạc với những người đã lớn lên trong một nền văn hóa khác, nhìn ra là con có thể là một loại người khác so với những gì con đã được dạy dỗ, và lần hồi con bắt đầu chất vấn sự thể này. Xong từ từ con nỗ lực phơi bày ý niệm bản sắc chung của mọi con người và con tuần tự chất vấn cái đó. “Liệu tôi có thực sự xa cách tánh linh, tôi có thực sự tách biệt? Có cần thiết tôi phải xem mình là một sinh thể tách biệt, hay tôi có thể tuần tự chuyển đổi bản sắc của tôi?”

Sau đó khi con sử dụng giáo lý và thực hành đọc chú đọc thỉnh, con dần dần chuyển đổi bản sắc của con. Nhiều người trong các con sẽ nhận ra là mình đã đi trên đường tu được nhiều năm và phần lớn thời gian này có vẻ như con không tiến nhiều lắm. Nhưng thỉnh thoảng, có thể đột nhiên con có dịp nhìn ngược lại mình từng ở mức nào mười năm về trước, hay chỉ một năm về trước, và con bỗng nhận ra là con đã có tiến bộ. Bây giờ con không nhìn cuộc đời giống như trước nữa, con không phản ứng lại các tình huống theo cùng một cách nữa. Và đó là lúc con có thể nhận ra là mặc dù đây là một con đường tuần tự, vẫn có vẻ như con đường này đã đưa con lên cao hơn trước rất nhiều. Và đó cũng là lúc con có thể từ bỏ giấc mơ muốn nếm một cuộc xoay chuyển ấn tượng, một sự đột phá ấn tượng nơi con bỗng chốc giác ngộ.

9.14. Ảo tưởng về sự đốn ngộ tối hậu

Các thày biết là trên thế giới có những người tuyên bố là họ đã trải qua một sự giác ngộ tự phát đột ngột. Nhưng đây không phải là đường tu các thày giảng dạy và thày đã giải thích tại sao. Đối với những ai có thể đã có một sự giác ngộ ấn tượng nào đó trong kiếp này, thì điều này chỉ có thể xảy ra vì trong những kiếp trước họ đã bước theo một con đường tuần tự. Có thể họ không ý thức, thậm chí họ còn có thể phủ nhận. Họ có thể phủ nhận là một người có thể bước theo một con đường tuần tự dẫn đến giác ngộ. Như một số đạo sư tâm linh quả quyết, giác ngộ luôn luôn phải tự phát vì con không thể ép buộc nó xảy ra. Đấy, con yêu dấu, con không thể ép buộc nó xảy ra. Nhưng thày đã giảng điều gì trong bài này? Con không thể nối kết hay thức tỉnh xuyên qua những ngã tách biệt phản ứng lại thế gian, nhưng con có thể tuần tự buông bỏ chúng. Và con buông bỏ càng nhiều ngã tách biệt thì cái Ta Biết sẽ càng dễ ngộ ra nó là ai. Nói cho cùng thì đó chính là giác ngộ. Có gì khác nữa đâu?

Nhưng đối với một số người, trải nghiệm ấn tượng là một điều có thể xảy ra, qua đó họ cảm thấy như thể ý niệm bản sắc của họ tan biến mất và họ nghĩ họ đã giác ngộ, nhưng họ có thể vẫn chỉ ở tầng tâm thức 96 thôi. Và như vậy còn sót lại bao nhiêu ngã tách biệt nữa trước khi họ đạt đến tầng 144? Và nếu giờ đây họ tuyên bố là mình đã giác ngộ, nếu họ bước ra ngoài và bắt đầu giảng dạy, rồi họ thu hút đông đảo những người đi theo trầm trồ: “Ồ đúng vậy, vị này đã giác ngộ,” thì liệu họ sẽ bao giờ xem xét những cái ngã còn lại hay không, hay họ sẽ bác bỏ là mình vẫn còn những điểm cần giải quyết? Và nếu họ bác bỏ thì làm thế nào họ sẽ giải quyết được đây? Làm thế nào họ đạt đến mức sẵn sàng thăng thiên?

Trên thế giới ngày nay có những đạo sư tâm linh với rất nhiều người đi theo, và ai ai cũng nghĩ là họ đã giác ngộ. Nhưng họ còn khá xa tầng 144. Và nếu họ không lần hồi tiến lên gần hơn – do họ nghĩ họ không còn gì cần giải quyết trong tâm lý nữa – thì họ sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên sau kiếp này. Tình trạng này đã xảy ra cho nhiều đạo sư suốt các thời đại, đặc biệt trong truyền thống Ấn Độ nơi nhiều vị đã thiết lập đạo tràng. Họ thu nhận nhiều tín đồ và ai nấy đều phóng chiếu là vị đạo sư này đã chứng đạt trạng thái tối hậu. Nhưng các thày đang cố giúp con nhìn ra điều gì? Rằng chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì không có trạng thái tâm thức tối hậu. Cho nên nghĩ rằng mình đã chứng đạt một trạng thái tối hậu nào đó là một ảo tưởng, một ảo tưởng thật nguy hiểm. Bởi vì nếu con không chịu nhìn vào bản thân con thì làm thế nào con sẽ buông bỏ và khắc phục được những cái ngã còn sót lại đang ngăn chặn con thăng thiên? Đây là một cạm bẫy mà các thày mong con là đệ tử trực tiếp sẽ không rơi vào.

Và với lời này, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong lượt này. Thày cảm ơn con đã chú ý. Thày cảm ơn các con đã tổ chức và tham dự khóa nhập thất này, đại hội này. Bởi vì tất nhiên, đại hội này đã cho phép các thày sử dụng luân xa các con để truyền rải vào tâm thức tập thể những xung lực thật mãnh liệt. Có nghĩa là không chỉ các con được hưởng lợi mà hàng triệu người khác cũng được lợi lạc khi xung lực tỏa rộng vào tâm thức tập thể giống như những vòng tròn trên mặt nước. Và do đó nhiều người sẽ đột nhiên nhìn ra một điều gì đó mà trong một thời gian dài họ đã khó lòng nhìn thấy. Họ sẽ nhìn ra mục đích thực của con đường tâm linh. Và họ sẽ tìm ra con đường tâm linh dưới hình thức này hay hình thức khác hấp dẫn nhất đối với họ, và con đường này sẽ đưa họ lên cao hơn.   

Đây là một công việc đáng kể mà các con đã và đang làm khi các con đến với nhau trong đại hội này. Và con hãy nhận sự biết ơn của các thày. Bây giờ thày sẽ đơn giản niêm con trong Ngọn lửa của Chỉ đạo Thiêng liêng mà TA LÀ trên trái đất.

15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

17| Hãy mở tâm để trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư thăng thiên Paul người Venice. Con có thể nghĩ rằng kết nối với các thày tâm linh là một việc khó khăn. Đối với nhiều người quả thật đấy là một điều khó làm, do đó các thày là các Thượng sư đã quyết định là nhiều người sẽ thấy dễ kết nối hơn với vị thày tâm linh qua một trong bảy tia và đặc tính Thiêng liêng của các tia.

Lẽ tự nhiên, Giê-su biết rõ là bài giảng của thày nhắm vào những người ở một tầng tâm thức nào đó, vì đa số không thể chuyển đổi và chấp nhận Ki-tô bên trong họ. Nhiều người sẽ thấy dễ hơn nếu họ tập trung vào một trong bảy tia và các đặc tính của tia này. Do đó, khi họ suy ngẫm, hòa điệu vào đặc tính của tia, đọc các bài chú và thỉnh của tia đó, có thể dùng cuốn sách của tia trong bộ Khóa học Tự điều ngự, thì họ sẽ dễ hòa điệu hơn, trước tiên là với đặc tính của tia và từ đó nhận ra là những đặc tính này được thể hiện và đại diện bởi một vị thày đặc thù, một vị chân sư đặc thù, là một trong các vị Thượng sư.

Nhằm mục đích này, các thày đã quyết định trao truyền một số bài giảng, lẽ tất nhiên không có mục đích thay thế các bài trong Khóa học Tự điều ngự hay các bài khác mà các thày đã giảng về một số tia đặc trưng. Các bài này được thảo ra đặc biệt để giúp các con hòa điệu với một tia sáng và đặc tính của nó. Lẽ dĩ nhiên, thày là chân sư đại diện cho đặc tính của Tia thứ Ba, thường được gọi và được xem là đặc tính của tình thương.

17.1. Tình thương Thiêng liêng khác tình thương nhân gian

Như thày Giê-su đã nói, nhìn theo một khía cạnh nào đó, thày Giê-su là vị chân sư dễ kết nối nhất, nhưng nhìn theo một khía cạnh khác, thày Giê-su là vị chân sư khó kết nối nhất vì những hình ảnh được phóng chiếu bởi Cơ đốc giáo. Giống như vậy, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính của Thượng đế dễ kết nối nhất vì có ai trên trái đất mà không có ít nhất khái niệm về tình thương? Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính khó kết nối nhất vì hầu hết con người có thể có khái niệm về tình thương, nhưng đó không phải là tình thương Thiêng liêng. Họ có khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng.

Lẽ tất nhiên, nếu con bị bao trùm trong hình ảnh của tình thương dựa trên tình thương nhân gian, thì làm sao con hòa điệu và kết nối được với tình thương Thiêng liêng? Điều này không thể làm được. Một lần nữa, nếu quả thực con muốn hòa điệu với tình thương, trước hết con phải xem xét con đã bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, mà thậm chí ta có thể gọi là phản-tình thương, khi con lớn lên trong kiếp này hay có thể ngay cả từ những kiếp trước.

Nhiều người có hình ảnh về tình thương mà đáng lẽ phải gọi là làm chủ hay sở hữu thay vì là thương yêu. Họ nghĩ rằng thương yêu một người là một bổn phận cho nên khi con nói con thương ai đó, thì người kia phải có bổn phận với con. Nếu con có một quan hệ thương yêu với một người, cho dù đó là người phối ngẫu, hay cha mẹ hay con cái, thì con có bổn phận với người đó.

Con thấy là biết bao nhiêu người ở trong một quan hệ được gọi là thương yêu nhưng thực sự họ bị giam trong một loại trò chơi quyền lực trong đó cả hai bên tìm cách làm cho bên kia cảm thấy có bổn phận với mình. Chính họ cũng cảm thấy mình có bổn phận, cho nên họ tìm cách khiến người kia cảm thấy có bổn phận cho mình điều gì đó hay làm điều gì đó đáp ứng nhu cầu của mình. Tình thương này, lẽ tất nhiên, không phải là tình thương Thiêng liêng, vì tình thương Thiêng liêng không tìm cách làm chủ, không tìm cách sở hữu.

Tại sao con cần làm chủ một cái gì nếu con không cảm thấy thiếu thốn? Mọi mong muốn làm chủ phát xuất từ ảo tưởng thiếu thốn, và lẽ tất nhiên tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn. Do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới cái được sáng tạo và đi vào cái được sáng tạo. Thày là đại diện cho tình thương Thiêng liêng nên làm sao thày có thể cảm thấy thiếu thốn? Thày cảm nhận dòng chảy liên tục của tình thương xuyên qua thày, biểu lộ tới mọi người và thày trải nghiệm dòng chảy này vô tận. Nó không bao giờ cạn kiệt.

Dù thày có cho con người trên trái đất bao nhiêu tình thương chăng nữa, thày vẫn không bao giờ cạn kiệt vì thày càng cho nhiều hơn thì thày càng nhận thêm nhiều hơn. Đó là tình thương. Lẽ tất nhiên, khi thày cho tình thương thì thày cho một cách tự do. Thày cho trong trạng thái tâm trung hòa mà các thày đã đề cập, thày không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương, thày không chờ đợi mọi người phải đáp ứng thế nào, họ phải làm gì hay không được làm gì với tình thương đó. Thày không có những ý muốn đó cho nên khi thày nhận được tình thương từ cao trong tự do, thày cũng cho tình thương trong tự do cho tất cả mọi người ở dưới. Thày không tạo ra trong tâm cấu trúc muốn làm chủ, muốn sở hữu, muốn kiểm soát cách người nhận làm gì với món quà của thày. Thày không thực sự cho một món quà, thày chỉ cho phép tình thương chảy xuyên qua thày.

17.2. Con có mở tâm đón nhận tình thương chăng?

Con có thể quán sát điều này. Con có thể quán sát xem con muốn tình thương nhân gian hay tình thương Thiêng liêng. Nếu con muốn tình thương Thiêng liêng thì việc đầu tiên con cần nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả ai muốn nhận nó. Đối với riêng cá nhân con, vấn đề không phải là tình thương Thiêng liêng có được trao cho con không? Câu hỏi duy nhất là con có nhận nó hay không nhận nó? Tình thương Thiêng liêng luôn được trao tặng – đây là một sự thật nhất định. Nhưng nhận tình thương không là một điều nhất định vì hầu hết, ngay cả những người tâm linh, từ chối tình thương vì nhiều lý do.

Việc đầu tiên luôn luôn là nhìn vào các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Một trong những ngã tiềm thức thông thường nhất là ngã nói rằng con không xứng đáng được thương yêu, con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng. Có những ngã khác phóng chiếu rằng: “Ồ, tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt.” Vì nó rất đặc biệt, nên tôi cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu. Nó chẳng đặc biệt mà cũng chẳng không đặc biệt. Không thể gán nhãn hiệu cho nó.

17.3. Tình thương vượt lên trên điều kiện

Một từ mà các thày thường dùng với tình thương Thiêng liêng là “vô điều kiện”. Đây chỉ là một từ khác mà tâm có thể bóp méo và phân tích và nói: Điều này nghĩa là gì? Các sa nhân sẽ luôn luôn phản đối: “Không có cái gọi là tình thương vô điều kiện, ngay cả tình thương của Thượng đế cũng có điều kiện, vì chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức trên hành tinh này và các bầu cõi trước để tạo ra Thượng đế giả, vị Thượng đế giận dữ có điều kiện ở trên trời? Chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để phóng chiếu đấy là vị Thượng đế duy nhất, vị Thượng đế thật duy nhất?” Đây là điều sa nhân sẽ luôn luôn khẳng định và do đó họ sẽ khẳng định là Thượng đế giận dữ có điều kiện ấy, tình thương của ông chỉ có thể có điều kiện và chỉ những ai hội đủ một số điều kiện nào đó (do sa nhân quy định) mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế.

Tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay có thể được quy định bởi các sa nhân trong tư duy nhị nguyên. Bởi chưng, bất kỳ điều gì, bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định, đều là một điều kiện tương đối trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng. Đây là bí ẩn, thách đố cho các con chiêm nghiệm: sự khác biệt giữa tình thương nhân gian có điều kiện và tình thương Thiêng liêng, vượt lên trên các điều kiện.

Vì ảnh hưởng của người khác, con đã quá quen với khái niệm cho rằng để nhận được tình thương từ người khác, thì con phải hội đủ một số điều kiện. Đa số các con đã nhận được hình ảnh này từ cha mẹ, tuy không nhất thiết là họ phóng chiếu một cách ý thức hình ảnh này lên con. Họ chỉ giản dị có hình ảnh về tình thương có điều kiện này từ cha mẹ họ phóng chiếu và họ làm được gì khác ngoài việc truyền lại hình ảnh đó cho con? Họ không biết là có một cách thương yêu khác.

17.4. Thượng đế có điều kiện của tôn giáo có tổ chức

Con tìm được một tình thương khác với tình thương có điều kiện ở đâu trên thế giới? Chắc chắn con không tìm thấy nó nơi các tôn giáo coi mình phát xuất từ Abraham hay đa số các tôn giáo khác. Tôn giáo là gì? Tất cả những tôn giáo lớn, có tổ chức, được chính thức hóa, hệ thống hóa đều là dụng cụ của sa nhân để kiểm soát dân chúng. Làm sao một tôn giáo như thế có thể dạy về tình thương vô điều kiện hay cho tình thương này cho con người?

Con chỉ có thể có một tổ chức lớn có quyền lực trên con người nếu những người này nghĩ rằng giới lãnh đạo tổ chức rất đặc biệt và ở tầng mức cao hơn họ. Do đó, mọi người phải tuân theo một số điều kiện thì mới được các nhà lãnh đạo chấp nhận. Hình ảnh này được phóng chiếu tiếp tục lên tới vị Thượng đế giận dữ ở trên trời cho nên nhiều người ngày nay tin rằng tình thương của Thượng đế có điều kiện. Điều này tất nhiên là sự ngạo mạn, sự kiêu căng tâm linh của sa nhân tin rằng họ có thể quy định một Thượng đế và phóng chiếu hình ảnh đó. Sau đó, thậm chí họ còn ngạo mạn tin rằng Thượng đế tuân theo hình ảnh của họ, hình ảnh khô chết, hình ảnh có điều kiện. Rất ít người chịu suy nghĩ về hình ảnh vị Thượng đế có điều kiện và suy ngẫm xem nó thật sự có lý không. Nếu Thượng đế vượt quá thế gian, nếu Thượng đế đã sinh tạo thế gian, thì tại sao Thượng đế phải tuân thủ một hình ảnh được tạo ra trong thế gian?

17.5. Thượng đế vượt lên trên các hình ảnh nhân gian

Một hình ảnh có hình tướng. Con sống trong thế giới hình tướng. Con người nhìn các hình tướng thấy được trên trái đất, họ nhìn thấy các hình tướng của chính tâm lý của họ, tâm lý nhị nguyên, tâm tách biệt và họ dùng những hình tướng này để tạo dựng những hình ảnh và sau đó phóng chiếu những hình ảnh này ra ngoài. Họ phóng chiếu hình ảnh lên Thượng đế, nhưng nếu Thượng đế vượt lên trên hình tướng thì làm sao Thượng đế lại có thể tuân theo hay bị gò bó trong bất kỳ hình ảnh nào được tạo ra trong thế giới hình tướng?

Nếu Thượng đế là nguồn gốc của hình tướng thì há chẳng hợp lý sao là Thượng đế vượt quá hình tướng? Chúng ta không hoàn toàn chính xác khi nói Thượng đế vô hình tướng vì đấng Sáng tạo có cá tính, nhưng chắc chắn cá tính này vượt lên trên mọi hình tướng tìm thấy trong thế giới hình tướng. Làm sao hợp lý được khi con người trên hành tinh này, một hành tinh rõ ràng là lạc hậu, lại có thể tạo ra một hình ảnh về Thượng đế và Thượng đế sẽ tuân theo hình ảnh này? Lẽ tự nhiên, sa nhân sẽ nói đây không phải là một hình ảnh về Thượng đế vì Thượng đế chính là như vậy. Một lần nữa, con hãy nhìn vào hầu hết các thượng đế do các tôn giáo trên thế gian miêu tả và sẽ thấy vị Thượng đế này có hình tướng, Thượng đế này có điều kiện và tình thương của Thượng đế đó có điều kiện.

Khoa học cho con biết là mọi sự đều được tạo ra từ năng lượng. Năng lượng đã khoác vào hình tướng của những vật mà con thấy trong thế giới vật chất, mà con thấy được bằng giác quan hay bằng tâm. Các vật này đều có một hình tướng khác biệt phân biệt vật này với vật kia, nhưng năng lượng đã tạo mọi hình tướng từ đâu đến? Nó đến từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Có lý chăng khi cho rằng năng lượng tạo hình tướng cũng có cùng hình tướng?

Chẳng phải có lý hơn là năng lượng vượt lên trên hình tướng? Nó hơn bất kỳ hình tướng nào mà con có thể thấy trong thế giới này. Do đó, một trong những năng lượng được dùng để tạo ra thế giới hình tướng là tình thương, tình thương Thiêng liêng, nhưng tình thương này vượt lên trên mọi hình tướng trong thế giới này. Ánh sáng trắng trong máy chiếu phim vượt lên trên những màu sắc trên màn ảnh. Ánh sáng này khoác vào màu sắc khi nó đi xuyên qua cuộn phim, nhưng ánh sáng trắng vượt lên trên những hình ảnh trên cuộn phim.

17.6. Con không nhận được tình thương qua ngã phản ứng

Nếu con muốn kết nối với tình thương Thiêng liêng, con phải bắt đầu bằng cách nhận ra là nó không tuân theo những điều kiện do con người quy định. Con phải sẵn sàng nhận chân rằng chuyện không thể tránh được là trong kiếp này và các kiếp trước, con đã tạo ra những ngã phản ứng lại những hình ảnh về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Một cái ngã không thể hiểu thấu khái niệm tình thương vô điều kiện. Nó không thể xử lý khái niệm này. Con không thể trải nghiệm tình thương Thiêng liêng xuyên qua một ngã như thế. Đó là lý do tại sao con cần phơi bày ngã, thấy ảo tưởng, buông bỏ nó. Lẽ tất nhiên đây là mục đích chính của giáo lý của các thày, đặc biệt là cuốn sách do thày trao truyền trong khóa học tự điều ngự. Con có thể tiến triển trong công việc này bằng cách làm một bài thiền tập có vẻ giản dị, thậm chí có vẻ thô sơ vì nó không cần lý luận trí năng phức tạp nào.

17.7. Bài thiền tập về Tình thương

Bài thiền tập mà thày đề nghị giản dị như sau. Con ngồi trong tư thế thoải mái trong một căn phòng yên tịnh, con khép mắt lại và con nhắc nhẹ nhàng trong tâm câu thần chú:

Tình thương là, Tình thương là.

Con sẽ nhận thấy là trong con có thể khởi lên một phản ứng với câu đó. Có một cái tâm, một cái ngã muốn nói: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích. Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.”

Nếu con chịu xem xét phản ứng này, thì nó có thể giúp con phơi bày một số những ngã tiềm thức đó. Vì lúc đó con có thể nói, à tâm của tôi nói tình thương phải là gì? Con hãy cho phép tâm con nói hết câu tình thương là và cho phép tâm con gán cho tình thương những đặc tính. Giờ đây con đã đưa tâm con vào tình trạng khó xử, vì khi tâm nói tình thương là thế này, thế nọ, thì con đã phơi bày một trong những ngã tiềm thức đang cầm giữ một hình ảnh do con người tạo ra về Thượng đế, về tình thương.

Lúc đó con có thể làm việc với ngã này cho tới khi con thấy nó và con có thể buông bỏ nó. Nếu tâm làm những gì nó được lập trình để làm, nếu nó nói hết câu, thì nó phơi bày ngã ra. Điều khôn ngoan nhất tâm có thể làm là lặng thinh nhưng tâm có thể lặng thinh chăng? Thường thì không đâu. Con thấy đây là một bài tập rất, rất giản dị, một bài thiền tập rất, rất giản dị, nhưng nó có thể vô cùng hữu hiệu. Nếu con muốn, con có thể dùng bài tập này để trải qua một giai đoạn trong đó con làm việc với những ngã đang cầm giữ những hình ảnh về tình thương có điều kiện, một điều kiện nào đó. Con có thể tới điểm mà con chỉ ngồi và lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Con không cần thêm phần cuối vào câu nói. Con không cần gán đặc tính lên tình thương. Con có thể cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Đây là lúc con có thể kết nối và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức. Con không thể hiểu nó, không thể nắm bắt nó với tâm. Khi con bắt đầu trải nghiệm nó, thì con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt nó, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài.

Tâm có thể khiến con chia trí và không tập trung vào tình thương Thiêng liêng nhưng nó không thể gạt tình thương Thiêng liêng ra ngoài vì các ngã tách biệt, các ngã tiềm thức chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt. Phin lọc nhận thức của con, như các thày đã gọi nó, chỉ có thể lọc ra những gì có đặc tính, chỉ có thể ngăn chận cái gì có đặc tính. Cái không có đặc tính mà tâm nhị nguyên có thể nắm bắt, cái đó sẽ đi xuyên qua rào cản của phin lọc nhận thức. Lúc ấy con có thể một lần nữa dùng bài thiền tập giản dị để vô hiệu hóa tâm đường thẳng muốn đặt tình thương vào một tiến trình đường thẳng, một thước đo đường thẳng với hai đối cực nhị nguyên, như tình thương chân thật. 

17.8. Chỉ có tình thương Thiêng liêng mới có thể khiến con mãn nguyện

Con hãy xem xét khái niệm đã thấm vào tâm thức tập thể: tình thương thật đối ngược với tình thương giả. Làm sao tình thương có thể thật hay giả? Tình thương có điều kiện có thể thật hay giả, nhưng tình thương Thiêng liêng làm sao có thể thật hay giả? Làm sao con có thể gán những khái niệm thật và giả lên một đặc tính thiêng liêng? Đây là điều mà tâm muốn làm, vì qua đó nó cảm thấy nó đang nắm quyền kiểm soát. Tâm cảm thấy vì nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác, có được điều nó muốn và vượt qua được cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Một khi con bước vào tách biệt, con sẽ cảm thấy thiếu thốn vì con không nhận được các đặc tính thiêng liêng là điều duy nhất có thể thực sự khiến con mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Ngã tách biệt không thể hiểu và nắm bắt điều này, nhưng cái Ta Biết lẽ dĩ nhiên hiểu được. Con có thể tới điểm con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Nếu con muốn tình thương, con có nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt. Không gì có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt, nhưng cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã đó và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được.

Con có nhận bao nhiêu tình thương nhân gian chăng nữa, nó vẫn không thể thỏa mãn con. Tình yêu nhân gian có thể khiến con xao lãng một thời gian ngắn khi con đang yêu ai đó, nhưng sớm muộn thì tuần trăng mật cũng chấm dứt. Cái Ta Biết có thể tới điểm nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

17.9. Bài thiền tập chấp nhận Tình thương

Một khi con đã làm xong bài thiền tập “Tình thương là,” thì thày đề nghị bước kế tiếp. Một lần nữa, con vào một phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và trong tâm con lặp lại câu thần chú, “Tôi chấp nhận tình thương.”

Một lần nữa, con có thể khám phá một phản ứng. Tâm có thể có nhiều phản ứng hay lý do vì sao con không thể giản dị chấp nhận tình thương. Một lần nữa, có thể có những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương, và lúc đó con có thể làm việc với các ngã này. Con có thể tới điểm có thể lặp lại câu thần chú này, “Tôi chấp nhận tình thương”, và tiếp tục lặp lại cho tới khi con trải nghiệm nó.

Tâm con vẫn sẽ tìm cách xen vào vì nó sẽ nói: “À, ông thày nói nghe có vẻ hay, ông nói về tình thương, ông nói về tình thương vô điều kiện, nhưng tình thương vô điều kiện như thế nào? Cảm giác khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện như thế nào? Nói cho tôi biết đi, bởi vì làm sao bạn có thể biết bạn đang nhận được tình thương vô điều kiện nếu bạn không thể mô tả nó, và ông ấy thì nói là tình thương này vượt quá các đặc tính, vượt quá hình tướng. Làm sao bạn có thể biết được bạn đã trải nghiệm nó?”

17.10. Tâm không thể nào trải nghiệm tình thương Thiêng liêng

Đây là điều tâm sẽ làm, đây là thủ thuật mà tâm dùng để khuynh loát con. Giải pháp cho điều có vẻ bí ẩn này rất ư giản dị. Con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Thày có thể bảo đảm với con là khi con trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Như các thày đã nói, tâm quan sát mọi vật từ một khoảng cách. Nó tạo ra một tâm ảnh và sau đó nó phóng chiếu rằng tâm ảnh chính là vật. Tâm muốn tạo ra một hình ảnh về trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nghĩa là gì, cảm thấy nó như thế nào.

Con hãy bảo tâm con mô tả cảm giác khi ăn một trái táo và con sẽ thấy là tâm bị kẹt. Con có cần ai mô tả cảm giác khi ăn một trái táo chăng? Hay con có thể giản dị vào cửa hàng thực phẩm mua một trái táo và cắn một miếng? Tại sao con cần mô tả khi con có trải nghiệm trực tiếp? Cũng thế thôi với tình thương Thiêng liêng. Tại sao con cần mô tả cảm giác như thế nào? Con hãy mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và thày có thể bảo đảm với con trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được. Con không hề nghi ngờ con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm. Tâm không thể trải nghiệm nó.

Các thày muốn ngụ ý gì khi nói về tâm, tâm đường thẳng, tâm phân tích? Nếu thày hỏi con, tâm con ở nơi nào trong thân thể con? Chắc hẳn hầu hết các con sẽ chỉ vào đầu, vào bộ óc và nói chính bộ óc là cái đang suy nghĩ. Tâm nằm trong bộ óc và đây là một hình ảnh tiện dụng.

Lẽ đương nhiên, con không thể hiểu nó theo nghĩa đen vì tâm nhiều hơn bộ não, nhiều hơn sinh hoạt của bộ não. Tâm đường thẳng, lý luận, phân tích quá ăn khớp với não bộ và các chức năng của não bộ nên, khi con xem xét thân vật lý và năng trường của con, thì nói rằng tâm nằm trong đầu, trong não bộ là chuyện hợp lý.

Con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng ở đâu? Không phải trong đầu mà nơi luân xa trái tim và nó không ở trong đầu. Tại sao con cần tâm đường thẳng suy nghĩ để trải nghiệm tình thương Thiêng liêng chứ? Con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm tình thương Thiêng liêng, giống như con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm hương vị trái táo. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì đứng đó và suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo?

Ấy, tâm sẽ phản đối: “Nhưng giả dụ tôi không thể đơn giản cắn nếm tình thương? Cắn một miếng táo thì dễ, nhưng làm thế nào để cắn một miếng tình thương Thiêng liêng? Trái táo thì có hình tướng tôi nắm bắt được. Thày nói tình thương Thiêng liêng không có hình tướng. Vậy thì làm sao tôi cắn một miếng được?” Lại thêm một lần nữa và một lần nữa, con thấy tâm làm điều duy nhất nó có thể làm, đó là nắm bắt một hình tướng: “Hãy cho tôi cái gì tôi có thể cầm giữ.”

17.11. Vô hiệu hóa tâm

Một lần nữa, cái Ta Biết có thể nhận biết tâm và cách vận hành của tâm, và có thể quyết định tìm cách vô hiệu hóa tâm, bước ra ngoài tâm và đây chính là công dụng của câu thần chú: “Tình thương là.” Ta có thể coi nó như một công án, và như mọi công án mục đích của nó là làm cho tâm bị rối loạn, mờ tối và vô hiệu hóa. Con không thể suy nghĩ để tìm ra lời giải cho một công án vì lời giải cho một công án là một trải nghiệm vượt quá tâm suy nghĩ.

Khi con đã dùng câu thần chú “Tình thương là,” và “Tôi chấp nhận tình thương,” thì một số người có thể lợi lạc nếu gán ghép tình thương Thiêng liêng với một hình tướng con người (nếu con không thể nắm bắt và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng như một đặc tính hoàn vũ). Lẽ tất nhiên, điều dễ nhất là con tập trung vào thày là Thượng sư của tia thứ ba.

17.12. Dùng bài chú như một thần chú

Con có thể đọc bài chú của thày, con có thể tìm hiểu sách của thày. Nếu con cảm thấy dễ kết nối hơn với một Đại thiên thần hay một Elohim thì con hãy làm thế, nhưng hầu hết mọi người sẽ cảm thấy dễ kết nối với vị Thượng sư hơn vì các thày gần người đang hiện thân trong cõi vật lý hơn. Các thày đang làm việc trực tiếp hơn với các con. Con cứ dùng bất cứ cách nào giúp con hòa điệu với thày. Một lần nữa, tâm sẽ nói: “Vâng, vậy hãy cho tôi một hình ảnh, cho tôi một chân dung. Chân dung của chân sư đó đâu?”

Con sẽ thấy là với các đợt truyền giáo trước có chân dung các chân sư và nhiều người dùng các chân dung này để hòa điệu với vị chân sư, ít nhất là hòa điệu phần nào. Dùng một tấm hình không nhất thiết là sai nhưng với các con trong đợt truyền giáo này, các con không cần hình ảnh vì đôi khi hình ảnh có thể ngăn chặn trải nghiệm vì con tập trung vào hình ảnh và do đó con cho tâm một cái gì đó để nắm giữ.

Thay vào đó, thày đề nghị con lấy bài chú của thày, con đọc hết bài chú và con tìm hai câu nào đặc biệt thu hút con và con dùng hai câu này như câu thần chú. Con chỉ lặp lại hai câu này trong tâm, con thiền quán về hai câu này, chiêm nghiệm chúng hay chỉ lặp lại mà không nghĩ về chúng. Khi con có ý tưởng khởi lên và con nhận biết mình đang suy nghĩ, thì con chỉ trở về với hai câu đó, bất kỳ hai câu nào mà cá nhân con đã chọn.

Thày sẽ không cho con một ví dụ vì thày không muốn bỏ bất cứ gì vào tâm con. Con đọc bài chú chậm rãi, quán chiếu nó và coi xem có hai câu nào nổi bật, rồi con dùng hai câu đó như câu thần chú để hòa điệu với thày. Thày là một vị chân sư dễ hòa điệu với vì tình thương ở khắp mọi nơi. Làm sao con tìm thấy được nơi nào không có tình thương? Thày đại diện tình thương Thiêng liêng trên địa cầu giống như Giê-su đại diện tâm Ki-tô.

Như Giê-su đã nói, con không thể tách biệt khỏi tâm Ki-tô vì làm sao con có thể tách biệt khỏi cái ở khắp nơi? Tình thương Thiêng liêng cũng vậy. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù. Đây là một hình ảnh khác mà con cần vượt qua vì các sa nhân đã phóng chiếu điều gì từ rất lâu nay? Trên trái đất có những nơi linh thiêng. Có một số nơi đặc biệt và ở đó con có thể có một ngôi đền, một ngôi đền tình thương Thiêng liêng và nếu con tới đó, con sẽ trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Đây lại là một ảo tưởng vì khi tình thương Thiêng liêng có khắp nơi, tại sao con cần tới một nơi đặc biệt? Người Cơ đốc giáo đã phóng chiếu vì Giê-su xuất hiện ở Israel, đấy phải là đất thánh, nhưng như Giê-su đã giải thích, đó là nơi con người bị mắc kẹt nhiều nhất trong tâm thức sa ngã. Con không thể quy định là một nơi nào đó trên trái đất có một sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao. Các dụng cụ này trông có vẻ giản dị nhưng chúng hiệu quả vô cùng, nếu con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm bằng cách khắc phục những ngã tách biệt luôn phóng chiếu ra ngoài

Tình thương bị tha hóa muốn kiểm soát. Tình thương Thiêng liêng không thể bị kiểm soát. Nếu con tìm cách kiểm soát nó bằng cách ép nó vào một hình tướng nào đó, nó sẽ lướt qua con, con sẽ không nhận thấy nó, con sẽ không trải nghiệm nó. Khi con có thể mở tâm ra đón nhận nó, nó sẽ tuôn chảy xuyên qua con. Không cần phải thắc mắc điều này vì đây là điều tình thương làm, đây là điều tình thương là: Một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất, để nhắc nhở thế giới vật chất, để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương và đây có thể là một câu thần chú khác mà con có thể sử dụng nếu con cảm thấy nó giúp ích con.

Trong tình thương lớn, trong lòng biết ơn lớn, thày niêm con trong Tia sáng Thứ ba của Tình thương Thiêng liêng mà THÀY LÀ cho địa cầu. TA LÀ Paul người Venice.

19 | Tự gia tốc vượt lên trên tiêu chuẩn nhị nguyên về sự tinh khiết

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Tia sáng thứ Tư có thể giúp gì cho các con để các con hòa điệu được với các thày? Sẽ không có nhiều người có thể hòa điệu được với Tia thứ Tư, nhưng lẽ tất nhiên luôn luôn có một số sẽ hiểu, sẽ nắm bắt, sẽ hòa điệu, sẽ cộng hưởng được với Tia thứ Tư.

Tia thứ Tư gần như nằm ở điểm kết nối giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng kế tiếp, do đó nó đòi hỏi các con phải bước lên cao hơn. Trước đây thày gọi nó là Tia của Gia tốc, dù rằng theo truyền thống nó được xem là Tia của Tinh khiết. Thật ra cả hai là một bởi vì con đạt được tinh khiết bằng cách nào? Chỉ bằng cách gia tốc sự rung động của cái có rung động thấp hơn, và lẽ dĩ nhiên một rung động thấp hơn là định nghĩa của bợn nhơ. Thật ra không có gì hoàn toàn ô trược theo nghĩa nhị nguyên, nhưng có rung động cao hơn và rung động thấp hơn, và những rung động thấp hơn một mức nào đó là cái mà chúng ta coi là bợn nhơ. Bởi vì dù sao chăng nữa thì tất cả đều là năng lượng, nên năng lượng thấp luôn luôn có tiềm năng gia tốc và trở nên tinh khiết, trở thành năng lượng cao chảy về phía trên. Năng lượng thấp chảy về phía dưới, năng lượng cao chảy về phía trên.

Sẽ có một số người có sự đồng cảm với Tia thứ Tư. Có thể họ thích cái gì tinh khiết, cái thường giản dị, không phức tạp, không bị quấy nhiễu bởi nhiều cách diễn giải hay nhiều khía cạnh khác nhau. Quả thật, khi con nhìn vào rung động, khi con có thể đọc sự rung động, thì diễn giải trí năng đâu còn chỗ đứng nữa? Ta có thể coi đây là một điều mà khoa học đã đem vào thế gian, rằng con có thể đo lường chính xác, được gọi là khách quan, và không cần bàn cãi gì nhiều nữa. Nhiệt độ hoặc là 20 độ hay 40 độ, nhưng con có con số chính xác và lẽ tất nhiên, rung động cũng vậy.

19.1. Dụng cụ để hòa điệu với Tia thứ Tư

Làm sao con hòa điệu với Tia thứ Tư? Lẽ tất nhiên con có thể làm bằng nhiều cách. Các bài chú và bài thỉnh trong quyển Những Khai ngộ thần bí về Ý định, sách của thày trong bộ Con đường dẫn tới Tự điều ngự, đều có thể giúp con hòa điệu, nhưng như các thày khác đã giải thích, các thày đã quyết định cho các con những dụng cụ trông có vẻ giản dị hơn.

Dụng cụ đầu tiên thày muốn trao cho con như sau: Con ngồi yên, khép mắt và rút sự chú ý vào bên trong. Có một trung tâm trong bản thể con. Con có thể thấy trung tâm đó ở bất kỳ đâu, không nhất thiết là luân xa gốc hay luân xa trái tim hay một luân xa đặc thù nào khác. Con rút sự chú ý vào trung tâm đó cho tới khi nó đi vào một điểm mà khoa học gọi là điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi. Con không hình dung điều gì sẽ xảy ra, con chỉ đơn giản cho phép nó xảy ra. Cái xảy ra giống như một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con. Đây là một bài hình dung và thiền tập rất giản dị. Con rút sự chú ý của con vào điểm dị biệt nơi trung tâm và sau đó cho phép ánh sáng nổ bùng ra ngoài.

Thày không khuyên con làm bài tập này suốt ba tiếng đồng hồ mỗi lần. Có thể con chỉ nên làm bài tập này ba lần khi con bắt đầu để không bị quá tải. Bài tập này có nhiều sức mạnh giúp con cảm nhận sự chiếu tỏa của Tia thứ Tư của Tinh khiết, là ánh sáng trắng đến độ nó trắng hơn bất cứ thứ gì con thấy trong bát cung vật lý. Nếu con có bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể, thì con có thể làm bài tập này và chú tâm vào nơi đau trong cơ thể và cho phép ánh sáng tỏa rạng ra. Con không ép ánh sáng hay đẩy ánh sáng ra, con chỉ đơn giản rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

19.2. Tâm đường thẳng muốn khiến mọi chuyện phức tạp

Một lần nữa, đây là một bài tập giản dị, nhưng sự giản dị thường là chìa khóa của thay đổi. Thay đổi, vượt thăng không phức tạp. Con không thể vượt thăng bằng cái tâm muốn khiến mọi chuyện thêm phức tạp vì như vậy nó cảm thấy cao trội hay tinh vi và cảm thấy nó đã tìm ra cách dùng sức mạnh để xông vào thiên đường. Đó là điều tâm muốn làm, không cứ là tự ngã nhưng tâm đường thẳng cũng vậy. Dù các thày nói về tâm đường thẳng, nhưng các thày không muốn tố cáo tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng có chỗ đứng của nó, có chức năng của nó. Nó có thể giúp con làm nhiều, nhiều chuyện trong thế giới vật chất.

Khoa học, như con được biết đến, phần lớn dựa trên tâm đường thẳng. Lẽ tất nhiên đó cũng là lý do vì sao khoa học ngày nay đã tạo ra những vấn đề có thể trở nên mối đe dọa lớn cho tương lai của hành tinh này, cho dù đó là chiến tranh nguyên tử hạch nhân, nạn ô nhiễm hay bất kỳ vấn đề nào khác. Tâm đường thẳng có một chức năng. Nó có một chỗ đứng, nhưng nếu cho phép nó cai quản thì nó phải tạo ra vấn đề. Nó sẽ gây vấn đề. Do đó tâm đường thẳng sẽ không dẫn con vào thiên đàng. Một khi con tìm ra con đường tâm linh và bắt đầu học một giáo lý tâm linh, thì tâm đường thẳng có thể bắt đầu tin rằng nó có thể đưa con lên thiên đàng vì tâm đường thẳng nhìn mọi chuyện theo một cách nào đó.

Có thể con đã có nghe câu ngạn ngữ tiếng Anh: nếu dụng cụ duy nhất mà con có là cái búa thì con sẽ nghĩ tất cả mọi vấn đề đều là cái đinh. Tâm đường thẳng chỉ có dụng cụ duy nhất là sự phân tích, lý luận. Cho nên nó nghĩ mọi vấn đề đều có thể giải quyết được bằng phân tích, lý luận, tìm hiểu vấn đề. Tâm đường thẳng nghĩ rằng một khi nó hiểu vấn đề, thì nó có thể giải quyết vấn đề bởi vì nếu con có hiểu biết đường thẳng thì con sẽ thấy một giải pháp đường thẳng. 

Lẽ tất nhiên, “vấn đề” tăng triển tâm linh không có giải pháp đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển tâm linh là một vấn đề. Nó nói: “Tôi đang ở đây. Đáng lẽ tôi không được ở đây. Đáng lẽ tôi phải ở trong một trạng thái tâm linh cao hơn. Thế nào cũng có một trình tự đường thẳng tới trạng thái đó, và nếu tôi hiểu ra cơ chế đưa tới trình tự đó thì lúc ấy tôi sẽ có thể vào thiên đàng.” Lẽ tất nhiên, các thày đã cho các con khái niệm về con đường tâm linh và 144 tầng tâm thức, đây là điều mà tâm đường thẳng rất thích. Các thày cũng đã nói rất nhiều lần là các con không tiến bộ được trên con đường tâm linh bằng cách hiểu. Điều quan trọng là xoay chuyển tâm thức và điều này không thể thực hiện bằng hiểu biết trí năng. Điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48. Họ đã đi vào tách biệt. Họ đã bị choáng ngợp và mù quáng bởi trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi đó có một thước đo với hai đối cực cực đoan. Khi con theo lối suy luận nhị nguyên này thì con nghĩ một đối cực là vấn đề, là điều kiện cần khắc phục, và đối cực kia là giải pháp, là điều kiện cần đạt tới. Tâm đường thẳng sẽ suy nghĩ: “Làm sao chúng ta có thể tiêu trừ vấn đề? Làm sao chúng ta có thể đem lại giải pháp?”

19.3. Tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó

Như Phật khi xưa tìm cách dạy con người khái niệm Trung đạo, giải pháp không phải là một trong hai đối cực nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, thăng vượt tầng mức tâm thức thấy có hai đối cực. Tâm đường thẳng không làm sự thăng vượt này vì chính nó đã quy định các đối cực, quy định thước đo và tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó. Nó có thể lý luận trên một số đề tài nhưng nó không thể thăng vượt chính nó. Cái Ta Biết có thể thăng vượt chính nó vì nó có tự nhận biết, trong khi tâm đường thẳng giống như một máy tính nhưng nó là một máy tính tinh vi có thông minh nhân tạo và do đó có thể thích ứng.

Tâm đường thẳng có thể học thêm và thêm nữa. Nó có thể thích nghi với một số điều kiện. Con gần như có thể coi tâm đường thẳng giống như một trong những rô-bốt mà con người đã chế tạo và có vẻ như có khả năng suy nghĩ như con người. Con có thể nói là con rô-bốt suy nghĩ giống cách hầu hết con người nghĩ vì họ nghĩ với tâm đường thẳng. Dẫu thế, một máy tính không thể vượt quá lập trình của nó, nó không thể vượt thăng lập trình của nó, và tâm đường thẳng cũng vậy. Cái Ta Biết có thể vượt thăng chính nó, vì nó không có lập trình khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết.

Điều gì giúp con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Như các thày đã nói, điều cốt yếu là tinh lọc các thứ trong bốn thể phàm của con đang lôi kéo sự chú ý của cái Ta Biết vào ngã tách biệt, vào phin lọc nhận thức, vào ý niệm bản ngã đó. Khi con đã trong lọc đúng mức, thì cái Ta Biết có thể rút ra khỏi ngã tách biệt dễ dàng hơn.

19.4. Bài tập để làm rối tâm đường thẳng

Thày cho con một bài tập khác có thể giúp con với chuyện này. Một lần nữa, con hãy ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, và bây giờ con tưởng tượng, con hình dung con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, một mặt phẳng hoàn toàn bằng phẳng, tuyệt đối bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Bây giờ con hãy rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con. Con không tỏa rạng ánh sáng mà để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài, con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng. Có thể là tập trung nơi hai mắt sẽ giúp con dễ hình dung nhất. Hai mắt con kéo về trung tâm và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Con cứ thong thả làm bài tập này. Con không cần làm nhanh. Lúc mới đầu, con có thể cảm thấy rất bị rối, mất phương hướng, thậm chí rất khó thực hiện, nhưng sau khi tập một lúc, con sẽ thấy là sự chuyển động đi vào bên trong đi ra bên ngoài khiến tâm đường thẳng bị rối và con có thể tới được điểm cảm thấy một sự yên tĩnh nào đó, một sự im lặng nào đó trong tâm. Lúc ấy, con thôi không chú tâm đi vào bên trong đi ra bên ngoài nữa. Con chỉ chú tâm vào sự yên tĩnh đó, con mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt. Con đơn giản để chú ý của con đi ra ngoài và tiếp tục ra ngoài, kéo giãn nó ra xa thật xa và xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại. Con có thể lặp lại nhiều lần. Hoặc con có thể đơn giản cho phép sự chú ý của con nghỉ ngơi khi con đã kéo nó ra xa tối đa, nếu con cảm thấy làm vậy tự nhiên hơn.

Một lần nữa, đây là một bài tập rất giản dị, hay ít nhất nó có vẻ giản dị. Tâm sẽ không thể nắm được mục tiêu của bài tập. Nó sẽ nói: “Mục đích là gì vậy? Bài tập này dẫn tới đâu? Bài tập này đem lại gì cho tôi?” Con thấy chăng, ý chính của bài tập là không có ý gì, bài tập không có mục đích, không có chỉ tiêu mà con phải đạt. Con chỉ trải qua tiến trình và cho phép nó trải bày. Khi thày nói không có mục đích gì, lẽ tất nhiên, thày muốn nói là không có mục đích mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt được.

Con sẽ thấy là ngoài thế gian có nhiều kỹ thuật thiền định luôn luôn hứa hẹn là con sẽ đạt được một thành quả nếu con tập theo đúng kỹ thuật. Thày sẽ không hứa hẹn thành quả, thày sẽ nói là nếu con cảm thấy bài tập thu hút con, thì con cứ tập. Nếu nó không thu hút con, thì con quên nó đi. Nếu con quyết định tập, thì con hãy dành chút thời giờ và xem chuyện gì xảy ra. Thay vì bắt đầu với một mục đích và tiến tới mục đích, con hãy coi mục đích của bài tập chỉ là thử nghiệm, tham gia tiến trình và xem nó trải bày ra sao. Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ phản đối: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Con thấy chăng, tâm đường thẳng không đi đâu cả. Đấy chính là ý nghĩa bài tập và cũng có thể nói là con cũng không đi đâu cả. Cũng có thể là con sẽ đi, khi an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa, khi con trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

19.5. Cốt lõi của con đường tâm linh ở các tầng cao

Có nhiều đệ tử, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, đã nghĩ rằng Tia thứ Tư rất nghiêm khắc, rằng thày là người rất trọng kỷ luật. Thật vậy không, tại sao họ lại nghĩ thế? Họ nghĩ thế vì họ chưa nhận được giáo lý về các ngã tách biệt, cho nên họ không thật sự hiểu cơ chế vận hành mà các thày đã trao truyền – rằng cốt lõi của tăng triển tâm linh là tới chỗ nhận ra các ngã tách biệt và buông bỏ chúng. Do đó, họ nghĩ họ phải ép mình vào kỷ luật, cố gắng kiểm soát tâm, áp chế tâm, đi theo một con đường tu được xác định rõ ràng. Họ nhìn con đường tâm linh khác với các con nhìn. Một lần nữa, các thày không chỉ trích, các thày không tìm lỗi, các thày chỉ giản dị cho thấy là với tiến trình tiết lộ tuần tự, các thày có thể trao truyền một hiểu biết càng ngày càng cao hơn về con đường tu.

Như các thày đã nói, từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con cần có kỷ luật, chú tâm để nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng. Khi con đã thoát đủ sức hút xuống của tâm thức đại chúng, thì con có thể lợi lạc hơn nếu con xét lại cách con nhìn con đường tu. Con hiểu là ở đây thày không bác bỏ những gì được dạy trong các đợt truyền giáo trước. Rõ ràng là con không thể tiến lên khỏi tâm thức đại chúng nếu con lười biếng, không tập trung hay thiếu miên mật. Con không thể tà tà trong việc tăng triển tâm linh vì tâm thức đại chúng sẽ liên tục kéo con xuống. Con cần có đủ chú tâm và quyết tâm để vun bồi một động lực kéo con lên khỏi trọng lực hút xuống của tâm thức đại chúng.

Một khi con đã làm được phần nào, thì con có thể áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền về cái Ta Biết và các ngã tách biệt. Con nhận ra là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức hay dồn nén các ngã tiềm thức. Việc dồn nén và ép tâm tiềm thức vào kỷ luật có thể là một việc thích đáng lúc ban đầu, vì nếu không nó sẽ lôi kéo con theo quá nhiều hướng. Nhưng một khi con vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng, thì con sẽ được lợi lạc nhiều nếu con xoay chuyển cách tu và nhận ra rằng cốt yếu của tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Con tới điểm thấy được một ngã tách biệt. Con thấy nó có tác dụng gì khi nó khiến con bị kẹt trong việc liên tục lặp lại không ngừng một khuôn nếp phản ứng. Con thấy ảo tưởng khiến con nghĩ con phải tiếp tục phản ứng như thế, đây là cách phản ứng duy nhất, thậm chí có thể đây là cách duy nhất để là một đệ tử tâm linh. Con thấy đây là một ảo tưởng. Con thấy ảo tưởng cho rằng có một vấn đề con phải giải quyết. Sau đó, con giản dị buông bỏ, con để cho ngã chết đi. Khi con để cho ngã chết đi, giả dụ ở tầng 96, thì con tức khắc lên tầng 97. Con không phải nỗ lực để lên tầng 97. Vì khi ngã đó chết, khi năng lượng được chuyển hóa, thì con sẽ lên tầng trên một cách tự nhiên. Do đó, sẽ có một điểm, và điểm này có thể xảy ra trước tầng 96, khi con xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh, khi con nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì.

19.6. Cái Ta Biết đến từ tâm thức Ki-tô

Điều quan trọng là buông bỏ và bắt đầu quán chiếu, như các thày đã nói, là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra. Tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn. Ở tầng 64, con gần cái một hơn khi con ở tầng 63. Cho nên khi con giải quyết một ngã ở tầng 63, thì cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Con hãy cẩn thận xem xét điều thày đang nói. Có lúc con cần dùng khả năng của tâm để kỷ luật chính nó. Đúng vậy, con lúc đó có dùng sức mạnh. Con dùng vũ lực để trấn áp những ngã tách biệt đang kéo con xuống, kéo con vào những thói quen cũ, những khuôn nếp phản ứng cũ. Con nói: “Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống thế gian này. Tôi muốn một cuộc sống tâm linh hơn.” Sau đó con triệt hạ những điều đang kéo con vào đời sống thế phàm và làm vậy có ích lợi trong một thời gian. Điều con đang làm là dùng tâm để trấn áp tâm, để ép tâm vào kỷ luật, áp chế tâm. Con có thể đạt đôi chút tiến bộ, nhưng con không thể đi xa hơn một mức nào đó. Con chắc chắn không thể đi quá tầng 96 bằng vũ lực.

“Con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng,” như Giê-su đã nói. Thày Giê-su cũng nói: “Kẻ hung bạo muốn cưỡng chiếm vương quốc thiên đàng bằng vũ lực, dùng vũ lực cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.” Điều này không thể làm được. Nếu con tới tầng 96 mà vẫn còn tìm cách dùng vũ lực thì con sẽ không đạt được sáng ngộ ở tầng này và do đó con sẽ bắt đầu đi xuống, đẩy mình đi xuống bằng vũ lực. Con có thể nghĩ con đang tiến triển vì con cảm thấy mình càng lúc càng giỏi hơn trong việc áp chế mình, nhưng con không đang vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Con chỉ đang bồi đắp cái ngã tâm linh mà con đã tạo ra từ tầng 48 tới tầng 96. Thậm chí con còn có thể rơi vào tâm thức sa ngã khi con nghĩ mục tiêu tối hậu là xây dựng một ngã tâm linh tinh vi nhất chưa ai làm được và sau đó chắc chắn Thượng đế phải cho phép con vào thiên đàng.

19.7. Gia tốc lên tinh khiết

Điều quan trọng con cần quán chiếu là con sẽ tới điểm con cần thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức không nhất thiết lúc nào cũng đường thẳng. Trong một số trường hợp, chúng chỉ hỗn loạn và thiếu tập trung, chuyển từ ngã này sang ngã kia. Đây là một sự xoay chuyển quan trọng khi con rời bỏ cách tiếp cận dựa trên vũ lực. Đây là lúc con có thể thực sự gia tốc, gia tốc vào tinh khiết.

Con ngẫm nghĩ lý luận rất giản dị này: Tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Làm sao con bước ra ngoài tinh khiết? Con ép mình rời tinh khiết.  Có lý chăng nếu con phải ép mình trở về tinh khiết? Không đâu, bởi vì một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Như thày đã nói, tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên. Đây là điều nhiều, nhiều người tâm linh khắp mọi nơi trải qua các thời đại không nắm bắt. Lẽ tất nhiên có một số người hiểu. Một số người nắm bắt được. Cũng đã có các giáo lý mô tả phương pháp không cố gắng, không dựa trên vũ lực. Tiếc thay, nhiều giáo lý trong số này không có khái niệm về các ngã tách biệt và khái niệm cái Ta Biết có thể đứng ra ngoài các ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Do đó, nhiều giáo lý trong số các giáo lý đó khó thực hành đối với một số người, đặc biệt là các người có tư duy Tây phương đường thẳng, vì họ gần như không thể khắc phục khuynh hướng nghĩ rằng họ phải làm chuyện này với cái tâm.

Như các Thượng sư khác đã nói, một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đuờng thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược. Thực ra trong tâm thức nhị nguyên, có một cực ô trược và một cực được quy định là tinh khiết, nhưng ngay cả cái mà con người định nghĩa là tinh khiết cũng không phải là tinh khiết Thiêng liêng.

19.8. Tiêu chuẩn nhị nguyên về tinh khiết và ô trược

Một lần nữa, như các thày đã nói, đây là vấn đề với nhiều tôn giáo. Họ nghĩ rằng một tôn giáo vỏ ngoài trên trái đất có thể, trong kinh điển giáo điều và văn hóa của họ, quy định một mục tiêu cuối cùng, có thể quy định những cư xử ô trược và những cư xử tinh khiết. Sau đó, họ nghĩ rằng khi đi theo con đường vỏ ngoài đó, con đường phần nào máy móc đó, một ngày kia họ sẽ tinh khiết.

Con sẽ không tinh khiết khi cố gắng đạt một trạng thái tinh khiết nhị nguyên tương đối. Chắc chắn nó có thể khá hơn trạng thái nhị nguyên ô trược khiến con có khuynh hướng tạo nghiệp nặng hơn. Có rất nhiều, rất nhiều người trên trái đất đã theo một tôn giáo, có thể là trong nhiều kiếp sống và đã cố gắng đạt được một trạng thái do tôn giáo đó quy định. Họ đi vào trạng thái tâm cảm thấy vì họ đã làm tất cả những điều mà giáo điều và kinh điển quy định, và vì họ đã không làm tất cả những điều không được làm, do đó họ là người tốt. Họ là tín đồ tôn giáo. Họ là người tâm linh. Họ cũng có thể cảm thấy họ là người tinh khiết và là bậc thánh. Đáng tiếc thay, các chân sư thăng thiên khó tiếp cận những người này nhất, vì họ quá dính mắc vào ý niệm họ là người tốt nên các thày rất khó chỉ cho họ thấy họ không tốt theo một sự lượng định bất nhị. Họ “tốt” đối ngược với “xấu” nhưng đấy là theo thang đo nhị nguyên.

19.9. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống

Trong những đợt truyền giáo trước, các thày đã thấy có các đệ tử bỏ ra nhiều thập niên tìm cách sống theo một lý tưởng, nhưng họ không sẵn sàng bước lên tầng mức cao hơn và nhận ra rằng có một điểm khi cả lý tưởng cũng phải buông bỏ, vì Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống. Bởi chưng Ki-tô Hằng sống là gì? Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho gì? Là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên.

Tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên của con muốn làm gì xuyên qua con, muốn đem lại gì xuyên qua con. Tâm đường thẳng muốn lượng định mọi thứ dựa trên một tiêu chuẩn mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt, có nghĩa đấy là một tiêu chuẩn thế gian có hai cực với những đặc tính có thể xác định được. Các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày? Con sẽ có lượng định vi tế như sau: “Điều này phải được biểu hiện, điều này không được biểu hiện.” Lúc ấy, các thày phải tôn trọng quyền tự quyết và bước lùi lại.

