18 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Phật Gautama

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Nếu những người đạo Cơ đốc trên thế giới nghe điều này, họ sẽ nói: “Đức Phật có liên quan gì đến Ki-tô và con đường dẫn đến quả vị Ki-tô?” Vâng, chúng ta sẽ thấy, phải không? Con đường dẫn đến quả vị Ki-tô và Bát chánh đạo khác nhau ở điểm nào? Tôi sẽ nói cho các con biết ngay bây giờ. (Im lặng) Vâng, không có gì khác biệt cả. Chỉ là hình tướng bên ngoài. Nhưng hình tướng bên ngoài có phải là điều quan trọng không? Hay là kết quả cuối cùng? À, bây giờ chúng ta thấy sự phân chia giữa những người đã thăng thiên và những người chưa thăng thiên. Những người chưa thăng thiên đã dính mắc vào hình tướng bên ngoài. Những người đã thăng thiên đã vượt quá sự dính mắc đó và nhận ra rằng tất cả những gì quan trọng là kết quả cuối cùng.

Những người dính mắc vào hình tướng bên ngoài của giáo lý, dù họ là Phật tử hay Cơ đốc nhân, hay Ấn Độ giáo, hay Hồi giáo, hay thế này thế nọ, họ đang tin vào điều gì? Họ đang tin vào “lời dối gian của rắn” rằng một giáo lý có một hình tướng cụ thể trên trái đất có thể đưa họ lên thiên đường. Và rằng chỉ có giáo lý này mới có thể đưa người ta lên thiên đường. Đây là một lời nói dối, thậm chí không phải là một lời nói dối khôn khéo. Nó chỉ có vẻ thật đối với tự ngã, cái đang cố gắng bảo đảm sự cứu rỗi của nó bằng cách sử dụng những thứ của thế gian này.

Con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, con đường dẫn đến quả vị Phật, con đường dẫn đến bất kỳ nhận biết cao hơn nào, con đường vượt khỏi trái đất là gì? Đó là thăng vượt những hình tướng trên trái đất để các con nối kết lại với thực tại rằng các con không đến từ trái đất. Các con không phải là sản phẩm của trái đất. Các con là một sinh thể tâm linh đã giáng thế xuống trái đất và khoác vào hình tướng cơ thể vật lý của các con, bốn thể phàm của các con. Nhưng các con đã không trở thành cái vỏ ngoài đó. Và chính vì các con đã không trở thành hình tướng mà các con có thể đạt được sự tự do khỏi hình tướng. Nếu các con đã không trở thành hình tướng mà các con đã khoác vào ở đây trên trái đất và nếu cách duy nhất để bước vào cõi cao hơn là thăng vượt hình tướng trên trái đất, thì có nghĩa lý gì khi hình tướng mà các con có trên trái đất cần một giáo lý bên ngoài có một hình tướng cụ thể để các con được tự do khỏi hình tướng?

Các con thấy đó, các con đang cố gắng thoát khỏi hình tướng của bốn thể phàm của mình bằng cách sử dụng một hình tướng khác trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Các con không thấy rằng điều này sẽ không bao giờ có tác dụng sao? Đương nhiên, tôi đang nói vào tâm thức tập thể. Bây giờ, các con có thể nói: “Ồ, có phải là vô ích khi nói điều này vào tâm thức tập thể khi ngài luôn nói tâm thức tập thể quá thấp?” Vâng, đó là cám dỗ mà tôi đã phải đối mặt khi tôi đã bước vào Niết bàn và quyết định trở lại trái đất và giảng dạy. Các con đã đạt đến một tầng tâm thức cao đến nỗi không ai trên trái đất sẽ hiểu. Và câu trả lời của tôi là, một số người sẽ hiểu, hay đúng hơn là một số người sẽ cộng hưởng với giáo lý.

Tâm thức Ki-tô là gì? Thực sự, tâm thức Ki-tô là gì? Chúng tôi đã giải thích điều gì ở đây? Khi người ta lần đầu tiên nghe về khái niệm tâm thức Ki-tô, họ phóng chiếu những hình ảnh lên nó dựa trên những gì họ thấy trên trái đất, dựa trên tự ngã của chính họ và sự pha màu và những giáo lý giả hiệu mà họ tin vào. Họ đang làm gì khi họ phóng chiếu những hình ảnh này lên tâm thức Ki-tô? Họ đang phóng chiếu một hình tướng lên tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô có hình tướng không? Phật tánh có hình tướng không? Không. Vâng, tất cả các hình tướng đều được tạo ra từ tâm thức Ki-tô hoặc Phật tánh. Nhưng bản thân tâm thức Ki-tô có hình tướng không? Không. Nó vượt quá hình tướng. Và đó là lý do tại sao nó là thứ duy nhất có thể đưa các con vượt quá hình tướng.

Bây giờ, do cơ chế vận hành của vũ trụ vật chất, tâm thức Ki-tô không thể được biểu đạt dưới dạng thuần khiết của nó trên một hành tinh phi tự nhiên như trái đất. Về vấn đề đó, nó không thể được biểu đạt dưới dạng thuần khiết của nó ở bất cứ đâu. Nó phải được cá thể hóa. Nó phải khoác lấy hình tướng. Đó là toàn bộ ý tưởng về sự nhập thế của Ki-tô. Điều đó có nghĩa là nếu Ki-tô không nhập thế, thì những người bị mắc kẹt trong nhị nguyên và tách biệt sẽ không có cơ hội thấy rằng có thể thăng vượt tâm thức tách biệt, tâm thức chết, tâm thức nhị nguyên.

Sự nhập thế của Ki-tô, sự nhập thế của Phật, là để ban cho cơ hội. Nhưng hầu hết mọi người đều không sẵn lòng thay đổi. Và do đó, họ sẽ làm gì? Vâng, họ có thể theo một tôn giáo hoặc phong trào dựa trên một sự nhập thế đích thực. Nhưng họ sẽ tập trung vào hình tướng bên ngoài thay vì thấy rằng hình tướng bên ngoài không quan trọng. Điều quan trọng là những gì được biểu đạt qua hình tướng bên ngoài đó. Và con đường dẫn đến sự thăng vượt, đến sự sống, sự sống vĩnh hằng, là nhìn xa hơn hình tướng. Hãy nhìn vào những gì được biểu đạt, cái vô hình tướng được biểu đạt qua hình tướng. Và đi theo cái vô hình tướng đó đến tâm thức Ki-tô, hoặc Phật tánh, hoặc bất cứ thứ gì các con muốn gọi nó.

Thay vào đó, những người không sẵn lòng thăng vượt bản thân, họ tập trung vào hình tướng bên ngoài. Và bây giờ, họ bắt đầu diễn giải giáo lý. Và ôi, họ có thể diễn giải giáo lý như thế nào! Giê-su đã thách thức các thày thông giáo và người Pha-ri-si. Tôi đã gặp các nhà Bà la môn Ấn Độ giáo. Và ôi, họ đã diễn giải! Và bây giờ, hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra với Phật giáo, nó đã chia thành các phe phái khác nhau như thế nào. Tại sao? Bởi vì họ diễn giải và họ diễn giải và họ diễn giải, tranh cãi không ngừng về từ này hay từ kia. Nó có nghĩa là thế này không? Nó có nghĩa là thế kia không? Đức Phật có ý gì khi Ngài phủ nhận rằng có một cái ta thường hằng? Ngài có ý nói là không có cái ta không? Và cứ thế mãi mãi.

Các con có thể nói: “Ồ, đó chỉ là trò chơi mà người ta đang chơi trên trái đất để trì hoãn cái ngày mà họ phải lựa chọn thăng vượt hình tướng hoặc chết vĩnh viễn.” Nhưng rồi, người ta có hiểu họ đang làm gì khi họ đang chơi trò chơi này không? Không, vì chính trò chơi che khuất thực tại rằng không có sự sống bên ngoài tâm thức Ki-tô. Và trò chơi trình bày rằng nó có thể tiếp diễn vô thời hạn, nhưng nó không thể. Tự ngã, những sa nhân, có một ngày hết hạn có thể được kéo dài thông qua quyền tự quyết của con người, nhưng nó không thể được kéo dài vô thời hạn. Bao nhiêu kiếp đầu thai có thể đến trái đất trước khi cơ hội của con người cạn kiệt? Vâng, đó là một câu hỏi bỏ ngỏ, nhưng đừng nghĩ đó là một con số vô hạn.

Mục đích của sự nhập thế của Ki-tô là gì? Có phải là khi tôi được sinh ra, tôi đã ở trong một trạng thái nhận biết cao hơn rồi, tôi đã ở trong tâm thức Phật rồi? Có phải là khi Giê-su được sinh ra, ngài đã ở trong tâm thức Ki-tô rồi? Như chúng tôi đã giải thích nhiều lần, không phải vậy. Cả hai chúng tôi đều phải đi theo một con đường. Do đó, sự nhập thế của Ki-tô hay sự nhập thế của Phật là gì? Đó là một con người, hay đúng hơn là một sinh thể tâm linh trong một cơ thể con người, đạt đến tầng tâm thức then chốt đó nơi Ki-tô có thể bắt đầu biểu đạt bản thân qua hình tướng bên ngoài đó. Khi các con vượt qua khai ngộ ở tầng thứ 96, các con trở thành sự nhập thế của Ki-tô. Các con không có sự viên mãn của quả vị Ki-tô, nhưng các con trở thành sự nhập thế.

Nói cách khác, sự nhập thế của Ki-tô không phải là điều mà các con là trước khi các con nhập thế. Đó là điều các con có thể đạt được bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Mục đích của sự nhập thế này là gì? Vâng, đương nhiên, đó là để ban cho mọi người một lựa chọn mà họ không có khi họ chưa gặp phải khả năng rằng một con người trong kiếp đầu thai có thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn về cơ bản so với trạng thái mà họ có. Nếu họ chưa thấy rằng có một thứ gọi là tâm thức Ki-tô hay Phật tánh, thì họ không có lựa chọn, phải không?

Để quyền tự quyết tự trải bày, con người phải được phép đi vào nhị nguyên. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, hậu quả của việc đi vào nhị nguyên là có một chiếc đồng hồ bắt đầu đếm ngược. Và đến một lúc nào đó, chiếc đồng hồ đó sẽ hết giờ. Trước khi chiếc đồng hồ đó hết giờ, con người phải được trình bày khả năng thoát khỏi trạng thái tâm thức tách biệt. Và họ chỉ có thể được trình bày điều này bởi một người nào đó trở thành sự nhập thế, từ đó chứng tỏ một tầng tâm thức cao hơn. Khía cạnh quan trọng nhất của sự nhập thế là chứng tỏ trạng thái tâm thức cao hơn đó. Đó là, nói theo cách nói, khía cạnh Alpha của sự nhập thế.

Vậy khía cạnh Omega của sự nhập thế là gì? Vâng, đó là Ki-tô hằng sống giảng dạy. Giảng dạy, việc giảng dạy là, đương nhiên, một từ mà, như những người khác đã đề cập, đã bị con người trên trái đất và các thày giả diễn giải sai. Bởi vì thực sự không phải Ki-tô tìm cách ban một giáo lý bên ngoài mà sẽ tự động và máy móc đánh thức mọi người. Mà đúng hơn là Ki-tô tìm cách ban một giáo lý sống. Và đây là một nhận ra mà ít người trong suốt các thời đại đã có được.

Các con thấy đó, khi tôi ngồi đó 2500 năm trước trong tư thế hoa sen – mà sứ giả này không thể đạt được – tôi đã ban một giáo lý sống. Tôi đã nói lời, vâng. Nhưng những lời đó được thấm đẫm dòng chảy của Tánh linh, dòng chảy của Phật tánh, dòng chảy của tâm Ki-tô. Cũng như những lời mà sứ giả đang nói được thấm đẫm bởi Tánh linh hằng sống của tôi. Nhưng sau đó, những người theo chân mà tôi đã thu hút, sau khi tôi rời kiếp đầu thai, họ đã tạo ra giáo lý truyền khẩu này nơi họ cố gắng ghi nhớ lời của tôi. Sau đó, đương nhiên, những lời đó đã được viết ra, được dịch sang các ngôn ngữ khác. Nhưng những lời đó không phải là lời hằng sống. Chúng không nhất thiết là những lời chết, vì các con có thể lấy một giáo lý đã viết và các con có thể nghiên cứu nó và các con có thể sử dụng giáo lý bên ngoài để cố gắng kết nối với sinh thể tâm linh đằng sau giáo lý đã ban giáo lý đó. Và do đó, các con có thể cảm nhận dòng chảy của Tánh linh khi các con đang nghiên cứu một giáo lý bên ngoài.

Nhưng thật dễ dàng cho mọi người không làm điều này, mà tập trung vào giáo lý bên ngoài, nghĩ rằng nếu họ hiểu nó bằng trí năng, hoặc nếu họ học thuộc lòng, hoặc nếu họ đưa ra một diễn giải mà họ nghĩ là những gì sinh thể hằng sống thực sự muốn nói khi ban giáo lý, thì họ đã làm đủ rồi. Và sau đó, chính giáo lý bên ngoài giờ đây trở thành cỗ xe cho sự cứu rỗi của họ, sự giác ngộ của họ. Nếu các con chỉ nghiên cứu giáo lý của Phật đủ lâu và tu tập những pháp tu nhất định đủ lâu, thì các con sẽ đạt được giác ngộ. Có thể không phải trong kiếp này, nhưng chắc chắn là sau kiếp này. Điều đó không bao giờ có thể có tác dụng. Như chúng tôi đã nói, không có con đường nào được đảm bảo.

Chỉ khi các con nhìn xa hơn hình tướng của giáo lý bên ngoài và kết nối với Tánh linh hằng sống của sinh thể đã ban giáo lý thì giáo lý mới đưa các con đến giác ngộ hoặc quả vị Ki-tô. Vì không có hình tướng nào có thể giúp các con thăng vượt hình tướng. Chỉ Tánh linh mới có thể giúp các con thăng vượt hình tướng. Tuy nhiên, những người trong các con đạt được các tầng quả vị Ki-tô bắt đầu từ tầng thứ 96 trở lên – đối với một số người trong các con, không phải tất cả các con, nhưng đối với một số người trong các con – sẽ là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của các con để giảng dạy. Vâng, các con có thể nói rằng đối với tất cả các con, sẽ là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của các con để giảng dạy, nhưng không nhất thiết theo cách mà các con thường nhìn nhận việc giảng dạy.

Đối với một số người trong các con, các con sẽ giảng dạy trong cuộc sống hàng ngày khi các con tương tác với người khác, chỉ trong những tình huống bình thường, con cái, gia đình, đồng nghiệp, bất cứ điều gì có thể xảy ra. Các con đôi khi sẽ cảm thấy linh hứng để nói điều gì đó được thấm đẫm Tánh linh hằng sống. Và đây là việc giảng dạy, ngay cả khi các con không chính thức giảng dạy họ, ngay cả khi các con không đề cập đến một giáo lý chân sư thăng thiên, ngay cả khi các con không có ý định giảng dạy họ bất cứ điều gì. Nhưng khi có dòng chảy đó, các con đang giảng dạy. Những người khác sẽ có, như một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của các con, để giảng dạy theo một cách bình thường hơn, chính thức hơn, nơi các con trình bày bản thân và một giáo lý cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào nó có thể có.

Bây giờ, trong suốt các thời đại, chúng tôi đã thấy nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tìm thấy giáo lý, nhận ra rằng nó có thể là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ để giảng dạy, và họ đã tự ép mình bằng tâm vỏ ngoài để bắt đầu giảng dạy. Đó là, nói theo cách nói, một ách, một gánh nặng mà họ đã gánh lấy. Do đó, tôi khuyến khích các con hãy nhìn vào bản thân mình. Hãy nhìn vào phản ứng của các con đối với ý tưởng rằng các con có thể giảng dạy. Và xem liệu tâm vỏ ngoài của các con có coi trọng điều này hay không. Xem liệu tâm vỏ ngoài của các con có một cái nhìn “cuồng đại” về việc giảng dạy hay không. Xem liệu tâm vỏ ngoài của các con có cảm giác rằng các con có thể thành công hay các con có thể thất bại. Và nếu các con cảm thấy điều này, thì tôi đang ban cho các con quyền quyết định rằng các con sẽ trì hoãn việc giảng dạy. Các con sẽ không tìm cách giảng dạy theo một cách bên ngoài. Thay vào đó, các con sẽ sử dụng các “dụng cụ” để khám phá và lật mặt những ngã tiềm thức mà các con có liên quan đến việc giảng dạy. Vì chỉ có những “ngã” này mới có thể khiến các con coi trọng nó như vậy, bị ám ảnh cưỡng chế về nó, cảm thấy rằng đó là điều các con phải làm.

Sứ giả này đã có những “ngã” như vậy và đã nhìn vào chúng trong nhiều năm, dần dần buông bỏ chúng. Một số năm trước, ngài bắt đầu làm video trên YouTube vì ngài cảm thấy ngài phải làm điều này. Nhưng ngài đã đến một điểm mà ngài cảm thấy đó không phải là sự biểu đạt mà ngài muốn. Ngài gạt nó sang một bên, nghĩ rằng đó sẽ chỉ là một thời gian nghỉ ngắn. Nhưng rồi, nhiều năm trôi qua, và mặc dù ngài thỉnh thoảng nghĩ về việc làm video trở lại, ngài không bao giờ thực sự có thể tự mình làm được. Và rồi, vài năm trước, ngài giờ đây cảm thấy từ bên trong: “Ồ, bây giờ là lúc để tôi bước ra ngoài.” Ngài đã làm. Và các con sẽ thấy rằng ngài thư thái hơn bây giờ. Và ngay cả trong hai năm này, ngài đã trở nên thư thái hơn, minh bạch hơn. Nhưng đó là bởi vì ngài đã làm việc trên tâm lý của mình cho đến khi ngài không quyết định bằng tâm vỏ ngoài để giảng dạy. Nó chỉ đến từ bên trong.

Và tôi đang ban cho các con quyền đi qua quá trình đó theo cách riêng của các con. Nếu các con cảm thấy e ngại về việc giảng dạy, hãy quyết định trì hoãn nó. Hãy làm việc trên tâm lý. Hãy phấn đấu vươn lên cao hơn trong quả vị Ki-tô của các con. Và cứ để nó đến một cách tự nhiên từ bên trong, tự phát, thậm chí các con có thể nói như vậy. Bây giờ, với điều này, tôi không có ý nói rằng các con cần phải ngắt dòng chảy của Tánh linh qua các con. Bởi vì một lần nữa, mặc dù các con đã quyết định rằng các con sẽ không giảng dạy theo một cách chính thức nào đó, các con vẫn có thể trong những tình huống hàng ngày gặp gỡ mọi người và bây giờ điều gì đó bắt đầu chảy qua các con. Và tôi không nói rằng khi các con cảm thấy dòng chảy đó, các con nên: “Ồ, không. Tôi không giảng dạy. Phật Gautama nói tôi không phải giảng dạy. Hãy để tôi yên.” Điều tôi đang nói là khi các con cảm thấy dòng chảy này, các con tự nhiên biểu đạt nó. Bởi vì đây không phải là tâm vỏ ngoài quyết định rằng các con phải làm điều này. Đây chỉ là dòng chảy.

Các con luôn cho phép dòng chảy. Và các con không tìm cách ép buộc dòng chảy. Các con thấy đó, các con không tìm cách ép buộc dòng chảy vào một giáo lý chính thức, nhưng các con không tìm cách ép buộc dòng chảy không chảy. Các con cho phép nó chảy. Và nếu các con có thể làm điều này, nếu các con có thể “gỡ bỏ” sự cưỡng chế phải giảng dạy hoặc nỗi sợ hãi giảng dạy, thì sẽ đến thời điểm đó đối với nhiều người trong các con, không phải tất cả các con, nhưng nhiều người trong các con, nơi việc giảng dạy sẽ bắt đầu chảy. Các con sẽ cảm thấy như có điều gì đó muốn được biểu đạt qua các con. Và sau đó, các con thấy dựa trên vị thế mà các con đang ở – nền tảng của các con là gì, công việc, sự nghiệp, giáo dục của các con có thể là gì – cách các con có thể giảng dạy cho riêng mình. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là các con cần phải giảng dạy một giáo lý chân sư thăng thiên hay thậm chí là một giáo lý tâm linh.

Ví dụ, nếu các con đang ở trong thế giới kinh doanh, các con có thể lấy một số ý tưởng chung này mà chúng tôi nói về tâm lý và áp dụng chúng vào nhiều khía cạnh khác nhau của thế giới kinh doanh. Chẳng hạn như một số người đã làm, những người có nền tảng về huấn luyện, và đã viết sách và đang tổ chức các lớp học về điều này. Có nhiều cơ hội. Và có lẽ chúng tôi cần phải nói: “Điều gì khiến nhiều đệ tử chân sư thăng thiên e ngại về việc giảng dạy?” Vâng, đó là họ đã đưa điều này vào tâm trí của mình rằng bây giờ họ đã tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên, họ cần phải truyền bá giáo lý chân sư thăng thiên đó cho mọi người mà họ gặp. Nhưng điều này, chúng tôi đã nói, không phải là trường hợp. Chúng tôi đã nói điều này nhiều lần. Tùy thuộc vào nền tảng cá nhân của các con, các con có thể không giảng dạy bất cứ điều gì tâm linh.

Các con có thể hoàn toàn không nói về các chân sư thăng thiên, mặc dù các con đi theo giáo lý của chúng tôi. Nếu các con là một kỹ sư giảng dạy kỹ thuật tại một trường đại học, có thể không có cơ hội thực tế nào để nói về các vấn đề tâm linh. Nhưng dù sao, các con vẫn có thể đạt đến một điểm mà, khi các con đang giảng dạy kỹ thuật, nó được thấm đẫm dòng chảy của Tánh linh qua các con. Những lời nói có thể giống như những lời các con đã sử dụng nhiều năm trước, nhưng có điều gì đó đang chảy qua các con thấm đẫm những lời đó. Và điều này có thể truyền cảm hứng cho sinh viên của các con. Và một số người sẽ đón nhận dòng chảy đó, tự hỏi nó đến từ đâu, và nó có thể đánh thức điều gì đó trong họ. Và điều này, đương nhiên, áp dụng cho bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội, bất kỳ khu vực nào của xã hội, giáo dục, điều dưỡng, y học, bất kỳ lĩnh vực nào, chính trị, kinh tế.

Khi các con trở nên trung hòa, khi các con trở thành “cánh cửa mở”, Tánh linh có thể được biểu đạt trong bất kỳ lĩnh vực nào của nỗ lực con người. Vâng, không hoàn toàn bất kỳ, nhưng nhiều. Và khi các con đến điểm này mà các chân sư khác đã nói đến, nơi các con trở nên trung hòa, các con trở nên minh bạch, thì các con không giảng dạy với mục đích tạo ra một sự thay đổi cụ thể trong sinh viên của các con hoặc trong xã hội. Thực tế, các con không giảng dạy theo cách mà người ta thường nhìn nhận việc giảng dạy. Các con chỉ đơn giản là biểu đạt, cho phép Tánh linh chảy qua các con, và chính dòng chảy là kết quả. Hãy nghe tôi nói. Chính dòng chảy là kết quả! Những hiệu ứng bên ngoài không liên quan gì đến các con ở tầng này. Khi dòng chảy ở đó, khi sự biểu đạt đã được biểu đạt, công việc đã hoàn thành.

Sự thành công của việc giảng dạy hoặc biểu đạt không phải là bất kỳ kết quả bên ngoài nào, bất kỳ sự thay đổi nào ở người khác hoặc xã hội. Sự thành công của sự biểu đạt là chính sự biểu đạt, dòng chảy. Và khi các con nhìn nhận điều này, khi các con nhận ra điều này, khi các con làm việc trên những “ngã” này đang “vật vã” muốn các con tin rằng một kết quả nào đó phải đạt được, thì các con sẽ trải nghiệm rằng dòng chảy là phần thưởng của chính nó. Phần thưởng cho việc giảng dạy là việc giảng dạy được ban ra. Nó không phải là phần thưởng từ việc giảng dạy rằng giáo lý được đón nhận. Đó không phải là trách nhiệm của người thày khi người thày mở lòng với dòng chảy của Tánh linh.

Vì khi các con cho phép Tánh linh biểu đạt bản thân qua các con, các con không cần phải lượng định, phán xét hay phân tích hình tướng mà Tánh linh khoác lấy. Các con không phải là tác nhân. Tại sao các con cần phải lượng định hiệu suất của mình? Các con có thể lượng định: “Tôi có phải là một cánh cửa mở rộng như tôi có thể không? Tôi có lẽ có một phản ứng nào đó không? Tôi có một số ngã tiềm thức nào đó không?” Các con có thể lượng định: “Tôi có đủ hiểu biết về chủ đề không? Tôi có cần nghiên cứu thêm để có thể là một công cụ tốt hơn cho Tánh linh không?” Nhưng liệu người ta có đón nhận giáo lý hay được thay đổi bởi giáo lý hay không, điều đó các con không cần phải lượng định. Điều đó tùy thuộc vào quyền tự quyết của họ. Các con chỉ cần biết, một số người sẽ hiểu, một số người sẽ cộng hưởng.

Tại sao tôi nói rằng khía cạnh quan trọng của việc giảng dạy không phải là hình tướng, mà là sự biểu đạt của Tánh linh? Vâng, như tôi đã nói trước đó: “Tâm thức Ki-tô là gì? Phật tánh là gì? Nó vô hình tướng theo nghĩa là nó không có bất kỳ hình tướng nào có thể được nhận diện trên trái đất. Nhưng nó vẫn có một năng lượng, một rung động, một cộng hưởng.” Và khi nó được phép biểu đạt, người ta được ban cho cơ hội để hòa điệu với nó để họ cộng hưởng với Tánh linh. Và điều gì làm biến đổi con người hơn những lời nói bên ngoài? Đó là họ cộng hưởng với Tánh linh.

Điều gì cuối cùng sẽ giúp các con đạt được tâm thức Ki-tô, giúp các con, trao quyền năng cho các con đạt được tâm thức Ki-tô? Các con, cái Ta Biết, cần phải “hòa điệu” với một chân sư thăng thiên, người “nhập một” với tâm thức Ki-tô. “Nhập một” với một vị thày, với một chân sư thăng thiên có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là “hòa điệu” với chân sư đó cho đến khi các con cộng hưởng với rung động, tâm thức, bản thể của chân sư. Đây thực sự là mục tiêu cao nhất của một đệ tử chân sư thăng thiên, là “hòa điệu”. Tôi đã ban cho các con cơ hội để “hòa điệu” với tôi. Đừng tự trách mình nếu các con chưa thể cảm nhận điều này. Các con hãy tiếp tục đi trên con đường và một ngày nào đó các con sẽ có thể lắng nghe một bài truyền đọc và các con sẽ cảm nhận được sự cộng hưởng. Các con thậm chí có thể cảm nhận nó một cách tự phát trong một hoạt động hàng ngày nào đó.

Cuối cùng thì kết quả là gì, kết quả cuối cùng của bầu cõi của các con, bầu cõi chưa thăng thiên này? Điều gì khiến một bầu cõi thăng thiên? Đó là phần lớn các sinh thể trong bầu cõi “hòa điệu” với các chân sư thăng thiên đã tạo ra bầu cõi đó, và do đó, là những đại diện của tâm Ki-tô cho bầu cõi đó. Đó là ý nghĩa của “trên sao dưới vậy”. Có sự cộng hưởng giữa trên và dưới. Sau đó, một bầu cõi thăng thiên. Tương tự với một hành tinh. Phần lớn các sinh thể trên một hành tinh “hòa điệu”, sau đó hành tinh có thể thăng thiên. Các con cá nhân “hòa điệu”. Các con có thể thăng thiên. Với điều này, tôi đã ban cho các con cơ hội để “hòa điệu” với tôi mà tôi muốn ban cho các con.

Tất cả chúng tôi đều biết ơn những người trong các con đã cung cấp nền tảng này bằng việc tổ chức hội nghị một cách thực tế và bằng việc các con có mặt ở đây và sẵn lòng là “cánh cửa mở”. Chúng tôi đã cùng nhau hình thành một “khuôn đúc” mạnh mẽ vượt quá những gì chúng tôi thực sự hy vọng cho hội nghị này. Chúng tôi đã gửi một xung lực mạnh mẽ không chỉ vào tâm thức tập thể của Hàn Quốc, mà còn của toàn thế giới, đặc biệt là những quốc gia mà các con đại diện. Và điều này đã ban cho mọi người, những người sẵn lòng, những người mở lòng, nhạy cảm, một cơ hội để “hòa điệu” với tâm Ki-tô, với rung động cao hơn mà giờ đây họ có cơ hội cảm nhận, ngay cả khi họ không ý thức được điều đó.

Đây là một kết quả, nếu các con muốn gọi nó là như vậy, vô giá cho sự tiến triển của hành tinh này. Vì điều này, tất cả chúng tôi đều biết ơn. Và do đó, đó là đặc ân và niềm vui của tôi khi niêm phong hội nghị này, niêm phong các con trong Ngọn lửa mà Tôi Là, Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, Tôi Là.

17 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Shiva

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Shiva, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Thượng sư Thăng thiên Shiva. Hy vọng điều này không gây ngạc nhiên cho các con. Tôi muốn nói đôi lời về bộ ba thần linh Hindu, Brahma, Vishnu, Shiva. Brahma Đấng Sáng tạo, Vishnu Đấng Duy trì, Shiva Đấng Tiêu diệt. Vâng, có lẽ có một vài giáo lý sâu sắc hơn có thể được ban ở đây. Brahma Đấng Sáng tạo là gì? Ngài không phải là Đấng Sáng tạo tối hậu, Brahman. Nếu Brahman thực sự là Đấng Sáng tạo tối hậu trong thần thoại Hindu, nơi họ có một cái nhìn khác về Brahman so với những gì chúng tôi đã ban cho các con về Đấng Sáng tạo. Nhưng hãy tạm gác điều đó sang một bên. Yếu tố sáng tạo trong thế giới hình tướng là gì? Vâng, đó trước hết là Đấng Sáng tạo, nhưng hơn thế nữa là các sinh thể thăng thiên sau khi các bầu cõi đầu tiên được tạo ra. Trong bầu cõi chưa thăng thiên của các con – các con có thể nói là bầu cõi chưa thăng thiên của chúng ta – yếu tố sáng tạo trước hết là các chân sư thăng thiên trong Bầu cõi thứ Sáu – đối với trái đất, là các Elohim đã tạo ra trái đất. Nhưng các sinh thể tự nhận biết với quyền tự quyết, như các con, những đồng-Sáng tạo, cũng là một phần của Brahma.

Yếu tố duy trì là gì? Vâng, đó thực sự là các chân sư thăng thiên đã tạo ra bầu cõi chưa thăng thiên này vì họ đang nắm giữ viễn quan duy trì nó. Nhưng các con, những đồng-Sáng tạo, cũng là một phần của yếu tố duy trì hình thức hiện tại. Và loài người, với tâm thức thấp kém của họ, là những người đã đưa trái đất xuống dưới bản mẫu nguyên thủy của các Elohim và đang duy trì trái đất trong trạng thái thấp kém đó bằng cách không sẵn lòng thăng vượt tâm thức của mình.

Đấng Tiêu diệt là gì? Vâng, đó là tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô mà trong hình thức phổ quát của nó là bất động, không thể lay chuyển, nhưng trong hình thức thị hiện, trong hình thức biểu đạt của nó, nó mang hình thức của những sinh thể nhập đời trên trái đất và thăng lên một tầng tâm thức cao hơn mức trung bình, qua đó chứng tỏ con đường đến quả vị Ki-tô, Giê-su, Phật, nhiều người khác, và hy vọng là cả các con.

Điều các con thấy ở đây là cái nhìn của người Hindu về Shiva không phải là cái nhìn cao nhất có thể. Nhiều người nghĩ rằng tôi là một vị thần nào đó ở trên cao và một ngày nào đó tôi sẽ đến và tiêu diệt trái đất hoặc tiêu diệt những người mà họ không thích. Nhưng nếu tôi làm điều này với tư cách là một sinh thể thăng thiên, điều đó sẽ vi phạm quyền tự quyết. Yếu tố tiêu diệt trên trái đất là gì? Vâng, đó là những người đã đạt được các tầng tâm thức Ki-tô cao hơn và do đó, trở thành cánh cửa mở cho sự phán xét của Ki-tô và sự thách đố của Ki-tô.

Tiêu diệt thực sự có nghĩa là gì? Tôi đang tiêu diệt cái gì với tư cách là một chân sư thăng thiên, là một biểu hiện của tâm thức Ki-tô, là bản thể nắm giữ ngọn lửa mà người Hindu gọi là sự hủy diệt, nhưng thực ra không phải là sự hủy diệt, mà là sự thăng vượt. Nhưng dù sao đi nữa, tôi đang tiêu diệt cái gì? Tôi đang tiêu diệt con người sao? Tôi đang tiêu diệt toàn bộ trái đất sao? Không, tôi đang tiêu diệt những ảo tưởng, bởi vì điều gì đã biểu hiện những điều kiện hiện tại trên trái đất? Những ảo tưởng mà con người đã phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-Vật thông qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của họ, và những hành động họ đã thực hiện với cơ thể vật lý của họ.