Chỉ khi nào con là cánh cửa mở thì các thày mới tuôn chảy xuyên qua con được, và cánh cửa mở có nghĩa trung hòa và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Khi con có ý định tinh khiết, khi con sẵn sàng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con, thì lúc ấy con là cánh cửa mở. Nếu con có ý định là có một số điều phải được biểu lộ và một số điều không được biểu lộ, hoặc con muốn được biết trước và con muốn lượng định dựa theo tiêu chuẩn của tâm vỏ ngoài thì con không tinh khiết, ý định của con không tinh khiết. Khi con tới những tầng cao hơn của con đường tu, con sẽ được lợi lạc khi quán chiếu chuyện này. Các thày đã nói điều này bằng nhiều cách trước đây, nhưng các thày cố gắng lặp lại, lần này đặt trọng tâm đặc biệt vào chủ đề làm sao kết nối với các thày. 

19.10. Làm sao kết nối với Serapis Bey

Làm sao con kết nối được với thày là Serapis Bey? Con phải có một ý định trung hòa, nghĩa là con có ý định kết nối với thày nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và ngay cả con phải cư xử ra sao. Con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Đây là ý định tinh khiết và khi con tới được ý định tinh khiết này bằng cách loại bỏ các ngã tách biệt, thì con thấy rằng nếu con có mối liên hệ với Tia thứ Tư, thì con sẽ kết nối được. Con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày.

Như các Thượng sư khác đã nói, không có gì mà thày giữ lại không cho con. Thày luôn luôn bên con vì như Giê-su đã nói: “Tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi.” Tia thứ Tư và tất cả các tia khác cũng thế. Lúc ban đầu có Ngôi Lời hay Logos và Ngôi Lời ở bên Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế. Nếu không có tâm thức Ki-tô hoàn vũ này, không gì được làm ra đã được làm ra. Khi sự phân biệt thành hình tướng bắt đầu, nó bắt đầu với sự phân biệt thành bảy tia sáng. Từ bảy tia sáng này tất cả mọi hình tướng được tạo thành. Cho nên như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Thày luôn luôn ở nơi con đang ở, con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Lẽ dĩ nhiên thày hy vọng và thày biết là một số các con đã trải nghiệm Hiện diện của thày trong khi nghe bài truyền đọc này. Một số các con có thể nghe lại và trải nghiệm Hiện diện của thày. Một số có thể làm các bài tập mà thày mô tả và trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt. Tới đây, thày niêm con trong sự tinh khiết mãi mãi thăng vượt của Tia thứ Tư mà THÀY LÀ.

21 | Với tới sự thật sẽ giúp con tiến lên cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Sự thật là gì? À, đây là một câu hỏi mà tâm đường thẳng ưa thích, vì nó nghĩ nó có thể định nghĩa một cách rất rõ ràng: Sự thật ngược lại với Không thực. Sự thật là một cái gì ta có thể hiểu, có thể nắm bắt, có thể đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Quả thật, tâm đường thẳng có thể làm chuyện này với tất cả mọi đức tính của Thượng đế, nhưng nó cảm thấy là nó thật sự kiểm soát được sự thật. Sa nhân đã từ rất lâu, từ lúc họ sa ngã, cảm thấy là họ kiểm soát được sự thật. Họ tin rằng họ có thể quy định sự thật. Lẽ đương nhiên, họ đã không loan báo cho mọi người, tỷ dụ như trên địa cầu, là họ đã quy định sự thật. Thay vào đó, họ loan báo là sự thật được trao truyền bởi một thẩm quyền tối hậu. Do đó, đó là sự thật, chân lý cao nhất có thể có.

21.1. Định nghĩa giản dị nhất của sự thật

Sự thật quả thực là gì? Sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là gì? Không thực là cái gì mang con ra xa cái một. Đây là định nghĩa giản dị nhất của sự thật mà ta có thể đưa ra, ít nhất là trên trái đất.

Lẽ đương nhiên, tâm đường thẳng sẽ rất bất mãn với định nghĩa này, vì làm sao từ đó có thể định nghĩa sự thật là gì? Nhất định phải có một sự thật tối hậu. Nói nó dẫn con tới gần hơn không đủ. Nhất định phải có một chân lý tối hậu, và lúc đó con ở trong cái một. Sự thực là chỉ có đấng Sáng tạo là chân lý tối hậu, như vậy có nghĩa là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của Ngài, ở bất cứ tầng nào của thế giới hình tướng, có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Lẽ đương nhiên, địa cầu ở thấp hơn tầng của đấng Sáng tạo rất nhiều, và đó là lý do vì sao các thày đã rất nhiều lần nói là không thể trao truyền một chân lý tuyệt đối trên trái đất, nhưng ta quả thật có thể nói là chân lý tuyệt đối không có ở đâu ngoại trừ nơi đấng Sáng tạo. Bất kỳ con đang ở tầng nào trên bước đường tiến tới hợp nhất với đấng Sáng tạo, nếu con chưa là một với đấng Sáng tạo, đó là vì con vẫn còn thấy một khoảng cách. Do đó có một chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Cho nên, mục đích của đường tu không bao giờ là hiểu chân lý tối hậu, nhưng là thấy chân lý sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

21.2. Các tầng thể hiện tiềm năng của cái ta

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ bất mãn vì nó sẽ nói: “Ồ, như vậy phải có nghĩa là có điều gì sai ở bất cứ tầng nào cho đến khi tới tầng đấng Sáng tạo. Ngay cả các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất đã thăng thiên từ rất lâu, đã có rất nhiều thời gian để tăng triển và vượt thăng chính họ, họ vẫn sống trong ảo tưởng.” Một lần nữa, đây lại là tâm đường thẳng, nó phải nghĩ theo kiểu tâm đường thẳng. Nó hoạt động với thang điểm nhị nguyên, và trên một thang điểm nhị nguyên có cực đoan này và cực đoan ngược lại, cả hai đều tối hậu, ta hoặc có sự thật tối hậu hoặc giả dối tối hậu. Con có thể nói là khi con chưa tới sự thật tối hậu thì con vẫn bị ảnh hưởng bởi một sự giả dối, nhưng không phải vậy. Một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết và trải nghiệm tâm Ki-tô đó, và đó là tâm của cái Một. Con biết là mọi sự là một, nhưng con cũng thấy và trải nghiệm các tầng tâm thức có cấp bậc và con tiến lên theo một tiến trình đường thẳng dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo. Đây không phải là một ảo tưởng.  

Một khi con đã thăng thiên từ trái đất thì con không còn ở trong ảo tưởng nữa vì con biết thực tại bên dưới mọi sự là cái một. Con chỉ giản dị ở một tầng nào đó trong tiến trình thể hiện cái ta, và con biết con đang trên con đường dẫn tới những tầng thể hiện cái ta cao hơn cho tới khi con đạt tới trạng thái tối hậu của thể hiện cái ta mà các thày đã gọi là tâm thức đấng Sáng tạo. Đúng ra phải nói đây là trạng thái tối hậu trong thế giới hình tướng này. Con không ở trong ảo tưởng vì con trải nghiệm cái một, và con thậm chí không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Thày Serapis Bey có nói tới sự gia tốc không ngừng, và đây là một khái niệm quan trọng mà con cần xem xét. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ gặp khó khăn khi nó xem xét sự tự thăng vượt bất tận, liên tục, gia tốc này. Nó lúc nào cũng đi tìm cái tối hậu, nhưng nó cũng sẽ hỏi tại sao nó cần tự thăng vượt nếu nó đã đạt được một tầng cao? Tại sao con cần tự thăng vượt khi con đã tới tầng 96 và đã trải nghiệm tâm Ki-tô, tại sao con cần tiếp tục tự thăng vượt?

21.3. Dòng sông sự Sống luôn luôn tự thăng vượt

Sự thực là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng, là cái mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống. Một dòng sông là gì? Nó là nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu dòng sông ngừng chảy thì nó không còn là một dòng sông nữa. Nó là một hồ nước. Không sớm thì muộn phẩm chất, độ trong sạch của nước trong hồ nước sẽ suy giảm. Nước có thể bốc hơi, nhiều chất cặn và bợn nhơ sẽ có thể xâm nhập nước hồ, và dần dần nước sẽ bắt đầu nhiễm độc. Vì sao nước không nhiễm độc khi ở trong dòng sông? Bởi vì nước di động. Các phân tử nước di dộng và phủi đi những bợn nhơ. Chúng hòa lẫn với khí oxy, cũng giúp trong lọc nước.

Con thấy là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con, như một cá nhân, không thể nói: “Tôi đã đạt một tầng nào đó. Tôi muốn vui hưởng tầng này trong một thời gian.” Con có quyền làm như vậy, nhưng nếu con ở một tầng nào đó quá lâu, thì tâm con sẽ bắt đầu trở nên cũ kỹ. Do đó con sẽ không theo kịp hướng đi lên của Dòng sông sự Sống. Con sẽ ở dưới tầng mà con có thể tới nếu con chịu thăng vượt.

Những người sáng suốt vẫn đang tiếp cận Dòng sông sự Sống thì biết rằng họ có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng họ sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước. Nhiều người trong các con là những người tâm linh đã có cảm nhận đến lúc bước vào một chu kỳ mới. Đã đến lúc cất bước và làm chuyện gì khác. Chân lý chuyển động không ngừng. Có một chân lý ở tầng 48 giúp con khắc phục ngã tách biệt, ảo tưởng ở tầng 48 và vươn lên tầng 49. Có một chân lý khác ở tầng 49, và một chân lý khác ở tầng 50, vân vân. Không phải chỉ có một chân lý. Lẽ tất nhiên, đó là điều tâm đường thẳng muốn: “Hãy cho tôi chân lý, chân lý cao nhất, chân lý tuyệt đối.” Nếu vậy thì đây nhé: Chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Hay ta cũng có thể nói là có nhiều chân lý tuyệt đối. Chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó. Lẽ tất nhiên, chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Ta không thể đặt cái dẫn con tới cái một lên một thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia.

21.4. Khái niệm nhị nguyên về sự thật tối hậu

Sự thật Hằng sống không phải là đối ngược của một sự giả dối. Chỉ những gì do tâm thức nhị nguyên quy định mới có một đối ngược. Tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói: “Nhưng phải chăng sự thật dẫn con lên tầng kế tiếp cũng tương đối với tầng đó?” Phải, nhưng không trên một thang điểm nhị nguyên. Khi con ở trên một thang điểm nhị nguyên, con có thể nói: “Đây là một sự không thực” và con có thể bắt đầu tiến về phía đối cực kia trên thang điểm. Con có thể nghĩ con đã đi một hành trình dài từ sự không thực tương đối đến sự thật tương đối, nhưng con đã không tới gần cái một hơn. Con vẫn ở trong nhị nguyên, và đó là lý do vì sao khi con nghĩ con là một người tốt đang nắm giữ chân lý thì con không đến gần cái một hơn. Ý nghĩ này chỉ tiếp tục giam con trong nhị nguyên.

Thày có thể bảo đảm với con là những người tin rằng họ có chân lý tối hậu là những người mà thày khó tiếp cận nhất. Vì sao họ lại cần đến Thượng sư của Tia thứ Năm khi họ đã có chân lý tuyệt đối rồi? Thày có thể cống hiến gì cho những người đã có chân lý tuyệt đối được quy định ở đây trên trái đất? Con có thể nói: Nhưng, thày, Hilarion, là một chân sư thăng thiên! Thày ở một tầng tâm thức cao hơn, do đó lẽ dĩ nhiên thày có thể cống hiến cái gì đó cho những người chưa thăng thiên. Nhưng những người kia không thấy vậy đâu. Con hãy nhìn sự kiện trang mạng Hỏi Giê-su Thật (https://askrealjesus.com/) đã xuất hiện trên mạng được hơn 20 năm. Con có thực sự nghĩ là các vị Hồng y của Giáo hội Công giáo chưa nghe tới hay chưa xem trang mạng này? Họ có thay đổi gì chăng dựa trên các điều được công bố trên đó? Họ có mở lòng xem xét là Chân sư Thăng thiên Giê-su có thể hiện đang hướng dẫn con người tu tập? Lẽ dĩ nhiên là không. Tại sao họ lại cần Chân sư Thăng thiên Giê-su khi họ đã có chân lý tuyệt đối trong giáo điều của họ?

Con thấy là nhiều người khác, tỷ dụ như người cộng sản, duy vật, tranh đấu môi sinh, triết gia thuộc trường phái này hay trường phái nọ, lãnh đạo tôn giáo này tôn giáo kia, họ đều không cần đến các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các đức tính thiêng liêng, vì họ muốn trải nghiệm ý niệm cao trội hơn người mà họ có khi họ tin là họ có chân lý tuyệt đối. Nếu con tin rằng con có chân lý tuyệt đối, thì có thể nào có chân lý nào cao hơn? Bất cứ ai, ngay cả các chân sư thăng thiên, có gì để cống hiến cho con? Lẽ tất nhiên, các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã thăng vượt tầng tâm thức này, nhưng con cần nhận ra là các ngã tách biệt của con, các ngã tách biệt còn sót lại, chưa thăng vượt tầng tâm thức đó. Cái Ta Biết của con đã thoát khỏi sự đồng hóa hoàn toàn với các ngã đó, nhưng con vẫn còn các ngã đang pha màu tầm nhìn của con, và khiến con tin rằng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

21.5. Mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn

Đây là điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh qua các thời đại, nhưng điều đó cũng đã xảy ra cho các đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, khi họ nghĩ là họ đã có giáo lý cao nhất hay sự tiết lộ sau cùng mà các chân sư thăng thiên ban ra, và do đó tại sao họ lại cần gì khác? Tại sao họ lại cần tiết lộ tuần tự?

Con luôn luôn cần xem chừng khuynh hướng này nơi một ngã tách biệt hay thậm chí sự hình thành một ngã tách biệt khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn là tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.” Con quả thật có. Con đã tiến bộ, con đã đạt một tầng nào đó, nhưng chưa phải là tầng tối hậu. Nếu con đã đạt tầng cao nhất có thể đạt được trên địa cầu thì con đã thăng thiên. Khi con đã đạt được tầng tối hậu có thể đạt được trên trái đất thì con sẽ không còn trên trái đất nữa. Nếu con còn ở trên trái đất thì, ấy, con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và làm sao con vươn lên tầng đó? Bằng cách với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Trong đợt truyền giáo này, con không dễ bị kẹt vào trạng thái tâm thức đó nếu con nghiên cứu và cố gắng thể nhập giáo lý. Các thày đã nói rõ về nhu cầu tiến bộ liên tục hơn là trong các đợt truyền giáo trước. Tuy nhiên, tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó lúc nào cũng làm những gì tự ngã vẫn làm: nó tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con cần mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Đó là một phần vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý tuần tự cao hơn, nhưng cá nhân con cần mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

21.6. Tặng phẩm và bài hình dung của thày Hilarion

Con nhận được khai ngộ này từ đâu? Con sẽ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ nhận nó từ các chân sư thăng thiên của con, nhưng con cần phải yêu cầu, con cần phải mở tâm ra đón nhận. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Con chắc chắn có thể yêu cầu thày, Hilarion, chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con có thể đọc bài chú Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con có thể dùng quyển sách Những Khai ngộ Thần bí về Viễn kiến để hòa điệu với thày. Con có thể tìm trong bài chú của thày hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và con sẽ thấy con nhận được hướng dẫn của thày nếu con gần Tia thứ Năm. Con có thể dùng nhiều dụng cụ, nhưng thày sẽ cho con ở đây một dụng cụ đơn giản như các Thượng sư khác đã làm.

Đây là dụng cụ giản dị đó: con đi vào một căn phòng yên tĩnh, con ngồi tư thế thoải mái, nhắm mắt lại và con hình dung con có hai con mắt. Nếu con nghĩ về chuyện này thì con biết là con có hai mắt để thấy được chiều sâu. Con có thể lượng định khoảng cách giữa con và một vật một cách chính xác hơn vì con có cái nhìn song đôi đó. Có hai mắt không phải là nhị nguyên. Các thày không bao giờ nói rằng khi con thoát khỏi nhị nguyên thì hai mắt của con sẽ bắt đầu di chuyển gần nhau hơn cho tới khi chúng hợp thành một con mắt ở giữa trán của con.

Lẽ tất nhiên, con có một mắt thứ ba, đó là luân xa mắt thứ ba, nhưng bài hình dung này dựa trên con có hai mắt, và con hình dung hai mắt di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng. Con theo đường thẳng đó nhìn về quãng xa. Nếu con có chút hiểu biết về hình học, thì con biết là phối cảnh sẽ khiến con thấy giống như hai đường thẳng sẽ càng ngày càng gần nhau hơn khi con càng đi ra quãng xa.

Con cũng có thể biết thuyết không gian-thời gian cho rằng tất cả các đường song song sẽ rốt cuộc nhập một, gặp nhau. Con chỉ cần phóng chiếu về khoảng xa, thật xa để hai đường thẳng từ hai mắt con càng ngày càng gần nhau hơn cho tới khi tới một điểm, bất kể điểm này xa tới đâu, hai đường thẳng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con tiếp tục hình dung con theo đường thẳng đó xa nhất mà con có thể hình dung. Khi con đã hình dung đường thẳng duy nhất đó thì con rút sự chú ý của con trở về trán, trở về mắt thứ ba của con. Sau đó, con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó. 

Một lần nữa, đây là một bài thực tập giản dị mà nhiều người sẽ cho là quá thô sơ, nhưng nếu con cảm thấy gần Tia thứ Năm thì con hãy thực tập bài này và sẽ thấy là kinh nghiệm không thô sơ chút nào và có thể sâu sắc hơn những gì con tưởng tượng lúc này. Sự thật rất giản dị. Chỉ có trong nhị nguyên thì sự thật mới có vẻ phức tạp bởi vì sa nhân muốn sự thật phức tạp. Họ muốn biến mọi chuyện thành phức tạp để họ có vẻ cao trội hơn người khác vì họ có thể nắm bắt, hiểu hay quy định hệ thống tư duy tinh vi, trí thức và đường thẳng đó. Họ là những người quá ư thiện xảo trong khi con người không hiểu được do đó họ phải tuân theo các lãnh đạo.

Con hãy nhìn xem cách Giáo hội Công giáo đã phóng chiếu trong suốt 17 thế kỷ là con người không thể hiểu thực tại tâm linh và phải được giảng dạy với từ ngữ thật đơn giản. Con hãy thấy là họ đã suốt bao năm đốt sách, từ chối không chịu dịch Thánh kinh để con người không thể tự mình đọc Thánh kinh mà phải trông cậy vào sự diễn giải của các linh mục Công giáo. Sa nhân lúc nào cũng nghĩ rằng con người không thể biết sự thật. Chỉ có họ mới biết được sự thật. Lẽ dĩ nhiên, một sa nhân sẽ không bao giờ biết được sự thật cho tới khi y bắt đầu với tới sự thật Ki-tô duy nhất mà y có thể hiểu ở tầng tâm thức hiện tại của mình và sau đó tiếp tục với lên sự thật kế tiếp cho tới khi y không còn là sa nhân nữa.

21.7. Sự thật như là kết quả của vun bồi hiểu biết

Như Giê-su có nói, tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi. Ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm thức Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Có một chân lý ở mỗi tầng tâm thức, nhưng đó không phải là chân lý tối hậu. Đó là chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Tiến trình này sẽ tiếp diễn từ tâm thức hiện tại của con cho tới tiềm năng cao nhất của con là tâm thức của đấng Sáng tạo.

Do đó, chân lý không thể bị gò bó vào bất cứ tầng nào, và vì vậy không ai trên cõi thăng thiên tuyên bố hay tin rằng vị ấy đã đạt được chân lý tối hậu. Các thày đều trải nghiệm chân lý là Dòng sông sự Sống đang hằng sống, tuôn chảy, mà con có thể lần theo về cội nguồn. Và cũng có chân lý cao nhất mà con có thể đạt được trong thế giới hình tướng. Lẽ đương nhiên, vượt quá nơi đó là cái mà các thày đã gọi là cái Tất cả, nhưng các thày không muốn mô tả bằng lời vì nó quá xa vời các hình tướng và khái niệm mà con có trong thế giới hình tướng này.

Một số các con sẽ được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã lớn lên với một quan niệm rất sai lệch về chân lý, đặc biệt là nếu con đã theo học bất cứ học viện cao đẳng nào, tỷ dụ như một viện đại học. Nhiều người coi những viện giáo dục cao đẳng này như các nơi vun bồi hiểu biết và minh triết, và họ nghĩ là nếu họ tích lũy hiểu biết lâu đủ thì họ sẽ đạt được chân lý. Một số còn nghĩ là họ đã đạt được chân lý rồi, ít nhất là trong một số lãnh vực của đời sống. Nhiều người trong các viện giáo dục cao đẳng tin rằng viễn quan duy vật và thuyết tiến hóa của Darwin biểu hiện chân lý tối hậu mà không có hiểu biết nào có thể vượt qua. Lẽ tất nhiên, đây là một ảo tưởng, như lịch sử đã chứng minh. Đã có nhiều giai đoạn trong lịch sử khoa học khi các khoa học gia, ít nhất là các khoa học gia duy vật, đã nghĩ rằng họ đã đạt được hiểu biết tối hậu, tỷ dụ như của các định luật vật lý học. Lúc nào cũng đã có một hiểu biết cao hơn xuất hiện và thay thế hiểu biết cũ. 

Như các thày có nói, các định luật của Newton đã không trở nên vô hiệu lực, nhưng niềm tin các định luật của Newton mô tả sự vận hành cơ bản của bộ máy hoàn vũ đã được thay thế bởi một hiểu biết cao hơn dưới dạng thuyết tương đối (relativity) và vật lý lượng tử (quantum physics). Nhiều khoa học gia đương thời biết rằng thuyết tương đối và vật lý lượng tử là hai thuyết không tương hợp. Lẽ tự nhiên, hiện trạng này không thể là hiểu biết cao nhất. Rốt cuộc sẽ có một lý thuyết về mọi thứ (theory of everything), tuy rằng nó cũng sẽ không bao giờ đầy đủ. Ít nhất sẽ tới một điểm có một lý thuyết bao trùm những yếu tố cơ bản về sự vận hành của thế giới.

Tuy nhiên, thuyết này nhất định phải bao gồm tâm thức. Lẽ tất nhiên các thày cảm thấy khích lệ là một số khoa học gia đã bắt đầu nhìn nhận chuyện này và thăm dò ý nghĩa là gì và một lý thuyết khoa học bao gồm tâm thức sẽ như thế nào, khi lý thuyết này không coi tâm thức như một hiện tượng nằm trên sự vận hành của não bộ mà là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Các khoa học gia này đã bắt đầu công nhận là vũ trụ không thể xuất hiện nếu không có một hình thức nhận thức nào đó, mà một số đã gọi là “tác nhân có nhận biết”.

Nếu con đã tiếp thu bất cứ giáo dục cao đẳng nào thì một việc xây dựng mà con có thể làm là xem xét các ngã tách biệt mà con đã có thể tạo ra khi con đáp ứng với môi trường tư duy đó. Nó phóng chiếu đến con là mục đích của nếp sống hàn lâm là tích lũy hiểu biết và dữ liệu cho tới khi đạt được một hiểu biết tối hậu nào đó.

21.8. Tổng thể hơn các thành phần cộng lại

Con cũng có thể được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã bị lập trình, nói theo nghĩa bóng, bởi nền giáo dục cao đẳng để theo phương pháp giản hóa (reductionist), đã có từ thời Aristotle. Ông này đưa ra quan điểm nếu ta nên nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo thế giới vật chất thì rốt cuộc ta sẽ tới được các thành phần cơ bản của vật chất. Khi ta hiểu được cách các thành phần này vận hành thì ta hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành. Đây là phương pháp đã hướng dẫn khoa học từ rất lâu nay, nhưng phương pháp này hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Con không thể xem xét một tổng thể, tỷ dụ như thân thể con người, và hiểu được cách nó vận hành bằng cách xem xét các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo nên nó, như các tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản. Chắc chắn là cơ thể được cấu tạo bởi hạt cơ bản, nhưng con có thực sự tin rằng – và đúng là các nhà duy vật tin điều này, nhưng có phải vậy mà tin tưởng này có giá trị? – nếu con hiểu tất cả mọi chuyện có thể hiểu về các tỷ tỷ hạt cơ bản cấu tạo thân thể vật lý, thì một ngày kia con sẽ giải thích được vì sao con thích sôcôla hơn các loại kẹo khác? Làm sao mà thông tin này có thể được ghi mã vào các hạt cơ bản? Nhưng đó là một phần của đời sống của một con người, vì theo câu ngạn ngữ nhân gian, tổng thể hơn các thành phần cộng lại. Do đó, nếu con muốn hiểu tổng thể thì con cần nhìn vào, nghiên cứu tổng thể, thay vì chỉ nghiên cứu các thành phần. Lẽ dĩ nhiên, nếu con muốn hiểu con người vận hành ra sao thì con phải nghiên cứu tâm con người. Con phải nghiên cứu tâm thức.

Khoa học gia đã quy định cái mà họ gọi là bài toán khó khi nghiên cứu tâm thức, đó là: Làm sao các thành phần không có nhận thức cấu tạo não bộ vật lý lại có thể tạo ra trải nghiệm có nhận thức? Đây chỉ là một bài toán khó khi họ tiếp cận vấn đề với tầm nhìn duy vật. Tâm thức không do các thành phần của não bộ tạo ra. Tâm thức là một cái gì độc lập với não bộ có thể tương tác với não bộ, và phần nào nhập chung vào não bộ, nhưng não bộ không tạo ra tâm thức. Chính tâm thức đem lại sinh hoạt và sự sống cho não bộ và thân thể vật lý. Con sẽ không bao giờ hiểu được con người bằng cách xem xét não bộ.

21.9. Tâm thức là gì?

Con cần xem xét tâm thức, là lẽ tất nhiên câu hỏi đặt ra là: Tâm thức là gì? Tâm thức có thể được xem là thực tại nền bên dưới mọi sự, nhưng con không thể hiểu tâm thức nếu con chỉ nhìn nó như thực tại nền. Tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng. Ở một tầng, ta có thể nói tâm thức là cái có tiềm năng mang hình tướng và duy trì hình tướng trong một khoảng thời gian, và đây là loại tâm thức đưa đến sự hiện diện của các vật vô tri giác.

Sau đó có một tầng tâm thức cao hơn biểu lộ như các hình tướng sống, các sinh thể, có sự sống, có khả năng thay đổi, thích nghi với môi trường, sinh sản. Tầng tâm thức này kích động tiến trình mà khoa học gia gọi là tiến trình tiến hóa, một tiến trình mà họ cho là vô thức. Tiến trình này không thực sự vô thức, vì làm sao một sinh vật có thể thích nghi với môi trường khi nó không có một dạng tâm thức cho nó khả năng nhận tín hiệu từ môi trường và điều chỉnh cách cư xử của nó theo tín hiệu? Thậm chí tiến trình tiến hóa cũng không là một tiến trình duy vật vô thức, ngay cả khi nó ứng dụng vào sự tiến hóa của thú vật.

Lẽ tất nhiên, sau đó là tầng tâm thức cao hơn mà ta có thể thấy nơi con người. Đây là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa một cách có ý thức và cố ý cách con đáp ứng với môi trường. Ở tầng tâm thức của thú vật, các sinh thể không đáp ứng một cách có ý thức và cố ý. Thú vật đáp ứng dựa theo những gì đã được ghi mã trong tâm thức của chủng loại, tâm thức tập thể của chủng loại. Các cá nhân hầu như bị tâm thức tập thể đó hoàn toàn sai khiến, và do đó đáp ứng theo những trải nghiệm mà chủng loại đã tích lũy trong một thời gian dài dựa trên kinh nghiệm sinh tồn. Ở mỗi cá nhân, đây là một tiến trình vô thức. Với con người, con có tiềm năng ý thức về tiến trình này, biết chính mình và quyết định là con không chỉ đáp ứng trên căn bản trải nghiệm tập thể. Con sẽ đáp ứng như một cá nhân, và con sẽ thăng vượt tập thể.

Lẽ đương nhiên, đây chính là nền tảng của con đường tâm linh, mà chủ yếu là con không chỉ giản dị làm theo tâm thức tập thể. Con không chỉ đơn giản làm theo cách hành xử mà con đã được dạy dỗ trong nền văn hóa nơi con khôn lớn. Con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường này. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống. Lẽ tất nhiên, nếu các khoa học gia chịu nghiên cứu tâm thức thì họ sẽ nhận ra, như một số đã bắt đầu nhận ra, là phải có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, vì nếu không có những tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, thì làm sao địa cầu, mặt trời, các thiên hà được tạo ra?

21.10. Tầng tâm thức thị hiện vũ trụ

Có những người khóa mình vào suy luận trí năng và nói rằng mặt trăng không có đó khi không có ai nhìn nó. Vũ trụ chỉ hiện hữu khi được quan sát. Vì họ không nhìn nhận là có thể có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, nên họ nghĩ chính sự quan sát của con người khiến vũ trụ thị hiện. Lẽ dĩ nhiên, đây là một ngõ cụt và quả thực là một lối suy nghĩ nực cười, khi ta thấy trình độ tâm thức của con người trên trái đất.

Giải đáp hợp lý duy nhất là có một tâm thức cao hơn đã hình dung các thiên hà, toàn vũ trụ. Đây chính là tầng tâm thức đã thể hiện vũ trụ, và đây cũng là tầng tâm thức đã duy trì vũ trụ từ đó tới nay. Vậy thì vũ trụ có đó chăng khi không có ai nhìn? Theo đúng lý thuyết thì không, nhưng lúc nào cũng có ai đang nhìn. Lẽ tất nhiên, ai đó không phải là một sinh thể mà là toàn thể đại đoàn các chân sư thăng thiên, lên đến tận đấng Sáng tạo.

Đấng Sáng tạo đã quy định các hàm số của sự sáng tạo và lúc nào cũng đang nhìn. Nhiều sinh thể khác đã quy định hàm số ở các tầng cấp khác, đi xuống tận nơi con đang ở trên trái đất. Như các thày là chân sư thăng thiên đã giảng, các Elohim đã tạo ra trái đất và mang nó vào biểu hiện vật lý. Các vị đó duy trì nó bằng cách nhìn nó, nhưng các vị ấy làm việc theo khung sườn của các chân sư thăng thiên ở trên họ, ở tầng thái dương hệ, tầng thiên hà, tầng vũ trụ và ở các bầu cõi cao hơn bầu cõi này.

Con là con người đang đầu thai không thể vươn tới nhận biết của bầu cõi cao nhất, của những tầng tâm thức cao nhất, nhưng con có thể cảm nhận xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn. Đây là điều cho con ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của mình, mình đang đi đâu, mình muốn tới đâu, điều mình muốn đồng-sáng tạo, những gì mình muốn trải nghiệm, cách mình vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì mình có thể làm ở tầng hiện tại.

21.11. Xem mình là một thành phần của đại đoàn chưởng giáo toàn vũ

Cốt lõi của việc kết nối với các chân sư thăng thiên là tới điểm nhận ra con là một phần của đại đoàn đó, lên đến tận đấng Sáng tạo. Có thể là con không thể hình dung tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ít ra con có thể hình dung tầng tâm thức ngay trên con, tức là các thày, các Thượng sư? Con có thể kết nối với các thày chăng? Lúc đó con sẽ kết nối với toàn thể đại đoàn chưởng giáo, và con sẽ có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Như các thày có nói: các thày hiểu là đầu thai trên trái đất vào lúc này khó khăn như thế nào. Khi con có được ý niệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo thì con có thể tránh bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, tránh đồng hóa mình với chúng, tránh bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế. Con có thể hoàn toàn xoay chuyển tầm nhìn của mình. Con khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt và đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi và thực sự không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn. Các thày là Thượng sư chỉ muốn thấy vậy nơi mỗi người và tất cả chúng con. Ở thời điểm này, đây chính là điều mà các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con đạt được, để con có thể vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó, lẽ tất nhiên, lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Con yêu dấu, đây là điều mà thày muốn trao cho các con. Nếu con cảm thấy đồng điệu với Tia thứ Năm, thì thày tin rằng bài giảng này sẽ có lợi ích cho con và giúp con kết nối với thày và các vị chân sư khác thuộc Tia thứ Năm, và qua đó tạo điều kiện để con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Tới đây thì thày niêm con trong Ngọn lửa Sự thật mà thày LÀ cho địa cầu.

13| Trải nghiệm Minh triết Thiêng liêng vượt quá tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Lanto, Thượng sư của Tia sáng thứ Hai, thường được liên kết với minh triết, nhưng minh triết thật sự là gì? Có rất nhiều người trên thế giới coi minh triết như một loại kiến thức hữu hạn, một cái gì có thể được diễn tả bằng ngôn từ, hay bằng ngôn ngữ khoa học tỷ dụ như toán học. Ta có thể nào nắm bắt minh triết bằng ngôn từ, con số, công thức hay phương trình chăng? Ta có thể nắm bắt nó bằng hình tư tưởng, khái niệm hay ý tưởng chăng? Ta có thể giam hãm nó trong bất kỳ hình tướng nào chăng? À, có và không!

13.1. Một tìm cầu minh triết tối thượng phù phiếm

Ta có thể nói không có minh triết tối thượng ngoại trừ cái một, chính là tâm thức của đấng Sáng tạo. Lẽ tất nhiên, khi nào con còn hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con khó trải nghiệm tâm thức này. Ta có thể nói là minh triết, là một trong những đức tính được dùng để sáng tạo bầu cõi chưa thăng thiên của con, quả thật có hình tướng. Bởi chưng nếu nó không có hình tướng, làm sao có thể dùng nó để sáng tạo một thế giới có hình tướng? Minh triết chắc chắn không thể bị giam hãm trong ngôn từ hay những cách biểu hiện khác được dùng trên trái đất.

Bước đầu tiên để nối kết với các chân sư thăng thiên và đức tính Minh triết Thiêng liêng là nhận ra rằng những người đi theo tâm linh, tôn giáo, chính trị và khoa học qua các thời đại vẫn cố gắng khám phá, tạo sinh hay quy định một hình thức kiến thức tối thượng, hiểu biết tối thượng, minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, các thày hiểu rằng khi con mới tìm thấy lần đầu con đường tâm linh thì con đã bị ảnh hưởng bởi sự tìm cầu muôn thuở này. Con đem nó vào con đường tâm linh và con nghĩ mục đích của một giáo lý tâm linh là đem lại cho con một hình thức minh triết tối thượng.

Đó là lý do vì sao rất nhiều người tâm linh đã bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng vị đạo sư của họ, tổ chức tâm linh của họ, giáo lý tâm linh của họ có minh triết cao nhất, hiểu biết cao nhất, sự diễn tả cao nhất về sự vận hành của thế giới và cõi tâm linh. Điều này có thể hiểu được ở một tầng nào đó của con đường tâm linh nhưng con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi tư duy này không còn tính xây dựng nữa vì nó sẽ không giúp con tăng triển.

13.2. Một con đường thực tiễn giúp nâng cao tâm thức con người

Có một thời Phật hiện thân và giảng dạy trực tiếp. Ngày nay nhiều người muốn phóng chiếu là Phật không những là một sinh thể giác ngộ nhưng là sinh thể giác ngộ tối thượng vì hoàn cảnh thày sinh ra, cuộc đời và giáo lý của thày rất ư đặc biệt. Họ muốn phóng chiếu hình ảnh là Phật không những đưa ra giáo lý cao nhất có thể có nhưng hơn thế giáo lý của Phật và chắc chắn chính Phật có thể trả lời mọi câu hỏi. Những người này chưa nghiên cứu lịch sử Phật giáo vì sự thật là Phật đã từ chối không trả lời một số câu hỏi.

Một ví dụ của những câu này là có ngã hay không có ngã. Đây là một câu hỏi mà Phật từ chối không trả lời nhưng tại sao thế? Vì mục đích của Phật không phải là cho con người một kiến thức tối thượng có thể trả lời mọi câu hỏi của họ. Mục đích của Phật là cho con người một con đường tu giản dị giúp họ từng bước một nâng cao tâm thức của họ. Nếu con nhìn lịch sử con sẽ thấy là mục đích này tương phản rất nhiều truyền thống của các giáo sĩ Vệ đà, các thày Bà la môn của Ấn giáo. Vào thời của Phật, họ ở trong một giai đoạn tách ra nhiều xu hướng, nhiều bộ phái trong Ấn giáo giữa các người Bà la môn. Giáo lý của họ có điểm hơi khác nhau nhưng vẫn nằm trong cùng một khung sườn chung và họ tốn nhiều thời gian tranh luận về hiểu biết tối thượng, giáo lý tối thượng tỷ dụ như giáo lý tối thượng về ngã là gì và ngã như thế nào?

Sau khi giác ngộ, Phật nhận ra là tất cả các tranh luận này phát xuất từ tầng mức của tâm phàm, tâm đường thẳng lý luận, phân tích. Phật nhận ra là tất cả những lập luận và mô tả tinh vi mà con người đã dựng lên này, quả thực chỉ giam con người ở một tầng tâm thức nào đó. Phật thấy rằng nếu thày tham gia cuộc tranh luận này, nếu thày nhảy vào sân khấu diễn xiếc này và bắt đầu tranh luận với các thày Bà la môn, thì Phật sẽ chẳng đạt được điều gì. Phật cũng nhận ra là có những câu hỏi mà tâm đường thẳng lý luận không thể trả lời bởi vì như các thày đã giải thích, tâm này có thể đưa ra lập luận bênh vực hay phản bác bất cứ điểm gì. Một số người có thể dùng tâm đường thẳng để tự thuyết phục là có ngã và một số người khác có thể dùng cùng tâm đường thẳng lý luận để tự tuyết phục là không có ngã. Làm sao có hội tụ khi cả hai nhóm tin tuyệt đối là lập luận của họ là lập luận tối thượng, dù cả hai lập luận đều tương đối?

Phật nhận ra là trong tư duy nhị nguyên mọi lập luận đều tương đối do đó không thể cho những người với tư duy này một lập luận chung cuộc, và đây là lý do vì sao Phật nêu lên khái niệm về các cặp. Phật đã làm gì? Phật lúc đó làm việc với một số chân sư thăng thiên để hoàn thành sứ vụ của thày, và vì vậy thay vào đó, Phật nói: “Chúng ta đừng lý luận ở tầng mức của tâm đường thẳng, phàm phu, lý luận này. Chúng ta hãy cho con người một con đường tu giản dị để họ nâng cao tâm thức của họ. Khi con người đã nâng cao tâm thức quá một mức nào đó, thì họ có thể bắt đầu có được minh triết thật sự, họ có thể bắt đầu có được câu trả lời cho những câu hỏi mà tâm đường thẳng không giải quyết được.” Con cũng có thể nói là Phật nhận ra là mục đích của việc làm của thày là nâng cao tâm thức con người, không phải là đem lại minh triết hay kinh điển cao trội nào đó có thể đứng vững mãi mãi với thời gian.

13.3. Những tranh luận trí năng không bao giờ dứt

Một số Phật tử hiện đại sẽ phản đối điều thày vừa nói. Họ sẽ nói rằng vì Phật là một sinh thể hoàn toàn giác ngộ, giáo lý của Phật phải là chân lý tối thượng. Nhưng, tại sao chính Phật giáo lại tẽ ra nhiều phương hướng? Dù họ đồng ý trên một khung sườn chung, nhưng họ có những lập luận và giáo lý phức tạp, những ý tưởng và pháp thực hành khác nhau và không đồng ý trên nhiều điểm. Nếu con nhìn một cách trung hòa, thì con thấy là sau khi Phật không còn hiện thân nữa, Phật giáo đã có cùng số phận như Ấn giáo.

Phật giáo trở nên đa dạng, có sự phân chia ra nhiều hướng và nhiều nhóm. Những người trong các nhóm đó đưa ra những lập luận trí năng và họ bắt đầu biến những điều Phật nói hay ngụ ý thành lập luận trí năng. Nếu giáo lý của Phật là giáo lý tuyệt đối cao nhất thì làm sao có thể có bất đồng và những lý giải khác nhau? Nếu ta có minh triết tối thượng, thì phải chăng bất kỳ ai đọc nó sẽ phải đạt được tầng tâm thức tối thượng? Đáng lẽ không thể có bất đồng nếu đó là minh triết cao trội và tối thượng. Nhưng vì có bất đồng, thì phải chăng ta có thể lý luận rằng ngay cả giáo lý của Phật cũng không là minh triết tối thượng, không do khiếm khuyết nơi Phật nhưng do khiếm khuyết nơi người nhận giáo lý?

13.4. Cách tiếp cận thực tiễn giáo lý tâm linh

Có đúng chăng là Phật giáo đã khẳng định rõ ràng mục đích là nâng con người lên trên trạng thái đau khổ, vượt Biển Luân hồi? Phật giáo đã nói rõ ràng là những người được trao truyền Phật giáo đang không ở trong trạng thái tâm thức tối thượng. Vậy ta có thể suy luận được chăng là Phật không thể trao truyền bất kỳ minh triết tối thượng nào, vì làm sao những người ở một trạng thái tâm thức thấp có thể nắm bắt và sử dụng minh triết cao như thế? Do đó, ta có thể tiến thêm bước nữa chăng và nhận ra là không có gì tối thượng trên trái đất, cho dù đó là giáo lý của Phật hay giáo lý của Giê-su hay giáo lý của Vệ đà hay bất kỳ giáo lý tâm linh nào khác? Bởi vì tâm đường thẳng, lý luận, phân tích có thể lấy bất kỳ giáo lý tâm linh nào và đưa ra nhiều cách diễn giải và lập luận khác nhau để chứng minh là cách diễn giải này hay hơn cách diễn giải kia. Tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu là phải có một cách diễn giải cao hơn, một cách diễn giải tối thượng.

Ta có thể nhận được chăng là những người rơi vào khuôn đúc này ở một tầng tâm thức nào đó? Một giáo lý tâm linh chân chính không có mục đích xác chứng những diễn giải của con người ở tầng tâm thức của họ, mà là nâng tâm thức của họ lên cao hơn và vượt quá tầng tâm thức đó. Đâu có khó nhận ra điều này, phải không con?

Ta có thể nói chưa bao giờ có nỗ lực đem lại giáo lý tối thượng hay giáo lý tâm linh cuối cùng cho hành tinh trái đất. Vì những người khởi xướng các giáo lý tâm linh, tức là các chân sư thăng thiên, đều ý thức rõ ràng các điều kiện trên trái đất. Các thày thấy rõ ràng những giới hạn của tâm thức tập thể và của những nhóm người khác nhau. Các thày không tìm cách làm điều bất khả thi mà làm điều gì thực tiễn có thể làm được, đó là trao truyền một giáo lý cho một nhóm người đặc thù có thể nâng họ lên cao hơn một tầng tâm thức cao hơn nơi họ có thể nắm bắt một giáo lý cao hơn và cứ như thế tiết lộ tuần tự. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ nói: “Vậy khi nào thì giáo lý tối hậu sẽ được trao truyền? Bởi vì chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu.”

13.5. Giáo lý tối thượng về mọi sự

Lẽ tất nhiên ý kiến này được sự hậu thuẫn của khoa học, đã từ nhiều thập kỷ, thậm chí nhiều thế kỷ tìm cầu lý thuyết hay nhận biết tối thượng về sự vận hành của thế giới, Lý thuyết về mọi sự (Theory of Everything). Minh triết về mọi sự, giáo lý về mọi sự ở đâu? Khi nào nó được trao truyền? Một lần nữa, sẽ không bao giờ có một giáo lý tối thượng được trao truyền trên trái đất một phần bởi vì trái đất hiện nay đang ở một tầng mức mà các thày gọi là một hành tinh không tự nhiên có nhiều giới hạn trầm trọng. Lý do khác là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên cũng không thể trao truyền một giáo lý tối thượng. Bởi vì giáo lý tối thượng là gì, giáo lý tối thượng về mọi sự là gì?  Nội dung của giáo lý tối thượng về mọi sự phải bao gồm những gì? Lẽ tự nhiên, giáo lý này phải bao gồm mọi sự. Giáo lý tối thượng về thế giới hình tướng này có thể tìm ở đâu? Trong tâm đấng Sáng tạo.

Làm sao giáo lý về mọi sự có thể truyền đạt đến bất kỳ tầng mức sáng tạo nào thấp hơn đấng Sáng tạo? À, điều này không làm được. Con chỉ có thể đạt tới tầng minh triết tối thượng bằng cách trở thành một với tâm đấng Sáng tạo. Lúc ấy con biết minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, ta có thể tiếp cận vấn đề một cách khác và nói: “Khi nào thì giáo lý tối thượng sẽ được trao truyền trên trái đất?” Ấy, giáo lý tối thượng cho một hành tinh như trái đất là gì? Đó là giáo lý chỉ dạy cách vượt thăng những tầng mức tâm thức có mặt trên trái đất. Con có thể bắt đầu ở bất kỳ tầng mức nào, vươn lên những tầng tâm thức có thể có trên trái đất cho tới khi đạt được tầng cao nhất và rồi con vượt thăng tầng mức này và đi vào một trạng thái cao hơn. Cho dù con gọi nó là Niết bàn hay giác ngộ hay trạng thái thăng thiên hay gì khác, con có thể tốt nghiệp từ Trường học Trái đất.

Có thể nói là giáo lý nào giúp con tốt nghiệp trường học trái đất là giáo lý tối thượng có thể được trao truyền, tùy theo tình trạng đặc thù, hòan cảnh đặc thù trên trái đất, chính yếu là tùy theo tầng mức của tâm thức tập thể nhưng cũng tùy theo độ dày đặc của vật chất. Nhìn theo góc độ này, chúng ta có thể nói là giáo lý tối thượng đã được trao truyền dưới nhiều dạng vì giáo lý của Phật có thể giúp con người thăng vượt các tầng mức tâm thức khả thi trên trái đất, và giáo lý của Ki-tô cũng thế, cũng như nhiều giáo lý khác có tính chất tôn giáo hay thần bí. Vấn đề không phải là nghĩ rằng có một giáo lý tối thượng sẽ đem lại kết quả một cách máy móc. Đây là một khiếm khuyết trong tư duy mà thày muốn sửa đổi, vì tâm đường thẳng sẽ nói: “À, nếu tôi có giáo lý tối thượng, thì khi tôi học hỏi giáo lý này và hiểu nó nói gì, chắc chắn tôi phải đạt được tầng tâm thức tối thượng và sẽ giác ngộ, thức tỉnh và thăng thiên.”

13.6. Hiểu giáo lý so với nâng cao tâm thức

Không thể trao truyền một giáo lý có thể đem lại sáng ngộ một cách tự động và máy móc cho bất cứ ai hiểu giáo lý. Tại sao không làm được? Bởi vì mục đích của con đường tâm linh là nâng cao tâm thức của con lên quá các tầng tâm thức có thể có trên trái đất để con có thể nhảy vọt lên tâm thức thăng thiên. Mục đích là xoay chuyển tâm thức con lên cao, không phải là xoay chuyển hiểu biết của con lên cao và điều này lẽ tất nhiên sẽ làm chấn động khiến nhiều nguời tâm linh thuộc nhiều truyền thống. Thậm chí nhiều người thuộc các thời đại trước cũng sẽ bị chấn động bởi câu nói này vì trong tâm của họ, họ nghĩ rằng hiểu biết tương đương với tầng mức nhận biết. Ắt hẳn để có thể hiểu trọn vẹn một giáo lý nào đó, bạn phải đạt tới tầng nhận biết cao nhất – nếu không làm sao bạn hiểu được giáo lý?

Có sự khác biệt giữa hiểu một giáo lý bên ngoài và thể nhập giáo lý qua đó con nâng cao tâm thức mình. Hiểu một giáo lý khác nâng cao tâm thức vì hiểu điều gì đó có nghĩa gì? Hiểu nghĩa là quan sát từ bên ngoài. Khi con lấy một giáo lý dù là kinh Phật hay kinh Ki-tô hay bất kỳ kinh nào khác, thì con lấy một giáo lý mà con xem đến từ bên ngoài tâm con. Con đánh giá nó với trí năng, tâm phân tích, tâm đường thẳng. Con tìm cách nắm bắt và hiểu nó nhưng con vẫn coi nó là cái gì bên ngoài con. Con có thể tìm cách hiểu cõi tâm linh. Con có thể tìm cách hiểu một chân sư thăng thiên như thế nào, con nghĩ rằng nếu con hiểu Thày Lanto thì con sẽ nối kết với thày, nhưng điều này không thể làm được.

13.7. Trải nghiệm so với biết từ bên ngoài

Hiểu mang ngụ ý là có khoảng cách giữa người biết và cái được biết. Làm sao con nâng cao tâm thức khi con còn thấy có khoảng cách? Làm sao con nối kết với Thày Lanto và Minh triết của Tia thứ Hai? Con không nối kết được nếu con nghĩ đây là điều con có thể nắm bắt bằng trí năng, điều con thấy bên ngoài con, một hiểu biết mà con phải đạt được. Con rốt cuộc sẽ nối kết được khi con tới điểm nhận ra là không có khoảng cách và con trải nghiệm là không có khoảng cách. Con không cố gắng hiểu thày, vì dù con hiểu thày rõ tới đâu bằng trí năng, con sẽ vẫn không nối kết được với thày. Thày đã nhiều lần đứng sát cạnh, nói theo nghĩa bóng, một học trò đang tìm cách nắm bắt Minh triết Thiêng liêng. Thày đang vỗ vai, nói theo nghĩa bóng, người học trò và nói: “Thày đang ở đây.” Nhưng người học trò mải nhìn vào kinh điển bằng trí năng để cố gắng hiểu: “Ắt hẳn thày ở ngoài kia. Thày không thể ở quá xa.”

Một số người nghĩ: “Thày càng ở xa, tôi càng cần nhiều nỗ lực để hiểu thày, thì tôi càng cao trội hơn, càng đặc biệt hơn nếu tôi có thể hiểu vị thày ở xa tít đó.” Thày vẫn còn đứng ngay đây, con chỉ cần quay đầu và nhìn. Nhưng không đâu, y đang nhìn vào cuốn sách và kinh điển, đo lường với trí năng của mình: “Cách giải thích này cao trội hơn hay là cách giải thích kia cao trội hơn? Gía chi tôi tìm thấy cách giải thích cao trội thì chắc đấy là thày Lanto.” (Người sứ giả gõ vào máy thu âm ba lần). Thày vẫn còn ngay đây. Tại sao con không ngửng đầu khỏi cuốn sách và có thể tình cờ nhìn thấy thày? Nhưng không đâu: “Tôi đang tập trung vào cuốn sách, bởi vì chắc chắn thày Lanto phải đang lẩn trốn giữa các hàng chữ trên trang giấy. Thày có thể nào ở đâu khác?” Con thấy chăng đây là trò chơi mà con người có thể chơi vô thời hạn khi họ vẫn tìm cầu cái ưu việt của trí năng thay vì tìm cầu sự giản dị của trải nghiệm.

Minh triết là gì? Nó có thể nói ra lời được chăng? Không đâu. Minh triết là một trải nghiệm. Nó là một Hiện diện. Con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện. Đó là lý do tại sao con không thể hiểu Hiện diện TA LÀ của con, con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện.

13.8. Có một cái ngã chăng?

Trở lại câu hỏi mà Phật từ khước trả lời: Có một cái ngã chăng hay không có ngã? Các thày Bà la môn tranh luận điều này không ngừng. Một số vẫn còn tranh luận ngày nay. Một số người ngày nay đã lấy những giáo lý cổ xưa này và tạo ra phiên bản hiện đại của họ. Họ vẫn còn đang tranh luận: “Có chăng một cái ngã hay một trạng thái vô ngã?  Chúng ta có nên cố gắng đạt tới ngã tối thượng là Atman, cái ngã trường tồn và bất biến? Nhưng hãy đợi một chút. Phật nói rằng  không có một ngã như thế. Vậy chúng ta phải làm ngược lại và nói như vậy có nghĩa là không có ngã nào cả. Không có ngã trường tồn mà cũng không có bất kỳ loại ngã nào khác. Chúng ta phải cố gắng đạt được vô ngã và chối bỏ là chúng ta có bất cứ ngã nào. Lúc ấy chúng ta sẽ trở về hợp nhất với nhận biết tối thượng, vô biên của Brahman.”

Giáo lý Vệ đà nói rằng có một Atman, là cái ta tối thượng, cái Ta Một, cái ta không phân chia trường tồn, bất biến. Vậy các hiền giả Rishi có hoàn toàn sai khi nói thế? Có và không. Chúng ta có thể nào soi sáng vấn đề một cách khác với giáo lý do các chân sư thăng thiên trao truyền chăng? Có và không. Các thày có thể giải thích, các thày có thể cố gắng giải thích bằng từ ngữ, nhưng con người có thể nắm bắt được chăng? Hay họ sẽ rơi vào tranh cãi không dứt và lấy bất cứ giáo lý nào mà các thày trao truyền để tạo ra những lập luận mới, những diễn giải mới, những diễn giải trí năng cầu kỳ mới?

13.9. Hai khía cạnh của tâm thức Ki-tô

Hãy để thày cố gắng trao truyền cho con một điều. Các nhà tiên tri Vệ đà có nói sai chăng về Atman? Dựa trên các khái niệm và ngôn từ mà các thày đã dùng trong các giáo lý này, thì ta có thể nói “không hẳn thế”, bởi vì các thày đã nói gì? Các thày đã nói đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi sự từ chính bản thể ngài, từ chính tâm thức ngài, từ chính bản ngã ngài. Cái đầu tiên được tạo, đấng Con đầu tiên, là tâm thức Ki-tô. Tâm thức này có mục đích đem lại sự hợp nhất giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài để tạo vật này, tức là những phần nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo, không thể mãi mãi lạc lối trong hình tướng. Con có thể nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, của tâm thức Ki-tô hoàn vũ, ngày hôm qua ngày hôm nay và mãi mãi vẫn là một, như kinh điển có nói. Có thể nói là nó không có sắc thái, không biến đổi theo thời gian, không có phân biệt, không có hình tướng. Do vậy, nó không thể biến đổi, vì nó vượt lên trên quan niệm mà con có thể có từ thế giới hình tướng.

Mặt khác, tâm thức Ki-tô hoàn vũ được sinh ra từ đâu? Từ Bản thể của đấng Sáng tạo, từ tâm thức của đấng Sáng tạo. Có đúng chăng là đấng Sáng tạo luôn luôn thăng vượt chính mình?  Có đúng chăng là đấng Sáng tạo tạo tác để ngài có thể trải nghiệm sự sáng tạo, trải nghiệm tạo vật của chính ngài từ bên trong xuyên qua các con là những nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo? Như vậy phải chăng tâm thức Ki-tô quả thật không biến đổi hay nó giản dị có hai khía cạnh? Một khía cạnh luôn luôn hợp nhất với đấng Sáng tạo và khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô luôn luôn thay đổi, thích ứng với những ảo tưởng mà con người tạo ra và cho họ con đường từ ảo tưởng quay về cái một.

Các nhà tiên tri Vệ đà có hoàn toàn nắm bắt điều này chăng? Không đâu, vì họ bị kẹt trong lý luận trí năng cho rằng nhất định phải có hai mặt của đồng tiền, hai đối nghịch. Họ lý luận rằng khi có một thế giới nơi mọi sự đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái đối nghịch không thay đổi gì cả. Phải chăng những giáo lý mà các hiền triết (Rishis) nhận được đến từ tầng tâm thức đã bị phân chia và như thế có tính chất nhị nguyên? Con thấy ở đây đặc tính của trí năng, của tâm đường thẳng. Tâm này lấy một trạng thái đặc thù, thông thường từ những gì có thể quan sát trong thế gian, và sau đó nó từ đó lý luận lên trên hay ngược lại để suy ra cõi tâm linh và nguồn gốc của sáng tạo.

Nó luôn luôn lý luận rằng bất cứ điều gì có thể quan sát thì phải có cái ngược lại. Nếu con quan sát thấy mọi điều trên thế gian đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái ngược lại không thay đổi. Sau đó, nó phóng chiếu là phải có một minh triết nào đó cao hơn. Các hiền giả (Rishis) nói là có một cái ta bất biến và trường tồn là Atman, và mọi người đều phát xuất từ Atman đó. Khi họ thức tỉnh từ ảo tưởng họ tách biệt với Atman, thì họ sẽ tan biến vào Atman, trở thành một với Atman. Mặt khác, Phật nói rằng khi quan sát nội tâm, Phật chưa bao giờ khám phá thấy một cái ta bất biến trường tồn trong mình. Vậy Phật sai hay các hiền giả (Rishis) sai?

13.10. Cái ta luôn luôn vượt thăng chính nó

Những gì Phật dạy quả thật Phật đã gần sự thật hơn, một sự thật không thể bày tỏ đầy đủ bằng ngôn từ. Bởi vì khi con truy tìm nguồn gốc của mình, thì đầu tiên hết con tìm thấy Cái Ta Biết của con vượt quá cái ta vỏ ngoài, sau đó con tới Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của các chân sư thăng thiên, là nối dài của các chân sư thăng thiên khác, nối kết trở lại tới tận đấng Sáng tạo xuyên qua các bầu cõi đã thăng thiên. Con là một phần của tạo vật của đấng Sáng tạo và trong sự sáng tạo luôn luôn có biến đổi và chuyển động. Sự sáng tạo luôn luôn thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia. Thật có chăng một cái ngã bất biến, một cái ngã cá nhân bất biến?

Các thày đã giải thích là các con được tạo ra để là những người đồng sáng tạo. Người đồng sáng tạo là gì? Đó là một sinh thể bắt đầu như một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, dần dà mở rộng ý niệm bản ngã của mình cho tới khi đạt được tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Điều này không có nghĩa là con tan biến trong đấng Sáng tạo đã tạo ra con, mà có nghĩa là con đã tự mình trở thành một đấng Sáng tạo. Con được tạo ra như một sinh thể chuyển động, tự thăng vượt và tiến trình này có thể tiếp diễn vô tận. Vậy thì Atman, cái ta bất biến, ở đâu? Nó không có đó.

13.11. Trạng thái không có cái ta vỏ ngoài

Có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, tâm Ki-tô hoàn vũ mà con có thể trải nghiệm ngay khi là một con người đang hiện thân trên trái đất. Khi con trải nghiệm tâm thức Ki-tô trên một hành tinh luôn luôn chuyển động, thì tâm thức này giống như một tảng đá không lay động so với sự chuyển động liên tục của con. Đó là lý do vì sao trước kia nó được diễn giải như vậy, như một cái ta bất di dịch. Đây là sự diễn giải nhìn từ thế giới hình tướng trên một hành tinh như trái đất. Sau đó con có thể tiếp tục và nói: “Phải chăng Phật có nói tới một trạng thái vô ngã? Vậy thì Phật ngụ ý gì?” Nhiều người Phật tử hiện đại nghĩ rằng mục đích tu theo Bát chánh đạo là đạt tới một trạng thái vô ngã bằng cách buông bỏ tất cả mọi ngã. Có những người khác trong thế giới Tây phương đã dùng tư duy đường thẳng lý luận và nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là trừ tiệt cái ngã. Ai đúng? Ai sai?

Câu trả lời tùy theo con đang nói tới ngã nào. Nếu con nói tới ngã tách biệt, cái tự ngã sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, thì quả thật Phật dạy đạt tới một trạng thái không còn tự ngã này, không còn ngã vỏ ngoài. Điều này không có nghĩa là Phật nói con không có ngã. Bởi vì khi con không còn bị kẹt trong sự đồng hóa với tự ngã, thì con khám phá con là một nối dài của cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con có một cá tính được quy định bởi cha mẹ tâm linh của con, các chân sư thăng thiên. Con được sinh ra để mở rộng cái ta đó, vượt thăng nó và trở nên hơn nữa khi cá thể này tăng triển.

Nếu con lý luận rằng mục đích của con đường tâm linh là đạt trạng thái vô ngã nơi con thật sự không hiện hữu, thì một lần nữa con lại dùng tâm đường thẳng để lý luận rằng mọi chuyện phải có hai đối cực, và điều này một lần nữa cho con thấy khuyết điểm của tâm lý luận này. Khi Cái Ta Biết tách ra khỏi ngã vỏ ngoài và cá tính vỏ ngoài, thì con khám phá cái ta cao, Hiện diện TA LÀ và cá tính của nó và con bắt đầu biểu thị cá tính đó.

13.12. Trạng thái vô ngã

Vậy tại sao có những người đã trải nghiệm hay tự nhận là đã trải nghiệm trạng thái vô ngã? Có thể có chuyện này chăng? Suốt một thời gian rất dài, kể từ khi sa nhân sa ngã ở bầu cõi Thứ tư, thì họ đã tạo ra cái mà các thày gọi là một quần thể, một ngã tập thể, một quái vật tập thể giống như trạng thái trống không, trạng thái vô ngã. Trên trái đất các sa nhân đã làm hai điều với cái ngã. Một mặt, họ tìm cách nâng cao bản ngã của họ lên một địa vị tối thượng qua đó họ nghĩ rằng Thượng đế bắt buộc phải cho họ vào thiên đường hay cho họ quyền điều hành vũ trụ vì họ quá ư tinh xảo. Mặt cực đoan kia, họ đã tạo ra trạng thái vô ngã này, với mục đích gì? Họ tìm cách lôi kéo, đặc biệt là những người tâm linh, đi vào một trong hai hướng đó. Hoặc là tìm cách làm cho ngã tinh xảo đến mức nó có thể đi vào thiên đường, hoặc chối bỏ có một cái ngã và đi vào trạng thái lấp lửng hay chốn vô định hay chốn vô ngã khi nghĩ rằng mình không có ngã.

Có những người tin rằng họ đã khắc phục ngã và ngã đã chết. Họ phóng chiếu là có những chân sư đã đạt tới trạng thái vô ngã, bất nhị. Làm sao con biết được là con đã đạt trạng thái vô ngã này? Khi con nói: “Tôi đã đạt vô ngã, tôi đã đạt bất nhị” thì cái “ngã” nào đang nói? Chẳng phải đấy là một ngã hay sao? Khi con có cái ngã nói: “Tôi là vô ngã” thì con có thật sự thoát khỏi ngã chăng? Hay là con chỉ giản dị đi vào một ảo tưởng lừa gạt mình nghĩ rằng mình đã đạt được một trạng thái tối thượng nào đó trên đường tâm linh?

13.13. Thăng vượt liên tục

Trạng thái tối thượng trên con đường tâm linh là gì, ít nhất là trên trái đất? Đó là nhận ra con là một người đồng-sáng tạo. Con đi ra từ Bản thể đấng Sáng tạo, con có thể gọi là Brahman hay nhận biết vô biên hay bất cứ gì khác mà con muốn. Con không được tạo ra để hiện thân trên một hành tinh như trái đất và trải qua nhiều ngàn kiếp đầu thai với tất cả khổ đau mà đầu thai đem lại để rồi một ngày kia con giản dị thức tỉnh và tan biến vào cái hư không mà con từ đó đi ra.

Đấy không phải là mục đích của tiến trình sáng tạo. Mục đích của sự sáng tạo là tự thăng vượt, thăng vượt vô hạn định, mãi mãi, liên tục. Đấy là minh triết cao nhất. Thày không nói là minh triết tối thượng, nhưng đó là minh triết cao nhất có thể trao truyền trên một hành tinh như trái đất. Nếu con nắm bắt được điều này và vượt thăng và tiếp tục vượt thăng, thì nó sẽ đưa con vượt quá tầng tâm thức của trái đất và con có thể trải nghiệm một dạng minh triết vô vàn cao hơn, không thể trao truyền hay trải nghiệm trên trái đất. Bởi vì chỉ khi nào con là một chân sư thăng thiên, con mới có thể thực sự trải nghiệm tầng tâm thức vượt quá trái đất.

13.14. Hiểu sai về truyền thống Vệ đà

Một trong những hiểu sai chí tử về toàn bộ hệ thống Vệ đà (dù con gọi nó là Vedanta hay Advaita Vedanta hay bất kỳ tên nào khác), và thày dùng chữ “chí tử” hiển nhiên như một khiêu khích, là họ đã không nắm bắt ý nghĩa của nhị nguyên. Một câu nói thường được trích dẫn là: “Brahman là thực tại duy nhất. Thế gian là một ảo tưởng.” Cho nên họ nghĩ, họ lý luận chỉ có Brahman là thực và do đó, con như là một cái ta, con không thực. Cái ta không thực. Cái ta là một cái ta tách biệt. Nó không thực và do đó để đạt được bất nhị, để thoát khỏi nhị nguyên mà họ coi là mục đích cao nhất, con phải khắc phục cái ta vì cái ta chỉ có thể là nhị nguyên.

Con hãy xem xét câu nói: “Chỉ Brahman mới thực, thế gian là một ảo tưởng.” Trong câu này có nhị nguyên. Nếu Brahman là thực và là điều duy nhất hiện hữu, thì thế gian từ đâu tới? Nó ắt hẳn phải tới từ Brahman. Đâu có gì khác. Làm sao thế gian có thể là một ảo tưởng nếu nó đến từ Brahman và do Brahman tạo ra? Thế gian là Brahman biểu hiện chính mình như thế gian. Làm sao khi Brahman biểu hiện chính mình như hình tướng lại tạo ra ảo tưởng, khi chỉ có Brahman là thực? Thế gian cũng là Brahman vậy ảo tưởng ở đâu?

Nói thế gian tách biệt khỏi Brahman là một ảo tưởng. Khi nói Brahman là thực và thế gian là một ảo tưởng, phải chăng con đã tách thế gian ra khỏi Brahman? Phải chăng con đã tạo ra nhị nguyên dù con khẳng định câu nói này vượt trên nhị nguyên? Con thấy sự gian xảo của tâm lý luận. Thế gian không phải là một ảo tưởng. Thế gian được tạo ra từ các sinh thể thăng thiên biết và trải nghiệm họ là những nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo – con có thể gọi là Brahman hay đấng Sáng tạo hay bất kỳ tên gọi nào khác. Chúng ta biết chúng ta từ đâu tới và chúng ta biết chúng ta được sinh tạo bởi đấng Sáng tạo, chúng ta được sinh tạo từ Bản thể của đấng Sáng tạo và do đó sự hiện hữu của chúng ta không phải là một ảo tưởng. Chúng ta có thực và thế giới có thực. Thế giới hình tướng có một thực tại dù con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nơi đây vẫn có những cấu trúc thực. Thế giới không phải chỉ là một ảo tưởng.

Giờ đây con hãy xem xét: Nếu Brahman là tất cả những gì có thực và Brahman sinh tạo thế giới, lẽ tất nhiên Brahman biết thế giới là Brahman thì làm sao có thể có ảo tưởng? Có thể nào có ảo tưởng trong tâm Brahman chăng? Điều này nghe có hợp lý chăng? Vậy thì ảo tưởng nằm ở đâu? Nó chỉ có trong tâm tách biệt khỏi nguồn cội của tâm. Nó chỉ có trong tâm nhìn Brahman từ một khoảng cách và tìm cách hiểu và phóng chiếu một hình ảnh lên Brahman. Toàn bộ truyền thống bắt nguồn từ kinh Vệ đà và các nhà tiên tri Vệ đà (Vedic seers), đều đặt nền tảng trên nhị nguyên.

13.15. Hình tướng khác biệt không phải là nhị nguyên

Các thày đã trao truyền gì cho các con? Một cái nhìn khác. Các nhà tiên tri Vệ đà sẽ nói tầm nhìn này thô thiển, đây là một mức hiểu thấp hơn. Họ sẽ nói chỉ có Brahman là thực. Mỗi khi con có sự phân chia thành một thứ gì đó khác với Brahman, thì con có nhị nguyên. Thày vừa nói gì? Nếu chỉ có Brahman là thực, mọi sự đều được sinh tạo từ Brahman ra cho nên thế gian vẫn là Brahman. Nhị nguyên ở đâu? Nhị nguyên không ở trong thế giới hình tướng. Nhị nguyên không ở trong thực tại. Nhị nguyên chỉ có ở trong tâm, tâm tách biệt, tâm thấy mình tách biệt.

Đúng vậy, mục đích của con đường tâm linh là khắc phục tâm tách biệt, nhưng con không khắc phục tâm tách biệt bằng cách đi vào trạng thái vô ngã. Con khắc phục nó bằng cách khắc phục ảo tưởng rằng con có thể là một ngã tách biệt, tách biệt khỏi tâm một. Khi con khắc phục ảo tưởng là con đồng hóa với ngã tách biệt, thì con không tan biến mất, con không đi vào vô ngã. Con khám phá Hiện diện TA LÀ của con: “À, tôi là cái này. Tôi không là cái ở dưới này, tôi là cái này! Và ô kìa, Hiện diện TA LÀ đến từ cái này, và cái này đến từ cái kia, và cái kia đến từ đấng Sáng tạo.” Con không thấy một đấng Sáng tạo không phân chia, con thấy một chuỗi cấp bậc đi lần tới đấng Sáng tạo.

13.16. Bẫy của tâm sa ngã: hoặc ngã tách biệt ưu việt hoặc vô ngã

Những tín đồ Vệ đà đã tạo ra cảm tưởng này: “Chỉ có Brahman và thế gian. Chỉ có nhận biết vô biên và thế gian. Thế gian là một ảo tưởng. Khi ta thức tỉnh khỏi ảo tưởng, ta trở về với Brahman.” Đây là lời gian dối của tư duy sa ngã. Khi con thức tỉnh khỏi ảo tưởng mình tách biệt, thì con thức tỉnh và nhận ra con tới từ thực tại nào, con là nối dài của cái gì và mục đích của con là tăng trưởng tự nhận biết. Con không trở về đấng Sáng tạo bằng cách tan biến và trở thành số không. Con trở về đấng Sáng tạo bằng cách trở thành tất cả những gì đấng Sáng tạo là, đạt được tâm thức của đấng Sáng tạo. Đó là lý do tại sao đấng Sáng tạo sinh tạo tất cả chúng ta là những sinh thể cá biệt có tự nhận biết. Nếu chúng ta muốn, tất cả chúng ta đều trên hành trình trở về nguồn cội, nhưng nguồn cội chúng ta không phải là hư không. Nguồn cội chúng ta là đấng Sáng tạo và đấng Sáng tạo muốn chúng ta đi trên hành trình trở về này một cách ý thức, đạt được những tầng nhận biết và ý niệm bản ngã càng ngày càng cao hơn, để chúng ta có thể nhận chân mọi tầng mức của tạo vật của đấng Sáng tạo và góp phần đồng-sáng tạo nó. Đây là điều đấng Sáng tạo muốn; không phải là hành trình giả dẫn tới sự ưu việt của ngã tách biệt hay vô ngã.

Các con yêu dấu, thày nhận ra, như Chân sư MORE và các thày khác đã nói, là đôi khi các thày trao cho các con nhiều hơn những gì con có thể hiểu thấu. Nếu con cứ tiếp tục thăng vượt chính mình thì con sẽ tới điểm hiểu thấu được. Vì nếu tiết lộ tuần tự chỉ cho con những gì con có thể hiểu thấu ở tầng mức hiện tại của con, thì sao nó có tín chất tuần tự được?

13.17. Nối kết với Thày Lanto

Tất cả những điều trên liên quan gì tới kết nối? Thày đã cho các con những gợi ý về Hiện diện TA LÀ của con. Thày đã cho con những gợi ý về minh triết thật sự. Làm sao con kết nối được với Thày Lanto và Hiện diện của Minh triết? Bằng cách trải nghiệm Hiện diện của thày. Thày vẫn đang đứng ngay cạnh con (âm thanh gõ trên vai con). Con hãy giản dị nhìn đi. Nhìn với tâm không thành kiến. Nhìn với sơ tâm (beginner’s mind). Nhìn với tâm trẻ thơ và con có thể tìm thấy thày. Nếu ý muốn của con là trải nghiệm Hiện diện của Minh triết thì thày đang ở ngay đây. Thày chẳng đi đâu cả. Con có đi nơi nào khác chăng? Nếu thế thày hy vọng nơi ấy gần thày hơn. Gần điểm nơi con khám phá thày lúc nào cũng đang ở ngay đây.

Tới đây thày cám ơn con đã kiên nhẫn và thày niêm con trong Hiện diện của Minh triết Thiêng liêng mà thày hy vọng đã chứng minh là minh triết này vượt lên trên trí năng và tâm đường thẳng. Lanto THÀY LÀ.

11 | Quy thuận theo ý chí cao hơn của Tâm Một

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE (HƠN NỮA). Con kết nối với thày bằng cách nào? Lẽ tất nhiên, bằng cách muốn hơn nữa. Làm sao có thể có cách nào khác? Con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA. Con có thể hỏi, “Hơn gì?”, nhưng câu hỏi này không cần đặt ra. Vì cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Thày tin rằng con có thể thấy điều này nếu con vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE, vì thày không hơn và cũng không kém. Bí quyết là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và điều gì có thể giúp con làm việc này?

11.1. Nhiều khía cạnh của Ý chí

Thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất, thường được coi là Tia của Ý chí. Và trong những đợt truyền giáo trước, họ coi thày như một vị thày rất nghiêm khắc, và con phải có ý chí mãnh liệt và có kỷ luật thì mới dám tới gần thày, nhưng ý chí có nhiều khía cạnh. Ý chí không phải lúc nào cũng là ý chí mãnh liệt và nhất quyết, vì các thày đang tìm cách giảng điều gì? Cách nối kết với các chân sư thăng thiên không qua việc nhấn và nhấn mạnh hơn, cố gắng và cố gắng nhiều hơn.

Rõ ràng là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, một ý chí bên ngoài. Có ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Có ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái điều nó muốn gặt hái, là sự an toàn – một địa vị tối hậu nơi nó có thể cảm thấy an toàn. Tự ngã nghĩ rằng nếu con đi theo con đường tu thì con sẽ đến một giai đoạn tối hậu. Và nếu con chú tâm vào ý chí và quyết tâm, thì tự ngã nghĩ rằng con cần ý chí tối hậu, quyết tâm tối hậu. Trong các đợt truyền giáo trước, một số đệ tử đã đi vào tâm thái cho rằng muốn nối kết với thày, El Morya là hình ảnh họ có về thày lúc đó (và dĩ nhiên vẫn còn đang duy trì), thì họ phải thể hiện ý chí mãnh liệt này. Họ phải là ngọn lửa xanh, tia sáng xanh và họ phải nhất quyết và rất chú tâm.

Nhiều người trong số các đệ tử đó quên đi câu chuyện mà các thày có kể, rằng thày Kuthumi và thày được trao nhiệm vụ trèo lên một đỉnh núi để lấy một thông điệp, và thày hoàn toàn chú tâm và xông thẳng lên đỉnh núi, trong khi thày Kuthumi chậm rãi nối kết với chim muông và hoa. Nhưng khi các thày đi xuống từ đỉnh núi, thì thày Kuthumi nhớ thông điệp, trong khi thày thì quên mất. Câu chuyện này cho con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Sau đó, lẽ dĩ nhiên còn có một hình thức khác của ý chí vỏ ngoài mà ta có thể gọi là phản-ý chí, là điều mà con thấy nơi nhiều người trên trái đất khi họ bị tâm thức tập thể chế ngự. Họ không biểu lộ cá tính mạnh, họ không muốn ló ra khỏi đám đông, họ muốn nhập vào đám đông, biến vào đám đông, làm những chuyện họ được bảo, tuân theo quy ước, tuân theo truyền thống xã hội.

11.2. Trung đạo của Ý chí

Con có cả phản-ý chí lẫn ý chí bất quân bình. Con thực sự có thể thấy cả hai khía cạnh này trên con đường tâm linh. Như thày có nói, có một số đệ tử rất quyết tâm trong khi có một số khác gia nhập một phong trào tâm linh và quyết định họ sẽ làm bất cứ gì được bảo, không bao giờ chất vấn, không bao giờ suy nghĩ tự lập, nhưng chỉ trôi theo nền văn hóa của tổ chức, trôi theo bất kể yêu cầu nào của tổ chức. Cả hai loại ý chí này đều bất quân bình. Thế nào là ý chí quân bình? Có phải chăng là điểm giữa hai đối cực mà thày vừa mô tả, hay là Trung đạo, khác với điểm giữa hai đối cực, nhưng là sự thăng vượt tâm thức của hai đối cực nhị nguyên?

Nhiều đệ tử đã chọn phương hướng tu là cần có kỷ luật và quyết tâm. Và thày hoàn toàn không nói phương pháp này không có giá trị. Khi con đang đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96, thì lẽ tự nhiên ý chí của con, quyết tâm của con cần mạnh hơn sức kéo xuống của tâm thức tập thể. Vì nếu không thì làm sao con có thể vươn lên trên tâm thức tập thể?

Khi con đi tới các tầng cao hơn và bắt đầu đi quá tầng 96, thì con bước vào một giai đoạn khác. Con nên xem xét là có một cách khác để tiếp cận các đức tính của bảy tia. Con có thể lấy đức tính uy lực ý chí, con có thể thấy nó diễn bày ra sao trên trái đất và con có thể thiết lập hai đối cực. Con có thể nghĩ uy lực ý chí có thể yếu hay mạnh, hoặc hướng ngoại hoặc ù lì, hoặc hung hãn hoặc thụ động.

Một cách nhìn khác là vươn lên tới nhận biết uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập khi con là một sinh thể đang đầu thai. Đây là điều nhiều đệ tử trong các đợt truyền giáo trước nghĩ. Họ nghĩ rằng đây là uy lực Ý chí Thiêng liêng của Tia thứ Nhất và tôi cần có được uy lực ý chí đó để tôi có được uy lực ý chí đó khi ở trong xác thân này. Nhưng uy lực ý chí này sẽ biểu lộ ra sao nếu con nghĩ như vậy?

11.3. Nỗ lực tới điểm gãy đổ

Con sẽ xây dựng một ngã tập trung vào uy lực ý chí và cách con nhìn uy lực ý chí xuyên qua một ngã khác. Đó là lý do vì sao con đang xây dựng một uy lực ý chí là ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Và một lần nữa con nghĩ rằng phải có một rào cản mà con phải đẩy qua vì chắc hẳn thế giới vật lý tách biệt khỏi đức tính Thiêng liêng của Uy lực Ý chí của Tia thứ Nhất. Con cần phải nỗ lực để có được nó, con cần phải nỗ lực để có được bất cứ gì trên trái đất. Con đi vào trạng thái làm, làm, làm, làm nhiều hơn và dùng nhiều nỗ lực hơn và nhiều hơn nữa.

Một số người đã nhận ra là khi họ cố làm nhiều hơn thì họ lại đạt được ít hơn. Đây là điều các thày đã giải thích trước đây. Khi con tạo ra ngã vỏ ngoài phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối. Con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, và sẽ đến lúc con không thể nỗ lực mạnh hơn nữa, con không thể chịu nổi việc cứ luôn luôn phải nỗ lực quá mạnh. Điều này đã khiến một số đệ tử rốt cuộc bị suy sụp, không còn làm được nữa. Các thày đã thấy điều này nơi các đệ tử trong các đợt truyền giáo trước, hội chứng hoàn toàn thất bại khi họ nỗ lực mạnh đến độ họ không còn nỗ lực được nữa. Lúc đó họ phải hoàn toàn rút lui khỏi đường tu, ngay cả rời bỏ con đường tu, tuy đã có lúc họ nghĩ họ đang tiến bộ rất tốt và là các đệ tử ưu tú nhất.

11.4. Cảm nhận sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng

Một cách khác là điều mà thày Quân Âm đã đề cập, là không làm nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Thay vì nghĩ con cần bơi trên ngọn sóng và bơi càng lúc càng nhanh hơn để bắt kịp Ý chí Thiêng liêng, thì con ngừng bơi, con thư giãn và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Nó dâng lên, nó hạ xuống, nó dâng lên, nó thư giãn và nó chảy về một hướng. Hướng này có thể không phải là hướng mà tâm vỏ ngoài, tự ngã, các ngã tách biệt của con muốn con đi tới. Nhưng đó là hướng sẽ cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, bất kể điều gì con đã ghi vào sứ vụ này mà tâm vỏ ngoài của con đã quên khuấy, và tâm vỏ ngoài không còn ý thức.

Con đã tạo trong tâm vỏ ngoài một mục đích dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn và con nghĩ con cần nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó không phải là hướng của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một lần nữa, nếu con dùng nỗ lực mạnh đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con thì con tạo sự chống đối bên trong chính mình, và con càng ngày càng phải cố gắng hơn. Đó là lý do một số người trải nghiệm là có cái gì gãy đổ, có cái gì chết đi, họ trải qua một đột phá, một sáng ngộ hay một sự suy sụp tinh thần, nhưng họ cảm thấy có một xoay chuyển và họ không thể tiếp tục đi theo hướng cũ. Nhưng nhận biết này không cần phải là một xoay chuyển quá to lớn khiến con cảm thấy trống vắng hay cảm thấy là không có gì trong đời mình đang suôn sẻ. Con thực sự có thể học cách giải quyết các ngã tách biệt này, nhận diện các ngã tách biệt muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh. Con có thể tới chỗ nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi, và sau đó con nỗ lực, một nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

11.5. Ý chí của Thượng đế đối với Ý chí của Hiện diện TA LÀ

Có nhiều sự ngộ nhận về Ý chí Thiêng liêng, mà có người cũng gọi là Ý chí của Thượng đế. Vị sứ giả này nhiều năm trước đây tham gia một đợt truyền giáo nói nhiều đến Ý chí Thiêng liêng, Ý chí của Thượng đế. Có sự tương phản giữa ý chí của tự ngã và Ý chí của Thượng đế, và ông trăn trở điều này trong tâm và lúc đó cảm thấy chỉ có hai chọn lựa, hoặc theo ý chí của tự ngã hoặc theo Ý chí của Thượng đế, và cả hai cách đều không có chỗ cho chính ông. Dù ông theo ý chí của tự ngã hay Ý chí của Thượng đế thì ông cũng cảm thấy đây là một ý chí bên ngoài ông. Có chỗ nào cho ý chí của chính ông chăng? Lúc đó ông không hiểu rõ vấn đề nhưng đó là điều ông cảm nhận. Rốt cuộc một ngày kia ông quy hàng và nói: “Được rồi Thượng đế, xin ngài cho tôi thấy ý chí của ngài và tôi sẽ tuân theo” thì lúc đó ông nhận được một xung lực từ bên trong nội tâm, sự thực là từ chính thày: “Nếu Thượng đế chỉ muốn con tự mình lấy quyết định thì sao?” Xung lực này khiến ông chấn động, nhưng nó tạo một phản ứng dây chuyền trong ông khiến ông nhận ra là không có Ý chí Thiêng liêng nào áp đặt bất cứ điều gì lên con người.

Không có một Thượng đế giận dữ trên thiên đàng, hay ngay cả một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng, đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì. Thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa, chính con đã chọn lựa. Vấn đề có phải chăng là lấy vào một ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích và ham muốn của con, hay là vượt lên trên tất cả mọi ý chí bên ngoài, cho dù đó là ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó? Có thể nào hòa điệu với cái mà nhiều người còn không coi là uy lực ý chí? Nó giống như đại dương dâng lên lắng xuống, sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Đây không phải là một ý chí mà con muốn chấp nhận hay chối bỏ. Đây là một ý chí mà con trầm mình vào, giống như con trầm mình vào đại dương. Con hãy tưởng tượng con đang bơi trên mặt đại dương và có những ngọn sóng lớn nhưng nhẹ, và thoạt tiên con bơi và phải vất vả mới giữ được đầu trên mặt nước, nhưng con nhận ra là con không cần thở vì con đang ở trong những thể cao của mình. Con có thể thư giãn, con có thể trầm mình vào lòng đại dương, và như vậy con không còn vùng vẫy trên mặt đại dương nữa và con chỉ nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương và con di động theo ý chí cao đó. Con không vùng vẫy, con không dùng lực, và đó là điều mà Lão Tử có nói là con không làm gì cả nhưng không có nghĩa là con thụ động. Không có nghĩa là con phải ngồi trong một hang động trong núi Himalaya và suốt ngày thiền định về Thượng đế. Con có thể có một cuộc sống tích cực, con có thể làm một số công việc, con có thể lấy quyết định nhưng con không áp đặt các quyết định của mình. Con không lấy các quyết định này với tâm vỏ ngoài. 

Con chỉ trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia, và bỗng nhiên con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Nhưng điều này nghĩa là gì?

11.6. Vật lộn với ý chí và mục tiêu vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào cuộc đời mình và thấy là con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số mục tiêu vỏ ngoài cho cuộc đời của mình chăng? Có lẽ cha mẹ con đã thúc đẩy con đi học, làm một công việc nào đó, bắt đầu một sự nghiệp sẽ dẫn con dần dần tới những chức vụ cao hơn cho tới khi con tới mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp nơi tất cả mọi sự nghiệp phải chấm dứt, đó là về nghỉ hưu.

Con làm việc trong 40 năm hay nhiều hơn để đạt được chức vụ đó, để rồi về nghỉ hưu một thời gian ngắn sau khi con đạt tới đó. Con đã trải qua cả cuộc đời tìm cầu, và khi con nghỉ hưu và không còn tìm cầu nữa thì con không biết phải làm gì với chính mình. Có rất nhiều người chết trong vòng một hoặc hai năm sau khi nghỉ làm về hưu vì họ không còn lẽ sống nữa. Con có thể thấy nhiều người đi theo con đường vạch sẵn đó suốt đời họ, và sau khi họ rốt cuộc về hưu thì họ nhìn lại cuộc đời họ và cảm thấy: “Cuộc đời này có nghĩa gì? Tôi đã đạt được gì? Những thành tựu bên ngoài mà tôi đã đạt được, cuộc đời thật sự chỉ là thế hay sao?”

11.7. Những trồi sụt trên con đường tu

Khi con là một đệ tử tâm linh thì con có thể nói: “Không, những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.” Con thấy là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Một ngọn sóng trồi lên, con có thể có một trải nghiệm tâm linh cao, cảm thấy nối kết thật sự, nhưng sau đó tới lúc phải làm việc, phải nhìn vào tâm lý của mình. Con có thể cảm thấy mình đang tụt dốc, nhưng làn sóng cứ tiếp tục đi tới xuyên qua đại dương, và nó sẽ lại trồi lên, và lần này nó trồi lên cao hơn trước. Con nhận ra là tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn. Đến cuối đời con thấy là bất kể các kết quả vật lý mà con đạt được, con đã nâng tâm thức mình lên. Các thành tựu vật lý có quan trọng chăng khi con đã nâng tâm thức?

Vì khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào chăng? Con có thể mang được gì theo con? Chỉ có trình độ tâm thức. Nếu con đã nâng tâm thức mình lên tầng 100 trong một kiếp sống, thì con sẽ bắt đầu ở mức đó trong lần đầu thai kế tiếp, hay ít ra là con có thể mau chóng đạt trở lại mức đó. Như vậy có nghĩa là việc con thăng thiên trong kiếp đó là điều thiết thực. Hoặc con có thể thăng thiên trong kiếp đầu thai này, nhưng không phải nhờ dùng nỗ lực mạnh nhưng bằng cách nối kết với dòng chảy của ý chí, của Ý chí Thiêng liêng, không chú trọng vào thành tựu đặc thù nhưng vào việc nâng cao toàn thể sự sống lên. Mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

11.8. Vũ khúc hoàn vũ của Tâm Một

Con có thể hỏi, khác biệt giữa tâm thức và rung động là gì? Tâm thức là cái gì có thể rung động và có khả năng khiến năng lượng rung động. Tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Trong cái Tâm Một đó, tâm thức có thể tự nó khiến nó rung động như năng lượng, và sau đó tâm thức có thể biểu thị chính nó như một sinh thể cá biệt có tự nhận biết, và lúc đó có thể khiến năng lượng rung động để thành hình tướng, và sinh thể thị hiện hình tướng lúc đó có thể nhận biết và trải nghiệm hình tướng. Đây là cách sự đồng-sáng tạo tiến hành, nhưng sự đồng-sáng tạo không những chỉ có mục đích nâng các sinh thể cá biệt lên các tầng tâm thức và khả năng đồng-sáng tạo cao hơn, nhưng còn có mục đích nâng lên cái mà ta có thể gọi là năng lượng hay vật chất, nâng cao độ rung động cho tới khi thấy rõ ràng là mọi hình tướng đều là tâm thức, đều xuất phát từ Tâm Một.

Đây là vũ khúc hoàn vũ, khi Tâm Một khoác vào hình tướng, khởi đầu với một ý niệm bản ngã hạn hẹp, nới rộng ý niệm bản ngã đó ra cho tới khi cái ta nhận ra nó là một phần nối dài của tâm một, nó là một đồng-sáng tạo với đấng Sáng tạo. Lúc đó, cái ta cá biệt xoay chuyển để không còn theo đuổi các mục đích như một ngã tách biệt nữa, nhưng trở thành một phần của tiến trình đồng-sáng tạo lớn lao nâng tất cả mọi sự sống lên, qua đó nâng mọi sự sống lên, nâng Tâm Một lên, và đây là điều mà tâm đường thẳng không thể hiểu.

Khi các thày nói chỉ có Tâm Một, con nghĩ (như nhiều người đã nghĩ) là điều này có nghĩa Tâm Một toàn hảo, nó không bao giờ thay đổi, nó là thực tại tối hậu, nhưng vì sao con hiện hữu như một hình tướng được biểu lộ? Đó là vì lúc nào cũng có các hình tướng được biểu lộ từ Tâm Một, và khi tâm tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng, mở rộng. Tâm đường thẳng hỏi: tiến trình này đã diễn ra từ bao lâu rồi? Từ muôn thuở là câu trả lời duy nhất. Ấy – tâm đường thẳng lại hỏi – nếu Tâm Một tăng trưởng chính nó từ muôn thuở, thì ắt hẳn nó phải tới một trạng thái tăng trưởng tối hậu. Làm sao nó có thể tăng trưởng mãi mãi? Tiến trình này khởi sự lúc nào? Có cái gì trước khi Tâm Một hiện hữu hay trước khi Tâm Một quyết định biểu lộ chính nó?” Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi, và sự tự tăng trưởng của Tâm Một không có giới hạn, không có kết thúc. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt, vì ai có thể nắm cái vô biên?

11.9. Hòa điệu với Hiện diện của các chân sư

Thày không nói là thày, như một chân sư thăng thiên, có thể nắm bắt sự tăng trưởng vô biên, vô tận nhưng thày có thể nắm bắt nó nhiều hơn mỗi ngày. Khi con nắm bắt cái hơn nữa, và tiến trình lúc nào cũng trở nên hơn nữa, thì con có lý do gì cần nắm bắt tiến trình một cách tối hậu? Vì tại sao con lại muốn đạt một mục đích nào đó, một mục đích tột cùng nào đó, khi con nhận ra là bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa? Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng – và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Con có thể trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu. Thày chỉ có thể cống hiến con Hiện diện của thày, các bài chú bài thỉnh của thày, quyển sách của thày là quyển đầu trong bộ sách về khóa học Tự Điều ngự. Lẽ tất nhiên, tất cả các thày là các Thượng sư trao truyền khóa học này không phải chỉ để giúp các con nâng tâm thức từ tầng 48 lên tới tầng 96, mà còn để các con có thể dùng mỗi quyển sách để hòa điệu với vị Thượng sư đã trao truyền quyển đó. Nếu con cảm thấy gần gũi với một vị Thượng sư, thì con hãy lấy quyển sách của vị ấy, đọc các bài truyền đọc, đọc các bài thỉnh với mục đích hòa điệu, chỉ hòa điệu với hiện diện của vị Thượng sư đó. Bất kể tầng tâm thức hiện tại của con, ngay cả khi con ở trên tầng 96, thì con sẽ thấy là sử dụng quyển sách sẽ cho con một hòa điệu lớn lao với vị Thượng sư, và qua đó với tia đó.

Con thấy chăng, tuy mục đích đặc trưng của quyển sách là giúp con người nâng tâm thức, trong trường hợp của thày bắt đầu từ tầng 48, nhưng lúc nào cũng có những mục đích khác. Nếu con nhìn quyển sách của thày và nói: “Ồ, tôi chắc hẳn đã trên trình độ từ tầng 48 đến tầng 55, do đó tôi không cần học quyển sách của Chân sư MORE nữa”, thì con không nắm được là có một tầng cao hơn. Quyển sách cống hiến một cái gì hơn các tầng căn bản. Hơn bao nhiêu? Khi con còn hiện thân trong cõi vật lý, thì lúc nào cũng có cái hơn nữa. Con có thể ở tầng 144 và con có thể sử dụng quyển sách mà vẫn gặt hái được điều gì từ đó giúp con kết nối với cái hơn nữa. Vì giống như vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn ngắm, tất cả mọi chuyện đều nằm trong mắt người nhìn ngắm, và vấn đề chỉ là cách con nhìn sự việc và cách con dùng một giáo lý hay một dụng cụ tâm linh để vượt thăng tầng tâm thức hiện tại của con.

11.10. Con không vượt quá mức này

Kẻ địch lớn nhất của tăng triển tâm linh là gì? Đó là con cho phép mình tin lời nói của các ngã tách biệt còn sót lại và của tự ngã cho rằng: “Ồ, tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học giáo lý này nữa. Quyển sách này được trao truyền cho những ai ở các tầng tâm thức thấp. Tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học quyển sách này nữa.” Con đang hiện thân trong cõi vật lý, phải không con? Quyển sách của thày, bất kể mục đích đặc trưng của nó, đã được trao truyền từ một tầng tâm thức cao hơn tâm thức hiện thân vật lý. Làm sao con có thể vượt quá nó khi con còn xác thân vật lý? Làm sao con có thể vượt quá sự trợ giúp của thày là một chân sư thăng thiên?

Con hãy giám sát chính mình để nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh. Lúc nào cũng có cái gì hơn nữa có thể kích hoạt điều gì đó trong con giúp con bỗng nhiên thấy một ảo tưởng, nếu con sẵn lòng thấy ảo tưởng, nếu con có ý chí muốn thấy ảo tưởng.

Có một tha hóa khác của ý chí khi con không sẵn lòng thấy ảo tưởng vì con nghĩ mình đã vượt quá ảo tưởng đó hay mọi ảo tưởng. Con nghĩ rằng con đã đạt tới một tầng nơi con không cần với lên cái hơn nữa, con chỉ cần đợi tới lúc thăng thiên. Nếu con đang hiện thân trong thân vật lý thì làm sao con thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa? Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp và rốt cuộc tới tầng 144 là nơi con phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp, là tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên.

11.11. Những tầng cao hơn của tâm thức thăng thiên

Đúng vậy, con yêu dấu, thày quả thực vừa nói tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên, vì con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên thì con đã đạt được một tầng tâm thức tối hậu? Con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên từ trái đất, con đã đạt tới cùng tầng tâm thức với Phật Gautama hay Đại chỉ đạo Thiêng liêng hay Alpha và Omega? Lẽ tự nhiên, khi con thăng thiên từ trái đất, con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có ở cõi thăng thiên, và sau đó con bắt đầu làm việc để nâng mình lên cao hơn bằng cách với lên cái hơn nữa. Sau đó, con dần dần, và với đa số chúng ta tiến trình này có thể cần thời gian, con dần dần đạt tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng đây là một đoạn đường dài cho tất cả chúng ta, kể cả thày. Thày đã trải nghiệm chợt thoáng nhận tâm thức của đấng Sáng tạo, và nó chắc chắn cao hơn tâm thức của thày vô lượng, tuy thày không còn ở tầng tâm thức đầu của một chân sư thăng thiên.

Lúc nào cũng có cái hơn nữa, ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có cái hơn nữa. Con có thể lấy thái độ này, là thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, tuy rằng thày đã đặt cho mình tên Chân sư MORE. Vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Con hãy tính chuyện tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó. Con hãy suy ngẫm quan niệm có thể xem là một nghịch lý: quy thuận theo ý chí. Nhiều người cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con hãy tính chuyện quy thuận theo ý chí. Vì đó là một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

11.12. Lòng tri ân của các chân sư thăng thiên đối với các đệ tử Hàn Quốc

Tới đây thì thày muốn biểu lộ lòng tri ân của thày vì các con đã hiện diện ở đây, đã tổ chức hội nghị này, đã tham dự đông đảo vào công việc này tại Hàn Quốc, phiên dịch các bài giáo lý, phổ biến các giáo lý, đọc chú đọc thỉnh, tổ chức các sinh hoạt này, tạo ra tất cả các dụng cụ tu tập mà các con đã tạo ra. Các thày biết là các con không cần được khen ngợi, vì con không cần tham vọng thế tục đó. Nhưng các thày muốn các con biết rằng, lẽ đương nhiên, các thày biết các nỗ lực lớn lao mà các con đã bỏ ra. Các thày biết ơn các con đã làm nhiều việc để mang các giáo lý này đến nhiều người hơn trong quốc gia này. Tuy có thể có lúc con cảm thấy hơi nản chí vì con có hy vọng các nỗ lực của mình gặt hái được kết quả vật lý cao hơn, nhưng thày bảo đảm với các con là trong sự vận chuyển rộng lớn hơn của đại dương là tâm thức tập thể của quốc gia này, các con đã tạo ra một sự vận chuyển mới, một sự vận chuyển đi lên. Điều quan trọng không phải là kết quả bên ngoài mà là sự nâng cao tâm thức.

Các thày đều hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện khi biết rằng các con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng cả dân tộc này lên. Thày không phải chỉ nói đến phần phía nam của dân tộc này, mà cả dân tộc, cho tới khi làn sóng đó tràn qua biên giới và cuốn đi mọi kháng cự một ngày mới. Tới đây, thày niêm phong các con trong Ngọn lửa HƠN NỮA mà thày LÀ.

7 | Thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Shiva qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Shiva. Ắt hẳn con cũng có thể khẩn cầu thày để thày giúp con khắc phục các nỗi sợ của con và con có thể niệm câu chú Om Shiva, hay chỉ chữ Shiva để giúp con đi vào bên trong và thiêu rụi các nỗi sợ đó trong cảm thể của con. Con cũng có thể kết hợp các lời kêu gọi Đại thiên thần Michael và thày vì lẽ tất nhiên các thày không bị phân rẽ bởi bất kỳ phân chia nào giữa các truyền thống Đông và Tây. Các thày là một, tuy các thày có những sắc thái khác nhau, những pha màu khác nhau của ánh sáng mà các thày đem lại. Kết hợp hai thày rất hiệu quả để tiêu trừ các nỗi sợ.

7.1. Điều nghịch lý của tâm đường thẳng

Tuy nhiên mục đích chính yếu của bài giảng này lẽ tất nhiên không phải là để giải quyết nỗi sợ mà là để tiến tới điều kế tiếp thực sự khiến con người rời xa sự kết nối và đó tất nhiên là tâm lý trí. Chắc chắn cả hai thày Quan Âm và Mẹ Mary đều đã giảng về chủ đề này, nhưng thày muốn cho các con thêm một số ý nghĩ vì trong thế giới hiện đại tâm lý trí là chướng ngại lớn nhất cho người tâm linh. Lý do chính là vì các chế độ dân chủ Tây phương đã lan truyền khắp thế giới nhiều ý tưởng rất dính chặt vào tâm đường thẳng, tâm lý trí, tâm lô gíc, tâm phân tích, đặc biệt là qua khoa học và khoa học duy vật.

Các thày quả thực muốn nói gì khi nói đến tâm đường thẳng? À nó là cái tâm muốn đặt mọi sự trên một dòng thời gian, hoặc trên một loại đường thẳng nào đó có thể chia thành nhiều phần nhỏ hơn. Nó cũng muốn đặt mọi sự trên một dòng thẳng nơi có một nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Hậu quả có thể trở thành một nguyên nhân khác dẫn đến hậu quả khác, nhưng có một sự đều đặn, một quy luật tự nhiên nào đó quy định rằng một nguyên nhân đặc trưng sẽ luôn luôn dẫn tới một hậu quả đặc trưng theo một lối đường thẳng mà không có ngoại lệ.

Để đơn cử vài thí dụ về tâm này, con hãy bắt đầu đếm. Một, hai, ba, bốn, năm và con tiếp tục đếm. Con tiếp tục được bao lâu? À, giả sử là vô thời hạn. Câu hỏi là có ai có thời giờ để làm chuyện này? Ai có thời gian vô tận? Giả sử con có thời gian vô tận, thì con có muốn dùng thời gian này để đếm và xem mình đếm được tới đâu chăng? Đấy có phải là tầm nhìn cao nhất của con về điều con làm được với thời gian vô tận? Con thấy là khi con thực sự bắt đầu suy ngẫm về vô hạn hay về con số vô tận thì tâm đường thẳng không cam nổi. Nhưng phải chăng chính tâm đường thẳng đã quy định là lúc nào con cũng có thể thêm một và do đó coi như con có thể đếm đến vô tận? Con thấy đó, tâm đường thẳng dựng lên một diễn tiến đường thẳng, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới kết quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng này thì tâm đường thẳng gần như bị chạm dây điện vì nó không thể nắm bắt điều này.

Một ví dụ khác là triết gia Hy Lạp Zeno, người đã đề ra nghịch lý cho rằng nếu muốn đi bộ từ thành phố này tới thành phố kia, thì con sẽ không bao giờ tới nơi, vì trước tiên con phải đi bộ tới điểm ở giữa. Sau đó con phải đi bộ tới điểm ở giữa của khoảng cách còn lại và con có thể tiếp tục chia vô tận khoảng cách còn lại làm hai. Con luôn luôn có thể chia bất cứ con số nào làm hai, bất cứ khoảng cách nào làm hai, cho nên con không bao giờ tới nơi được. Một lần nữa, khi con bắt đầu nghĩ tới chuyện này, con nhận ra đây là điều tâm đường thẳng làm. Nó tạo ra một diễn tiến đường thẳng dựa trên một sự đều đặn nào đó, một quy luật nào đó và coi như có thể kéo dài vô tận, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới hậu quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng đó thì tâm đường thẳng không đương được nữa.

Vì quả thực, con lấy từ đâu ý tưởng là con có thể tiếp tục đếm số vô thời hạn? À, đó là cái ý tưởng đường thẳng cho rằng con luôn luôn có thể cộng thêm một số. Nhưng nếu con tiếp tục đi xa đủ, phải chăng sẽ tới điểm con đạt tới một con số lớn vô tận? Làm sao tâm đường thẳng đương nổi điều này? Chắc chắn nó không thể đương được khái niệm vô tận. Nhưng phải chăng đấy là điều tâm đường thẳng nói, rằng con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn? Con có thể đếm vô thời hạn vậy thì tại sao tâm đường thẳng không cam nổi vô thời hạn?

Con cũng có thể nhìn vào chuyện mà các thày có giảng, là thế giới hình tướng do chỉ một đấng Sáng tạo sinh tạo ra. Nhưng đấng Sáng tạo từ đâu tới? Có gì trước khi thế giới hình tướng hiện hữu? Và sau đó tâm đường thẳng muốn hỏi, nhưng nếu thế giới này có điểm khởi đầu thì có gì trước điểm khởi đầu? Có cái gì khi thế giới chưa có, chưa được sinh tạo? Và sự sinh tạo các thế giới bắt đầu lúc nào? Có gì trước đó? Và các thày có thể nói lúc nào cũng có một thế giới hình tướng, nhưng tâm đường thẳng có đương đầu được chăng với chuyện này?

7.2. Mọi hình tướng đều được quy định bởi giới hạn

Tâm đường thẳng hầu như bị chạm dây điện khi con suy ngẫm điều này. Bởi vì dù không cam nổi cái vô tận, tâm đường thẳng muốn có điểm khởi đầu. Có thể là không có điểm kết thúc nhưng phải có một điểm khởi đầu. Con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Một, hai, ba, trừ mười, trừ chín, trừ tám. Nhưng con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Nhưng nếu không có điểm kết thúc, làm sao có điểm khởi đầu? Hãy suy ngẫm điều này.

Nếu con nói con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn, tại sao phải bắt đầu từ số một? Con thực sự bắt đầu ở đâu và khi nào thì càng đếm tới số cao hơn và cao hơn nữa, cuối cùng con sẽ tạo một vòng tròn khép kín? Quả thật như Albert Einstein đã nói, nếu con du hành trong không gian và tiếp tục đi cùng một hướng theo một đường thẳng, thì một ngày kia từ hướng đối ngược, con sẽ trở về điểm khởi đầu vì sự liên tục không gian-thời gian tạo thành một vòng khép kín. Có hợp lý chăng là không có gì vô tận trong thế giới hình tướng? Con không thể tiếp tục đếm vô thời hạn trong một diễn tiến đường thẳng vì thế giới hình tướng có giới hạn.

Thế giới hình tướng có hình tướng, và hình tướng là gì nếu không là giới hạn? Một hình vuông được quy định bởi bốn đường thẳng. Một hình tròn được quy định bởi một đường. Con quả thật có thể mãi mãi đi vòng chung quanh hình tròn, nhưng con không thể đi ra ngoài hình tròn. Có một giới hạn. Mọi hình tướng đều được quy định bởi một giới hạn. Nếu con bắt đầu ở số không và đếm đủ lâu, thì không sớm thì muộn con sẽ trở về số không. Con hãy chiêm nghiệm câu này và xem tâm đường thẳng phản ứng ra sao. Ở đây thày không muốn nói đến một chân lý tuyệt đối. Thày chỉ đang tìm cách chỉ cho con thấy những giới hạn của tâm đường thẳng. 

7.3. Luật Tự quyết không theo đường thẳng

Tâm đường thẳng làm gì khi con xem xét ý tưởng kết nối với một chân sư thăng thiên? Nó sẽ nói: “Có một khoảng cách giữa nơi tôi đang ở và nơi vị chân sư ở và tôi cần phải vượt qua khoảng cách đó.” Nhưng nó sẽ tìm cách thiết lập một diễn tiến. “Tôi phải làm gì để vượt qua khoảng cách? Tôi phải đọc chú. Tôi phải đọc thỉnh. Tôi phải bỏ ra bao nhiêu tiếng đồng hổ mỗi ngày để đọc chú và nếu tôi tiếp tục làm vậy năm này qua năm nọ, thì không sớm thì muộn, có lẽ là muộn, có lẽ là sau một thời gian dài, thì một ngày kia, như một phép lạ, vị chân sư sẽ hiện ra.” Vì tâm đường thẳng muốn tin rằng có nguyên nhân và có hậu quả, và có những quy luật quy định diễn tiến từ nguyên nhân tới hậu quả. Nếu con ngồi đây và quyết định: “Tôi muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, tôi sẽ thiết lập một chương trình hợp lý, lô-gíc, tuần tự từng bước đọc chú và đọc thỉnh”, và sau đó con quyết định là nếu con tiếp tục làm theo chương trình này, thì một lúc nào đó vị chân sư sẽ phải xuất hiện. Vì con nghĩ chắc hẳn các chân sư thăng thiên phải tuân theo một quy luật nào đó, một diễn tiến nào đó.

Và đúng vậy, con yêu dấu, các thày có tuân theo một quy luật. Nó được gọi là Luật Tự quyết, nhưng Luật Tự quyết không đi theo đường thẳng. Làm sao nó có thể như vậy? Làm sao con có tự quyết khi con phải đi theo một con đường nào đó? Làm sao con có tự quyết khi chỉ có sự tiến hành đường thẳng, và như vậy nếu con bước một bước về một hướng nào đó, thì sau đó con phải từng bước tiếp tục đi cùng hướng đó và không thể đi trệch hướng mà con đã chọn? Làm sao như vậy lại có thể là tự quyết? Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường vĩ đại và bằng phẳng, giống như Quảng trường Thế Vận hội không cách xa đây bao nhiêu. Con đứng ở giữa quảng trường. Quảng trường mở rộng và bằng phẳng về mọi hướng chung quanh con. Con dự định bước một bước. Nhưng con có vòng tròn 360 độ chung quanh con. Con có thể đi về bất cứ hướng nào. Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng là một khi con đã bước một bước về một hướng nào đó, thì con sẽ phải tiếp tục bước theo đường thẳng về hướng đó.

Con có thể nói chọn lựa đầu tiên là chọn lựa tự do, nhưng các chọn lựa sau thì không. Như vậy có thực sự là tự quyết chăng? Không đâu, đó là điều mà sa nhân muốn con tin đấy.  Đó là lý do vì sao họ đã sáng chế ra hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phán xét coi con là một tội đồ ngay từ khởi thủy, hoặc cách diễn giải hạn hẹp của luật nhân quả ở phương Đông cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời này đều đã được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Nhưng luật nhân quả không theo đường thẳng, như các thày đã giảng, vì nếu con vượt thăng tâm thức đã khiến con lấy một quyết định nào đó trong một tiền kiếp, thì khi xung lực nghiệp trở về nó sẽ không đi xuống tầng vật lý vì không có gì ở các thể cao của con củng cố nó.

Luật Tự quyết có nghĩa là bất kể con đã bước bao nhiêu bước về một hướng, nhưng con lúc nào cũng có thể đổi hướng. Làm sao lại có thể có quy tắc đường thẳng? Làm sao lại có thể có diễn tiến máy móc? Làm sao con có thể thiếp lập một chương trình trong tâm nói rằng nếu tôi trung thành theo chương trình này thì một ngày kia chân sư phải xuất hiện và kết nối với tôi? Đúng, khoa học đã khiến con nghĩ như vậy, rằng thế giới giống như một bộ máy vĩ đại. Và nếu con đi một số bước, tỷ dụ như cắm máy thu thanh vào ổ điện, bấm nút bật, rà đúng đài, thì con sẽ nghe được âm nhạc mà con muốn.

7.4. Con không thể kết nối qua tâm đường thẳng

Hoặc nếu con để thực phẩm vào lò vi ba, định nhiệt độ và thời gian, thì có lúc sẽ có tiếng kêu “đinh” và thực phẩm của con được nấu chín. Khoa học và công nghệ đã khiến biết bao người trong thế giới hiện đại tin rằng, nếu con theo đúng một thủ tục nào đó, thì phụt một cái, một chân sư thăng thiên sẽ phải xuất hiện, giống như thằng hề có lò xo bật ra từ trong hộp. Vì con đã xoa vào cây đèn của Aladdin bằng cách đọc biết bao bài chú bài thỉnh trong nhiều năm, nên chắc chắn vị chân sư phải xuất hiện giống như vị thần hiện ra từ cây đèn và nói: “Chủ nhân muốn sai khiến gì? Tôi sẽ cho ngài bất cứ gì ngài muốn. À, ngài chỉ được ba điều ước, nhưng như vậy còn hơn là không có điều nào.”

Đây là tư duy của nhiều người khi họ tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên và bắt đầu đọc chú đọc thỉnh. Một lần nữa, các thày không chê trách ai. Các thày chỉ giản dị chỉ cho con thấy đây là điều tâm đường thẳng làm, nhưng các thày là chân sư thăng thiên không đang hiện thân ở cõi vật lý. Các thày không nằm dưới luật đường thẳng. Và quả thật con cũng không nằm dưới luật đường thẳng. Lẽ tất nhiên có quy luật nguyên nhân và hậu quả, và nếu con đi về một hướng trong một thời gian dài và luôn luôn cảm thấy giận người khác, thì con sẽ chịu một số hậu quả.

Nhưng các thày đã nhiều lần nói điều gì? Nếu con lấy một chọn lựa và nó không có hậu quả, thì làm sao con biết là con đã chọn lựa? Hậu quả của chọn lựa của con không có mặt để áp đặt những chọn lựa tương lai của con. Chúng chỉ có mặt để cho con thấy là tư duy này sẽ dẫn tới hậu quả nọ. Nếu con không thích hậu quả đó, thì con thay đổi tư duy. Con thay đổi điều con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ và con gặt hái một cái gì khác.

7.5. Con không thể đồng sáng-tạo một cách đường thẳng, máy móc

Con thấy chăng, có lẽ con không thấy nhưng con có thể tới điểm thấy, là không có gì thực sự đi theo đường thẳng. Ngay cả khoa học cũng đã chứng minh điều này gần một thế kỷ trước đây. Các nhà vật lý lượng tử khám phá rằng, ở tầng cơ bản nhất của vật chất, tâm người khoa học gia không những ảnh hưởng hiện tượng quan sát, mà còn tạo ra hiện tượng quan sát. Cho nên có câu hỏi trong dân gian là nếu một cây đổ trong rừng mà không có ai ở đó, thì liệu cây đổ có tạo ra tiếng động chăng? Hoặc mặt trăng có đó chăng khi không ai nhìn? Và sự thực là nếu không ai nhìn thì mặt trăng sẽ không có đó. Nhưng, như các thày có nói, các thày là chân sư thăng thiên lúc nào cũng nhìn, các tinh linh lúc nào cũng nhìn. Và tại sao vậy? Vì mục đích duy nhất của thế giới hình tướng là để giúp con tăng triển nhận biết. Các thày duy trì một số hình tướng trong một thời gian cho đến khi con người học xong bài học. Con học bài học gì khi đầu thai trong cõi vật lý? Đó là những gì con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện. Đây là điều các khoa học gia đã khám phá một thế kỷ nay.

Không có nhiều khoa học gia chịu thực sự suy nghĩ ý nghĩa của khám phá này. Nhưng nó có nghĩa là điều mà các khoa học gia đã khám phá ở tầng lượng tử là điều mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có thể mang vào bất kể hình tướng nào, nhưng nó chỉ mang vào một hình tướng khi có một hình tư tưởng từ tâm một sinh thể có tự nhận biết phóng chiếu lên nó. Thế nào là có tự nhận biết? Điều này có nghĩa: “Tôi muốn thể hiện một cái gì mà tôi đang không hiện có. Tôi là một người đồng-sáng tạo. Tôi sẵn sàng đồng-sáng tạo.”

Con thể hiện bằng cách nào? Không theo cách đường thẳng máy móc. Con thể hiện một cách sáng tạo khi con nhận ra là con nắm giữ hình ảnh trong tâm bản sắc, tư tưởng và cảm xúc và phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng vật lý. Tiến trình này có vẻ máy móc, nhưng nó không phải vậy, vì con có thể thay đổi các hình ảnh đó bất cứ lúc nào, và không có một bộ máy vĩ đại nào với những kết quả đã được định sẵn hay có thể tiên đoán. Ngược lại, không có gì có thể tiên đoán. Chỉ có những xác suất, nhưng theo luật bất định mà cơ học lượng tử đã chứng mình cách đây một thế kỷ, không có kết quả nhất định.

7.6. Rơi vào cạm bẫy của tâm đường thẳng

Vì sao các khoa học gia lại không chấp nhận điều trên? Bởi vì đó là một trong những điều sau cùng mà sa nhân muốn con người chấp nhận. Họ khẩn thiết muốn con tin rằng một khi con đã lấy một chọn lựa thì con giới hạn khả năng lấy chọn lựa trong tương lai, và đây là một lời gian dối mà các thày đã nhiều lần phơi bày. Nhưng tâm đường thẳng thấy khó chấp nhận vì tâm đường thẳng muốn có sự đều đặn, muốn có thể đoán trước việc gì sẽ xảy ra, muốn có nguyên nhân và hậu quả, một quy luật nguyên nhân và hậu quả bất khả kháng. Đây là điều tâm đường thẳng muốn vì lúc đó nó nghĩ nó làm chủ tình hình vì nó có thể tiên đoán kết quả.

Chuyện này dính dáng gì đến chủ đề của khóa nhập thất này? Ấy, nếu con nghĩ là con có thể kết nối với một chân sư thăng thiên bằng một quá trình máy móc, thì con sẽ tạo ra một hình ảnh trong tâm con và phóng chiếu hình ảnh đó lên vị chân sư thăng thiên. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu các thày cư xử đúng theo hình ảnh đó? À, như vậy coi như các thày chứng thực là hình ảnh của con đúng. Con quả thật có thể xoa cây đèn và vị thần sẽ xuất hiện. Nhưng điều này sẽ có kết quả gì? Nó sẽ chỉ giam con vào tâm đường thẳng. Và trong tâm đường thẳng con cảm thấy con làm chủ tình hình, nhưng ở một tầm vóc rộng lớn hơn thì sa nhân cảm thấy họ đang làm chủ tình hình vì khi con còn bị giam trong tâm đường thẳng thì họ có thể kiểm soát con vì họ có thể nhìn vào sự đều đặn, và diễn tiến mà con đã tạo ra trong tâm mình. Và họ có thể dễ dàng tiên đoán bước tới của con là gì.