Điều gì có thể thay đổi điều này? Vâng, chỉ khi viễn quan, những hình ảnh, những cái ta mà họ nắm giữ trong bốn thể thấp hơn của họ được thay đổi. Và vì những điều đó dựa trên ảo tưởng, thì những ảo tưởng đó phải bị thách đố. Những ảo tưởng đó phải bị tiêu diệt. Bây giờ có nhiều đệ tử đã đến với giáo lý chân sư thăng thiên và họ đã nghe về con đường đến quả vị Ki-tô và họ đã nghĩ: “À vâng, khi tôi trở thành Ki-tô, tôi có thể ra ngoài và thách đố mọi người. Tôi có thể buộc họ phải thấy sai lầm của họ. Tôi thậm chí có thể đi vào xã hội và thách đố các nhà lãnh đạo, thách đố lớp thượng tôn quyền lực, thách đố những sa nhân.” Và họ trở nên rất ám ảnh cưỡng chế về điều này và một số đã cố gắng làm điều đó và sau đó đã bị “đập dí” bởi những sa nhân, như câu nói thường thấy, và thấy rằng điều đó không hề dễ dàng như vậy. Và đó là vì họ chưa đạt được một tầng quả vị Ki-tô đủ cao trước khi họ làm điều đó, vì vậy họ đã làm điều đó với sự pha màu của tự ngã mang tham vọng tự đặt mình làm một quyền uy có thể làm công việc quan trọng này.

Nhưng khi các con khắc phục tất cả những điều này, khi các con đi qua những giai đoạn mà các chân sư khác đã mô tả và đạt đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, các con không thách đố những ảo tưởng trên trái đất. Nhưng các chân sư thăng thiên có thể, thông qua cánh cửa mở của các con, thách đố. Điều này không có nghĩa là tất cả các con đều có điều đó như một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Sứ vụ Thiêng liêng của các con là riêng biệt. Một số các con có thể tập trung hơn vào khía cạnh sáng tạo. Một số các con thậm chí còn tập trung vào khía cạnh duy trì. Nhưng một số các con tập trung hơn vào Shiva, Đấng Tiêu diệt ảo tưởng. Các con có thể, ngay cả trong cuộc sống hàng ngày của mình, đạt đến một điểm mà các con có thể làm điều này. Không phải là các con chủ động làm điều này bằng tâm vỏ ngoài. Các con chỉ đơn giản là con người mà các con là. Và các con thường thách đố những ảo tưởng của mọi người theo cách tốt nhất có thể – bằng cách chứng tỏ rằng họ không thể kiểm soát các con, họ không thể thao túng các con, họ không thể gây xáo trộn cho các con, họ không thể lay chuyển các con như họ nghĩ rằng họ có thể lay chuyển mọi người. Và khi ai đó gặp các con và nhận ra các con không thể bị lay chuyển, thì họ có thể suy nghĩ lại và họ có thể nhận ra rằng họ có một số ảo tưởng mà các con đã khắc phục.

Và một số có thể được thức tỉnh bởi điều này và hỏi các con làm thế nào các con đạt đến điểm đó. Những người khác có thể trở nên giận dữ hơn. Những người khác có thể tìm cách tránh các con. Nhưng một lần nữa, điều đó không phải là mối bận tâm của các con khi các con đạt đến tầng đó. Các con chỉ đơn giản là cánh cửa mở. Và những gì mọi người làm với nó không phải là mối bận tâm của các con. Việc tấm gương được ban, giáo lý được ban, tấm gương được đặt ra, có nghĩa là mọi người đã được ban một cơ hội. Tôi không cố gắng tiêu diệt ảo tưởng của mọi người một cách cưỡng ép. Thay vì là Đấng Tiêu diệt, tôi là Đấng Giải thoát. Nhưng tôi, tất nhiên, làm việc trong quyền tự quyết, Luật Tự quyết. Bởi vì tôi hiệp một với Tâm thức Ki-tô. Tôi là một khía cạnh của Tâm thức Ki-tô. Nhưng tôi không tiêu diệt ảo tưởng của mọi người nếu họ không sẵn lòng buông bỏ chúng. Và do đó, các con cũng phải tôn trọng điều đó. Và các con sẽ, tất nhiên, khi các con đạt đến những tầng cao hơn của Tâm thức Ki-tô. Nhưng nếu các con vẫn ở tầng thấp hơn này, nơi các con thấy rằng các con có mong muốn thách đố mọi người, thì tôi khuyến khích các con quyết định kìm hãm điều này, tránh ra ngoài và thách đố mọi người. Bởi vì các con sẽ chỉ làm cho bản thân mình khó khăn hơn. Các con sẽ không thực sự giúp đỡ những người này. Và các con cũng có thể tạo nghiệp cho bản thân mình. Chúng tôi đã thấy trong nhiều năm qua, các đệ tử chân sư thăng thiên trở nên quá háo hức trong việc truyền bá giáo lý đến nỗi họ cố gắng ép buộc người khác. Đây không phải là điều chúng tôi khuyến khích các con làm trong đợt truyền giáo này. Nếu các con có thể cảm nhận trong mình rằng các con có một nhu cầu ám ảnh cưỡng chế nào đó để thách đố người khác, thì hãy đưa ra quyết định dừng lại, kìm hãm nó, và thay vào đó hãy tìm kiếm vương quốc Thượng đế trước hết và cách sử dụng đúng đắn các năng lực sáng tạo của các con. Và các con sẽ đạt đến tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, nơi các con không quyết định bằng tâm vỏ ngoài để thách đố mọi người. Nó chỉ đơn giản là đang xảy ra. Và các con chỉ đơn giản là đang quan sát nó xảy ra thông qua các con.

Thực ra tôi không có ý định ban cho các con một bài giảng dài ở đây, chỉ đơn thuần muốn chỉ ra rằng có một khía cạnh của tâm Ki-tô là Đấng Tiêu diệt hoặc Đấng Giải thoát. Và như một phần của điều này, tất nhiên, có toàn bộ khái niệm về sự phán xét của Ki-tô. Bây giờ, điều này một lần nữa thường bị hiểu lầm bởi những người vẫn bị pha màu bởi tự ngã, bởi vì tự ngã mong muốn có quyền lực, hoặc ít nhất là nhiều tự ngã mong muốn điều đó, và vì vậy họ nghĩ rằng: “À, nếu tôi có thể thi hành sự phán xét của Ki-tô, thì tôi có quyền lực đối với những người xấu đang tạo ra tất cả những vấn đề này trên trái đất.” Nhưng các con thấy đấy, đó không phải là cách sự phán xét của Ki-tô hoạt động. Các con không thể mang đến sự phán xét của Ki-tô từ tâm vỏ ngoài. Nếu các con cố gắng với một động cơ dựa trên tự ngã để mang đến sự phán xét của Ki-tô, thì các con sẽ mang đến sự phán xét của Ki-tô, nhưng các con cũng sẽ bị phán xét chính mình.

Một lần nữa, cách duy nhất để trở thành một công cụ cho sự phán xét của Ki-tô là trở nên trung hòa, rằng các con không có ý định, không có kết quả nào các con muốn thấy đạt được. Các con không có bất kỳ phán xét nào rằng những người này là xấu xa, và khi họ nhận được sự phán xét của Ki-tô, họ sẽ bị thiêu rụi bởi lửa. Tôi không nói đùa ở đây. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tưởng tượng điều gì đó như thế này. Thậm chí có những người tâm linh từ các phong trào tâm linh khác hoặc các tôn giáo truyền thống cũng tưởng tượng điều gì đó như thế này. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo cho đến ngày nay, mặc dù họ không xem xét Shiva, họ nghĩ rằng một ngày nào đó Giê-su sẽ trở lại và thiêu rụi bằng lửa tất cả những người đang chống lại giáo hội chân chính của ngài – giáo hội của họ.

Sự phán xét của Ki-tô là sự phán xét của Ki-tô, không phải là sự phán xét của tự ngã. Và không phải là trong tâm Ki-tô có một sự lượng định: “Ồ, những người này là xấu xa.” Ki-tô chỉ đơn thuần là Ki-tô. Ngài là tảng đá bất động của Ki-tô. Và khi ngài được biểu đạt trong thể vật lý hoặc trong thể cảm xúc, lý trí, hoặc bản sắc, không phải là Ki-tô phán xét người khác. Mà là họ được ban một cơ hội. Cơ hội của Ki-tô luôn là: “Con có sẵn lòng để cái ngã tách biệt chết đi để theo Ki-tô vào sự sống đích thực, vào một hình thức sống cao hơn không?”

Và nếu mọi người chọn rằng họ không sẵn lòng đi với Ki-tô, họ muốn bám lấy tự ngã, thì điều đó trở thành sự phán xét của họ. Ki-tô không tiền phán xét ai nên bị loại bỏ khỏi trái đất và ai nên được phép ở lại. Ki-tô trình bày cho mọi người một sự chọn lựa, sự cần thiết phải chọn lựa, và sau đó chính những chọn lựa của mọi người sẽ quyết định. Một số người, đặc biệt là những sa nhân, đã xoay xở để trì hoãn, để hoãn lại sự phán xét của Ki-tô. Và điều này cũng được phép nếu đủ người theo những sa nhân này.

Và làm thế nào một sa nhân có thể bị phán xét? Vâng, một người ở tầng tâm thức thứ 48 không thể mang sự phán xét của Ki-tô đến một sa nhân. Chỉ khi các con đạt đến những tầng cao hơn của tâm thức Ki-tô, các con mới có thể là công cụ của sự phán xét một sa nhân. Và điều này có thể xảy ra với một vài trong số các con, không nhiều, nhưng nó có thể xảy ra. Và đó là khi một sa nhân đã trì hoãn sự phán xét của Ki-tô gặp Ki-tô hằng sống trong hiện thân và do đó, không thể phủ nhận thực tại của Ki-tô và do đó, phải đưa ra chọn lựa để đi với Ki-tô cao hơn hoặc bám víu vào tự ngã và đi thấp hơn, cuối cùng đi thấp đến mức không thể tồn tại trong hiện thân trên trái đất.

Điều tôi muốn nói ở đây về cơ bản là, đừng với tâm vỏ ngoài của các con bận tâm về sự phán xét của Ki-tô hoặc trở thành công cụ của sự phán xét của Ki-tô. Hãy tìm kiếm vương quốc Thượng đế trước hết, cụ thể là tầng tâm thức Ki-tô cao nhất mà các con có thể đạt được, và sau đó nếu nó xảy ra, nó sẽ xảy ra, và nếu nó không xảy ra, nó sẽ không xảy ra. Các con không dính mắc bằng mọi cách. Các con trung hòa. Các con, tự bản thân mình, không thể làm gì.

Đây là những gì tôi muốn ban cho các con ở đây. Tôi cảm ơn các con vì sự sẵn lòng của các con để trở thành cánh cửa mở cho thông điệp này, và tôi niêm phong các con trong ngọn lửa thăng vượt mà tôi nắm giữ cho trái đất. Thượng sư thăng thiên Shiva, TA LÀ.

16 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Sanat Kumara

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Sanat Kumara, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi LÀ Chân sư thăng thiên Sanat Kumara. Một số người đã gọi tôi là Cổ nhân Thời đại. Một số người đã gọi tôi là Thanh niên Vĩnh cửu. Vậy, tôi là ai? Con có thể là cả hai không? Vâng, trong mắt con người, con có thể. Tất nhiên, con có thể nói rằng tôi không phải là một dòng sống mới. Nhưng mặt khác, tôi đã thăng thiên từ bầu cõi này, vì vậy tôi không cổ xưa như một số chân sư thăng thiên trước tôi. Nhưng mặt khác, tôi là thanh niên vĩnh cửu vì tôi đã thăng thiên như thế nào? Tôi thăng thiên bằng cách thể nhập một khía cạnh của tâm thức Ki-tô và chính khía cạnh đó làm cho mọi thứ trở nên mới mẻ.

Giờ đây, con hãy xem Giê-su đã nói: “Trừ khi các con trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không bao giờ vào được vương quốc.” Và ý nghĩa của nó, tất nhiên, là đối với trẻ em mọi thứ đều mới mẻ. Mọi thứ đều thú vị. Và tôi đã tập trung vào khía cạnh đó của tâm thức Ki-tô trước khi tôi thăng thiên, và tôi đã thể nhập nó, và đó là điều đã đưa tôi đến trạng thái thăng thiên. Tôi luôn cởi mở với những điều mới mẻ và tôi tránh phẩm chất đối lập, nơi con trở nên tinh xảo. Con biết mọi thứ. Con đã nắm rõ mọi thứ. “Không có gì mới dưới ánh mặt trời.” “Tôi đã kiểm soát được điều này.” Đây là điều mà các sa nhân cảm thấy. Họ đã nắm rõ mọi thứ. Nhưng như Maitreya đã nói: “Tất cả chỉ là một ảo ảnh được tạo ra trong tâm.” Và nó chỉ có vẻ thật đối với tâm đã quá mất kết nối với tâm Ki-tô đến nỗi nó thậm chí không tìm kiếm điều gì mới mẻ, bởi vì nó coi trọng việc kiểm soát trên hết.

Làm thế nào để con thăng thiên? Chà, có vẻ như những bài truyền đọc sau này chúng tôi đang ban ra đã thăng vượt mục đích của hội nghị này là làm Ki-tô trong đời sống thường nhật. Chúng tôi thừa nhận rằng những gì Maitreya đã ban cho con là một giáo lý có thể không có nhiều ứng dụng thực tế trong đời sống thường nhật của con, vì vậy tôi sẽ cố gắng làm cho giáo lý của tôi thực tế hơn một chút. Và về cơ bản, nó có thể được nói là thế này—hãy ngừng coi mình quá nghiêm trọng.

Con thấy đó, có một điểm trên đường tu quả vị Ki-tô nơi con cần lùi lại và nói: “Con đường này là gì? Cho đến nay mình đã tiếp cận con đường này như thế nào?” Và nhiều con sẽ thấy rằng con đã tìm thấy giáo lý, con đã trụ vững vào những gì giáo lý nói đến, ít nhất là theo cách con có thể thấy vào thời điểm đó. Sau đó con đã quyết định cống hiến mình cho con đường. Và bây giờ, như đã xảy ra với vị sứ giả này, con trở nên gần như bị ám ảnh cưỡng chế về việc làm mọi thứ đúng đắn, theo cách con có thể thấy. Con muốn đọc tất cả các bài chú và bài thỉnh. Con muốn đọc tất cả các bài truyền đọc. Con muốn đi dự hội nghị. Con muốn nghiên cứu tất cả những điều này và đồng thời, con có một đời sống thường nhật.

Con không thể chỉ tập trung toàn bộ cuộc đời và sự chú ý của con vào giáo lý, ít nhất là không phải đối với hầu hết các con. Nhiều con có con cái. Con có việc làm. Con có nghĩa vụ. Vì vậy, con xây dựng căng thẳng mà những người tâm linh đã trải nghiệm qua các thời đại, và điều đó đã trở thành truyền thống ở phương Đông, rằng để thực sự tâm linh, con phải từ bỏ thế giới và rút lui khỏi thế giới. Và một lần nữa, chúng tôi không đổ lỗi cho bất cứ ai.

Khi chúng tôi nhìn lại qua các thời đại trên hành tinh Trái đất, chúng tôi có thể thấy, và chúng tôi đã trải nghiệm, những người trong chúng tôi đã hiện thân trên trái đất hoặc trên các hành tinh khác, rằng rất khó trên một hành tinh phi tự nhiên để cân bằng tăng trưởng tâm linh và đời sống thường nhật. Đó là một thách thức to lớn. Nhưng chúng tôi cũng thấy rằng trong Thời đại Bảo bình, chúng ta đang bước vào một thời đại mà không phải là lý tưởng rằng hầu hết những người tâm linh rút lui khỏi thế giới. Ngược lại, lý tưởng là mọi người ở lại thế giới, ít nhất là hầu hết trong số họ, và họ thể hiện tâm linh của mình trong đời sống thường nhật. Họ không tách biệt hai điều đó. Làm thế nào điều này có thể đạt được?

Vâng, điều con có thể thấy trong chính mình, đối với nhiều con, là sau khi con cống hiến mình cho con đường, con đã trải nghiệm căng thẳng này. Đó là một phần lý do tại sao, như những người khác đã nói, con trở nên căng thẳng hơn sau khi con cống hiến mình cho con đường bởi vì con bị kéo theo hai hướng khác nhau và con cảm thấy có sự căng thẳng này giữa đời sống thường nhật và tăng trưởng tâm linh. Kết quả của căng thẳng này là gì? Đó là nhiều con bắt đầu coi mình và con đường rất nghiêm trọng. Một lần nữa, chúng tôi không đổ lỗi cho con. Hãy lưu ý những gì chúng tôi luôn nói: “Những người trong chúng tôi đã hiện thân trên trái đất đã trải nghiệm những gì con đang trải nghiệm.” Và tất cả chúng tôi, tại một thời điểm nhất định, đã trở nên quá nghiêm túc về tăng trưởng tâm linh.

Giờ đây, con có thể nói rằng khi con đang di chuyển từ mức 48 lên mức 96, con cần có đủ sự cống hiến để con có thể kéo mình lên trên tâm thức tập thể, và do đó con cần có một sự cống hiến nhất định, một sự tập trung nhất định, một kỷ luật nhất định. Và con cần đặt ra những ưu tiên nhất định để con nhận ra điều gì quan trọng hơn đối với con trong cuộc sống. Bởi vì theo một nghĩa nào đó, khi con đặt ra các ưu tiên của mình, sẽ dễ dàng hơn để nói: “Chà, đây là những nghĩa vụ của tôi trong đời sống thường nhật, và đây là các hoạt động tâm linh của tôi và tôi đã quyết định một sự cân bằng nhất định giữa chúng, và tôi duy trì điều đó.” Nhưng dù sao đi nữa, hiệu ứng đối với hầu hết mọi người là con coi mình rất nghiêm túc. Con coi con đường tâm linh rất nghiêm trọng. Nhưng đây cũng là một đường xâm nhập để tự ngã nhuộm màu cái nhìn của con về con đường.

Con càng coi mình nghiêm túc trên con đường, tự ngã càng có thể ảnh hưởng đến con. Về vấn đề đó, ngay cả các sa nhân cũng có một khả năng nhất định để phóng chiếu điều gì đó vào tâm trí con khi con coi mình rất nghiêm túc bởi vì họ, tất nhiên, là những ví dụ tối hậu về những sinh thể coi mình quá nghiêm trọng đến nỗi con thậm chí không thể thực sự tưởng tượng được. Hầu hết các con chưa từng chạm trán những sa nhân có tâm thức thấp nhất và con không cần phải. Nhưng tôi chỉ nói với con rằng nếu con có thể thấy tâm thức của họ, con sẽ không tin được họ nghiêm túc về bản thân họ đến mức nào, họ cảm thấy mình quan trọng đến mức nào, họ quan trọng một cách cuồng đại đến mức nào, và họ nghĩ rằng ngay cả chính Thượng đế cũng đang theo dõi họ và đi nhón chân xung quanh họ, và lo lắng về quyền năng của họ. Đây là điều họ tin—rằng họ đã đạt được một quyền năng ở đây trên trái đất, rằng Thượng đế sợ rằng quyền năng của họ sẽ lớn hơn của Ngài. Và điều đó có lẽ đúng đối với vị Thượng đế giả mà họ đã tạo ra. Ngài có thể lo lắng về họ. Nhưng Đấng Sáng tạo thật, tất nhiên, thì không.

Nhưng vì vậy, đến một điểm đó, chắc chắn là khi con di chuyển vượt mức 96, nhưng nó thậm chí sẽ giúp con nhận ra điều này trước khi con đạt đến mức 96, nơi con cần nhìn vào điều này và nói: “Mình có quá nghiêm túc không? Tại sao mình lại nghiêm túc đến vậy?” Chà, đó là bởi vì con đã gán một tầm quan trọng cuồng đại nào đó cho con đường tâm linh nói chung và cho sự tinh tiến cá nhân của con trên con đường đó. Con đã định nghĩa một mục tiêu cho sự tăng trưởng tâm linh của con có một tầm quan trọng cuồng đại nào đó đối với con ít nhất, nhưng con thậm chí có thể nghĩ rằng nó có tầm quan trọng cuồng đại đối với các chân sư thăng thiên. Đây thực sự là một trong những lý do chính tại sao mọi người có thể đạt đến mức 96, thất bại trong khai ngộ buông bỏ trọng tâm vào bản thân, và do đó, bắt đầu đi xuống trở lại nơi họ giờ đây tìm cách nâng cao cái ngã tách biệt lên một địa vị tâm linh tối hậu nào đó.

Con chỉ coi mình quá nghiêm trọng, hay đúng hơn, cái ngã tách biệt coi mình quá nghiêm trọng. Bởi vì một lần nữa, cái Ta Biết là gì? Vâng, đó là nhận biết thuần khiết, nhận biết trung hòa. Có bất kỳ chỗ nào trong nhận biết thuần khiết để ít nghiêm túc hơn không? Chỗ đó sẽ ở đâu? Nghiêm túc chỉ có thể ở trong một cái ngã. Nó có thể không phải là một cái ngã nhị nguyên. Nó có thể là cái ngã tâm linh đã đưa con đến gần mức 96. Nhưng nếu cái ngã đó bắt đầu coi mình quá nghiêm trọng, thì nó không thể thấy rằng nó chỉ là một cỗ xe, giống như phần dưới của một tên lửa, nhằm đưa con đến một độ cao nhất định, và sau đó nó phải rơi xuống để con có thể bay cao hơn. Và nếu cái ngã tâm linh đó không sẵn lòng rơi xuống, mờ dần, thì nó có thể có một lực kéo như vậy đối với cái Ta Biết, nếu cái Ta Biết không nhận ra nhu cầu này là phải ngừng nghiêm túc đến vậy.

Chân sư More có một kiếp trước nơi Ngài đã đặt ra cụm từ: “Ác quỷ, linh hồn kiêu ngạo, không thể chịu được sự chế nhạo. Con cười ác quỷ và nó bỏ đi.” Có một sự thật sâu sắc ở đây. Các sa nhân rất kiêu hãnh. Họ coi mình rất nghiêm trọng. Họ mong đợi rằng mọi người khác sẽ coi họ nghiêm túc như họ coi mình. Khi họ chạm trán một người không coi họ nghiêm túc, người đang cười nhạo họ, hoặc người đang chứng tỏ rằng anh ta sẽ không phục tùng họ, anh ta sẽ không bị họ quấy rầy, anh ta sẽ không chiến đấu với họ, thì họ không biết phải làm gì.

Con cần đạt đến điểm đó nơi con không còn coi các sa nhân nghiêm trọng nữa. Nhưng làm thế nào con có thể đạt đến điểm đó nếu con coi mình nghiêm trọng? Bởi vì sau đó con nghĩ rằng điều đó rất quan trọng là con phát triển để con có thể làm điều gì đó quan trọng một cách cuồng đại cho các chân sư để giải phóng hành tinh khỏi các sa nhân hoặc bất cứ điều gì con có thể nghĩ.

Có vô số cách mà những người tâm linh có thể định nghĩa một tầm quan trọng cuồng đại nào đó cho con đường của họ. Như vị sứ giả đã giải thích, anh ta đã đạt đến một điểm mà anh ta thấy rằng cách tiếp cận con đường tâm linh của anh ta đã bị tự ngã nhuộm màu và một phần của nó là điều này—anh ta đã coi mình quá nghiêm trọng vì anh ta nghĩ rằng việc anh ta tiến bộ trên con đường có tầm quan trọng cuồng đại nào đó đối với tương lai của hành tinh và đối với sự nghiệp của các chân sư thăng thiên. Và anh ta đã nhận ra điều này, sự vô ích, phù phiếm của điều này và anh ta một phần nhận ra điều này bởi vì anh ta đã có đủ kinh nghiệm nội tâm với tâm thức của một chân sư thăng thiên để anh ta nhận ra rằng một chân sư thăng thiên giống như tảng đá của Ki-tô.

Con có thể, với tâm vỏ ngoài của con, với tự ngã của con, phóng chiếu tất cả các loại điều lên các chân sư thăng thiên. Rằng con đang làm điều quan trọng một cách cuồng đại này và rằng con đang hy sinh tất cả những điều này vì lợi ích của các chân sư và do đó, các chân sư chắc chắn phải một ngày nào đó công nhận con nhưng điều đó không ảnh hưởng đến chúng tôi với tư cách là những sinh thể thăng thiên. Chúng tôi là tảng đá của Ki-tô. Chúng tôi sẽ không bị lay chuyển bởi tự ngã của con, bất kể tự ngã của con nghĩ gì. Và khi con sẵn lòng trải nghiệm điều này, để thừa nhận điều này, con có thể thấy sự vô ích của việc nghĩ rằng tự ngã của con có thể xây dựng một ý niệm quan trọng nào đó mà chúng tôi sẽ tôn trọng. Và sau đó con có thể buông bỏ nó. Và sau đó con có thể, như vị sứ giả đã mô tả, thực sự chạm trán Hiện diện của các chân sư thăng thiên. Và con thực sự có thể có một viễn quan về những gì con thực sự có thể làm cho chúng tôi khi con không làm điều đó từ tự ngã, tùy thuộc vào những gì trong Kế hoạch Thiêng liêng cá nhân của con.

Điều con thấy ở đây là, như chúng tôi đã nói trước đây, nhiều đệ tử tâm linh có một viễn quan khá tốt về những gì cần được hoàn thành trong cuộc đời của họ, nhưng họ thiếu viễn quan về cách nó có thể được hoàn thành. Con thực sự có thể có một viễn quan chính xác rằng trong kiếp sống này con có tiềm năng làm điều gì đó trong xã hội hoặc làm điều gì đó cho các chân sư thăng thiên, nhưng tự ngã của con đã nhuộm màu cách con nghĩ điều này sẽ xảy ra bởi vì con nghĩ con có thể làm điều đó thông qua tâm vỏ ngoài và tự ngã. Và khi con buông bỏ điều đó, khi con nhận ra nó không thể được thực hiện thông qua tự ngã, trên thực tế, con không thể làm điều đó, bởi vì như Giê-su đã nói: “Tôi không thể tự mình làm gì cả. Đấng Cha ở trong tôi là Đấng làm.”

Ai là Đấng Cha ở bên trong? Vâng, đó là tâm Ki-tô. Đó là Hiện diện TA LÀ của con. Đó là các chân sư thăng thiên. Đó là Đấng Cha ở bên trong. Và khi con nhận ra, tôi không thể tự mình làm gì cả, không có gì đáng giá, không có gì sẽ đưa trái đất lên tâm thức cao hơn, vì mọi thứ tôi làm mà bị tự ngã nhuộm màu chỉ phục vụ để củng cố tâm thức đang giam hãm hành tinh. Và chỉ khi tôi buông bỏ ý niệm này rằng tôi, với tư cách là một cái ngã tách biệt, có thể làm điều gì đó có giá trị theo nghĩa tâm linh, thì con mới thực sự có thể bắt đầu hoàn thành Kế hoạch Thiêng liêng của con bởi vì con không phải là người làm điều đó, mặc dù con là người làm điều đó từ một góc nhìn khác. Nhưng cái ngã vỏ ngoài, cái con vỏ ngoài không làm điều đó mà cái Ta Biết đang là cánh cửa mở bằng cách trung hòa. Và nếu con trung hòa, con có thể coi mình nghiêm túc không? Con có thể nghiêm túc không? Không thể được. Tôi không nói ở đây rằng con cần nói: “Ồ, mình sẽ bắt đầu pha trò mọi lúc. Mình sẽ bắt đầu vui vẻ. Mình sẽ bắt đầu làm tất cả những điều thú vị này để mình có thể mềm mỏng hơn.” Không thực sự cần thiết cho tất cả các con. Nó có thể cần thiết cho một số con.

Có một câu chuyện cũ kể rằng có một người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh nan y và các bác sĩ cho biết ông chỉ còn sống ba tháng. Ông thuê tất cả các bộ phim hài hước mà ông có thể tìm thấy và xem chúng cả ngày và cười và cười và cười và sau ba tháng, bệnh của ông cũng biến mất. Vâng, đối với một số con, có thể hữu ích khi cố tình làm điều gì đó hài hước hơn, vui hơn, tinh nghịch hơn. Nhưng không phải đối với tất cả các con, bởi vì thực sự mục tiêu là trở nên trung hòa. Con có thể đã nghiêng rất xa về phía quá nghiêm túc. Con có thể cần đi về phía đối diện là chế nhạo mọi thứ, coi nhẹ mọi thứ, nhưng mục tiêu thực sự là trở lại trạng thái trung hòa đó bởi vì Ki-tô là trung hòa. Trung hòa. Không phải là điểm giữa của hai đối cực nhị nguyên, mà là trung hòa trong việc vượt ra ngoài toàn bộ thang đo nhị nguyên.

Một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô gắn liền với việc không quá nghiêm túc này là con, theo một nghĩa nào đó, khi con phát triển trong quả vị Ki-tô, con trở nên trung thực hơn. Tôi không có ý rằng con không còn nói dối hay lừa gạt người khác, bởi vì con phải từ bỏ điều đó trước khi con vượt qua mức 96. Nhưng ý tôi là con trở nên trung thực hơn theo nghĩa con không cố gắng che giấu mình sau một mặt nạ. Tự ngã luôn muốn che giấu mình. Nó luôn muốn khoác vào một mặt nạ để ngụy trang mình là vô hại và khi con đi trên con đường tâm linh từ mức 48 đến mức 96, con đang xây dựng ý niệm bản ngã tâm linh này. Và theo một nghĩa nào đó, nó cũng là một mặt nạ mà con khoác vào, một vẻ ngoài. Và con đang che giấu điều gì đó đằng sau nó. Con không thực sự muốn phơi bày mình.

Nhiều con sẽ nhận ra điều này trong chính mình cách con ngại nói về những niềm tin tâm linh của con. Con ngại ra ngoài kia và phơi bày mình trước sự chỉ trích của mọi người. Một lần nữa, chúng tôi không đổ lỗi cho con, chúng tôi chỉ chỉ ra một giai đoạn mà tất cả chúng ta đều trải qua. Nhưng khi con đi cao hơn trong quả vị Ki-tô, con trở nên trung thực hơn theo nghĩa là khi con trở nên trung hòa hơn, khi con ngừng coi mình quá nghiêm trọng, tại sao con cần che giấu? Con cần che giấu điều gì?

Khi con buông bỏ những cái ngã này, con càng ngày càng ít phải che giấu. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng có những người nghĩ rằng khi con trở thành Ki-tô, con trở thành một nhân cách rất mạnh mẽ, một nhân cách độc đoán luôn đúng, luôn có câu trả lời và có thể nói với người khác cách mọi thứ nên được thực hiện. Nhưng trong thực tế, khi con phát triển lên các mức cao hơn của quả vị Ki-tô, con trở nên ngày càng trong suốt. Con càng ngày càng ít có một nhân cách vỏ ngoài. Điều này có nghĩa là cá thể của Hiện diện TA LÀ của con có thể bắt đầu tỏa sáng xuyên qua con. Nhưng đây không phải là nhân cách vỏ ngoài bởi vì con, thay vì trở thành người mạnh mẽ này, con chỉ trở nên trong suốt.

Con dính mắc vào điều gì khi con trung hòa? Không có gì. Có chỗ nào trong sự trung hòa cho những dính mắc không? Hãy hỏi Đức Phật và con nghĩ Ngài sẽ nói gì? “Tôi không thấy chỗ nào trong tôi cho những dính mắc.” Và khi con trở nên trong suốt thì con không thấy chỗ nào trong con. Và đó là lúc ông hoàng của thế gian đến, và hắn nắm lấy, và hắn nhìn, và hắn cố gắng thúc ép con và cám dỗ con, và đủ thứ nhưng không có gì hắn có thể nắm giữ được. Hắn không có gì trong con. Làm thế nào ông hoàng của thế gian có thể không có gì trong con trừ khi con trở nên trong suốt? Chừng nào con còn tìm cách che giấu điều gì đó, ông hoàng của thế gian có điều gì đó trong con bởi vì hắn sẽ hoặc đe dọa phơi bày những gì con đang tìm cách che giấu, hoặc hắn sẽ đề nghị giúp con che giấu nó và dù bằng cách nào hắn cũng có điều gì đó trong con.

Điều con có thể nói ở đây là vâng, chắc chắn có một giai đoạn trên con đường nơi con cần có sự cống hiến. Con cần có kỷ luật. Con cần tập trung. Con cần có một mục tiêu để con không bị kéo theo mọi hướng bởi tâm thức đại chúng. Nhưng khi con vượt qua mức 96 đó, con cần chuyển đổi nơi con đường giờ đây trở nên tinh nghịch. Con có một cách tiếp cận tinh nghịch đối với con đường thay vì một cách tiếp cận nghiêm túc. Con có thể nói rằng con không thể làm việc để vào thiên đường, nhưng con có thể chơi để vào thiên đường.