Con trở nên quá dễ tiên đoán khi con ở trong tâm đường thẳng. Con người nói chung trở nên quá dễ tiên đoán khi họ ở trong tâm đường thẳng, và đây dĩ nhiên là điều sa nhân muốn. Họ muốn ngưng sự sáng tạo, ngưng sự bất định bằng cách ngưng tự do chọn lựa, khi con nghĩ con không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa khởi sự chuỗi dây chuyền, nhưng khi chuỗi dây chuyền đã bắt đầu thì kết quả đã được định sẵn. Tất cả mọi giáo lý mà các thày trao truyền trong đợt truyền giáo này đều nhằm phá tan ảo tưởng này để con thấy là con không bị trói buộc bởi bất cứ gì, và bất cứ chọn lựa nào mà con đã lấy đều có thể bị một chọn lựa khác chế ngự.

7.7. Phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư

Đây là điều mà các thày mong muốn con nhận ra. Vì lúc đó con có thể chọn lựa và nói: “Cho tới nay tôi chưa cảm thấy kết nối với các chân sư thăng thiên như tôi mong muốn. Có thể chăng là vì tôi đã phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư, lên chính tôi, và lên sự kết nối, và hình ảnh này đang giam tôi vào tâm đường thẳng và do đó các Chân sư không thể xuất hiện với tôi vì như vậy tôi sẽ còn bị giam chặt hơn nữa?”

Có những người, khá nhiều người, đã tìm ra một giáo lý chân sư thăng thiên chân chính được các thày bảo trợ. Dựa trên một số giáo lý cũ mà các thày đã trao truyền trong thời Song ngư, họ đã phóng chiếu một hình ảnh về cách họ kết nối với các Chân sư. Và họ đã có một số trải nghiệm mà họ nghĩ là họ có với các chân sư thăng thiên, nhưng thật ra trong đa số trường hợp đó là với các sinh thể trong cõi tư tưởng, trong một số ít trường hợp với các sinh thể trong cõi bản sắc thấp, và trong một số trường hợp với các sinh thể trong cõi trung giới. Nhưng đại đa số các người đã tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên trong thời đại duy lý đường thẳng hiện đại này đã kết nối với các sinh thể trong cõi tư tưởng.

Nhiều hiện tượng kết nối đồng bóng mà con thấy trong thế gian là với các sinh thể trong cõi tư tưởng và con có thể học cách tức khắc nhận diện rung động của họ, hoặc đọc các câu trả lời và thấy là chúng nhằm thu hút tâm đường thẳng, tâm lý trí. Và có những người tin rằng họ đã và vẫn đang có một kết nối chân chính với các chân sư thăng thiên, nhưng đó là họ kết nối với những kẻ mạo danh trên cõi tư tưởng có khi dùng tên các thày hay có khi dùng tên khác không liên quan đến các chân sư thăng thiên. Những người thuộc phần sau ít ra còn thành thực, tuy họ đôi khi tự nhận là những sinh thể tâm linh có địa vị hay thẩm quyền.

Đây là chuyện xảy ra khi con người có mong muốn mãnh liệt kết nối, nhưng họ lại phóng chiếu một hình tư tưởng lên sự kết nối. Các thày là chân sư thăng thiên sẽ không cư xử theo hình ảnh đó, nhưng các sinh thể trong cõi tư tưởng hoàn toàn không ngần ngại cư xử theo hình ảnh của con người nếu họ có thể khiến các người đó cho họ năng lượng. Các sinh thể trong cõi tư tưởng đó cần năng lượng của con, các người đang đầu thai, vì họ không còn nhận được năng lượng từ cội nguồn nữa. 

Các thày là chân sư thăng thiên. Có năng lượng nào mà thày có thể cần từ một người đang đầu thai? Con có thể nói, như một số người đã nói, là các thày trao bài truyền đọc này cho một số người ngồi nghe, và khi họ chú tâm vào các thày thì họ cho các thày năng lượng của họ. Thật vậy sao? Con có nghĩ là thày, một chân sư thăng thiên, cần loại năng lượng chảy ra từ sự chú ý của con người? Thày có thể tiếp nhận nguồn năng lượng vô biên của đấng Sáng tạo. Tại sao thày lại cần bất cứ gì từ trái đất? Nếu con đang trực diện mặt trời, thì tại sao con lại cần mặt trăng?

7.8. Shiva, thần phá hủy ảo tưởng

Thày là Shiva. Thày đã đạt được một địa vị nào đó trong đại đoàn hoàn vũ. Thày không cần bất cứ gì từ trái đất. Thày không cần bất cứ ai quy phục thày. Thày ở đây chỉ để phụng sự những ai muốn thoát khỏi bất cứ hình thức nô lệ nào, cho dù đó là trong chính tâm mình, hay là một dính mắc vào người khác, hay vào các sinh thể trong cõi tư tưởng, cảm xúc hay bản sắc, hay vào sa nhân. Bất cứ ai yêu cầu, thày tới và cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng. Ai sẽ yêu cầu thày tới để cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng? Đó chính là công việc của thày.

Quả thực thày dùng tên được biết trong truyền thống Ấn giáo như Brahma, Vishnu và Shiva, trong đó Shiva được coi là thần phá hủy. Nhưng thày phá hủy cái gì? Làm sao thày lại có thể phá hủy cái gì thật? Chỉ có ảo tưởng mới có thể bị phá hủy, do đó thày LÀ kẻ phá hủy ảo tưởng. Nhưng những ai không muốn buông bỏ ảo tưởng thì chớ nên xin thày giúp. Lẽ tất nhiên, con có thể mặc tình xin thày giúp, vì nếu con thực sự không muốn buông bỏ ảo tưởng của mình thì thày sẽ không xâm phạm quyền tự quyết của con. Có thể nói con không mất mát gì khi con xin thày giúp, mặc dù con không muốn buông bỏ ảo tưởng, và đây là điều con là đệ tử chân sư thăng thiên nên biết.

Thày tới đây đặc biệt là để hỗ trợ con buông bỏ các ảo tưởng của tâm lý trí. Những ảo tưởng này đang tách con ra khỏi thày hay một chân sư thăng thiên khác gần tim con. Nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên thì con ít nhất có một chân sư thăng thiên rất gần tim con. Nhưng vì sao con không kết nối được với vị chân sư thăng thiên đó? Bởi vì tâm con ngăn chặn sự kết nối đó. Tâm lý trí của con ngăn chặn sự kết nối đó. Tại sao vậy? Vì con suy nghĩ. Con suy nghĩ xem sự việc phải diễn tiến ra sao: “Đâu là các cơ chế để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tôi phải làm được điều mà tâm đường thẳng thiện nghệ. Lấy một hoàn cảnh, phân nhỏ nó ra từng thành phần càng ngày càng nhỏ cho tới khi tới thành phần nhỏ nhất, và lúc đó tôi sẽ hiểu cách thế giới vận hành.”

7.9. Những giới hạn của phương pháp phân nhỏ

Đây là tiến trình đã, ít ra trong lịch sử được biết, bắt đầu với Aristotle, nhưng lẽ tất nhiên, đã bắt đầu sớm hơn rất nhiều khi sa nhân tới địa cầu. Phương pháp phân nhỏ. Bất cứ gì đều có thể phân nhỏ thành những thành phần càng ngày càng nhỏ. Nhưng con hãy nhớ lại điều thày giảng về tâm đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới nghĩ ra ý tưởng là mọi chuyện được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn, và nếu ta có thể hiểu các định luật – các định luật máy móc chi phối các thành phần nhỏ – thì ta cũng có thể hiểu cách vận hành của cái được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ. Nếu vật chất được cấu tạo bởi hạt nguyên tử và ta có thể kiểm soát hạt nguyên tử thì ta có thể kiểm soát vật chất.

Quan niệm về hạt nguyên tử được các triết gia Hy Lạp đề ra và họ nghĩ đây là thành phần nhỏ nhất cấu tạo vật chất, và nó không thể chia nhỏ thêm nữa. Hạt nguyên tử không thể phân chia. Khi các khoa học gia trong các thế kỷ gần đây khám phá ra cái mà họ nghĩ là hạt nguyên tử, thì họ dùng tên đó. Họ ban đầu tưởng nó không thể phân chia, nhưng sau đó họ khám phá là nó có thể phân chia. Nó có một lõi gồm hai loại hạt phân tử và với các hạt electron bay nhanh chung quanh. Sau đó họ khám phá là, không phải, các hạt cơ bản này không cơ bản. Có những hạt cơ bản khác nhỏ hơn. Và điều này sẽ bao giờ chấm dứt?

À, nó không bao giờ chấm dứt. Điều này cũng giống như chuyện nghịch lý của Zeno. Nếu chúng ta có một máy gia tốc cường mạnh hơn có thể gia tốc các hạt phân tử tới vận tốc ánh sáng, thì chúng ta sẽ khám phá ra hạt phân tử của Thượng đế, và lúc đó chúng ta sẽ biết vật chất vận hành ra sao. Nhưng con sẽ không bao giờ biết được làm sao vật chất mang hình tướng bằng cách tìm các phân tử càng ngày càng nhỏ hơn. Bởi vì vật chất mang hình tướng vì một hình tư tưởng từ một cõi cao phóng chiếu xuống nó. Nguyên nhân vì sao các hình tướng lại là như chúng đang là không thể tìm thấy trong cõi vật lý, cõi vật chất. Nguyên nhân được tìm thấy trong các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc và tâm linh. Bất kể cách con phân tích như thế nào thành phần của một màn ảnh chiếu phim, làm sao việc hiểu mọi chuyện liên quan đến các thành phần của màn ảnh lại có thể giúp con tiên đoán phim nào sẽ được chiếu vào lúc bảy giờ tối hôm nay? Chuyện này không được quy định ở tầng của màn ảnh.

7.10. Hãy ngưng đẩy các thày ra xa

Con là đệ tử chân sư thăng thiên không thể phân nhỏ các thày, là chân sư thăng thiên, thành các thành phần cơ khí. Nếu con làm vậy và chờ đợi các thày xuất hiện – thì ai đó có thể xuất hiện nhưng không phải các chân sư thăng thiên. Con không thể phân nhỏ chính con thành các thành phần cơ khí. Con có thể đọc chú trong nhiều năm, nhiều giờ mỗi ngày. Nhưng không có gì bảo đảm là một ngày kia con sẽ kết nối với các thày. Vì sao vậy? Vì con cần xoay chuyển tâm mình để thay vì đẩy sự kết nối ra xa như con đang làm, con ngừng gắng sức và để cho sự kết nối xảy ra.

Thày đang ở đây. Ở đây là gì? Bất cứ con đang thấy mình ở đâu, thì thày ở đó. Con không cần với ra xa để kết nối với thày. Sự thực là con không cần kết nối. Con chỉ cần xoay chuyển tâm và nhận ra là thày đang ở đây. Thày LÀ Shiva. Thày không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Thày ở bất cứ đâu con đang ở. Nhưng tâm lý trí không thể hiểu điều này, bởi vì cái gì tạo ra diễn tiến từ cái này sang cái tới? Đúng rồi, đó là quan niệm tách biệt. Bằng cách nào con đi từ một thành phố này sang thành phố khác? Con phải vượt qua khoảng cách. Con nghĩ rằng để kết nối với một chân sư thăng thiên con phải vượt qua một khoảng cách. Nhưng khoảng cách đó không có.

Thày có thể tiếp tục nói mãi về chủ đề này. Thày có thể tiếp tục trao cho con giáo lý càng ngày càng vi tế, và rất rất nhiều người đã và vẫn còn chờ đợi giáo lý kế tiếp. Chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu hay một giáo lý cao siêu hơn. Một ngày nào đó tôi sẽ tìm ra giáo lý sẽ mở cửa cho tôi. Nhưng con chỉ đang đẩy các thày ra xa, hay đúng hơn con đẩy con ra khỏi các thày, vì con không thể đẩy các thày. Đúng đấy, đây lại là một bí ẩn khác. Quả đúng là không phải ai ai cũng có thể xoay chuyển tâm ngay lúc này và nhận ra là thày ở đây. Bởi vì con đang ở một tầng tâm thức thấp trong số 144, con có quá nhiều ngã tách biệt, con có quá nhiều năng lượng tồn đọng, nên con không thể xoay chuyển tâm, vì tất cả các thứ đó níu kéo tâm con, tâm ý thức của con. Chúng kéo cái Ta Biết của con về phía các ngã tách biệt.

7.11. Một dụng cụ để thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Quả đúng là có một diễn tiến. Con bắt đầu bằng đọc chú, học giáo lý và con dần dần chuyển hóa một phần năng lượng, buông bỏ ảo tưởng và lực trì kéo trên tâm con giảm bớt. Và con càng ngày càng dễ thoát ra khỏi tâm đường thẳng, nhưng con sẽ phải làm sự vượt thoát đó. Và việc này có tính chất sáng tạo, nó không phải là kết quả máy móc của một tiến trình máy móc. Nếu con theo đuổi một giáo lý khác và sau đó con không kết nối, và con nghĩ là phải có một giáo lý cao hơn và con lại theo đuổi giáo lý đó và vẫn không kết nối, con có thể tiếp tục làm như vậy mãi mãi. 

Đâu là giải đáp cho nghịch lý của Zeno – cho rằng trước tiên con đi tới điểm giữa, sau đó tới điểm giữa của khoảng cách còn lại, do vậy con sẽ không bao giờ tới được mức đến vì con cứ phải đi một nửa khoảng còn lại? Giải đáp là gì? À, một thời gian đầu con có thể nói: “Trước tiên tôi đi đến điểm giữa, rồi sau đó tôi đi tới điểm giữa của khoảng cách còn lại bằng cách bước một số bước cho tới khi tôi tới điểm giữa đó.” Nhưng nếu con tiếp tục làm vậy thì con sẽ tới điểm con tới thật gần mức đến và con chỉ cần bước một bước để vượt qua khoảng cách còn lại. Lúc đó thì có nhu cầu đi tới điểm giữa nữa chăng? Không có nhu cầu.

Con chỉ cần thoát ra khỏi tâm đường thẳng và nói: “Tại sao tôi lại cần đi tới điểm giữa khi chỉ cần một bước là vượt qua được khoảng cách còn lại? Tại sao tôi lại phải bước nửa bước, sau đó một phần tư bước, sau đó một phần tám bước? Tại sao lại cần sự ngu ngốc này khi tôi chỉ cần bước một bước là tới đích?” Con phải tới điểm trong tâm khi con nói: “Tại sao tôi cần nghĩ là tôi phải làm chuyện gì khác để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tại sao tôi không kết nối ngay bây giờ?”

Vấn đề không phải là suy nghĩ bằng tâm đường thẳng. Vấn đề là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, do đó chúng ta sẽ làm chuyện này. Con đã tụng niệm tên thày, nhưng thày mời con hãy tụng niệm cùng với thày, và chúng ta sẽ thấy chuyện gì có thể xảy ra:

Shiva (40x)

OM Shiva (16x)

OM Shiva OM (8x)

OM Shiva OM (10x)

Shiva OM (3x)

Shiva (96x)

TA LÀ Shiva (16x)

Shiva TA LÀ, TA LÀ Shiva (16x)

TA LÀ xác thân này, Shiva TA LÀ (18x)

TA LÀ các cảm xúc này, Shiva TA LÀ (13x)

TA LÀ các tư tưởng này, Shiva TA LÀ (11x)

TA LÀ bản sắc này, Shiva TA LÀ (12x)

OM Shiva (8x)

OM Shiva (20x)

OM Shiva (38x)

Shiva OM (40x)

OM Shiva (9x)

OM (3x)

Thày LÀ Shiva và thày đã góp công vào việc khiến tâm đường thẳng bị xáo trộn, rối rắm, vô hiệu hóa. Bất cứ lúc nào con cảm thấy cần vượt quá tâm đường thẳng, thì con có thể tụng niệm những câu chú gọi tên thày bằng cách dùng một bản thu âm hay bằng cách tự con tụng niệm. Con có thể thay đổi các câu chú tùy theo cảm hứng. Con có thể chế ra vô số dạng chú Shiva để tụng niệm. Con đừng nên sợ dùng khả năng sáng tạo của mình và hãy dùng dụng cụ này để vô hiệu hóa tâm đường thẳng. Với đa số các con, tâm đường thẳng chính là trở ngại chính cho việc kết nối với cái ta cao của con và với các thày, các chân sư thăng thiên.

Quả thật là các thày ở đây vì các con, vì nếu không thì các thày đã không ở lại địa cầu, vì hành tinh là gì khác ngoài một tấn tuồng để con người trên sân khấu có một môi trường trải bày những gì họ phản-sáng tạo hay đồng-sáng tạo? Làm sao con có thể đồng-sáng tạo nếu con không kết nối được với các đấng sáng tạo ở tầng cao hơn con? Lúc đó con sẽ phải đi vào tách biệt và phản-sáng tạo cho tới khi định luật sẽ rốt cuộc phản-sáng tạo những gì con phản-sáng tạo. Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, và thày cảm ơn sự hiện diện của các con ở đây, sự hiện diện vật lý, sự hiện diện cảm xúc, sự hiện diện tư tưởng, sự hiện diện bản sắc và Hiện diện TA LÀ của các con. Thày niêm các con trong tình thương bốc cháy của Shiva mà thày LÀ.

3 | Chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong thân thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thày đại diện cho Mẹ Thiêng liêng đối với mọi người trên trái đất. Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất và cho dù danh hiệu Mẹ Mary gắn liền với truyền thống Cơ đốc giáo, thày là Mẹ Thiêng liêng cho mọi người trên trái đất. Hiện diện của thày, Bản thể của thày, là phổ quát – nó vượt khỏi đạo Cơ đốc, vượt khỏi mọi nhãn hiệu nào khác, vượt khỏi mọi hình tướng nào khác.

3.1. Khía cạnh nuôi dưỡng của Thượng đế

Vậy trách vụ Mẹ Thiêng liêng vốn làm gì trên trái đất, làm gì cho con người trên trái đất? À, nó có mục đích làm nhiều thứ, nhưng trước hết là đại diện cho khía cạnh Mẹ của Thượng đế, tức là khía cạnh nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Một khái niệm xa lạ với nhiều người không cảm thấy mình được nuôi dưỡng, đang sống trong nghèo khó, thiếu cái này, thiếu cái kia, thiếu cái nọ, và do đó không cảm thấy là cõi của mẹ, cõi vật chất, đang nuôi dưỡng. Như các thày đã giải thích, sự thiếu thốn này một phần do những kẻ hình thành tầng lớp thượng tôn quyền lực chế tạo ra – họ muốn dân chúng sống trong thiếu thốn để họ có nhiều hơn – nhưng một phần lớn cũng do chính con người chế tạo ra khi mình dần dà chấp nhận một hình ảnh về bản thân rằng mình không xứng đáng được nuôi dưỡng, không dám chờ đợi được nuôi dưỡng.

Điều thày thực sự muốn đem lại cho mọi người là gì? Là sự chấp nhận rằng họ xứng đáng nhận được sự nuôi dưỡng từ đấng Mẹ. Điều này đặc biệt có nghĩa là nuôi dưỡng cơ thể vật lý. Vì cơ thể vật lý được tạo ra bằng gì? Có phải bằng máu thịt chăng? Không đâu, cơ thể vật lý được tạo ra bằng Thân thể của Mẹ Thiêng liêng, và đó là Ánh sáng của Mẹ Thiêng liêng, là cái mà các thày đã gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Tại sao thày lại nói về cơ thể vật lý trong một khóa tu nhằm giúp con kết nối với cái Ta Cao của con cùng các vị thày tâm linh của con? À, chẳng phải là vì một trong những điều cơ bản có thể kéo con ra khỏi cảm giác kết nối bên trong chính là cơ thể vật lý – những đau đớn, những nhức nhối, những nhu cầu, những đòi hỏi của cơ thể không ngừng lôi kéo sự chú ý của con: “Cho tôi cái này, cho tôi cái kia. Tôi không có đủ cái này, tôi không có đủ cái kia.” Nó cho con một cơn đau ở chỗ này, một cảm giác là lạ ở chỗ kia, luôn luôn thu hút sự chú ý của con.

3.2. Lòng căm hận đối với Mẹ

Đối với nhiều người tâm linh suốt các thời đại, cơ thể, cơ thể vật lý đã là một thách thức to lớn, nó kéo họ ra khỏi thiền tập của họ. Từ rất lâu nhiều người tâm linh đã xem cơ thể là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của họ, là một cái gì phải được chinh phục, phải bị làm ngơ, phải bị kiểm soát, phải bị trấn áp. Nhiều người xem toàn bộ bát cung vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của mình. Và một lần nữa như hiền tỷ yêu dấu của thày, Quan Âm, đã giải thích, đây là những mâu thuẫn khó xử mà chúng ta phải đối mặt trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, các thày hoàn toàn cảm được nỗi đau khổ to lớn mà con người phải nếm trải trong cõi Mẹ.

Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thày nghe thấy mọi điều mà con người trải nghiệm, mọi tiếng than, mọi oán trách, mọi cảm giác bất công, mọi căm hận đối với Mẹ. Tất cả đều đi qua trách vụ của thày. Thày biết rất rõ tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất, mọi khổ đau, và thày hiểu được trọn vẹn tại sao các con khó lòng nào tin tưởng được cõi Mẹ. Vì làm sao con biết được chuyện gì sẽ xảy ra và bỗng chốc toàn bộ cuộc sống của con bị đảo lộn hay tàn phá, hay con mất mạng, hay con mắc phải một căn bệnh làm con đau đớn? Thày hiểu hoàn toàn. Thày trải nghiệm điều này trong tim 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, 365 ngày một năm, suốt biết bao năm trời thày đã chăm lo trách vụ này.

Thế nhưng cách tiếp cận cơ thể vật lý của người tâm linh suốt hàng ngàn năm qua không phải là cách xây dựng nhất. Cơ thể của con có phải là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con không? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi. Chỉ khi nào con tìm cách trốn thoát khỏi cơ thể trong khi mình vẫn ở trong cơ thể, con khuất phục cơ thể, kiềm chế cơ thể, xem thường cơ thể, trấn áp cơ thể, thì chỉ khi đó nó mới là kẻ thù.

3.3. Đầu thai là một cơ hội

Nhiều năm trước đây, sứ giả này đã có một trải nghiệm rời xác thân (out-of-body experience) khi ông được đưa ra khỏi thân thể trong một vùng ánh sáng, rồi ông được gửi trở về một cách vũ bão, và ông hiểu ra thông điệp: “Tôi không đang hiện thân để có những trải nghiệm tâm linh. Tôi đang hiện thân để làm gì đó trong cõi vật lý, để trải nghiệm cõi vật lý, để thay đổi cõi vật lý.” Liệu cơ thể của con, cơ thể vật lý, có là kẻ thù cho việc kết nối với cái ta cao hơn của con và các chân sư thăng thiên? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi, bởi vì cơ thể vật lý là gì chứ? Đó là một cơ hội tuyệt vời. Một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm cõi vật lý từ bên trong và trở thành một phần của tiến trình đồng sáng tạo này.

Phải, thày nghe thấy tất cả những tiếng than vãn, tất cả những lời phản đối từ tâm thức tập thể đối với câu nói trên. Thày đã nghe những lời này từ hàng trăm năm rồi. Thày biết rõ chúng cả đầu ngược lẫn đầu xuôi, nhưng thày là ai chứ? Thày có phải là kẻ chỉ ngồi nghe những lời than này một cách thụ động, hay thày là đại diện của Mẹ Thiêng liêng đang ở đây để đôi khi là một người mẹ nghiêm nghị bảo rằng: “Than vãn như vậy đủ rồi. Hãy nhìn vào cơ hội kìa, hãy xem cơ thể là một cơ hội, hãy xem việc đầu thai là một cơ hội.”

Một lần nữa, thày nghe thấy nỗi đau, thày cảm thông nỗi đau. Nhưng đau khổ trên địa cầu đã trở thành một vòng xoáy trong tâm thức tập thể cứ ngày càng tự tăng cường, và phải có ai đó đập vỡ vòng xoáy này đi. Nhiều các con đây đã thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con sẽ giúp đập vỡ vòng xoáy này đã khiến con hoặc than phiền về thân xác, hoặc tìm cách kiểm soát nó như những người tâm linh vẫn thường làm. Thày hiểu rõ tất cả các con là người tâm linh đều có phần nào một mối quan hệ đối chọi với cơ thể vật lý của mình. Chính thày cũng đã như vậy khi thày còn ở trong một cơ thể vật lý. Giê-su cũng đã như vậy. Chắc chắn thày đã có mối quan hệ ngược ngạo này khi thày đứng đó nhìn Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá.

Dẫu vậy, rất nhiều các con đã nguyện là trong kiếp đầu thai này, các con sẽ kéo tập thể này vươn lên một cách tiếp cận cao hơn đối với cơ thể vật lý. Một cách tiếp cận cao hơn xem cơ thể là một cơ hội. Một cơ hội. Khi con ở trong cơ thể, tại sao con lại chối bỏ cơ thể? Tại sao lại tìm cách lánh xa cơ thể? Cách cao hơn là nhìn thực tiễn và nói: “Vì lý do gì tôi đang hiện thân vật lý?” Và con thừa nhận là chính con đã chọn hiện thân vật lý. Có thể con không cảm thấy là mình đã chọn. Có thể con nhìn lại đời mình và bảo: “Đúng ra tôi đã không nên chọn cuộc đời này. Không ai lại đi chọn cuộc đời của tôi, một cuộc đời đầy gian khổ như tôi đã sống qua.” Nhưng chính con đã chọn, vì nếu không thì con đã không ở đây. Con đã chọn. Có thể con đã bị giới hạn trong các tùy chọn do những khuôn nếp con đã tạo ra trong tiền kiếp, nhưng các khuôn nếp này là do con tạo ra khi chọn lựa.

Và những ai trong số các con là người tâm linh, là đệ tử của chân sư thăng thiên, chắc chắn các con đã chọn đầu thai trong kiếp hiện thân này vào thời điểm này để giúp Saint Germain đem lại Thời Hoàng kim và tạo điều kiện thuận lợi cho địa cầu xoay chuyển. Con có nghĩ là trong Thời Hoàng kim của Saint Germain, con người sẽ giữ nguyên mối quan hệ mà hầu hết mọi người đang có với thân thể của họ hôm nay hay đã từng có trong thời đại Song ngư và những thời đại trước nữa? Con chẳng nghĩ là sẽ có một cuộc xoay chuyển để tiếp cận cơ thể khác hơn hay sao? Vậy chẳng lô-gíc là con đang ở đây để giúp đem lại xoay chuyển này hay sao? Nhưng làm thế nào con có thể giúp tập thể xoay chuyển trừ khi con xoay chuyển tâm mình trước tiên? Thày không đang cố tỏ ra vô cảm đối với những ai đã phải chịu đựng rất nhiều về thể xác cùng đủ loại bệnh tật ngặt nghèo. Nhưng thày đang tìm cách đánh thức con dậy để con nhìn ra các chọn lựa mà con đã lấy trước khi bước vào hiện thân, đặc biệt khi các chọn lựa này liên quan đến cơ thể vật lý.

3.4. Chấp nhận “tôi là thân thể này”

Là người tâm linh, con cũng biết con là nhiều hơn cơ thể. Một số người sẽ nói: “Tôi không phải là cơ thể.” Có một truyền thống rất lâu đời trở ngược về hàng ngàn năm trời tại Ấn Độ nói rằng: “Tôi không phải là cái này. Tôi là cái kia,” và khi nói vậy, họ chỉ về một cái gì trong thế giới thần linh. Nhiều người chối bỏ cơ thể của mình. Nhiều người cố làm ngơ hay lánh xa khỏi nó. Nhưng cách tiếp cận cao hơn mà thày mong con lưu ý là đón nhận cơ thể. Đón nhận việc mình đang hiện thân, thậm chí đến độ con nói được: “Tôi là thân thể này.”

Con hãy xem xét phản ứng của con trước câu nói đó. Liệu con có thể trụ trong tim và cảm thấy an bình khi con nói “Tôi là cơ thể này” không? Hay con có một phản ứng? À, nếu thế thì phản ứng này đến từ một tập đoàn ngã tiềm thức mà rất có thể con đã tạo ra trong những kiếp trước – đối với nhiều người là avatar thì nó có thể trở ngược về chấn thương nhập đời khi lần đầu tiên con hiện thân vật lý trên trái đất và bị sa nhân tấn công, và chúng tìm cách dùng cơ thể vật lý của con để tiêu diệt con về mặt tâm lý lẫn tâm linh. Nhưng các thày đã cho con các dụng cụ để làm việc với vấn đề này, để con nhìn ra các ngã đó và để chúng chết đi. Đối với một số các con, điều sẽ rất lợi lạc là con nên dành ra một chút thời giờ để tập trung vào những cái ngã con đã tạo ra trong tiền kiếp có liên quan đến cơ thể vật lý, đến việc con ở trong cơ thể vật lý, và con chấp nhận là không những con ở trong cơ thể mà con còn chấp nhận cơ thể. Thay vì chấp nhận hay thấy mình ở trong cơ thể, con chấp nhận mình là cơ thể.

Tại sao sự phân biệt này quan trọng? Là vì chỉ khi nào con chấp nhận trọn vẹn mình là cơ thể thì bản mẫu của cơ thể con – được cầm giữ bởi Hiện diện TA LÀ của con, được cầm giữ trong tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con – mới hoàn toàn trở nên vật lý. Có rất, rất nhiều người tâm linh vì họ không chấp nhận “Tôi là cơ thể” cho nên họ không thể đưa bản mẫu này vào cõi vật lý. Nó bị chặn đứng trước khi nó đến cõi vật lý và do đó họ không thể nhận được sự chữa lành mà họ cần để tập trung vào sự tăng triển tâm linh của họ. Và hiển nhiên trong tư cách Mẹ Thiêng liêng, thày mong nhìn thấy tất cả các con được chữa lành càng nhiều càng tốt trong phạm vi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng chắc chắn thày mong muốn tất cả các con bị đau đớn tối thiểu do cơ thể của mình. Và như Quan Âm có nói, nếu con luôn bị kẹt trong cái tâm cứ phóng ra ngoài thì con sẽ không nối kết được.

Cho nên đã đến lúc con thử một cách khác hơn. Quá nhiều người tâm linh suốt các thời đại đã chối bỏ cơ thể, đã cố tránh né nó, đẩy nó ra xa. Bây giờ chẳng phải là lúc con thử một cách khác hơn? Và cách này là đón nhận cơ thể, chấp nhận cơ thể, đồng hóa mình là cơ thể, biểu hiện khuôn đúc cao nhất cho cơ thể.

3.5. Một dụng cụ thực tiễn để giúp con chấp nhận cơ thể

Trong khuôn khổ nỗ lực của các thày giúp con nối kết, thày cống hiến cho con một số dụng cụ thiết thực để bước vào một tâm thái nơi cơ thể của con, cơ thể vật lý, không ngăn cản con kết nối với các chân sư thăng thiên cùng cái ta cao của con, do cơ thể không đang lôi kéo sự chú ý của con ra ngoài. Như vậy con có thể có những giây phút an bình trong cơ thể để bước vào nội tâm. Đây là mong muốn của thày, cho nên thày sẽ yêu cầu con tham gia cùng với thày một số bài tập thực tiễn nhằm giúp con hoặc thay đổi cách tiếp cận của con đối với cơ thể, hoặc thật ra chữa lành cơ thể.

Các thày đã có giảng là cơ thể vật lý của con được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật. Các thày cũng nói Ánh sáng Mẫu-Vật là nền tảng cho hình tướng, nhưng tự nó không khoác vào hình tướng. Phải có một khuôn đúc, một khuôn đúc tư tưởng, được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì nó mới khoác vào hình tướng này. Khuôn đúc đó được phóng chiếu xuyên qua tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc lên Ánh sáng Mẫu-Vật, hình thành cơ thể vật lý. Điều này có nghĩa là cơ thể vật lý của con cho dù nó có vẻ dày đặc đến vậy, nhưng nó không dày đặc chút nào. Nó mềm lỏng. Nó tựa như loại nhựa dẻo có thể được uốn nắn, như đất sét có thể được nhào nặn, nhưng nó được nhào nặn bởi tư tưởng, bởi bản sắc, bởi cảm xúc. Và vì vậy nó có tiềm năng chuyển đổi chớp nhoáng. Chớp nhoáng. 

Bây giờ con cũng biết là cơ thể vật lý được cấu tạo bằng tế bào. Nếu con từng nghiên cứu điều này, con sẽ biết là tế bào phức tạp một cách khó tưởng tượng. Đã có một thời khi các nhà khoa học khám phá ra tế bào, họ tưởng tế bào cũng giống như nguyên tử thuở trước khi người ta tin rằng hạt nguyên tử không thể phân chia nhỏ hơn. Họ nghĩ tế bào chỉ là những viên gạch cơ bản xây dựng cơ thể và ngay trong tế bào thì không có gì nhiều. Nhưng một khi họ có được những dụng cụ để nghiên cứu tế bào, họ mới biết là họ lầm lẫn đến chừng nào và tế bào phức tạp như thế nào. Như một số bác sĩ đã phát hiện, tế bào hòa điệu chặt chẽ với trạng thái tâm con. Theo một nghĩa nào đó, tế bào là những chiếc máy radio nhận tín hiệu, và những tín hiệu này đến từ môi trường của con, từ tâm thức tập thể, nhưng chúng cũng nhận được tín hiệu từ chính tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của con.   

Tất nhiên con có thể dùng các dụng cụ của các thày như bài chú, bài thỉnh để cũng thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho cơ thể vật lý của con, niêm phong nó khỏi tâm thức tập thể cùng môi trường chung quanh. Nhưng điều thày muốn trao cho con ở đây là một dụng cụ thật đơn giản dựa trên hai dòng thơ trong bài chú của thày. Và hai dòng này là: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.”

Ý tưởng ở đây là tế bào của con giống như một chiếc âm thoa và nó có thể được điều chỉnh theo tần số của thế gian, một khuôn đúc thấp, hay nó có thể hòa điệu với một khuôn đúc cao hơn. Khuôn đúc cao nhất là viễn quan của Mẹ Thiêng liêng cho cơ thể vật lý của con. Và viễn quan này có thể được nhận thức như một âm thanh, một rung động, một tiếng chuông. Đây là dụng cụ mà thày muốn cho con. Nó không nhằm mục đích thay thế những dụng cụ khác mà các thày đã trao truyền, các bài thỉnh chữa lành. Nhưng dù sao đây là một dụng cụ mà con có thể tự mình thực tập, hay con có thể nghe lại bài truyền đọc này hết lần này sau lần khác và thể nhập nó. Thày xin con cùng thày đọc hai dòng này: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.” Con hãy đọc cùng với thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.

(9 lần, với tiếng chuông điểm sau mỗi lần)

Đây là một dụng cụ con có thể dùng một mình. Nếu con không có chuông, con có thể hoà điệu nội tâm con với một tiếng chuông, nhưng con hãy đọc hai dòng này trong ngôn ngữ của con, hòa nhập vào Hiện diện của thày, hòa điệu với cơ thể cùng bất kỳ điều kiện nào trong cơ thể, và để cho mình thâm nhập vào đó. Thày xin con không lặp lại theo thày bây giờ mà lắng nghe giọng đọc của vị sứ giả. Lắng nghe cái vượt khỏi giọng đọc, giọng đọc con người. Lắng nghe giọng của thày bên trong con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
(30 lần)

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Âm thanh phá tan bùa mê đáy vực
đến từ cõi chết và cõi địa ngục.

Con yêu dấu, con có thể dùng phiên bản trên hay phiên bản trong bài chú của thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Nếu con dùng dụng cụ này, đặc biệt nếu con nghe lại bài truyền đọc này, con có thể thấy với thời gian cách nhìn của con về cơ thể vật lý sẽ chuyển đổi. Thày hy vọng là con có thể đạt tới điểm đọc câu chú này: “Tôi là cơ thể này” và cảm thấy an bình với câu đó, không khởi lên phản ứng nào và chấp nhận mình là cơ thể, và cơ thể là một cơ hội trong thời gian con ở trong cơ thể. Thậm chí con còn có thể đi xa hơn và chấp nhận: “Tôi là thân thể của Mẹ Thiêng liêng. Tôi là thân thể của Mẹ Trái đất.”   

3.6. Là một người tâm linh trong cơ thể

Đối với những đệ tử nào đã có trù hoạch sự chấp nhận này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các con có thể qua đó cống hiến một việc phụng sự to lớn cho sự hàn gắn của thân thể hành tinh cùng các cơ thể vật lý của nhân loại. Thật sự, một trong những lợi ích to lớn có thể mang lại khi chúng ta tiến đến Thời Hoàng kim của Saint Germain là mọi người dần dần chấp nhận rằng bệnh tật trong cơ thể vật lý không phải là chuyện tự nhiên. Thật không tự nhiên khi cơ thể bị bệnh. Thật không cần thiết cho cơ thể phải mắc bệnh, mặc dù điều này tất nhiên rất khó tránh trong điều kiện hiện thời. Nhưng dù sao, bằng cách chấp nhận con là cơ thể và sau khi đã làm việc với ba thể cao, con cũng có thể dần dần chấp nhận là việc tạo thay đổi trong cơ thể là chuyện khả dĩ ngay cả khi bác sĩ hay tâm thức tập thể bảo chuyện này không thể xảy ra. Bởi vì con đang ở trong cõi vật chất. Đây là cõi của Mẹ Thiêng liêng. TA LÀ cõi vật chất. Không có gì trong vật chất là bất khả đối với Mẹ Thiêng liêng.

Chỉ sự chấp nhận hay không chấp nhận của con mới có thể ngăn cản một điều mà nhiều người sẽ gọi là phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ gì đâu con. Chỉ có sự biểu hiện tự nhiên của sự kiện Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trình chiếu ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó và do đó hình ảnh trình chiếu được thay đổi. Và con thay đổi điều kiện vật chất giống như con thay đổi truyện phim trên màn hình bằng cách thay thế dải phim trên máy chiếu. Đây chính là nội dung trong quyển sách của thày, Khóa học về sự Dồi dào. Và một số các con có thể thấy lý do xem lại khóa học này, và tất nhiên quyển sách về Khuôn đúc Chữa lành cũng có thể giúp con xoay chuyển thái độ của minh đối với cơ thể cho đến khi con chấp nhận cơ thể.

Dù điều này có vẻ kỳ lạ, có vẻ mâu thuẫn, có vẻ bí ẩn, nhưng trong nhiều trường hợp con cần phải hoàn toàn chấp nhận một điều kiện trong cơ thể trước khi con có thể thăng vượt điều kiện đó. Chừng nào con còn đẩy nó ra xa – không những đẩy điều kiện mà cũng đẩy cả cơ thể đã buộc con phải đối mặt với điều kiện đó – thì làm thế nào con có thể chấp nhận được thay đổi? Con có thể đã có nghe câu nói quen thuộc này: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong thế giới.” Nhưng liệu chúng ta cũng có thể nói: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong cơ thể”? Nhưng làm thế nào con thay đổi được cơ thể trừ khi con là cơ thể? Và làm thế nào con là cơ thể được nếu con chối bỏ nó, đẩy nó ra xa, cho rằng nó phản tâm linh hay là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của con?

Đâu là mục đích của việc làm người tâm linh trong thời đại này và hiện thân vật lý? Có phải là để đẩy cơ thể ra xa? Hay để chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong cơ thể? Con hãy là một người tâm linh trong cơ thể. Có cách nào khác để làm người tâm linh trong hiện thân hay không? Làm người hiện thân, đó chính là mục đích của con.

Với lời này, thày đã trao cho con phần trình bày mà thày mong muốn đem lại ở thời điểm này. Có thể thày có nhiều điều sẽ nói sau, nhưng chắc chắn các chân sư khác cũng có nhiều điều muốn nói. Cho nên con hãy nhận lòng biết ơn của thày vì con đã có mặt ở đây với cơ thể của con. Và thày mong con có thể có mặt ở đây và đồng thời cũng là cơ thể của con.

1 | Trải nghiệm mình là một sinh thể vượt hình tướng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels ngày 3 tháng 6, 2023, nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm.

Tại sao thày lại nói chậm như vậy?

Con hãy nhận xét phản ứng của con.

Con có cảm thấy bực bội, nóng nảy, sốt ruột?

Thế thì con thử nghĩ sự thể này xuất phát từ đâu.

Chẳng phải là nó xuất phát từ một tâm trí quá ghiền nghiện sự kích động hay sao? Con nghĩ xem trong thời đại hôm nay, biết bao nhiêu người đã quen thói nhận được sự kích động liên tục như vậy trong tâm. Từ biết bao nguồn gốc khác nhau, tâm con bị cuốn hút vào một phản ứng liên tục đối với quá nhiều thứ từ bên ngoài chính nó. Nhưng liệu thày đây, một chân sư thăng thiên, có phải là một nguồn từ ngoài? Liệu quyển sách này có chỉ là thêm một kích động từ ngoài đối với con hay nó là nhiều hơn vậy? Phải, nó có thể là nhiều hơn, nhưng nhiều hơn bao nhiêu thì tùy thuộc vào con.

1.1. Giọng nói yên ắng trong con

Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải là con đang nghe giọng nói một người ở bên ngoài đang đọc thông điệp từ một chân sư thăng thiên? Chẳng phải giọng nói này cũng đến từ một nguồn bên ngoài giống như mọi thứ khác đang lôi kéo tâm con?” Nhưng liệu thày, một chân sư thăng thiên, có thật là một nguồn bên ngoài hay không? Vì thày nói con này, là một chân sư thăng thiên thày không bị hạn chế bởi thời gian lẫn không gian. Thày ở khắp mọi nơi trong tâm thức Thượng đế. Có nghĩa là thày ở khắp mọi nơi trong bát cung vật lý. Có nghĩa là thày ở bên trong con lẫn bên ngoài con cũng như ở khắp mọi nơi chung quanh con. Nhưng thày cũng không ở bất kỳ vị trí cụ thể nào trong thời gian lẫn không gian.

Dù con nghe thày như một nguồn bên ngoài đang nói chuyện bằng giọng nói con người hay con nghe thày như giọng nói nhỏ nhẹ yên ắng bên trong, thì điều này tùy thuộc vào con. Con có thể nghe cả hai cùng một lúc. Hoặc con có thể làm giống như cái tâm kia bị ghiền nghiện, chỉ cố nghe giọng nói bên ngoài mà dập tắt giọng nói bên trong. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con chẳng nắm được hay sao là ông hoàng của thế gian, bọn quỷ của Mara, đang cố hết sức lôi kéo chú ý của con ra ngoài để con liên tục hướng nó về bất cứ gì ở bên ngoài chính con?

Chúng không cần biết sự chú ý của con tập trung vào nơi đâu miễn là nó tập trung ở ngoài con. Vì chúng biết là cho dù con có chú tâm vào ngoại vật gì đi nữa thì vật này sẽ kéo con ra khỏi cái bên trong. Và bên trong con là cái ta cao của con, là các thày tâm linh của con, là các chân sư thăng thiên, là trải nghiệm mà con có về chính mình rằng con không phải là tâm vỏ ngoài mà là điều các thày – vì không có cách gọi nào hay hơn – đã gọi là sự nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết đang tự trải nghiệm nó như sự nhận biết thuần khiết.

1.2. Các vị thày tâm linh cho nhân loại

Các con đã chọn chủ đề này cho buổi đại hội hôm nay: Kết nối với cái ta cao và các thày tâm linh của mình. Các thày sẽ trước hết giúp con kết nối với các thày, các chân sư thăng thiên, đang là những vị thày tâm linh cho hành tinh này và cho nhân loại. Cho dù người ta có biết đến các thày hay có biết danh xưng này hay không, thì các thày là thày tâm linh cho tất cả mọi người. Vì các thày là những sinh thể ở cõi thăng thiên, ở cõi tâm linh, đã được Đại đoàn chưởng giáo vũ trụ giao phó việc hoạt động với trái đất. Các thày hợp nhất. Các thày là một.

Tất nhiên là có những kẻ mạo danh tự xưng mình là thày tâm linh, có lẽ sử dụng cả danh hiệu các thày. Và họ thường ở cõi lý trí, một số ở cõi bản sắc thấp, một số thậm chí ở cõi cảm xúc. Và hiển nhiên có cả những kẻ đang hiện thân vật lý, tự xưng mình là đạo sư đủ kiểu, tự nhận mình có đủ loại thẩm quyền khác nhau hay một trạng thái tâm thức cao siêu nào đó. Nhưng các thày là chân sư thăng thiên, là những vị thày tâm linh đã được bổ nhiệm cho trái đất. Tất nhiên con có thể tìm đến bất kỳ vị thày nào hấp dẫn con ở mức tâm thức hiện thời của con, và hẳn là có nhiều người cần đến loại trải nghiệm mà họ có được khi họ đi theo đạo sư của họ.

1.3. Vượt lên trên sự hào nhoáng tâm linh

Nhưng các con đã biết đến chân sư thăng thiên, tất nhiên các con sẽ thăng tiến nhiều nhất khi tìm sự nối kết với các thày. Nhưng nối kết này sẽ xảy ra như thế nào? Liệu con sẽ nối kết được với các thày qua trung gian cái tâm bận rộn luôn luôn bị lôi ra ngoài, bị kéo đi đây đó, khiến con không bao giờ nghỉ chân được ở nơi nào lâu hơn vài giây? Liệu con sẽ nối kết được với các thày qua tâm đó? Không đâu, con sẽ không làm được. Có thể con sẽ nối kết được với những sinh thể ở cõi lý trí, họ sẽ kích động con với những hào nhoáng đủ loại. Con thấy đó, biết bao người bị hấp dẫn bởi những kẻ thuyết giảng về đủ loại chủ đề huyền bí theo những cách thường rất khó hiểu. Nhưng liệu họ có được sự nối kết với Đại đoàn vũ trụ hay không?

Con là người biết đến các chân sư thăng thiên, con cần đến hào nhoáng tâm linh đó để làm gì? Tại sao nó lại cần thiết đối với con? Bởi vì đường tu tâm linh không phức tạp lắm đâu. Đường tu không huy hoàng vẻ vang theo các tiêu chuẩn phán xét của người đời. Người đời muốn cái gì hào hứng. Họ muốn cái gì thu hút chú ý của họ, liên tục lôi kéo chú ý của họ, bởi vì đây là điều tâm vỏ ngoài ghiền nghiện, là những thứ không ngừng lôi kéo sự chú ý.

Chỉ cần xem các bộ phim, các chương trinh truyền hình thì con sẽ thấy nhịp độ dồn dập đã gia tăng như thế nào, đến nỗi cốt truyện gần như không có mà chỉ còn lại những cảnh đánh đấm với hiệu ứng đặc biệt, luôn luôn có gì đó để lôi kéo con vào. Không còn thời gian để ngừng chân tĩnh lặng. Có những người tự xem mình là tâm linh nhưng tâm họ bị cuốn hút ra ngoài liên tục, không bao giờ nhìn vào bên trong. Đường tu tâm linh là thế nào chứ? Có phải là tâm bị kích động liên tục mà không biết chán? Hay đó là bước vào bên trong, là tìm thấy một cái gì ở bên trong mà con không thể tìm được ngoài thế gian? Bởi vì nếu cái đó có thể tìm thấy ngoài thế gian thì chắc chắn nó đã được những kẻ luôn tìm cơ hội kiếm tiền tung ra phổ biến rồi.

1.4. Hướng chú ý vào bên trong

Con đường tâm linh mà các thày giảng dạy trở ngược về hàng thiên niên kỷ. Và mặc dù các thày có thể dùng từ ngữ cho phù hợp với thế giới hiện đại, trong tinh túy đó vẫn là cùng một con đường. Con sẽ không tìm thấy những gì con tìm kiếm bằng cách nhìn ra ngoài chính con. Con sẽ chỉ tìm thấy những gì con tìm kiếm khi con bắt đầu hướng chú ý vào bên trong.

Hiển nhiên đây không phải là chuyện dễ. Các thày hiểu hoàn toàn. Các thày hiểu hoàn toàn việc hướng chú ý vào bên trong khó khăn đến chừng nào, một phần vì hành tinh nơi con đang sống có một tâm thức tập thể dày đặc không ngừng lôi kéo con ra ngoài. Nhưng phần khác cũng vì con đã trải qua nhiều kiếp sống trên hành tinh gian lao này, cho nên chắc chắn con đã chạm trán đủ loại chấn thương với cường độ khác nhau. Khi con khởi sự nhìn vào nội tâm, có thể con sẽ chạm mặt những năng lượng cảm xúc, những chấn thương cùng tin tưởng sâu đậm gây đau đớn và khó khăn.

Nhiều người trên thế giới khi họ bắt đầu thiền tập, thực hành chánh niệm hay bất kỳ phương pháp phổ biến nào khác, thì họ đối diện với những chấn thương từ tiền kiếp. Một số cảm thấy sợ hãi, họ cho rằng nó quá sức họ, hay thậm chí nó còn nguy hiểm. Họ có xu hướng tụ quanh một số đạo sư hay tôn giáo hứa đem lại cho họ sự cứu rỗi vỏ ngoài, tức là có ai đó sẽ làm gì cho họ để họ không phải nhìn vào nội tâm của họ. Họ chỉ cần đi theo con đường vỏ ngoài đó, thực hành pháp tu tâm linh đó, bước theo đạo sư đó. Dù những lời dụ dỗ là gì, những hứa hẹn là gì, những tuyên bố là gì về thẩm quyền hay sự cao siêu của đạo sư, thì những lời này được tung ra để kéo hành giả bước xa khỏi con đường duy nhất đã từng đem lại kết quả, là nhìn vào nội tâm.

Trong số các chân sư thăng thiên được giao phó nhiệm vụ chăm sóc trái đất, nhiều người đã từng đầu thai trên trái đất. Các thày biết rõ hành tinh này dày đặc như thế nào. Các thày đã nếm trải điều này ngay bốn thể phàm của mình, nhưng các thày cũng chứng nghiệm là mình có khả năng vượt qua. Và do đó, các thày biết rõ con đường này hiệu quả và chính các con cũng có khả năng vượt qua. Tất nhiên, các thày cũng nghiệm thấy là mình không thể vượt qua bằng riêng quyền năng của mình. Các thày cần đến sự trợ giúp của những chân sư thăng thiên làm việc với trái đất vào thuở các thày thăng thiên. Và hiển nhiên đây là tại sao ngày nay các thày cũng cống hiến sự trợ giúp này cho bất cứ ai sẵn lòng nhận lấy. Các thày đã đến với nhau như một nhóm để xét xem làm cách nào các thày có thể giúp các con hoàn thành mục tiêu mà các con đã chọn cho đại hội này, là kết nối.

1.5. Mở rộng kết nối của con với các chân sư thăng thiên

Nhiều người trong số các con đã có được một sự kết nối nào đó với các thày và với cái ta cao của con. Một số thì cảm thấy mình chưa thiết lập được sự kết nối mà mình muốn có. Nhưng nhiều các con đã theo học giáo lý này được một thời gian, đặc biệt những ai đã sử dụng giáo lý được ban truyền cho các avatar về chấn thương nhập đời vũ trụ, về ngã gốc và làm cách nào khắc phục rất nhiều ngã tách biệt, những ngã tiềm thức, và nhiều các con đã tiến bộ nhiều hơn là con tưởng. Nhưng dẫu vậy, các thày đã quyết định cho các con cơ hội mở rộng sự kết nối này.

Tại sao thày lại nói “mở rộng” thay vì “thiết lập”? Bởi vì tất cả những ai có khả năng nhận ra chân sư thăng thiên đều đã có một sự kết nối nào đó với các thày rồi. Bởi vì chỉ khi nào đệ tử sẵn sàng thì thày mới có thể xuất hiện. Không phải vì thày trốn né đệ tử. Các thày luôn luôn ở đây. Các thày luôn luôn ở đây cho tất cả mọi người. Nhưng khi nào đệ tử chưa sẵn sàng thì đệ tử không thể cảm nhận được Hiện diện của các thày.

1.6. Tại sao con đang đọc quyển sách này?

Mục đích của thày với bài giảng mở đầu này là giúp con nhận biết – hay ít ra giúp con chú tâm, bởi vì tất nhiên đa số các con đã nhận biết là con không thể kết nối với chân sư thăng thiên qua trung gian tâm vỏ ngoài luôn luôn bận rộn quá đỗi. Tại sao con đang đọc quyển sách này? Điều gì đã thúc đẩy con khởi sự đọc? Con hy vọng rút tỉa được điều gì từ quyển sách? Riêng thày thì thày biết rõ tại sao thày ở đây. Con có biết tại sao con ở đây không? Nhiều các con sẽ chỉ ra đủ loại lý do khác nhau, nhưng liệu con đã bỏ ra chút thì giờ để xét xem thực sự tại sao mình ở đây? Liệu con đã xét có thể một phần động cơ của con là một số ngã tiềm thức hy vọng được hưởng gì đó từ việc ở đây? Liệu con đã xét có thể con có những động cơ nào chăng? Có thể con mang những kỳ vọng nào chăng?

Nhiều người đến tham dự một buổi họp tâm linh với hy vọng có được một trải nghiệm ấn tượng nào đó. Thậm chí có người đến với hy vọng sẽ có một số biểu hiện hay chứng cớ vật lý. Một số hy vọng mình sẽ cảm thấy thật đặc biệt hay người ta xem mình là đặc biệt. Nhiều loại kỳ vọng khác nhau, nhưng con hãy nhìn chủ đề con đã chọn: Kết nối. Con nghĩ – hay những cái ngã tiềm thức của con nghĩ – chuyện gì sẽ xảy ra khi con nối kết với một chân sư thăng thiên? Có kỳ vọng nào về một sự cố ấn tượng hay hoành tráng nào đó?

1.7. Kỳ vọng một sự cố ấn tượng

Thày không ở đây để cố tìm lỗi hay chỉ trích, mà thày chỉ tìm cách giúp con nhận thức rõ hơn về những chờ đợi mà con có thể có. Vì nhiều người đến với những chờ đợi sẽ ngăn chặn họ nối kết thật sự với các chân sư thăng thiên. Nhiều người đến mà cứ chờ đợi một sự cố ấn tượng, một sự cố hoành tráng nào đó. Và chắc chắn chúng ta có thể nói là phần nào kỳ vọng này đã được các giáo lý trước của chân sư thăng thiên tăng cường, qua đó đã có truyện kể về những người đi lên núi, gặp Saint Germain thị hiện vật lý trước mắt, rồi được dẫn đến Hang Biểu tượng, được có trải nghiệm ngoạn mục với Saint Germain hay với các chân sư khác nữa.

Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã đến tham gia với sự chờ đợi dựa trên những lời dạy khá cũ đó. Nhưng trong thời đại hôm nay, các thày đã trao cho con những lời dạy mới, soi một ánh sáng khác hơn trên các thày ngày hôm nay cũng như cách làm việc của các thày với đệ tử ngày hôm nay. Một số những lời dạy kia đã được đưa ra rất lâu về trước trong đợt truyền pháp của thời Song ngư khi tâm thức tập thể dày đặc hơn bây giờ rất nhiều. Con người thời đó cần đến nhiều kịch tính hơn, họ cần sự hứa hẹn về một sự cố đầy kịch tính. Nhưng con có thấy chăng đây là một ví dụ về sự thể các thày đã đề cập trước đây, là các thày phải thích ứng lời dạy và cách biểu đạt của mình với tâm thức của những ai các thày muốn tiếp cận? Và con thấy chăng cho dù các thày có làm gì đi nữa thì việc này cũng có một hiệu ứng phụ nào đó? Nếu con nhìn trở ngược về các lời dạy cũ đó, con sẽ thấy nhiều người đã bị lời dạy thu hút chính vì những câu chuyện ấn tượng như thế kia, vì họ hy vọng có được cuộc gặp mặt ấn tượng với một chân sư thăng thiên sẽ khiến họ cảm thấy đặc biệt biết mấy.

Nhưng con cũng thấy chăng là hầu hết những người đó, tuyệt đại đa số những người được thu hút bởi giáo lý của chân sư thăng thiên đã không có được loại gặp gỡ ngoạn mục như vậy? Và kết quả là gì? Họ đã thất vọng. Họ tự hỏi: “Có gì không ổn với chính tôi khiến cho Saint Germain không hiện ra trước mắt tôi, không dẫn tôi đến Hang Biểu tượng, không bảo tôi là sứ mạng của tôi đặc biệt đến chừng nào? Vậy làm thế nào tôi sẽ đơn thương độc mã cứu nguy được hành tinh và đem lại thời hoàng kim?” Con thấy đó, luôn luôn có một thế cân bằng tế nhị giữa việc hấp dẫn, thu hút sự chú ý của họ, rồi sau đó có rủi ro đem lại thất vọng khi những kỳ vọng quá đáng của họ không được đáp ứng.

1.8. Đẩy sự kết nối ra xa

Các con là học trò trong thời đại này, đã sẵn sàng tiếp nhận giáo lý được trao truyền qua sứ giả này, con có thể nhìn vào chính mình và xét xem liệu con có còn một số chờ đợi gặp gỡ ấn tượng không. Và nếu còn thì chờ đợi này sẽ ngăn chận sự kết nối của con với các thày. Tại sao? À, vì nhiều lý do. Trước hết là vì các thày là thày tâm linh đích thực. Có nghĩa gì? Có nghĩa là các thày muốn con giải thoát khỏi tự ngã, khỏi những cái ngã tiềm thức. Nếu con có một kỳ vọng dựa trên tự ngã ham muốn cảm thấy đặc biệt khi con được gặp chân sư thăng thiên, thì điều gì sẽ xảy ra nếu các thày thỏa mãn kỳ vọng của con? Điều gì sẽ xảy ra nếu các thày hiện ra trước mặt con đúng y như con chờ đợi và khiến con cảm thấy thật đặc biệt? Con sẽ bị yếu tố đó của tự ngã đánh bẫy, có lẽ cho đến hết kiếp này.

Cho nên là thày tâm linh chân chính thì các thày phải bước lùi lại khi con mang kỳ vọng. Vì các thày không thể nhận rủi ro đẩy con về hướng ngược lại sự tăng triển. Nhưng tất nhiên cũng có một lý do nội tâm, đó là khi con kỳ vọng một cuộc gặp gỡ ấn tượng thì một lần nữa, đây là tâm con đang phóng chiếu ra ngoài. Nhưng như thày vừa giảng, con sẽ không tìm thấy các thày ở ngoài kia, con sẽ không nối kết được với các thày ở ngoài kia. Nhưng nếu tâm con cứ phóng chiếu hình ảnh sự nối kết phải diễn ra thế nào thì chẳng phải là con đang phóng chiếu con muốn nối kết với các thày ở ngoài kia? Chẳng phải là với kỳ vọng này, con đang đẩy xa sự nối kết khỏi chính con hay sao? Đây là mâu thuẫn khó xử mà các thày phải đối mặt – nó không khó xử cho các thày mà nó khó xử cho con.