Chúng tôi đã nói về quá trình mà con bắt đầu từ cái Ta Biết—bắt đầu từ mức 144. Con khoác vào một ảo tưởng. Những ảo tưởng con khoác vào ở những mức cao hơn này thực sự là điều giúp con nhìn thấy mình như một sinh thể có thể hiện thân trên trái đất—một hành tinh dày đặc. Và để hiện thân trên trái đất, các điều kiện trên trái đất phải trở nên có vẻ thật đối với con, và khi chúng trở nên có vẻ thật đối với con, chúng cũng trở nên có vẻ quan trọng đối với con. Bởi vì chỉ khi chúng có vẻ quan trọng đối với con, con mới thấy đáng giá để hiện thân trên một hành tinh như vậy bởi vì con nghĩ có điều gì đó quan trọng con có thể làm ở đây.

Khi con vượt qua mức 96 đó và bắt đầu đi vào những cõi cao hơn này khi con loại bỏ ngày càng nhiều những ảo tưởng này, đột nhiên, cảm nhận về thực tại của con bắt đầu thay đổi. Những gì con thấy trên trái đất hoặc thậm chí những gì con chạm trán trong đời sống thường nhật của con, có vẻ ngày càng ít thật hơn. Giờ đây, điều này hơi thách thức trong một thời gian, và con gần như có thể trải qua một giai đoạn tâm thần phân liệt nơi con cảm thấy như: “Có điều gì là thật không?” Và con có thể có xu hướng gần như muốn rút mình khỏi đời sống thường nhật bởi vì nó dường như không còn thật nữa, nó dường như không còn quan trọng nữa. Nhưng có một sự cân bằng cần được tìm thấy ở đây. Đó là, chừng nào con còn hiện thân, những điều kiện con chạm trán trong đời sống thường nhật của con có một thực tại nhất định, có một tầm quan trọng nhất định.

Chỉ là khi con đạt đến mức độ trong suốt của quả vị Ki-tô đó, con thấy rằng vâng, có những điều kiện vật lý con chạm trán trên trái đất, có những người con chạm trán. Tất nhiên họ quan trọng. Tất nhiên, mối quan hệ của con với họ là quan trọng. Nhưng nó không định nghĩa con. Nó không sở hữu con. Nó không kiểm soát con. Và điều đó có nghĩa là con giờ đây có thể tham gia vào đời sống thường nhật mà không coi nó quá nghiêm trọng. Con có thể tinh nghịch hơn trong đời sống thường nhật. Con có thể vui vẻ hơn. Con có thể giúp người khác vui vẻ hơn và không quá nghiêm túc. Con thường có thể học cách giải quyết xung đột ngay cả giữa những người khác bằng cách có cái nhìn trung hòa đó, cách tiếp cận tinh nghịch, ngây thơ đó.

Cần phải nghiêm túc trong một thời gian nhưng nếu con nghĩ con nên nghiêm túc suốt con đường lên đến thăng thiên của con, con chỉ đang làm cho mình khó khăn hơn nhiều. Tôi không nói rằng nó không thể được thực hiện. Con thấy rằng Giê-su khá nghiêm túc trong ba năm cuối sứ vụ của Ngài. Và thậm chí trong một đợt truyền giáo trước đây đã có người nói rằng Giê-su không mỉm cười trong toàn bộ kiếp hiện thân đó. Tuy nhiên, điều đó không đúng, như Mẹ Mary có thể nói với con, bởi vì Ngài là một đứa trẻ như mọi đứa trẻ khác, và Ngài chơi như trẻ em làm, và Ngài cười như trẻ em làm. Nhưng dù sao đi nữa, khi Ngài cảm thấy sự nghiêm túc của sứ vụ của Ngài, đặc biệt là ba năm cuối, Ngài đã trở nên nghiêm túc hơn và không có gì đáng trách cho điều này. Nhưng con cũng thấy rằng Ngài đang treo trên thập tự giá, và Ngài không thể xuống, và Ngài không thể chết.

Ngài bị mắc kẹt trong vùng đất không người, và chỉ khi Ngài thay đổi tâm trí và thấy rằng vẫn còn một hồn ma mà Ngài phải buông bỏ, mà Ngài phải từ bỏ—và chỉ khi Ngài từ bỏ hồn ma đó—thì Ngài mới có thể tiếp tục. Và có thể xảy ra là con có thể lên một mức tâm thức khá cao, chắc chắn vượt mức 96, và con vẫn giữ mình trong trạng thái treo lơ lửng này, vùng đất không người này, thế kẹt lưỡng nan này, bởi vì có điều gì đó con chưa thấy và do đó, con không thể buông bỏ nó. Và càng sớm trên con đường của con, con càng có thể học cách cười nhạo bản thân thì con sẽ càng dễ dàng hơn.

Tất nhiên, ngay cả ở mức 48, con cũng có thể học cách cười nhạo bản thân và nếu con có thể cười nhạo bản thân, tự ngã không có nhiều quyền kiểm soát con. Các tà lực cũng không, bởi vì con thấy khi con có thể cười nhạo bản thân, con đang đẩy tự ngã của con vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tự ngã muốn ảnh hưởng đến con, nhưng nó chỉ có thể ảnh hưởng đến con bằng cách phơi bày chính nó cho con ít nhất trong một khoảnh khắc ngắn ngủi và nếu tự ngã cảm thấy có nguy cơ rằng bằng cách phơi bày chính nó con sẽ cười nhạo nó, tự ngã sẽ suy nghĩ kỹ.

Tương tự với ác quỷ và các tà lực. Chúng không thể chịu được sự chế nhạo, vì vậy nếu chúng cảm thấy có nguy cơ bị chế nhạo, chúng có thể nói, “Tại sao chúng ta không bỏ qua gã này? Nhìn người khác ở đằng kia đang coi mình rất nghiêm túc. Chúng ta hãy đến với anh ta thay vì.” Và đó không phải là một nơi tồi tệ để ở trên một hành tinh như Trái đất.

Làm thế nào tôi hội đủ tư cách để thăng thiên? Vâng, bằng cách trở nên hoàn toàn trong suốt đối với các thế lực của thế giới này. Chúng không có gì trong tôi bởi vì không có gì trong tôi mà tôi coi trọng. Và thực sự, điều gì ngăn cản con trải qua cùng một sự chuyển đổi đó, được tái sinh bởi Ki-tô bởi vì con sẵn lòng từ bỏ cuộc đời của con với tư cách là một đệ tử tâm linh nghiêm túc để được tái sinh với tư cách là một đệ tử tâm linh tinh nghịch.

Tôi muốn nói vài lời ở đây về giáo lý cũ rằng tại một thời điểm nào đó trong quá khứ xa xăm 144.000 linh hồn từ Sao Kim đã chọn hiện thân trên Trái đất. Những linh hồn này, theo định nghĩa chúng tôi đã đưa ra, là avatar theo nghĩa rằng Sao Kim đã thăng thiên lên một mức cao hơn Trái đất và do đó các giáo lý chúng tôi đã ban ra về avatar có thể được áp dụng bởi tất cả những sinh thể vẫn còn hiện thân này. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập kỷ đã có cảm nhận nội tâm mạnh mẽ này rằng họ đến từ Sao Kim cùng với Sao Kim và tôi—Chân sư Nữ thần Sao Kim và tôi—và nếu con có cảm nhận đó, thì hãy áp dụng những giáo lý này về các avatar và con sẽ tiến bộ vượt bực. Tôi cũng muốn nói rằng trước khi 144.000 linh hồn này đến từ Sao Kim và trước khi các avatar khác đến từ các hành tinh tự nhiên, tất cả các con đều có một đặc điểm nhất định.

Giờ Maitreya đã nói về cách con có cái nhìn lạc quan này rằng con có thể đối phó với những thách thức trên trái đất. Vâng, đó là gì? Đó thực sự là một cảm giác không coi mình quá nghiêm trọng. Con tinh nghịch, con nghĩ: “À… chúng ta có thể chơi theo cách của mình trên trái đất. Bất cứ điều gì chúng ta gặp phải trên trái đất, chúng ta có thể chơi theo cách của mình để thoát khỏi nó.” Con thấy đó, bởi vì con không coi mình quá nghiêm trọng nên con không coi trái đất và nhị nguyên quá nghiêm trọng. Và điều này theo một nghĩa nào đó là điều đã đưa con vào cái bẫy trong tâm trí con nơi, sau khi con bị phơi bày trước chấn thương nhập đời này, con bắt đầu coi mình quá nghiêm trọng hay đúng hơn con đã tạo ra tự ngã coi mình quá nghiêm trọng.

Con có thể nói rằng điều đã đưa con vào mớ hỗn độn này là sự tinh nghịch của con nhưng thay vì đổ lỗi cho bản thân hoặc thay vì nói: “Ồ, tinh nghịch là sai, mình đáng lẽ phải nghiêm túc hơn”, con chỉ cần thực hiện một sự chuyển đổi đơn giản và nói: “Chà, điều đã đưa con vào một mớ hỗn độn cũng có thể đưa con thoát khỏi mớ hỗn độn.” Có thể chính sự tinh nghịch của con đã đưa con vào trạng thái tâm trí hiện tại của con, nhưng sự tinh nghịch của con cũng có thể đưa con thoát khỏi nó. Nhưng con cần thực hiện một sự chuyển đổi ở đây và nhận ra rằng thách thức trung tâm trên một hành tinh như trái đất chính xác là điều này—con có một cái nhìn nhất định, một thái độ nhất định đối với cuộc sống và đối với bản thân trước khi con đến đây.

Khi con đến đây, con trải nghiệm cú sốc này rằng mọi thứ không như con nghĩ và do đó, con giờ đây, mà không thực sự ý thức được điều này, con đang quyết định, ví dụ: “Mình đã không đủ nghiêm túc về trái đất. Mình quá tinh nghịch và đó là điều đã đưa mình vào mớ hỗn độn này mà mình đang mắc phải với chấn thương nhập đời này và những sa nhân này. Mình sẽ không bao giờ tinh nghịch nữa. Quá tinh nghịch là một vấn đề.”

Con thấy cách con phủ nhận chính điều đã đưa con đến trái đất. Con đang nghĩ: “Ồ, nó sai, nó mất cân bằng, nó quá nhiều, mình đáng lẽ phải nghiêm túc hơn.” Và do đó, con giờ đây không thể sử dụng chính phẩm chất đó để thoát khỏi mớ hỗn độn, để chơi theo cách của con để thoát khỏi mớ hỗn độn. Con nghĩ: “Mình đã chơi để vào đó.” Nhưng con đã không chơi theo cách của con để vào mớ hỗn độn trên trái đất. Các sa nhân đã tấn công con theo cách hung hãn và tàn bạo nhất. Con đã không chơi theo cách của con để vào mớ hỗn độn, nhưng con có thể chơi theo cách của con để thoát khỏi nó bằng cách không coi các sa nhân nghiêm trọng, bằng cách không coi tự ngã của con nghiêm trọng, bằng cách không coi ý niệm bản ngã của con nghiêm trọng.

Con thấy đó, chính phẩm chất đã đưa con đến đây cũng chính là phẩm chất có thể đưa con thoát khỏi đây khi con tái đón nhận nó, tái nối kết với nó, và chấp nhận rằng đây là tiềm năng tốt nhất của con để thoát khỏi mớ hỗn độn. Ai sẽ nghĩ rằng một mớ hỗn độn không thể tin được như con thấy trên hành tinh này mà con có thể chơi theo cách của con để thoát khỏi nó. Nhưng khi con trụ vững vào tâm Ki-tô và giáo lý của Giê-su rằng trừ khi con trở nên như trẻ nhỏ, con thấy rằng cách duy nhất để thoát ra ở một mức độ nhất định là chơi theo cách của con để thoát ra bằng cách không quá nghiêm túc về nó bởi vì nếu con có thể cười nhạo nó, nó có còn thực tại đó không, nó có còn quyền năng đó đối với con không?

Tất nhiên là không. Nói cách khác, hãy ngừng đổ lỗi cho bản thân vì đã không đủ nghiêm túc trước khi con đến đây. Sự thiếu nghiêm túc của con trên một hành tinh tự nhiên không phải là vấn đề. Sự nghiêm túc con đã phát triển sau khi con đến trái đất là một vấn đề. Làm thế nào con thoát khỏi sự nghiêm túc thái quá mà con có trên trái đất? Bằng cách tái nối kết với sự tinh nghịch và chơi theo cách của con suốt chặng đường về nhà. Cho dù đó là Sao Kim, hay một hành tinh khác, hay con đã sẵn sàng gọi cõi thăng thiên là nhà của con. Cứ chơi theo cách của con đến đó.

Với điều này, đây là trò chơi lớn của tôi ở đây, niềm vui lớn của tôi khi tương tác với con và tôi giờ đây sẽ tự chơi theo cách của mình trở lại cõi thăng thiên mà tôi chưa bao giờ thực sự rời khỏi ngay từ đầu vì có thể có bất kỳ sự tách biệt nào trong tâm Ki-tô không? Tôi có vẻ như bị tách biệt khỏi con, từ góc nhìn của con trên trái đất, nhưng từ góc nhìn của tôi trong cõi thăng thiên, tôi không tách biệt. Tôi không cần phải đi hàng nghìn dặm để đến trái đất. Tôi không cần phải đi máy bay phản lực hoàn vũ để đến đây.

Tôi chỉ cần chuyển trọng tâm của mình bởi vì tôi vượt thời gian và không gian. Đó chỉ là vấn đề tôi tập trung sự chú ý của mình vào đâu và tôi lập tức ở đó, bất cứ nơi nào đó. Vì khi con nối kết với tâm Ki-tô, có bất kỳ sự cục bộ nào không? Con có thể nói rằng trái đất có một vị trí cụ thể trong tâm Ki-tô không? Có một thứ gọi là bản đồ của tâm Ki-tô không? Và đây là Sao Kim, và đây là Trái đất, và đây là Sirius, và đây là không quá Sirius? Không phải vậy. Điều này, tất nhiên, khó nắm bắt, đặc biệt đối với tâm đường thẳng, nhưng tâm đường thẳng có thể chơi. Nhưng tâm trực giác có thể chơi và một cách để chơi là xem xét những bí ẩn này làm bối rối tâm đường thẳng.

Với điều này, tôi niêm con trong sự tinh nghịch mà tôi LÀ, sự trong suốt mà tôi LÀ, sự hữu ích mà tôi LÀ, Sanat Kumara tôi LÀ.

15 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Maitreya

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Maitreya, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Ta là Chân sư Thăng thiên Maitreya. Quả vị Ki-tô có ý nghĩa gì dưới góc nhìn của ta, trong tư cách là vị nắm giữ Trách vụ Ki-tô Hoàn vũ cho địa cầu? Chà, trong những đợt truyền giáo trước đây, người ta nói rằng Chân sư Maitreya là cái gọi là “Thượng đế” trong câu chuyện về Vườn Eden. Chắc chắn đây là một lời phát biểu cần được hiểu ở một mức độ sâu sắc hơn. Cần phải hiểu rằng “Chân sư Maitreya” là một danh hiệu có thể do nhiều chân sư thăng thiên khác nhau nắm giữ, chứ không phải chỉ một. Sinh thể mà ta ngày nay đang nắm giữ danh hiệu này không phải là sinh thể đã có mặt trong Vườn Eden, mặc dù, tất nhiên, không có Vườn Eden vật lý nào giống hệt như được mô tả trong Sáng thế ký. Một lần nữa, mọi thứ trong các bản kinh này cần được coi là biểu tượng, chứ không phải là thực tại theo nghĩa đen. Tuy nhiên, với việc ta hiện đang nắm giữ trách vụ Ki-tô Hoàn vũ này, trách vụ này là gì? Chà, con có thể nói rằng Ki-tô Hoàn vũ đại diện cho khái niệm về các vị thày tâm linh. Ta nói “đại diện” bởi vì, một lần nữa, các vị thày tâm linh có thể được hiểu ở các cấp độ khác nhau.

Tuy nhiên, khi con nhìn vào cách thế giới hình tướng của chúng ta được tạo ra, con có thể nói rằng ngay từ ban đầu, khái niệm về các vị thày đã được cài sẵn vào thiết kế của thế giới này. Trong bầu cõi thứ nhất, những phần nối dài tự nhận biết của Đấng Sáng tạo có một vị thày đó là Đấng Sáng tạo. Trong bầu cõi thứ hai, các chân sư thăng thiên từ bầu cõi thứ nhất trở thành thày của các sinh thể chưa thăng thiên ở bầu cõi thứ hai, v.v. Đó là lý do tại sao các chân sư thăng thiên của bầu cõi thứ sáu là những vị thày tâm linh nguyên thủy cho các sinh thể chưa thăng thiên trong bầu cõi thứ bảy này. Ta khởi đầu là một sinh thể, một sinh thể chưa thăng thiên, trong bầu cõi thứ bảy này giống như tất cả các con. Ban đầu ta có các vị thày tâm linh từ bầu cõi thứ sáu, nhưng sau đó khi ta thăng thiên, ta đã đảm nhận trách vụ Ki-tô Hoàn vũ cho địa cầu và vì vậy, ta hiện đại diện cho khái niệm này, dòng tông của các vị thày tâm linh. Bây giờ con có thể nói: “Mục đích của một vị thày tâm linh là gì?” Và khi mọi người lần đầu tiên nghe về một đường tu tâm linh dẫn đến các tầng tâm thức cao hơn, và nghe về khái niệm rằng việc có một vị thày là có lợi hoặc thậm chí cần thiết, thì họ phóng chiếu một hình ảnh nhất định lên nó dựa trên cách họ nhìn nhận các vị thày trên địa cầu.

Hầu hết mọi người trên địa cầu tất nhiên đã từng đi học ở một loại trường học nào đó, nơi họ ngồi thụ động và tiếp nhận những lời dạy từ một vị thày đứng đầu lớp hoặc trên một loại bục giảng nào đó, và vị thày đó dạy họ kiến thức công truyền. Nhiều người khi lần đầu tiên nghe về đường tu tâm linh, họ nghĩ rằng một vị thày tâm linh phải dạy họ một loại kiến thức công truyền nào đó để giúp họ đi trên đường tu tâm linh, nhưng đôi khi còn hơn thế nữa, có nhiều đệ tử nghĩ rằng một vị thày tâm linh phải truyền cho họ một loại kiến thức bí mật nào đó, một loại kiến thức thâm sâu nào đó sẽ giúp họ tinh tiến nhanh chóng và dễ dàng trên đường tu tâm linh. Những người này nghĩ rằng việc tinh tiến tâm linh là vấn đề biết một điều gì đó về cõi tâm linh, nhưng cũng về tiến trình dẫn đến tăng trưởng tâm linh này. Điều mà nhiều người cũng phóng chiếu lên khái niệm về một vị thày tâm linh là ông ấy phải cung cấp cho họ một phân tích chi tiết về đường tu tâm linh cần gì.

Nói cách khác, một tiến trình đường thẳng có hệ thống như con, chẳng hạn, nhìn thấy trong các trường học nơi con học toán một cách từ từ bằng cách bắt đầu với việc đếm đơn giản, sau đó là cộng, trừ, nhân, rồi đến các dạng toán cao cấp hơn. Hoặc như con học, chẳng hạn, trong một trường kỹ thuật nơi con học cách thực hiện các phép tính nhất định về cách con có thể tạo ra một thiết bị công nghệ mới chẳng hạn. Điều này khiến nhiều người phóng chiếu lên một vị thày tâm linh ý tưởng rằng đường tu tâm linh có thể được đơn giản hóa thành một tiến trình đường thẳng có tính chất máy móc. Nói cách khác, khi ta nói “máy móc”, ý ta là mọi người phóng chiếu rằng vị thày tâm linh có một số kiến thức, một số công thức, một số khả năng. Và điều đó có nghĩa là bất cứ ai đặt mình xuống trước mặt vị thày và lắng nghe sự truyền đạt kiến thức của vị thày đều được đảm bảo đạt được kết quả đã định, cho dù đó là trạng thái tâm thức cao hơn hay quả vị Ki-tô hay sự điều ngự tâm làm chủ vật chất hay sự thăng thiên hay bất cứ điều gì mà mọi người mong muốn như một kết quả của việc đi trên đường tu tâm linh. Nói cách khác, nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh hoặc đạo sư hoặc thậm chí nghe về khái niệm về một đạo sư tâm linh và họ phóng chiếu rằng đạo sư này phải cung cấp cho họ một cách máy móc để nâng cao tâm thức của họ, một cách được đảm bảo sẽ hiệu quả nếu họ chỉ làm theo hướng dẫn của vị thày.

Bây giờ, toàn bộ ý tưởng này đến từ đâu? Nó có đến từ cõi thăng thiên không? Nó có đến từ tâm Ki-tô không? Các chân sư khác đã giải thích cẩn thận như thế nào về tâm Ki-tô? Nó tìm cách hợp nhất con với nguồn gốc của con, với Đấng Sáng tạo của con, nhưng nó làm điều đó trong Luật Tự quyết. Và điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là để hợp nhất với tâm Ki-tô, con phải đưa ra những chọn lựa, những chọn lựa có ý thức, những chọn lựa hiểu biết. Và điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là con có thể có hai người đều đang lắng nghe cùng một hướng dẫn từ cùng một vị thày, nhưng không có gì đảm bảo rằng hai người sẽ đưa ra cùng một chọn lựa để tiếp nhận, để thể nhập và để áp dụng giáo lý. Điều đó có nghĩa là một vị thày tâm linh chân chính không dạy một đường tu máy móc. Một vị thày tâm linh chân chính không thể đảm bảo kết quả. Không có gì đảm bảo rằng con sẽ nhận được kết quả cụ thể nếu con đi theo một vị thày tâm linh chân chính, vì nó tùy thuộc vào những chọn lựa con đưa ra, và những chọn lựa đó là gì? Chà, chọn lựa thực sự là, hoặc yếu tố quyết định thực sự là, liệu con có áp dụng những lời dạy và sẵn lòng nhìn vào bản thân, vào tâm lý của chính mình không?

Vì đệ tử tinh tiến nhất trên đường tu chân chính là người sẵn lòng nhìn vào “cái xà trong mắt mình”. Có thể có một đệ tử khác ít sẵn lòng làm như vậy, hoặc hoàn toàn không sẵn lòng làm như vậy, bởi vì đệ tử đó đang chờ đợi những kết quả được đảm bảo theo cách máy móc và vì vậy có thể có những đệ tử có thể lắng nghe một vị thày hữu lý, một vị thày tâm linh chân chính, mà không đạt được bất kỳ kết quả nào. Khái niệm về một đường tu máy móc được đảm bảo đến từ đâu? Chà, tất nhiên, nó dựa trên tự ngã, mà như chúng ta đã giải thích rất cẩn thận, luôn tìm cách bù đắp bằng cách đạt được một địa vị tối hậu nào đó trong thế giới này và trong cõi vật lý trên địa cầu, con thực sự thấy rằng có một khía cạnh máy móc nhất định về cách vật chất vận hành. Ví dụ, hãy nhìn vào công nghệ hiện đại. Hãy nhìn vào khoa học, mà trong cuộc tìm kiếm khách quan của nó, đã cố gắng đơn giản hóa vũ trụ thành một loại máy móc, nơi mà nếu con biết một công thức nhất định, nếu con áp dụng một công nghệ nhất định, thì bất kỳ ai áp dụng công thức đó đều có thể tạo ra một máy nướng bánh mì được đảm bảo sẽ hoạt động và nướng bánh mì.

Tự ngã sau đó lý luận rằng vì thế giới vật lý có các thuộc tính cơ học, thế giới tâm linh cũng phải có tính cơ học, và do đó, phải có một đường tu máy móc. Bây giờ, tất nhiên, khái niệm về một vị thày có thể đảm bảo kết quả cũng đến từ các sa nhân. Nhưng ngay cả trước khi các sa nhân đến địa cầu, đã có một niềm tin nhất định trong tâm thức tập thể rằng nếu chúng ta có thể khiến mọi người tuân theo thế giới quan được xã hội đề xướng vào thời điểm đó, thì kết quả sẽ được đảm bảo và hành tinh sẽ sống sót và sẽ có một xã hội lý tưởng trong một ngàn năm. Như chúng ta đã giải thích, điều này đã đẩy địa cầu vào một vòng xoáy tự hủy diệt và đó là lý do tại sao các sa nhân, cùng với các avatar, được phép đầu thai ở đây để phá vỡ sự đồng nhất và các sa nhân, tất nhiên, đã phá vỡ sự đồng nhất. Và một phần cách họ làm điều này là họ tự xưng là thày, và họ tự nhận là những vị thày chân chính và điều họ làm là, họ nhìn vào những người trên địa cầu, họ nhìn vào trạng thái tâm thức của họ và họ nói: “Mục tiêu của chúng ta là khiến mọi người mù quáng đi theo chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể làm điều này tốt nhất? Chà, chúng ta phải xem mọi người muốn tin điều gì và sau đó nói với họ rằng chúng ta có thể giúp họ đạt được những mục tiêu họ muốn đạt được và sau đó họ sẽ đi theo chúng ta.”

Con thấy đây, các sa nhân có một mục tiêu cụ thể. Mục tiêu của họ không phải là nâng cao con người. Mục tiêu của họ là khiến con người phải quy phục các sa nhân, vì vậy trước hết họ cung cấp năng lượng cho con người, nhưng cũng để con người mù quáng tuân theo họ. Các sa nhân không quan tâm đến việc dạy một điều gì đó chân thật hay hữu lý. Trên thực tế, họ quan tâm đến việc, làm thế nào chúng ta có thể lừa dối mọi người tốt nhất để chúng ta đạt được mục tiêu của mình? Họ thấy rằng có xu hướng tin vào sự vận hành máy móc này của vũ trụ, và họ nói: “À, chúng ta sẽ xây dựng ý tưởng rằng có một đường tu tâm linh dẫn vượt khỏi đau khổ đến các tầng nhận biết cao hơn, và chúng ta sẽ trình bày nó như một đường tu máy móc nơi mà nếu mọi người mù quáng đi theo chúng ta với tư cách là thày, chúng ta sẽ đảm bảo kết quả.” Họ đã tạo ra cái mà chúng ta có thể gọi là các trường bí giáo giả hiệu, và họ đã gài bẫy nhiều người tin vào điều này, đi theo con đường này. Và họ đã làm điều này một phần vì các sa nhân trong các bầu cõi trước, một số thậm chí trước khi họ sa ngã, đã học cách tận dụng các thuộc tính cơ học nhất định của vật chất để họ có thể có một sự kiểm soát nhất định đối với vật chất và điều này có nghĩa là họ có thể gây ấn tượng với mọi người bằng những gì chúng ta có thể gọi là những “mánh lới”, những điều mà họ có thể thực hiện.

Và đây là một yếu tố khác đã thu hút mọi người nghĩ rằng: “Nhưng những người này có thể tạo ra những hiện tượng này, và do đó, những lời dạy của họ phải hữu lý và nếu tôi đi theo con đường này, tôi cũng sẽ có sự điều ngự vật chất mà mọi người mong muốn, mà tự ngã mong muốn.” Bởi vì tự ngã mong muốn điều gì? Cuối cùng, nó muốn kiểm soát vật chất. Con thấy đây, một lần nữa, chúng ta không chê trách điều gì cả. Chúng ta chỉ đơn giản chỉ ra rằng: Con đang sống trên một hành tinh tên là địa cầu, đó là một hành tinh phi tự nhiên, có một tâm thức tập thể rất dày đặc. Có những sa nhân ở đây đã từ lâu phóng chiếu một đường tu giả hiệu, vì vậy không thể tránh khỏi việc con đã bị ảnh hưởng bởi điều này trong kiếp sống này hoặc những kiếp sống trước, không quan trọng, vì vậy khi con tìm thấy những lời dạy của các chân sư thăng thiên, con mang theo mình chương trình này, chúng ta có thể nói, rằng đường tu tâm linh phải có những khía cạnh máy móc nhất định. Và điều chúng ta đã cẩn thận thực hiện thông qua sứ giả này, gần như ngay từ đầu, là nhẹ nhàng thách thức quan điểm này, nhẹ nhàng và từ từ, bởi vì chúng ta thấy cần phải nhẹ nhàng và từ từ về điều này.

Ví dụ, chúng ta đã thấy trong những đợt truyền giáo trước đây, nơi hầu hết mọi người tin rằng nếu họ đọc đủ Ngọn lửa Tím, thì chỉ điều đó thôi cũng đủ tư cách để họ thăng thiên. Nhưng việc đọc bài chú có một khía cạnh máy móc nhất định, theo nghĩa là việc đọc bài chú tạo ra một hiệu ứng nhất định. Việc đọc bài chú từ trái tim và với một luồng Thánh linh lớn hơn qua các bài chú tạo ra một hiệu ứng lớn hơn. Nhưng dù sao, nếu con đọc các bài chú, nó vẫn tạo ra một hiệu ứng. Nó quân bình nghiệp quả, nó biến đổi năng lượng dựa trên sợ hãi trong ba thể cao hơn của con, và điều này giúp con tăng trưởng trên đường tu. Nhưng như chúng ta cũng đã giải thích rất nhiều lần qua sứ giả này, trừ khi con cũng giải quyết tâm lý, có một giới hạn về việc con có thể thăng lên cao đến đâu. Chúng ta đã trình bày đường tu dưới một ánh sáng khác trong một thời gian rất dài, đó là nó không phải là máy móc, bởi vì yếu tố quyết định cho sự tinh tiến của con là sự sẵn lòng của con để áp dụng những lời dạy cho bản thân, nhìn vào tâm tiềm thức của con, và giải quyết những gì chúng ta bây giờ gọi là các tự ngã tiềm thức.

Ban đầu chúng ta gọi đây là tự ngã, nhưng ta hiện đã ban truyền cho con những giáo lý cao cấp hơn để tự ngã không phải là một tà thể lớn vô định hình mà có thể rất khó nhìn thấy và liên hệ, trong khi đó, dễ dàng hơn để nhìn vào một tự ngã cụ thể và khắc phục nó. Nhưng dù sao, điều ta đang hướng tới là sự nhận ra này rằng đã có từ rất lâu trên địa cầu, chắc chắn kể từ khi các sa nhân được phép đầu thai ở đây, hai đường tu khác nhau đã được trình bày trên địa cầu. Một đường tu máy móc, mà chúng ta cũng gọi là đường tu công truyền, và một đường tu nội tâm thần bí và điều này cung cấp cho con một khung tham chiếu để lượng định những giáo lý tâm linh hoặc phong trào hoặc đạo sư nào con đã gặp trong kiếp sống này. Và tại sao con lại cần làm điều này nếu con hiện đã bỏ lại một số phong trào này và chuyển sang một giáo lý chân sư thăng thiên? Chà, bởi vì có một lý do mà con tìm thấy những phong trào và giáo lý tâm linh đó. Con bị thu hút bởi nó bởi vì nó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con và có thể có nhiều lý do khác nhau cho điều này. Nhưng một trong những lý do áp dụng cho hầu hết các con là con thực sự cần có một trải nghiệm nhất định với các giáo lý tâm linh khác nhau và hầu hết các con cần có trải nghiệm về ít nhất một giáo lý thiên về đường tu công truyền máy móc hơn.

Một phần là nó giúp con tăng cường khả năng phân biện, nhưng nó cũng giúp con có khả năng dạy những người khác, tiếp cận những người khác chưa nhìn thấu sự hư giả của đường tu máy móc. Bởi vì, khi chúng ta bước vào Thời Hoàng kim của Saint Germain, điều rất quan trọng là có những người đang hiện thân có thể lên tiếng về sự khác biệt giữa đường tu máy móc và đường tu nội tâm. Vì nếu chúng ta muốn thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain trong một khung thời gian hợp lý, chúng ta cần càng nhiều người tâm linh càng tốt và chắc chắn phần lớn các avatar, nhận ra đường tu nội tâm và đón nhận đường tu nội tâm đó. Điều này không có nghĩa là ta đang nói rằng tất cả những người này cần nhận ra giáo lý chân sư thăng thiên hoặc những lời dạy được ban truyền qua sứ giả này, nhưng họ cần nhận ra sự khác biệt giữa đường tu máy móc và đường tu nội tâm. Tất nhiên, có những ví dụ khác về các đạo sư, giáo lý, tổ chức dạy đường tu nội tâm. Mục tiêu của chúng ta hoàn toàn không phải là nói rằng điều này độc quyền đối với các giáo lý chân sư thăng thiên hoặc một tổ chức hoặc sứ giả cụ thể nào đó dưới bất kỳ hình thức nào mà mọi người có thể liên hệ và cộng hưởng với đường tu nội tâm.

Nhưng điều đó là cơ yếu bởi vì các sa nhân, tất nhiên, có thể thấy tiềm năng của Thời Hoàng kim của Saint Germain, và họ có thể thấy rằng nó chưa giáng thế đủ xa để đảm bảo rằng sẽ có Thời Hoàng kim, hoặc ít nhất là không trong tương lai gần. Họ thấy rằng ngay cả khi họ không thể ngăn chặn nó hoàn toàn, họ ít nhất có thể trì hoãn nó. Và chìa khóa để trì hoãn nó là tác động đến những người có tiềm năng thị hiện Quả vị Ki-tô, 10.000 người đang trong thể vật lý có tiềm năng thị hiện Quả vị Ki-tô trọn vẹn, và hàng triệu người nữa có thể thị hiện Quả vị Ki-tô ở mức độ cao. Và điều mà các sa nhân thấy là nếu họ có thể giữ những người này đi theo đường tu máy móc, thì họ ít nhất có thể trì hoãn sự thị hiện của Thời Hoàng kim của Saint Germain. Và do đó, tất nhiên, chúng ta thấy rằng chìa khóa cơ yếu để thị hiện Thời Hoàng kim trong thời gian ngắn là giúp nhiều người này đón nhận đường tu nội tâm dưới bất kỳ hình thức nào họ có thể đón nhận nó. Con có thể nói rằng một cách tiếp cận mà một số con có thể thực hiện, điều có trong các sứ vụ thiêng liêng của con, là con không cần phải dạy giáo lý chân sư thăng thiên, con không cần phải quảng bá đợt truyền giáo đặc biệt này. Con có thể dạy chung về sự khác biệt giữa đường tu công truyền và đường tu nội tâm, đường tu máy móc và đường tu sáng tạo.

Ta cũng đại diện cho điều gì với tư cách là Ki-tô Hoàn vũ cho địa cầu? Chà, ta đại diện, tất nhiên, cho dòng tông này từ những vị thày chân chính, những người đã hợp nhất với tâm Ki-tô. Nhưng ta cũng đại diện cho thực tế rằng trên địa cầu, hầu hết mọi người đã mất liên lạc với các vị thày tâm linh của họ. Nhiều người thậm chí đã mất đi khái niệm về các vị thày tâm linh, sự nhận biết rằng có các vị thày tâm linh. Con sẽ thấy điều này được biểu đạt trong Vườn Eden, nơi Adam và Eve đã tiếp xúc với cái gọi là “Thượng đế”, nhưng thực sự đó là một vị thày tâm linh và sau đó, do không tuân theo hướng dẫn của vị thày, họ đã bị “đuổi khỏi thiên đường” và mất liên lạc với vị thày. Bây giờ họ phải “làm việc để kiếm sống bằng mồ hôi trán”, đó là biểu tượng cho Trường đời Cay đắng, trái ngược với trường nhận biết cao hơn hay chỉ đạo nội tâm. Ta đã, khá lâu rồi, ban truyền cuốn sách “Chìa Khóa Chủ Yếu dẫn đến Tự Do Tâm Linh” và cuốn sách đó có mục đích chính là kết nối lại mọi người với vị thày tâm linh của họ. Đó là lý do tại sao ta rất cẩn thận trong sách để đưa ra một sự hiểu biết về cách con đã mất đi sự liên lạc đó và cách những người khác nhau đã đưa ra những quyết định khác nhau khiến họ mất liên lạc với vị thày và ta cố gắng giúp con lấy lại sự liên lạc đó, đòi lại sự liên lạc đó.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả những lời dạy chúng ta đã ban truyền với tư cách là các chân sư thăng thiên, quay trở lại Phong trào I AM, đều có cùng mục đích đó, là kết nối lại con với các vị thày tâm linh của con. Tuy nhiên, phải đến đợt truyền giáo này, chúng ta mới có thể ban truyền những lời dạy có thể giúp con thấy tại sao con lại tách biệt khỏi vị thày tâm linh ngay từ đầu. Bởi vì chỉ trong đợt truyền giáo này, chúng ta mới ban truyền những giáo lý sâu sắc hơn này về tâm lý học. Và nếu con lấy những lời dạy trong Sáng thế ký, chẳng hạn, con có thể bị dẫn đến tin rằng mặc dù đây là Vườn Eden, được cho là do Thượng đế tạo ra, nhưng vẫn có con rắn này trong vườn và nó đã có thể lừa dối Adam và Eve để họ bị đuổi khỏi vườn. Và nhiều người đã tự hỏi, chà, nếu Thượng đế tạo ra Vườn Eden và nếu Thượng đế là tốt và toàn hảo, tại sao Người lại đặt một con rắn vào vườn? Mục đích của Thượng đế khi làm điều này là gì? Và chúng ta, tất nhiên, đã giải thích rằng đây là một biểu tượng. Nó có thể được coi là biểu tượng cho các sa nhân, những thày giả. Đây là điều đã được nhấn mạnh trong, chẳng hạn, Summit Lighthouse. Nhưng ngay cả như vậy, ngay cả khi con ban đầu bị các sa nhân dẫn dắt đi theo con đường giả hiệu, con vẫn cần đi sâu hơn và tự hỏi, làm thế nào họ có thể lừa dối con? Làm thế nào họ có thể đánh lừa con? Và điều này, tất nhiên, là do tâm lý của con.

Bây giờ, một lần nữa, chúng ta hoàn toàn không chê trách con vì đã tin vào đường tu giả hiệu. Đây là địa cầu. Chúng ta đã từng đầu thai trên địa cầu. Chúng ta cũng, trong một thời gian, đã đi theo đường tu giả hiệu nhưng chúng ta đã khắc phục nó và do đó, chúng ta biết con cũng có thể làm được và tất nhiên, mục tiêu của chúng ta là giúp con. Con thấy đây, con rắn thực sự đại diện cho điều gì ở một cấp độ sâu sắc hơn? Chà, nó đơn giản đại diện cho việc vì bản chất của quyền tự quyết, như chúng ta đã giải thích trước đây, con phải có khả năng chọn đi vào sự tách biệt. “Đi vào sự tách biệt” có nghĩa là gì? Chà, một khía cạnh của nó là con tách biệt mình khỏi vị thày tâm linh mà con có ban đầu. Ngay từ khoảnh khắc con được tạo ra, cho dù con là cư dân nguyên thủy của địa cầu hay một avatar đến từ một hành tinh tự nhiên, con đều có một vị thày tâm linh. Đây là trạng thái tự nhiên. Nhưng để có đầy đủ quyền tự quyết, con phải có khả năng tách biệt mình khỏi vị thày tâm linh. Nhưng làm thế nào con có thể làm điều này? Không phải bằng cách bị các sa nhân lừa dối. Không phải bằng cách phạm lỗi. Con chỉ có thể làm điều này bằng cách đưa ra một quyết định.

Bây giờ, như ta cố gắng giải thích trong sách của mình, nhiều người không hoàn toàn ý thức được quyết định đó có ý nghĩa gì vì họ không hoàn toàn hiểu ý nghĩa của việc đi vào nhị nguyên, để thí nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Ta cũng giải thích rằng như một phần của sự tăng trưởng của con hướng tới Quả vị Ki-tô, con thực sự phải thí nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Mục tiêu đầu tiên của vị thày của con là trước hết con không nên bắt đầu thí nghiệm với tâm thức nhị nguyên trước khi con sẵn sàng cho nó và sau đó mục tiêu khác là con sẽ đi vào nhị nguyên và sau một thời gian ngắn, thoát ra khỏi nó một lần nữa, tham vấn với vị thày, có được một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách nhị nguyên vận hành, đi vào nó một lần nữa, quay trở lại với vị thày, qua lại như thế này. Nhưng con đã đưa ra quyết định tại một thời điểm nào đó khiến con, không phải vĩnh viễn, không phải mãi mãi, mà ít nhất là tạm thời, tách biệt mình khỏi vị thày và có một lý do tại sao con đưa ra quyết định đó. Và cách duy nhất để hoàn toàn tái hợp với vị thày là quay trở lại và kết nối một cách ý thức với quyết định đó để con có thể một cách ý thức thay thế nó bằng cách đưa ra chọn lựa quay trở lại với vị thày, để kết nối lại với vị thày và điều đó đòi hỏi con phải nhìn rất sâu vào tâm lý vì đối với phần lớn mọi người trên địa cầu, điều này đã xảy ra từ rất lâu rồi. Các khung thời gian khác nhau cho những người khác nhau, do đó, ta không đưa ra cho con một thời gian cụ thể. Nhưng từ rất lâu rồi, có nghĩa là con đã đầu thai trong nhiều, nhiều kiếp sống trên địa cầu sau khi các sa nhân đến và địa cầu trở thành một hành tinh phi tự nhiên. Do đó, con đã tiếp nhận nhiều điều khác nhau.

Con đã xây dựng nhiều tầng khác nhau trong tâm tiềm thức che giấu quyết định tách biệt khỏi vị thày và do đó, con cần dành một thời gian để xử lý những quyết định này ở những gì chúng ta có thể gọi là các tầng cao hơn của tâm tiềm thức trước khi con có thể đi đến các tầng sâu hơn. Một phần của điều này, tất nhiên, là chấn thương nhập đời của con, tự ngã gốc của con. Nhưng thực sự, với tư cách là một avatar, chấn thương nhập đời là thứ con nhận được trên địa cầu nhưng đối với một số avatar, tiến trình tách biệt mình khỏi vị thày đã bắt đầu trên một hành tinh tự nhiên. Bây giờ, điều này có vẻ mâu thuẫn vì con có sự liên lạc tốt với một vị thày trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng điều này thực sự bắt đầu sau khi con bắt đầu quán chiếu việc đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên, sau khi con nhận biết rằng có những hành tinh phi tự nhiên bởi vì điều bắt đầu xảy ra ở đó là con có một số hiểu biết về tâm thức nhị nguyên, con đã thí nghiệm với nó trên hành tinh tự nhiên của con. Đó là lý do tại sao con đã đạt đến mức cao nhất mà con có thể đạt được trên một hành tinh tự nhiên và con đang tìm cách để con có thể tăng trưởng hơn nữa.

Bây giờ con nhận biết rằng có những hành tinh phi tự nhiên nơi hầu hết mọi người đều mắc kẹt trong nhị nguyên, bị làm mờ mắt bởi nhị nguyên, không biết rằng có bất cứ điều gì vượt quá nhị nguyên. Bây giờ con hình thành trong tâm trí mình mong muốn giúp đỡ những hành tinh này và con cũng nhận ra rằng có một hành tinh tên là địa cầu. Chúng ta, các chân sư thăng thiên, có một kế hoạch cho phép các sa nhân đầu thai ở đó và cho phép các avatar đầu thai để giữ sự quân bình. Con hình thành mong muốn trở thành một phần của tiến trình này. Nhưng con không hoàn toàn sẵn lòng lắng nghe vị thày, người cố gắng chỉ cho con thấy nhiệm vụ này khó khăn đến mức nào vì vị thày cố gắng nói với con rằng không ai có thể đầu thai trên địa cầu mà không bị mắc kẹt trong nhị nguyên. Nhưng con không thể thực sự nghe điều này vì con nghĩ: “Nhưng tôi đã vượt qua tất cả các thử thách trên hành tinh tự nhiên của mình. Tôi đã điều ngự tất cả những thách thức trên hành tinh tự nhiên này. Thật khó khăn đến mức nào để vượt qua thử thách này trên một hành tinh phi tự nhiên?” Bây giờ ta đang nói “con”, nhưng ta cũng có thể nói “chúng ta” bởi vì những người trong chúng ta ngày nay đã thăng thiên từ địa cầu, hầu hết chúng ta đều có cùng thái độ trước khi đến địa cầu.

Như chính sứ giả này đã nhận ra, anh ấy có một xu hướng lạc quan nhất định: “Chắc chắn tôi có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề này.” Ta không nói rằng đây là một cách kiêu ngạo. Nó chỉ dựa trên kinh nghiệm của con trên một hành tinh tự nhiên nơi mà bất kể thách thức nào có ở đó, con đều có thể điều ngự nó. Con có thể khắc phục nó. Nhiều con có cùng thái độ lạc quan đó. Thật khó khăn đến mức nào trên hành tinh này tên là địa cầu? Và một lần nữa, chúng ta không chê trách con. Chúng ta chỉ đơn giản chỉ ra cho con tiến trình tâm lý và giúp con nhận ra rằng, vâng, điều quan trọng là phải quay trở lại và giải quyết chấn thương nhập đời hoàn vũ đó và tự ngã gốc mà con nhận được sau khi đến địa cầu và tiếp xúc với các sa nhân. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là quay trở lại hành tinh tự nhiên và liên lạc với điều gì trong tâm lý của con đã khiến con quyết định đến địa cầu bởi vì điều gì có ở hành tinh tự nhiên đã đặt nền tảng, đặt ra các thông số cho toàn bộ sự tương tác của con với địa cầu, cho phản ứng của con với địa cầu.

Và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói, nếu con đã hoàn toàn lắng nghe vị thày tâm linh trên một hành tinh tự nhiên, nếu con đã tuân theo tất cả hướng dẫn của vị thày và đã được chuẩn bị tốt nhất có thể trước khi đến địa cầu, liệu có thể đến địa cầu mà không đi vào nhị nguyên không? Và câu trả lời là không. Chà, vâng, về mặt lý thuyết, nhưng đối với tất cả các mục đích thực tế, không, và tại sao lại như vậy? Bởi vì con ở đây để minh chứng điều gì cho những người trên địa cầu? Con về cơ bản ở đây để minh chứng rằng con có thể đi vào nhị nguyên như họ đã làm và con có thể vươn lên trên nó như họ có thể làm, điều mà họ hy vọng sẽ tin khi họ thấy người khác làm điều đó. Nếu con không đi vào nhị nguyên, làm thế nào con có thể minh chứng việc vươn lên trên nhị nguyên? Nếu con không bắt đầu như một em bé chỉ có thể bò, làm thế nào con có thể minh chứng cách con học đi? Một lần nữa, chúng ta không chê trách con, nhưng mục đích của ta ở đây là nói rằng với tư cách là một avatar, có một tầng phụ thêm của đường tu đến Quả vị Ki-tô và đó là quay trở lại và lật mặt tại sao con lại đến địa cầu, tại sao con lại đưa ra quyết định đến địa cầu, và cách con nhìn nhận địa cầu, cách con nhìn nhận bản thân mình trong mối quan hệ với địa cầu, và những gì con có thể làm và khắc phục trên địa cầu. Và hầu hết các con đều có thái độ lạc quan đó. Và con thấy đấy, ta muốn con lấy lại điều đó, nhưng với một ý thức hiện thực cao hơn con đã có trước khi con đến địa cầu, khi con chỉ nhìn xuống địa cầu và nói, nó có thể tệ đến mức nào? Bây giờ con biết nó tệ đến mức nào, con có thể lấy lại thái độ lạc quan đó, nhưng nó dựa trên một nền tảng thực tế, không phải là ước muốn viển vông.

Chúng ta có thể nói rằng từ góc nhìn của Ki-tô Hoàn vũ, chúng ta có thể nói: “Con đến địa cầu với thái độ này có phải là một sai lầm không?” Không, bởi vì tiềm năng của con với tư cách là các avatar là gì? Bởi vì con đã trải nghiệm độ dày đặc, sự vi tế, sự khó khăn của tâm thức nhị nguyên, con có tiềm năng sau khi con thăng thiên để làm việc dưới trách vụ Ki-tô Hoàn vũ và dạy dỗ những người khác, không chỉ các sinh thể chưa thăng thiên, mà còn dạy dỗ cả các sinh thể thăng thiên chưa đầu thai trên một hành tinh, trên một hành tinh phi tự nhiên, những người chưa đi vào nhị nguyên. Dạy họ nó như thế nào, để họ có thể có một sự hiểu biết đầy đủ hơn về nhị nguyên là gì, và sự tương phản giữa tâm thức tách biệt và tâm thức Ki-tô. Con có thể nói, như chúng ta đã giải thích, các bầu cõi đã trở nên dày đặc hơn từ từ và điều này có nghĩa là, như Chúa Giê-su đã nói: “Người cuối cùng sẽ trở thành người đầu tiên và người đầu tiên sẽ trở thành người cuối cùng.”

Nó có nghĩa là hiện có những sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi cao hơn đã thăng thiên bằng cách khắc phục sự cám dỗ đi vào nhị nguyên, nhưng họ đã làm điều này trong một bầu cõi nơi tâm thức nhị nguyên không dày đặc và biểu hiện như trên địa cầu. Trong ba bầu cõi đầu tiên, không ai hoàn toàn đi vào nhị nguyên, vì vậy họ không có kinh nghiệm về nó như thế nào và việc vươn lên trên nó là gì. Và nó thực sự có nghĩa là những người trong các con có thể thăng vượt nhị nguyên, có thể thăng thiên từ một hành tinh dày đặc như địa cầu, có thể trở thành các vị thày hoàn vũ và trách vụ Ki-tô Hoàn vũ cho địa cầu tất nhiên được nối kết với trách vụ Ki-tô Hoàn vũ tồn tại trong tất cả các bầu cõi. Và điều đó có nghĩa là một số con có tiềm năng đi lên các bầu cõi cao hơn và dạy dỗ các sinh thể ở đó, những người chưa trải nghiệm nhị nguyên trực tiếp. Nhưng tất nhiên, trước khi con có thể dạy dỗ những người đã thăng thiên, con phải thăng vượt nhị nguyên. Trước khi con có thể dạy dỗ, con phải làm. Mục tiêu của chúng ta, tất nhiên, là giúp con làm, hay đúng hơn là gỡ bỏ, gỡ bỏ nhị nguyên. Con có thể làm theo cách của mình để đi vào nhị nguyên, con không thể làm theo cách của mình để thoát ra, nhưng con có thể gỡ bỏ theo cách của mình để thoát ra.

Đây là mục tiêu của tất cả những lời dạy của chúng ta theo một nghĩa nào đó và tất cả đều xoay quanh khái niệm về một vị thày này. Và điều mà các sa nhân đã phóng chiếu là, tất nhiên, có một vị thày bên ngoài có thể làm điều gì đó cho con mà con không thể tự làm cho mình. Hãy nhìn vào đạo Cơ đốc, những người đã biến Chúa Giê-su thành vị cứu tinh bên ngoài này, người có thể cứu những người không thể tự cứu mình. Hãy nhìn vào truyền thống đạo sư Ấn Độ, nơi họ tin rằng đạo sư đã đạt đến một mức độ thành đạt nào đó mà ông ấy có thể mở khóa điều gì đó trong con, ông ấy có thể làm điều gì đó cho con giúp con thăng lên một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng con không thể tự mình làm điều này. Và như chúng ta đã giải thích cẩn thận trước đây rất chi tiết, có một thực tế và một sự hư giả với điều này. Vâng, con không thể tự mình thoát khỏi nhị nguyên. Điều đó là đúng nhưng điều con cần là tâm thức Ki-tô để thoát khỏi nhị nguyên và do đó, lời dối trá là con chỉ có thể nhận được tâm thức Ki-tô từ một vị thày bên ngoài. Bởi vì con cuối cùng nhận được tâm thức Ki-tô từ đâu? Từ bên trong. “Vương quốc Thượng đế ở trong con.” Một vị thày công truyền chân chính làm gì? Ông ấy giúp con liên lạc với tâm thức Ki-tô trong chính con.

Đó là lý do tại sao sứ giả này giải thích rằng khi con thăng lên trong tâm thức Ki-tô, con ngừng tách biệt mình ra, con ngừng nâng mình lên trên người khác, và con trình bày mình nhiều hơn như một ví dụ về một đường tu mà tất cả những người khác có thể đi theo. Điều này áp dụng cho những người đang hiện thân, không nhất thiết cho các chân sư thăng thiên, bởi vì đó là một cơ chế vận hành khác khi con thăng thiên. Nhưng dù sao, tâm thức Ki-tô là chìa khóa và tâm thức Ki-tô chỉ có thể được nhận từ bên trong. Con vẫn có thể nhìn thấy nó ở một người nào đó bên ngoài mình, nhưng nếu con cứ phóng chiếu rằng nó chỉ ở trong người đó và chỉ người đó mới có thể giải thoát con, thì con không thể nhận được nó từ bên trong và con cũng không thể nhận được nó từ bên ngoài. Ta không thể giáng thế xuống địa cầu và ban cho con tâm thức Ki-tô từ bên ngoài, cũng như ta sẽ không cố gắng làm điều đó nhưng các sa nhân tự xưng là họ có một thứ gì đó mà họ có thể ban cho con, thứ mà con không thể có được từ bên trong, mà chỉ từ bên ngoài, và đó là đường tu giả hiệu.

Một số con sẽ sẵn sàng thực hiện lời dạy này. Có lẽ hãy quay lại và xem lại sách của ta nếu con đã đọc nó trước đây. Đọc nó với một sự hiểu biết cao hơn về cách giải thể các tự ngã tiềm thức và xem xét lại quan điểm của con về một vị thày tâm linh. Bây giờ con có thể nói, đó là một câu hỏi lô-gíc: “Vậy tại sao tôi lại cần một vị thày mà tôi coi là bên ngoài bản thân để kết nối với tâm thức Ki-tô trong chính mình? Tại sao tôi không thể chỉ kết nối từ bên trong?” Chà, về mặt lý thuyết con có thể, nhưng trong thực tế trên một hành tinh dày đặc như địa cầu, điều đó đơn giản là không thực tế khả thi nhưng con cần vị thày vì nhiều lý do quan trọng cần biết. Trước hết, con cần học rằng có một đường tu tâm linh như một cách thay thế cho trạng thái tâm thức bình thường trên địa cầu. Con cần nhận ra rằng có một tiến trình có hệ thống để đi theo, rằng đó không phải là một đường tu máy móc. Con cần vị thày để cung cấp cho con một sự hiểu biết nhất định về đường tu và cơ chế vận hành của đường tu. Nhưng sau đó con cũng cần một vị thày để minh chứng cho con thấy rằng đường tu thực sự hiệu quả. Nó không chỉ là lý thuyết, nó là thực tế, bởi vì vị thày đã đạt đến một tầng tâm thức cao hơn. Và chỉ khi con thực sự chạm trán điều này, một người đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn con, thì con mới có thể thực sự bắt đầu chấp nhận rằng đường tu hiệu quả và con có thể đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Nhưng vượt quá điều này là một yếu tố quan trọng thực sự vươn xa hơn sự thăng thiên của con. Chúng ta có thể nói rằng điều ta sẽ nói với con ở đây là điều con thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi con thăng thiên nhưng nếu con không hiểu nó, thì rất khó để thực hiện sự thăng thiên của con. Và điều con cần làm ở đây là nhìn vào địa cầu và xem mọi thứ bị tâm thức nhị nguyên chi phối như thế nào và điều đó có nghĩa là, mọi người hành động như những sinh thể tách biệt. Bây giờ con sẽ thấy, ví dụ, trong thế giới kinh doanh rằng trong vài thập kỷ qua, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu nói về các đội nhóm và xây dựng đội nhóm và đào tạo mọi người làm việc theo đội nhóm, cùng nhau làm việc vì một mục tiêu chung nhưng điều này bị áp đặt từ bên ngoài. Và trong cõi thăng thiên chúng ta không cần phải tham gia đào tạo về xây dựng đội nhóm. Chúng ta là một đội nhóm. Tại sao? Bởi vì tất cả chúng ta đã hợp nhất với Tâm Một, tâm thức Ki-tô. Tất cả chúng ta đều coi mình là một nhưng điều này vượt xa bất cứ điều gì con có trên địa cầu.

Bây giờ con có thể nói rằng một mối quan hệ cá nhân thân thiết trong trạng thái lý tưởng của nó là một cách để hai người khắc phục cảm giác tách biệt của họ và đạt đến sự hài hòa và hợp nhất. Theo một nghĩa nào đó, nó là sự chuẩn bị cho điều này nếu nó thành công. Nhưng vẫn, điều con có sau khi con thăng thiên hoàn toàn khác với những gì con có thể có trên địa cầu. Và ta biết rằng khi ta nói với con từ “hợp nhất”, rất khó để con nắm bắt được nó bởi vì một lần nữa có rất nhiều phóng chiếu từ địa cầu về sự hợp nhất. Tự ngã sẽ ngay lập tức tạo ra một khái niệm về sự hợp nhất dựa trên sự tách biệt. Nhưng con thấy đấy, khi con chứng đạt tâm thức Ki-tô, sự viên mãn của tâm thức Ki-tô, sự hợp nhất không phải là điều con cần học. Nó không phải là điều con đang làm. Nó không phải là điều con đang khoác vào. Nó chỉ đơn giản trở thành con người mà con là. Con không còn là một sinh thể tách biệt nữa. Con không hoàn toàn khắc phục sự tách biệt cho đến khi con thăng thiên. Nhưng khi con thăng thiên, sự tách biệt tan biến.

Bây giờ, ngay cả đối với một chân sư thăng thiên cũng phải mất một thời gian để hoàn toàn thể nhập sự hợp nhất. Và con có thể nói rằng với tư cách là một chân sư mới thăng thiên, con có thể đạt đến một mức độ hợp nhất nhất định vượt xa những gì con có trên địa cầu nhưng chắc chắn còn xa so với sự hợp nhất mà con tìm thấy trong bầu cõi thứ nhất chẳng hạn. Vì vậy, có những mức độ hợp nhất dẫn lên đến tâm thức Đấng Sáng tạo. Nhưng sự xoay chuyển từ một sinh thể chưa thăng thiên sang một sinh thể thăng thiên vẫn là rất lớn. Đó là điều mà con không thể thực sự tưởng tượng được từ mức độ chưa thăng thiên. Nhưng điều quan trọng vẫn là nhận ra điều này bởi vì điều này giải thích cho con tại sao con cần một vị thày tâm linh trước khi con thăng thiên. Bởi vì điều lý tưởng xảy ra là con bắt đầu có sự liên lạc bên trong bản thể của chính con với một chân sư thăng thiên và con bắt đầu với một sự liên lạc thỉnh thoảng nào đó, nơi con nhận được những chỉ dẫn nhất định. Nhưng khi con tăng cường sự liên lạc, con bắt đầu cảm thấy được nối kết với chân sư đó và khi con tăng cường sự nối kết, con có thể đạt đến một điểm mà con có thể bắt đầu cảm thấy hợp nhất với một chân sư.

Và khi con trải qua tiến trình này ở các tầng cao hơn của Quả vị Ki-tô vượt quá tầng 96, con đang chuẩn bị cho sự xoay chuyển sang tâm thức thăng thiên, nơi con ở trong sự hợp nhất. Bây giờ chúng ta đã giải thích ở đây rất cẩn thận như Chỉ đạo Thiêng liêng đã giải thích rằng các khái niệm về “đúng” và “sai” đơn giản là không tồn tại trong tâm thức Ki-tô. Chà, tương tự như vậy, khái niệm về sự tách biệt, nó không tồn tại trong tâm thức Ki-tô và nó không tồn tại trong cõi thăng thiên! Vâng, tất nhiên, chúng ta có thể nhìn xuống như các chân sư thăng thiên trên một hành tinh như địa cầu và thấy rằng mọi người đang trong sự tách biệt nhưng chúng ta cũng thấy sự không thực của nó và đó là lý do tại sao ta nói nó không tồn tại bởi vì nó không có thực tại đối với chúng ta. Chúng ta thấy sự không thực của nó và nếu con có thể bắt đầu phá vỡ cảm giác tách biệt đó với cái ta cao của con, với vị thày tâm linh của con, con sẽ đẩy nhanh tiến trình dẫn đến sự thăng thiên. Con cũng sẽ chuẩn bị cho sự xoay chuyển sang trạng thái tâm thức thăng thiên.

Bây giờ trong Summit Lighthouse có khái niệm rằng một đợt truyền giáo đã được ban truyền để con có thể thăng thiên với 51 phần trăm nghiệp quả của con được quân bình. Và mọi người đã hình thành hình ảnh này rằng nếu ai đó đã quân bình hơn 51 phần trăm nghiệp quả của họ, thì sau khi thân xác qua đời, họ sẽ trở thành một chân sư thăng thiên. Họ thậm chí còn có điều này, khi họ được cho biết rằng một người nào đó đã thăng thiên, họ sẽ tự nhận phẩm vị của chân sư thăng thiên kia. Nhưng đây không phải là một quan điểm thực tế bởi vì nếu con chưa quân bình toàn bộ nghiệp quả của con, nếu con chưa giải quyết tất cả tâm lý nhị nguyên của con, con không thể xoay chuyển sang tâm thức thăng thiên. Con có một số người đã đạt đến một mức độ mà nghiệp quả của họ không bắt buộc họ phải trở lại đầu thai trên địa cầu nhưng điều đó không có nghĩa là họ có thể thăng thiên. Nó chắc chắn không có nghĩa là họ trở thành một chân sư thăng thiên. Họ phải trải qua một tiến trình thường dài để rũ bỏ lớp vỏ rắn của tâm tách biệt, tâm thức tách biệt và đón nhận sự hợp nhất của tâm thức Ki-tô.

Con nhìn lại sứ giả của Summit Lighthouse, người đã bị bệnh và về cơ bản là bị mất khả năng trên vỏ ngoài trong nhiều năm trước khi cô ấy rời bỏ thân xác vật lý, bởi vì cô ấy đã chọn rằng cô ấy muốn trải qua tiến trình này càng nhanh càng tốt để buông bỏ những tàn dư cuối cùng của sự tách biệt và đón nhận sự hợp nhất, sự hợp nhất hoàn toàn của trạng thái thăng thiên. Và cô ấy cảm thấy mình có thể làm điều này nhanh hơn bằng cách vẫn giữ một thân xác vật lý nhưng không thể hoạt động bình thường. Và có những sinh thể, có những người quân bình 51 phần trăm nghiệp quả của họ, không phải trở lại đầu thai và họ mất nhiều thời gian hơn để trải qua tiến trình này. Cũng có những người đã chọn, mặc dù họ đã quân bình 51 phần trăm nghiệp quả, để trở lại đầu thai vì họ nhận ra rằng điều đó sẽ nhanh hơn là cố gắng giải quyết mọi thứ khi ở bên ngoài một thân xác vật lý.

Con thấy đây, như chúng ta đã nói trước đây, chúng ta bắt đầu ban truyền những lời dạy của mình ở một mức độ nhất định dựa trên tâm thức tập thể. Chúng ta đã dần dần ban truyền những lời dạy cao hơn. Chúng ta bắt đầu ban truyền một phiên bản hơi đơn giản hóa về những gì cần để thăng thiên. Ví dụ, trong Phong trào I AM, “máy gia tốc nguyên tử” là một thiết bị khá máy móc, con có thể nói nếu nó thực sự có thể được chế tạo và bây giờ, chúng ta đang ban truyền cho con quan điểm này rằng sự thăng thiên là một tiến trình phức tạp và liên quan hơn nhiều. Nó phức tạp bởi vì khi các bầu cõi trở nên dày đặc hơn, tiềm năng đi vào nhị nguyên và tách biệt đã tăng lên. Các sinh thể làm gì khi họ đi vào sự tách biệt? Họ sử dụng tâm tách biệt để tạo ra một thứ gì đó dường như có thật đối với họ. Như chúng ta đã giải thích, những sinh thể đầu tiên sa ngã ở bầu cõi thứ tư, họ sa ngã vào bầu cõi thứ năm. Bầu cõi thứ năm không dày đặc như của con, của chúng ta. Có một giới hạn về việc mọi người có thể đi sâu vào sự tách biệt đến mức nào, về những ảo tưởng nào họ có thể tạo ra với tâm thức nhị nguyên mà dường như có thật đối với họ. Đơn giản là có những điều nhất định dường như không có thật vì những rung động cao hơn của bầu cõi. Nhưng bầu cõi của con dày đặc hơn và do đó, con có thể tạo ra, con có thể nói, những thế giới trong tâm trí mà dường như có thật khi con ở trong nhị nguyên.

Có những thế giới trong cõi cảm xúc, trong cõi lý trí, trong cõi bản sắc thấp hơn được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên và có những sinh thể ở đó hoàn toàn tin rằng đây là những thế giới có thật. Họ thậm chí còn tin rằng chúng cao hơn thế giới vật lý và chúng là thế giới cao nhất và họ là những sinh thể tiên tiến nhất. Con hiểu rằng đây là lý do tại sao con, với tư cách là một avatar từ một hành tinh tự nhiên, thực tế là không thể tránh bị mắc kẹt trong nhị nguyên. Đây cũng là lý do tại sao con cần một vị thày trong bầu cõi này nhiều hơn so với các bầu cõi trước, để nhìn thấu độ dày đặc mang lại một cảm giác hiện thực nhất định cho những gì được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên. Đó cũng là lý do tại sao khi con thăng thiên từ bầu cõi này, con có một trải nghiệm nhất định, trải nghiệm trực tiếp, mà các sinh thể đã thăng thiên từ các bầu cõi cao hơn không có và đó là lý do tại sao thế giới, thế giới hình tướng mà chúng ta đang ở, là một con đường hai chiều.

Ta biết rằng cho đến nay chúng ta chủ yếu trình bày nó như một con đường một chiều nơi năng lượng chảy từ các bầu cõi cao hơn vào bầu cõi này và từ cõi tâm linh vào thể bản sắc, thể lý trí, thể cảm xúc, thể vật lý. Nhưng chúng ta cũng đã nói rằng khi con nâng năng lượng lên, chúng sẽ chảy ngược lên theo một dòng chảy hình số 8 và sau khi con thăng thiên, con sẽ đi vào một dòng chảy hình số 8 với bầu cõi tiếp theo. Điều đó có nghĩa là “người cuối cùng sẽ trở thành người đầu tiên” theo nghĩa là họ trở thành những vị thày của những người đã thăng thiên trước họ, để dạy họ sự viên mãn của những gì có thể trải nghiệm trong thế giới hình tướng này. Bởi vì Đấng Sáng tạo muốn tất cả các sinh thể thăng thiên đều có được trải nghiệm đầy đủ. Nhưng tất nhiên không thể nào những người đã thăng thiên có thể đầu thai trong một bầu cõi chưa thăng thiên và đi vào nhị nguyên, nhưng tất nhiên, con là những phần nối dài của họ.