Các thày hiểu hoàn toàn thực trạng của việc đầu thai. Vì sao con lại muốn nối kết với thày tâm linh của con trừ phi sự nối kết này mang lại cho con cái gì đó mà con không có được trong cuộc sống thường nhật? Phải, các thày hiểu là con phải có một động cơ nào đó để học tập giáo lý, để thực hành các bài thỉnh, bài chú. Các thày hiểu. Nhưng các thày cũng hiểu là trong hầu hết trường hợp khi con không cảm thấy nối kết, đó là do kỳ vọng của con đang ngăn chặn sự nối kết. Không phải các thày.

1.9. Thiết lập một nối kết nội tâm trực tiếp với chân sư

Một điểm thày muốn con chú ý và lắng nghe là điều sau đây. Các thày, các chân sư thăng thiên, không giới hạn sự nối kết mà con có thể có với các thày. Một lần nữa, thày không đang cố chỉ trích dưới bất cứ hình thức nào. Thày chỉ đang chỉ ra là các thày sẵn lòng kết nối với bất cứ ai trên địa cầu ở mức tâm thức hiện thời của họ. Bởi vì đây chính là thực chất của tâm thức Ki-tô. Tâm Ki-tô là tâm có khả năng gặp gỡ mọi người ở bất kỳ mức tâm thức nào và cống hiến cho họ một khung tham chiếu sẽ giúp họ bước lên bước tâm thức kế tiếp. Dựa trên tâm Ki-tô, không có một người nào trên địa cầu mà các thày không sẵn lòng nối kết. Và thày nói điều này để các con là đệ tử trực tiếp của các thày có thể nhận rõ là các thày sẵn lòng nối kết với con. Mong muốn của các thày là tất cả các con thiết lập một sợi dây nối kết trực tiếp với các thày để con có thể nhận được những sáng ngộ cá nhân, những xoay chuyển tâm thức cùng sự giúp đỡ từ các thày, chứ không phải từ bất kỳ nguồn nào bên ngoài hay qua trung gian bất kỳ nguồn nào bên ngoài.

Con đang học hỏi và thực hành giáo lý được trao truyền qua sứ giả này. Nhưng cả các thày – là các chân sư thăng thiên đang đỡ đầu cho sứ giả này – lẫn chính sứ giả đều không mong muốn con chỉ nối kết qua trung gian sứ giả hay qua các giáo lý được trao truyền qua sứ giả. Các thày muốn con thiết lập một sự nối kết nội tâm trực tiếp với các thày để con đạt tới điểm không cần đến sứ giả nữa. Con có thể không cần đến lời dạy vỏ ngoài. Con có thể không cần đến pháp tu vỏ ngoài. Hoàn toàn không có mong muốn hạn chế con, cầm giữ con trong một trạng thái đồng phụ thuộc (co-dependence) vào sứ giả, hay vào giáo lý, hay vào pháp tu. Điều này không có nghĩa là con phải rời khỏi giáo lý hay pháp tu. Nhưng các thày mong muốn tất cả các con có được sự nối kết trực tiếp đó.

1.10. Rút lui khỏi thế giới

Câu hỏi đặt ra cho con thực sự là như sau: “Điều gì trong tâm con có thể ngăn cản sự nối kết trực tiếp của con?” Và tất nhiên, đây là điều các thày sẽ giúp con nhìn ra và khắc phục trong đại hội này. Nhiều các con sẽ coi đại hội này là một hội nghị, nhưng con cũng có thể xem đây là một khóa nhập thất. Tại sao thày dùng chữ “nhập thất”? Bởi vì khi con tham gia một khóa nhập thất thì con làm gì? Con rút ra khỏi thế giới. Trong những ngày sắp tới, các thày yêu cầu con rút càng nhiều càng tốt ra khỏi cuộc sống bình thường của con, khỏi những gì con bình thường tập trung chú ý. Không cứ là từ bỏ bất cứ trách nhiệm nào mà con đang có, nhưng là việc rút lui vào trong tâm hầu con rút chú ý ra khỏi tất cả những chuyện kia đang lôi kéo con.

Bây giờ con có thể, nếu con sẵn lòng, quyết định tắt máy điện thoại kia đi, tắt đường dây internet kia đi. Con yêu dấu, nếu con không để ý đến thế giới trong những ngày sắp tới, chắc chắn thế giới sẽ vẫn còn đó. Vì thày có thể cam đoan với con là thế giới vẫn còn đó khi không có ai nhìn – khi không có con người nào nhìn – vì các thày là chân sư thăng thiên luôn luôn nhìn.

1.11. Vô vi nhi vô bất vi

Có một khái niệm bắt nguồn từ đạo Lão được tìm thấy ngay cả trong bài chú của thày qua câu: “Mọi việc không làm, cũng không không làm”, hay “Không làm việc gì, nhưng không sót việc gì không làm.” Nhiều các con mong muốn nhìn thấy thay đổi trên thế giới hay nơi đất nước Hàn quốc này đây. Các thày hiểu. Nhưng có lẽ bằng cách rút ra khỏi sự chú tâm bình thường vào thế giới và việc thay đổi thế giới, con sẽ có thể đem lại một thay đổi lớn hơn trên thế giới qua việc kết nối trực tiếp với các thày. Có lẽ bằng cách không làm những chuyện con thường làm, không để ý đến những gì con bình thường để ý, con có thể làm nhiều hơn cho thế giới.

Thày yêu cầu con, nếu con muốn gặt hái kết quả lớn nhất từ khoá nhập thất này thì con hãy rút ra khỏi các quan tâm bình thường của con. Con đã đến đây vì con muốn kết nối với cái ta cao cùng các vị thày tâm linh của con. Con hãy quên đi sự kết nối với thế gian. Bởi vì nếu con đã có thể kết nối với các thày qua tâm vỏ ngoài cứ luôn phóng chiếu ra ngoài thì chắc chắn con đã kết nối được rồi vì tâm đó hoạt động rất ráo riết. Vậy con thử nghĩ xem con có thể làm gì khác, hay con có thể không làm gì cả. Không làm!

Một lần nữa, các thày hiểu vì các thày đã từng đầu thai trong cõi vật lý. Các thày hiểu là hành tinh địa cầu trải bày nhiều bí ẩn, nhiều uẩn khúc, nhiều điều dường như mâu thuẫn. Vì lý do gì biết bao người tâm linh khắp thế giới và khắp các thời đại đã rút lui khỏi thế gian để bước vào bên trong? Bởi vì thế gian, tâm thức đại chúng, luôn luôn kéo chú ý của họ ra ngoài. Các thày hiểu hoàn toàn là để thiết lập một sợi dây nối kết với cái ta cao, với các thày tâm linh của con, con cần phải kéo mình, phải vươn mình lên khỏi sức kéo hướng hạ đó, sức hút nặng trịch của tâm thức đại chúng đó đang kéo con xuống. Các thày hiểu là việc này cần sự nỗ lực.

Nhiều các con đã bỏ ra rất nhiều nỗ lực suốt nhiều năm trời để thực hành nhiều loại pháp tu tâm linh, cho dù là chú, thỉnh hay một pháp nào khác. Và nhờ làm vậy mà con đã tự nâng mình lên một cấp độ nào đó là cấp độ con đang đứng hôm nay. Các thày hiểu là nhiều các con, giống như sứ giả này cũng đã từng làm nhiều năm trời, đã tập trung vào công việc tâm linh, vào pháp tu tâm linh để nâng cao tâm thức cùa mình cũng như thay đổi thế giới. Các thày thấu hiểu, các thày kính trọng tất cả mọi công việc con đã làm. Các đệ tử của chân sư thăng thiên, đặc biệt các đệ tử ở Hàn quốc này đây, đã làm biết bao công việc suốt nhiều năm, đã nỗ lực biết bao trong nhóm hội của mình để đăng tải giáo lý, để thực hành các bài thỉnh và bài chú – các thày tôn vinh tất cả mọi việc con đã làm.

Nhưng các thày hy vọng là con cũng hiểu rằng cho khóa nhập thất này, vấn đề không phải là cố đẩy mạnh hơn để thiết lập một sự nối kết với các thày. Con đã biết cách đẩy mạnh rồi. Con đã phần lớn vươn mình lên trên tâm thức đại chúng rồi. Giờ đây con cần một cái gì khác! Con cần một cái gì khác để thiết lập hay để mở rộng sự nối kết. Con hãy sẵn sàng bỏ qua bên những kỳ vọng của mình, bỏ qua bên pháp tu bình thường của mình, thậm chí cả tư duy mà con thường có là tư duy năng động, tư duy làm việc. Thày không đang bảo – xin con lắng nghe lời thày nói – thày không đang bảo là việc hoạt động hay tu tập tâm linh có gì sai trái, mà thày chỉ nói rằng mọi chuyện đều có thời của nó, và bây giờ là thời điểm con cần làm khác hơn, hay đúng hơn, không làm. Bởi vì bằng cách không làm với tâm vỏ ngoài, có thể con sẽ tìm được sự nối kết qua đó không còn việc gì là không làm, mặc dù không có gì được làm qua tâm vỏ ngoài.   

1.12. Những dụng cụ để giúp con kết nối

Các chân sư sẽ ban ra một số lời dạy và mỗi bài truyền đọc sẽ nhắm tới việc giúp con nối kết với vị chân sư đó. Một số các con sẽ nối kết với thày, một số thì không. Thật chẳng có gì không ổn nếu con không nối kết chặt chẽ với thày hay với một chân sư nào khác. Điều quan trọng là con tìm ra vị chân sư mà con nối kết, xong con tập trung vào đó. Những bài truyền đọc này mà các thày sẽ cho con là công cụ để con dùng. Con có thể bảo là các thày như thể vẫn làm giống như mọi lần, vẫn ban ra những lời dạy mà tâm con có thể hiểu và nắm bắt. Nhưng thực sự mục đích ở đây không phải là đưa ra lời dạy mà là giúp con kết nối.

Đó là mục đích các thày. Và thày hy vọng qua những nhận xét mở đầu thày vừa đưa ra, mục đích của con cũng là việc thiết lập sự nối kết, trải nghiệm sự nối kết. Không phải là đẩy nó về phía trước như con lừa đẩy củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi nó.

Với lời này, thày sẽ cùng đọc với con một số câu chú và thày xin con tập trung vào Hiện diện của thày. Bởi vì Hiện diện của thày là cái con có thể nối kết vượt quá ngôn từ, vượt quá lời nói của bài truyền đọc cùng lời nói của câu chú. Nhưng dẫu vậy, lời nói là chén thánh sẽ neo trụ sự Hiện diện, và như vậy lời nói có thể giúp con trải nghiệm Hiện diện nếu con không dính mắc vào lời nói hay ý nghĩa lời nói.

Mặc dù đây là một bài truyền đọc mà bình thường con sẽ giữ im lặng, nhưng thày mời con đọc cùng với thày:

OM (5 lần)
OM Mani Padme Hum (48 lần)
OM Quan Âm OM (14 lần)
OM (13 lần)

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm. Nhưng sinh thể mà thày là có thể nào bị bắt giữ trong một danh xưng? Có thể nào bị bắt giữ trong bất kỳ hình tướng nào? Một lần nữa, đây lại là một mâu thuẫn khó xử trên địa cầu. Qua các thế kỷ và thiên niên kỷ, các thày là chân sư thăng thiên đã mở vòng tay để cố chạm tất cả mọi người khắp nơi trong mọi nền văn hóa. Đâu là giới hạn lớn nhất cho các thày? Đó là sự dính mắc của con người vào hình tướng, sự đồng hóa với hình tướng. Liệu họ sẽ nắm bắt được một thứ gì không có hình tướng? Liệu họ sẽ muốn nối kết với một thứ gì không có hình tướng? Hay là họ sẽ quá tập trung vào những gì các thày có thể làm cho họ trong thế giới hình tướng đến độ họ không thực sự mở tâm ra để nối kết?

1.13. Một thượng đế toại nguyện mọi ước muốn

Con nhìn xem rất nhiều nền văn hóa khắp thế giới đã tạo ra những vị thần cả nam lẫn nữ dưới đủ mọi hình dạng. Và mặc dù các vị này thường rất khác nhau trong mỗi hình dạng cụ thể mà con người đã phóng chiếu lên thần linh, rất nhiều vị được tạo dựng theo cùng một mẫu số chung: một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn của con người. Người ta muốn gì từ thần linh của họ? Họ muốn thần linh làm điều gì đó cho họ ở đây trong thế giới hình tướng. “Có lợi lạc gì cho tôi trong chuyện này? Tôi sẽ được hưởng gì? Tại sao tôi cần thờ phượng thần linh, hy sinh cho thần linh, đọc câu thần chú, nếu tôi không được hưởng lợi gì trong thế giới hình tướng?”

Nhưng chức năng của chân sư thăng thiên là gì? Các thày không ở trong thế giới hình tướng – ít ra là không ở trong thế giới hình tướng chưa thăng thiên mà con đang sinh sống. Các thày không phải là những thượng đế toại nguyện mọi ước muốn. Các thày không ở đây chủ yếu để làm chuyện gì cho con trong hình tướng. Các thày ở đây để chứng tỏ cho con thấy là có gì đó vượt khỏi thế giới hình tướng! – ít nhất cái thế giới hình tướng mà con nhìn thấy qua giác quan vật lý trong bầu cõi chưa thăng thiên này. Các thày ở đây để cho con một khung tham chiếu. Có gì đó nhiều hơn hình tướng. Chính con là nhiều hơn hình tướng!

1.14. Trải nghiệm điều gì đó vượt hình tướng

Đâu là thành quả lớn nhất mà con có thể gặt hái từ đại hội này, từ khóa nhập thất này? Phải chăng là một vật gì trong thế giới hình tướng? Hay là sự kết nối, sự trải nghiệm một điều gì đó vượt hình tướng? Thày vượt khỏi hình tướng. Con thử nghĩ tại sao trong đợt truyền pháp này các thày đã không dùng đến những tấm ảnh hay bức tượng? Đó là vì các thày hy vọng con sẽ có thể nối kết với các thày ngoài hình tướng, cái hình tướng đang bao quanh con và lôi kéo sự chú ý của con tập trung vào hình tướng. Nó quyến rũ con. Như bọn quỷ Mara, nó cám dỗ con đồng hoá với hình tướng. Nhưng các thày ở đây là để giúp con ngừng đồng hóa với hình tướng.

Nhưng để thực hiện điều này, con phải nối kết, phải trải nghiệm những gì vượt khỏi hình tướng mà lại vô cùng thực. Nói cho cùng, chỉ có cái vượt hình tướng mới là thực. Nhưng nếu con cho phép tâm con tập trung vào hình tướng, con sẽ bị cuốn hút vào trò chơi muôn thuở bảo rằng hình tướng này là thực, hình tướng kia không thực. Rằng hình tướng này là chân, hình tướng kia là giả. Hình tướng này là thiện, hình tướng kia là ác. Một lần nữa, con lại kẹt trong nhị nguyên. Các thày hy vọng sẽ kéo con vượt ra khỏi sự đồng hóa với hình tướng.

Thày biết ơn con đã chịu đựng bài giảng chậm chạp này, qua đó thày đã cố làm chậm lại cái tâm quá năng động cứ muốn chuyện gì đó phải xảy ra – không những vậy, phải xảy ra ấn tượng hơn cả trong quá khứ. Nhưng có lẽ điều ấn tượng nhất có thể xảy ra là sự kiện không có gì xảy ra, không có gì có hình tướng xảy ra. Bởi vì nếu không có gì xảy ra thì điều có thể đang xảy ra là con đang chứng nghiệm thực tại vô hình tướng mà TA LÀ.

Quan Âm, TA LÀ. Hơn nữa, TA LÀ. Vượt hình tướng, TA LÀ.

Chính con đây cũng vượt khỏi hình tướng. Nhưng tất nhiên con vẫn ở trong thế giới hình tướng. Cho nên các thày hiểu là các con sẽ khó lòng hơn chấp nhận chính mình vượt khỏi hình tướng. Nhưng dẫu vậy, các thày sẽ tìm cách giúp con trải nghiệm chính mình là một sinh thể vượt hình tướng.

5 | Con có muốn buông bỏ nỗi sợ của con không?

Bài truyền đọc của Đại thiên thần Michael qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Đại thiên thần Michael. Thày vui mừng được hỗ trợ các con cho một khía cạnh có thể ngăn cản các con không chú tâm vào bên trong. Và lẽ đương nhiên đây là tầng kế tiếp của thể vật chất của con, tức là thể tình cảm.

5.1. Nỗi sợ và tính bất định

Cảm xúc cơ bản nào khiến đa số con người không chú tâm được vào nội tâm? Lẽ đương nhiên, đó là sợ hãi. Sợ hãi có thể mang nhiều hình dạng, nhưng nó lúc nào cũng là cảm nhận có chuyện gì có thể xảy ra mà ta không có sự che chở nào, không thể trốn chạy, không thể tự vệ. Đây là một phản ứng rất dễ hiểu, vì con đang ở trong xác thân vật lý và có nhiều chuyện xảy ra mà con không thể kiểm soát. 

Tuy nhiên, con thấy là trong thế gian có nhiều người đã tìm cách đối phó với nỗi sợ bằng cách đi vào tư duy muốn kiểm soát mọi chuyện. Trường hợp cực đoan nhất thể hiện điều này là các sa nhân muốn kiểm soát mọi chuyện và mọi người chung quanh họ vì họ bị nỗi sợ bao trùm họ. Nhưng nhiều người có trạng thái tâm sợ hãi, và nhiều người không có quyền lực và không có khuynh hướng hung hãn đã tìm cách đối phó với nỗi sợ bằng cách gia nhập một tôn giáo cho họ cảm tưởng là có một đấng trên trời sẽ tối hậu che chở họ khỏi mọi điều kiện trên trái đất.

5.2. Tư duy thần thông

Vì vậy suốt dòng lịch sử, nhiều người đã kêu gọi thày hay các chân sư thăng thiên khác tới bảo vệ họ. Lẽ tất nhiên, họ thường khi, thật sự là mỗi khi họ bị nỗi sợ giam hãm, có tư duy thần thông và đây là một điều mà các con, là đệ tử chân sư thăng thiên, cần biết. Tư duy thần thông là niềm tin rằng, tuy mọi chuyện xảy ra theo cách của cõi vật lý, nhưng có một lực thần thánh có khả năng và được phép can thiệp để đình chỉ các định luật mà con gọi là luật thiên nhiên và qua đó giúp con được đặc miễn không bị các định luật này ảnh hưởng như chúng ảnh hưởng tất cả mọi người khác.

Ngay cả ngày nay, nhiều tín đồ Thiên chúa giáo hay tôn giáo khác, tin rằng có một thượng đế hay sinh thể tâm linh nào đó có quyền năng thần thông can thiệp và che chở họ tuy họ thấy rõ ràng các người khác không được che chở. Như thày có nói, họ cho rằng có một quyền lực thần thông có thể đình chỉ các định luật thiên nhiên hay luật nhân quả và che chở họ khỏi một số hậu quả mà họ sợ.

5.3. Sự khuynh loát của sa nhân

Tuy nhiên, như các thày đã giảng nhiều lần trong đợt truyền giáo này, luật tự quyết là luật tuyệt đối trên trái đất. Thày là Đại thiên thần Michael. Thày có tất cả mọi quyền năng trên trái đất. Thày có thể thay đổi bất cứ gì. Thày có thể che chở con người khỏi bất cứ gì, nhưng thày không phải chỉ cần có khả năng mà còn cần có thẩm quyền chiếu theo luật tự quyết. Sự thật phũ phàng trên trái đất là sa nhân đã rất khôn khéo dùng tư duy trọng thần thông để tạo ra một tín ngưỡng, một học thuyết, một nền văn hóa trong các tôn giáo khiến tín đồ tin rằng tai ương không thể xảy ra cho họ vì, do một lý do nào đó, họ thuộc một nhóm người chọn lọc. Sau đó sa nhân dùng các sa nhân đang đầu thai hay những người dễ bị ảnh hưởng tới hành hạ những tín đồ tôn giáo, khiến các tín đồ này thấy là họ không được che chở như họ nghĩ, và sau đó càng đi sâu thêm vào cảm giác sợ hãi hay bị bất công, hay tức giận Thượng đế vì ngài đã không giữ lời hứa.

Đây là một lý do khiến ngày nay nhiều người đã bỏ các tôn giáo truyền thống, thậm chí còn bỏ mọi tôn giáo và trở nên vô thần. Họ đã trải nghiệm là cái họ nghĩ là quyền năng của Thượng đế không thể che chở họ, và họ giận dữ đến độ chối bỏ là Thượng đế có quyền năng. Họ chối bỏ sự hiện hữu của Thượng đế, và qua đó một số cũng chối bỏ luôn là có ma vương đang tìm cách hãm hại họ, tuy ma vương là một quan niệm mà sa nhân đã rất khôn khéo đút vào mọi tôn giáo.

Thật ra thì một số các người đó đã trải nghiệm là họ có thể bị tổn thương, tuy họ chối bỏ cả Thượng đế lẫn ma vương. Nhưng nhiều người sống trong các chế độ dân chủ tân tiến có thể trọn đời sống trong hoàn cảnh tương đối an bình, và do đó họ có thể đi vào tâm thái mà ta có thể gọi là kiêu hãnh tâm linh, trong đó họ cảm thấy là họ hiểu rõ mọi chuyện hơn người bình thường. Họ cảm thấy họ biết là không có Thượng đế và ma vương, và họ đã chưa từng thật sự bị thất vọng vì trong kiếp sống này, không ai và không việc gì đã làm tổn thương họ.

5.4. Thượng đế xa xăm có mặt theo yêu cầu

Thày muốn dẫn con, là đệ tử chân sư thăng thiên, tới nhận biết là con cần buông bỏ tư duy thần thông, vì chính tư duy thần thông đã xua đẩy sự kết nối của con với cái ta cao của con và với các chân sư thăng thiên. Tại sao vậy? Vì đâu là ý niệm đằng sau tư duy thần thông? Con đang sống trên trái đất. Có một sinh thể trên thiên đàng, một sinh thể xa xăm trên thiên đàng bình thường không có mặt, nhưng con tin rằng sẽ can thiệp khi con cần đến. Ta có thể gọi đây là một Thượng đế có mặt theo yêu cầu, theo cách nói tân thời, nhưng cũng có nghĩa đây là một Thượng đế xa xăm có mặt theo yêu cầu, một Thượng đế không có mặt khi không có yêu cầu, có nghĩa là con có thể lẩn trốn vị Thượng đế đó. Và khi con phóng chiếu là có khoảng cách giữa con và thày, thì làm sao con có thể kết nối với thày là một chân sư thăng thiên? Và nếu con không thể kết nối với thày, thì làm sao thày có thể giúp con thăng vượt nỗi sợ đang níu kéo thể cảm xúc của con.

5.5. Nỗi sợ chết

Một lần nữa, như thày Quan Âm và Mẹ Mary đã trình bày, con lúc nào cũng gặp thế có vẻ là khó xử này trên trái đất. Thày vừa nói là luật tự quyết không cho phép thày làm một số chuyện để giúp con. Điều này có nghĩa là con đang hiện thân trong cõi vật lý và có một số chuyện mà con không thể được bảo vệ, tùy theo cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ.

Đồng thời, thày cũng nói chuyện giúp con thăng vượt nỗi sợ. Hai điều này có hợp lý chăng? À, chuyện hợp lý giản dị là con đang hiện thân trong cõi vật lý. Con biết là một ngày kia thân thể của con sẽ chết, nhưng con đã tìm ra một cách để sống với hiểu biết này để vẫn sinh hoạt được trong đời sống. Ngay cả những người không tâm linh hay không theo một tôn giáo nào cũng có thể sống với hiểu biết là một ngày kia thân thể họ sẽ chết. Đa số đẩy ngày đó ra thật xa trong tương lai, trong tương lai bất định, nhưng con cũng biết là cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Nhưng con vẫn tìm ra một cách để sống với nỗi sợ đó.

Điều thày đang muốn chỉ ra là có sự khác biệt giữa điều kiện mà con sợ và chính nỗi sợ. Và đó là lý do vì sao con có thể thăng vượt nỗi sợ. Bởi vì nỗi sợ là một điều kiện trong tâm con. Con có thể nói là có biết bao điều kiện trên trái đất mà con có thể sợ, và quả thật con có thể liệt kê đủ loại điều kiện trên trái đất mà con có thể sợ và con có thể đi vào tâm thái bị tê liệt và không còn sinh hoạt được vì quá sợ.

Tuy nhiên, như thày đã nói nỗi sợ tối hậu trên trái đất là gì? Ta có thể nói đó là nỗi sợ chết. Tuy nhiên có một số người có thể không đồng ý và cho rằng cách mình chết có thể là một nỗi sợ ghê gớm hơn chính cái chết. Nhưng nếu con tìm được cách để sống với nỗi sợ, và nếu con sống trong một hoàn cảnh mà mạng sống của con không bị đe dọa ngay lập tức, thì phải chăng chuyện hợp lý là con cũng có thể đối phó với những nỗi sợ khác.

5.6. Làm cách nào vượt thăng nỗi sợ

Dụng cụ mà thày sẽ cho con là nhận ra một cơ chế tâm lý giản dị. Chắc con cũng biết là khi một con đà điểu gặp nguy cơ bị ăn thịt, thì có khi nó dùng cái cổ dài của nó để vùi đầu vào trong bãi cát thay vì dùng cặp chân dài của nó để chạy. Đây là cơ chế qua đó, khi con bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hay con cảm thấy không có cách chi thoát được điều kiện, thì con chối bỏ hay phớt lờ nỗi sợ. Và quả thực đây là cách nhiều người đã đối phó với nỗi sợ chết, bằng cách vùi đầu vào bãi cát và không để ý tới nó, từ chối không chịu nhìn vào nó. Lẽ tất nhiên, vấn đề với phương pháp này là tuy con có thể phớt lờ nỗi sợ ở mặt nổi nhưng cách này không tiêu trừ nỗi sợ ở thể cảm xúc của con.

Và nếu con có nỗi sợ ở thể cảm xúc, thì nó sẽ buộc con vào thể cảm xúc của hành tinh, của tâm thức tập thể. Bất cứ lúc nào con cũng có thể bị các nỗi sợ tập thể làm choáng ngợp, đặc biệt là khi có chuyện xảy ra trong thế giới khiến con người đi vào trạng thái hốt hoảng. Lẽ tự nhiên, như các thày có giảng, phương pháp xây dựng hơn là đối phó với nỗi sợ. Và chắc chắn là mọi nỗi sợ đều bắt nguồn từ một ngã tách biệt, và do đó phương pháp tối hậu để khắc phục nỗi sợ là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã để con có thể thấy nó. Và dĩ nhiên các thày đã cho các con dụng cụ có giá trị để con lột mặt nạ các ngã và tới chỗ thấy chúng. Nhưng dụng cụ mà thày muốn cho con ở đây có thể nói là giản dị hơn, và nó có mục đích giúp con nhận ra là nỗi sợ có mặt trong tâm con, nhưng thông thường thì điều kiện mà con sợ không có mặt trong tâm con. Điều kiện ở bên ngoài tâm con.

5.7. Nỗi sợ là một lốc xoáy năng lượng cảm xúc

Nỗi sợ ở trong tâm con là gì? Nó không phải là một điều kiện vật lý, ít ra là theo nghĩa thông thường của chữ vật lý. Nó là một điều kiện năng lượng và là một điều kiện trong tâm. Năng lượng là gì? Như các thày đã giảng nhiều lần, một cảm xúc là năng lượng đang vận chuyển, do đó nó là một cái gì rung động và cuộn xoáy và có thể tạo ra một lốc xoáy, một vũng năng lượng cuộn xoáy. Và nỗi sợ trở thành giống như vậy trong thể cảm xúc của con. Nó đi vào, nó bắt đầu cuộn xoáy, nó thu hút thêm năng lượng, nó xoáy nhanh hơn và nhanh hơn nữa cho tới khi nó giống như một cuồng phong.

À, con cũng biết cuồng phong là gì. Nó chỉ là không khí cuộn xoáy ở vận tốc cao, và lốc xoáy cảm xúc cũng vậy. Không có gì trong đó ngoài năng lượng cuộn xoáy. Không có điều kiện nào bên trong năng lượng và đó là lý do vì sao con có thể tới chỗ nhận ra là nỗi sợ giống như một cuồng phong, một lốc xoáy, một vũng xoáy, hay có thể hữu ích hơn nếu ta dùng hình ảnh một bão xoáy, vì con biết là ngay giữa bão xoáy có mắt bão là nơi yên tĩnh. Không khí cuộn xoáy chung quanh mắt bão, nhưng ngay mắt bão thì yên tĩnh, và thể cảm xúc của con cũng vậy khi con sợ hãi.

5.8. Dụng cụ Đại thiên thần Michael cống hiến

Này con, đa số những người không tâm linh sợ không dám nhìn vào nỗi sợ của họ. Đó là điều xảy ra khi con cho phép cơn lốc xoáy, cơn bão xoáy hình thành trong thể cảm xúc của con, Khi con chú ý vào nó và chạm nó, thì gió thổi mạnh và khó chịu đến độ con cảm thấy choáng ngợp khi phải đối phó với nó, và do đó con rút lui và tìm cách lờ đi nỗi sợ.

Nhưng một cách khác là đi thẳng vào nỗi sợ cho tới khi con đi xuyên qua lớp năng lượng đang cuộn xoáy và đi vào nơi yên tĩnh ở chính giữa. Lẽ tất nhiên, điều này tự nó cũng có thể đáng sợ, và đó là lý do thày cống hiến sự trợ giúp của thày. Khi con yêu cầu thày thì thày sẽ đặt Hiện diện của thày lên trên con, và thày được phép làm điều này trong khuôn khổ luật tự quyết nếu con yêu cầu, và lúc đó con sẽ được bao bọc bởi Hiện diện của thày, và con và thày chúng ta cùng nhau đi vào cơn bão xoáy đầy năng lượng sợ hãi đang cuộn xoáy cho tới khi chúng ta tới trung tâm điểm. À, làm sao con có thể ngưng một bão xoáy hay một cuồng phong? Thật ra thì con có thể, nếu con đủ chính xác, thả một trái bom vào giữa cơn bão xoáy, và nếu sức nổ đủ mạnh thì nó có thể dập tắt bão xoáy.

5.9. Nỗi sợ như một cái cớ

À, thày quả thực có đủ uy lực để dập tắt bất cứ bão xoáy năng lượng sợ hãi nào trong thể cảm xúc và thày sẽ làm điều này nếu con cho phép. Nhưng để hoàn thành công việc này, con cần buông bỏ nỗi sợ. Này con, điều này có vẻ dễ làm. Ai lại chẳng muốn loại bỏ nỗi sợ của mình?

Ấy, con sẽ ngạc nhiên khi con thấy là có nhiều người không muốn loại bỏ nỗi sợ của họ. Bởi vì các nỗi sợ đó quy định những điều mà họ không thể và không nên làm, điều mà họ cần né tránh, và một khi họ chấp nhận nỗi sợ đó, thì nỗi sợ cho họ một cái cớ để không làm một số chuyện. Nhiều tín đồ tôn giáo sợ không dám có ý kiến riêng của mình, không dám suy nghĩ ngoài học thuyết và giáo điều của tôn giáo của họ, và họ đã tới chỗ chấp nhận nỗi sợ là một tai họa sẽ xảy ra nếu họ có ý kiến riêng của họ. Họ có thể sẽ phải xuống địa ngục, hay mở cửa tâm để ma vương xông vào, hay mọi nỗi sợ nào khác. Không đâu, vì lúc đó họ sẽ mất đi cái cớ để không suy nghĩ, và khi đó họ sẽ phải bắt đầu suy nghĩ về những điều bất nhất, mâu thuẫn trong tôn giáo của họ, về những câu hỏi họ đặt ra mà tôn giáo của họ không có câu trả lời, và do đó họ thích giữ nỗi sợ hơn.

Do đó, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên cảm thấy khó kết nối với các thày, thì con nên suy ngẫm xem con có nỗi sợ nào trong thể cảm xúc chăng. Con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con kết nối với một chân sư thăng thiên? Con có sẽ phải thay đổi gì chăng trong lối sống, hay trạng thái tâm của mình? Ấy, nếu vậy thì con có thể có một nỗi sợ. Ta hãy giả sử con có một thói quen nào đó mà con biết không có tính chất tâm linh, nhưng con đã xây dựng trong tâm một cái cớ vì sao con có thể tiếp tục có thói quen đó mà vẫn học giáo lý tâm linh. Con có thể sợ là nếu con quả thật kết nối với một chân sư thăng thiên thì con sẽ không thể chối bỏ nhu cầu ngưng thói quen đó. Vậy, con có thật sự muốn loại trừ nỗi sợ hay chăng?

Một lần nữa, như thày Quan Âm đã nói, các thày không muốn bắt lỗi ai. Các thày không tìm cách chỉ trích. Nhưng mục đích của khóa nhập thất này là giúp con nối kết, do đó điều tự nhiên là chúng ta cần xem xét những điều kiện đang ngăn chặn một số các con nối kết. Một điều kiện lớn là nỗi sợ, và thày có thể dễ dàng dập tắt nỗi sợ đó, nhưng con có muốn buông bỏ nó chăng? Con có muốn thấy cái ngã tiềm thức là nơi nỗi sợ tập trung chăng? Con có chịu để cho nó chết đi chăng? Đây là một số điều quan trọng mà con cần suy ngẫm trước khi con yêu cầu thày giúp, vì thày sẽ không xâm phạm quyền tự quyết của con. Có hai hàng trong bài chú của thày như sau:

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ.

Đây là một câu chú giản dị, dễ nhớ, dễ áp dụng khi con gặp một nỗi sợ nào đó. Con không nhất thiết cần đọc câu chú ra lời, và có thể tập trung trong tâm: “Đại thiên thần Michael, thày có mặt, Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ”, và thày sẽ có mặt bên con khi con đọc câu chú. Thày sẽ ở bên con bất kể con đang ở đâu, vì thày cũng vượt quá thời gian và không gian. Con không thể đi đến một nơi mà thày không có mặt.

5.10. Ảo tưởng là con có thể trốn Thượng đế

Con có thể đi vào một nơi trong tâm nơi con không cảm thấy Hiện diện của thày, nhưng Hiện diện của thày vẫn ở đó, cho dù con có cảm thấy nó hay không. Lẽ dĩ nhiên, đây là một điều nữa có thể giới hạn khả năng nối kết của con. Đây là mong muốn không bị Thượng đế trông thấy mà con người đã có từ rất lâu và vẫn còn đang có. Quả thật đúng là, như các thày đã giảng, sa nhân đã tạo ra các tôn giáo nói tới một Thượng đế xa xăm trên trời, nhưng tại sao các tôn giáo này lại thu hút con người? Tại sao các tôn giáo này tiếp tục thu hút con người? 

Đó chính là vì các tôn giáo đó mô tả một khoảng cách giữa con người và Thượng đế. Con ở đây hiện thân trong thân vật lý. Các giác quan vật lý của con không thể thấy cõi tâm linh, do đó con phóng chiếu hình ảnh trong tâm là thiên đàng ở trên kia, xa tít và tách biệt với cõi vật lý một cách căn bản. Do đó con có thể có ảo tưởng là những gì con che giấu người khác cũng khuất mắt Thượng đế, và từ đó lại có thêm ảo tưởng là con có thể làm một số chuyện mà không chịu hậu quả vì Thượng đế không trông thấy.

Đây là một trong những ảo tưởng vĩ đại nhất trên trái đất và nó dựa trên việc con người mất sự nối kết với cái ta cao của họ, vì nếu con có chút nối kết với cái ta cao thì con sẽ biết con là phần nối dài của cái ta cao đó, do đó làm sao con có thể tách biệt khỏi nó được? Cũng giống như ý nghĩ ngọn sóng có thể tách biệt khỏi đại đương. Lẽ dĩ nhiên, điều này không thể xảy ra, vì nếu một vũng nước tách biệt khỏi đại dương thì nó không thể nào có sóng. Chính sự chuyển động của đại dương tạo ra sóng, và nếu một vũng nước tách biệt khỏi đại dương, thì sức mạnh nào tạo ra được ngọn sóng?

Do đó, khi con nhận ra là tâm không thể nào tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ, thì con cũng có thể dễ dàng nhận ra là bát cung vật lý không tách biệt khỏi cõi tâm linh. Lẽ tất nhiên, các độ rung có khác nhau, và các thày đã trao cho các con hiểu biết sâu sắc là có quang phổ rung động vật lý, và ở trên đó có quang phổ cảm xúc, trên đó là quang phổ lý trí, trên đó là quang phổ bản sắc và trên đó là quang phổ tâm linh. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng của các con đã xây dựng hình ảnh là có khoảng cách, có sự khác biệt trong độ rung giữa cõi vật lý và cõi tâm linh.

Nhưng các rung động của cõi vật lý từ đâu nảy sinh? Chúng chỉ là các ngọn sóng trong đại dương, nhưng đại dương là gì? Chính là cõi tâm linh. Nếu cõi vật lý thật sự tách biệt khỏi cõi tâm linh, thì làm sao có thế giới này? Làm sao bất cứ gì có thể thể hiện nếu quả thật có một rào cản giữa cõi vật lý và cõi tâm linh? Nhất định cần một môi giới trong đó các ngọn sóng tạo nên cõi vật lý nảy sinh, nếu không thì không thể có gì thể hiện.

5.11. Một điều kiện vật lý không thể ảnh hưởng cái ta thực của con

Do vậy, khi con chiêm nghiệm các ý tưởng này, thì con có thể chiêm nghiệm xem một điều kiện vật lý có thể thật sự ảnh hưởng con chăng? Lẽ dĩ nhiên, nó có thể ảnh hưởng xác thân vật lý của con, nhưng nó có thể ảnh hưởng con chăng, con người thực của con? Vì khi con là một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên, thì ít nhất con đã bắt đầu nhận ra là con là một sinh thể tâm linh đang ở trong một thân thể vật lý. Con không phải là một sản phẩm của thân thể. Thày biết một tôn giáo lớn của thế gian là khoa học duy vật quả quyết không bằng chứng rằng tâm là sản phẩm của bộ óc vật lý, nhưng chắc hẳn con là người tâm linh thì đã nhìn thấu lời gian dối này.

Câu hỏi thực là: có bất cứ điều gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng được Hiện diện TA LÀ chăng? Và các thày đã nhiều lần nói với các con là không có. Các thày cũng đã giảng là cốt lõi con người con là cái Ta Biết, cũng là nhận biết thuần khiết và do đó không thể bị bất cứ gì trong cõi vật lý ảnh hưởng. Cái Ta Biết có phải sợ bất cứ điều kiện nào trong cõi vật lý chăng? Không đâu, chỉ các ngã tách biệt mới có thể sợ các điều kiện đó, vì chúng không thể trốn chạy các điều kiện đó.

Nhưng cái Ta Biết thì có thể, bằng cách bước ra ngoài ngã tách biệt và để chúng chết đi. Và điều này quả thật khó nắm bắt hơn, nhưng điều quan trọng là con suy ngẫm điều này, vì nhiều người trong các con đã tới giai đoạn trên con đường tăng triển tâm linh khi con vẫn còn một số sợ hãi vi tế, nhưng con có thể khắc phục chúng bằng cách nhìn vào chúng, đi vào chúng với thày và nhìn chúng. Đúng, quả thật con đang hiện thân trong cõi vật lý. Đúng, có những điều kiện vật lý có thể ảnh hưởng con. Đúng, có những điều kiện vật lý ảnh hưởng nhiều người, nhưng không có điều kiện vật lý nào ảnh hưởng tất cả mọi người, ít ra là loại điều kiện mà con sợ.

5.12. Con hãy sẵn lòng nhìn vào các nỗi sợ của mình

Khác biệt ở đâu? Tại sao một số người bị một điều kiện ảnh hưởng, trong khi một số khác thì không bị? Nhiều người nói đó là do nghiệp quả, nhưng nghiệp quả là gì? Nó chính là các ngã tách biệt mà con đã mang theo từ các kiếp trước. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn vào các ngã tách biệt đó và để chúng chết đi? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn vào một ngã tách biệt đang sợ một điều kiện và để cho nó chết đi? Khi đó tại sao con lại phải trải nghiệm điều kiện đó? Trong nhiều trường hợp, con trải nghiệm một điều kiện vì con có một ngã tách biệt trói buộc con vào điều kiện đó, và con cần trải nghiệm điều kiện để nhìn vào ngã tách biệt.

Đây là môi trường sinh hoạt của đa số con người trong thế gian, là Trường đời Cay đắng. Nhưng nếu con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt, thì tại sao con lại cần trải nghiệm điều kiện? Tại sao con cần sợ nó, khi con biết có cách để tránh nó? Nhưng con thấy chăng, chính một ngã tách biệt đang sợ điều kiện, và nếu con là cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn vào ngã tách biệt, thì con không thể để ngã chết đi, và do đó vẫn còn một vũng xoáy đang trì kéo thể cảm xúc của con, có thể nói nó trì kéo toàn thể cõi vật chất và thu hút về con những gì con sợ.

Con nghĩ rằng khi con phớt lờ nỗi sợ thì con xua đẩy điều kiện đi, nhưng sự thực là nỗi sợ của con thu hút điều kiện để rốt cuộc con được giải thoát khỏi nỗi sợ. Với một đệ tử tâm linh thì cách giải quyết là nhìn vào nỗi sợ. Như thày có giảng, ta có thể nói là có hai loại sợ. Có nỗi sợ một hoàn cảnh nào đó trong thế gian, một tai ương có thể gây tổn thương cho con, và có nỗi sợ gặp gỡ các chân sư thăng thiên vì như vậy các ngã tách biệt, tự ngã của con sẽ bị phơi bày và con sẽ phải thay đổi. Thày sẵn lòng giúp con khắc phục cả hai loại sợ, nhưng con cần yêu cầu, và con cần sẵn lòng xem xét cuộc đời của mình sẽ ra sao nếu con không còn nỗi sợ, và quyết định: “Cuộc đời của tôi sẽ khá hơn nếu tôi không còn nỗi sợ. Do đó tôi sẵn lòng yêu cầu Đại thiên thần Michael giúp tôi thấy nó, và yêu cầu Đại thiên thần Michael thực sự tung ra một bom nổ ánh sáng vào vũng xoáy trong thể cảm xúc của tôi để dập tắt nó và không cho nó cuộn xoáy nữa.”

Sau đó, lẽ dĩ nhiên, con cần sẵn lòng làm công việc dọn dẹp, dùng ngọn lửa tím và các bài chú bài thỉnh khác để chuyển hóa năng lượng, vì dập tan cơn bão xoáy không tiêu trừ tất cả năng lượng, nó chỉ ngưng năng lượng cuộn xoáy và do đó con dễ chuyển hóa nó hơn. Nhưng con cần làm công việc dọn dẹp để được giải thoát, nếu không thì một cuồng phong khác có thể sẽ hình thành và rốt cuộc trở thành một bão xoáy. Đây là một công việc khả thi cho tất cả các con.

Một số các con có thể nghĩ: “Tôi đã đi quá giai đoạn này rồi, tôi không cần làm công việc này nữa.” Nhưng nếu con cảm thấy mình không còn sợ gì cả, thì con hẳn không có vấn đề yêu cầu thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì con cần thấy chăng. Con hãy xem xét phản ứng của con khi thày nói như vậy. Con có cảm thấy: “Tôi đã vượt quá điều này rồi; tôi không sợ gì cả.” À, nếu vậy, con sẽ không sợ nhìn. Con sẽ không sợ thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì chăng. Nếu không có gì cả, thì có gì để sợ nhìn đâu? Nếu con cảm thấy có e dè không muốn nhìn, thì chỉ có một lý do là có điều gì mà con chưa thấy một cách ý thức, vì nếu không tại sao lại có sự đề kháng?

Con có thể xem xét chính mình và thấy có điều gì trong thể cảm xúc mà con e ngại không muốn thấy. Một lần nữa, thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày không muốn ép buộc con bằng bất cứ cách nào. Thày chỉ giản dị chỉ cho con thấy là nếu mục đích của con là thiết lập một nối kết mạnh hơn với các chân sư thăng thiên, thì sợ hãi là một chướng ngại mà con giản dị phải khắc phục, và đây là một việc mà con có thể làm được với sự giúp đỡ mà thày cống hiến.

5.13. Quyết định buông bỏ nỗi sợ

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì mà thày muốn trao truyền, trừ một điều. Sợ hãi là một cảm xúc. Tối hậu, cái gì khởi sự lốc xoáy sợ hãi là một quyết định, một ý muốn. Khi đã xem xét kỹ thì cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là lấy một quyết định khác, quyết định buông bỏ nó. Buông bỏ nỗi sợ bất kể điều kiện mà con sợ có còn đó hay không. Đây là một hành động của ý chí. “Tôi muốn được giải thoát khỏi sợ hãi.” Và điều này thày không thể làm thay con, bởi vì luật tự quyết đòi hỏi là con cung cấp ý chí, và thày có thể cung cấp uy lực. Nhưng nếu không có ý chí, thì uy lực không thể được phát ra.

Tới đây thì thày cảm ơn các con đã chú tâm, đã hiện diện rất đông đảo, cùng tới đây tập trung ý chí muốn có mặt, ý chí muốn hơn nữa. Chắc chắn là các con đã bắt đầu tạo ra một vòng xoáy năng lượng hướng thượng, xây dựng một động lượng sẽ tiếp tục được bồi đắp trong những ngày các con ở đây. Các thày khen ngợi các con đã làm như vậy và các thày hy vọng là các con đều cảm thấy là nỗ lực tới đây, nỗ lực xây dựng vòng xoáy hướng thượng, sẽ tự nó là phần thưởng. Do vậy, các con hãy được niêm trong Ý chí và Uy lực của thày.

Không ngã nào có thể đem con vào trạng thái thăng thiên

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/4/2023, nhân Webinar Phuc sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc và chính con xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật có liên quan gì đến thập tự giá và việc đem một ai đó xuống khỏi thập tự giá? À, con không thật tin rằng trước khi Giê-su xuất hiện trên trái đất thì con người đã bị đóng đinh trong tâm họ rồi sao? Các biểu tượng mà các thày đã giải thích trong hội nghị này về ý nghĩa sâu xa hơn của thập tự giá tất nhiên cũng áp dụng cho Giê-su. Các biểu tượng này đã áp dụng kể từ khi con người trên địa cầu bước vào nhị nguyên.

Gautama bước xuống từ thập tự giá

Khi thuở đó ta chuẩn bị sứ vụ của ta trong tư cách là Phật, sứ vụ giáo huấn của ta, nhiều lần ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá. Ta đã lớn lên trong một môi trường vô cùng bảo bọc nơi cung điện. Ta đã sống trong một số điều kiện vỏ ngoài thật đặc thù, không bao giờ gặp người nào bệnh tật, và ta được hưởng mọi giàu sang cùng thú vui vật chất mà ta có thể mong muốn. Ta đã bị đóng đinh bởi lối sống rất trần tục, thoải mái, sung sướng đó. Ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá mấy lần trước khi ta thực sự sẵn sàng rời bỏ cung điện này, đi vào rừng để sống như một người khổ hạnh, thiền định, nhịn đói cho đến gần chết. Và khi ta ngồi đó thiền định, tất nhiên là ta xem xét tâm mình và khắc phục được một số ảo tưởng, có nghĩa là một lần nữa ta lại đem mình xuống khỏi một thập tự giá khác, vì như ta đã giải thích, con có thể nói là với mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng, có một ảo tưởng khiến con bị trói chặt vào thập tự giá.

Ta đã đạt tới mức có thể gỡ mình xuống khỏi một thập tự giá vĩ đại, một ảo tưởng vĩ đại, khi ta ngộ ra là lối sống khổ hạnh thật quá cực đoan và vì thế không phải là con đường tối thượng. Đó là khi ta chứng được Trung đạo, nhưng ngay cả khi đó, ta vẫn phải kinh qua một quá trình đã không được thực sự ghi lại trong kinh sách Phật giáo là ta phải hội đủ tư cách để có thể bắt đầu sứ vụ hoằng pháp, và một lần nữa ta lại gỡ mình xuống khỏi một loạt thập tự giá nữa. Nhưng rồi khi ta bắt đầu sứ vụ giảng dạy thì các Phật tử, đại đa số Phật tử, cứ muốn nghĩ là khi đó chắc chắn ta đã là một sinh thể toàn hảo. Nhiều Phật tử muốn nghĩ rằng ta còn toàn hảo ngay từ đầu cơ, nghĩa là ta đã không phải đi qua nguyên một tiến trình. Nhưng điều họ nghĩ thật không có căn cứ nếu họ nhìn kỹ câu chuyện cuộc đời của ta.

Ngay cả sau khi khởi sự giảng dạy, ta vẫn còn những ảo tưởng phải khắc phục, vì lý do giản dị là nếu ta đã vượt qua mọi ảo tưởng thì ta đã không thể cầm giữ một thân thể vật lý. Ta vẫn phải nhìn ra nhiều điều trong bản thân mình, vẫn phải khắc phục những cái ngã tách biệt, vẫn phải gỡ mình xuống khỏi những thập tự giá đó. Điều ta muốn nói giản dị ở đây là ta đã đi qua tiến trình bước xuống khỏi thập tự giá, và vì thế ta đủ tư cách để nói chuyện về đề tài này.

Đồng sáng tạo trong một trạng thái hợp nhất

Các thày có thể trình bày một cách nhìn nào khác về thập tự giá hay không? À như các thày khác có nói, có bốn tầng vật chất, bốn cánh hay bốn đầu trên thập tự giá, bốn điểm của thập tự giá, và vì vậy con bị đóng đinh trong vật chất. Nhưng vật chất là gì? Có thể nói vật chất là hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng không do cá nhân con tạo ra.

Các thày đã giải thích là khi con đi xuống hiện thân lần đầu tiên ở một cõi chưa thăng thiên, con là một người đồng sáng tạo. Con tự xem mình là một sinh thể nối kết, và con thấy mình đang ở trong một môi trường đã được tạo dựng bởi những sinh thể ở một tầng tâm thức cao hơn con. Con đang sử dụng sự nối kết của con để đồng sáng tạo và con cũng biết là con không đang sáng tạo qua uy lực của riêng minh. Cho nên trong hoàn cảnh này khi con chưa bước vào nhị nguyên, con không bị đóng đinh vào vật chất vì con biết con là nhiều hơn hình tướng. Thậm chí con là nhiều hơn cái ngã mà con đã khoác vào trong bầu cõi chưa thăng thiên này.

Ngay khi con đầu thai lần đầu, con đã có bốn thể phàm. Con có một bản sắc thể, một trí thể, một cảm thể và một cơ thể vật lý, và để bắt đầu đồng sáng tạo, con tạo ra một số cấu trúc trong những thể cảm xúc, lý trí và bản sắc đó. Điều này xảy ra khi từ mức Hiện diện TA LÀ của con, con bước xuống qua tầng 144, tầng 143, rồi xuống mãi đến tầng 48 trong bầu cõi của con. Theo một cách nào đó, con khoác vào tất cả những ảo tưởng này, nhưng vì con vẫn xem mình là một sinh thể nối kết cho nên con không bị đóng đinh trong tâm con, và nhờ thế khi con tạo ra một tình huống vật lý nào đó, con không đồng hóa với tạo vật của mình. Cho nên con không bị đồng hóa với tạo vật vật chất mà con đã tạo dựng và con không xem mình đồng nhất với xác thân vật lý của con.

Ảo tưởng vật chất là quan trọng

Chỉ khi con xuống dưới tầng 48 đó và bước vào cõi tách biệt thì con mới bị đóng đinh. Nhưng ta chẳng vừa nói là với mỗi tầng tâm thức, kể cả ở trên tầng 48, đều có một ảo tưởng mà con phải khắc phục và do đó, theo một nghĩa nào đó, con bị đóng đinh vào ảo tưởng này hay sao? Bây giờ có phải ta đang nói ngược lại? Không, vì ta không nói về cùng một hoàn cảnh. Khi con giáng thế lần đầu, con không đi xuống một hành tinh có nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng đã đầu thai lần đầu khi chưa một ai trên trái đất đã bước vào nhị nguyên. Nhưng khi con đầu thai trên một hành tinh như trái đất nơi tâm thức bị thấm đẫm nhị nguyên, thì con mới có thể nói là con bị đóng đinh vào từng ảo tưởng, và chỉ khi nào con lên đến tầng 144 thì thực sự mới nói được là con đã khắc phục trọn vẹn cái cảm nhận rằng vật chất là quan trọng.

Con không chỉ bị vướng kẹt, hay bị đóng đinh, hay bị ám ảnh về mặt thể xác, cảm xúc hay lý trí, mà con mang cảm nhận các điều kiện vật chất là quan trọng. Không nhất thiết là con đồng hóa với chúng, vì khi con bắt đầu lên cao hơn tầng 96 thì con ngừng không đồng hóa với vật chất nữa nhưng con vẫn nghĩ là trên địa cầu có gì đó quan trọng, có gì đó mà con muốn thấy thay đổi, và trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì con duy trì cảm nhận này cho tới chót. Như con thấy thày Giê-su treo thân trên cây thập tự mà vẫn còn chút mong muốn làm gì đó trên trái đất, mong muốn tiếp tục sứ vụ của mình, cho nên thày mới muốn Thượng đế đến cứu thày khỏi thập tự giá để thày có thể tiếp tục sứ vụ của mình. Thày vẫn còn cái cảm nhận là vật chất quan trọng, có gì đó quan trọng trong vật chất.

Mặc dù điều này không được ghi lại trong kinh sách, con cũng có thể nhìn vào sứ vụ giáo huấn của ta. Ta không còn đồng hóa với cơ thể, không còn đồng hóa với vật chất, nhưng ta vẫn còn cảm nhận là trong vật chất có điều gì quan trọng, và đó chính là tại sao ta đã ở lại địa cầu và đã giảng dạy. Ta cảm thấy ta có thể đem lại một cái gì khác biệt. Ta không bảo chuyện này là sai, mà ta chỉ muốn giải thích cho con hiểu là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, chỉ khi nào con thăng thiên thì con mới thật sự khắc phục ảo tưởng cuối cùng khiến các điều kiện của thế giới vật chất có vẻ quan trọng.

Sự (không) sẵn lòng buông bỏ hình tướng con đã tạo dựng

Này con, khi con nhìn bức tranh tổng thể và nhìn xa hơn trái đất, con có thể nói là Đấng sáng tạo thế giới hình tướng của con đã tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính bản thể ngài, tạo ra các sinh thể tự nhận biết từ chính bản thể ngài, rồi gửi họ vào bầu cõi để hoạt động trong tư cách làm người đồng sáng tạo với mục đích họ sẽ dần dần tăng triển tâm thức. Bầu cõi thứ nhất thăng thiên, bầu cõi thứ nhì được tạo dựng, nó cũng thăng thiên. Rồi bầu cõi thứ ba rồi thứ tư, và mỗi bầu cõi sau dày đặc hơn bầu cõi trước một chút, cho tới một điểm ở bầu cõi thứ tư khi một số sinh thể từ chối không thăng thiên với bầu cõi của họ, cho nên họ bị rơi xuống, họ sa xuống bầu cõi thứ năm, vân vân. Điều có thể nói về ba bầu cõi đầu là những người đồng sáng tạo nâng bầu cõi họ thăng thiên đã không bao giờ trở nên đồng hóa với hình tướng, có nghĩa là gì? Có nghĩa là, chẳng hạn, cho dù nền văn hóa mà họ tạo dựng trên một hành tinh có tinh xảo tuyệt diệu đến chừng nào thì họ vẫn không bao giờ đồng hóa với hình tướng họ đã tạo dựng.

Chúng ta không chỉ đang nói tới chuyện đồng hóa với thân xác vật lý mà thôi, chúng ta nói đến những sinh thể đã sống trong bầu cõi này suốt một thời gian dài đằng đẵng, đã làm người đồng sáng tạo từ thuở họ mới khởi lên một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn và khả năng đồng sáng tạo cũng vô cùng giới hạn, nhưng lần hồi sau một thời gian rất dài họ đã khuếch trương khả năng đồng sáng tạo này đến mức họ có thể tạo dựng những hình tướng, những hành tinh, những nền văn hóa trên hành tinh vô cùng tinh xảo. Nhưng mặc dù các hình tướng này cực kỳ tinh xảo công phu, họ đã không bao giờ đồng hoá với chúng. Không bao giờ họ bị lạc lối trong hình tướng mà họ tạo ra.

Nhưng bây giờ đến bầu cõi thứ tư, cũng có một số sinh thể đã bỏ ra một thời gian rất dài để khuếch trương khả năng đồng sáng tạo của mình, nhưng khi đến lúc bầu cõi thăng thiên thì họ không sẵn lòng bỏ lại tạo vật của họ. Trong khi các sinh thể từng thăng thiên trong các bầu cõi trước đã đạt tới điểm sẵn lòng buông bỏ những hình tướng tinh xảo mà họ đã tạo ra, thì các sinh thể này ở bầu cõi thứ tư không sẵn sàng bỏ lại. Họ chiêm ngưỡng tạo vật của họ, họ mê say tạo vật của họ, và trong cái tâm đã tạo nên tất cả tạo vật tinh xảo đó, họ không sẵn lòng bỏ nó lại. Nói cách khác, họ đã trở nên đồng hóa với hình tướng họ tạo dựng.

Tất nhiên giáo lý mà các thày đã trao cho con về cái Ta Biết nói rằng cái Ta Biết không bao giờ có thể trở thành hình tướng do nó tạo ra. Nó có thể sáng tạo những hình tướng rất công phu khi nó khuếch trương khả năng đồng sáng tạo, nhưng nó không thể trở thành hình tướng. Tại sao vậy? Con đồng sáng tạo như thế nào chứ? Con đồng sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong cõi bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý, và con đồng sáng tạo xuyên qua ngã này. Ở đây chúng ta không nói về một cái ngã tách biệt. Tuy con tự xem mình là một sinh thể kết nối nhưng con vẫn tạo ra một cái ngã, và điều tài tình ở đây là cái Ta Biết không thay đổi trong nguyên tiến trình nó đi qua. Nó không thay đổi! Chỉ có cái ngã là ngày càng trở nên tinh xảo hơn mà thôi.

Khi bầu cõi của con sẵn sàng thăng thiên, con phải buông bỏ ngã này. Con phải buông bỏ hồn ma. Và đây chính là điều các sinh thể sa ngã không muốn làm vì họ quá mê say với nó, họ quá đồng hóa với ngã do họ tạo ra, họ quá đồng hóa với hình tướng đến nỗi – theo cách diễn tả của Ki-tô hoàn vũ – họ không chịu để mất đời sống của họ vì ta. Họ không chịu đánh mất đời sống của họ để đi theo Ki-tô và bước vào một trạng thái cao hơn của sự sống là sự sống vĩnh hằng. Họ đã được phép kinh qua trải nghiệm mà họ muốn, nhưng hiển nhiên, họ không thể duy trì tạo vật của họ ở bầu cõi thứ tư, cho nên họ đã – cùng với ngã tách biệt mà họ đã tạo dựng – rơi xuống bầu cõi thứ năm. Và ở đây, họ đã có thể sử dụng cái ngã tinh xảo này để khởi sự tạo ra gì đó trong bầu cõi thứ năm, và tất nhiên tạo vật này tiến bộ hơn tất cả mọi thứ các dân cư mới trong bầu cõi này có thể đồng sáng tạo.

Tâm thức sa ngã ảnh hưởng giáo lý tâm linh như thế nào

Những điều trên liên quan thế nào với con là người đang hiện thân trong bầu cõi thứ bảy trên một hành tinh dày đặc chưa thăng thiên có tên là trái đất? À, đó là thế này: toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng chỉ đơn giản là cung cấp một môi trường cho các sinh thể tự nhận biết đồng sáng tạo để họ có thể mở rộng khả năng đồng sáng tạo, mở rộng tâm thức của họ. Nhưng trong một bầu cõi chưa thăng thiên, sự mở rộng tâm thức này không xảy ra trong bốn thể phàm, nó cũng không xảy ra ở mức cái Ta Biết, mà nó xảy ra ở mức Hiện diện TA LÀ và căn thể. Và điều này nhằm mục đích là ngay cả nếu con chọn sa ngã, nếu con chọn bị lạc lối trong tạo vật của con, thì Hiện diện TA LÀ vẫn không thể bị đánh mất, và do đó các trải nghiệm của con như một người đồng sáng tạo không bao giờ bị đánh mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là như một đệ tử bước chân trên con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, con đường dẫn đến thăng thiên, con cần nhận ra là mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu đã bị tâm thức sa ngã chi phối, kể cả mọi khía cạnh của tôn giáo lẫn tâm linh. Bất kể lời cả quyết của bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ triết lý tâm linh hay tổ chức tâm linh nào, thì mọi giáo lý tâm linh đều đã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, theo nghĩa là nếu giáo lý không thích nghi với tâm thức sa ngã một cách nào đó, thì quần chúng sẽ không thể nắm bắt được giáo lý, bởi vì tâm thức sa ngã đã tràn lan quá đỗi, đã trở nên quá thuyết phục khắp địa cầu.

Ngay cả giáo lý của các chân sư thăng thiên cũng phải thích nghi với tâm thức sa ngã, vì nếu không, không ai sẽ có thể nắm bắt được. Đấy là vì sao các thày mới nói đến phương pháp bán hàng của các nhân viên bán xe cũ gọi là “dụ mua hàng hấp dẫn để hướng sang hàng cao cấp”, và các con cần dùng giáo lý này để bước lên một tầng cao hơn nơi con có thể nhận được những giáo lý không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một cách mà các tôn giáo, chẳng hạn, bị tâm thức sa ngã chi phối là quan niệm cho rằng con có một linh hồn do Thượng đế tạo ra có khả năng bước vào vương quốc thiên đàng. Nhưng như các thày đã giải thích, hồn chỉ vỏn vẹn là những cái ngã hay ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con – và cuối cùng cũng gồm cả tự ngã – và tất cả những thứ này sẽ không bao giờ vào được thiên đàng. Hồn không thể hội đủ tư cách để thăng thiên. Chỉ có “người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể lên trở lại thiên đàng” – tức là cái Ta Biết. Đây là một lời dạy có thể làm xốn xang tuyệt đại đa số mọi người trên địa cầu nếu họ có thể thực sự nắm bắt được. Đây là một lời dạy gây xao động và nó đã bị một số đệ tử của các đợt truyền pháp trước bác bỏ. Nhưng lời dạy kia, ý tưởng kia, đến từ đâu? Đâu là gốc gác của ý tưởng cho rằng có một cái gì rõ ràng nằm trong cõi này, nằm trong một cơ thể vật lý nhưng là nhiều hơn một cơ thể vật lý, và cái đó có thể được hoàn thiện một cách nào đó, hay trở nên tinh xảo đến độ nó có thể đi lên thiên đàng hay bước vào cõi tâm linh? Ý tưởng đó đến từ đâu?

Hoàn thiện ngã hay buông bỏ ngã

À, nó đến từ sa nhân bởi vì giấc mơ của sa nhân, ít ra của một số sa nhân từ khi họ sa ngã, là họ có thể cứ tiếp tục xây đắp cái ngã mà họ đã tạo ra nơi bầu cõi khi họ sa ngã, và họ có thể cứ tiếp tục tô điểm cho nó ngày càng tinh xảo hơn cho đến một ngày kia Thượng đế sẽ phải cho nó vào thiên đàng – hay đúng hơn, các chân sư thăng thiên sẽ phải cho nó vào thiên đàng. Đây là giấc mơ cơ bản của ít nhất một số sinh thể sa ngã.

Một số sa nhân khác bị mắc kẹt trong giấc mơ muốn chứng minh là Thượng đế sai lầm, và một trong những cách này là chứng mình Thượng đế đã sai lầm khi ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng nhiều sa nhân bị kẹt trong giấc mơ là họ có thể tạo ra một cái ngã tinh xảo đến mức nó sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng. Nói cách khác, sa nhân sẽ có thể duy trì ngã đó thay vì bị rơi xuống các bầu cõi dày đặc hơn để cuối cùng phải đối mặt với cái chết thứ nhì, nghĩa là họ có thể tránh cái chết thứ nhì bằng cách trở nên tinh xảo đến độ ngã cũng hội đủ điều kiện thăng thiên. Và đây chính là điểm ẩn núp đằng sau tuyệt đại đa số các giáo lý tôn giáo lẫn tâm linh trên hành tinh, và cũng là một điểm rất khó giải thích cho mọi người khi chúng ta còn trong Thời đại Song ngư.

Đối với các đợt truyền pháp của chân sư thăng thiên khởi sự trong Thời đại Song ngư, thật khó giải thích điều đó cho mọi người. Đã có những sự gợi ý nhưng có rất ít người đã nắm được. Một số ít đã nắm được, và một số sẽ hiểu được. Nhưng trong Thời đại Bảo bình, có khả năng rất nhiều người hơn sẽ đạt tới mức nhận thức được. Những người này sẽ tới mức nhận ra là để thăng thiên, con cần phải để cho hồn ma cuối cùng chết đi. Con cần từ bỏ hồn ma cuối, cái yếu tố chót cùng này của ngã tách biệt vì nó sẽ không bao giờ hội đủ tư cách. Nó sẽ không bao giở đủ tư cách để được cứu rỗi, để bước vào thiên đàng, hay niết bàn hay thăng thiên. Cho dù con có gọi cái vượt khỏi bốn tầng vật chất đó là gì, thì cái ngã được tạo ra trong thế giới hình tướng không thể đủ tư cách. Nó không thể bước vào. Đây là chứng ngộ cơ yếu trước khi con hội đủ tư cách thăng thiên.

Điều này không có nghĩa là trước thời hiện đại chưa từng có ai thăng thiên. Tất nhiên là đã có Giê-su, có chính ta, có Mẹ Mary và nhiều người khác nữa. Họ đến từ nhiều truyền thống tôn giáo hay tâm linh, nhiều truyền thống thần bí khác nhau, và họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng tất cả đều đã làm được vậy bằng cách đạt đến nhận thức rằng đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã của mình, mà là buông nó ra, thăng vượt nó, để cho nó chết, cho dù cách nhìn hay cách diễn tả của họ là gì. Tất cả đều đã đạt đến chứng ngộ này và điều này cũng đã được truyền dạy qua những lời dạy tôn giáo và tâm linh khác nhau. Con có thể tìm thấy một số dấu vết còn sót lại của lời dạy này. Ngay cả trong tôn giáo hay giáo lý đạo Phật, con cũng có thể tìm thấy nếu con cố tìm. Con có thể tìm thấy một số lời dạy về Biển Luân hồi là cùng một thứ với Niết bàn, và con tới mức ngộ ra là cả hai không có gì khác biệt. Có những lời dạy khác nữa mà rất it người đã nắm bắt được nhưng một số thì đã hiểu.    

Việc các thày đang làm hiện nay trong đợt truyền pháp này là giải thích rõ ràng hơn trước kia, để giúp mọi người dễ dàng nắm bắt hơn rồi khởi sự áp dụng. Hiển nhiên như con có thể nói, đây là sự thách đố cùng cực đối với sa nhân, cơn ác mộng tột độ đối với sa nhân, vì nó thách đố trực tiếp giấc mơ của họ về sự bất tử của ngã tách biệt, sự thường hằng của hình tướng, giấc mơ cho rằng một cái gì được tạo ra trong thế giới hình tướng có khả năng đạt đến thường hằng mà không đi qua tiến trình thăng thiên.

Mục đích của bầu cõi chưa thăng thiên

Và con cũng có thể hỏi giống như một số người đã tự hỏi suốt các thời đại: Tại sao mọi chuyện lại như vậy? Chúng ta có bầu cõi chưa thăng thiên để làm gì? Có hàng tỷ và hàng tỳ và hàng tỷ con người đồng sáng tạo, tất cả đều đang sáng tạo – hoặc một mình, hoặc cùng nhau khi họ nâng cao tâm thức – họ tạo ra những nền văn mình công phu tinh xảo đó trên những hành tinh tuyệt đẹp đó. Rồi sau biết bao thời gian dài đằng đẵng, tất cả những thứ đó họ sẽ phải buông bỏ, họ sẽ phải bỏ lại để chính họ có thể thăng thiên và toàn bầu cõi của họ cũng thăng thiên. Và trong tiến trình thăng thiên này, tất cả những thứ mà họ đã tạo ra sẽ tiêu tan, sẽ bị cuốn mất, sẽ bị xóa bỏ, cho dù con có muốn mô tả như thế nào. Đây là một tiến trình tịch diệt.

Tại sao lại như vậy? Tại sao không có chuyện là trên một số hành tinh, họ có thể tạo ra một cái gì tinh xảo đến độ nó có thể thăng thiên khi bầu cõi thăng thiên? À, các thày đã cho con lời giải thích rồi đó: Quyền tự quyết là cách mọi người tăng triển, mọi sinh thể tăng triển, và quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, cho nên luôn luôn có khả năng là có người sẽ từ chối thăng vượt một điều gì đó, muốn bám giữ cái đó, và để tránh cho cái đó trở thành thường hằng thì bầu cõi phải thăng thiên. Nhưng con vẫn có thể nói: “Vâng, chúng con hiểu được là có những hành tinh có người không chịu buông bỏ và vì vậy sẽ sa ngã, thì các hành tinh này có thể bị phân hủy. Nhưng tại sao mọi hành tinh phải bị phân hủy?”

À, bởi vì để thực sự thăng thiên, con phải chứng tỏ sự không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào cái ngã mà xuyên qua đó con đã tạo ra hình tướng. Và con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ nó và tin tưởng rằng những trải nghiệm được thu hoạch trong nguyên hành trình của con qua bầu cõi chưa thăng thiên được bảo tồn trong Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và như vậy chúng không bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là sau khi một bầu cõi thăng thiên, tất cả mọi trải nghiệm được thu thập trong căn thể của tất cả mọi sinh thể thăng thiên vẫn còn đó. Và sau khi bầu cõi thăng thiên, năng lượng được thanh lọc, có nghĩa là nó không còn dày đặc như ở bầu cõi chưa thăng thiên, và giờ đây việc sáng tạo trong bầu cõi thăng thiên sẽ dễ dàng hơn hẳn. Điều này có nghĩa là tất cả các Hiện diện TA Là đã trở thành chân sư thăng thiên giờ đây có sự chọn lựa. Họ sẽ sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Họ sẽ đồng sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Giờ đây họ hoàn toàn tự do quyết định những gì họ sẽ sáng tạo và như thế nào.

Nhưng con thấy không, trước điểm thăng thiên thì con mang cái ngã mà xuyên qua đó con đã sáng tạo một vật gì và nghĩ nó tốt đẹp, tinh xảo. Nhưng con vẫn mang ngã đó. Có nghĩa gì? Có nghĩa là mặc dù con đang khiến cho tạo vật ngày càng tinh xảo hơn, con vẫn làm vậy xuyên qua ngã, qua các thông số của ngã đó. Tạo vật do con đang đồng sáng tạo tùy thuộc và được quy định bởi tạo vật con đã đồng sáng tạo trước đó. Nhưng giờ đây khi con đã thăng thiên và bỏ lại ngã đó, con hoàn toàn tự do đồng sáng tạo bất cứ gì trong bầu cõi thăng thiên. Con có thể rất nhanh chóng tạo lại một cái gì tương tự như cái con đã tạo ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nếu đây là điều con quyết định làm. Nhưng trên thực tế, tuyệt đại đa số các sinh thể thăng thiên sẽ muốn sáng tạo một cái gì khác hơn vì giờ đây họ có viễn quan rộng lớn hơn trước rất nhiều.

Tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã

Con thấy đó, tất cả đều là một phần của nguyên tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã khi một người đồng sáng tạo bắt đầu với một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn rồi lần hồi khuếch trương cho đến khi cuối cùng nó đạt được mức tâm thức trọn vẹn của Đấng Sáng tạo. Nhưng làm thế nào con khuếch trương ý niệm bản ngã? À, qua một tiến trình lần hồi mở rộng ngã, xong con trải qua một số xoay chuyển cách mạng trong ý niệm bản ngã – và một xoay chuyển cách mạng như vậy là khi bầu cõi nơi con đã khởi sự đồng sáng tạo thăng thiên.

Con cũng có những xoay chuyển khác. Lấy ví dụ con thăng thiên trong bầu cõi hiện thời. Trước tiên, con có thể mở rộng ý niệm bản ngã của con trong bầu cõi thứ bảy cho dù bầu cõi này chưa thăng thiên. Nhưng một khi con đã làm vậy – con đã mở rộng đến mức tối đa của con – thì con có thể thăng thiên lên bầu cõi thứ sáu. Rồi ở đó con lại mở rộng thêm nữa và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con đạt đến tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mỗi bước thăng thiên lên bầu cõi kế tiếp như vậy là một cuộc xoay chuyển cách mạng, và cho dù con đã bước vào các bầu cõi thăng thiên, con vẫn phải từ bỏ ý niệm bản ngã mà con đã mang trong bầu cõi trước.

Đạo Phật là một triết lý thực tiễn

Như con thấy, đây là một tiến trình rất phức tạp. Và tại sao nó lại phức tạp đến vậy? Bởi vì tâm thức của Đấng Sáng tạo vượt khỏi một cách gần như vô hạn những gì con có thể nắm bắt trên địa cầu. Vậy tại sao ta lại đề cập đến chuyện này làm gì? À, con sẽ thấy là 2500 năm trước đây, ta đã có một cách tiếp cận khác hẳn cách tiếp cận mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang có ngày nay. Vào thời đó hiển nhiên có nhiều tôn giáo, kể cả đạo Ấn, nói về thế giới thượng thiên cùng các cõi thánh thần và điều này điều nọ. Các giáo lý này đi ngược trở về kinh cổ Veda được ban truyền 10 ngàn năm về trước vào thời tâm thức loài người thấp hơn bây giờ – mặc dù ngày nay vẫn còn những người theo đạo Ấn nghĩ đó là giáo lý cao nhất có thể được ban ra trên địa cầu.

Vậy tình thế như thế nào vào thời ta hiện thân là Phật? Con có những người Bà-la-môn của Ấn giáo, họ hoàn toàn giống như lời mô tả mà Giê-su vừa đưa ra hồi nãy về các thày thông giáo và người Pha-ri-si của Do Thái giáo. Họ đã lấy những lời mà họ xem là chuẩn mực đích thực của kinh Veda, rồi họ đã diễn giải một cách trí thức và càng ngày càng xây dựng những cách diễn giải, những hình tư tưởng tinh xảo hơn mà họ cứ nghĩ là chân lý tuyệt đối.

Và những ai tin họ – các tín đồ Ấn giáo vào thời đó, những người dân bình thường, tuyệt đại đa số dân chúng – không thể thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của những người Bà-la-môn này. Họ không thể nhìn xuyên thấu để nhìn ra đó chỉ là hình tư tưởng, chỉ là ảo tưởng. Họ không có sự nhận biết, khả năng tri thức hay kiến thức về thế giới để nhìn xuyên thấu. Và đó là vì sao ta đã có một cách tiếp cận thật thực tiễn và ta nói: “Đạo Phật không phải là một tôn giáo như đạo Ấn. Đạo Phật không là một tôn giáo nhằm cung cấp kiến thức về các vị thần và cõi thần thánh, vì hầu hết mọi người không thể nắm bắt cõi thần thánh là gì, cho nên họ sẽ bị vướng kẹt trong các học thuyết và cách diễn giải vỏ ngoài đó. Thay vào đó, chúng ta hãy thiết lập một triết lý thực dụng nhằm đưa con người từ nơi họ đang đứng, nâng cao tâm thức của họ, ít nhất giúp họ khắc phục một số ảo tưởng của Maya. Rồi một khi họ đã nâng cao tâm thức thì họ sẽ có khả năng nắm bắt nhiều hơn. Họ sẽ phát triển khả năng trực giác và có thể biết được từ bên trong cái gì là thực, cái gì không thực.”    

Nói cách khác, điều ta đã tránh không làm trong kiếp đầu thai làm Phật là tạo ra một tôn giáo khác nữa tự xưng là cao trội hơn tôn giáo của người Bà-la-môn, vì điều này sẽ khóa chặt ta vào một cuộc chiến với người Bà-la-môn và họ sẽ tấn công ta và hành xử với ta y như họ đã cố hành xử với Giê-su. Đây là một lượng định dựa theo các chân sư thăng thiên đang hướng dẫn địa cầu vào thời đó, nhận định rằng đây là điều con người sẵn sàng làm được, ít ra ở vùng này của thế giới.

Thêm tiết lộ tuần tự

Điều xảy ra trong vòng 500 năm giữa thời của Phật và thời của Giê-su là tâm thức tập thể đã có tiến bộ. Và sự tiến bộ này phần lớn là do nhiều người đã đón nhận đạo Phật, đã chân thành nỗ lực cải hóa tâm thái của mình, nỗ lực khắc phục các ảo tưởng của Maya bằng cách bước chân trên Bát chánh đạo, là con đường ta vừa giải thích trong một bài trước nhằm giúp đỡ con người vượt qua các ảo tưởng. Đến thời của Giê-su, các chân sư thăng thiên đã xác định là các thày có thể dùng một cách tiếp cận khác xuyên qua Giê-su. Giê-su sẽ giảng dạy về Thượng đế, về cõi tâm linh và tiến trình thăng thiên, vì giờ đây đã có nhiều người hơn sẵn sàng chấp nhận tiềm năng thăng thiên một cách ý thức.

Tất nhiên các thày cũng biết là có những hạn chế do tâm thức tập thể dựng lên. Quả là có một tiềm năng rất thực tế là đạo Cơ đốc có thể trở thành cái mà nó đã trở thành sau này, một tôn giáo do sa nhân kiểm soát. Nhưng dẫu sao, đó là một cách tiếp cận mới mẻ khi Giê-su trình bày công khai về đấng Cha, nhưng như con thấy, tương đối Giê-su cũng đã đưa ra ít chi tiết về cõi tâm linh và mọi thứ ở đó. Kỳ thực, Giê-su đã nói về cõi tâm linh ít hơn là kinh Cựu ước, ít hơn rất nhiều những người Bà-la-môn của Ấn giáo. Theo một nghĩa nào đó, Giê-su cũng đã lấy một cách tiếp cận thực dụng.

Rồi những gì xảy ra kể từ thời Giê-su đến nay là, tất nhiên và trên hết do thành quả của lời dạy của Giê-su lẫn của Phật, tâm thức tập thể đã được nâng lên cao hơn. Nhưng rồi sau đó Saint Germain lại quyết định ban truyền phương pháp khoa học, và điều này lại nâng tâm thức lên cao hơn nữa. Nó khiến cho thế giới quan của con người được mở lớn. Nó cho con người một tầm hiểu biết về một số khái niệm tổng quát mà bây giờ các thày đã sử dụng trong khoảng thế kỷ vừa qua để ban truyền thêm nhiều tiết lộ tuần tự qua trung gian một số tổ chức và vị sứ giả khác nhau.

Bây giờ chúng ta đang ở một điểm khi các thày lại cảm thấy tự do hơn giảng dạy về các điều kiện trong cõi tâm linh, nhưng các con sẽ thấy là trọng điểm của các thày vẫn tập trung vào việc cho con thấy làm thế nào con có thể thăng vượt tâm thức của mình. Theo một nghĩa nào đó, các thày đang làm cùng công việc mà các thày đã làm qua tôn giáo hay triết lý của Phật, là trình bày cho mọi người cách nâng cao tâm thức hầu họ có thể biết được từ bên trong cái gì là thực và cái gì không thực, hầu họ không cần lệ thuộc vào một thẩm quyền bên ngoài, thậm chí một giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên, mà ngược lại họ biết được từ bên trong nội tâm. Và tất nhiên, đây là cách duy nhất con có thể tự giải thoát khỏi các ảo tưởng của Maya, các lời dối trá của sa nhân.

Đọc rung động là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá

Nhiều người trong số những Bà-la-môn Ấn giáo kia là sa nhân. Họ có một khả năng đặc biệt làm rối trí và gần như thôi miên những ai chưa thiết lập được mối liên lạc nội tâm với tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu nối được mối liên lạc nội tâm này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu các ảo ảnh của sa nhân. Con có thể làm điều này phần nào qua tâm vỏ ngoài khi con đánh giá là họ không nhất quán, họ không hợp lý, họ không tương hợp với những giáo lý khác mà con xem là đáng tin cậy. Nhưng nói cho cùng, con sẽ bắt đầu làm được điều này giản dị bằng cách đọc sự rung động. Con có thể đạt tới điểm đọc được rung động, con đọc một lời dạy nào đó và chỉ trong vòng một vài câu, con cảm nhận được là rung động không đến từ tâm Ki-tô. Và tất nhiên, đây chính là điểm mà các thày đã cố đưa tất cả các con đến, qua các lời dạy và các dụng cụ về việc khắc phục các ngã, vì chính những cái ngã này ngăn cản con thiết lập sự nối kết với tâm Ki-tô, ngăn cản con sử dụng tâm Ki-tô làm khung tham chiếu để đọc được rung động của bất cứ gì trong thế giới hình tướng.

Theo một nghĩa nào đó, đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá: con đọc rung động. Con có thể gọi đó là nhận thức ngoại cảm, là khả năng thấu thị – con muốn gọi là gì cũng được – nhưng khả năng này không gắn liền với giác quan vật lý. Nói cách khác, nhiều người tâm linh mơ ước có thể nhìn thấy hào quang bằng cách mở con mắt thứ ba, nhưng đây vẫn chỉ là sự nối dài của nhãn quan. Nhưng đọc được rung động thì vượt khỏi năm giác quan. Con có thể gọi là giác quan thứ sáu hay thứ bảy hay bất kỳ tên gọi nào khác, nhưng đó là khả năng đọc rung động.

Tại sao người ta có thể đọc được rung động? À, ta đã nói gì cách đây 2500 năm? Tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Điều gì đã được nói về tâm thức Ki-tô? Đó là Ngôi Lời, là Logos, là Đứa con Một, và nếu không có Lời thì không có tạo vật nào được tạo thành. Tất cả trong thế giới hình tướng đều khởi lên từ tâm thức Ki-tô, từ Phật tánh, bất kể tên gọi là gì, và tất cả đều có một rung động nào đó. Tâm thức Ki-tô, Phật tánh, không bao giờ xuống dưới một độ rung nào đó trong dạng thuần khiết của nó khi nó nối kết. Nhưng vì quyền tự quyết phải được phép trải bày, cho nên con có thể hạ thấp độ rung của năng lượng hầu tạo ra ảo tưởng tách biệt cùng ảo tưởng con tách rời khỏi nguồn cội của con. Như các thày có nói, ngay cả độ rung của vật chất trên trái đất đã bị hạ thấp dưới mức ban đầu, và đó là tại sao đã có vẻ hợp lý là con sống trong một thế giới tách biệt, và ngay cả nếu có Thượng đế thì Thượng đế này sẽ có vẻ ở tuốt trên kia nơi thiên đàng.

Phật tánh và các ảo tưởng của Maya

Có một sự khác biệt rõ rệt về rung động giữa những gì là tâm thức thuần khiết của Ki-tô, Phật tánh thuần khiết, và những gì tuy vẫn là Phật tánh nhưng đã bị ảo ảnh của Maya che mờ, khi tâm thức Ki-tô bị che lấp bởi các ảo tưởng của phản-Ki-tô. Nhưng tất nhiên, nó chỉ bị che lấp khi con nhìn hình tướng xuyên qua các ngã tách biệt đã tạo ra hình tướng. Khi đó, con không thể thấy được là mặc dù nó rung động thấp hơn tâm thức Ki-tô thuần khiết, nó vẫn chính là tâm thức Ki-tô. Kỳ thực, đó là một ảo tưởng được tạo dựng từ các rung động thấp hơn. Nó không bao giờ có thể thường hằng, nó không thể trở thành thường hằng, nó không thể nhận được sự sống vĩnh cửu, và do đó, khi con bắt đầu cảm nhận rung động, con có thể lập tức cảm nhận được đâu là rung động thấp và đâu là rung động của Ki-tô hay của Phật tánh.

Và đây là cách tối hậu để tránh khỏi bị lừa bởi sa nhân, bởi ảo tưởng cuả Maya, bởi quỷ dữ của Mara, và đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá. Vì chừng nào con không thấy được là một số rung động không phải là bản tánh thuần khiết mà chỉ là những ảo ảnh tạm thời, thì con sẽ nghĩ những hiện hình đó rất có thể thường tồn và chúng có quyền năng trên con, thậm chí chúng còn quy định được con. Con có thể đồng hóa với chúng, ngay cả con có thể say mê những gì chính con hay một ai khác, một sa nhân, đã tạo ra dưới dạng một cấu trúc tinh xảo. Và nó có vẻ thật tinh xảo từ một tầm nhìn nào đó, nhưng nó không thể trở nên thường tồn vì sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được qua Ki-tô, qua sự hợp nhất với Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng con có thể tách rời khỏi Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng hình tướng – bất kỳ hình tướng nào – có thể tách rời khỏi Phật tánh và là gì khác hơn Phật tánh.

Đây là ảo tưởng cơ bản mà các thày đã trình bày qua tâm thức nhị nguyên. Ảo tưởng cơ bản là kìa có Phật tánh, có Ki-tô, và kìa có một cái gì khác hơn. Cái này không phải là Phật tánh, cái này khác với Phật tánh, tách biệt khỏi Phật tánh. Đây là ảo tưởng cơ bản của nhị nguyên rằng thế giới có thể được phân chia làm hai, nhưng sự phân đôi này không thể là thực. Phật tánh không thể bị phân chia. Chỉ trong ảo ảnh của Maya con mới có thể tạo ra dáng vẻ có hai. Cho nên ý tưởng bảo rằng có một thượng đế và có một ác quỷ chỉ là một ảo tưởng, và thượng đế mà con nhìn thấy từ trạng thái tâm thức này không phải là Thượng đế chân thực, không phải là Thượng đế vô hình tướng. Các thày gọi là vô hình tướng vì các thày không thể đặt ra ngôn từ nào cho tâm thức Thượng đế. Thượng đế hoàn toàn vượt khỏi các hình tướng mà con có thể thấy từ một bầu cõi chưa thăng thiên.

Cho con người động lực bước trên đường tu

Thế giới không là hai, nó không bị phân chia, nó là một. Nó luôn luôn là một. Nhưng điều gì có thể thúc đẩy một sinh thể bị kẹt trong ảo tưởng của Maya muốn nỗ lực khắc phục ảo tưởng của Maya? Tại sao ta như đức Phật lại nói về niết bàn? Vì ta phải cống hiến một động cơ cho con người cất bước trên con đường khắc phục tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng của họ. Hiển nhiên những người này đang đau khổ và họ muốn thoát khổ đau. Nhưng khi con bị kẹt trong tâm thức tạo ra đau khổ, con không thể nhìn ra cách thoát khỏi khổ đau. Con cứ nghĩ là có lẽ con có thể phá hủy các điều kiện gây ra khổ đau. Có lẽ con có thể tạo ra những điều kiện tốt đẹp hơn từ tâm thức tách biệt. Nhưng điều này không thể làm được.

Con không thể thoát khỏi khổ đau nhờ tâm thức tách biệt, nhưng con cũng không thể thực sự nắm bắt thế nào là ở ngoài tâm thức tách biệt. Cho nên các thày trong tư cách là thày tâm linh, phải cho con người một động lực nào đó để họ cất bước trên con đường thoát khỏi tách biệt mà họ có thể nắm được, một động lực hấp dẫn đối với họ khi họ vẫn còn trong tách biệt. Đó là vì sao ta đã đưa ra Diệu đế thứ nhất. Cuộc đời là đau khổ, nhưng cũng có một con đường thoát khổ, và đó là Bát chánh đạo. Nhưng cái gì sẽ thúc đẩy con đây? Phải, ta có thể thúc đẩy con lánh xa khỏi đau khổ, nhưng con sẽ bước vào cái gì? Con sẽ hỏi và có những người đã từng hỏi: “Khi con bước trên Bát chánh đạo, mục tiêu chót cùng là gì? Phần thưởng ở điểm đến sẽ là gì?”

À, đấy chính là vì sao ta đã hình thành khái niệm niết bàn như một giải pháp thay thế cho đau khổ, cho Biển Luân hồi. Không phải là ta có khái niệm này trong tâm, nhưng khi người ta nghe nói về khái niệm này thì họ làm gì? Họ liền phóng chiếu một hình tư tưởng lên niết bàn dựa trên ảo tưởng tách biệt, thế là họ nghĩ mục đích con đường Bát chánh đạo là để đạt tới cái hình ảnh nhị nguyên đó về niết bàn. Đấy là tại sao mới có một lời dạy trong kinh sách đạo Phật nói rằng sẽ tới một điểm con nhận ra là niết bàn và luân hồi chỉ là cùng một thứ trên cơ bản, hay cả hai là cùng một chất liệu vì cả hai đều đi ra từ ảo tưởng tách biệt. Và vì vậy, cả hai đều cần bị tiêu diệt trước khi con tự do, trước khi con giải thoát. Và đây là điểm dối trá của nhiều tôn giáo trên trái đất, kể cả Cơ đốc giáo, Do thái giáo và truyền thống Do thái-Cơ đốc.

Như các thày đã nói, một lần nữa khi con bước vào nhị nguyên, con bắt đầu tạo ra một thượng đế trong hình ảnh của ngã tách biệt và giống như ngã tách biệt, thậm chí giống như sa nhân. Con sử dụng các điều kiện của hình tướng trong một bầu cõi chưa thăng thiên trên một hành tinh chưa thăng thiên để phóng chiếu ra cõi tâm linh là thế nào, cho nên con không thể biết được cõi tâm linh là thế nào. Các thày, các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh, sẽ không bao giờ có thể cho con một lời dạy về một số điều kiện trên cõi tâm linh. Nhưng các thày hoàn toàn không có ý định cho con một tầm nhìn toàn diện vì các thày biết nó không thể được nắm bắt, và thật chẳng ích lợi gì nếu con biết cõi tâm linh như thế nào. Bởi vì, như các thày cũng đã giải thích, con sẽ làm gì khi con bước vào tâm tách biệt đường thẳng? Con tự xem mình là một chủ thể đang tìm hiểu một khách thể từ xa. Và đối với cõi tâm linh, con cũng sẽ làm y như vậy. Khi con ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên, khi con chưa thăng thiên, con tìm hiểu cõi tâm linh như một đối tượng tách biệt.

Điều này có thể cần thiết cho con để con có được một cái hiểu nào đó về cơ học của tiến trình thăng thiên, và đó là vì sao các thày trao cho con lời dạy này. Nhưng con phải nhìn nhận là cho dù con nghĩ cái hiểu của con về cõi tâm linh tinh xảo đến đâu đi nữa, thì con không đang ở cõi tâm linh và cái hiểu này sẽ không đưa con lên đó. Con sẽ chỉ lên đó bằng cách buông bò hình tư tưởng đó, những cái ngã tách biệt đó. Rồi khi con ở đó, con sẽ trải nghiệm được cõi tâm linh, ít ra từ mức tâm thức vào lúc con thăng thiên. Con không trải nghiệm một cách trọn vẹn vì như ta nói, có nhiều tầng cấp trải dài cho đến Đấng Sáng tạo.

Một lần nữa, ta đã nói quá nhiều, ta đã cho con thật nhiều điều để con suy ngẫm, nhưng ta biết một số các con sẽ hiểu được, một số sẽ sẵn lòng suy ngẫm, sử dụng lời dạy mà các thày đã trao truyền để con đem mình xuống khỏi thập tự giá của cái hiểu cũ của con về con đường tâm linh. Không một cách mô tả vỏ ngoài nào về đường tu có thể đưa con vào trạng thái thăng thiên. Chỉ bằng cách thăng vượt mọi sự mô tả vỏ ngoài mà con có thể thăng thiên.

Và như vậy, ta sẽ niêm hội nghị này. Các thày biết ơn con đã tham dự, đã sẵn lòng tiếp nhận những lời dạy này và phóng chiếu ra qua hào quang cùng luân xa của con vào tâm thức tập thể, đã sẵn lòng thỉnh gọi qua những bài thỉnh đã có ảnh hưởng sâu xa, trong thời buổi đặc thù này khi quá nhiều tín hữu Cơ đốc giáo chú tâm vào Ki-tô bị đóng đinh thay vì Ki-tô phục sinh.

Với lòng biết ơn sâu xa, ta niêm con trong sự an bình vô biên, vô điều kiện, không thể tả xiết của Phật.

Điều gì xảy ra cho những người lính thiệt mạng trong cuộc chiến ở Ukraine?

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Elohim Astrea qua trung gian Kim Michaels ngày 8/4/2023, nhân Webinar Phục sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Elohim Astrea. Ta đã quyết định dùng cơ hội này để cho các con một số sáng ngộ về cách làm thế nào Hội đồng Nghiệp quả lượng định hoàn cảnh trên trái đất và tìm cách giúp đỡ con người, kể cả việc ta cắt đứt các sợi dây ràng buộc để giải thoát con người, để khi họ rời khỏi hiện thân, họ có thể đi đến những cõi giới cao nhất có thể, và họ được trợ giúp trên con đường thăng tiến cá nhân của họ.

Các chân sư thăng thiên muốn giúp mọi người tăng triển

Ta sẽ đặt trọng tâm vào cuộc chiến ở Ukraine và ta sẽ, ít ra là để mở đầu, tập trung vào những gì xảy ra cho những người lính rời khỏi hiện thân. Trước hết, con cần nhìn nhận là các thày, các chân sư thăng thiên, không có cùng tầm nhìn về tình hình trên trái đất như con người. Ta không nói điều này để chê bai con người. Khi con ở trong một cơ thể vật lý, lẽ tự nhiên con đến từ một bối cảnh đặc thù và con nhìn các tình huống một cách đặc thù. Nhưng hiển nhiên các thày đã thăng vượt tất cả các thành kiến và quan điểm nhân thế đó, cho nên các thày nhìn từ nhãn quan tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô đương nhiên thấy rõ sự hợp nhất giữa mọi cách biểu hiện của tâm thức Thượng đế, bởi vì “nếu không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”, cho nên tâm thức Thượng đế ở trong mọi thứ và mọi người.

Các thày nhìn mọi người đều là những đứa con của Thượng đế, ít ra là mọi người đều khởi sự như vậy và kể từ đó họ đã đi xuống – rất nhiều người đã đi xuống – một ý niệm bản sắc thấp hơn. Nhiệm vụ của các thày trong tư cách chân sư thăng thiên là giúp cho mọi người tiến bước cho đến mức họ có thể nhận diện nguồn gốc của họ, bản sắc của họ, và tất nhiên họ làm vậy bằng cách nhìn vượt ra khỏi những phân chia vỏ ngoài đã gây chia rẽ giữa loài người và khiến họ xung đột với nhau.

Ý ta muốn nói ở đây là khi các thày nhìn vào một tình trạng như cuộc chiến ở Ukraine, các thày không có những phán đoán của con người. Các thày không phán xét là cái này sai, cái kia đúng, mặc dù tất nhiên các thày thấy rõ là những gì nước Nga đã làm tại Ukraine trong tư cách một quốc gia đã vi phạm định luật tự quyết. Dẫu vậy, điều ta muốn tập trung ở đây là làm thế nào để có thể giúp đỡ từng cá nhân, đặc biệt những người lính, những người dân thường đã phải lìa cõi hiện thân do hậu quả cuộc chiến. Đối với các thày, hoàn toàn không có khác biệt nào trong mong muốn giúp đỡ người Ukraine hay người Nga, nhưng trong cách thực hiện thì có một số khác biệt. Nhưng những khác biệt này trong cách trợ giúp con người không đến từ các thày hay từ tâm thức các thày, mà nó đến từ sự kiện mỗi cá nhân ở cả hai bên đều có những cách tiếp cận khác nhau, đều mang những tâm thái khác nhau.

Hãy cho ta bắt đầu nói đến những người lính Nga. Nhiều người trong số các con sống ngoài nước Nga đã tìm hiểu sự việc đã xảy ra. Con biết là có hàng ngàn, hàng vạn lính Nga đã tử trận. Con cũng biết đã có một số hành vi tàn bạo, một số tội ác chiến tranh do binh lính Nga gây ra đối với thường dân và dĩ nhiên cũng đối với binh lính Ukraine. Con cũng biết là trong y khoa có một nguyên tắc gọi là phân loại để chọn cách chữa trị hiệu quả nhất. Nếu có nhiều thương vong, bác sĩ sẽ xếp họ vào ba loại khác nhau dựa trên lượng định họ có thể được cứu giúp hay không và cách cứu giúp tối ưu là như thế nào. Theo một nghĩa nào đó, các thày cũng làm một lượng định tương tự khi xem xét những người lính Nga. Các thày phải nhìn vào trạng thái tâm thức của họ trước khi họ tham gia cuộc chiến, điều gì xảy ra cho họ trong suốt cuộc chiến, và hiển nhiên trạng thái tâm thức của họ bây giờ một khi họ lìa khỏi cõi hiện thân.

Những lính Nga không thể được giúp đỡ

Có một số lính Nga các thày không thể giúp được. Điều này đặc biệt áp dụng cho những ai đã phạm tội ác chiến tranh hay có hành vi tàn tệ nhất – những ai đã giết hại thường dân, đã hãm hiếp phụ nữ, đã nhắm bom vào các tòa nhà dân sự hay các cơ sở hạ tầng cho dù họ đã làm vậy bằng tên lửa phóng từ xa. Thường thường họ đã thâm căn cố đế trong một tư duy nhất định, và trong cốt lõi, tư duy này là như sau: ở một tầng sâu thẳm trong bản thân họ, họ thừa biết là hành vi của họ vi phạm quyền tự quyết, nhưng ở bề mặt tâm trí, họ không chịu và họ không thể thừa nhận sự thật này. Đặc biệt có nhiều người trong số các chiến binh chuyên nghiệp do nhóm Wagner sử dụng rơi vào hạng người này. Nói cách khác, các thày phải xét xem các thày có thể giúp họ được không. Và nếu tâm họ hoàn toàn đóng chặt, nếu họ nhất định không sẵn lòng nhìn vào hành vi của họ từ một nhãn quan cao hơn thì các thày không thể giúp được họ.

Điều ta đang giảng ở đây là nếu con nhìn con người một cách phổ quát, con sẽ thấy là khi một người rời khỏi xác thân vật lý, y có một cơ hội độc nhất để nhìn lại đời mình cùng trạng thái tâm thức của mình từ bên ngoài – hay nếu có thể nói như vậy – từ một nhãn quan cao hơn. Tuy nhiên, nếu y ở trong một tâm thái vô cùng khép kín trước khi rời khỏi hiện thân, thì y sẽ không thể hay không chịu làm điều đó. Y sẽ không sẵn lòng xem xét đời mình vì y không thể chịu đựng nhìn từ một nhãn quan trung lập những gì y đã làm, những hậu quả y đã gây ra cho người khác và cả hậu quả cho chính bản thân trong tương lai. Có thể nói, những người như vậy không thể chịu nổi việc thừa nhận các nghiệp quả mà họ đã tạo ra.

Những người như vậy, các thày không thể giúp. Vậy thì họ sẽ đi đâu khi họ lìa khỏi hiện thân? Họ đi đến một số tầng cấp khác nhau của cái mà các thày gọi là cõi trung giới (astral plane) là cõi cảm xúc thấp nhất nơi những người có tâm khép kín vốn đi tới. Một số đã ở đó suốt một thời gian rất dài vì trạng thái của họ thấp đến độ họ không thể trở lại đầu thai. Trong cõi trung giới có những cõi giống như địa ngục mà nhiều người thường mường tượng. Đúng thực là thi sĩ Dante khi ông thấy chín vòng địa ngục đã hình dung ra một vài tầng – nhưng chỉ vài tầng chứ không phải tất cả. Những tầng này của cõi trung giới mang hình dạng của địa ngục, và những người lính với tâm vô cùng đóng kín sẽ đi về đó. Và ở đó họ sẽ phải giáp mặt với những người hay những dòng sống ở cùng mức tâm thức như họ. Thậm chí họ phải hứng chịu cùng những hành vi mà họ đã từng hứng chịu trong quân đội Nga hay trong nhóm Wagner khi thượng cấp đã ngược đãi họ, đã không đếm xỉa gì đến họ, đã trù dập họ bằng nhiều cách, và vì thế họ cảm thấy xung khắc. Và họ bị xung khắc chừng nào khi còn sống thì đến khi rời khỏi xác thân họ vẫn xung khắc như vậy.

Thật không có gì để nói thêm. Các điều kiện đặc thù ở cõi trung giới không đặc biệt quan trọng ngoại trừ sự kiện là những người đó, tất nhiên, bị thu hút đến một tầng đặc thù tương ứng với mức tâm thức của họ, tức là họ sẽ bị những sinh thể khác đối xử với họ tồi tệ y như họ đã đối xử tồi tệ với người khác trong kiếp đầu thai vừa rồi của họ, đặc biệt là trong cuộc chiến. Nói cách khác, họ phải trải nghiệm đúng những gì họ đã gây ra cho người khác, chỉ có điều là bây giờ họ là kẻ hứng chịu để họ có thể trải nghiệm sự tàn bạo của chính họ. Những người đã phải hứng chịu hành vi của họ trong cuộc chiến đã chịu đựng những gì? Chính nhờ vậy mà đôi khi – và các thày nhìn sự thể này sau một quá trình lâu năm làm việc với con người – đây là cách duy nhất để cho một dòng sống có thể quay đầu mà nhìn ra: “Tôi không muốn trải nghiệm điều này nữa, có nghĩa là tôi phải thay đổi chính tôi.” Cách này không cứ sẽ hiệu quả đối với mọi người nhưng nó hiệu quả đối với một số, và các điều kiện đặc thù mà họ trải nghiệm không mấy quan trọng.

Những người lính Nga bị bối rối

Bây giờ có một loại dòng sống, một loại binh lính khác là những người, bằng cách này hay cách nọ, đã đặt niềm tin vào tư duy đứng đằng sau cuộc xâm lăng của Nga. Trong quân đội cũng như trong quần chúng có một tư duy tin vào tính ưu việt của nước Nga, của đế chế Nga, rằng Nga có quyền xâm lăng Ukraine vì nhiều lý do. Nói cách khác, họ đã bước vào cuộc chiến với một tư duy mà chúng ta có thể gọi là tư duy ý thức hệ, mặc dù đây không hẳn là điều con thường gọi là ý thức hệ như chủ nghĩa cộng sản. Nhưng đây vẫn là một tư duy ý thức hệ khi họ tin theo lời bịa đặt mà Putin và giới thượng tôn quyền lực Nga đã đưa ra xung quanh cuộc chiến về sự vĩ đại của nước Nga và đế chế Nga cùng nhu cầu phải khôi phục đế chế, phải bảo vệ nước Nga chống lại NATO, hay thậm chí phải giải phóng nhân dân Ukraine khỏi bọn Quốc xã ở Kiev.

Bất kể những lý do được đưa ra trong không gian tuyên truyền của Nga để viện cớ cho cuộc tấn công, có thể nói là họ đã cả tin theo đó. Họ đã đặt tin tưởng vào đó. Nhưng họ lại trải nghiệm là cuộc chiến hoàn toàn không giống như những gì họ chờ đợi, cho nên khi họ lìa cõi hiện thân, họ phần nào bị bối rối. Và sự bối rối có nghĩa là tâm họ cởi mở. Ít ra có một chút cởi mở trong tâm họ, có nghĩa là giờ đây các thày có cơ hội làm việc với họ. Và điều xảy ra là linh hồn hay dòng sống của họ được đưa về một nơi dễ chịu đối với họ.

Không phải là họ sẽ được tặng cho 70 trinh nữ trên thiên đàng như người đạo Hồi tưởng tượng, nhưng họ được đưa đến một nơi có thể gọi là bình yên, ngơi nghỉ, nơi họ có thể nhận được sự chữa lành tâm lý. Rồi lần hồi một khi họ đã bình tĩnh trở lại và họ có đôi chút cảm giác nghỉ ngơi, lành lặn, các thày sẽ cống hiến cho họ cơ hội nhìn lại cuộc đời của họ, nhìn vào tư duy của họ, cái tư duy mà họ đã được nuôi dạy, cái tư duy mà họ đã mang trong cuộc chiến, và họ xem xét nó từ một nhãn quan trung hòa. Nếu họ nắm lấy cơ hội này thì một số sẽ có thể được giúp đỡ, nhưng một số khác thì không. Những người không thể được giúp đỡ – tức là những người không sẵn lòng chấp nhận những điều họ đã nhìn thấy từ một nhãn quan trung hòa – họ sẽ trở về với cùng cái tư duy mà họ đã có khi còn hiện thân và đã từ chối chất vấn. Lại có cả những người không chịu nắm lấy cơ hội xem xét một cách trung hòa và cứ khăng khăng nắm giữ tư duy cũ. Trong trường hợp này, một lần nữa, các thày sẽ không thể giúp họ. Các thày phải để yên cho họ ra đi và họ sẽ loanh quanh luẩn quẩn ở một tầng nào đó nơi cõi trung giới.

Những lính Nga có khả năng xoay chuyển

Nhưng những người nắm lấy cơ hội và sẵn lòng xem xét tư duy từ một tầm nhìn trung hòa, thậm chí sẵn lòng xem xét bối cảnh rộng lớn hơn của nước Nga cùng lý do tại sao Nga đã gây chiến, thì họ sẽ được giúp đỡ – một cách rất từ từ, vì tiến trình này không xảy ra lập tức mà rất lần hồi – để họ nhìn một cách trung hòa vào một số yếu tố trong tư duy cùng hành động của họ cũng như của nước Nga. Có nghĩa là họ sẽ có một sự xoay chuyển nào đó. Xoay chuyển lớn hay nhỏ tùy theo mỗi cá nhân, tùy họ có ý muốn hay khả năng xoay chuyển đến đâu. Nhưng trong số những người xoay chuyển một chút thì một số sẽ ngừng lại ở một điểm nào đó. Họ sẵn lòng xoay chuyển đôi chút nhưng không muốn đi xa hơn. Những người này sẽ đi vào một tầng ở cõi trung giới cao hơn những người kia với tâm hoàn toàn khép kín, họ sẽ không phải hứng chịu cùng những cực hình, nhưng họ vẫn phải chạm mặt những chuyện tương ứng với mức tâm thức mà họ đã không chịu thăng vượt hay xem xét.

Nhưng có những người sẵn lòng xem xét, họ dần dần bước lên cao hơn, và họ nhìn ra là trong suốt thời gian họ lớn lên rồi bị nhập ngũ và tham gia cuộc chiến, họ đã tự cho phép mình cả tin vào một ảo tưởng hoàn toàn, một sự bịa đặt hoàn toàn. Toàn bộ tư duy của người Nga – những lý lẽ bào chữa cùng bộ máy tuyên truyền chung quanh cuộc chiến – là hoàn toàn không thực, hư cấu. Một sự dối trá toàn diện. Và một số người lính đó bị thiệt mạng trong cuộc chiến có thể vươn lên một tầng cấp nơi rốt cuộc họ sẽ có thể nhìn xuyên thấu. Và điều này có nghĩa là giờ đây họ có thể bước lên cao hơn.

Thật ra họ không đi vào cõi cảm xúc. Họ bước vào cõi lý trí nơi họ nhận được sự trợ giúp để mở rộng đáng kể tầm hiểu của họ về thế giới, về cách thế giới vận hành và làm thế nào họ có thể nhìn xuyên thấu các ảo tưởng mà khi còn đầu thai họ đã không thể nhìn thấu. Ở cõi lý trí có một số tầng đặc biệt được thiết lập cốt ý để hỗ trợ cho công việc này. Chúng hơi giống như các khóa nhập thất của các chân sư thăng thiên nhưng, tất nhiên, chúng không phải là khóa nhập thất của các thày vì các khóa này nằm ở phần cao của cõi bản sắc. Nhưng những khóa này thật đặc trưng, có thể gọi là sự phối hợp giữa một trường học với một trung tâm chữa bệnh nơi họ được trợ giúp để khuếch trương tầm hiểu về cách vận hành của thế giới, và làm thế nào trong kiếp đầu thai tới họ sẽ có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào một chuyện hoàn toàn hư cấu như vậy, không cứ là ở Nga mà có thể ở bất cứ nơi nào khác.

Những lính Nga không tin lời tuyên truyền của chính quyền

Xong có một loại người thứ ba là những ai đã không rơi vào lời tuyên truyền của chính quyền Nga trước khi họ tham chiến. Họ đã nhìn ra là việc gây chiến với một dân tộc láng giềng thật không chính đáng, và một số đã nhìn ra điều này vì họ lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo, và bất chấp lời khẳng định của vị đứng đầu Giáo hội Chính thống Nga nói rằng cuộc chiến được Thượng đế tán thành, họ có thể thấy rõ là việc giết người không bao giờ biện minh được.

Một số trong nhóm người này vẫn tình nguyện nhập ngũ vì họ sẵn lòng bảo vệ quê hương của họ, nhưng họ cũng thấy là khi người ta tấn công một nước khác thì người ta không đang bảo vệ quê hương. Có một số khác thì giản dị không tin những gì họ được tuyên truyền, họ có quan điểm riêng của họ khi lớn lên, và nhiều người trong số này đã không tình nguyện nhập ngũ mà bị gọi phải nhập ngũ. Hạng người này đã sẵn có tâm cởi mở để nhìn thấu các ảo tưởng trước khi họ lìa khỏi cõi hiện thân, và thường thường cách hành xử của họ trong cuộc chiến khiến họ không phạm tội ác chiến tranh hay hành động tàn ác, và họ đã cố hết sức không giết một ai. Khi những binh lính này rời hiện thân, họ sẵn sàng nhận được trợ giúp của các thày, cho nên họ có thể nhanh chóng đạt được cái nhìn toàn bộ về tình hình từ một nhãn quan trung hòa. Vì vậy họ có thể nhanh chóng vươn lên tầng cấp của cõi lý trí nơi họ nhận được thêm giáo huấn cùng hàn gắn.

Sự trừng phạt từ chính tâm thái con người

Nhưng này, cho dù các thày không thể giúp hạng binh lính ở mức thấp nhất, ta vẫn muốn cho con một số nhận xét về những gì thực sự xảy ra cho họ. Họ đi xuống một tầng ở cõi trung giới nơi họ phải chạm trán với đúng y cái tư duy mà họ đã có, cùng một lòng vô cảm, cùng một sự tàn nhẫn mà họ đã có. Nhưng thay vì là thủ phạm gây tội ác cho những nạn nhân, chẳng hạn những người thường dân tay trắng không vũ khí, thì bây giờ họ là nạn nhân, và có những kẻ khác sẽ vô cảm đối với họ, sẽ tàn nhẫn đối với họ, sẽ làm đủ mọi thứ chính họ đã từng làm. Câu hỏi đặt ra là, họ sẽ ở lại trong tình trạng này cho đến bao lâu? Điều này tùy thuộc rất nhiều vào tình trạng khép kín của tâm họ, và tinh trạng khép kín của tâm thì tùy thuộc rất nhiều vào những gì họ đã làm trong kiếp đầu thai trước. Bao nhiêu người họ đã giết hại, tra tấn, hãm hiếp hay bất cứ chuyện gì khác? Vì những hành vi như vậy càng nhiều khi họ biết nơi sâu thẳm là việc mình làm không phải, thì tâm họ sẽ càng đóng chặt hơn nữa. Đối với con, có một điểm đáng suy ngẫm ở đây, và tuy các thày không cần nêu ra trong tư cách là chân sư thăng thiên nhưng ta vẫn muốn con biết vì điều này có thể giúp con hiểu sự thể.

Tất nhiên con có các giáo lý truyền thống về nghiệp quả, và nhiều người xem nghiệp quả là một hình thức trừng phạt. Con làm chuyện gì sai trái như giết người, rồi con bị gửi xuống tầng này của cõi trung giới, một môi trường địa ngục nơi con phải chịu sự tra tấn như một hình phạt. Đây là cách nhìn của rất nhiều người, họ gọi đó là nghiệp xấu. Nhưng hiển nhiên đây không phải là cách nhìn của các chân sư thăng thiên. Dù sao thì nếu con theo lối nhìn truyền thống đó về nghiệp quả, con sẽ bảo là đối với một người lính cá biệt, nếu anh ta càng giết nhiều người trong cuộc chiến thì nghiệp quả anh tạo ra càng nặng nề, và thời gian anh phải ở lại trong môi trường địa ngục đó sẽ càng dài cho đến khi anh nhận trừng phạt đích đáng. Cho nên từ góc nhìn này, sẽ tốt hơn cho anh nếu anh chết vào thời điểm anh đã chết, vì nếu anh đã sống lâu hơn thì anh đã có thể giết nhiều người hơn và tạo nhiều nghiệp hơn.

Như ta vừa nói, từ tầm nhìn của các chân sư thăng thiên, nghiệp quả không phải là sự trừng phạt. Không có ai đang trừng phạt ai, và các chân sư thăng thiên cũng không trừng phạt ai. Sự trừng phạt là chính trạng thái tâm của người đó. Cho nên như ta vừa nói, anh ta càng giết nhiều người thì anh càng chìm sâu vào tâm thái của anh, là cái tâm thái cho phép anh giết người rồi tự biện minh, hay tiếp tục giết người mà không cần biện minh. Càng chìm sâu vào tâm thái này thì theo một nghĩa nào đó, sẽ càng dễ hơn cho những người chết sớm so với những người ở lại trong hiện thân lâu hơn và giết nhiều người hơn. Con thấy con có thể nói, giống như nhiều người Nga cũng nói: “Ồ, thật đáng buồn những người lính của chúng tôi phải thiệt mạng.” Nhưng trong một số trường hợp, việc họ bị thiệt mạng thật ra là một ân sủng vì số phận họ sẽ tệ hơn nhiều nếu họ ở lại hiện thân và giết nhiều người hơn.

Tất nhiên điều này không có nghĩa là các thày mong thấy người ta bị chết hay lìa khỏi cõi hiện thân. Ta chỉ cho con điều này để con suy ngẫm vì một phần những gì ta cố làm ở đây là cho con một góc nhìn khác về loại tình huống như thế này. Các thày nói gì giờ đây? Từ một tầm nhìn thăng thiên, các thày chỉ nói được là các thày có một mối quan tâm duy nhất, đó là: Làm thế nào giúp cho con người tăng triển. Làm thế nào các thày có thể giúp mọi người tăng triển? Như ta vừa nói, có một số người các thày sẽ không thể giúp trực tiếp, và giản dị họ sẽ phải tiếp tục học Trường đời Cay đắng là nơi họ đã theo học, thường từ nhiều kiếp sống, để đạt đến trạng thái tâm thức thấp kém đã khiến họ có thể làm những chuyện họ làm.

Nhưng có một số thì các thày có thể giúp được và các thày sẽ cố giúp, và mục đích của các thày luôn luôn là giúp họ tăng triển. Khi một người lìa cõi hiện thân, mục đích các thày là giúp họ chữa lành và tăng triển cho tới mức khi họ đầu thai tiếp tới, họ có thể gặp một hoàn cảnh cao hơn kiếp vừa qua. Ngược lại, những người các thày không thể giúp, những người phải đi vào các tầng địa ngục, họ sẽ ở đó một thời gian, rồi ít nhất một số sẽ trở lại hiện thân ở một thời điểm nào đó, nhưng họ sẽ không trở lại trong một hoàn cảnh tốt hơn kiếp trước. Rất có thể họ sẽ phải trở lại trong một hoàn cảnh tệ hơn – một số sẽ tái đầu thai ở Nga, một số ở Bắc Hàn, một số ở Trung quốc, nhưng rất nhiều người trong bọn họ sẽ đầu thai ở Phi châu ở những khu vực có chiến tranh bộ lạc.

Còn những người mà các thày có thể giúp và đã nâng cao tâm thức, họ sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn cho sự tăng triển. Một số sẽ vẫn tái đầu thai ở Nga nhưng với một mức tâm thức cao hơn, và tất nhiên nước Nga sẽ thay đổi, trong khi một số khác sẽ đầu thai ở các nước khác, một số ở cả các nước dân chủ phương Tây. Tất nhiên, một phần đáng kể những lính Nga đã thiệt mạng tại Ukraine và sẵn lòng được giúp đỡ sẽ đầu thai tại Ukraine trong kiếp tới. Đó là chuyện thường xảy ra trong nhiều trường hợp có chiến tranh giữa hai nước. Như các thày đã từng nói, nhiều binh lính và quan chức Đức quốc xã thời Đệ nhị Thế chiến đã đầu thai ở Israel.