Như chúng ta đã dạy con gần đây, rằng con, cái Ta Biết, có thể dạy cho Hiện diện TA LÀ điều gì đó dựa trên những trải nghiệm của con khi ở trong thể hiện thân, thì những người đã thăng thiên từ bầu cõi thứ bảy có thể dạy cho những người ở bầu cõi thứ sáu và thậm chí lên đến các bầu cõi cao nhất. Nhưng điều này tất nhiên chỉ có thể được thực hiện không phải với tư cách là những sinh thể tách biệt mà bằng cách hợp nhất với cõi thăng thiên. Và không phải tất cả các con đều có nhiệm vụ hoặc chọn lựa này sau khi con thăng thiên để dạy theo cách này nhưng một số con sẽ làm và con sẽ làm điều này thông qua trách vụ Ki-tô Hoàn vũ, nơi vươn lên đến tận cùng. Ta biết ta đã ban truyền cho con một giáo lý sâu rộng hơi thâm sâu, nhưng ta cảm thấy đã đến lúc tiết lộ cái nhìn cao hơn này về ý nghĩa thực sự của Quả vị Ki-tô. Vì Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô, là tâm của sự hợp nhất. Chẳng phải là lô-gíc sao khi nó nối kết con ở đây với những người đã thăng thiên ngay cả đến bầu cõi thứ nhất? Và chẳng phải là lô-gíc sao khi có thể có dòng chảy hình số 8 đó, nơi một điều gì đó chảy ngược lên và do đó, những người ở mức độ cao hơn được hưởng lợi từ những trải nghiệm con đang có ở đây?

Những người trong các con biết mình là avatar có lẽ có thể có được một góc nhìn sâu sắc hơn về toàn bộ trải nghiệm đến địa cầu của mình. Và con có thể nói: “Vâng, nó đã rất khó khăn nhưng nếu trải nghiệm của tôi trở thành một phần của toàn bộ tiến trình hoàn vũ thì chẳng phải đáng giá sao, đặc biệt là bây giờ tôi có một giáo lý có thể giúp tôi thoát khỏi nhị nguyên?” Vì tự nhiên, dễ dàng hơn để trân trọng một hành tinh như địa cầu khi con có thể thấy rằng: “Ồ, có cánh cửa với biển báo thoát hiểm” hơn là khi con cảm thấy hoàn toàn bị mắc kẹt ở đây mà không có lối thoát.

Cho phép ta kết thúc bằng một lời nhẹ nhàng hơn. Có một lối thoát nhưng đó là lối vào. Với điều này, ta niêm phong con trong ngọn lửa của Ki-tô Hoàn vũ mà ta nắm giữ cho địa cầu.

Ta Là Maitreya.

14 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Đại Chỉ đạo Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư, Chỉ đạo Thiêng liêng. Điều tôi đến để trao tặng các con là một, chúng ta có thể nói là, dụng cụ thiết thực để các con có thể gia tăng sự hòa điệu của mình với tâm Ki-tô, với Hiện diện TA LÀ của các con và với bất cứ chân sư nào ở gần các con nhất. Giờ đây tôi đã ban dụng cụ này trước đây rồi, theo nghĩa là nó là một bài chú chín ngày mà các con có thể đọc bài chú của tôi chín lần và rồi các con ngồi với một tập giấy và các con viết xuống bất cứ điều gì đến với các con. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là các con có thể thực hiện một bài chú chín ngày như vậy với mục đích cụ thể là đến để thấy các yếu tố tâm lý của các con mà các con cần thấy ở cấp độ hiện tại trên con đường của các con. Nói cách khác, nó không phải là về việc có được một viễn quan nào đó về cách đối phó với tình huống bên ngoài của các con, cách đối phó với các khía cạnh thiết thực của cuộc sống. Mục đích của việc này là để thấy các điểm nghẽn trong tâm lý của các con mà các con đang đối mặt ngay bây giờ ở cấp độ hiện tại của các con và điều mà các con cần thấy để vươn lên cấp độ cao hơn kế tiếp.

Các con không cần phải sử dụng bài chú của tôi cho việc này. Tôi biết rằng tất cả các con đều có một vị chân sư nào đó mà các con gần gũi hơn những vị khác và nếu các con biết vị chân sư đó là ai, thì các con hãy lấy bài chú của vị chân sư đó, đọc nó chín lần, rồi viết xuống. Nếu các con không biết một vị chân sư cụ thể nào mà các con gần gũi hơn, thì hãy sử dụng bài chú của tôi. Nhưng điểm quan trọng ở đây là các con thực hiện phần mở đầu, các con dâng hiến việc này cho lòng ham muốn của các con để thấy nó là gì, ngã tiềm thức nào, ảo tưởng nào mà các con đang làm việc với ở cấp độ hiện tại của các con. Rồi các con đọc bài chú chín lần và rồi không suy nghĩ, không phân tích, không dự đoán, các con chỉ đơn giản viết xuống những gì đến với các con. Bất cứ điều gì, các con hãy viết xuống. Sau khi các con hoàn tất việc này, các con có thể gạt nó sang một bên hoặc các con có thể đọc lại ngay lập tức, và lúc ban đầu, có thể có một số ảnh hưởng từ tự ngã của các con, từ các ngã tiềm thức mang lại cho các con một động lực về những gì các con nên làm hoặc cách các con đặc biệt và vai trò của các con có thể là gì và các con có thể làm gì cho hành tinh trong tương lai. Một số viễn quan như vậy về những điều bên ngoài, điều này các con hoàn toàn bỏ qua, vì mục đích của nghi thức này chỉ là tâm lý học.

Bất cứ điều gì được tập trung vào tâm lý của các con, điều đó các con có thể lấy, các con có thể cố gắng hiểu nó, cố gắng đến để thấy những gì các con không thấy. Các con có thể, nếu có một vấn đề cụ thể, cố gắng tìm một số sách về tâm lý học nói về nó, cố gắng tìm những giáo lý của chúng tôi nói về điều này, và rồi các con làm việc trên nó. Các con sử dụng các dụng cụ từ những cuốn sách “Chữa lành Các chấn thương Tâm linh của các con” để có được một viễn quan rõ ràng về điều này, các con đọc các bài chú của các con để tiêu trừ năng lượng và rồi khi các con cảm thấy mình đã làm việc xong một vấn đề cụ thể, thì các con có thể tiếp tục bài chú chín ngày nếu các con muốn. Các con cũng có thể đọc bài chú chín ngày vào ngày hôm sau để đạt được sự rõ ràng về vấn đề này, vấn đề cụ thể này, để các con không chuyển sang một vấn đề khác trước khi các con cảm thấy mình đã giải quyết xong vấn đề đầu tiên. Giờ đây có thể là các con không nhận được bất cứ điều gì về tâm lý của các con, thì các con hãy tiếp tục đọc bài chú chín ngày và bất cứ điều gì không liên quan đến tâm lý mà các con viết xuống, các con chỉ cần bỏ qua nó. Các con hãy đọc bài chú chín ngày vào ngày hôm sau và các con hãy tiếp tục làm nó cho đến khi các con nhận được điều gì đó về tâm lý chưa giải quyết bởi vì tôi đảm bảo với các con rằng nếu các con cởi mở và sẵn lòng, các con sẽ vào một lúc nào đó nhận được điều gì đó.

Tôi cũng muốn ban cho các con một số giáo lý về quả vị Ki-tô, và danh hiệu của tôi là Chỉ đạo Thiêng liêng và tất nhiên nó báo hiệu sự chỉ đạo thiêng liêng. Tôi được trù định để ban cho con người sự chỉ đạo thiêng liêng. Nhiều người trong nhiều thập kỷ qua đã nghĩ rằng khi các con đi trên con đường quả vị Ki-tô, các con đạt được càng ngày càng nhiều sự chỉ đạo thiêng liêng và các con đạt được một sự chỉ đạo thiêng liêng càng ngày càng rõ ràng hơn.

Điều đó có thật không? Vâng, vừa phải vừa không, bởi vì nó tùy thuộc vào quan điểm của các con về chỉ đạo thiêng liêng. Tự ngã muốn trình bày quan điểm rằng chỉ đạo thiêng liêng phải là bất khả sai lầm, rằng chỉ đạo thiêng liêng nếu các con tuân theo nó, phải mang lại cho các con những gì tự ngã muốn, sự an ninh rằng nó không bao giờ có thể sai lầm. Nhưng như các chân sư khác đã nói đến, có những vấn đề trên trái đất được tạo ra bởi tâm thức nhị nguyên mà tâm Ki-tô không có giải pháp cho chúng bởi vì giải pháp duy nhất là thăng vượt tâm thức đã tạo ra vấn đề. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã nghĩ: “Ồ, tôi đang đối mặt với một tình huống cụ thể trong đời tôi, tôi không biết phải làm gì, tôi không muốn làm điều sai trái, tôi muốn làm điều phải lẽ, vì vậy tôi sẽ đọc bài chú chín ngày cho Đấng Chỉ đạo Thiêng liêng Vĩ đại và chắc chắn ngài sẽ nói cho tôi biết điều phải lẽ phải làm trong tình huống này.” Nhưng nếu con người quá tập trung vào tình huống bên ngoài và đạt được kết quả bên ngoài, tôi không có gì để ban cho họ. Tôi không thể ban cho họ sự chỉ đạo, tôi không thể nói cho họ biết các con nên làm điều này bởi vì bất kể họ làm gì từ cấp độ tâm thức hiện tại của họ, nó sẽ không dẫn đến kết quả họ mong muốn.

Điều này một phần là vì kết quả họ mong muốn dù sao cũng không thực tế bởi vì nó dựa trên viễn quan của tự ngã. Nhưng nó cũng là vì bất cứ điều gì họ có thể làm cũng sẽ không giải quyết được tình huống bởi vì nhiều tình huống trên trái đất, đặc biệt là các xung đột giữa con người, không có giải pháp lý tưởng. Không có kết quả tối hậu. Vâng, các con có thể nói kết quả tối hậu là các con sử dụng tình huống làm một dụng cụ để thăng vượt một ngã tiềm thức cụ thể đang khiến các con phản ứng theo cách các con đang làm với tình huống. Nhưng đó không phải là điều con người đang tìm kiếm khi họ đang tìm kiếm một sự chỉ đạo thiêng liêng và xem nó như một điều gì đó đến với họ từ bên ngoài bản thân họ mà sẽ giúp họ luôn luôn chiến thắng. Các con thấy đó, chỉ đạo thiêng liêng không can thiệp vào quyền tự quyết của con người. Chỉ đạo thiêng liêng không tìm cách giải quyết các vấn đề được tạo ra bởi tâm thức nhị nguyên. Vì chỉ đạo thiêng liêng thấy rằng chúng không có giải pháp. Chỉ đạo thiêng liêng làm gì? Giúp các con thấy các ảo tưởng trong tâm lý của chính các con để các con có thể vươn lên cấp độ cao hơn kế tiếp vì đó là theo một nghĩa nào đó sự chiến thắng của Ki-tô mỗi khi các con vươn lên một cấp độ tâm thức cao hơn.

Các con thấy đó một lần nữa, nhiều người đã tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên, nghe nói về con đường đến quả vị Ki-tô và họ nghĩ đó là vấn đề hàng phục Ki-tô, hàng phục các chân sư thăng thiên. Có họ nói cho tôi biết phải làm gì, cách sống đời tôi. Và vâng, chúng tôi đã nói về sự buông bỏ. Sứ giả này đã nói về sự buông bỏ. Và vâng, điều cơ yếu là phải buông bỏ. Nhưng các con đang buông bỏ điều gì? Các ảo tưởng của các con, ngã tiềm thức của các con. Các con không buông bỏ sự sẵn lòng đưa ra các chọn lựa của các con. Các con không buông bỏ sự sẵn lòng nhận trách nhiệm về cuộc sống của các con và đưa ra các chọn lựa cần phải được thực hiện trong các tình huống cụ thể. Một số người đã đến con đường và họ đã cảm thấy: “Tôi sẵn lòng buông bỏ ý muốn bên ngoài của tôi, chỉ cần nói cho tôi biết phải làm gì và tôi sẽ làm.” Nhưng các con thấy đó, buông bỏ không có nghĩa là buông bỏ quyền tự quyết của các con. Các con không thể buông bỏ quyền tự quyết của các con cho Ki-tô hoặc các chân sư thăng thiên. Các con có thể buông bỏ quyền tự quyết của các con cho tự ngã hoặc cho người khác hoặc cho các tà lực bên ngoài, và họ sẽ nói cho các con biết cách đưa ra các chọn lựa hoặc đưa ra các chọn lựa thay mặt các con.

Nhưng Ki-tô là người bảo vệ quyền tự quyết và do đó, sẽ không cho phép các con buông bỏ quyền tự quyết của các con. Tôi có thể đảm bảo với các con rằng nếu tôi, với tư cách là một chân sư thăng thiên, người ở cấp độ còn cao hơn các Thượng sư, nếu tôi nói cho các con biết cách sống đời các con, tôi có thể đảm bảo với các con điều này sẽ không dẫn các con đến sự thăng thiên của các con. Tại sao tôi lại làm điều đó? Tất nhiên tôi sẽ không, nhưng tôi đang nói, hãy từ bỏ ảo tưởng này rằng các con có thể hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách buông bỏ quyền tự quyết của các con. Không, chính bằng cách đón nhận quyền tự quyết của các con mà các con hội đủ tư cách thăng thiên. Chính bằng cách đón nhận quyền tự quyết của các con mà các con đi trên con đường quả vị Ki-tô. Con đường quả vị Ki-tô là gì? Như chúng tôi đã giải thích rất nhiều lần, đó là về việc đến để thấy một ảo tưởng mà các con đang bám lấy là nền tảng cho một ngã tách biệt và rồi một cách ý thức đưa ra chọn lựa để từ bỏ ảo tưởng đó. Một cách ý thức. Nếu các con không làm điều đó một cách ý thức, làm sao nó được thể nhập vào căn thể của các con? Làm sao Hiện diện TA LÀ của các con lớn lên? Làm sao ý niệm bản ngã của các con lớn lên? Các chọn lựa ý thức là nền tảng để vươn lên cấp độ kế tiếp trên con đường.

Nhưng các chọn lựa ý thức cũng là nền tảng để điều hành tình huống bên ngoài của các con trong cuộc sống theo một cách tốt hơn và tốt hơn. Nó sẽ không cải thiện tình huống bên ngoài của các con nếu một chân sư thăng thiên nói cho các con biết phải làm gì. Nó cũng sẽ không cải thiện tình huống nội tâm của các con. Các con lớn lên, các con thăng vượt ý niệm bản ngã của các con, các con vươn lên các cấp độ quả vị Ki-tô cao hơn bằng cách đưa ra các chọn lựa, trải nghiệm các hậu quả, lượng định các hậu quả, lượng định phản ứng của các con đối với tình huống ban đầu và phản ứng của các con đối với các hậu quả, tìm kiếm một ngã tách biệt gây ra phản ứng đó, thấy ảo tưởng, một cách ý thức từ bỏ nó, do đó, vươn lên cấp độ kế tiếp. Các con không thể đi trong giấc ngủ trên các cấp độ tâm thức. Nó chỉ có thể được thực hiện một cách ý thức bằng cách đưa ra các chọn lựa ý thức. Nếu các con từ bỏ quyền tự quyết của các con, các con không đưa ra các chọn lựa ý thức.

Sự xoay chuyển nào các con có thể thực hiện để làm điều này dễ dàng hơn? Các con có thể từ bỏ toàn bộ ý tưởng rằng có những chọn lựa đúng đắn và chọn lựa sai lầm. Chúng ta đã thấy gì trong các thập kỷ qua khi chúng ta đã nói về các chân sư thăng thiên và con đường tâm linh và con đường đến quả vị Ki-tô? Nhiều người đã nghĩ rằng để đi trên con đường, để thành công, các con phải đưa ra các chọn lựa đúng đắn và không đưa ra các chọn lựa sai lầm. Họ nghĩ chìa khóa để đi trên con đường là luôn luôn đưa ra chọn lựa đúng đắn và không bao giờ đưa ra chọn lựa sai lầm. Một lần nữa, giữa cấp độ 48 và 96, có một điều gì đó đúng với điều này, theo nghĩa là chắc chắn có những chọn lựa có thể khiến các con bị mắc kẹt hơn trong một tâm lý nhất định, trong một ngã nhất định, và có những chọn lựa khác có thể giúp các con thoát khỏi nó. Nhưng nhiều người cũng nghĩ rằng có những chọn lựa bên ngoài có thể đúng hoặc sai. Nhưng khi các con đến cấp độ 96 đó, các con có thể thực hiện một sự chuyển đổi ý thức và nhận ra rằng đúng và sai là các khái niệm nhị nguyên. Chúng chỉ tồn tại trong tâm nhị nguyên. Chúng được định nghĩa bởi tâm nhị nguyên. Điều gì đúng và sai được định nghĩa bởi tâm nhị nguyên.

Trong tâm Ki-tô, không có đúng và sai. Hãy suy ngẫm về lời phát biểu đó nếu nó gây sốc cho các con. Làm sao có thể có đúng và sai trong tâm Ki-tô? Mục đích của tâm Ki-tô là hợp nhất các con với nguồn gốc của các con. Các con, tất nhiên, luôn luôn có thể lấy những khái niệm này và nói: “Vâng, vậy thì điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì giúp tôi đến gần hơn với sự hợp nhất là chọn lựa đúng đắn và bất cứ điều gì đưa tôi ra xa khỏi nó là chọn lựa sai lầm.” Nhưng các con thấy đó, Ki-tô thậm chí không nhìn theo cách này. Ki-tô chỉ nhìn vào cách các con có thể đến gần hơn với sự hợp nhất, cách các con có thể sử dụng bất kỳ chọn lựa nào trước đây các con đã thực hiện để đưa ra một chọn lựa cao hơn mang các con đến gần hơn với sự hợp nhất? Không quan trọng các con đã đưa ra những chọn lựa nào trước đây. Các con luôn luôn có thể học hỏi từ một chọn lựa, và khi các con học hỏi, các con sẽ đến gần hơn với sự hợp nhất. Đó là tất cả những gì tâm Ki-tô và các chân sư thăng thiên của các con quan tâm. Mục tiêu của chúng tôi là, trong bất kỳ tình huống nào, bất cứ nơi nào các con đang ở, nâng các con lên bước kế tiếp. Và các con có thể nhận ra điều đó. Rằng đi trên con đường quả vị Ki-tô không phải là vấn đề đưa ra các chọn lựa đúng đắn và tránh các chọn lựa sai lầm. Đó là vấn đề đưa ra các chọn lựa trong các tình huống cụ thể dựa trên cấp độ tâm thức hiện tại của các con, rồi lượng định các chọn lựa và các hậu quả, phản ứng của các con, để đến để thấy ảo tưởng các con có ở cấp độ tâm thức hiện tại của các con để các con có thể vươn lên cấp độ cao hơn kế tiếp. Đến một lúc nào đó các con cần phải một cách ý thức từ bỏ ý tưởng rằng có những chọn lựa đúng và sai và đón nhận sự thật gây sốc của tâm Ki-tô, rằng trong tâm Ki-tô các khái niệm đúng và sai không tồn tại. Không phải là chúng sai. Chúng đơn giản là không có ở đó trong tâm Ki-tô. Điều này có thể gây sốc hoặc có thể khó nắm bắt.

Nhưng điều gì cuối cùng là ngọn lửa chỉ đạo thiêng liêng mà tôi nắm giữ cho trái đất? Đó là một ngọn lửa mà khi các con gặp nó, các con nhận ra, như Giê-su đã nói đến, rằng tâm Ki-tô không di chuyển. Bất kể các con đẩy mạnh đến đâu từ tâm tách biệt, các con không thể di chuyển tảng đá Ki-tô. Chỉ đạo thiêng liêng không phải là về đúng và sai. Chỉ đạo thiêng liêng là về việc giúp các con thăng vượt nhị nguyên. Vâng, chỉ đạo thiêng liêng còn nhiều hơn thế, nhưng khi nó đến trái đất như một hành tinh phi tự nhiên, mục tiêu chính của chỉ đạo thiêng liêng là giúp các con thăng vượt nhị nguyên. Và khi các con đạt đến cấp độ 96 đó và đi xa hơn một chút, các con có thể đến điểm đó nơi các con có thể một cách ý thức đưa ra quyết định thăng vượt toàn bộ ý tưởng rằng có những chọn lựa đúng và sai. Và các con làm điều này bằng cách trụ vững vào thực tại Ki-tô rằng trong tâm Ki-tô, những gì được tạo ra từ nhị nguyên không tồn tại. Nó không có thực tại.

Không phải là tâm Ki-tô không thấy nó, nó thấy rằng con người bị mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô. Nhưng tâm Ki-tô không thấy tâm phản Ki-tô như chống lại chính nó, như đối lập với chính nó. Tâm Ki-tô thấy rằng con người bị mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô, nhưng nó thấy sự không thực của phản Ki-tô. Nó không thấy thực tại nào trong Ki-tô. Con người có thể nghĩ tâm phản Ki-tô là thật. Sa nhân nghĩ rằng bằng cách định nghĩa một tâm chống lại tâm Ki-tô, đối lập với tâm Ki-tô, họ nghĩ rằng họ đã tạo ra một nhị nguyên mới, họ nghĩ họ đã tạo ra một nhị nguyên giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô. Đây là sự kiêu ngạo tâm linh của họ mà họ tin rằng họ có quyền năng ảnh hưởng đến tâm Ki-tô và tạo ra một sự đối lập với tâm Ki-tô. Nhưng trong tâm Ki-tô không có thực tại nào cho những tưởng tượng của họ. Họ thấy từ tâm thức sa ngã tâm phản Ki-tô như một đối cực nhị nguyên đối lập với tâm Ki-tô. Nhưng điều này chỉ có vẻ là thật trong tâm trí của họ. Trong tâm Ki-tô nó không có thực tại nào cả.

Và điều này các con có thể đến để trải nghiệm, không phải hiểu, mà trải nghiệm sự tương phản nơi các con gặp phải sự bất di bất dịch của tâm Ki-tô và do đó, các con trải nghiệm sự không thật của cái gọi là tâm phản Ki-tô.

Tại sao sa nhân có thể tạo ra ảo tưởng rằng họ đang đối lập với tâm Ki-tô? Bởi vì họ không trải nghiệm thực tại của tâm Ki-tô. Họ đã tạo ra một tâm ảnh của tâm Ki-tô và tâm ảnh này tạo thành một đối cực nhị nguyên và tâm phản Ki-tô tạo thành một đối cực nhị nguyên khác, vậy thì, vâng, họ đã trong tâm trí của họ tạo ra một đối cực giữa hình ảnh sai lầm của họ về tâm Ki-tô và hình ảnh thực sự sai lầm của họ về tâm phản Ki-tô. Cả hai đều không thật như tất cả các đối cực nhị nguyên đều không thật. Và đây là điều các con có thể trải nghiệm khi các con đạt đến các cấp độ đó của con đường. Và khi các con trải nghiệm nó, các con có thể từ bỏ toàn bộ tập hợp các ý tưởng rằng đi trên con đường đến quả vị Ki-tô là về việc đưa ra các chọn lựa đúng đắn và không đưa ra các chọn lựa sai lầm. Các con thấy rằng các con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, một hành tinh rất dày đặc. Các con thấy rằng hầu hết mọi người bị mắc kẹt trong nhị nguyên. Các con thậm chí có thể bắt đầu trụ vững vào lý duyên khởi của Đức Phật nơi các con nhận ra rằng trong mọi tình huống có vô số yếu tố ảnh hưởng đến tình huống.

Và vì sự phức tạp của các yếu tố duyên khởi này, việc nhìn vào một tình huống và nói: “Ồ chỉ có một kết quả đúng đắn của tình huống này và tất cả những cái khác đều sai, hoặc chỉ có một kết quả sai và đó là vấn đề tránh nó” là vô nghĩa. Thay vào đó các con có thể nhận ra rằng trong mọi tình huống có một cơ hội để đưa ra một chọn lựa và lớn lên từ việc đưa ra chọn lựa đó. Các con làm gì khi các con suy nghĩ theo đúng và sai? Vâng, nếu các con đưa ra điều mà các con nghĩ là một chọn lựa sai lầm, có lẽ vì các con đưa ra một chọn lựa và nó không dẫn đến hậu quả các con mong đợi, các con làm gì? Các con tự hạ thấp mình. Các con cuối cùng có thể tự tê liệt nếu các con không dám đưa ra các chọn lựa. Đó là tình huống của hầu hết mọi người trên trái đất. Họ quá sợ hãi việc đưa ra các chọn lựa sai lầm dựa trên những vết thương từ tiền kiếp của họ đến nỗi họ không dám đưa ra bất kỳ chọn lựa nào, họ không dám nhận trách nhiệm. Họ muốn một kẻ độc tài nói cho họ biết cách sống đời của họ. Hoặc nếu các con đưa ra các chọn lựa đúng đắn, các con có thể xây đắp tự ngã của các con hướng tới ý niệm bất khả sai lầm mà một số sa nhân đã phát triển, nghĩ rằng tự ngã của họ là bất khả sai lầm.

Các con thấy gì trên trái đất? Các con thấy rằng đây là một nhóm người không muốn đưa ra quyết định. Đây là một kẻ độc tài nghĩ tự ngã của hắn là bất khả sai lầm, và hắn đang đưa ra các chọn lựa và con người đang mù quáng tuân theo nó để nó củng cố ý niệm bất khả sai lầm của hắn, hội chứng bất khả sai lầm. Các con đã thấy bao nhiêu nhà lãnh đạo thế giới trong lịch sử bị mắc kẹt trong hội chứng bất khả sai lầm này? Các con thấy bao nhiêu nhà lãnh đạo thế giới đang bị mắc kẹt trong đó ngày nay? Nhưng các con có thể tránh toàn bộ kịch bản này bằng cách chỉ cần nhận ra rằng mọi chọn lựa là một cơ hội để lớn lên. Kết quả không quan trọng. Không có gì trong vật chất là quan trọng. Chính sự thăng vượt vật chất mới là quan trọng. Sự thăng vượt tư duy rằng vật chất có thể định nghĩa các con là tinh thần, nơi các con đạt đến nhận biết cao hơn đó là điều các con đạt được khi các con vượt qua khúc quanh ở cấp độ 96 đó, nơi các con hoàn toàn chấp nhận các con là một sinh thể tâm linh.

Vâng, các con đã thích nghi với bản thân. Các con có những ngã đó từ cấp độ 96 đến 144 mà các con đã khoác vào để hiện thân trên trái đất. Nhưng ngay cả chúng cũng không định nghĩa các con. Các con là một sinh thể tâm linh. Các con không bị định nghĩa bởi bất cứ điều gì trong thế giới vật chất và bởi thế giới vật chất tôi có nghĩa là cả bốn tầng của vật chất. Các con không bị định nghĩa bởi nó. Và do đó, các con có thể vươn lên từ cấp độ này sang cấp độ kế tiếp, vứt bỏ xiềng xích đó, tự do hơn, vứt bỏ cái kế tiếp, và các con làm điều đó bằng cách nào? Bằng cách chỉ cần đưa ra các chọn lựa, nhìn vào các tình huống. Điều xảy ra là khi các con đi đến các cấp độ cao hơn này của con đường, nhưng dù sao ngay cả ở các cấp độ thấp hơn, là cấp độ tâm thức của các con sẽ từ tính hóa các tình huống nhất định đến với các con. Nếu các con đang ở, chẳng hạn, cấp độ 98, các con sẽ từ tính hóa đến bản thân một tình huống bên ngoài nhất định mà đối với các con đại diện cho cơ hội tối ưu để thấy ảo tưởng các con nắm giữ ở cấp độ 98, buông bỏ ngã đó và vươn lên cấp độ 99. Và nó sẽ là như vậy ở mọi cấp độ lên đến cấp độ 144. Nó ở một mức độ nào đó là như vậy từ cấp độ 48 đến 96, nhưng không dễ dàng cho các con để nhận biết điều này. Nhưng khi các con đạt đến cấp độ 96 đó, các con có cơ hội bước lên và từ bỏ toàn bộ ý tưởng về đúng và sai, chỉ cần thấy rằng trong sự phức tạp vô cùng của lý duyên khởi, không có chọn lựa đúng và sai, vì mọi chọn lựa là một cơ hội để vươn lên một cấp độ cao hơn.

Và cơ hội để vươn lên là cốt tủy của chỉ đạo thiêng liêng. Và nếu các con không cởi mở với điều này, các con không thể nhận được chỉ đạo thiêng liêng.

Tôi hy vọng rằng với điều này tôi đã giúp được một số các con, những người đã sẵn sàng, để thực hiện sự xoay chuyển ý thức đó của việc cởi mở hơn.

Và với điều này tôi niêm các con trong Ngọn lửa Chỉ đạo Thiêng liêng đó. Tôi là Chỉ đạo Thiêng liêng.

13 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Giê-su

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Đức Thăng Thiên Chân Sư Giê-su Ki-tô. Tôi có gì để nói về Quả vị Ki-tô? Chà, lẽ đương nhiên, tất cả các chân sư đã phát biểu trước tôi đều tập trung vào các khía cạnh đặc thù của Quả vị Ki-tô, và vì vậy, tôi cũng sẽ tập trung vào một khía cạnh đặc thù, đó là sự chiến thắng hay thắng lợi. Khi các con nhìn lại xuyên suốt các thời đại về phong trào Cơ đốc giáo và các giáo hội Cơ đốc giáo, các con thấy rằng nhiều, rất nhiều người mộ đạo, dù thuộc giáo hội hay giáo phái này hay giáo phái kia, đã có nhiều viễn quan khác nhau về việc Ki-tô quay trở lại trái đất trong một thị hiện chiến thắng không thể chối cãi nào đó, nơi mà tôi sẽ chinh phục tất cả tà lực, đánh tan tất cả tà lực và chinh phục tất cả những gì chống đối lại sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất, điều mà đối với hầu hết những người Cơ đốc giáo này có nghĩa là tôi, Đấng Ki-tô, sẽ đến và chinh phục tất cả những người mà những người Cơ đốc giáo không thích. Một chủ đề mà các con thấy lặp đi lặp lại ngay cả trong những người Cơ đốc giáo ngày nay. Các con hãy nhìn sang Hoa Kỳ, có biết bao nhiêu người nghĩ rằng họ đã chiến thắng trong cuộc bầu cử, họ đang chiến thắng, và một ngày không xa Ki-tô sẽ trở lại, và họ, trong giáo phái đặc thù của họ, sẽ được nâng lên làm những người thực sự là môn đồ chân chính của Ki-tô.

Xin tôi hỏi các con một câu hỏi đơn giản: “Điều gì trong câu chuyện đời tôi ủng hộ ảo tưởng về Đấng Ki-tô chiến thắng mọi thứ này?” Các con có nhận ra hầu hết các đệ tử của tôi, hầu hết những người đã đi theo tôi, cảm thấy thế nào sau khi tôi chết trên thập tự giá không? Các con có nhận ra rằng hầu hết họ đều cảm thấy hoàn toàn suy sụp, hoàn toàn thất bại không? Bởi vì họ cũng có một ảo tưởng nhất định rằng tôi sẽ không chết trên thập tự giá, mà bằng cách nào đó Thượng đế sẽ cứu tôi, và tôi sẽ chiến thắng. Về vấn đề đó, tôi cũng đã có một chút ảo tưởng đó, và chỉ khi tôi đang treo trên thập tự giá thì tôi mới hoàn toàn nhận ra và công nhận rằng: “Vâng, thân thể tôi sẽ chết trên thập tự giá, và Thượng đế sẽ không đến cứu tôi.” Vì vậy, tôi đã phải “rũ bỏ hồn ma” đó, cái ta tách biệt cuối cùng đó, cái ta đã có ảo tưởng rằng Ki-tô sẽ chiến thắng trong thế giới này. Làm sao Ki-tô có thể chiến thắng trên một hành tinh phi tự nhiên như trái đất khi Ki-tô là nền tảng cho việc thực thi quyền tự quyết? Những lời dạy mà chúng tôi đã ban cho các con giải thích điều này một cách sâu sắc hơn bao giờ hết.

Tâm Ki-tô được Đấng Sáng tạo định nghĩa bởi vì Đấng Sáng tạo biết rằng để khám phá sự viên mãn của quyền tự quyết, một số sinh thể sẽ đi vào nhị nguyên. Và Tâm Ki-tô, do đó, là cái trao cho con người cơ hội trở lại hợp nhất. Nhưng điều này phải xảy ra trong định luật của quyền tự quyết. Nếu Ki-tô xuất hiện trong một thị hiện không thể chối cãi nào đó và đánh tan kẻ thù của Thượng đế và cưỡng ép thiết lập vương quốc Thượng đế trên trái đất, điều đó có phải là một sự vi phạm định luật của quyền tự quyết do Đấng Sáng tạo thiết lập không? Chắc chắn rồi. Và Ki-tô là gì? Ồ vâng, yếu tố hợp nhất giữa Đấng Sáng tạo và tạo vật của Ngài. Nếu Ki-tô xuất hiện và cưỡng ép vương quốc Thượng đế lên con người trái đất, thì chính Ki-tô sẽ đi ngược lại ý định của Thượng đế, ý định của Đấng Sáng tạo. Nhưng Ki-tô không bao giờ có thể làm điều đó bởi vì Ki-tô được Đấng Sáng tạo định nghĩa là hợp nhất thông qua quyền tự quyết. Đấng Sáng tạo không muốn các phần nối dài của Ngài đi vào hợp nhất với Đấng Sáng tạo bằng vũ lực, mà chỉ thông qua những chọn lựa quyền tự quyết của họ. Ki-tô sẽ mãi mãi tôn trọng điều đó. Ngài không thể làm gì khác.

Bây giờ các con, những đệ tử trực tiếp của Đức Thăng Thiên Chân Sư Giê-su Ki-tô, không phải là cái nhìn sùng bái thần tượng được các giáo hội Cơ đốc giáo đề xướng, các con có thể hỏi: “Chà, điều này áp dụng thế nào vào đời sống hằng ngày của chúng con?” Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong những thập kỷ qua đã nghĩ rằng: “Khi tôi đi trên con đường Quả vị Ki-tô và đạt được một mức độ tâm thức Ki-tô, điều này có nghĩa là tôi sẽ chiến thắng trong mọi việc tôi làm.” Chẳng hạn một ví dụ: “Nếu tôi có sự thật của Ki-tô, tôi sẽ có thể thắng mọi cuộc tranh luận với người khác bởi vì tôi sẽ có sự thật, và họ sẽ không có.” Nhưng ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng đã tạo ra nhiều ảo tưởng khác nhau về những khả năng, những khả năng đặc biệt nào họ sẽ thu hoạch được khi đi trên con đường Quả vị Ki-tô. Nhưng những ảo tưởng này đến từ đâu? Chà, như tôi đã nói, chúng không thể đến từ Tâm Ki-tô, vì vậy chúng phải đến từ tâm phản Ki-tô, tâm tách biệt, tâm thức nhị nguyên. Và chúng tôi đã giải thích gì về tự ngã? Nó muốn trở nên bất diệt, nhưng ở mức độ tức thì, nó muốn cảm thấy an toàn. Và làm thế nào nó sẽ cảm thấy an toàn? Nếu nó có thể thiết lập quan điểm nhị nguyên của mình như là chân lý tối hậu, đó sẽ là chiến thắng tối hậu cho tự ngã.

Khi các con tìm thấy con đường Quả vị Ki-tô, nghe về khái niệm Quả vị Ki-tô, các con có thể làm gì khác ngoài việc để cái nhìn của mình về điều này, sự hiểu biết của mình về điều này bị tự ngã pha màu? Và do đó, thật dễ dàng để nghĩ rằng khi các con đi trên con đường Quả vị Ki-tô, các con sẽ có sự chứng thực cho thế giới quan tâm linh của mình, hoặc sự chứng thực của giáo lý chân sư thăng thiên, và rằng thế giới bằng cách nào đó sẽ công nhận giáo lý của các con là giáo lý cao trội, giống như những người Cơ đốc giáo mơ ước về việc thế giới công nhận giáo hội của họ là giáo hội chân chính duy nhất của Ki-tô. Một lần nữa, chúng tôi không chê trách ai cả, chúng tôi chỉ chỉ ra giai đoạn mà hầu hết các đệ tử chân sư thăng thiên đều trải qua.

Điều các con thấy ở đây là các con trải qua một giai đoạn nhất định trên đường tu tâm linh, nơi các con đang nghĩ, có lẽ không ý thức, nhưng nó ở ngay bên dưới mức nhận biết ý thức, rằng bằng cách nào đó Ki-tô sẽ chứng thực cái nhìn hiện tại của các con về thế giới và về bản thân các con. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, nếu Ki-tô chứng thực cái nhìn hiện tại của các con, điều gì sẽ xảy ra? Các con sẽ càng bị mắc kẹt hơn trong cái nhìn đó. Và cái nhìn hiện tại của các con không phải là cái nhìn tối hậu, nó bị tự ngã pha màu. Làm sao Ki-tô có thể chứng thực nó?

Và đó là lý do tại sao một số người tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên, áp dụng một cách nhiệt thành vào nó, cảm thấy như họ đang tiến bộ vượt bậc, và sau đó họ đến một điểm mà họ cảm thấy như: “Ồ, mọi thứ không còn thú vị như trước nữa, mọi thứ không còn mới mẻ như trước nữa.”, họ cảm thấy như họ không đạt được sự tiến bộ mà họ nghĩ mình sẽ đạt được, họ chưa thực sự đột phá và đạt được kết quả. Và cơ chế ở đây rất đơn giản. Mục đích của việc đi trên con đường Quả vị Ki-tô là, như chúng tôi đã giải thích, không biết bao nhiêu lần, hàng chục lần, là để giải quyết tâm lý. Nhưng tự ngã của các con không muốn các con nhận ra điều này, vì vậy tự ngã vẽ ra bức tranh này rằng bằng cách làm tất cả những điều vỏ ngoài các con sẽ đạt được kết quả vỏ ngoài bởi vì nó muốn phân tâm các con khỏi việc nhìn vào tâm lý của các con.

Bây giờ khi các con tìm thấy đường tu tâm linh, các con được ban cho một thời kỳ hồng ân nhất định. Chúng tôi có truyền rải một ánh sáng nhất định cho các con, để các con cảm thấy rằng mình đang thực sự tiến bộ. Nhưng nếu các con không neo trụ vào đường tu nội tâm và ý thức công nhận nhu cầu giải quyết tâm lý, thì sẽ đến một điểm mà chúng tôi phải rút lại ánh sáng đó. Nói cách khác, Ki-tô ở đó cho các con lúc ban đầu, ở đó với các con, nhưng nếu các con không đi vào đường tu nội tâm và bắt đầu giải quyết tâm lý, Ki-tô phải rút lui khỏi các con bởi vì nếu không thì Ki-tô sẽ chứng thực cái nhìn của các con về việc đường tu vỏ ngoài là đủ, và điều đó Ki-tô sẽ không làm. Nếu các con cảm thấy như thế này, các con đã hơi trì trệ một chút. Chỉ có một lối thoát duy nhất, đó là bắt đầu nhìn vào tâm lý, thực sự nhìn vào “cái xà trong mắt mình”.

Bây giờ có một hiện tượng trên đường tu mà tôi muốn các con chú ý. Các con có thể nói, để cho các con một ví dụ về điều này, hãy lấy những đệ tử và môn đồ của tôi đã có mặt trong phiên tòa của tôi, những người đã theo tôi khi tôi đi trên Con đường Đau khổ qua các đường phố Giê-ru-sa-lem, mang theo thanh ngang của thập tự giá, những người đã đứng đó, chứng kiến tôi bị đóng đinh, hy vọng vào một phép lạ, và rồi thấy tôi “rũ bỏ hồn ma”, trút hơi thở cuối cùng, thấy mũi giáo đâm vào sườn tôi và đi đến nhận ra: “Giê-su đã chết, ngài đã chết trên thập tự giá.” Đây là điều các con gọi là một sự thức tỉnh phũ phàng. Một số người gọi nó là trải nghiệm “đập đầu vào bê tông”, nơi các con đập đầu vào bê tông và nhận ra rằng bê tông sẽ không nhượng bộ. Đây là một thị hiện vật lý không thể chối cãi làm tan vỡ cái nhìn lý trí của các con về những gì nên và không nên xảy ra. Đó là một trải nghiệm gây sốc.

Không phải là hoàn toàn không thể tránh khỏi việc các con có những trải nghiệm gây sốc như vậy trên con đường Quả vị Ki-tô. Không phải tất cả mọi người đều có chúng, nhưng hầu hết mọi người sẽ có một số trải nghiệm gây sốc này bởi vì điều xảy ra là những kỳ vọng của các con, những hình tư tưởng của các con gặp gỡ thực tại của Tâm Ki-tô. Bây giờ trong một số trường hợp, điều này xảy ra bởi vì những kỳ vọng của các con gặp gỡ thực tại của bát cung vật lý, các hoàn cảnh vật lý. Nhưng đó không thực sự là điều tôi đang nói ở đây. Điều tôi đang nói là các con có một kỳ vọng nhất định, và bây giờ các con nối kết với Tâm Ki-tô, và nếu Tâm Ki-tô ban cho các con một khung tham chiếu cho phép các con thấy rằng kỳ vọng hoặc cái nhìn của các con, hình tư tưởng của các con đã lạc lõng với thực tại của Ki-tô, và các con có thể có trải nghiệm này rằng các con thấy sự không thật của hình tư tưởng của mình bởi vì Cái Ta Biết, khi gặp gỡ Tâm Ki-tô, bước ra ngoài hình tư tưởng và nhìn vào nó từ bên ngoài. Nó thấy ảo tưởng. Nó thấy sự không thật. Điều xảy ra với nhiều người lúc ban đầu khi họ lần đầu tiên có những trải nghiệm kiểu này là Cái Ta Biết bước ra khỏi một cái ta tiềm thức cụ thể và thấy sự không thật của cái nhìn được phóng chiếu bởi cái ta đó. Nhưng nó vẫn là Cái Ta Biết bị pha màu bởi một cái ta tiềm thức khác. Và điều này thường khiến các đệ tử thấy rằng họ đã bám víu vào một ảo tưởng mà họ đã tin một lời dối, nhưng họ bị pha màu bởi một cái ta khác mà bây giờ chê trách các con vì đã tin vào lời dối.

Các con cảm thấy toàn bộ trải nghiệm như một sự thức tỉnh rất phũ phàng nơi các con đang gặp gỡ thực tại của Ki-tô để thấy một ảo tưởng, nhưng các con vẫn bị pha màu bởi một ảo tưởng khác, và do đó, các con tự chê trách mình vì đã tin vào ảo tưởng đó. Cũng có, xuyên suốt các thời đại, những người Cơ đốc giáo đã chân thành phấn đấu để hiện thân giáo lý của Ki-tô đã có những trải nghiệm này. Một số đã đi đến chỗ xem mình là kẻ có tội: “Ồ tôi là một kẻ có tội khốn khổ bởi vì tôi đã thấy ảo tưởng này, và tôi không thấy rằng phản ứng của tôi bị pha màu bởi một ảo tưởng khác.”

Và một số các con có thể nhận ra những tình huống này, và một số các con không thể. Nhưng lý do tôi đưa ra điều này là điều tôi lý tưởng muốn thấy là các con đạt đến một điểm mà việc gặp gỡ thực tại của Ki-tô không phải là một cú sốc, và nó không khiến các con phải tự chê trách mình. Bây giờ trong khi các con đang đi trên con đường đó từ mức 48 đến mức 96, các con đang gặp gỡ thực tại của Ki-tô, nhưng thường thì các con không có sự thức tỉnh phũ phàng này bởi vì các con chỉ được ban cho đủ để giúp các con tiến lên từ một mức này sang mức tiếp theo. Nhưng khi các con tiến gần hơn đến mức 96 và để đi xa hơn mức 96, các con phải gặp gỡ Tâm Ki-tô trong thực tại không bị lọc của nó, và nếu các con vẫn có một cái ta tiềm thức tự phán xét mình, tự chỉ trích mình, tự hạ thấp mình vì không toàn hảo, thì đây có thể là một trải nghiệm rất khó chịu. Nhưng nếu các con có thể làm việc trên những cái ta này, thì nó không nhất thiết phải là một trải nghiệm khó chịu. Và lý tưởng là khi các con đi xa hơn mức 96 đó, các con sẽ gặp gỡ Ki-tô trong một thị hiện ngày càng thuần khiết hơn, nhưng nó sẽ không khiến các con phải tự hạ thấp mình bởi vì các con sẽ đơn giản nhìn vào ảo tưởng mà các con có, sử dụng khung tham chiếu đó của Tâm Ki-tô để buông bỏ ảo tưởng và thay vì tự hạ thấp mình vì đã có ảo tưởng, các con thay vào đó cảm thấy niềm vui rằng các con đã thăng vượt ảo tưởng.

Nhưng làm thế nào các con có thể thực hiện sự chuyển tiếp đó? Chà, các con cần nhìn vào các cái ta tiềm thức khiến các con tự chê trách mình, nhưng các con cũng, với một tâm ý thức, cần thực hiện một sự chuyển đổi mà chúng tôi đã đề cập trước đây, nhưng đó là một sự chuyển đổi khó thực hiện bởi vì điều các con thực sự phải đạt đến là nhận ra điều này: “Chuyện này không nhắm vào tôi.” Các con cần khắc phục sự trọng tâm vào bản thân đó bởi vì sau đó trọng tâm vào bản thân là gì? Chà, các con có thể nói, khi các con nói về tự ngã được sinh ra từ sự tách biệt, các con có thể nói rằng ngay cả khi các con tái kết nối, và các con đi trên con đường từ mức 48 đến mức 96, các con vẫn đang mang theo các yếu tố của cái ta tách biệt đó, nhưng để vượt qua khai ngộ ở mức 96, các con phải buông bỏ điều đó. Nói cách khác, tự ngã vẫn đang cố gắng pha màu con đường của các con, nghĩ rằng nó sẽ nhận được gì đó từ đó, rằng các con sẽ nhận được gì đó từ đó như một cái ta tách biệt.

Cho đến mức 96, các con thực sự có thể tin rằng các con đang đi trên con đường Quả vị Ki-tô như một sinh thể tách biệt, và rằng các con có thể đạt được Quả vị Ki-tô như một sinh thể tách biệt, và do đó, làm điều gì đó như một sinh thể tách biệt, thậm chí giành chiến thắng như một sinh thể tách biệt. Và điều đó cho các con một trọng tâm vào bản thân, nhưng nó cũng cho các con sự nhị nguyên tất yếu nơi có chiến thắng, nhưng cũng có mất mát bởi vì trong nhị nguyên không thể có chiến thắng mà không có mất mát, và khi các con gặp gỡ Tâm Ki-tô cho các con thấy một ảo tưởng mà các con đã có, thì các con có thể cảm thấy như mình đã thua, và đó là điều gây ra cú sốc và sự khó chịu. Các con cần thực hiện sự chuyển đổi ý thức, và sự chuyển đổi đó là gì? Chà, tôi đã nói về trọng tâm vào bản thân, nhưng nó còn hơn thế nữa, nó thực sự là một quyết định. Và tôi đã nói về những người đang tìm kiếm một phần thưởng trong thế giới này trái ngược với những người đang tìm kiếm một phần thưởng ở thiên đường, và ý nghĩa của điều này là cái ta tách biệt, tự ngã, sẽ nghĩ rằng con đường Quả vị Ki-tô sẽ cho các con một phần thưởng nào đó trong thế giới này và để khắc phục điều này, các con phải đưa ra quyết định ý thức đó. Các con không muốn phần thưởng của mình trong thế giới này, các con muốn phần thưởng của mình trong trạng thái thăng thiên.

Điều đó có nghĩa là các con phải từ bỏ một số điều. Các con phải từ bỏ ham muốn đạt được kết quả vật lý của con đường Quả vị Ki-tô. Các con phải từ bỏ ham muốn có một khả năng đặc biệt nào đó, để thắng các cuộc tranh luận, để có thể làm những điều, những điều kỳ diệu, chẳng hạn như nhiều người nghĩ rằng họ nên có thể làm những phép lạ giống như tôi đã làm nếu họ đạt được mức độ Quả vị Ki-tô mà tôi đã có. Nhưng như chúng tôi đã nói, phép lạ thực sự dành cho thời đại đó và mức độ của tâm thức tập thể, không cần thiết trong thời đại này. Các con thấy rằng các con phải từ bỏ toàn bộ cái nhìn bất kể nó là gì đối với các con riêng lẻ, và những người khác nhau có thể có những ảo tưởng khác nhau về phần thưởng mà Quả vị Ki-tô sẽ ban cho họ, nhưng các con phải từ bỏ toàn bộ cái nhìn rằng đi trên con đường Quả vị Ki-tô sẽ cho các con một phần thưởng nào đó trong thế giới này. Nhưng hãy suy nghĩ lại, ý tưởng muốn có một phần thưởng trong thế giới này chỉ có thể đến từ cái ta tách biệt. Nếu Tâm Ki-tô chứng thực niềm tin này, nó sẽ giữ các con mắc kẹt hơn trong cái ta tách biệt mà có thể giữ các con ở đó trong toàn bộ phần đời còn lại của kiếp đầu thai này hoặc thậm chí cho các kiếp đầu thai trong tương lai, vì vậy các con phải ý thức đi đến nhận ra điều đó: “Tôi không muốn phần thưởng của mình trong thế giới này. Tôi muốn phần thưởng của mình trong trạng thái thăng thiên.” Bất kể ảo tưởng riêng của các con về một phần thưởng có thể là gì, các con phải đối đầu với nó để đi xa hơn mức 96 nơi các con, theo một nghĩa nào đó, thực sự bắt đầu con đường Quả vị Ki-tô. Các con có thể nói các con đang đi trên con đường Quả vị Ki-tô từ mức 48 đến mức 96, nhưng đó là điều chúng ta có thể gọi là đường tu vỏ ngoài. Ở mức 96, các con neo trụ vào các khía cạnh nội tâm của con đường Quả vị Ki-tô, và đó là điều sẽ đưa các con đến mức 144. Nếu các con không từ bỏ ham muốn về một phần thưởng vỏ ngoài, các con không thể vươn lên xa hơn mức 96, và các con có thể rất dễ dàng bắt đầu đi xuống tìm kiếm để đạt được một loại quyền năng nào đó bằng cách sử dụng tâm phản Ki-tô, để các con có thể nhận được phần thưởng đó trong thế giới này mà các con sẽ không từ bỏ cái hồn ma đó mà các con sẽ không từ bỏ.

Điều đó có nghĩa là các con không thể chiến thắng bằng cách đi trên con đường Quả vị Ki-tô? Không, các con có thể có nhiều chiến thắng, các con có thể giành được tự do lớn hơn, tâm an bình lớn hơn, tự do lớn hơn để chỉ là chính mình và biểu đạt bất cứ điều gì đến với các con từ Hiện diện TA LÀ của các con. Các con có thể giành được tự do của việc là cánh cửa mở, không hơn không kém. Nhưng cuối cùng chiến thắng mà các con giành được bằng cách đi trên con đường Quả vị Ki-tô là sự thăng thiên của các con. Sự thoát ra khỏi thế giới này của các con là chiến thắng tối hậu của Ki-tô. Có thể có những chiến thắng khác. Các con có thể bị cám dỗ bằng nhiều cách khác nhau để phản ứng với thế giới này, để tham gia vào các cuộc đấu tranh và tranh luận để chứng minh người khác sai, để chứng minh mình đúng, để bảo vệ mình, và khi các con có thể buông bỏ cám dỗ này từ “ông hoàng của thế gian”, và buông bỏ cái ta thôi thúc các con phản ứng đó cũng là một chiến thắng. Mỗi khi các con buông bỏ những cái ta vi tế hơn này, các con giành được một chiến thắng.

Các con có cảm thấy có lẽ bài truyền đọc này không phải là điều các con mong đợi, rằng nó không lạc quan, không tràn đầy năng lượng như thông điệp của Saint Germain? Nó có trang nghiêm hơn, u ám hơn không? Chà, đó chính xác là ý định của tôi, vì mục tiêu của tôi là chuẩn bị cho các con cho khoảnh khắc đầu tiên tất yếu đó nơi các con gặp gỡ Tâm Ki-tô theo một cách mà các con thấy một trong những ảo tưởng của tự ngã của các con, và các con không thể phủ nhận nó. Có những người đã rất chân thành trong việc đi trên con đường như họ đã thấy, và họ đã đến khoảnh khắc của sự thật như chúng ta có thể gọi nó, và họ đã từ bỏ hoàn toàn con đường. Họ đã bị sốc đến mức này, và tôi đang tìm cách chuẩn bị cho các con để những người trong các con, những người chưa có điều đó, sẽ không rơi vào phản ứng tiêu cực đó và đối với những người trong các con đã trải nghiệm điều đó, tôi đang tìm cách giúp các con nghiền ngẫm trải nghiệm và đạt đến điểm mà các con có thể nhận ra rằng các con có thể khắc phục cảm giác rằng có điều gì đó không ổn với các con bởi vì các con đã gặp gỡ thực tại của Ki-tô.

Các con có thể đạt đến một điểm mà các con không tự chê trách mình vì đã có ảo tưởng. Saint Germain đã nói gì? Ông ấy có tâm lý chưa giải quyết. Chà, con yêu dấu của tôi ơi, các con không thể, với tất cả những giáo lý mà các con có, nhìn vào cái nhìn sùng bái thần tượng về Giê-su Ki-tô đã được tạo ra bởi Cơ đốc giáo sao? Các con không thể quay lại và thấy rằng tôi cũng có tâm lý chưa giải quyết mà tôi phải đối phó sao? Các con thậm chí có thể thấy những gợi ý nếu các con đọc giữa các dòng kinh thánh. Các con có thể lấy một tình huống được Mẹ Mary đề cập về đám cưới ở Ca-na nơi tôi đang đứng đó do dự, tại sao tôi lại do dự? Tâm lý chưa giải quyết, còn gì nữa?

Có bao nhiêu người Cơ đốc giáo, nếu họ nghe thông điệp này, sẽ coi đó là báng bổ, nhưng sự báng bổ là gì? Đó có phải là có một cái nhìn thực tế về Giê-su Ki-tô hay một cái nhìn sùng bái thần tượng về Giê-su Ki-tô? “Ngươi sẽ không có Ki-tô nào khác trước mặt ta, và do đó, ngươi sẽ nhận ra rằng ta là con người có tâm lý chưa giải quyết, và ta đã trở thành con của Thượng đế bằng cách giải quyết tâm lý đó.” Các con là con của người và con gái của người, nhưng các con có thể trở thành con trai và con gái của Thượng đế bằng cách giải quyết tâm lý của mình, đó là con đường Quả vị Ki-tô.

Các con chuyển từ việc là con trai hoặc con gái của người sang việc là con trai hoặc con gái của Thượng đế như Phao-lô thậm chí đã nói trong một trong những lá thư của ông ấy: “Chúng ta sẽ trở thành con của Thượng đế.” Con đường Quả vị Ki-tô không phải là một con đường đau khổ được Công giáo hình dung. Nó không phải là một con đường đau đớn, nhưng sẽ có những khoảnh khắc mà các con đụng vào tảng đá của Ki-tô, và các con nhận ra rằng tảng đá của Ki-tô sẽ không di chuyển. Nó là bất khả lay chuyển và bất chấp những ảo tưởng của tự ngã của các con như Phi-e-rơ nghĩ ông ấy có thể nói cho tôi biết điều gì nên và không nên xảy ra với tôi, bất chấp những ảo tưởng đó, Ki-tô sẽ không di chuyển, rằng Ki-tô sẽ không thích nghi với những ảo tưởng của con người, và khi các con có trải nghiệm đó, các con sẽ nhận ra rằng tự ngã của các con sẽ không thay đổi thực tại và chân lý của Ki-tô, và do đó, các con bây giờ có khả năng đưa ra chọn lựa để chấp nhận Ki-tô, để đi theo Ki-tô bằng cách để lại tự ngã, “để người chết đi chôn người chết.”

Ban đầu, việc đi trên con đường Quả vị Ki-tô có thể được thực hiện mà không cần có trải nghiệm đó, nhưng về lý thuyết, các con có thể có trải nghiệm bất cứ lúc nào ngay cả dưới mức 48, các con có thể có trải nghiệm đó. Phao-lô, trên đường, gặp gỡ ánh sáng của Ki-tô và sẵn lòng công nhận rằng ông ấy là người phải thay đổi cuộc đời mình dựa trên thực tại của Ki-tô, từ bỏ cái nhìn của mình, cái nhìn sai lầm của mình về Ki-tô. Tự ngã của các con sẽ sợ khoảnh khắc này. Cái Ta Biết không cần phải như vậy, và đó là mục tiêu của tôi đối với bài truyền đọc này để chuẩn bị cho các con, Cái Ta Biết để khi các con gặp gỡ tảng đá bất khả lay chuyển của Ki-tô, Cái Ta Biết có thể chọn Ki-tô thay vì chọn tự ngã, và các con có thể cứ để cái tự ngã đó chết, khía cạnh đó của tự ngã, cái ta tiềm thức đó. Hãy để nó chết và được tái sinh vào đời sống của Ki-tô.

Các con thấy đó, khi các con có trải nghiệm mà tôi đã nói, nơi Cái Ta Biết chuyển ra khỏi bản thân, nhìn thấy ảo tưởng, nhưng vẫn bị pha màu bởi một cái ta khác, vì vậy nó tự chê trách mình vì đã có ảo tưởng, thì các con chưa được tái sinh. Các con vẫn đang mang theo một số yếu tố của tự ngã, và nó pha màu cách các con nhìn vào con đường, nhưng các con có thể ý thức xem xét lại cái nhìn của mình về con đường và đạt đến điểm đó nơi khi các con gặp gỡ tảng đá của Ki-tô, vâng, tảng đá của Ki-tô làm tan vỡ một ảo tưởng của tự ngã, nhưng các con sẵn lòng buông bỏ ảo tưởng đó, và sau đó các con nhận ra rằng Ki-tô không chê trách các con vì đã có ảo tưởng. Các con có thể có một cái ta tiềm thức chê trách các con, nhưng Ki-tô thì không. Ki-tô là Đấng Cứu chuộc có thể cứu chuộc các con khỏi tất cả những ảo tưởng hoặc tội lỗi của các con nếu các con hoàn toàn muốn bám víu vào từ đó, và khi các con nói: “Điều đó can hệ gì đến con mà con đã có một ảo tưởng, con sẽ theo Ngài.”, thì các con có thể được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn, nhưng không cần phải tự chê trách mình vì đã có ảo tưởng.

Các con thấy đó, có một yếu tố của tự ngã, và có những sa nhân, từ bên ngoài sẽ, phóng chiếu vào các con rằng lý tưởng mà nói đi trên con đường Quả vị Ki-tô nên là tất cả những điều tuyệt vời và để thực sự đi trên con đường, các con không nên có bất kỳ yếu tố tự ngã hay ảo tưởng nào, và do đó, khi các con thấy rằng các con đã có một ảo tưởng nhất định, các con nên tự chê trách mình. Nhưng đây không phải là Ki-tô nói điều này. Con đường Quả vị Ki-tô là gì? Đó là một con đường không ngừng khắc phục ảo tưởng này sau ảo tưởng khác. Chúng tôi đã giải thích gì, làm thế nào các con đầu thai trên trái đất? Các con bắt đầu ở mức 144, mang một ảo tưởng, đi đến mức 143, mang một ảo tưởng khác, các con cứ mang ảo tưởng này sau ảo tưởng khác cho đến khi các con đạt đến mức 48. Làm thế nào các con trở lại? Bằng cách ý thức khắc phục những ảo tưởng đó. Các con sẽ có ảo tưởng cho đến khi các con đạt đến mức 144 và thăng thiên. Nhưng điều tôi đang nói là các con có thể đạt đến một điểm, các con cần đạt đến điểm đó ở mức 96, các con có thể đạt đến đó trước, chà, các con ngừng mong đợi ở bản thân rằng các con nên hoàn hảo mọi lúc. Đây là điều tự ngã muốn tin. Nó là, theo một nghĩa nào đó, lời dối vi tế nhất của tự ngã rằng không có gì sai với tự ngã, và nếu các con không công nhận rằng có điều gì đó sai với tự ngã, và có lẽ tự ngã có thể lén lút vào thiên đường mà Ki-tô không thấy nó, nhưng sẽ đến khoảnh khắc của sự thật nơi các con nhận ra rằng Ki-tô nhìn thấy tự ngã.

Tự ngã không bao giờ có thể lừa được Tâm Ki-tô hoặc các đại diện của Ki-tô như một chân sư thăng thiên. Tự ngã sẽ không bao giờ vào được thiên đường, và sau đó các con có thể từ bỏ toàn bộ lối suy nghĩ rằng các con có thể lừa dối để vào thiên đường, rằng tự ngã có thể tìm ra cách nào đó để lén lút dưới radar. Nhưng các con thấy đó, không có cách nào dưới radar của Tâm Ki-tô, vì trong Tâm Ki-tô, không có trên hay dưới, phải hay trái, lên hay xuống. Tâm Ki-tô ở khắp mọi nơi, nhìn thấy mọi thứ. Sự chuyển đổi ý thức mà các con có thể thực hiện để con đường của các con dễ dàng hơn rất nhiều là gì? Đó là điều này. Từ bỏ ham muốn hoặc ảo tưởng rằng các con có thể che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô. Sứ giả này đã kể câu chuyện về việc ông ấy đã đạt đến điểm đó nơi ông ấy thấy rằng cách tiếp cận của ông ấy đối với đường tu tâm linh đã bị tự ngã pha màu, và đó chỉ là phù phiếm, và ông ấy đã từ bỏ nó, và sau đó ông ấy gặp gỡ Hiện diện của tôi, hỏi tôi liệu ông ấy có muốn làm gì đó cho tôi không. Điều gì ông ấy về cơ bản đã từ bỏ ở đó? Ham muốn che giấu khỏi Ki-tô. Đó là lý do tại sao tôi có thể tiếp cận ông ấy. Nếu ông ấy vẫn còn ham muốn che giấu khỏi Ki-tô, làm sao tôi có thể tiếp cận ông ấy? Điều đó sẽ vi phạm quyền tự quyết của ông ấy.

Các con cũng có thể đạt đến điểm đó nơi các con ý thức từ bỏ ham muốn che giấu bất cứ điều gì khỏi các chân sư thăng thiên. Nhưng để đạt đến điểm đó, các con cần nhận ra rằng chúng tôi không chê trách các con, chúng tôi không phán xét các con, chúng tôi không hạ thấp các con. Chính tự ngã và các thế lực bóng tối muốn hạ thấp các con. Chúng tôi thì không. Chúng tôi đã nói điều này bao nhiêu lần rồi? Các con đã không nghe thấy bao nhiêu lần rồi? Có lẽ các con có thể nghe thấy vào lúc này không? Từ bỏ ham muốn che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô. Tại sao điều này lại quan trọng đến vậy? Con đường Quả vị Ki-tô là gì? Đó là con đường đi vào hợp nhất với Tâm Ki-tô. Làm sao các con có thể đi vào hợp nhất với Tâm Ki-tô nếu các con tìm cách che giấu bất cứ điều gì khỏi Tâm Ki-tô? Các con không thể, trong thực tế, che giấu bất cứ điều gì khỏi Tâm Ki-tô. Nhưng nếu các con nghĩ mình có thể, thì để tránh vi phạm quyền tự quyết của các con, Tâm Ki-tô phải lùi lại để các con có thể duy trì ảo tưởng của mình, nhưng sau đó các con cũng không thể đi xa hơn mức trên đường tu nơi các con cần từ bỏ ảo tưởng đó để đi đến mức tiếp theo. Các con không thấy điều này sao?

Đó là những gì nó là. Ảo tưởng, các con sẽ không từ bỏ vì các con đang tìm cách che giấu nó khỏi Ki-tô, điều đó giữ các con mắc kẹt ở một mức độ nhất định trên đường tu. Nếu các con có thể ý thức từ bỏ ham muốn che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô, thì con đường của các con sẽ dễ dàng hơn rất nhiều vì sau đó, các con sẽ không bị sốc khi gặp gỡ sự bất khả lay chuyển của tảng đá của Ki-tô làm tan vỡ ảo tưởng đó. Các con sẽ trôi chảy đi từ một mức độ của con đường đến mức tiếp theo bởi vì các con không chống cự lại chân lý của Ki-tô. Các con đang đón nhận chân lý của Ki-tô từng chút một, từng bước một, không phải tất cả cùng một lúc, nhưng khi các con di chuyển từ bước này sang bước tiếp theo, các con đón nhận viễn quan cao hơn đó của Tâm Ki-tô giúp các con nhìn thấy ảo tưởng và từ bỏ nó.

Nhiều người trong các con đã nghĩ, bởi vì đây lại là một giai đoạn tất yếu trên con đường, rằng con đường thì dễ dàng, con đường thì tuyệt vời, và chúng tôi cũng đã cho các con ấn tượng đó là các con trở nên tự do hơn, an bình hơn. Nhưng có một thực tế là, lúc ban đầu, các con đang nghĩ rằng các con có thể che giấu một số điều khỏi Tâm Ki-tô, và nếu các con không tự nguyện xem xét điều này và buông bỏ ảo tưởng đó, các con sẽ tiến về điểm tất yếu đó bất kể các con gặp gỡ tảng đá của Ki-tô làm tan vỡ một ảo tưởng nhất định. Nhưng nếu các con có thể ý thức từ bỏ ham muốn che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô, điều này không nhất thiết phải là một cú sốc lớn đối với các con, và các con có thể nhanh chóng đạt đến một điểm mà, thay vì chống cự lại việc nhìn thấy chân lý tiếp theo, các con đón nhận nó một cách sẵn lòng và ý thức, và theo một nghĩa nào đó, các con có thể nói đó là lúc con đường Quả vị Ki-tô thực sự bắt đầu khi các con không còn tìm cách che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô.