Thay đổi sắp đến với nước Nga

Một điểm cân nhắc nữa mà ta muốn lưu ý con ở đây là một số các con nhìn vào nước Nga rồi nghĩ: “Thật chẳng có gì đã thay đổi. Hầu hết ai nấy vẫn ủng hộ cuộc chiến, nền kinh tế không đến nỗi tệ lắm, đến bao giờ nước Nga mới thay đổi đây?” À, như Mẹ Mary có trả lời một câu hỏi ở buổi hội thảo trực tuyến kỳ trước, nếu con có thể thấy được những gì đang xảy ra ở các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc thì con sẽ thấy là thay đổi sắp sửa đến với nước Nga, và nước Nga sẽ thay đổi trong những năm tới. Cho dù cuộc chiến có kéo dài bao lâu, nước Nga sẽ thay đổi. Sự thay đổi đã bắt đầu. Nó đã trở nên không thể đảo ngược. Và con có thể thấy chuyện này khi chính quyền ngày càng cuồng nộ hơn trong việc trấn áp bất cứ ai phản đối chiến tranh. Thậm chí con thấy thanh thiếu niên bị bắt giữ chỉ vì đã lỡ thốt ra chữ cấm trên mạng xã hội. Loại quốc gia nào sẽ làm chuyện này ngoại trừ một quốc gia tuyệt vọng? Đây là một chỉ dấu tuyệt vọng. Thật sự, việc bất cứ nước nào giết hại hay bỏ tù công dân mình rõ ràng là một hành động tuyệt vọng. Và mặc dù họ không thừa nhận một cách ý thức, nỗi tuyệt vọng có mặt là vì họ biết tình thế đang vuột khỏi tầm tay họ. Họ không thể kéo dài được mãi mãi.

Lực kéo tâm thức tập thể Nga

Nhưng điều ta muốn nói đến ở đây là khi con nhìn vào những người lính đã lìa hiện thân do chiến tranh, họ không còn ở trong một xác thân vật lý. Nhưng con đừng nghĩ điều này có nghĩa là họ hoàn toàn cắt đứt khỏi nước Nga. Như các thày đã giải thích, mỗi quốc gia có một tâm thức tập thể. Tâm thức này có một thành phần cảm xúc, lý trí, bản sắc. Những binh lính Nga đã thiệt mạng ở Ukraine vẫn bi buộc vào tâm thức tập thể này ở các cõi cảm xúc, lý trí, bản sắc. Ngay cả những người lính đi vào các cõi địa ngục cũng bị buộc vào tâm thức của người Nga. Họ vẫn đang lôi kéo tâm thức người Nga.

Những người lính nào đã nhận được, đã chấp nhận sự trợ giúp của các thày và đã nâng cao trạng thái tâm thức của mình, thì họ sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Còn những người lính đi vào cõi trung giới sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Điều này có nghĩa là họ sẽ lôi kéo những ai đang nắm quyền quyết định, từ Putin trở xuống cho đến dưới cùng, kể các những người trong quân đội mang cùng một tâm thái khép kín. Có nghĩa là họ lôi kéo những người này ngày càng trở nên cực đoan hơn, ngày càng sẵn sàng lấy những biện pháp cùng cực hơn – một điều mà con thấy rồi đó nhưng con sẽ ngày càng thấy nhiều hơn, tùy theo cuộc chiến kéo dài bao lâu. Và mục đích thực sự của chuyện này – nếu có một mục đích như vậy – dĩ nhiên là để quyền tự quyết trải bày ra, với tiềm năng đem lại kết quả tích cực là mọi chuyện có thể trở nên cực đoan đến độ những ai đang đầu thai sẽ bắt đầu nhìn thấy, bắt đầu thừa nhận là mọi chuyện đã quá mức, quá cùng cực rồi.

Tại sao người ta lại gây nỗi này cho tôi?

Một số những binh lính đang ở trên lãnh thổ Ukraine và chưa thiệt mạng, cũng như nhiều binh lính bị thương đã trở về Nga hay vẫn còn ở Ukraine, họ đã bắt đầu nhìn thấy điều đó. Chẳng hạn một người lính đã cả tin vào toàn bộ lời tuyên truyền của Nga bảo rằng anh đang chiến đấu cho quê hương của anh, đang làm một công việc quan trọng, đang hy sinh đời mình để làm một việc gì thật quan trọng cho đất nước, rồi anh bị đưa tới Ukraine. Trước hết, anh ta không được huấn luyện, không được cung cấp thiết bị hẳn hoi, thậm chí cả thức ăn ngon miệng, lều chõng hay túi ngủ cũng không có. Anh bị vứt ra ngoài đó cùng với một nhóm người. Họ cũng không có vũ khí thích hợp. Họ không có hậu thuẫn thích hợp. Ngay cả thượng cấp thích hợp hay lãnh đạo giỏi, họ cũng không có. Xong anh được lệnh xung phong trên cánh đồng trống trơn về phía quân lính Ukraine đang thủ sẵn trong chiến hào kiên cố. Anh có khẩu súng trường, nhưng quân Ukraine có súng máy. Bất cứ ai có trí thông minh tối thiểu cũng thấy được đây là chuyện tự sát. Và bất cứ ai cũng thấy được anh không đang phục vụ đất nước anh bằng cách đó. Anh đang không giúp gì cho nước anh vì anh sẽ bị bắn hạ mà không có hy vọng bắn quân thù.

Đâu là mục đích của chuyện này? Nếu anh ta sống sót thì nhất định một tiến trình suy nghĩ sẽ khởi lên trong anh. Không thể nào không có một tiến trình suy nghĩ: “Tại sao? Tại sao họ lại muốn tôi chết mà không cho tôi cơ hội chiến đấu? Tại sao họ lại gửi tôi ra đây để bỏ mạng? Tại sao họ không lo huấn luyện và trang bị cho tôi? Tại sao họ không có sĩ quan tài giỏi? Đâu là mục đích cuộc chiến này? Tại sao chúng ta lại đi làm chuyện này?” Tất cả những câu hỏi đại loại như vậy, nhưng có thể anh sẽ không muốn chia sẻ với ai. Thậm chí anh có thể không muốn nghĩ tới một cách ý thức nhưng các câu hỏi sẽ thấm vào khắp tâm tiềm thức của anh. Không thể nào khác được, vì con người không thể đối mặt với cái chết mà không tự hỏi trong tâm: “Tại sao? Tại sao chuyện này lại xảy ra cho tôi?” Và khi anh nhận ra nước anh đã cưỡng bức anh vào tình cảnh này, anh không thể không nghĩ ngợi: “Tại sao họ lại gây ra nỗi này cho tôi? Họ nói nước Nga là một quốc gia quan trọng, vì vậy tôi rất quan trọng là một người Nga và việc tôi phục vụ nước tôi là quan trọng. Nhưng họ lại ném tôi vào một tình huống tôi không thể phục vụ nước tôi. Tôi chỉ đang bỏ mạng một cách vô nghĩa. Tại sao họ lại gây ra nỗi này cho tôi?”

Một chấn động to lớn

Nếu con có thể thấy được những gì các thày nhìn thấy từ cõi thăng thiên, con sẽ nhìn ra là trong thể lý trí của người Nga, của cả nước Nga như một quốc gia, tất cả các câu hỏi đó đang quay cuồng như thế nào. Tiến trình này đã có trớn. Nó khởi đầu với những người lính ở mặt trận và những người dân có nhận biết cao, nhưng nó đang thấm sâu vào những vòng tròn ngày càng lan rộng trong quần chúng, tùy theo tầng tâm thức của họ. Người ở những tầng cao nhất nhìn thấy trước nhất, còn người ở những tầng thấp nhất sẽ nhìn thấy chót cùng. Nhưng nó đang lan truyền qua toàn tâm thức. Thế rồi tất nhiên ở tầng cảm xúc, làm sao mà không có cảm xúc được khi bị đẩy ra chiến trường chống chọi với súng máy mà không được trang bị hẳn hoi? Làm sao không có cảm xúc mãnh liệt khi vừa thoát chết trong gang tấc? Không, con không thể, trừ khi con là một kẻ bị rối loạn nhân cách (psychopath) hay ái kỷ (narcissist) hoàn toàn tê dại. Nhưng một người bình thường sẽ có cảm xúc rất mãnh liệt.

Con có thể là một bà mẹ Nga yêu nước cho nên bà hãnh diện khi thấy con mình ra chiến trường. Nhưng khi con bà trở về tật nguyền, hay bà nhận tin anh ta đã hy sinh hay bị mất tích, hay bà không nhận được tin tức gì hết, không biết anh đang ở đâu, còn sống hay đã chết, thì bà không thể nào không có cảm xúc dữ dội. Chuyện cũng sẽ tương tự nếu đây là một người thân. Nếu con thấy được cảm thể tập thể của người dân Nga, con sẽ thấy một sự chấn động to lớn. Con sẽ thấy những cơn lốc xoáy hình thành, mỗi ngày mỗi kéo nhiều người hơn vào vòng của chúng. Rồi nếu con có thể bước lên tầng bản sắc, một lần nữa con lại thấy những câu hỏi nhức nhối được đặt ra về bản sắc dân tộc Nga. Nguyên tiến trình này đã khởi sự khi cuộc chiến bắt đầu, do nhiều người với tầm nhận biết cao nhất bỏ nước ra đi, nhưng con có thể mường tượng là khi ở ngoài nước, tất nhiên họ vẫn bị buộc chặt vào các cảm thể, trí thể, bản sắc thể và họ vẫn lôi kéo các thể này.

Chu kỳ thay đổi không thể đảo ngược ở Nga

Sau khi cuộc chiến bùng nổ, nhiều người ở Nga đã bắt đầu âm thầm chất vấn bản sắc dân tộc mình: “Liệu chúng ta có thật sự cần xem mình là một đế chế? Chúng ta có thật sự cần cao trội hơn mọi người? Và đặc biệt, chúng ta có cần dùng vũ lực để cao trội hơn mọi người?” Tất cả những câu hỏi này dẫn đến gì? À, nó dẫn đến suy nghĩ là khi Putin và những người lân cận với của ông quyết định xâm lăng Ukraine, thì họ đã khởi đầu một chu kỳ không thể nào đảo ngược sẽ mang lại thay đổi cho nước Nga. Không phải là thay đổi đã chưa xảy ra ở Nga – chủ yếu do ở Nga có nhiều người tâm linh cho dù họ có theo đợt truyền pháp này hay một giáo lý tâm linh nào khác, đồng thời ở Nga cũng đã có sự tăng triển và như các thày có nói, kịch bản lý tưởng là sự tăng triển này sẽ tiếp diễn từ từ – nhưng điều Putin đã làm là đặt nước Nga vào một vòng xoáy ốc nơi tiến trình thay đổi từng bước bị đình chỉ để nhường chỗ cho những biến đổi vũ bão hơn xảy ra. Cần phải có một biến cố bên ngoài dữ dội đánh thức đa số quần chúng Nga nhanh chóng hơn, và biến cố này không thể đảo ngược, không thể chặn đứng.

Lẽ tự nhiên từ nhãn quan thăng thiên, các thày sẽ mong muốn một sự tăng triển từng bước, hòa bình, cho cả Ukraine lẫn Nga. Nhưng một lần nữa, mọi chuyện đều tùy thuộc vào luật tự quyết, và chắc chắn nhân dân Nga không phải là không có trách nhiệm trong việc cho phép thiểu số thượng tôn quyền lực hành xử như họ đã hành xử, và do đó nhân dân Nga cũng sẽ bị tác động và sẽ phải thay đổi nhanh hơn và đột ngột hơn rất nhiều. Ngay cả tại Ukraine, các thày đã có đề cập đến tình trạng chia rẽ trước khi cuộc chiến xảy đến, thì bây giờ tiến trình thay đổi cũng đã gia tốc đến độ Ukraine cần xây dựng một bản sắc dân tộc mà trước đây Ukraine không có.

Tình trạng những người lính Ukraine

Còn những người lính Ukraine thì sao? Đa số những điều nói trên cũng sẽ áp dụng, theo nghĩa là chỉ có một số ít binh lính Ukraine ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp – những kẻ giết người mà không cảm thấy thương cảm hay hối hận, và tất nhiên nếu họ không sẵn lòng thay đổi, họ cũng sẽ đi vào các tầng trung giới. Nhưng tuyệt đại đa số binh lính Ukraine đã rời hiện thân thuộc về phạm trù những người lập tức sẵn lòng nhận được sự trợ giúp từ các thày, vì họ không ở trong cùng tư duy như lính Nga. Họ thấy rõ là họ đã bị tấn công và họ phải bảo vệ đất nước cùng gia đình của họ chống lại kẻ tấn công. Không phải là họ không thấy được việc giết người là sai trái, họ biết rõ điều này, nhưng họ cảm thấy không có chọn lựa nào khác hơn là tự vệ.

Tiến trình chữa lành và tình huynh đệ

Khi họ rời hiện thân, họ thường cởi mở hơn với việc xem xét tâm thái của mình cùng các hành động của mình từ một nhãn quan trung hòa, cho nên rất nhiều người hơn có thể được trợ giúp để họ vươn đến các tầng ở cõi lý trí. Và điều xảy ra tại các lớp nhập thất ở cõi lý trí là không phải sẽ có một lớp cho lính Nga và một lớp cho lính Ukraine. Cả hai đều học chung với nhau. Và giờ đây họ tương tác với nhau, họ dần dần nhìn vào tình thế với một tầm hiểu chung. Kỳ thực, họ thường tha thứ cho nhau, và kết quả là họ đạt đến một tình huynh đệ và một cảm nhận hợp nhất.

Ở đó có một tiến trình chữa lành đã khởi sự, và trong những năm sắp tới, tiến trình này có thể ảnh hưởng cả hai dân tộc, và mong thay, nó sẽ giúp cho mọi người tiến lên nhanh hơn bình thường. Bởi vì khi những người lính Nga – những người có khả năng được giúp đỡ – rời khỏi hiện thân, họ không còn mong muốn thấy nước Nga chiến thắng và Ukraine bị chinh phục hay tiêu diệt. Và những người lính Ukraine khi rời cõi hiện thân, họ không có lòng căm thù người Nga. Họ không muốn nước Nga bị tàn phá, nhưng hiển nhiên, họ muốn Ukraine tiếp tục là một quốc gia riêng biệt. Và hầu hết mọi lính Nga cũng đạt đến cùng kết luận. Họ thấy rõ tất cả chỉ là trò hư cấu, sự biện minh cho chiến tranh là hoàn toàn hư cấu, vì người Nga với người Ukraine phải có khả năng sống chung với nhau trong hòa bình và nhìn nhau như anh em. Và họ muốn điều này nhiều hơn là thấy Ukraine bị chinh phục và nước Nga trở thành một đế chế vĩ đại. Những người lính này có thể đạt được một tầm hiểu. Đã có những ví dụ lính Nga giết lính Ukraine rồi bị giết – hay trường hợp ngược lại cũng vậy – thì cả hai gặp nhau ở lớp nhập thất và giờ đây họ có thể làm hòa. Họ có thể tha thứ lẫn nhau. Họ có thể nhận ra đây không phải là chuyện cá nhân, mà họ đã bị hoàn cảnh ép buộc phải hành xử như vậy. Có một tiến trình chữa lành đã khởi sự nơi những người lính từ cả hai bên chấp nhận trợ giúp của các thày và đã vươn lên một mức cao hơn.

Vươn lên khỏi mọi dính mắc và mọi điều kiện trên trái đất

Trên đây là một số suy nghĩ mà các thày muốn trao cho con để con có một tầm nhìn khác hơn. Con cũng hiểu là khi con ở trong một kiếp hiện thân làm người, khi con đang đầu thai, con nhìn vào tình huống và con hình thành trong tâm một kết quả đặc thù mà con muốn thấy xảy ra. Và ngay cả từ tầm nhìn thăng thiên, các thày cũng nhìn vào tình huống và mong muốn nhân dân Ukraine có đất nước riêng biệt, mong muốn nhân dân Nga tăng triển tối đa từ biến cố này. Không chắc là họ sẽ duy trì được một nước Nga thống nhất – ngay bây giờ đang có một sự bất an về những gì sẽ xảy đến cho Nga sau cuộc chiến. Nhưng vượt khỏi những mối quan tâm này – và con có thể nói là những quan tâm này phát xuất từ mong muốn giúp cho càng nhiều người tăng triển càng tốt – mối quan tâm trên hết của các thày là giúp cho con người tăng triển. Không phải là các thày gắn bó, hay tập trung vào một thành quả nhất định, mà các thày luôn luôn tập trung vào việc giúp con người tăng triển, rồi sau đó kết quả cụ thể trong cõi vật lý chỉ có tầm quan trọng thứ yếu, vì trong cách các thày nhìn thế giới, tất cả mọi sự việc đều là cơ hội tăng triển.

Và thày Giê-su đã nói gì trong bài truyền đọc đầu tiên hôm nay về câu chuyện Phục sinh? Mục đích của mọi câu chuyện là tác động tích cực đến người tiếp nhận câu chuyện. Đấy, tất cả mọi thứ trên trái đất đều là một câu chuyện, cho nên các thày xem mọi điều kiện chỉ là những câu chuyện có mục đích trao cho con người một cơ hội tăng triển. Và các thày luôn luôn tìm cách giúp đỡ bất cứ nhóm người nào tăng triển, để họ dùng bất kỳ câu chuyện nào mà họ chấp nhận để giúp họ tăng triển. Chính vì vậy mà điều kiện vật lý cụ thể, kết quả vật lý cụ thể, đối với các thày chỉ là một phương tiện cho một cứu cánh.

Tất nhiên con có thể nhìn lại lịch sử loài người và thấy được là khi con người bước vào tâm thức nhị nguyên, khi họ bước vào ảo tưởng tách biệt, thì họ không thể xem các điều kiện vỏ ngoài là phương tiện để đạt cứu cánh. Những điều kiện đó tự thân trở thành cứu cánh. Và đó là tại sao họ mới quá dính mắc với việc thị hiện một kết quả nhất định đến độ họ sẵn lòng giết người hay gây chiến để thị hiện. Con có thể trở nên dính mắc với giấc mơ xây dựng một đế chế vĩ đại đến độ con sẵn sàng dùng những biện pháp cùng cực để thị hiện nó. Nhưng tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ đụng phải một sự chống đối cùng cực, cho nên cuối cùng con thường tự hủy diệt chính mình, và con cũng thường hủy diệt cái đế chế con đang cố tạo ra, như con thấy rõ với Hitler và giấc mộng thiết lập đế chế Quốc xã bao trùm cả địa cầu.

Nếu có một bài học lịch sử thì đây chắc chắn là một bài học: Nếu con trở nên dính mắc với một kết quả, sẽ có lúc kết quả này phải bị đập vỡ tan tành để con có thể tự giải thoát khỏi dính mắc. Và đây là vì sao đối với một đệ tử tâm linh, việc nhìn vào dính mắc của mình thật quan trọng. Con có dính mắc vào một kết quả đặc thù hay không? Xong con bắt đầu chất vấn nó. Nhưng tất nhiên điều này thày Giê-su đã vừa trình bày rồi, cho nên ta sẽ không bàn thêm, mặc dù tất nhiên trong vai trò của ta là Elohim của Tia thứ Tư, ta cắt mọi người tâm linh ra khỏi dính mắc của họ, ra khỏi tâm thức tập thể, ra khỏi cõi trung giới, ra khỏi cõi lý trí, ra khỏi cõi bản sắc.

Và với lời này, ta cảm ơn con đã chú ý. Ta cảm ơn con đã sẵn lòng vật lộn với những điều kiện này. Và ta hy vọng là những ai đến từ Nga hay từ Ukraine có thể nhìn vượt ra khỏi cuộc xung đột này và thấy được là con trước hết không phải là người Ukraine hay người Nga. Trước hết con là người tâm linh, và tất cả các con đều đến từ cùng một nguồn cội, và các con đều đang bước trên con đường trở về nguồn cội đó bằng cách vươn lên khỏi mọi dính mắc, mọi điều kiện, mọi cảm nhận bản sắc trên trái đất. Điều này, ta sẽ hân hoan giúp con hoàn thành mỗi lần con thỉnh gọi ta đến cắt đứt cho con tự do.

Astrea, TA LÀ.

15 | Tâm con đầy những gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Bước kế tiếp của chúng ta trên con đường Bắt chánh đạo này là bước Chánh niệm. Con hãy xem xét từ này trong tiếng Anh: “Mind-full-ness” [mindfulness là chánh niệm tỉnh giác và mind-full-ness là đặc tính của tâm đầy]. Tâm chứa đầy những gì? Đến một điểm trên đường Bát chánh đạo con cần bắt đầu xem xét: “Điều gì đang choán tâm tôi, đang khiến tôi bận tâm? Trong tâm tôi đang có gì?” Tất nhiên như thày đã có giải thích, đây là những ngã tách biệt, những khuôn nếp phản ứng, những lập trình tiềm thức. Đâu là tác động chủ yếu của các chương trình này, các ngã tách biệt này và tự ngã?

Tự ngã và các ngã tách biệt sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nếu con ngắm đại dương vào một ngày tốt gió, trên mặt biển có rất nhiều sóng. Bây giờ con thử tưởng tượng con xây một chiếc cần trục có thể vươn ra ngoài biển. Ở cuối cần trục có một cái gắp hay một cái xẻng, và con đang đưa nó xuống để cố gắp lấy một ngọn sóng, kéo sóng ra khỏi đại dương. Liệu con có thành công không? À, có lẽ con sẽ kéo lên một xô nước, nhưng lập tức một ngọn sóng khác sẽ hình thành và xô nước của con sẽ không là một ngọn sóng mà là một xô nước. Con có thể nào tách rời sóng ra khỏi đại dương được không?

Cũng tương tự như vậy, tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng làm bằng một chất vô hình tướng. Chất vô hình tướng này khoác vào một hình thể đặc thù, nhưng chất thì vẫn không thay đổi. Phật tánh vẫn là Phật tánh giống như đại dương vẫn là đại dương khi nó khoác vào hình thù ngọn sóng thay vì lặng yên. Một khi chất vô hình tướng đã mang vào hình tướng thì hình tướng này có đó, nó có một sự tồn tại tạm thời nhưng nó không có một sự tồn tại tách biệt.

15.1. Các hạn chế của giác quan vật lý

Để cho con một ví dụ thị giác, con thử nhìn trái đất cùng tất cả hiện tượng vật lý trong môi trường của con. Có thể có nhà, có cây, có núi, có hồ, có biển hay bất cứ gì khác, nhưng tất cả được tạo thành bằng những hạt hạ nguyên tử không thực sự mang hình tướng nào cụ thể. Con có thể nhìn một thân cây và thấy cây rất khác tảng đá, nhưng cả hai đều cùng làm bằng hạt hạ nguyên tử. Ở trong cây có hạt hạ nguyên tử, cho nên con không thể nói là cây tách biệt với hạt hạ nguyên tử. Cây được tạo thành bằng những hạ hạt nguyên tử đã khoác vào một hình tướng đặc thù.

Tất nhiên con không thể thấy được điều này với giác quan hay với tâm vỏ ngoài của con. Con có thể suy ra chuyện này với tâm lý luận của con. Con có thể trải nghiệm chuyện này với tâm trực giác của con, nhưng có một mức nào đó trong tâm không thể nhìn xa hơn hình dạng hay hình thù. Ấy, thày không bảo là điều này có gì sai trái đâu con. Giác quan vật lý của con đã được thiết kế để phát hiện năng lượng trong một phổ tần số nhất định, cụ thể là cùng phổ tần số cấu tạo cơ thể vật lý của con. Giác quan vật lý là phần nối dài của cơ thể và chúng có mục đích phục vụ cơ thể khi cơ thể tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể chỉ là một hình tướng, nhưng nó cũng làm bằng hạt hạ nguyên tử.

Những giác quan vật lý này và sự hạn chế của chúng là cơ sở – ít ra là cơ sở nguyên thủy – cho con người đi vào ảo tưởng tách biệt. Nhưng như thày nói, đó là cơ sở cho ảo tưởng tách biệt chứ không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân con người đi vào tách biệt là một loạt những chọn lựa mà con người đã lấy, qua đó lần hồi họ đã chấp nhận ảo tưởng của Maya và tạo ra những ngã tách biệt kia. Ngã tách biệt được tạo ra từ ảo tưởng tách biệt. Khi con, cái Ta Biết, bước vào cái tâm chất đầy những ngã tách biệt này, con nhìn mọi chuyện xuyên qua ngã tách biệt. Con nhìn chính con, con trải nghiệm chính con xuyên qua ngã tách biệt, và suốt nhiều kiếp sống, con có thể quên mất con đã từng là một sinh thể nối kết. Hiện giờ con trải nghiệm con là một sinh thể tách biệt, nhưng liệu con đã trở nên tách biệt khi con tự trải nghiệm mình như thế?

À, đây là điều con bắt đầu tra vấn ở một tầng nào đó trên đường Bát chánh đạo. Con bắt đầu chất vấn ngay chính nhận thức của con về thế giới xung quanh, nhận thức của con về chính con. Có thể nói, khởi đầu của tỉnh giác cao hơn là khi con bắt đầu chất vấn nhận thức của con, các ý tưởng vỏ ngoài của con, ý niệm bản sắc của con, và ngay cả toàn bộ thế giới quan của con.

Con biết giác quan của con có thể dễ dàng bị các dáng vẻ bề ngoài đánh lừa hay phỉnh gạt. Tất cả các con đều đã xem các loại ảo thị (optical illusions) và con biết có cái gì đó vượt khỏi những gì giác quan của con có thể thấy. Có nguyên tử, có phân tử, có hạt hạ nguyên tử. Con biết giác quan không đáng tin cậy. Nhưng cái thực sự không đáng tin cậy là các ngã tách biệt, chúng không chỉ tiếp nhận giác quan mà chúng còn xây dựng một lớp phủ ý thức hệ lên trên nhận thức của giác quan, và ý thức hệ này thì bảo rằng những gì giác quan nhìn thấy thật sự là những vật tách biệt.

Nếu con chỉ lấy nhận thức giác quan mà thôi, con sẽ thấy tự thân giác quan không đưa ra phán đoán nào về những gì nó thấy. Mục đích của giác quan là phân biệt những vật khác nhau ở tầng cấp vĩ mô: “Đây là một con ngựa. Nó không nguy hiểm. Đây là một con sư tử. Có thể nó nguy hiểm.” Đó là mục đích của giác quan. Mục đích của giác quan là thấy rõ và phân biệt giữa đủ loại vật thể liên quan đến sự sống còn và an toàn vật lý của con – những gì con có thể làm và những gì con muốn làm trong thế giới. Giác quan không áp đặt một xét đoán giá trị lên những gì nó thấy.

Giác quan có thể thấy một con sư tử. Nó có thể nhận diện cái đó là một con sư tử nhưng tự thân giác quan không bảo con sư tử là nguy hiểm. Chính tâm con mới áp đặt sự đánh giá này lên sư tử. Nhưng dù sao việc này cũng là một sự đánh giá trung lập mà chúng ta có thể nói là khách quan. Một con sư tử nguy hiểm vì nó có thể tấn công cơ thể vật lý của con, nó có khả năng giết chết cơ thể. Nhưng đây không phải là cùng sự xét đoán giá trị như khi con bảo ngựa là tốt, sư tử là xấu, sư tử là ác. Ở đây con thấy, ngoài chuyện giác quan phân biệt những vật thể và hình tướng khác nhau, tâm con còn áp đặt lên đó một sự đánh giá, một sự xét đoán về tốt và xấu. Đây là cốt lõi của điều mà thày đã gọi là tâm thức nhị nguyên khi con tạo ra hai đối cực như vậy.

15.2. Tư duy trắng đen

Trong dạng cùng cực, nhị nguyên chỉ có hai đối cực và không có gì ở giữa. Có tốt, có xấu. Đây là cái gọi là lôgíc Aristote, lôgíc của khoảng giữa bị loại bỏ. Mọi thứ phải hoặc thế này, hoặc thế kia, và không có gì ở giữa. Tất nhiên như thày cũng đã trình bày, có một cách khác là bảo rằng có hai đối cực nhưng chúng nằm trên một thang điểm. Có một khoảng giữa hai đối cực với những sắc đậm nhạt khác nhau. Nhiều người có lối phán xét giá trị như vậy. Họ thấy có những điều thiện, có những điều ác, nhưng cũng có những điều nằm giữa.

Tâm con chứa đầy những gì? À, nó chứa đầy những ngã tách biệt kia, trong số đó có rất nhiều dựa trên sự phán xét giá trị này. Bất cứ gì cũng phải hoặc tốt hoặc xấu, hoặc đúng hoặc sai. Đâu là mục đích khi làm vậy? À, nếu con là một sinh thể nối kết thì con sẽ thấy gì? Con sẽ cảm thấy thế nào? Con sẽ trải nghiệm ra sao? Con trải nghiệm là con nối kết với một cái gì vượt hơn chính tâm con – cái ta cao của con. Con trải nghiệm là con đang nhận được năng lượng từ cái ta cao này và con có thể dùng năng lượng đó để tạo ra những hoàn cảnh cho con trên trái đất.

Trước khi con người bước vào nhị nguyên và tách biệt, trên trái đất không hề có những xung đột mà con thấy ngày hôm nay. Con người có thể sống hài hòa hơn gấp bội và không chống đối nhau. Có nghĩa là hầu hết mọi người có thể thị hiện những gì họ muốn mà không cần gắng sức nhiều lắm, chắc chắn là không cần tranh đua vật lộn. Vì họ thấy họ nối kết với một cái gì cao hơn và cũng nối kết với nhau và với môi trường, họ không cảm thấy là người khác hay môi trường đang chống lại họ. Không có sự chống đối nào hết.

15.3. Khởi đầu của khổ đau

Khi con là một sinh thể nối kết thì chống đối ở đâu? Con nhận ra là con nối kết với trái đất và với thế giới vật chất, và thế giới vật chất thì hoàn toàn vui lòng cho con những điều kiện mà con mong muốn. Nhưng một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt, con không còn cảm nhận nối kết nào nữa. Có nghĩa là con bị tách rời khỏi môi trường của con, tách rời khỏi người khác, và con cũng bị tách rời khỏi nguồn cội cao hơn là nguồn cung cấp năng lượng sáng tạo cho con. Thế là bây giờ con phải lấy năng lượng từ môi trường của con. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con lấy năng lượng từ người khác. Tất nhiên là họ sẽ kháng cự lại, cho nên đây là khởi đầu của vật lộn tranh đấu. Con cũng trải nghiệm là ngay cả thế giới vật chất cũng không cho con những gì con muốn khi con là một sinh thể tách biệt, cho nên con phải chiến đấu để có bất cứ gì.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là giờ đây con bắt đầu dùng vũ lực. Khi con là một sinh thể nối kết, con không cần dùng đến vũ lực. Con sử dụng tiến trình tự nhiên là cho phép năng lượng chảy qua tâm con, con hình thành những hình tư tưởng không dựa trên ảo tưởng tách biệt, và các hình tư tưởng này được áp chồng lên năng lương cơ bản và chúng cho con những gì con mong muốn. Khi con bước vào tách biệt, con không thể làm vậy được nữa. Con không thể đồng-sáng tạo theo cách tự nhiên. Con bắt đầu cố gắng đồng-sáng tạo theo một cách phản tự nhiên, tức là thay vì cho phép năng lượng khoác lấy hình tướng theo các nguyên tắc cơ bản, giờ đây con tìm cách ép buộc năng lượng phải khoác lấy hình thù. Trên căn bản thì con vẫn làm cùng một chuyện, con vẫn tạo ra hình tư tưởng và phóng chiếu lên năng lượng, nhưng bây giờ con phải cưỡng ép bằng sức mạnh vì hình tư tưởng của con dựa trên tách biệt, cảm nhận tách biệt.

Một ví dụ điển hình là khi con đi ngược dòng lịch sử, con nhận thấy trong hầu hết mọi xã hội đều có xu hướng hình thành một tầng lớp thượng lưu nào đó. Lớp người này sẽ tuyên bố là họ nắm giữ một loại uy quyền nào đó, chẳng hạn quyền sở hữu đất đai. Điều này có nghĩa là số dân còn lại sẽ không có đất. Cách duy nhất để họ sống còn là làm lụng trên đất của chủ đất, nhưng chủ đất thì đòi hỏi sự đền bù, có nghĩa là giờ đây chủ đất có thể có được đời sống mình muốn do sức lao động chân tay của người khác.

Đây là một ví dụ một số người đã có thể dùng sức mạnh để đạt được những thứ họ muốn, nhưng họ làm vậy bằng cách lợi dụng người khác, cưỡng ép người khác phải phục tùng lớp thượng lưu. Điều gì thực sự xảy ra trong tâm lý? Như thày đã có nói vài lần, một khi con bước vào tách biệt, con cảm thấy một sức ép. Đây là một sức ép quá sức chịu đựng, vì như một sinh thể tách biệt, con không thể thấy được làm sao con có thể tự vệ trước tất cả những mối đe dọa mà con cảm nhận trong thế giới. Con phải làm gí đây?

À, thày đã có giảng là con đè nén cảm xúc và tư tưởng của con, nhưng điều con thực sự làm trong quá trình này là con tạo ra một tập hợp ngã tách biệt dưới ô dù của tự ngã. Mục đích là để tạo dựng một thế giới quan đặt con vào một vị thế an toàn, cao trội, một địa vị đặc quyền được bảo vệ và không thể bị đe dọa. Đây là tâm lý cơ bản của tâm thức tách biệt, qua đó con cảm thấy mình bị đe dọa và con tìm cách dựng lên một thế giới quan sẽ giảm bớt mối đe dọa.

15.4. Nhà tù của tách biệt

Nhưng tất nhiên, người ta cũng có thể lấy những biện pháp vật lý. Một số người trong lớp thượng lưu mà con thấy khắp các thời đại, đã xây lâu đài bằng tường đá kiên cố để bảo vệ mình khỏi đe dọa từ ngoài. Có nhiều ví dụ khác về những biện pháp vật lý mà họ sử dụng, nhưng tất cả đều khởi lên từ trong tâm, từ tâm lý. Tất cả mọi chuyện đều khởi sự trong tâm lý. Bất kể biện pháp vật lý nào cũng chỉ là sự nối dài của cố gắng muốn tạo ra một thế giới quan đặt họ vào một vị thế đặc biệt trong đời để họ có thể chịu đựng được gánh nặng phải sống trên hành tinh này. Họ phải chịu được sức ép, sống chung với áp lực và tiếp tục tồn tại một cách nào đó.

Con có thể hỏi: “Nhưng có gì sai trái với chuyện này đâu?” Phải, ở một mức nào đó thì không có gì sai trái bởi vì trái đất là một cỗ máy trải nghiệm, một máy giả thực tại, nơi con được phép có những trải nghiệm mà con muốn bao lâu cũng được cho đến khi con chán ngán. Nhưng nếu con là một người tâm linh và con đang học giáo lý tâm linh và con muốn bước chân trên một con đường tâm linh, thì rõ ràng làm như vậy sẽ không đủ cho con. Thật không đủ cho con nếu con phải tạo ra tâm ảnh để cảm thấy an toàn, bởi vì đâu là hậu quả của việc tạo ra tâm ảnh như vậy? Hậu quả là một khi con có tâm ảnh thì con cảm thấy như thể mình phải bảo vệ tâm ảnh. Một khi con đạt một vị thế vật lý nào đó, con cảm thấy mình phải bảo vệ nó. Vị thế vật lý chắc chắn trở thành một vòng đai bảo vệ giống như lâu đài với tường đá kiên cố, nhưng nó cũng biến thành một nhà tù vì con không thể rời bỏ đi. Một khi con đã tạo ra thế giới quan đó thì tâm con không thể vượt ra ngoài. Con phải ở lại trong đó, và con luôn luôn phải sẵn sàng bảo vệ nó chống lại mọi hiểm họa có thể xảy đến.

15.5. Trong nhị nguyên, con không thể chứng minh bất cứ gì

Nhưng này con, thày đã có giải thích là tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực. Một khía cạnh của tâm thức nhị nguyên phối hợp với tâm phân tích và lý trí là, nói chung, con có thể chứng minh bất cứ gì con muốn. Trong nhiều nền văn hóa, người ta đã tranh luận từ rất lâu về câu hỏi này: “Có Thượng đế hay không?” Trong thế giới hiện đại, cũng có tranh luận giữa tín đồ các tôn giáo và những người theo chủ nghĩa duy vật hay người vô thần. Cả hai phe đều cố gắng đưa ra lập luận – người theo tôn giáo thì lập luận ủng hộ sự hiện hữu của Thượng đế, và người vô thần lập luận chống lại sự hiện hữu của Thượng đế. Cả hai bên đều mổ xẻ lập luận của nhau để cố đánh phá hay bẻ gẫy bên kia, nhưng con thấy gì khi con nhìn vào chuyện này? Con thấy là sau một thời gian, có hai nhóm riêng biệt sẽ hình thành, một nhóm tin chắc chắn là có Thượng đế, và nhóm kia tin cũng không kém chắc chắn là không có Thượng đế. Nhưng cả hai đều nhìn vào cùng những lập luận.   

Tại sao nhóm này nhìn vào lập luận và kết luận thế này, trong khi nhóm kia nhìn vào cùng những lập luận đó mà lại kết luận thế khác? Á, đó là vì mỗi nhóm người có mang một số ngã tách biệt trong tâm họ, và các ngã tách biệt này có nhiệm vụ – do chúng đã được lập trình như vậy –phải bênh vực tổng quan của họ. Người theo tôn giáo mang tổng quan là có một thượng đế giữ quyền kiểm soát tối hậu trên mọi chuyện xảy ra trên thế giới, và điều này khiến họ cảm thấy an toàn vì họ nghĩ rằng bởi vì họ là tín đồ ngoan đạo, thượng đế này sẽ che chở họ và ban cho họ thật nhiều ân huệ. Cảm giác an toàn của họ dựa trên ý tưởng thượng đế này là có thật, nghĩa là ngã tách biệt của họ được lập trình để bênh vực cho thế giới quan và sự hiện hữu của thượng đế này. Ngã tách biệt làm thế nào? Bằng cách ngăn chặn và vô hiệu hóa bất cứ lập luận nào chất vấn thế giới quan.

Phía bên kia, những người vô thần mang thế giới quan là không có Thượng đế vì họ cảm thấy – và trong tiền kiếp họ đã cảm thấy – bị đe dọa bởi những người theo đạo đã bức hại họ, như con thấy trong Tòa án Dị giáo và các cuộc Thập tự chinh. Họ suy luận tôn giáo là một trong những hiểm họa lớn nhất trên thế giới, cho nên họ dựng lên một thế giới quan bảo rằng tôn giáo chỉ là chuyện mê tín chủ quan chứ không hề có Thượng đế. Thay vào đó thì có các định luật tự nhiên, và một khi hiểu được các định luật này qua khoa học, họ cảm thấy là họ nắm được quyền kiểm soát nào đó trên hoàn cảnh của họ. Làm thế nào họ đã đạt đến thế giới quan này? Bằng cách tạo ra những ngã tách biệt sẽ loại bỏ, ngăn chặn hay vô hiệu hóa bất cứ bằng chứng nào chất vấn thế giới quan của họ.

Bây giờ con có thể nhìn quanh thế giới và tìm thấy vô số nhóm người khác cũng y như thế. Người Do Thái có một thế giới quan đặc thù xem mình đối chọi với người Ả Rập, và ngược lại người Ả Rập có một thế giới quan xem mình đối chọi với người Do Thái. Rất nhiều nhóm khác khắp thế giới có cơ chế vận hành cũng giống như vậy.

Điều con nhận ra khi con bước lên tỉnh giác cao hơn là mọi người đều đã tạo ra những ngã tách biệt như thế. Mọi người đều có một thế giới quan cơ bản. Con cần có một thế giới quan để có thể vận hành, nhưng vấn đề là khi thế giới quan của con dựa trên tách biệt và nhị nguyên, không thể tránh được là nó sẽ đặt con vào thế xung đột với những ai có một thế giới quan dựa trên đối cực nhị nguyên ngược lại.

Lấy ví dụ các cuộc Thập tự chinh giữa người đạo Hồi và đạo Cơ đốc, cả hai đều tuyên bố thờ cùng một thượng đế, là thượng đế được mô tả trong kinh Cựu ước, nhưng họ vẫn đánh nhau. Người Cơ đốc cảm thấy họ đại diện cho cái thiện và người đạo Hồi đại diện cho cái ác. Người đạo Hồi cũng tin chắc là họ đại diện cho cái thiện và người Cơ đốc mới đại diện cho cái ác. Hiển nhiên là cả hai không thể nào đúng cùng một lúc. Nhưng nếu như chẳng có bên nào đúng thì sao? Nếu như cả hai đều có một thế giới quan chủ quan nhị nguyên thì sao, bởi vì họ đã chụp lấy một đối cực nhị nguyên rồi nâng nó lên địa vị tối cao, và điều này đặt họ vào một vị thế xung đột hiện sinh với đối cực nhị nguyên ngược lại?  

Nói cách khác, đạo Cơ đốc và đạo Hồi đã được đặt lên một thang điểm nhị nguyên trong đó họ đại diện cho hai đầu của cái thang. Người Cơ đốc có thể nói: “À, đầu bên chúng tôi mới tốt, còn đầu bên kia xấu.” Và người đạo Hồi có thể bảo ngược lại. Đây là cách nhị nguyên vận hành. Con lấy một cực đoan tương đối xong con nâng nó lên địa vị không tương đối. Nó tuyệt đối: “Đây là sự thật tuyệt đối. Chúng tôi người Cơ đốc nắm sự thật tuyệt đối. Người đạo Hồi sai lầm tuyệt đối, cho nên việc chúng tôi giết họ là chuyện chính đáng cho dù tôn giáo chúng tôi có điều răn, Ngươi chớ giết người.” Đây là cách con vô hiệu hóa một lời răn và biện minh cho việc vi phạm lời răn, và điều này hiển nhiên là tương đối nhưng con lại nghĩ nó dựa trên một sự thật tối cao nào đó.

15.6. Tám tỷ vũ trụ

Đó là lảm thế nào con tạo ra những thế giới quan đó, và con có thể nhìn ra điều này khi trong tư cách một học trò tâm linh, con bước lên những tầng cao hơn của Bát chánh đạo. Con nhìn ra điều này, cho nên tất nhiên, con cần ngừng tập trung tâm con vào những gì người khác đang làm, và thay vào đó con nhận ra là con cũng đang làm cùng một chuyện như vậy, bởi vì ai ai cũng làm chuyện này cho đến khi họ giải phóng tâm họ khỏi ảo tưởng tách biệt, khỏi các ngã tách biệt. Không thể nào khác được. Không có bí ẩn gì ở đây. Đây là chuyện mọi người đều làm. Khi chính thày còn hiện thân và trước khi thày đạt đến các tầng nhận biết cao hơn, thày cũng đã làm chuyện đó. Trong tiền kiếp thày cũng đã làm như vậy, cho dù nhiều Phật tử sẽ phủ nhận là thày có tiền kiếp.

Con đạt tới điểm có thể nói được: “Tôi hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi thấy được cách vận hành khi mọi người đều có một thế giới quan.” Nói chung, tất cả tám tỷ người trên hành tinh đều có một thế giới quan cá nhân. Có nhiều người mang thế giới quan tương tự như nhau, cho nên họ có thể nhận diện mình là thành viên của một nhóm, nhưng thế giới quan của mỗi người thì vẫn khác nhau một chút.

Thậm chí con có thể nói là không có một vũ trụ độc nhất, mà trên trái đất có đến tám tỷ vũ trụ, bởi vì mỗi người đều ở trong – ở ngay trung tâm – vũ trụ cá nhân của riêng mình. Mỗi người đều xem mình là trung tâm của vũ trụ. Có một sự tương đồng nào đó với góc nhìn của con trong không gian vật lý. Ngay bây giờ đây con đang ngồi ở một vị trí cụ thể, cơ thể của con đang ở một vị trí cụ thể. Con đang nhìn qua đôi mắt từ một góc độ cụ thể. Con đang chiếm giữ khoảng không gian nơi con ngồi, đây là không gian cá nhân của con. Một người khác có thể ngồi ngay cạnh con và có một góc nhìn gần giống con, nhưng người đó không thể đẩy cơ thể của họ vào cơ thể của con để nhìn từ cùng góc độ như con. Tâm con cũng như vậy. Con có thể có những điểm tương đồng với người khác nhưng con vẫn là trung tâm của vũ trụ cá nhân của con.

Bây giờ, nếu con có tám tỷ người và mỗi người xem mình là trung tâm vũ trụ và do đó họ là người quan trọng nhất trong vũ trụ, thì có gì đáng ngạc nhiên khi có xung đột, đấu tranh, đau khổ và Biển Luân hồi? Là một học trò trên con đường tâm linh, con có thể nhìn ra điều này. Vậy con cần làm gì đây? À, nếu con muốn tiến cao hơn trên đường tu, con cần nói: “Tôi hiểu là tất cả chúng ta đều đang sống trong vũ trụ riêng của mình. Vũ trụ này chỉ hiện hữu trong tâm mỗi người, nhưng chúng ta hành xử dựa theo cách mình nhìn thế giới, dựa theo thế giới quan của mình. Tôi hiểu là mỗi chúng ta đều có xu hướng bênh vực cho thế giới quan của mình. Tôi hiểu là tôi không có quyền điều khiển thế giới quan của người khác. Dù họ là con cái, cha mẹ hay là người thân, tôi cũng không có quyền kiểm soát tâm họ. Vậy tôi có thể làm gì? Là một học trò tâm linh đang bắt đầu nhận ra những gì tôi đang nhận ra về con đường tâm linh, tôi có thể làm gì?”

15.7. Con từ bỏ việc thay đổi người khác

À, bước đầu tiên con có thể làm là con có thể bước lui lại và lấy một quyết định. Con có thể nói: “Tôi quyết định từ chức khỏi công việc thay đổi tâm người khác.” Thậm chí con có thể tự hỏi: “Liệu tôi có ký hợp đồng lao động nào với một khuôn mặt thẩm quyền ghi rằng công việc của tôi là phải thay đổi suy nghĩ của người khác không? Tôi có hợp đồng này không?” Con thử tìm trong ngăn kéo và tủ hồ sơ của con xem có một hợp đồng như vậy không? Nếu con không có, con có thể tự hỏi: “Vậy thì tại sao tôi đã đảm nhận công việc thay đổi tâm người khác?” Sau đó con có thể dùng lời dạy này để ngộ ra là con đã nhận công việc này vì tự ngã của con nghĩ rằng nó phải thay đổi tâm người khác ngõ hầu thay đổi trạng thái tâm con. Nó nghĩ là để con cảm thấy an toàn, con cần thay đổi tâm người khác.

Sau đó con có thể bước lui lại thêm nữa, ít ra một khi con đã bắt đầu nhìn nhận con không phải là tự ngã, con không phải là tâm vỏ ngoài, thì con có thể lui thêm và nói: “Nhưng có phải là chính tôi đã nhận việc này hay là tự ngã?” Xong con có thể bắt đầu nhận ra là chính tự ngã của con đã đứng ra đảm nhận công việc. Không phải là con. Và điều này có nghĩa là giờ đây con có thể rút lui khỏi công việc và nói: “Thôi đủ rồi. Bây giờ tôi quyết định một cách cốt ý là tôi sẽ ngừng tập trung vào việc thay đổi tâm người khác, và tôi sẽ dành tất cả chú ý vào việc thay đổi tâm tôi. Đây là công việc duy nhất của tôi trên hành tinh này. Mục đích duy nhất của tôi ở trên hành tinh này là nâng cao nhận biết của tôi chứ không phải là thay đổi tâm người khác. Không chỉ là chuyện thay đổi tâm tôi mà là nâng tâm tôi lên những tầng nhận biết cao hơn.”

Con đang chú tâm vào điều gì? Con đang chú tâm vào nhu cầu thay đổi tâm thức của con, tâm lý của con. Con làm thế nào? Như thày đã mô tả rồi đó, con xem xét các khuôn nếp, con phơi bày các ngã, con để cho chúng chết đi. Khi con tập trung làm điều này, con sẽ bắt đầu tiến bộ, tiến bộ nhanh chóng. Sau đó con có thể đi vào những tầng tỉnh giác cao hơn nơi con bắt đầu nhìn vượt khỏi nhiều trò chơi mà người ta bị mắc kẹt.

Con thử nhìn mọi người xem. Lấy ví dụ các thành viên trong gia đình, có người có thể bị nhốt hàng chục năm trời trong một trận chiến tìm cách thay đổi một người khác, hay ngược lại. Cả hai đang chơi một trò chơi xem ai có thể thay đổi ai, ai có thể khống chế ai, vân vân. Con có thể thoát ra khỏi toàn bộ trò chơi này. Con có thể giải phóng sự chú ý và năng lượng của con  – năng lượng ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc – để chúng không còn bị buộc chặt vào trò chơi tìm cách thay đổi người khác. Làm vậy sẽ giúp con tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều.

15.8. Sự phán xét liên tục trong tâm

Khi con đạt đến một tầng cao hơn và đã tự giải thoát khỏi trò chơi đó, con có thể đi bước kế tiếp và nói: “Tôi đang bắt đầu nắm bắt được tự ngã làm việc như thế nào, các ngã tách biệt hoạt động như thế nào. Tôi có trải nghiệm là tôi đã nhìn thấy một số ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Tôi đang bắt đầu nắm bắt được quá trình này.” Điều gì đang thực sự xảy ra ở đây? Điều xảy ra là, như thày có nói, tự ngã và các ngã tách biệt tạo ra một thế giới quan đặc thù. Thế giới quan này dựa trên tách biệt, trên các đối cực nhị nguyên và sự phán xét giá trị.  

Điều liên tục diễn ra trong tâm con là con có một tập hợp những ngã tách biệt đang đánh giá mọi chuyện xảy ra trong đời con. Không chỉ là những sự cố bên ngoài. Tất nhiên ngã tách biệt không ngừng theo dõi sự cố bên ngoài. Chúng không ngừng đánh giá: “Chuyện này có đe dọa thế giới quan của tôi không?” Xong chúng phán xét: “À, nếu nó đe dọa thì thật quá tệ, tôi phải ngăn chặn hay tránh xa nó. Còn nếu nó không đe dọa thì quá tốt, tôi có thể chấp nhận nó.”

Trong tâm con liên tục có một tiến trình đánh giá và phán xét những sự kiện bên ngoài. Bất cứ gì xảy ra, dù đó là biến cố trên thế giới, là một sự kiện vật lý cá nhân, là một lời nói của ai đó, là một chuyện gì con đọc được, một chuyện gì con xem trên tivi, bất kỳ xung động nào đến với con từ ngoài bản thân con sẽ được đánh giá không ngừng bởi các ngã tách biệt đó. Phần lớn hoạt động này diễn ra bên dưới mức nhận biết ý thức của con, nhưng khi con vươn lên cao hơn trên đường tu và con trở nên ý thức hơn, con không thể nào tránh nhìn thấy một phần tiến trình này đang diễn ra. Con không thể tránh nhận ra là nó tiêu hao năng lực và chiếm hữu sự chú ý của con.

Ngoài những sự việc đến từ bên ngoài, cũng có sự đánh giá liên tục những gì xảy ra bên trong tâm con. Ở mức cảm xúc, con có những cái ngã đánh giá: “Tôi phải cảm thấy thế nào trong tình cảnh này? Liệu cảm xúc này có ổn không dựa trên thế giới quan tâm linh của tôi? Một người tâm linh mà cảm thấy thế này có chấp nhận được không?” Xong con có những ý tưởng: “Không biết mình nghĩ thế này có được không?” Về cơ bản, sự đánh giá là như sau: “Ý nghĩ này có là một đe dọa cho thế giới quan của tôi hay nó xác nhận thế giới quan của tôi?” Rồi ở mức bản sắc, con liên tục có những ý nghĩ: “Tôi là ai? Làm thế nào để tôi khớp vào với thế giới? Tôi có quyền ở đây không? Tôi có nên thay đổi không? Tôi nên làm theo nhóm này hay nhóm kia?” Tất cả những sự đánh giá như thế liên tục xảy ra, nhưng mục đích chung vẫn là: “Đây có phải là một mối đe dọa cho thế giới quan của tôi không? Điều này có xác chứng thế giới quan của tôi không? Nó có tốt không? Nó có xấu không?”

Một lần nữa, đối với nhiều người thì đó là cách họ trải nghiệm cuộc sống. Họ trải nghiệm cuộc sống qua tâm họ, qua thế giới quan của họ, qua các ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu đó là trải nghiệm họ muốn thì tự thân nó không có gì sai trái. Là một học trò tâm linh, con cần đạt tới điểm trở nên tỉnh giác về điều này và con bắt đầu lượng định: “Tôi có muốn những chuyện này lấp đầy tâm tôi không? Bây giờ tôi nhìn ra là những chuyện này đã lấp đầy tâm tôi suốt đời rồi, nhưng tôi có muốn chúng tiếp tục lấp đầy tâm tôi cho phần đời còn lại hay tôi muốn vươn lên cao hơn?” Đó là khi con có thể bắt đầu sử dụng lời dạy để phơi bày các ngã tách biệt cứ không ngừng xét đoán và đánh giá.

Con cũng có thể bắt đầu ý thức được thế giới quan của con. Con thực sự nhìn thế giới và chỗ đứng của con trong thế giới như thế nào? Điều gì trong thế giới quan này cho con cảm nhận là mình có thể chịu được, đương đầu được với cuộc sống, mình có thể tồn tại và tiếp tục tồn tại trong thế giới hỗn loạn này? Xong con có thể nhận ra là cơ sở của tất cả những thứ đó chính là sự phán xét giá trị. Con nhìn vào một hiện tượng trong thế gian – có thể là chuyện vật lý, là tình cảm, tư tưởng hay ý niệm bản sắc của con – và con cứ luôn đánh giá: “Cái này có tốt không, xấu không, đúng không, sai không?” Rồi đến một điểm trên con đường dẫn tới quả vị Phật, con cần bắt đầu lượng định: “Đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống hay không? Tôi có thể nào giải phóng tâm tôi khỏi sự đánh giá và phán xét không ngừng về mọi chuyện?”

15.9. Đau khổ là ở trong tâm

Thậm chí con có thể khởi sự đặt câu hỏi: “Đâu là nguyên nhân của đau khổ? Đó có phải là thế giới bên ngoài? Đau khổ có phải là hậu quả bắt buộc của việc tôi sống trong thế giới khủng khiếp này?” Xong con bắt đầu tự hỏi: “À, ngay lúc này đau khổ đang diễn ra ở đâu?” Con có thể ngộ ra đau khổ là một điều kiện diễn ra trong tâm con.

Phải, rất có thể là có một điều kiện bên ngoài. Có thể con đi xe đạp, bị ngã gãy chân khiến con đau đớn. Có một yếu tố vật lý trong sự kiện này, nhưng đau khổ thật sự xảy ra trong tâm con. Con có thể đã bước vào một tiến trình đánh giá: “Ồ, chuyện này lẽ ra không được xảy ra. Thật là vô lý bất công. Sao tôi quá ngu ngốc không chịu thận trọng. Tại cái anh kia ép tôi ra khỏi đường.” Tất cả những sự đánh giá như vậy bây giờ chiếm đóng tâm con. Đó chính là tiến trình diễn ra trong tâm con tạo ra đau khổ. Các sự kiện bên ngoài chỉ là sự kiện bên ngoài. Hiển nhiên bị gãy chân không có gì vui thú, nhưng đó vẫn là một sự kiện bên ngoài, trong khi việc đánh giá là tốt hay xấu, là vô lý hay bất cứ gì khác, diễn ra trong tâm con.

Cho dù điều kiện vật lý có là gì thì đau khổ vẫn diễn ra trong tâm con. Đau khổ khởi lên từ sự đánh giá không ngừng về đúng-sai, tốt-xấu, cái này đúng lý phải xảy ra nhưng không xảy ra, cái kia không được xảy ra nhưng lại xảy ra, tất cả những loại đánh giá như vậy. Đây là khi con có thể khởi sự phơi trần các ngã tách biệt, và khi con lần hồi nhìn thấy chúng hay để chúng chết đi thì đó là lúc con trải nghiệm một sự nối kết chặt chẽ hơn với tâm Phật. Bởi vì trong tâm Phật không hề có sự đánh giá và phán xét giá trị như vậy.

Đây là điều thày đã cố giải thích 2500 năm về trước qua khái niệm những cặp đôi, qua khái niệm khắc phục đau khổ, khắc phục dính mắc. Chính sự dính mắc của con với mọi chuyện khiến con đau khổ. Đó là sự dính mắc của con với quan điểm cho là có những điều nên xảy ra và những điều không nên xảy ra. Khi những điều con nghĩ không nên xảy ra lại xảy ra, con đau khổ. Khi những điều con muốn xảy ra lại không xảy ra, con đau khổ.

Con thường xuyên ở trong một trạng thái xao động, không hài lòng, không an bình vì con luôn luôn nhìn về tương lai, lo sợ chuyện xấu có thể xảy ra hay chuyện tốt có thể không xảy ra. Con bị căng thẳng liên tục. Nhưng con có thể đạt tới điểm có được những lần hé thoáng khi cái Ta Biết bước ra khỏi tâm vỏ ngoài và con trải nghiệm một sự nối kết với cái ta cao của con, và nhờ vậy con trải nghiệm an bình. Giờ đây con trải nghiệm điều này trực tiếp – không phải một khái niệm lý thuyết. Con đang trải nghiệm là có cái gì khác hơn trạng thái tâm bình thường của con, và cái khác hơn này là một trạng thái tâm an bình hơn. Và đó là khi con bắt đầu hỏi: “Tôi muốn gì? Tôi có muốn ở lại trong xao động này hay tôi muốn bước về phía an bình?” Để có thể bước về phía an bình, đúng vậy, con phải loại bỏ các ngã tách biệt kia đi, nhưng con cũng phải xem xét tổng quan của mình về thế giới và nói: “Có thật là mọi chuyện đều tách biệt hay không? Tôi có thật đang sống trong một thế giới được tạo thành từ những vật tách biệt, những sự việc tách biệt? Tôi có phải là một sinh thể tách biệt? Tôi có tách biệt khỏi tám tỷ người kia trên hành tinh? Tôi có phải là một hòn đảo ở trung tâm vũ trụ riêng của mình, hay là có gì khác?” Tất nhiên là có, và đó là tâm Phật, đó là giác ngộ.

15.10. Khái niệm giác ngộ

Giác ngộ có giai đoạn. Tất nhiên có một số người cho rằng đó là một trạng thái toàn hảo tuyệt đối, nhưng không phải vậy. Giác ngộ là khi con bắt đầu nhìn vượt khỏi ảo tưởng rằng thế giới có thể chia ra thành những vật tách biệt.

Con đang sống trong thời đại máy tính. Nhiều người trong các con có thể nhớ thời máy tính còn sơ khai và màn hình máy tính có những pixel trên đó mà con có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Con có thể thấy từng chấm vuông tạo nên hình ảnh trên màn hình. Nếu con nhìn lại một hình chụp của màn hình máy tính thời đó, và nếu con nhìn thật gần bằng kính lúp, con sẽ chỉ thấy toàn là những chấm vuông đơn lẻ với màu sắc khác nhau – chúng có hình dạng giống hệt nhau mà chỉ khác màu sắc. Về cơ bản chỉ có ba màu và con có thể thấy từng pixel riêng biệt. Điều này có nghĩa là con nhìn vào màn hình máy tính, và trên màn hình có thể có một tấm ảnh như một con hổ chẳng hạn, nhưng khi con nhìn đủ gần thì con chỉ thấy được những chấm vuông khác màu, và chỉ khi con lui về đủ xa thì đột nhiên nhãn quan của con xoay chuyển, con nay thấy được tấm ảnh và con nói: “Ồ, những chấm vuông này tạo thành một tấm ảnh, tấm ảnh này là một con hổ, và hổ là một con thú nguy hiểm có thể ăn thịt tôi.”

Đây là điều con bắt đàu nắm bắt khi con đạt đến các tầng cao hơn của tỉnh giác, cụ thể là chỉ ở một cấp độ nào đó, từ một nhãn quan nào đó, thì thế giới mới hiện ra như được tạo thành bởi những vật tách biệt. Chỉ ở một cấp độ nào đó thì việc sử dụng phán xét giá trị tốt-xấu, đúng-sai, mới xảy ra. Khi con tiến lại gần hơn, con thấy tất cả mọi hình tướng, tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được tạo thành bởi những cái chấm nhỏ đơn lẻ kia. Con có thể đi thêm một bước và nhận ra ngay cả những cái chấm đó cũng không thể xuất hiện nếu không có một màn hình, và do đó tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được làm bằng các đơn vị nhỏ hơn, xuống tận đến các hạt hạ nguyên và sóng năng lượng.

Tất cả chỉ có thể hiện ra vì có gì đó ở đằng sau khiến chúng hiện ra. Cái ở đằng sau những chấm trên màn hình máy tính là chính màn hình, cái ở đằng sau những chấm trên tờ giấy là chính tờ giấy, nhưng cái ở đằng sau những chấm tạo thành thế giới hình tướng là cái vô hình tướng, tức là Phật tánh. Phật tánh là cái vô hình tướng cho phép hình tướng khởi lên. Cái vô hình tướng có thể khoác vào hình tướng tạm thời, nhưng cái vô hình tướng thì không vì vậy mà thay đổi. Một lần nữa, thày đã dùng hình ảnh của một rạp chiếu phim nơi con phóng chiếu lên màn hình với các thể bản sắc, lý trí, và cảm xúc của con. Màn hình có thể trưng bày nhiều bộ phim khác nhau nhưng khi làm vậy, nó hề không thay đổi. Màn hình vẫn ở đó, nó vẫn trắng tinh, không phân biệt, không hình dạng. Cho dù Phật tánh có khoác vào hình tướng nào thì việc này không thay đổi Phật tánh. Hình tướng chỉ tạm thời. Còn Phật tánh thì thường hằng, vượt thời gian, luôn luôn có. Không bao giờ một hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng.

Một hình tướng có thể thay đổi một hình tướng khác, nhưng không hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng, và đây là điều – cụ thể rằng đằng sau mọi hình tướng là Phật tánh – con có khả năng hiểu được không chỉ một cách trí thức, mà cuối cùng trải nghiệm được bằng trực giác. Khi con bắt đầu trải nghiệm điều này qua trực giác, con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác. Con thấy là toàn bộ sự đánh giá đúng-sai tốt-xấu kia chỉ có thể diễn ra trong tâm nhưng là tâm tách rời khỏi Phật tánh. Và hậu quả của sự đánh giá, sự căng thẳng không ngừng, sự phán xét không ngừng này, là điều giữ chặt cái Ta Biết tập trung vào tâm tách biệt, tập trung ở trong tâm tách biệt, và nhìn thế giới xuyên qua tâm tách biệt. Vì cái Ta Biết là một biểu hiện của Phật tánh vô hình tướng, cho nên nó có khả năng bước ra ngoài tâm có hình tướng để trải nghiệm bản tánh của nó. Đây là sự tỉnh giác cao hơn. Đây là ý nghĩa thật của chánh niệm tỉnh giác.

15.11. Những định nghĩa khác nhau về tỉnh giác

Bây giờ nếu con nhìn vào đạo Phật qua các thời đại, con sẽ thấy nhiều người, nhiều Phật tử, ngay cả các bậc gọi là học giả cao thâm, đã định nghĩa tỉnh giác theo nhiều cách khác nhau. Một số đã cố gắng định nghĩa là có những thứ con không được nghĩ tới và có những thứ con nên nghĩ tới, con nên chú tâm vào. Xong họ đã tạo ra một số hình thức thiền tập nhằm ngăn chặn một số ý tưởng và chú tâm vào một số ý tưởng khác.

Đây không phải là ý nghĩa nguyên thủy của tỉnh giác. Kỳ thực điều xảy ra là những vị đó đã dùng lời dạy của Phật để củng cố, hay thậm chí để tạo ra một ngã tách biệt mới. Họ lấy lời dạy của Phật, mà mục đích là để giải phóng họ khỏi tâm vỏ ngoài, tâm nhị nguyên, tâm tách biệt, và họ dùng lời dạy của Phật để tạo ra một ngã tách biệt giờ đây cảm thấy cao trội hơn những ai không chia sẻ thế giới quan của họ. Họ tạo ra một thế giới quan đặc thù mà họ tuyên bố là dựa trên giáo lý của Phật, nhưng kỳ thực được tạo ra từ tách biệt, qua đó họ nhìn giáo lý của Phật xuyên qua phin lọc tách biệt. Xong họ bóp méo lời dạy, biến nó thành một học thuyết hay một giáo điều, cùng với một thế giới quan rất cố định, khép kín và tuyệt đối.

Đâu là toàn bộ khái niệm Bát chánh đạo? Đó là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con vẫn chưa đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó. Như thày đã có nói, con sẽ còn một số ảo tưởng chừng nào con còn đầu thai trong cõi vật lý. Không thể nào khác được. Bước trên đường Bát chánh đạo là một tiến trình trọn đời, nhưng các vị ấy đã lấy lời dạy của Phật, hay đúng hơn phiên bản bóp méo của nó, và họ nói: “Đây, chúng tôi có thế giới quan tuyệt đối rồi. Chúng tôi là người đạo Phật. Chúng tôi biết rõ chuyện này. Chúng tôi đang tu theo các pháp tu này. Chúng tôi có khả năng ép tâm để nó không nghĩ về một số chuyện và ép tâm để nó chỉ chú tâm vào một số chuyện khác. Vì vậy chúng tôi tu rất cao. Chúng tôi đã giải thoát. Chúng tôi đã đạt đến một trạng thái tâm thức cao. Chúng tôi là người đặc biệt và chắc chắn đức Phật sẽ ban thưởng cho chúng tôi trong một tương lai sẽ đến.” Chánh niệm tỉnh giác không có nghĩa như vậy. Đây là đánh mất chánh niệm [mindlessness, trong nghĩa đen là đặc tính không có tâm] mặc dù tâm đầy ắp cái thế giới quan mà chính nó đã tạo ra. Tất cả chuyện này chỉ là ảo tưởng, một mạng lưới ảo tưởng khổng lồ, và đây là cốt lõi của tình trạng nan giải mà con phải đối mặt.

Nếu con xem câu chuyện đời thày, con sẽ thấy là sau khi nhập Niết bàn, thày đã suy ngẫm việc trở lại trái đất và giảng dạy. Thày đã đối mặt với ý nghĩ: “Nhưng bạn đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, cao hơn hẳn, khác biệt hẳn với tâm thức của mọi người trên trái đất, cho nên sẽ chẳng có ai nắm bắt được lời giảng của bạn. Không ai sẽ hiểu được đâu.” Đó là một cám dỗ mà thày phải đối mặt, vượt qua. Và thày lượng định: “Quay trở lại có đáng công không? Sẽ có ai nắm bắt được không?” Điều đã khiến thày quay trở lại là thày nhận ra là thày đã nắm bắt được. Thày đã hiểu được. Thày đã nâng cao nhận biết của mình đến một mức nào đó, và như thày đã nói, khi con đạt được mức giác ngộ đó và quả vị Phật, thế giới quan của con dựa trên hợp nhất. Con không thấy mình là tách biệt với người khác, cho nên con không xem mình là đặc biệt. Con xem mình là một biểu hiện cá nhân của Phật tánh và mọi người khác cũng vậy, và một biểu hiện của Phật tánh thì không thể – tự thân nó và trong bản chất – cao trội hơn một biểu hiện khác của Phật tánh.

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra là vì mình đã có thể nâng cao tâm thức của mình thì mọi người cũng có khả năng làm y như vậy. Việc thày đã làm được có nghĩa là có những người khác cũng sẵn sàng và sẵn lòng, và vì vậy thày có thể cho họ một tấm gương. Thày có thể trao cho họ một số lời dạy, và đó là tại sao thày đã quyết định quay trở lại: “Một số người sẽ hiểu được.” Thày biết là đa số sẽ không hiểu được, và con có thể nhìn lại đạo Phật suốt 2500 năm qua, đã có nhiều môn phái khác nhau xuất hiện và đã có nhiều lý lẽ khác nhau về sự kiện họ có hiểu lời Phật dạy hay không. Con có thể thấy là đa số đã không hiểu nhưng vẫn có một số đã hiểu được, và trong thời đại hôm nay có nhiều người hơn có thể hiểu được, ngay cả khi họ không là Phật tử. Ngay cả khi họ đã lớn lên trong thế giới phương Tây không theo đạo Phật, họ vẫn có thể hiểu được vì các ý tưởng này mang tính phổ quát.

15.12. Thế nào là một lời dạy tâm linh chân chính?

Con thấy đây là một cái ngộ khác mà con đạt được trên đường tu. Con nhận ra là tất cả mọi tôn giáo và triết lý tâm linh khác nhau được tìm thấy trên trái đất đều khẳng định là mình nắm một chân lý cao trội nào đó. Hay nói đúng hơn, các tín đồ và giới tu sĩ của các tôn giáo này tuyên bố là họ nắm được một chân lý cao trội, nhưng nếu một giáo lý tâm linh có giá trị, có xác thực và phát xuất từ một nguồn cao hơn, thì giáo lý này sẽ chỉ ra là vượt khỏi tất cả những mối chia rẽ con chứng kiến trên trái đất, có một cái gì đó, có một mức nhận biết vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi sự phán xét giá trị và cảm nhận tách biệt.

Vượt lên trên tách biệt và chia rẽ là cái Một mà bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng chỉ về. Cho nên thật là vô nghĩa mà bảo: “Đây mới là giáo lý cao trội.” Bởi vì con người là những cá nhân, con không thể nào tạo ra một giáo lý tâm linh sẽ thích hợp cho mọi người trên địa cầu. Và điều này thật không quan trọng, con không cần tạo ra một giáo lý như vậy. Điều quan trọng là: “Liệu lời dạy cụ thể này có thể giúp ai đó thăng vượt tâm thức của họ để rốt cuộc thăng vượt tách biệt và nhị nguyên hay không?” Nếu vậy thì lời dạy hiệu nghiệm. Nếu không thì nó không hiệu nghiệm. Bất kỳ lời dạy nào được đưa ra với mục đích này cũng có thể bị tha hóa, sàng lọc bởi tâm tách biệt, cho nên người ta tạo ra phiên bản riêng của họ về lời dạy, và phiên bản này thì không nhằm giải thoát họ khỏi tâm vỏ ngoài, mà nhằm chứng thực thế giới quan của tâm vỏ ngoài, hay cung cấp cho tâm vỏ ngoài một thế giới quan sẽ khiến nó cảm thấy an toàn và cao trội.

Nếu con lấy một lời dạy tâm linh và dùng nó để cho con cảm giác cao trội do con nghĩ rằng con đã có lời dạy cao nhất có thể, rằng con đã có chân lý tuyệt đối, thì con chỉ chứng tỏ là con đã hoàn toàn hiểu lầm mục đích của lời dạy tâm linh đích thực. Mục đích của một lời dạy tâm linh là giải thoát con khỏi chính tâm con, tâm tách biệt. Nếu nó làm được việc này thì nó hiệu nghiệm. Nếu nó không làm được việc này thì nó không hiệu nghiệm. Nếu con dùng nó để tự giải thoát khỏi chính tâm mình thì con đang dùng nó theo cách cao nhất. Nếu con dùng nó để giam con chặt hơn vào chính tâm con – vì con tin chắc là mình có thế giới quan tuyệt đối, thế giới quan cao nhất có thể – thì con đã lạm dụng lời dạy.

Phật không bao giờ có ý định lập ra tôn giáo cao nhất trên trái đất. Các lời dạy của Phật có dụng ý để là một tiến trình giúp mọi người nâng cao tâm thức và thoát ra khỏi nhà tù của tâm mình. Nếu con biến lời dạy của Phật thành bất cứ gì khác thì con chứng tỏ là con không tỉnh giác [mindful] về lời dạy của Phật, vì tâm con đầy ắp [mind full] những tin tưởng khởi lên từ tâm tách biệt đang thấy nó tách biệt với Phật. Nó khởi lên từ ảo tưởng, và thay vì giải phóng con khỏi tấm màn của Maya, nó chỉ có thể giam con chặt hơn đằng sau tấm màn vì con nghĩ là thế giới quan của con không dựa trên ảo tưởng mà dựa trên một chân lý tối thượng nào đó.

Nói một cách thật đơn giản, tỉnh giác cao hơn là gì? Đó là sự nhận biết rằng mục đích của đường tu là để con giải thoát khỏi chính tâm con, giải thoát khỏi nội dung của tâm con. Có nghĩa chăng là con phải đạt tới điểm không còn nội dung nào nữa trong tâm? Đây không phải là điều thày đã nói. Nếu con chú ý những gì thày nói, thì thày đã nói là con tự giải phóng, con giải phóng tâm con khỏi các nội dung dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Và khi con làm vậy, con tạo ra những nội dung khác dựa trên nối kết và hợp nhất. Khi thày trở lại giảng dạy, thày đã trở lại với tâm đã giải thoát khỏi nhị nguyên và tách biệt, nhưng nó vẫn có một tính cá biệt nào đó, nó vẫn có một thế giới quan nào đó, và nó thích nghi với nền văn hóa nơi thày hiện thân. Và tất nhiên là thày có những nội dung trong tâm.  

Thày không đồng hóa với các nội dung này. Thày biết là nội dung trong tâm chỉ đơn giản là dụng cụ để tương tác với thế giới vật chất, tương tác với người khác. Các nội dung này không quy định được thày. Chúng có thể được thay đổi. Chúng có thể khác đi. Chúng không phải là nội dung tuyệt đối nào đó của tâm. Con thấy đó, thày không đang yêu cầu con, ít ra ở một tầng nào đó trên đường tu, đạt tới điểm con không còn cá thể nào nữa, không còn cá tính nào nữa. Mà thày đang yêu cầu con sẵn lòng đạt tới điểm không còn một cá thể dựa trên ảo tưởng tách biệt, không cờn một cá tính dựa trên tách biệt và nhị nguyên khiến con xem mình đối lập với người khác. Con có khả năng xây dựng hay con có khả năng phát hiện – bởi vì có thể con đã xây dựng trong tiền kiếp rồi – cái cá tính và cá thể dựa trên cảm nhận nối kết, nối kết với cái ta cao của con, nối kết với một cõi cao hơn, nối kết với người khác, nối kết với thế giới vật lý. Khi đó, con sẽ có một cách hoàn toàn khác để tương tác với người khác, với thế giới vật lý, với cái ta cao của mình cũng như với cõi cao hơn.

Bấy giờ con sẽ có khả năng hành động dựa trên nối kết, và hệ quả tự nhiên sẽ là gì? Là thay vì con tìm cách nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, con tìm cách nâng cả tổng thể vì con thấy mình là một phần của tổng thể đó, và vì vậy cách thức để con tự nâng mình lên chính là con nâng cao mọi sự sống. Và điểm này dẫn chúng ta đến chủ đề chót là chủ đề tập trung – con chú tâm vào điều gì – nhưng tất nhiên, đây sẽ là đề tài của bài giảng tới.

Thày vừa cho con một minh chứng về chánh niệm. Thày mong con đã có một trải nghiệm nào đó của một dạng tỉnh giác cao hơn. Tâm thày đầy ắp Phật tánh. Tâm con đầy ắp những gì?

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuần thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho càng ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật tánh.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều cơ hội để cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang xảy ra, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có cơ hội, có khoảng trống cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ những loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một số ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được sa thải. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện buôn bán này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ đang xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu tàn lụi, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi, và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh và nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này để giúp nó tiến tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lại lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh, là bảo: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh”? Tất nhiên là không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Nói chung, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và nhìn ra là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc làm tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những lời phát biểu đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ mà bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng-sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và càm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: Tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp đôi – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả cho người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất “lý duyên khởi” vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả đối với tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả gây ra. Thậm chí cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị tác động thế nào, họ đang tạo ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao cho dù họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn, và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích nghi nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh mang tính xây dựng. Không có vấn đề kinh doanh biến mất khi địa cầu nâng lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn thì kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ hơn hẳn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Chỗ nào là chỗ tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Nói chung, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có nhiều khoảng trống cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con có gì trong đó?

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm ra một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất hay không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nghuyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Môt trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những vì sao cùng dải thiên hà và con có thể thầm nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một khối năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền của họ không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn, vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó là một ngã tách biệt và tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng đó là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian, cho nên nó chỉ biết nghĩ ra một cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái mà nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị nhuộm màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng hư giả hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc gia tăng nhận biết này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng – hay vốn liếng – khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trong cốt yếu, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy sung sướng hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố tâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ con còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục chính ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt ra khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát chánh đạo, đây là giai đoạn tập trung, mà có lẽ tốt hơn nên dịch là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát chánh đạo – con đường tâm linh, con đường dẫn đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con tới điểm tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Ở đây không có sự đánh giá là con đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý. Suốt các thời đại, nhiều người đã đánh giá như vậy và nói: “Đây là một giáo lý sao có vẻ quá tuyệt hảo, nó tự cho là cao siêu, đặc biệt, và vì tôi đã tìm ra cho nên phải có nghĩa tôi cũng là một đệ tử tuyệt xảo.” Điều này không nhất thiết là đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời đại mà thông tin lan truyền dễ dàng hơn bao giờ hết.

Có trang mạng, có sách, cho nên người ta có thể tình cờ bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nào đó trong giai đoạn đi từ những mức nhận biết thấp hơn lên những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách. Thật không xây dựng mà áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực mà tất cả mọi người phải theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mỗi người cần khởi sự ở mức tâm thức mà họ đang có, và họ không thể làm gì khác được. Khi tìm ra một giáo lý, nhiều người cần đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan hiện hữu của mình hay để xây dựng một thế giới quan mới dựa trên giáo lý. Thế giới quan này có căn bản là quan điểm tách biệt và mong muốn nâng mình lên cho có vẻ cao trội, hay khiến mình cảm thấy an toàn do mình đang đi theo giáo lý. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi theo giáo lý tâm linh này cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ.” Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với hoàn cảnh sống hiện tại của họ. Đây chỉ là một số nhu cầu có mặt ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con người có những nhu cầu như vậy. Họ không thể làm gì khác hơn là tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua các nhu cầu đó, và họ phải nếm trải nghiệm đó trong một thời gian cho đến khi tâm họ mở ra một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Chúng ta có thể nói là một số người khi tìm ra con đường tâm linh sẽ đi qua một giai đoạn sử dụng giáo lý tâm linh để xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số rốt cuộc có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt quá giai đoạn này, trong khi một số khác sẽ vẫn ở trong đó cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Mà là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã mô tả trong loạt bài giảng này, đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài trước hết, với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Khi con bắt đầu nắm được điều này thì đó là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chủ yếu là kéo mình ra khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi sự đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức tập thể của nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức tập thể trong nền văn hoá, chủng tộc và nhóm người nơi con đã lớn lên. Điều con có thể thấy trong tất cả những nền văn hóa này là có một quan niệm nào đó về sự bình thường. Đây là một điều bình thường trong văn hóa của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng muốn con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi nền văn hóa đều mang một quan điểm nào đó là mình cao trội hơn các nền văn hóa khác. Có lẽ họ đang xung đột với văn hóa khác và họ không thể thấy mình là gì khác hơn. Tất nhiên, để có thể tiến bộ trên con đường tâm linh, con cần kéo con lên trên tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn mà chú tâm chính yếu – sự tập trung chính yếu – là giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hóa các năng lượng đang cho tâm thức đại chúng một cái chuôi để nó nắm lấy kéo con đi. Con làm điều này bằng cách trở nên ý thức về các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải tỏa các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể lôi kéo con khi trong bốn thể phàm của con có gì đó để nó lôi kéo. Cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ có thể hấp dẫn vật gì có khối lượng. Vật nào không có khối lượng thì trọng lực không làm sao hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để lôi kéo con trở lại các khuôn nếp mà con vốn thấy trong văn hóa của con hay ngay cả trong nhân loại nói chung. Con không bận tâm chuyện chiều theo tiêu chuẩn, mà con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm then chốt trên con đường tâm linh, và điểm này khiến nhiều người bối rối. Con có thể đạt đến một điểm con đã giải thoát mình, phần lớn hay thậm chí hoàn toàn, khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm được vậy bằng cách nào? Bằng cách nào con đã giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được vậy dựa trên mức nhận biết của con, và rất có thể mức nhận biết của con khi khởi sự đường tu sẽ ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Lẽ tự nhiên trên trái đất có nhiều người bị khống chế bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách riêng của mình.

Để đi trên con đường tâm linh, con cần bước đi như một cá nhân riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hóa nào trên trái đất xem việc tu tập tâm linh là chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại quy chuẩn xã hội và con chỉ có thể làm vậy như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm như thế nào? Đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm vậy bằng cách tạo dựng một ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không thể bị cuốn hút vào những khuôn nếp tập thể trong văn hóa của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp ngã tách biệt có khả năng cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm vậy tới một mức nào đó, thì con đến bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là liệu con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích, nó không thể nào đưa con đến những giai đoạn cao hơn của đường tu. Thật vậy, nó không thể đưa con quá một điểm nào đó. Thày đã có giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con khắc phục mọi ý niệm bản ngã, mọi cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Cho nên cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay xem mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con đứng riêng khỏi người khác và tâm thức đại chúng.

Để có thể đi tiếp lên các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con phải gỡ bỏ nó đi. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hỏa tiễn, một hỏa tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm bên dưới được dùng để đẩy hỏa tiễn đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hỏa tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hỏa tiễn và chính con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà một tổ hợp ngã tách biệt, cho nên con có thể tháo gỡ từng cái một.

Suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt được nhưng phần đông thì chưa, cho nên họ quá dính mắc với ngã này, hay với bản sắc họ đã xây dựng, đến mức họ không chịu buông nó ra. Như thày đã có mô tả về tự ngã, những người này bây giờ tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, và vì thế họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi nó có thể bước vào thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay niết bàn hay bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người bị mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng, đó là vì nó dựa trên tách biệt, ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành đạt tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người ở ngoài giáo lý, mà cao hơn cả những người ở trong giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con cho phép mình bước lùi lại thì con có thể thấy rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một ngã tách biệt, và một ngã tách biệt thì không thể đưa con lên một mức nhận biết cao hơn. Nó không thể đưa con đến quả vị Phật, nó không thể đưa con lên niết bàn hay thiên đàng. Không cách gì mà chuyện này có thể xảy ra.

Vậy con bắt đầu nhận thấy khi đạt đến mức này, con cần xoay chuyển tâm mình. Con cần đi thêm một sự xoay chuyển để nhận ra là từ giờ trở đi con đang xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa trên việc thấy mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà thấy mình nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra thôi.

Điều con cần làm ở đây là bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Liệu có những yếu tố nào mà con có thể nhận diện khởi lên từ tách biệt hay có lẽ ngay cả từ nhị nguyên? Con có thể bắt đầu nhìn ra là những yếu tố này đang giới hạn con, chúng khiến con mất tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng tự do hơn. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng khống chế đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc của tập thể. Vì tâm lý trí của họ bị áp đảo bởi tâm đại chúng, họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập. Họ thường không thể chọn cảm xúc riêng của mình mà họ động cảm theo bất kỳ khuôn nếp nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu có một tình huống khiến những người trong nhóm họ phản ứng giận dữ thì họ cũng sẽ phản ứng giận dữ. Thường họ xem đó là chuyện hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất. Cho nên họ không tự do trong tâm trí, họ không tự do lựa chọn phản ứng trước một hoàn cảnh, họ không tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của họ.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con ra khỏi tâm thức đại chúng thì con ngày càng tự do hơn, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con, vì con nghĩ con phải ở lại trong ngã đó. Con phải ở lại trong lối tiếp cận đường tu mà con đã chấp nhận khi con ở một mức tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do trong tâm. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng đây vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí của con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình lên so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hóa mình với tâm đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác.” Vậy thì con vẫn đang dính liền với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần tự gia tốc để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm vậy bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì con bắt đầu gắn kết với cái ta cao hơn của con – và cái này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu, khi con chú tâm vào tâm thức của mình – giải quyết trạng thái tâm thức mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý mình một thời gian khá lâu và đạt được nhiều tiến bộ khi làm vậy. Nhưng vẫn đến một điểm con cần nhìn nhận là mặc dù con đã nâng tâm thức, đã trong lọc tâm thức, bước kế tiếp thật ra là con phải tạo một ý niệm bản ngã mới dựa trên sự kiện con là một sinh thể kết nối, dựa trên trải nghiệm con là một sinh thể kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra là ngoài nhân cách vỏ ngoài và ý thức riêng biệt dính liền với thế giới, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính, một cá thể. Thật sự con không thể gọi đó là một cá tính hay một nhân cách như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào nhận biết ý thức và biểu lộ nó qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Giờ đây con đang trong giai đoạn quan hệ với cái ta cao của con thay vì quan hệ với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một phần cá thể này từ cái ta cao.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra cái ta cao của con không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà nhiều người gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là sự duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem sự hợp nhất này từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách riêng với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang quan hệ với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc thấy mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với mọi người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên mà ý niệm con đứng riêng khỏi người khác, đứng riêng khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là Chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa cao hơn của sự chú tâm hay tập trung. Con không tập trung vào tâm thức đại chúng, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con chú tâm vào tổng thể, con chú tâm vào kết nối, con chú tâm vào hợp nhất, và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì cân nhắc: “Làm sao tôi có thể nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi có thể nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một khía cạnh đặc thù của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lãnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ của tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể sử dụng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng ngày càng vũ bão và có nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức của mình và nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con, nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận biết của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con xoay chuyển và thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con trên tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt gấp bội. Do đó tác động của con lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, qua đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu nhìn ra nhu cầu phải chuyển đổi một điều gì đó.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người kinh qua ngay trong bản thân họ một sự chuyển đổi tâm thức, thì họ bắt đầu ngộ ra các ý tưởng và lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và trong khi họ nâng cao nhận biết của họ thì họ cũng kéo đại chúng lên theo, cho đến khi mọi chuyện bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước. Càng ngày càng có nhiều người bắt đầu thấy được những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi, bởi vì quyền này được trao từ một tầng nhận biết cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả mọi tiến bộ đã diễn ra, bằng việc nâng cao nhận biết của đại chúng, trong đó một túc số tới hạn đã bất ngờ xoay chuyển và thấy được những gì họ không thể thấy trước đó. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhìn ra: “Ừ nhỉ, rành rành ra đó. Chuyện này thật quá hiển nhiên. Xã hội cần nhắm hướng này mà đi tới.”

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá nhân tách biệt, chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật là sự chú tâm vào tổng thể, tập trung vào toàn thể chứ không chỉ một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đó là lý do con có thể kéo cả tổng thể đi lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, nếu con bị tâm thức đại chúng khống chế thì con không kéo tâm thức này lên được – hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn, và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói là những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức đại chúng, và chúng có khả năng làm vậy nếu con mang một số tin tưởng, một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của chúng. Giê-su đã diễn đạt điều này hơi khác qua câu “Ông hoàng của thế gian đến mà không nắm được gì trong ta.” Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, có một tâm thức nào đấy trong thế gian muốn kéo con về những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao nhận biết, cho nên con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể phóng cái gì đó tới con – có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đó ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì ở đó để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo ta.” Hay nói cách khác, con hãy đi theo vị thày, đi theo nhận biết cao hơn và buông bỏ tất cả những cám dỗ kia đang kéo con vào khuôn nếp phản ứng.

Đâu là một cách để nâng cao toàn thể? Đó là chứng tỏ cho mọi người thấy là có một cách phản ứng khác hơn là cách thịnh hành nhất trong tâm thức đại chúng trong văn hóa của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng giận dữ trong một số tình huống, và nếu con cho họ thấy là con không phản ứng tức giận trong tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta, hay anh kia, hay chị kia, thường phản ứng? Chuyện gì xảy ra vậy? Có gì khác biệt?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể, hay tối thiểu để có tác động lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác nữa. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã có bàn về đề tài này rồi, và thày có nói là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc thù rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ.” Ấy, sự thật là không hề có kết quả riêng rẽ lẫn nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang qua đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là khi con khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể thì trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là một vấn đề cần được thay đổi.” Chẳng hạn vấn đề có thể là: Chúng ta cần khắc phục chiến tranh và đem lại hòa bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân.” Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được một hiểu biết sâu sắc hơn về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai.” Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người, và nguyên nhân này thì đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại đang bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Có thể con sẽ nói: “Vậy làm sao con có thể thay đổi được chuyện này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách riêng ra một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển và thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể nào chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể, thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy mình cần làm gì đó và mình muốn thấy cái đó thay đổi. Xong con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này để con cảm thấy mình đã thành tựu được điều gì. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều đã làm giống như vậy. Họ đã tách riêng một hiện tượng trong thế giới và cố gắng thay đổi. Dĩ nhiên nhiều người đã muốn loại bỏ chiến tranh, nhưng con thấy đó, đến nay vẫn chưa có ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Kìa, giáo lý tâm linh chẳng đem lại kết quả gì. Rõ ràng những chuyện tôi làm đã không có kết quả.” Đó là bởi vì con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Xoay chuyển mà con có thể thực hiện là con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, con chú tâm vào việc nâng cao nhận biết ở mức cá nhân lẫn ở mức tập thể. Con đang kéo nhận biết của cả cá nhân lẫn tập thể đi lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này chỉ là hậu quả của những gì xảy ra ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con có thể thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào đất, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể dời chuyển cả một quả núi. Nhưng đối với những hiện tượng lớn hơn, chẳng hạn như chiến tranh, con sẽ không thể khắc phục bằng những thay đổi vật lý. Chọn lựa duy nhất mà con có là quy tụ một đạo binh hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của bất cứ nước nào, và điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời nào đó, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh đâu.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm vào việc tạo ra thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức của chính con, chứng tỏ cho người khác thấy là con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một lời dạy ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với lời dạy đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Cho nên con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một tâm thái nơi con thăng vượt sự nghi ngờ, sự thất vọng và niềm hy vọng là con sẽ chứng kiến một số thay đổi nhìn thấy.

Con thăng vượt tất cả mọi tiềm năng thất bại, con bước trên một con đường mà con biết là hiệu quả vì con biết chắc việc nâng cao tâm thức luôn luôn đem lại kết quả. Con biết con đang làm công việc nâng cao tổng thể và điều này sẽ có kết quả. Con chỉ tiếp tục như vậy, tiếp tục nâng cao nhận biết của con, tìm cách nâng cao nhận biết của người khác, và chính vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù cho nên con cảm thấy mình đang đóng góp mà không mang rủi ro thất bại hay thất vọng. Tại sao con không nên mong đạt được thay đổi đặc thù? À, trong một số trường hợp thì con nên mong muốn như vậy vì trong Kế hoạch Trọn đời của con có công việc tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lãnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến ở đây là tầm mức bao quát khi con mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt hiện tượng chiến tranh, một điều mà cá nhân con thật sự không thể nào làm được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể, và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết đây là chuyện khả thi. Con có thể đóng góp gì đó, và khi người khác cũng làm tương tự thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng đủ lực kéo để kéo tâm thức đại chúng đi lên, tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã có thể mang lại thể chế dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay – dù họ thuộc một phong trào, một giáo lý tâm linh hay là không – cũng đang làm công việc kéo tâm thức tập thể đi lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát chánh đạo, trên con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào một số mục tiêu, khía cạnh, phương pháp. Những giai đoạn con đi qua càng ngày càng cao qua đó con chuyển sự chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt và ngã nhị nguyên sang sự chú tâm vào kết nối. Con có thể nói là quỷ Mara, ông hoàng của thế gian, liên tục tìm cách cám dỗ con người với rất nhiều cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới tất cả là một cám dỗ cơ bản nhằm kéo con vào một tâm thái nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con tập trung vào ảo tưởng tách biệt này, thì con không thể thấy đằng sau mọi hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ, chẳng hạn: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Cho nên anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đó với đất nước của tôi mà lẽ ra họ không được làm, cho nên họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới này thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới.”

Có quá nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và giáo lý tâm linh là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người ở trong và ở ngoài giáo lý. 

Họ có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể là người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, hay là người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như là kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như là kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con đứng riêng khỏi những ai không theo giáo lý. Khi con làm như vậy thì con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, chính vì đường tu là khắc phục tách biệt, như thày đã đề cập hàng chục lần rồi. Thày sẽ nhắc lại nhiều lần và nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất, và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa nắm được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật suốt nhiều kiếp sống mà vẫn chưa nắm được điều này. Họ đứng riêng ra khỏi những ai không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng lên ý tưởng là bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành pháp tu từ quá lâu rồi và đã sống cuộc đời tu sĩ tận tuỵ với tu tập, cho nên có nghĩa là chắc hẳn họ đã tiến bộ. Chắc hẳn họ đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ biệt lập với những ai chưa áp dụng được giáo lý như họ nghĩ họ đã làm được. Họ vẫn chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người cải đạo thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Kỳ thực, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và tuy con đã dùng một giáo lý đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Có thể họ cần những giáo lý khác, hoặc họ cần một số ý tưởng phổ quát, trong bản chất không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vào đó, họ cần neo trụ vào sự kiện là từ tầng mức vượt khỏi thế giới vật chất, từ tầng nhận biết cao hơn, có một loạt những ý tưởng phổ quát đang được rải xuống, và chính những ý tưởng phổ quát này sẽ tác động tối đa đến việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Chỉ lấy một ví dụ, con hãy nhìn ở các nước phương Tây có nhiều người tập môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hóa rất đặc thù, và mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát nhưng sau đó lại đồng hóa với đạo Hindu. Nếu con đi ngược dòng thời gian thì đã có một thời để tập luyện yoga, con phải là một tín đồ Hindu, hoặc con phải sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian tập trung vào việc thực hành tâm linh, gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà Phật đã thực hành khi thày mới rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Nói cách khác, yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh cực đoan không mấy thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Tuy vậy con thấy nhiều người ở thế giới phương Tây vẫn tập được yoga song hành với một cuộc sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt những tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su cũng đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt những tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính là lý do vì sao thày đã bị xem là mối đe dọa cho giới thẩm quyền đạo Do thái. Thày đã đe dọa môn phái độc quyền cục bộ của họ bằng cách đưa ra những ý tưởng phổ quát. Điều gì có thể phổ quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt các ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Cho nên tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm của con ra khỏi tư duy cho rằng chỉ có một giải pháp độc nhất cho các vấn đề của thế giới, và giải pháp này là cải đạo tất cả mọi người vào pháp tu và triết lý tâm linh của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào những tư tưởng bao quát, những cách diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, từ nhiều tầng lớp khác nhau, mà không cần đòi hỏi họ phải đổi sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm vậy nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều gì xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều gì chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu ác, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là hợp nhất, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền và sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp những tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ có tác động lớn nhất trên việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời đại hôm nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không có ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách riêng khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung hòa 

Khi thày đưa ra những giáo lý này lúc ban đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có thể nghĩ ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hòa hơn – là nhận biết cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp hơn khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trong thế gian? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt trên tất cả mọi biểu hiện đa dạng bất tận. Họ thấy được dù mọi người có vẻ khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Con chỉ thấy được như vậy một khi con kết nối với một cái gì đó cao hơn, một tầng nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hòa, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con đã chẳng nghe lời dạy này trước đây sao? Các chân sư khác đã chẳng giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do thày dùng cơ hội ở đây để trao truyền những bài giảng này là vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và những bài này sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn. Sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hòa điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này thật quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine lẫn Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin là nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận ra là con cần tới một điểm, là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý đạo Phật. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có gì khác hơn là niềm vui trong hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra bực dọc. Với lời này, thày niêm các con, con yêu dấu. 

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là sự tinh tấn, hay nỗ lực. Một lần nữa như theo truyền thống, người ta đã quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Xong người ta đã cố tránh nỗ lực sai và trau dồi, thực hành nỗ lực đúng. Đối với nhiều người, chuyện này trở thành một chiếc áo tù bó tay bó chân, khiến họ cảm thấy gần như không thể làm bất cứ gì vì họ quá sợ những nỗ lực sai lầm sẽ tạo nghiệp. Cuối cùng họ cảm thấy chỉ còn một việc họ có thể làm là hạn chế tối đa các hoạt động thể chất và trong phần lớn thời gian, hoặc họ thiền định, hoặc họ thực hành những pháp tu khác. Thế là chuyện này trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, và tuy họ cảm thấy mình rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên con đường tâm linh. Họ không đang leo lên những tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng ngày càng bất an, càng ngày càng lo sợ tất bật để cố nỗ lực làm sao cho đúng với những gì họ đã quy định.

Hiển nhiên, dựa trên những điều thày đã trao cho con trong những bài trước, giờ đây chúng ta có thể khá dễ dàng thẩm định nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng rất nhiều để giải thích mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo là gì. Đó chính là nâng cao tâm thức, và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, ngay cả nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã bước vào một tâm thái nghĩ rằng nỗ lực đúng có nghĩa là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức của họ, đưa họ đến gần hơn với giác ngộ, hay niết bàn, hay bất kỳ cách nào họ định nghĩa. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là một việc làm máy móc

Thày đã nói là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả, nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí cả trong các tế bào vật lý ở một mức độ nào đó. Một kỹ thuật tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, các tin tưởng của con, các ảo tưởng của con, cho dù thực tập đó là gì, đến từ đâu, do ai định ra hay do ai ban ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con còn bị giam trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con đã tới chỗ chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào đã cấy ảo tưởng vào tâm con? Quả là có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể hiện đang phóng chiếu rất nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa là con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, cái gì xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mất là trong một tiền kiếp, con đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Sau khi con bước vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép vô số ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh, và tất cả mọi thứ khác cũng là biểu hiện của Phật tánh cho dù hình tướng vỏ ngoài có là gì. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng, và do đó con buông bỏ chúng vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2500 năm, đây là tình trạng kể từ đó cho tới nay, và đây sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Sự tăng trưởng tâm linh đến các tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình ý thức nhìn ra các ảo tưởng một cách ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng được lưu trữ trong tâm tình cảm của con chẳng hạn, khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích, nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con. Chính con, cái Ta Biết là cốt lõi của bản thể con, phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách trở nên ý thức về những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách moi ảo tưởng ra khỏi tâm tiềm thức, đem chúng vào nhận biết ý thức nơi con có thể thấy chúng, xem xét chúng, và một khi con nhận ra chúng là ảo tưởng thì con sa thải chúng.

13.2. Các ngã tiềm thức được tạo ra như thế nào

Các thày đã có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là chuyện con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là chuyện con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đó là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Có năng lượng, có một hiểu biết hay tin tưởng nào đó, và có tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Cũng giống như con ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính, cho nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và xuyên qua phin lọc đó, thì con phú cho nó một rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng này được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể của con: bản sắc, lý trí và cảm xúc. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo một lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ nổi giận hơn chẳng hạn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, thật ra con đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung chú ý vào bất cứ gì thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính, và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà chúng ta có thể gọi là “ngã” theo một cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có khả năng tự nhận biết của cái Ta Biết, cho nên ngã này đã không tạo ra chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo ra một cái ngã, nhưng ngã thì không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng trưởng, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con, nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một cái ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống, việc nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, giận dữ là một chuyện không đúng với lời dạy tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được như vậy. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng nóng giận hơn chứ nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó sống và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng đã tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm chuyện này.

Thật vậy, ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ thì lực hút của nó trên cái Ta Biết của con sẽ mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó, và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn những cái ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng lần hồi tạo thêm lực hút đến độ cái Ta Biết của con bị kéo vào tấm màn ảo tưởng. Con bị kéo ra đằng sau tấm màn ảo tưởng và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới mức quên khuấy mất là con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao của con và con có Phật tánh và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là một con người thế trần – hoặc một kẻ có tội, hoặc một kẻ mang nghiệp rất lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, con có thể nói là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt đó và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó – nếu có thể gọi như vậy – thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi, và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao hơn là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt cùng tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người trong truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của một tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng con hãy lắng nghe những gì thày đang nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của một tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng-sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo ra một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con đã tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng chừng nào nó còn ở trong tâm con, chừng nào năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó, thì nó sẽ ảnh hưởng tâm con. Điều này có nghĩa – trong số nhiều ý nghĩa khác – là tự ngã không thể được chuyển hóa. Quả vậy, có nhiều người đã xây đắp một ngã tách biệt dũng mãnh, họ đồng hóa với nó chặt chẽ đến độ họ nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là chuyển hóa ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái khả dĩ đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của đạo Cơ đốc thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem nhân cách vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đàng.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế thì làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra, không thể làm được. Nó chỉ giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người lại nảy ra giấc mơ đó? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con cảm thấy đó là một sự mất mát và con mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức được điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có lòng khát khao một cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong sinh hoạt thế gian như nhiều người đã làm suốt nhiều kiếp sống, nhưng sẽ tới một điểm nỗi khao khát này – mà trên cơ bản là khao khát một cái gì ở ngoài chính tâm con, ở ngoài tâm tách biệt của con – sẽ trồi dậy và con không thể phủ nhận nó được nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên thì tự ngã biết rõ nó không thể đáp ứng được, nhưng nó vẫn cố khiến con tin rằng con có thể thỏa mãn nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ như khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nhu cầu nâng cao nhận biết của con, đạt đến một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc hay giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên rồi! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn để đạt được trạng thái cao siêu này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên trạng thái cao đó. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là một lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta hợp nhất với cái một. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu, và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giải thích 2500 năm về trước khi thày nói là không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên, thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời, và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con cần thực tiễn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một, và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với lòng sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự nóng giận hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ chính mình? Tại sao khi bị tấn công, con trở nên hung hãn hay con chịu thua?

Con làm việc với từng phản ứng cá biệt. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động, và khi điều này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con đang không dùng tâm ý thức để quyết định cách phản ứng nào với hoàn cảnh đó. Giản dị là khi ngã tách biệt được kích hoạt, nó sẽ tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn đằng sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào trong nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng, và con có thể tiếp tục quán xét và dùng trực giác cho tới khi con thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Có thể sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng, và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng vào im lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này vậy?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù, và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã đang hạn chế con như thế nào, nó đang hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong đời tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy, không phải là con cần giải quyết một vấn đề gì, không phải là con cần làm gì với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con chỉ giản dị bước tới buông ngã ra, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con chỉ cần để cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc, và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách để nó ra đi. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu một điều gì đó trên thế gian này – nói chung là để khỏa lấp cảm giác là mình không trọn vẹn. Khi nhận ra điều này, con có thể buông nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ gì trong thế gian để trở nên trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trong thế gian thì con sẽ tự nhiên cảm thấy trọn vẹn hơn.

Tại sao như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Ở ban đầu, con có cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Rồi con đã che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng, nhưng trạng thái mặc định của con vẫn là cảm nhận kết nối. Một khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể khuếch trương cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn luôn ở đó, nó luôn luôn hướng năng lượng về phía con. Chỉ có điều là trong tâm con, con đã bước vào một ảo tưởng cho nên con không ý thức được sự kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng ngã tách biệt đã ngăn con trải nghiệm kết nối cần phải được hoàn thiện rồi khi đó con mới lại cảm thấy kết nối. Không đâu, con chỉ cần buông ngã ra và trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cho cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con tiến bước trên đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối, và đây là điều sẽ đưa con xa hơn trên đường tu. Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao hơn. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo lẫn các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Chẳng hạn nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng, nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ các giáo lý này được cất giấu đâu đó, và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này, vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ bằng cách chỉ giản dị đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc cùng một giáo lý tâm linh. Một người có thể nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ nó, nhưng người kia không nhìn ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Có phải tinh túy là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay con nhìn vào trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn vào các ảo tưởng của mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay liệu con nghĩ có cái gì thần diệu ở ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, thậm chí con không nghĩ là điều đó bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con, mà con nghĩ có vị đạo sư bên ngoài kia sẽ đem cho con sự giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những gì một đạo sư không làm được cho con

Ở phương Đông có một truyền thống lâu đời về quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng – và có nhiều đạo sư cũng sẽ xác nhận – là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, giác ngộ, niết bàn hay bất kỳ con gọi là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức vào những quyết định mà con đã lấy trong quá khứ khi con chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức để cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử thế nào để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con mang. Nhưng vị ấy không thể quyết định hộ con, vì quyết định được tạo ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể trở nên ý thức là mình đã từng lấy quyết định, hậu quả của nó là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay đạo sư bên ngoài nào có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng mình đang tiến tới, nhưng con thật sự làm gì khi con làm vậy? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây con tìm thấy đường tâm linh, một giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo Bát chánh đạo, nhưng liệu nó sẽ làm được hay chăng? Kết quả không thể nào bảo đảm, bởi vì cốt lõi của đường tu chân chính là con khắc phục các ngã tách biệt, con đưa chúng lên tâm ý thức và con thải bỏ chúng một cách ý thức. Nếu con không chịu làm hay không nắm bắt được điều này, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý, nếu con chăm chỉ thực hành các pháp tu, thì con sẽ trở nên một học trò ngày càng cao cấp qua việc chứng tỏ những thứ vỏ ngoài đó và vì thế con đang tiến bộ trên đường tu.

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến bộ tâm linh nhưng lại không nắm được bản chất cốt yếu của con đường tâm linh, và do đó họ chỉ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố cho tự ngã vốn tin là nó tách biệt và luôn cố gắng cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã lại cố gắng cao trội? À, tự ngã có đủ nhận biết để biết là nó không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu là nó không bao giờ có thể vào được thiên đàng nhưng nó biết là nó không trọn vẹn. Nó biết là con cảm thấy không trọn vẹn và nó liên tục tìm cách che phủ hay bù đắp cho sự thiếu trọn vẹn này. Tự ngã liên tục tìm cách cao trội theo một kiểu nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, là nếu nó trở nên đủ tinh xảo lịch duyệt trong thế gian này thì nó bắt buộc phải được phép lên cõi cao.

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Rất nhiều người tin vào một Thượng đế tối cao đã, trên cơ bản, tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài kia đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đàng. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất tử. Và như vậy tự ngã đang thương thảo với Thượng đế: “Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì ngài phải cho con lên thiên đàng.” Vấn đề là tất cả những thứ này là chuyện tưởng tượng. Trước hết, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì đến thực tại của cõi tâm linh. Chẳng hạn con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh của kinh Cựu ước về một Thượng đế giận dữ trên trời, và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này hay không?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống như tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên, và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một chuyện không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt, nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã làm gì? Nó quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, có nghĩa là không thật. Sự thật là cái một, còn sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, là con có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một lời dạy tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra – hay đúng hơn, thường thường họ chụp lấy những gì đã được tập thể tín đồ của tôn giáo này tạo ra – một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân siêng năng thực tập như vậy, tuyệt đối tin chắc là mình đang tiến bộ và một ngày kia một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc những người còn lại. Một giáo lý thần diệu sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người mang niềm tin là việc bước chân trên đường tâm linh là một cuộc mạo hiểm đầy vinh quang dẫn họ đến những mức tinh xảo càng ngày càng cao, những địa vị và ca ngợi của thế gian theo các tiêu chuẩn được quy định trong thế gian. Các tiêu chuẩn này là do tự ngã quy định dựa trên tách biệt. Làm sao chúng có thể dẫn con đến cái một được đây? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Đó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và để chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt và để chúng chết đi. Đó chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn đầu thai thì con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa phát hiện, bởi vì nếu con không có ngã tách biệt nào nữa thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là như thế nào

Có một tin tưởng rất lâu đời trong các đệ tử tâm linh bảo rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư kia đã giác ngộ.” À, ở đây có một sự thật và cũng có một ảo tưởng. Một mặt, rõ ràng là có những người đã đạt đến một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những ai hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập và dần dần tiến lên những tầng tâm thức cao hơn so với khi con mới cất bước, và chắc chắn cũng cao hơn một người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa thì con không có cái hiểu cao nhất.

Có câu truyện về Phật nói rằng khi thày giác ngộ, thày nhập Niết bàn rồi quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy, và do đó thày đã trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người đã phóng chiếu ra là thày, một cách nào đó, là một sinh thể toàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có khi là một con người hiện thân. Nhưng thày vẫn chưa khắc phục tất cả mọi ảo tưởng, vì nếu được vậy thì thày đã không thể ở lại trong một cơ thể vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình – thày có đạt được như vậy. Mà điều này có nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không xem mình là một sinh thể toàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này vẫn tiếp tục nghĩ.

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu ước mơ và ảo tưởng của mình lên đạo sư – vị ấy đặc biệt như thế nào, vị ấy toàn hảo như thế nào. Tại sao họ lại làm vậy? Bởi vì đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử cũng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này, họ xây đắp tự ngã, xây đắp ảo tưởng là bằng cách đi theo vị thày hoàn hảo này, và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày sẽ có quyền năng thần diệu biến đổi họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói gì ở đây? Giản dị thày đang nói là khi con còn đầu thai trong thân thể vật lý thì con vẫn có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm tốn, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của một vị thần hay họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố như vậy nhưng họ cho phép những ai theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục, và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý được nữa. Giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyền thuyết và ý tưởng về những sinh thể toàn hảo sống trên núi Himalaya đã duy trì được thân vật lý của họ suốt hàng thế kỷ. Không phải là không có phần nào sự thật trong đó, nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ từ trạng thái tách biệt. Họ đã đạt được một tầng nhận biết cao độ nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý, và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Việc tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố là mình cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông vẫn chưa khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã có thể làm được?

13.10. Nỗ lực giả hiệu khi nâng mình cao hơn người khác

Một thẩm định thực tế hơn là khi con đã khắc phục tất cả ngã tách biệt đó, con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng vậy. Ấy, làm thế nào một biểu hiện của tâm một có thể tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn những sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” À theo một nghĩa nào đó, đây là sự công nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn Maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Những lời này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào để nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao hơn. Làm sao có thể được? Khi con bước lên cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu nhận ra tổng thể, cho nên mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chứ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Mong muốn nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình lên để là một đạo sư hoàn hảo và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho chính con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt, đồng thời giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – rằng thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể hoàn thiện. Tuy nhiên con có thể tìm thấy những giáo lý dựng thày lên như vậy, nhưng đây là những giáo lý được thêm vào sau này bởi những người nhìn cuộc đời và giáo lý của Phật qua màn huyễn Maya. Họ đã áp chồng các niềm tin tách biệt của họ lên đó, niềm tin của họ vào sự tách biệt. Và vì vậy họ đã thần tượng hóa Phật, bảo Phật thật quá đặc biệt, cách Phật sinh ra đời đặc biệt đến nỗi Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất và độc nhất đã từng xuất hiện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ phải bỏ ra nỗ lực vừa khó khăn vừa khó chịu để nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Tất cả đều là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm được cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ bảo sao thày cứ lặp đi lặp lại. Khi con đọc lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể nhiều hơn ba lần. Tại sao vậy? Bởi vì hầu hết những người nghe không nắm bắt được giáo lý lần đầu tiên họ nghe. Con có thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khi con học một giáo lý thì con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học lại và nắm bắt ở tầng lý trí, và con học lại và nắm bắt ở tầng bản sắc. Nếu như con không nắm bắt được ở tầng cảm xúc thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức của con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng hiểu biết trí năng này để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đó không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói “hiểu biết” mà thày nói “nắm bắt,” thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, thì lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý? À, không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Đây con nhìn Phật. Thày đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra ở niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó, thày chọn trở lại một cơ thể vật lý để giáo huấn. Thày muốn thực hiện điều gì? Ấy, thày biết là cơ thể của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết việc giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể kéo dài một thời gian, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên đường đạo, chính con đường mà thày đã đi qua để tới được những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của đường tu, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục các ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật sự của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Đâu là sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh? Con có Phật tánh trong con. Làm thế nào con sẽ tìm thấy Phật tánh? Làm thế nào con tìm được Phật? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nào nắm bắt được điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài con, ở ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật, thế là tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên núi Himalaya. Phật ở trong quyển kinh kia. Phật ở trong pháp tu này.” Có một vị thiền sư Phật giáo đưa ra ý tưởng là nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và nhận diện người đó là Phật, thì khi làm vậy con sẽ ngăn cản mình nhìn thấy Phật tánh bên trong mình, và điều này sẽ chặn đứng bước tiến của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết con người vỏ ngoài kia – không phải là giết thân vật lý của họ mà giết cái hình tư tưởng trong tâm con – để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm thế nào con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung của tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc, nhưng nó không trở thành những nội dung đó. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ đạt tới một điểm con tự nhiên có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình, và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh đích thực nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Cho nên bây giờ con có thể lượng định các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là cho con trải nghiệm kết nối, trải nghiệm hợp nhất với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất phải trầm trồ: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên mặt đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật đã chạy theo một cái tôi vĩ đại muốn nâng mình lên trên tất cả mọi người đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin như vậy thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết ông Phật này đi vì làm vậy còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì việc thờ phượng Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Thật sự Phật đã muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được. Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được.” Làm thế nào Phật đạt được nhận biết cao? Bằng cách tìm lại Phật tánh trong chính mình. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không đang dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? À, mục đích của con trên con đường tâm linh phải là trải nghiệm hợp nhất, trải nghiệm nối kết. Ngay đây con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con đang phản ứng thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con nắm những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự ngớ ngẩn của lối tiếp cận đó. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt mà có thể bảo đảm sản xuất ra trải nghiệm hợp nhất. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng tốt hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng những nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Nhưng này con, thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng, tuy nhiên không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con im lặng, nhưng làm thế nào con làm cho tâm im lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực thế nào để tôi im lặng? Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được.

13.13. Nỗ lực để ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã thiền quán và thấy rõ tâm họ luôn xen vào. Tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng, nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao hơn để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì kỳ thực con càng dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng kẹt hơn trong tâm mình. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ biến thành một cái bẫy, một cái bẫy khác. Vậy con làm được gì đây? À, con có thể tiến bước trên đường tu, con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Và khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có những lúc con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm hợp nhất không phải là điều gì con có thể chế tạo, mà đó là một điều con nhận được. Con có thể xem đó như một món quà hay một hồng ân, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào đó ban cho con hồng ân này. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước đi trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc là nó có xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này sẽ đẩy nó xa hơn khỏi con. Nhiều, rất nhiều người tâm linh quả thực đã đạt đến một mức loại bỏ dược nhiều chướng ngại trong tâm. Họ có khả năng trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ đã đủ thông thoáng. Họ có khả năng làm được, nhưng trong tâm ý thức họ quá mức tập trung vào nỗ lực, cho nên họ đẩy trải nghiệm này xa khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể bỏ ra. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này, và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm chuyện này hàng chục năm trời, thậm chi cả nhiều kiếp, liên tục tập trung quá đỗi trong tâm thay vì buông ra. Hầu hết những ai cởi mở với giáo lý này đều đã có một mức thông thoáng nào đó trong tâm mình. Cho nên con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối, nhưng con sẽ chỉ trải nghiệm kết nối khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con hay ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con cứ tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tâm linh con có thể có những nỗ lực sẽ giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần suy ngẫm xem là vượt quá nỗ lực – và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực – nhưng vượt quá nỗ lực, liệu con có cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, cho dù con muốn nhìn cách nào. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với những lời này, thày niêm con. Đối với thày, bài giảng thật dài này được trao truyền hoàn toàn không cố gắng. Liệu con đã có cố gắng khi học bài giảng này hay chăng? Ấy, vậy thì con hãy suy ngẫm những gì thày vừa nói về buông bỏ, vì con có thể đạt tới điểm khi việc học hỏi và thể nhập bài giảng trở nên không cố gắng, và đó là lúc con đã nắm được nỗ lực cao hơn một cách trọn vẹn.