Khi Ki-tô là tất cả những gì hiện hữu, làm sao có thể che giấu bất cứ điều gì khỏi Ki-tô? Nếu các con có thể đón nhận thực tại này, các con có thể nói: ”Tại sao tôi lại cố gắng làm điều bất khả thi? Tại sao không từ bỏ toàn bộ ham muốn đó và cứ xuôi theo Dòng sông sự Sống ban cho tôi một viễn quan cao hơn dần dần về những ảo tưởng mà tôi cần từ bỏ.” Đó là điều tôi mong muốn tất cả các con trải qua, để con đường của các con sẽ thú vị, sẽ không phải là Con đường Đau khổ, mà là con đường của niềm vui, niềm vui ngày càng lớn hơn bởi vì thật thú vị khi buông bỏ một ảo tưởng và cảm thấy tự do hơn.

Tôi đã nói rõ chưa? Nếu chưa, tôi có thể nói thêm một giờ nữa, nhưng có lẽ nếu những gì đã nói là chưa đủ, thì các con chưa hoàn toàn ở điểm mà các con có thể đón nhận điều này. Hãy nhận biết tôi không chê trách các con dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi biết rằng có những giai đoạn của con đường. Tôi biết rằng một số người sẽ sẵn sàng nghe thông điệp này, những người khác thì chưa sẵn sàng. Điều đó không sao cả. Các con đón nhận các khía cạnh khác của những gì chúng tôi đã ban cho các con tại hội nghị này, bất cứ điều gì thu hút các con, bất cứ điều gì cộng hưởng với các con, và các con tập trung vào điều đó, và có lẽ vào một lúc nào đó trong tương lai, các con có thể xem lại bài truyền đọc này khi các con đã sẵn sàng nghe nó.

Với điều này, con yêu dấu của tôi, tôi niêm các con trong ngọn lửa niềm vui mà tôi là bởi vì tôi hy vọng rằng các con có thể làm điều mà hầu hết những người Cơ đốc giáo không thể làm. Neo trụ vào ngọn lửa niềm vui mà tôi thực sự nắm giữ cho trái đất. Tôi biết rằng khi các con nhìn vào đời sống vỏ ngoài của tôi 2000 năm trước, dường như không có nhiều niềm vui trong đó, nhưng tôi bây giờ là một chân sư thăng thiên, và làm sao các con không thể vui vẻ như một chân sư thăng thiên, và tôi hy vọng các con có thể neo trụ vào con đường Quả vị Ki-tô đầy niềm vui đó.

Với điều này, tôi niêm các con trong Ngọn lửa Niềm vui đó. Tôi là Đức Thăng Thiên Chân Sư Giê-su Ki-tô.

12 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Saint Germain

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain, qua trung gian Kim Michaels ngày 8/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Saint Germain, và tôi muốn bắt đầu bằng cách cảm ơn các con đã dâng buổi đọc chú tuyệt vời này, điều đã cho phép tôi truyền rải dòng thác năng lượng ngọn lửa tím này. Phần vụ của tôi, niềm vui của tôi, cho sự truyền rải này là ban cho các con cái nhìn Thất Tia về quả vị Ki-tô.

Một triết gia nổi tiếng đã từng nói: “Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu họ cũng trong xiềng xích.” Dĩ nhiên, lời này đã được nói từ rất lâu rồi, khi chưa thể nói rằng phụ nữ sinh ra tự do vì họ sinh ra đã gắn với một vai trò nhất định. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn vào thế giới ngày nay và tự hỏi: “Liệu con người có sinh ra tự do không?” Có thực tế không khi nói rằng trong thời đại ngày nay, mọi người đều sinh ra tự do? Chẳng phải rất nhiều người sinh ra đã bị giới hạn trong một cuộc sống, một cơ hội rất hạn hẹp sao?

Khi tôi, trong vai trò Thượng sư Thất Tia, nhìn vào nhân loại, tôi thấy gì? Vâng, tôi thực sự thấy rằng khắp nơi, con người đều bị xiềng xích. Nhưng tôi cũng thấy rằng đại đa số nhân loại không sinh ra tự do, ít nhất là không trong kiếp sống này. Dĩ nhiên, tôi có thể quay lại và truy theo lịch sử của một dòng sống và thấy rằng, vâng, nguyên thủy dòng sống đó sinh ra tự do, nhưng nó cũng sinh ra với một ý niệm cái ta như một điểm. Nó sinh ra tự do, theo nghĩa là ban đầu không có xiềng xích bên ngoài nào giới hạn dòng sống đó. Nhưng nó không có sự tự do tuyệt đối để đồng-sáng tạo bất cứ điều gì nó muốn, bởi vì nó chỉ có thể đồng-sáng tạo những gì nó có thể hình dung, những gì nó có thể khái niệm hóa. Và điều đó, dĩ nhiên, tùy thuộc vào ý niệm cái ta của nó.

Tự do không phải là thứ các con sinh ra đã có, ít nhất là không phải sự tự do tuyệt đối. Tự do là thứ các con trưởng thành theo thời gian bằng cách thăng vượt ý niệm cái ta của mình. Các con có nghe những gì tôi vừa nói không? Tự do là thứ các con trưởng thành theo thời gian bằng cách thăng vượt ý niệm cái ta của mình, mở rộng ý niệm cái ta của mình, cho phép ý niệm cái ta của mình trở nên nhiều hơn.

Khi chúng ta nhìn vào nhân loại ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mặc dù hầu hết những người hiện đang đầu thai trên hành tinh này có một lịch sử rất lâu dài, hoặc đã đầu thai trên hành tinh này nhiều kiếp, hoặc đến từ các hành tinh khác? Chúng ta có thể nói rằng họ đã trưởng thành theo hướng trở nên tự do hơn không? Không, chúng ta không thể. Các con nhìn vào nhân loại và đại đa số mọi người đều bị xiềng xích. Dĩ nhiên, các con có thể nhìn vào điều kiện vật lý vỏ ngoài của họ và thấy rằng nhiều người bị giới hạn bởi những điều kiện vật lý vỏ ngoài này. Họ không tự do. Họ không tự do ngôn luận. Họ không tự do di chuyển. Họ không tự do theo đuổi cơ hội. Vì họ sinh ra trong một địa vị nhất định trong đời, có lẽ là nghèo đói, có lẽ là áp bức chính trị, có lẽ là các hình thức nô lệ khác.

Tuy nhiên, khi tôi, với tư cách là Thượng sư Thất Tia, nói về tự do, tôi không nói chủ yếu về tự do vật lý, vật chất, bởi vì xiềng xích trói buộc con người ở đâu? Chúng không ở trong bát cung vật lý. Chúng ở trong các bát cung cảm xúc, lý trí và bản sắc. Chúng ở trong tâm trí. Điều trói buộc các con là những xiềng xích trong tâm trí các con.

Ngày nay không nhiều người lớn lên ở vùng nông thôn gần các loài vật nuôi, và do đó, rất ít người thực sự đã nhìn thấy một con bò tót. Nhưng các con có lẽ biết rằng bò tót là một loài vật rất to lớn và mạnh mẽ, nhưng khi nó còn non, người ta đeo một chiếc vòng sắt vào mũi nó. Lý do là mũi bò rất nhạy cảm, nên ngay cả một người không mạnh bằng, khi các con buộc một sợi dây vào chiếc vòng sắt này, các con có thể dắt con bò đi theo. Và điều các con làm với một con bò là các con buộc một sợi dây vào chiếc vòng ở mũi nó, các con buộc sợi dây đó vào một cọc, các con đóng cọc xuống đất và bây giờ con bò có một vòng tròn nơi nó có thể gặm cỏ. Nhưng điều có thể xảy ra với một con bò là nó cứ đi theo cùng một hướng và vì vậy nó quấn dây quanh cọc cho đến khi nó quấn chặt đến mức không thể di chuyển được nữa. Và bây giờ con bò đứng đó và nó có thể cào móng xuống đất và nó có thể thổi hơi qua mũi và nó có thể kêu rất nhiều vì nó cảm thấy bị dây xiềng hạn chế. Nhưng nó có thực sự bị dây xiềng hạn chế không? Không, bởi vì nó có thể chỉ cần đi ngược lại và gỡ dây ra. Nhưng con bò không thể làm điều này, nó không thể nghĩ ra cách làm điều này. Một số con có thể đã thấy một con chó làm điều tương tự. Ở mức độ tâm thức đó không có đủ nhận biết để nghĩ: “Mình có thể đảo ngược quá trình đã khiến mình bị hạn chế như vậy và do đó, được tự do không?”

Thật không may, điều các con thấy ở hầu hết con người trên trái đất là họ không tự do như con bò đã quấn dây quanh cọc. Và giống như con bò, họ không thể lùi lại và nghĩ: “Nếu mình đảo ngược quá trình đã khiến mình bị mắc kẹt như vậy thì sao? Mình có thể trở nên tự do hơn không?”

Công việc của các chân sư thăng thiên qua các thời đại là gì? Về cơ bản, đó là giúp mọi người trở nên tự do. Nhưng làm thế nào để các con trở nên tự do? Chỉ bằng cách nhìn vào những điều kiện trong tâm trí các con đang khiến các con không tự do, đang giam cầm các con. Các con phải tháo gỡ xiềng xích trong tâm hồn, trong tâm tiềm thức và trong tâm ý thức của chính mình đang giam cầm các con. Nhưng có bao nhiêu người đã nắm bắt được điều này, ngay cả sau khi chúng tôi đã giảng dạy trong một thời gian rất dài? Chẳng phải Giê-su đã nói với mọi người rằng “Vương quốc Thượng đế ở bên trong các con” sao? Chẳng phải Phật đã nói về việc giải quyết tâm lý, mặc dù lúc đó ngài không dùng những từ ngữ đó sao? Chẳng phải Bát chánh đạo là con đường tháo gỡ, giải phóng những xiềng xích trong tâm trí các con sao? Chẳng phải các giáo lý Vệ-đà cũng nói về điều tương tự, một lần nữa với những từ ngữ và ngữ cảnh khác sao? Các giáo lý đã được ban truyền từ lâu, nhưng rất ít người đã tiếp nhận chúng.

Dĩ nhiên, tôi muốn thấy điều này thay đổi, bởi vì, điều gì khiến con người bị giới hạn về thể chất, bị giam cầm về thể chất? Chà, làm thế nào một nhà độc tài có thể giam cầm hàng triệu người? Làm thế nào một người đàn ông có thể khiến hàng triệu người tuân theo ý chí của mình? Chỉ bằng cách sử dụng những điều kiện trong tâm lý của những người này khiến họ sẵn lòng phục tùng nhà độc tài, bởi vì họ không sẵn lòng tự suy nghĩ và tự chịu trách nhiệm về bản thân và tự đưa ra quyết định của mình. Họ muốn nhà độc tài đưa ra quyết định cho họ và sau đó nói với họ rằng nếu họ mù quáng tuân theo nhà độc tài, mọi thứ cuối cùng sẽ tuyệt vời, bất kể lời hứa đó là gì. Đệ Tam Đế chế, hoặc “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, hoặc “khôi phục sự vĩ đại của nước Nga”, bất kể lời hứa đó là gì, mọi người tin vào nó bởi vì nó cho họ một lý do để không tháo gỡ xiềng xích trong tâm trí họ.

Tôi muốn thấy ngày càng nhiều người tỉnh thức trước thực tại rằng điều trói buộc các con nằm trong tâm lý bởi vì những điều kiện vật lý các con đối mặt chỉ đơn giản là một sự phóng chiếu của những gì được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật từ tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của các con. Và điều này đúng cho một con người, nó đúng cho một quần thể lớn trong một quốc gia lớn và nó đúng cho nhân loại nói chung. Những điều kiện vật lý các con thấy trên trái đất chỉ là những phóng chiếu của những gì nằm trong tâm trí, tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của nhân loại.

Quả vị Ki-tô là gì? Quả vị Ki-tô là tiến trình trở nên tự do khỏi những xiềng xích của tâm phản Ki-tô, tâm thức nhị nguyên, ý niệm tách biệt. Hiện có những người trong tư duy sa ngã, trong tư duy rắn gian manh, những người sẽ nói: “Chà, Saint Germain, điều này không đúng. Tôi bị giới hạn bởi những giới hạn đạo đức của việc cảm thấy mình là một sinh thể nối kết, nơi tôi phải suy nghĩ về tác động của hành động của mình lên tổng thể. Chỉ khi tôi nổi loạn chống lại cái vị thần trên trời đó và quyết định làm việc của riêng mình bất kể hậu quả, thì tôi mới thực sự được tự do.” Và đây là điều một số người thực sự tin. Những người khác không tin điều đó nhưng họ muốn con người tin điều đó nên họ truyền bá lời dối trá mặc dù họ biết đó là một lời dối trá.

Tại sao đó lại là một lời dối trá? Chà, các con hãy nhìn vào những điều kiện trên trái đất. Rất nhiều người mộ đạo có hình ảnh rằng họ nên đánh giá hành động của mình dựa trên một quy tắc đạo đức nhất định được định nghĩa bởi tôn giáo của họ bởi vì được cho là quy tắc đạo đức này đến từ chính Thượng đế. Nó được khắc trên các bảng đá khi Moses lên núi: “Con không được… và nếu con không làm điều đó, Thượng đế sẽ trừng phạt con bằng sự đọa đày đời đời trong địa ngục.” Và những sa nhân, tâm rắn gian manh sẽ chỉ vào điều này và nói: “Thấy chưa? Điều này không phải là tự do bởi vì các con bị giới hạn bởi quy tắc đạo đức của vị Thượng đế giận dữ, phán xét, trừng phạt này trên trời. Và chỉ khi chúng ta nổi loạn chống lại vị Thượng đế đó và quy tắc đạo đức của ngài thì chúng ta mới thực sự được tự do, thì chúng ta mới thực sự có thể thực thi quyền tự quyết của mình.”

Nhưng điều họ không hỏi là: “Ai đã tạo ra vị Thượng đế trên trời?” Và thực tế là các sa nhân đã tạo ra vị Thượng đế giận dữ và trừng phạt trên trời bởi vì họ muốn sử dụng hình ảnh Thượng đế đó để kiểm soát con người. Các sa nhân khác đã tạo ra hình ảnh của một ác quỷ đối kháng với vị Thượng đế trên trời bởi vì họ cũng muốn kiểm soát con người. Bây giờ con người bị mắc kẹt giữa vị Thượng đế giận dữ trên trời và ác quỷ giận dữ bên dưới, và liệu có thực sự có nghĩa lý không khi các con giành được tự do bằng cách phục tùng ác quỷ, kẻ cũng giận dữ như vị Thượng đế trên trời? Nhưng đây là điều họ muốn các con tin.

Thực tại là gì? Chà, thực tế là chắc chắn có những sinh thể đã nổi loạn chống lại tiến trình tự vượt thăng. Và họ đã đi vào tâm thức nhị nguyên và điều đó có thể xảy ra, trên thực tế, với một số lượng đáng kể dòng sống đi vào nhị nguyên, rằng sau khi họ đi vào nhị nguyên, họ cảm thấy một cảm giác tự do nhất định bởi vì bây giờ họ cảm thấy họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn mà không cần xem xét hậu quả. Họ không xem xét hậu quả hành động của họ đối với người khác, nhưng họ thậm chí không thực sự xem xét hậu quả đối với chính họ bởi vì cái tự ngã của họ có thể tin bất cứ điều gì họ muốn tin và do đó, những người trong nhị nguyên có thể tin rằng, chà, không có hậu quả nào ít nhất là không vượt quá những hậu quả vật lý trực tiếp. Nếu các con giết một con người khác, các con không bị sét đánh, vì vậy cái tự ngã có thể khiến các con tin rằng các con đã trốn thoát khỏi tội giết người. Nhưng các con có trốn thoát không?

Hãy nhìn vào thế giới phương Tây bị thống trị bởi đạo Cơ đốc, vốn trong một thời gian rất dài đã phủ nhận luân hồi và nghiệp. Vâng, họ nói về tội lỗi, nhưng điều này không hoàn toàn giống nhau. Bởi vì các con thấy đó, khi các con thực sự nắm bắt nghiệp quả, mà dĩ nhiên, nhiều người ở phương Đông hiểu về nghiệp quả nhưng không nắm bắt được nó là gì, nhưng dù sao đi nữa, khi các con thực sự nắm bắt nó, nghiệp quả là gì?

Để hiểu điều này, các con cần hiểu rằng Đấng Sáng tạo của chúng ta đã tạo ra thế giới hình tướng này dựa trên kinh nghiệm của Ngài khi bắt đầu trong một tạo vật khác được tạo ra bởi một Đấng Sáng tạo khác. Đấng Sáng tạo của chúng ta bắt đầu như một ý niệm cái ta như một điểm giống như tất cả chúng ta. Đấng Sáng tạo của chúng ta đã lớn lên trong khả năng đồng-sáng tạo của Ngài qua các tầng của thế giới hình tướng trước đó và do đó, Ngài đã trực tiếp trải nghiệm điều gì khiến một thế giới hình tướng bền vững và điều gì làm nó tan rã. Và Đấng Sáng tạo của chúng ta do đó, khi Ngài tạo ra thế giới hình tướng của chúng ta, đã định nghĩa một số khuôn khổ quy định nhất định về cách Ngài muốn thế giới hình tướng của mình tồn tại nhưng nguyên tắc tổng thể của Đấng Sáng tạo của chúng ta là tạo ra một thứ bền vững sẽ không tự hủy diệt và Đấng Sáng tạo của chúng ta biết từ kinh nghiệm rằng điều đó có nghĩa là phải duy trì một sự cân bằng nhất định. Không chỉ có một loại cân bằng. Các thế giới hình tướng khác nhau có các yếu tố hoặc phương trình cân bằng khác nhau nhưng luôn phải có một sự cân bằng.

Điều đó có nghĩa là khi Đấng Sáng tạo quyết định ban cho các phần nối dài của mình quyền tự quyết, Đấng Sáng tạo biết rằng một số sẽ sử dụng quyền tự quyết của mình, không phải với tư cách sinh thể nối kết, mà để đi vào sự tách biệt. Và Đấng Sáng tạo biết rằng khi các con đi vào sự tách biệt, các con đang tạo ra sự mất cân bằng, các con đang trở nên mất cân bằng bởi vì trong sự tách biệt, trong nhị nguyên, như chúng tôi đã giải thích rất nhiều lần, luôn có hai thái cực. Không thái cực nào là thật. Không thái cực nào là có thực. Do đó, cả hai đều mất cân bằng. Dù các con hướng tới thái cực nhị nguyên đó, các con đang ngày càng mất cân bằng hơn. Dù các con hướng tới thái cực kia, các con đang ngày càng mất cân bằng hơn. Dù các con hướng tới điểm giữa hai cực đoan, các con vẫn mất cân bằng.

Đấng Sáng tạo biết rằng nếu Ngài cho phép các sinh thể đi vào nhị nguyên mà không có bất cứ thứ gì có thể cân bằng chúng, thì về mặt lý thuyết, chúng có thể đi xa hơn và xa hơn về một cực đoan nhị nguyên và cứ tiếp tục đi và do đó, bị mắc kẹt vô thời hạn trong nhị nguyên. Điều này, dĩ nhiên, không phải là điều Đấng Sáng tạo muốn. Ngài không muốn những phần nối dài của Ngài bị mắc kẹt, Ngài muốn chúng cuối cùng trưởng thành hướng tới tâm thức Đấng Sáng tạo. Và, dĩ nhiên, Ngài không muốn một phần của mình bị mắc kẹt vô thời hạn trong nhị nguyên.

Điều Đấng Sáng tạo đã làm là tạo ra Luật Nghiệp. Khi các con đi vào nhị nguyên, các con tạo ra một sự mất cân bằng. Xung lực mất cân bằng mà các con tạo ra phải có một đối nghịch như trong nguyên tắc tác động và phản tác động. Với mỗi tác động sẽ có một phản ứng đối nghịch có cùng sức mạnh, vì vậy các con được phép đi về một cực đoan nhị nguyên để trải nghiệm điều đó như thế nào, nhưng các con sẽ tạo ra một lực kéo năng lượng, một lực hút từ tính kéo các con ra khỏi cực đoan nhị nguyên đó. Nghiệp quả thực ra không kéo các con về phía cực đoan nhị nguyên đối nghịch, mà nó kéo các con theo hướng đối nghịch với hướng các con đang đi. Và mục đích là, dĩ nhiên, có một điểm mà các con đã kéo sợi dây cao su của nghiệp quả xa nhất có thể và sẵn lòng kéo nó. Và các con đến điểm đó nơi các con cảm thấy: “Tôi không thể làm điều này nữa,” và các con thấy sự vô ích của nó, sự phù phiếm của nó. Và rồi các con buông bỏ, và rồi dần dần sợi dây cao su bắt đầu kéo các con trở lại khi các con sẵn lòng nhìn vào sự thật rằng chính những cái ta, những ảo tưởng mà các con đã tạo ra trong tâm trí mình đã khiến các con đi xa hơn và xa hơn tin rằng mình đang đi đúng hướng, thậm chí tin rằng mình đang giành được ngày càng nhiều tự do hơn khi mình ngày càng mất cân bằng hơn.

Nghiệp không phải là một sự trừng phạt như đôi khi được nhìn thấy ở phương Đông. Nghiệp là hồng ân cứu rỗi cho những sinh thể đã đi vào nhị nguyên và do đó, không thể lắng nghe bất kỳ chỉ dẫn nào từ cõi thăng thiên. Nó kéo các con trở lại điểm mà các con giờ đây có thể lựa chọn để nối kết, để trở thành một sinh thể nối kết một lần nữa, những người có thể nhận được điều gì đó từ cái ta cao của các con và các chân sư thăng thiên, một xung lực, một hướng dẫn nào đó có thể đưa các con bước lên bước tiếp theo.

Ý tôi là khi các con đi vào nhị nguyên và khi các con bỏ qua hậu quả, các con sẽ tạm thời cảm thấy một cảm giác tự do nhất định: “Tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn và thoát khỏi nó. Tất cả những điều vô nghĩa về vị Thượng đế trừng phạt đó, đó chỉ là chuyện tưởng tượng. Tôi có thể bỏ qua tất cả những điều đó. Tôi đã giành được tự do bằng cách làm bất cứ điều gì tôi muốn.” Và trong một thời gian, các con có thể cảm thấy như vậy bởi vì, một lần nữa, vũ trụ là một cỗ máy trải nghiệm cho phép các con có bất kỳ trải nghiệm nào các con có thể hình dung. Nhưng, dĩ nhiên, đến một lúc nào đó, hậu quả của hành động của các con bắt đầu ập đến và do đó, các con giờ đây có cơ hội để xem xét: “Có thực sự đúng là tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn và nó không có hậu quả không?” Và như chúng tôi đã nói trước đây, nếu các con đưa ra một lựa chọn và nó không có hậu quả, các con đã thực sự đưa ra một lựa chọn chưa?

Thực tế là không có tự do trong nhị nguyên và tách biệt. Các con có thể cảm thấy điều đó, các con có thể trải nghiệm một sự tự do nhất định, nhưng hãy nghĩ về ý tưởng này: “Vị Thượng đế giận dữ trên trời đang giới hạn sự tự do, quyền tự quyết của tôi, chỉ bằng cách nổi loạn chống lại vị Thượng đế đó tôi mới giành được tự do.” Các con giành được loại tự do nào khi các con đi vào nhị nguyên? À, các con giành được sự tự do khỏi, tự do khỏi điều gì đó. Các con có loại tự do nào khi các con thấy mình là một sinh thể nối kết và các con sẵn lòng thăng vượt bản thân? Đó không phải là tự do khỏi, đó là tự do để.

Khi các con ở tầng 48 và thấy mình là một sinh thể nối kết, các con không nổi loạn chống lại tầng tâm thức 48 để đi lên tầng 49. Các con đang nhìn lên và thấy: “À, có nhiều tự do hơn ở tầng 49. Tôi muốn điều đó.” Các con đang tiến tới sự tự do lớn hơn đó, ý niệm cái ta lớn hơn đó. Các con đang mở rộng ý niệm cái ta của mình, các con đang thăng vượt ý niệm cái ta của mình.

Khi các con đi vào nhị nguyên, các con có đang mở rộng ý niệm cái ta của mình không? Chà, trong một thời gian có thể cảm thấy như vậy, nhưng trên thực tế các con không làm điều đó, bởi vì các con đang chọn một thái cực nhị nguyên và bây giờ các con phải bảo vệ lựa chọn đó lặp đi lặp lại. Các con liên tục bảo vệ lý do tại sao các con đi theo hướng đó và tại sao nó đúng. Và các con bị đe dọa bởi những người khác đang đi theo thái cực nhị nguyên kia. Bây giờ các con bị mắc kẹt trong việc này, phải tự bảo vệ mình bằng cách cố gắng thuyết phục người khác hoặc chiến đấu với người khác hoặc hủy diệt người khác. Xóa bỏ tất cả những ai đe dọa cảm giác của các con rằng các con đúng. Các con liên tục trong trạng thái bảo vệ mình là đúng và đó tự nó là một nhà tù. Trên thực tế, đó là nhà tù phức tạp nhất hiện có, bởi vì những người nghĩ rằng mình đúng thường không thấy mình bị giam cầm như thế nào bởi nhu cầu bảo vệ mình là đúng.

Khi các con là một sinh thể nối kết, các con không nghĩ rằng mình hoàn toàn đúng. Tại sao? Bởi vì các con đang trải nghiệm rằng mình được nối kết với một cái gì đó bên ngoài tâm trí mình, một cái gì đó vĩ đại hơn tâm trí mình. Vị sứ giả này nhiều, nhiều năm trước, khi anh ấy lần đầu tiên nắm bắt được các chân sư thăng thiên thực sự là gì, anh ấy nhận ra rằng các chân sư thăng thiên có một mức độ tâm thức cao hơn mình, cao hơn nhiều. Và đó là giá trị bởi vì họ không thể bị tha hóa bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Và đó là lý do tại sao tôi muốn nối kết với các chân sư thăng thiên hơn là tiếp tục bị mắc kẹt trong trạng thái tâm trí hạn chế của mình. Dĩ nhiên, những người trong nhị nguyên không thể lý luận theo cách đó, họ không thể nắm bắt được điều này bởi vì họ phải bảo vệ rằng tâm trí của họ là cao trội, rằng tâm trí của họ có thể định nghĩa thực tại.

Nhưng khi các con là một sinh thể nối kết, các con trải nghiệm rằng có một cái gì đó vượt quá tâm trí mình. Do đó, các con không cần phải bảo vệ trạng thái tâm trí của mình. Chà, trong một thời gian, các con có một số bản ngã tiềm thức muốn bảo vệ trạng thái tâm trí của các con, nhưng khi các con lên cao hơn và tiến đến tầng 96 và vượt qua nó, các con có thể từ bỏ nhu cầu bảo vệ bất cứ điều gì. Và các con có thể chấp nhận: “Tôi không ở trong một trạng thái tâm thức cao nhất có thể. Do đó, tôi sẵn lòng tiếp tục nhìn vào bản thân, để thăng vượt mức độ tâm thức hiện tại của mình và vươn lên tầng tiếp theo, và tôi sẵn lòng tiếp tục làm điều này cho đến khi tôi hội đủ tư cách thăng thiên và do đó, có thể vươn lên một mức độ tự do hoàn toàn mới mà tôi không thể thực thi khi tôi đang trong một thân xác vật lý trên một hành tinh phi tự nhiên như trái đất.”

Bây giờ các con có thể nói: “Thầy có tự do như một chân sư thăng thiên không?” Chà, các con có, theo nghĩa là không có gì bên ngoài các con giới hạn các con. Dĩ nhiên các con vẫn có một mức độ tâm thức nhất định và do đó, các con bị giới hạn bởi những gì các con có thể hình dung và điều đó sẽ như vậy cho đến khi các con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo. Nhưng tôi có thể đảm bảo với các con rằng với tư cách là một chân sư thăng thiên, các con có một sự tự do mà hầu hết mọi người trên trái đất thậm chí không thể mơ ước. Các con có rất nhiều lựa chọn. Các con sẽ không tin những lựa chọn, những khả năng nào mở ra cho các con khi các con thăng thiên. Chỉ cần nhìn vào vũ trụ vật lý. Bao nhiêu hành tinh? Bao nhiêu hệ mặt trời? Bao nhiêu thiên hà? Chà, trong cõi thăng thiên có những cấu trúc tương tự. Các con đã thăng thiên từ trái đất. Bây giờ các con nhận ra: “Ồ, có rất nhiều điều tôi không biết. Có rất nhiều điều tôi có thể nghiên cứu,” và sau đó các con thấy: “Ồ, trong hệ thống trên kia, có trường học dạy kiến thức cụ thể này. Điều đó thật thú vị đối với tôi. Tôi muốn đến đó.” Và sau đó các con đến đó và học trong một thời gian và sau đó các con thấy một cái gì đó khác và các con có thể tiếp tục học và học và thăng vượt bản thân mọi lúc.

Nhưng để có được sự tự do đó, các con phải thăng thiên khỏi hành tinh nhỏ bé mà các con đang đầu thai này, và đó là toàn bộ mục tiêu của chúng tôi, là giúp các con làm điều này. Chà, mục tiêu của tôi cũng là hiện thân thời hoàng kim và điều đó đòi hỏi một số người phải ở lại trong thân xác để hiện thân nó cho tôi, vì vậy không phải tất cả các con đều cần thăng thiên sau kiếp sống này. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn các con có sự tự do mà các con có thể thăng thiên nếu các con muốn, để các con có thể lựa chọn một cách tự do liệu các con có muốn đi vào một kiếp đầu thai khác và giúp hiện thân thời hoàng kim hay không.

Tất cả những điều này có liên quan gì đến chủ đề của hội nghị này? Chà, làm thế nào để các con giành được tự do? Chỉ thông qua tâm Ki-tô. Các con không thể giành được tự do thông qua tâm nhị nguyên. Các con không thể suy nghĩ theo cách của mình để thoát khỏi nhị nguyên, lý luận theo cách của mình để thoát khỏi nhị nguyên, phân tích theo cách của mình để thoát khỏi nhị nguyên. Các con chỉ có thể giành được sự tự do lớn hơn thông qua tâm Ki-tô. Nhưng làm thế nào để các con giành được sự tự do lớn hơn đó? Giê-su đã nói gì? “Kẻ nào sẵn lòng bỏ mạng sống mình vì ta.” Các con phải để ý niệm cái ta hiện tại của mình chết đi để đạt được một sự nối kết cao hơn với tâm Ki-tô. Đó là tự do. Mỗi khi các con để một ý niệm cái ta chết đi, mỗi khi các con để một cái ta tách biệt chết đi, các con đang giành được sự tự do lớn hơn bởi vì các con đang giành được sự hợp nhất lớn hơn với tâm Ki-tô. Chỉ thông qua cái chết của cái đã chết về mặt tâm linh các con mới giành được tự do, các con mới giành được sự sống, sự sống của Ki-tô, đó là ánh sáng của đàn ông và phụ nữ.

Quả vị Ki-tô là con đường duy nhất dẫn đến tự do. Bây giờ, các con có thể gọi đó là Phật Tánh hay những thứ khác, nhưng Tâm Một, tâm bất khả phân chia, tâm hợp nhất, là con đường duy nhất dẫn đến tự do. Bây giờ, một khi các con hiểu điều này, một khi các con hiểu con đường và các con đang đi trên con đường đó, điều đó áp dụng như thế nào vào cuộc sống hàng ngày của các con? Chà, các con có thể nhìn lại bản thân trước khi các con tìm thấy con đường như nhiều người trong các con có thể làm và thấy rằng các con giống như con bò đã quấn dây quanh cọc và các con hầu như không thể di chuyển. Và các con có thể thấy rằng bằng cách đi theo con đường, các con đã giành được sự tự do lớn hơn.

Có lẽ một số các con còn mới trên con đường và các con vẫn quấn chặt sợi dây đó quanh cọc, và các con cảm thấy như mình không thể thực sự di chuyển, và các con đang tự hỏi con đường này sẽ giúp các con như thế nào, những điều xa vời mà các chân sư đang nói. “Mình có thể nới lỏng sợi dây đó một chút để mình có thể thở lại không?” Và các con có thể. Chúng tôi đã ban cho các con những công cụ để nới lỏng sợi dây đó để các con có thể thở. Nhưng các con phải áp dụng chúng bằng cách nhìn vào bản thân thay vì nghĩ rằng chính sợi dây đang hạn chế các con. Không, chính những gì các con đã làm bằng cách quấn dây quanh cọc đang hạn chế các con, và các con có thể tự gỡ mình ra khỏi cọc của cuộc đời, cái cọc giữ các con bị trói xuống đất. Nhưng chỉ có một cách để làm điều đó. Hãy nhìn vào tâm lý của các con. Sẵn lòng giải quyết nó, sẵn lòng sử dụng các công cụ chúng tôi đã ban, các công cụ sẵn có từ lĩnh vực tâm lý học và tự cứu tâm lý, bất cứ điều gì thu hút các con. Nhưng đó là cách duy nhất để được tự do, để đảo ngược quá trình đã khiến các con bị trói buộc. Điều đó hợp lý đến mức nào? Điều đó khó nắm bắt đến mức nào? Lựa chọn nào các con đối mặt? Các con có thể nói: “Chà, Saint Germain, những gì thầy đang nói nghe thật tuyệt vời, nhưng thầy dễ nói lắm, thầy đã thăng thiên rồi. Nhưng hãy nhìn con đi, nhìn vào tình huống của con, cách con bị ràng buộc bởi tất cả những điều kiện vỏ ngoài này và những người khác và điều này điều kia. Làm thế nào con có thể áp dụng những gì thầy đang nói vào tình huống của con?”

Chà, các con có thể bắt đầu bằng cách tự hỏi mình: “Tôi có muốn được tự do không? Tôi có muốn được tự do không?” Nhiều người trong các con sẽ nói: “Vâng, vâng, tôi muốn thoát khỏi xiềng xích.” Nhưng nhiều người trong các con đang tự lừa dối mình bởi vì nếu các con thực sự muốn được tự do, các con sẽ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần thiết để được tự do. Các con sẽ sẵn lòng áp dụng các giáo lý. Các con sẽ sẵn lòng nhìn vào bản thân. Nhưng nếu các con đang nhìn tôi và nói: “Ồ, Saint Germain, hãy chỉ cho con thuật giả kim kỳ diệu này sẽ giúp con được tự do.” Thì các con không sẵn lòng được tự do bởi vì các con cần hỏi câu hỏi sâu hơn mà tôi đã bắt đầu: “Điều gì khiến tôi bị giam cầm,” và nhận ra rằng đó là một cái gì đó trong tâm trí các con. Và cho đến khi các con nhìn vào điều đó trong tâm trí các con, các con sẽ không được tự do. Chừng nào các con còn tiếp tục đi theo cùng một hướng, các con sẽ chỉ làm chặt thêm xiềng xích, các con sẽ không nới lỏng nó. Các con phải làm một điều gì đó mà các con chưa từng làm trước đây. Nếu các con cứ làm cùng một điều và mong đợi những kết quả khác, các con bị điên rồi.

Nhiều, rất nhiều người qua nhiều năm, tôi nhìn lại những năm 1930 và Phong trào TA LÀ, rất nhiều người đã đến, và tôi hiểu rằng hồi đó khi chúng tôi ban ba cuốn sách xanh này về những điều tuyệt vời đã xảy ra với Guy Ballard, và cách anh ấy gặp tôi trên Núi Shasta, và cách anh ấy được đưa vào Hang Biểu tượng, và cách điều này và điều kia dường như là phép lạ đã xảy ra. Chúng tôi hiểu rằng nhiều người đã xây dựng một kỳ vọng nhất định dựa trên điều này, nhưng đó là mức độ tâm thức mà mọi người đang ở. Nhưng dù sao đi nữa, rất nhiều người đã đến, và họ đang mong đợi một loại phép lạ nào đó, một loại thuật giả kim nào đó, một loại “hòn đá triết gia” nào đó sẽ giúp họ được tự do. Và hồi đó, chưa có mức độ tâm thức tập thể mà chúng tôi có thể ban những giáo lý mà chúng tôi đang ban bây giờ về tâm lý học. Tôi không đổ lỗi cho bất kỳ ai, tôi chỉ nói rằng, trong thời đại ngày nay, chúng tôi có thể ban những giáo lý này. Câu hỏi duy nhất là: “Các con đã sẵn sàng đón nhận chúng chưa?” Nếu các con chưa sẵn sàng, tôi không đổ lỗi cho các con. Nhưng sau đó có lẽ hãy đi nơi khác và tìm một cái gì đó khác thu hút các con. Nếu các con sẵn lòng được tự do, thì hãy sử dụng những giáo lý chúng tôi đang ban trong thời đại này và sẵn lòng nhìn vào tâm lý của các con. Bởi vì nếu các con không sẵn lòng nhìn vào tâm lý của các con, các con thực sự không sẵn lòng được tự do.

Làm thế nào các con có thể áp dụng điều này vào tình huống hàng ngày của mình? Các con có thể nói: “Trong tình huống này, điều gì đang giam cầm tôi? Điều gì trong tâm trí tôi, trong tâm lý tôi, trong phản ứng của tôi đang giam cầm tôi? Và làm thế nào tôi có thể sử dụng tình huống này để nhìn vào bản thân và trở nên tự do hơn?” Các con thực sự có thể đạt đến một điểm mà các con có thể cảm thấy: “Đây là một tình huống, đây là một xung đột tôi có với một người khác mà tôi đã có từ lâu.” Và các con có thể cảm thấy rằng phản ứng bình thường của các con đối với tình huống này chỉ đang làm chặt thêm xiềng xích. Các con có thể cảm thấy sự kháng cự trong chính mình. Và sau đó các con có thể học để biết rằng phải có một bản ngã tiềm thức đang ẩn đằng sau điều này, và bản ngã tiềm thức đó chỉ có thể phản ứng theo một cách duy nhất đối với tình huống này: cách tôi đã phản ứng cho đến nay. Và đó là lý do tại sao tôi cứ làm chặt thêm xiềng xích, và đó là tất cả những gì tôi có thể làm khi tôi bị mắc kẹt trong bản ngã tiềm thức này, và tôi bị bản ngã làm cho mù quáng. Và sau đó các con có thể sử dụng các công cụ chúng tôi đã ban, cách phơi bày những bản ngã tiềm thức này, cách để thấy ảo tưởng và thấy rằng các con không cần phải phản ứng chỉ theo một cách đó đối với tình huống này. Có những cách khác để phản ứng.

Và rồi các con có thể tìm kiếm ảo tưởng khiến các con nghĩ rằng đây là cách duy nhất để phản ứng với tình huống này hoặc người này. Và rồi Cái Ta Biết có thể đưa ra một lựa chọn: “Tôi không muốn tiếp tục phản ứng theo cách này. Tôi muốn được tự do khỏi khuôn nếp này.” Và rồi các con có thể đạt đến điểm mà các con có sự giải phóng đó bởi vì bây giờ các con thấy cái ta. Các con thấy rằng nó giống như một chương trình chỉ có thể làm cùng một điều. Và các con giải phóng ảo tưởng đó. Và rồi các con tự do hơn một chút. Các con vẫn có thể bị quấn phần lớn sợi dây quanh cọc, nhưng một sợi dây có các mắt xích riêng lẻ, và mỗi khi các con thấy một cái ta, thì như thể các con tháo một mắt xích ra khỏi sợi dây và các con tự do hơn. Các con có thể học cách không chỉ tháo gỡ sợi dây mà còn thực sự làm tan biến sợi dây cho đến khi ngày càng ít thứ ràng buộc các con vào những khuôn nếp phản ứng, tâm thức nhị nguyên, vào việc quá dính mắc vào người khác. Và cuối cùng các con có thể đạt đến mức độ cao hơn đó, mà tất cả các Thượng sư khác đã nói đến, cách các con có thể vượt qua tầng 96 và đạt được sự hội nhập lớn hơn của một tia cụ thể.

Và các con có thể đạt đến điểm đó với Thất Tia, nơi mọi việc các con làm, mọi tình huống các con tiếp cận, mục tiêu của các con là được tự do hơn, là sử dụng tình huống đó để trở nên tự do hơn. Và khi các con thực sự nắm bắt được tiến trình, và các con sẽ không vượt qua tầng 96 nếu các con không nắm bắt được tiến trình giải thể các bản ngã, các con có thể thấy rằng không có giới hạn nào cho việc các con có thể đi xa đến đâu ở đây. Không có gì giữ các con lại. Không có lực bên ngoài nào buộc các con phải giữ lấy những bản ngã này. Tất cả đều là nội tại. Và khi các con hoàn toàn chấp nhận rằng xiềng xích của các con chỉ nằm trong tâm trí các con, đó là lúc các con bắt đầu thị hiện quả vị Ki-tô. Đó là lúc các con có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì đó là lúc các con có thể tránh ý tưởng này: “Ồ, có điều gì đó tôi phải làm.” Và thay vào đó, các con có thể để nó tuôn chảy tự do.

Chúng tôi thỉnh thoảng thấy nhiều đệ tử tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên, họ nghe nói về khái niệm quả vị Ki-tô và họ nghĩ, “À, tôi phải làm điều gì đó để biểu hiện quả vị Ki-tô của mình.” Họ trở nên ám ảnh cưỡng chế về điều này. Họ trở nên rất háo hức. Họ trở nên rất cường độ trong việc muốn thuyết phục người khác bởi vì họ nghĩ mục tiêu của quả vị Ki-tô là thay đổi người khác hoặc thay đổi thế giới. Rất nhiều đệ tử đã trải qua một giai đoạn mà họ quá tập trung vào việc thay đổi thế giới bằng cách đọc chú và thỉnh gọi. Một lần nữa, chúng tôi hoàn toàn không đổ lỗi cho các con. Đó là một giai đoạn tự nhiên trên con đường. Nhưng khi các con vượt qua tầng 96, các con nhận ra rằng đó không phải là việc thay đổi người khác. Đó là việc là chính mình, biểu hiện cái ta cao của các con. Và điều đó mang lại cho người khác cơ hội để thấy rằng có một lựa chọn thay thế cho trạng thái tâm thức của họ. Nhưng liệu họ có nắm bắt cơ hội đó hay không thì không phải là mối quan tâm của các con. Bởi vì các con không có một kết quả vỏ ngoài nào mà các con cần phải thị hiện, như Nada đã nói rất hùng hồn. Mục tiêu của các con không phải là thị hiện một kết quả cụ thể, mà là được tự do tuôn chảy với Dòng sông sự Sống.

Các con có thể nói: “Nhưng Saint Germain, nghe có vẻ như thầy muốn thay đổi tâm trí của chúng con. Thầy muốn chúng con được tự do, và thầy muốn hiện thân Thời Hoàng kim của thầy. Thầy không có mục tiêu sao?” Vâng, nhưng tôi là một chân sư thăng thiên. Tôi là một chân sư thăng thiên. Tôi không có bản ngã tiềm thức. Tôi không có động cơ vị kỷ. Tôi không có bất cứ điều gì tôi cần đạt được bằng cách thay đổi các con. Và tôi thực ra không cố gắng thay đổi tâm trí các con. Tôi chỉ cố gắng chỉ cho các con cách các con có thể thay đổi tâm trí mình và ngày càng trở nên tự do hơn. Bởi vì tôi biết từ kinh nghiệm rằng các con thực sự muốn được tự do hoặc các con sẽ không ở đây lắng nghe điều này. Nếu các con không thực sự muốn được tự do, các con sẽ không bao giờ tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên. Và tôi chỉ đơn giản là tìm cách giúp các con nắm bắt được giáo lý đó nói về điều gì, con đường đó nói về điều gì, quả vị Ki-tô thực sự mang lại cho các con điều gì, để các con có thể tận dụng nó tốt nhất có thể và trở nên tự do. Bởi vì tôi biết rằng khi các con trở nên tự do hơn, các con sẽ cảm thấy tốt hơn rất nhiều. Các con sẽ cảm thấy rằng đây là một phần thưởng lớn, rằng việc từ bỏ ý niệm cái ta thấp kém đó là đáng giá.

Nó rất đơn giản, các con yêu dấu của tôi. Khi các con từ bỏ một ý niệm cái ta thấp kém và vươn lên một ý niệm cái ta cao hơn, điều đó sẽ đáng giá. Các con sẽ không nhớ tiếc cái bản ngã thấp kém. Và các con sẽ cảm thấy tự do hơn rất nhiều, cảm thấy tốt hơn rất nhiều về bản thân. Thực ra không phải tôi muốn điều này cho các con giống như cách con người muốn thay đổi người khác. Nhưng tôi biết rằng đây là điều các con muốn cho chính mình. Và tôi chỉ đơn giản là tìm cách mang lại cho các con động lực đó có thể đẩy các con vượt qua một ngưỡng khác, để các con vươn lên tầng tiếp theo của con đường. Bởi vì tôi biết từ kinh nghiệm rằng ở mỗi tầng đều có một sự kháng cự nhất định. Và vai trò của tâm Ki-tô là gì? Để chỉ cho các con thấy có một lựa chọn thay thế, rằng có thể đột phá sự kháng cự và vươn lên tầng tiếp theo. Và thỉnh thoảng, vai trò của tâm Ki-tô là thúc đẩy các con một chút, như tất cả chúng ta đều phải được thúc đẩy để vượt qua sự ì lại đó, lực kéo trọng trường đó, của bát cung vật lý và tâm thức đại chúng.

Các con có thể nghĩ rằng việc tôi hội đủ tư cách thăng thiên dễ dàng hơn các con. Nhưng hãy nghĩ về điều đó. Điều gì mà tôi, Saint Germain, đã phải vượt qua để hội đủ tư cách thăng thiên? Đó là những bản ngã tiềm thức mà tôi có trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc của mình mà tôi đã tạo ra qua nhiều kiếp sống. Vâng, tôi cũng có tâm lý chưa giải quyết giống như các con. Làm sao tôi có thể là một sinh thể chưa thăng thiên nếu không có? Tôi đã hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách vượt qua tâm lý đó. Vâng, đó không phải là ấn tượng mà chúng tôi đã tạo ra trong Phong trào TA LÀ hoặc Summit Lighthouse. Nhiều đệ tử nghĩ: “Chà, các chân sư chưa bao giờ thực sự có tâm lý chưa giải quyết. Đối với họ dễ dàng hơn nhiều.” Nhưng đó không phải là trường hợp. Chúng tôi luôn nói gì? Điều một người đã làm, tất cả có thể làm. Chà, nếu các con có thể làm những gì tôi đã làm, đó là vì tôi có cùng những vấn đề tâm lý mà các con đang có. Và tôi đã phải vượt qua những vấn đề tâm lý của mình. Bây giờ, chúng có thể hơi khác so với của các con vì tôi có những bản ngã tiềm thức khác nhau. Nhưng ý tôi là thế này: rất khó để các con nhìn thấy những bản ngã tiềm thức của chính mình. Có thể dễ dàng hơn cho các con nhìn thấy những bản ngã tiềm thức trong anh chị em của các con. Nhưng rất khó để nhìn thấy bản ngã của chính mình. Tại sao các con nghĩ rằng việc tôi nhìn thấy những bản ngã tiềm thức của chính mình không khó như vậy? Các con thấy đó, luôn luôn khó nhất là nhìn thấy “cái xà trong mắt mình”. Và việc tôi nhìn thấy những bản ngã tiềm thức của mình cũng khó như việc các con nhìn thấy của mình. Làm sao có thể có sự khác biệt khi các con nghĩ về điều đó? Và đó là lý do tại sao tôi biết rằng khi tôi vượt qua những bản ngã tiềm thức của mình, các con có thể vượt qua những bản ngã của mình. Điều một người đã làm, tất cả có thể làm. Chắc chắn như một cộng một là hai.

Các con thấy đây, trở lại những năm 1930, tâm thức, tâm thức tập thể, thấp hơn nhiều so với ngày nay. Chúng tôi đã phải ban một giáo lý phù hợp với mức độ tâm thức đó. Và giống như Giê-su 2.000 năm trước đã phải tạo ra phép lạ để thu hút sự chú ý của mọi người, chúng tôi đã phải ban một giáo lý nhất định rằng chúng tôi là những chân sư cao cả có thể tạo ra mọi loại phép lạ và giúp các con được tự do một cách thần diệu. Chúng tôi đã làm gì kể từ đó, theo một nghĩa nào đó? Chúng tôi đã đặc biệt làm gì trong đợt truyền giáo này? Chúng tôi đã hạ mình xuống khỏi bệ thờ mà chúng tôi đã đặt mình lên trong các đợt truyền giáo trước đây. Và tại sao chúng tôi làm điều này? Có những người sẽ nói: “Ồ, các chân sư thông qua cái anh chàng Kim Michaels này, họ trông thật bình thường. Họ đang tự hạ thấp mình. Đây không phải là các chân sư thực sự.” Nhưng tại sao chúng tôi làm điều này? Chính xác là để các con nhận ra rằng những gì chúng tôi đã làm các con có thể làm. Điều này không phải là tự hạ thấp mình. Điều này không phải là tự hạ thấp mình. Đó là việc hạ mình xuống khỏi bệ thờ mà mọi người đã đặt chúng tôi lên để các con nhận ra rằng không có sự khác biệt cơ bản nào giữa các con và tôi.

Khi tôi còn đầu thai trên trái đất, tôi cũng có tâm lý chưa giải quyết như các con. Làm sao tôi có thể ở trên hành tinh phi tự nhiên này nếu không có? Và tôi đã hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách nhìn vào cái xà trong mắt mình và vượt qua tâm lý đó, giống như các con phải làm để hội đủ tư cách thăng thiên. Và như các con có thể làm, bởi vì nó cũng khó khăn đối với các con như đối với tôi. Trên thực tế, nó ít khó khăn hơn đối với các con bởi vì các con có một giáo lý mà tôi không có. Và các con có thể khai triển thêm từ động lượng đã được tạo ra bởi sự thăng thiên của tôi và bởi sự thăng thiên của các chân sư khác đã thăng thiên. Các con có thể hòa mình vào Dòng sông sự Sống mà chúng tôi đã đóng góp bằng cách thăng thiên khỏi trái đất. Trên thực tế, việc các con hội đủ tư cách thăng thiên dễ dàng hơn đối với các con so với đối với tôi. Tôi không cố gắng đổ lỗi cho các con ở đây. Tôi không cố gắng nói: “Ồ, các con phải có khả năng làm điều đó trong năm phút.” Tôi chỉ cố gắng mang lại cho các con một cảm nhận thực tế rằng mục tiêu hội đủ tư cách thăng thiên không phải là không thực tế khi các con sẵn lòng nhận ra rằng cách duy nhất để hội đủ tư cách thăng thiên là giải quyết tâm lý, và rằng có thể giải quyết tâm lý, và nó dễ dàng hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử gần đây của trái đất.

Tôi có thể tiếp tục vì tôi đang cưỡi sóng. Tôi đang tuôn chảy cùng dòng sông. Nhưng tôi sẽ kềm chế mình do thời gian và không gian. Và tôi chỉ đơn giản nói rằng đó là niềm vui lớn của tôi khi tương tác với các con theo cách này và ban ra một phúc lành đến nỗi sẽ không có đủ chỗ để đón nhận nó. Nhưng cuối cùng, các con có thể đạt đến một điểm mà có đủ chỗ để đón nhận nó. Và do đó, các con có thể tận dụng giáo lý này và nó có thể giúp các con vươn lên tầng tiếp theo, nơi các con trở nên tự do, tự do nhất có thể khi các con vẫn còn trong một cơ thể vật lý trên trái đất.

Đó là viễn quan của tôi dành cho mỗi và mọi người trong số các con. Và dĩ nhiên, cho nhiều người khác cuối cùng sẽ tìm thấy những giáo lý này và áp dụng chúng. Với điều này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình, và tôi sẽ niêm phong các con trong Ngọn lửa Tự do hỉ lạc mà tôi đang giữ cho trái đất. Saint Germain, TA LÀ.

11 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Nada

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada, qua trung gian Kim Michaels ngày 7/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên Nada, và theo nhãn quan của tôi về Tia sáng Thứ Sáu, quả vị Ki-tô cốt ở sự phụng sự. Các chân sư khác đã nói về việc đạt đến điểm mà con cần bắt đầu phụng sự, nhưng điều Serapis Bey và Hilarion đang nói đến là một giai đoạn khi con thực sự tập trung vào sự phụng sự như một cách để đánh lừa tâm con khỏi sự vị kỷ của tự ngã. Đó là lý do tại sao con tập trung vào một sự nghiệp nào đó vượt ngoài bản thân con. Nhưng khi con vượt ra khỏi giai đoạn này và trưởng thành trong quan điểm phụng sự của mình, con sẽ đạt đến mức độ cao hơn của sự hợp nhất với tâm Ki-tô, nơi sự phụng sự không phải là thứ con quyết định đảm nhận. Sự phụng sự là một biểu hiện của con người con ở tầng tâm thức này. Bởi vì khi con tiến lên một chút vượt quá tầng thứ 96 và bắt đầu hòa điệu với tâm Ki-tô, con sẽ nhìn thấy mình là một sinh thể nối kết, như một biểu hiện của tâm Ki-tô. Và rồi con bắt đầu thấy rằng những người khác cũng là biểu hiện của tâm Ki-tô, bởi vì con trải nghiệm rằng tâm Ki-tô là nguồn cội của con, và điều đó thực sự có nghĩa là tâm Ki-tô là nguồn cội của mọi người khác. Và do đó, việc con tập trung vào việc phụng sự người khác như một biểu hiện của con người con trở nên hoàn toàn tự nhiên.

Nhưng làm thế nào con đạt đến điểm đó, nơi con có thể phụng sự từ tầng của Ki-tô mà không bị pha màu bởi một số ham muốn của tự ngã? Bởi lẽ tự nhiên, tự ngã có thể lấy khái niệm phụng sự và sử dụng nó để tôn vinh chính nó. Con có thể nhìn vào nhiều người trên khắp thế giới, qua nhiều thời đại, và thấy rằng một số người đã cống hiến cuộc đời mình cho một hình thức phụng sự dường như là vô vị kỷ. Và họ đang phụng sự một sự nghiệp nào đó, phụng sự người khác, họ tham gia vào công việc từ thiện hoặc bất cứ điều gì có thể, và do đó họ đang cung cấp một dịch vụ cho xã hội và cho những người khác. Nhưng nếu con nhìn vào tâm lý của một số người này, con sẽ thấy rằng họ thực sự có một tham vọng thường là vô thức, tiềm thức, không được nhận biết, nơi họ nghĩ rằng họ sẽ nhận được điều gì đó cho bản thân bằng cách làm công việc phụng sự. Ví dụ, nhiều người mộ đạo nghĩ rằng bằng cách tham gia vào công việc phụng sự, họ sẽ bằng cách nào đó cân bằng nghiệp quả, có được sự ưu ái của Thượng đế, được Ki-tô nhìn nhận một cách thiện cảm, và do đó, sự cứu rỗi của họ được đảm bảo. Những người khác có cảm giác rằng họ đã là những kẻ có tội lớn trong quá khứ và họ đang tìm cách hối chuộc điều này. Những người khác nghĩ rằng bằng cách nào đó, họ sẽ nhận được một số sự công nhận cho sự phụng sự của họ, có thể là ở đây trên trái đất hoặc thậm chí từ Thượng đế hay Giê-su hay bất cứ ai mà họ coi là hình tượng tâm linh của họ, thần tượng tâm linh của họ.

Để đạt đến tầng mà tôi đang nói đến, nơi sự phụng sự trở thành một biểu hiện tự nhiên của con người con, con cần trải qua điều gì? Chà, đây là nơi khía cạnh thứ hai của Tia sáng Thứ Sáu là An bình. Con cần đạt được một trạng thái an bình nội tâm nhất định, bởi vì con sẽ thấy rằng khi mọi người phụng sự từ động cơ của tự ngã, họ không hoàn toàn an bình. Họ có thể trông hài hòa ở bên ngoài, nhưng ở bên trong họ không an bình bởi vì họ đang tìm cách đạt được điều gì đó. Và nhiều người dường như đang phụng sự một cách vô vị kỷ, lại có một mục tiêu nhất định cho sự phụng sự của họ. Họ muốn thấy một kết quả nhất định từ nó. Và điều đó tất nhiên có nghĩa là họ liên tục trong tình trạng thiếu thốn bởi vì họ không bao giờ thực sự thấy kết quả mà họ hy vọng. Điều này có nghĩa là họ đang bị căng thẳng và do đó, không an bình.

Bây giờ, tự nhiên con sẽ hỏi: “Vậy, làm thế nào con có thể đạt được sự an bình nội tâm này?” Chà, như mọi khi, như con đã biết rõ, những người đã nghiên cứu giáo lý của chúng tôi trong vài năm qua, một phần câu trả lời là, giải quyết tâm lý, giải quyết những cái ta tiềm thức kéo con ra khỏi sự an bình. Nhưng những cái ta tiềm thức đó là gì? Chà, chúng là những cái ta đang tìm cách hoàn thành một nhiệm vụ bất khả thi. Chúng tôi đã nói rằng tự ngã được tạo ra khi con đi vào sự tách biệt. Chúng tôi đã nói rằng tự ngã được tạo ra từ sự thiếu thốn và do đó, có một sự thiếu thốn tồn tại. Con có thể nói nếu con nhìn vào tự ngã từ một góc độ năng lượng, tự ngã ở mức độ năng lượng thuần túy là gì? Nó có thể so sánh được, tất nhiên không hoàn toàn giống nhau, nhưng có thể so sánh với một lỗ đen hút mọi thứ vào nó mà không bao giờ được lấp đầy. Chà, đó chính là tự ngã. Nó liên tục kéo con, kéo người khác, kéo thế giới, liên tục tìm kiếm sự công nhận, sự xác nhận. Nhưng tự ngã thực sự đang tìm kiếm điều gì? Nó đang tìm kiếm sự bất tử. Nó đang tìm cách trở thành một sinh thể bất tử để nó không phải chết.

Bây giờ, chúng tôi thỉnh thoảng đã nói về những vị thày bất nhị này, những người khẳng định hoặc dạy rằng mục tiêu tối thượng của sự tăng trưởng tâm linh là sự chết của bất kỳ ý niệm bản ngã nào. Điều họ nói về cơ bản là bằng cách nào đó cái không phân biệt, cho dù họ gọi đó là Brahman hay nhận biết vô hạn, đã thị hiện chính nó như con, như ý niệm bản ngã của con. Nhưng mục tiêu của điều này là cái ta của con cuối cùng chết đi và không còn nữa. Chà, họ đã đúng một nửa, nhưng cái chết phải là của tự ngã, chứ không phải cái ta cá nhân. Như chúng tôi đã giải thích nhiều lần, con được tạo ra như một cái ta cá nhân, cụ thể là Hiện diện TA LÀ của con, với một cá thể độc đáo. Và mục đích của sự tồn tại của con là thăng vượt ý niệm bản ngã của con, tăng trưởng trong sự tự nhận biết cho đến khi con đạt đến Tâm thức Đấng Sáng tạo. Hiện diện TA LÀ không được tạo ra để chết và sẽ không bao giờ chết, nhưng tự ngã được tạo ra từ sự tách biệt. Nó không được tạo ra bởi Thượng đế, bởi các chân sư thăng thiên, do đó, nó không phải là một phần nối dài của sinh thể vĩ đại nhất.

Con đã tạo ra tự ngã, không phải một cách ý thức, nhưng con đã tạo ra tự ngã bằng cách đi vào sự tách biệt. Và con có thể nói, sự khác biệt giữa cái ta cá nhân và tự ngã hay cái ta tách biệt là gì? Chà, con có thể nói, từ một góc độ nhất định, rằng cái ta cá nhân mà con có ở bất kỳ thời điểm nào là một cấu trúc mang lại cho con một trải nghiệm nhất định. Do đó, con có thể nói rằng Hiện diện TA LÀ của con là một cái ta đang tiến hóa, nhưng bất kỳ lúc nào nó cũng có một ý niệm bản ngã nhất định mang lại cho nó một trải nghiệm nhất định. Cái Ta Biết đã tạo ra một ý niệm bản ngã nhất định để bước vào hiện thân và nó cũng đã tạo ra tự ngã như một cái ta tách biệt và điều đó mang lại cho nó một trải nghiệm nhất định. Tự ngã về cơ bản được tạo ra để mang lại cho con một trải nghiệm nhất định, cụ thể là một sinh thể tách biệt. Và dường như, tự ngã giống như cái ta cá nhân. Con đã tạo ra tự ngã, nhưng một khi điều này đã ra đời, nó có một tâm thức sơ khai, bản năng sống còn, một cảm giác rằng nó tồn tại. Tại sao tự ngã không thể trở thành bất tử? Con không thể nói rằng bằng cách tạo ra tự ngã, con vừa tạo ra một phần nối dài của chính mình sao? Và vì con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ và Hiện diện TA LÀ là một phần nối dài của sinh thể vĩ đại nhất, tại sao tự ngã không thể trở thành bất tử?

Nhưng con thấy đó, con, cái Ta Biết—con có khả năng tạo ra một cái ta tách biệt và phú cho nó một số tâm thức, nhưng không phải sự tự nhận biết. Con đã được ban cho sự tự nhận biết như một món quà từ Đấng Sáng tạo, một phần nối dài của Bản thể Đấng Sáng tạo, nhưng con không được ban cho khả năng hay quyền năng để mở rộng điều đó xa hơn. Con có thể nâng cao ý niệm bản ngã của mình, nhưng con không thể tạo ra một cái ta tách biệt và ban cho nó sự sống, ban cho nó sự tự nhận biết. Tại sao? Bởi vì điều mang lại sự sống cho sự tự nhận biết là tâm Ki-tô và đó là Tâm của Hợp nhất. Con không thể tạo ra một cái ta tách biệt từ tâm Ki-tô. Con chỉ có thể tạo ra một cái ta tách biệt bên ngoài tâm Ki-tô. Điều này có thể lại là một trong những mâu thuẫn này, dường như vậy. Chúng tôi đã không nói sao: “Nếu không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành?” Mọi hình tướng đều được tạo ra từ tâm thức Ki-tô. Vâng, ngay cả tự ngã cũng được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, nhưng không phải bằng tâm thức Ki-tô, không phải bằng sự tự nhận biết.

Tự ngã có một bản năng sống còn. Nó muốn phát triển và trở nên mạnh mẽ hơn, vì nó có một cảm giác rằng nó muốn kéo dài sự sống của nó. Quay lại câu hỏi của tôi: “Sự khác biệt giữa cái ta cá nhân và tự ngã là gì và tại sao tự ngã không thể trở thành bất tử?” Chẳng phải cái ta cá nhân, Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết được tạo ra để mang lại cho con một trải nghiệm nhất định sao? Chẳng phải tự ngã được tạo ra để mang lại cho con một trải nghiệm nhất định sao? Vâng, tự ngã được tạo ra để mang lại cho cái Ta Biết trải nghiệm về việc ở trong trạng thái tách biệt là như thế nào. Nhưng như chúng tôi đã nói, sự tách biệt không thể đi vào sự hợp nhất, không thể được tạo ra từ sự hợp nhất, và do đó, nó không thể trở thành bất tử. Mục đích của việc cho phép cái Ta Biết trải nghiệm sự tách biệt là để con có thể trải nghiệm các khía cạnh khác nhau của sự tách biệt mà con cần trải nghiệm cho đến khi con đạt đến điểm đó—không phải là một quyết định bên ngoài mà là một sự nhận ra nội tâm: “Con đã chán chê việc trải nghiệm sự tách biệt.” Và rồi con có thể, trong nhận biết đầy đủ về những gì con đang làm, tự nguyện từ bỏ bất kỳ ham muốn nào để trải nghiệm sự tách biệt.

Và đó là khi con thăng thiên và trở thành một sinh thể bất tử.

Con thấy đó, cái ta cá nhân được tạo ra để mang lại cho con trải nghiệm về việc tăng trưởng hướng tới các tầng hợp nhất cao hơn và cao hơn với Đấng Sáng tạo của con. Tự ngã được tạo ra để mang lại cho con trải nghiệm về sự tách biệt để con có thể trải nghiệm toàn bộ những gì có thể với quyền tự quyết, và do đó, đạt đến điểm mà con tự nguyện và có ý thức quyết định: “Con đã trải nghiệm đủ sự tách biệt. Bây giờ con muốn tập trung vào việc trải nghiệm các tầng hợp nhất cao hơn.” Và con làm điều này một cách tự nguyện, và do đó, với tư cách là một chân sư thăng thiên, con đã vĩnh viễn bỏ lại bất kỳ ham muốn nào để thử nghiệm sự tách biệt.

Tự ngã chỉ được tạo ra để mang lại cho con một trải nghiệm tạm thời. Và đó là lý do tại sao nó không thể trở thành bất tử. Nhưng như tôi đã nói, tự ngã có bản năng sống còn, và do đó, nó tìm cách trở thành bất tử, nó tìm cách bù đắp cho sự mất kết nối của con với cái ta cao của con bằng cách làm hoặc đạt được hoặc sở hữu hoặc kiểm soát điều gì đó trong thế giới này. Bởi vì nó nghĩ rằng có điều gì đó trong bầu cõi chưa thăng thiên là chìa khóa cho sự bất tử, có lẽ là suối nguồn tuổi trẻ.

Con thấy một điều sâu sắc. Những gì tôi vừa giải thích, con không thể giải thích cho tự ngã. Chúng tôi có thể nói, theo một cách nào đó, rằng tự ngã nghĩ nó có thể trở thành bất tử, nhưng nó nghĩ điều này dựa trên tầm nhìn hạn chế của nó, nơi nó không thể nắm bắt được rằng sự bất tử chỉ có thể có được trong sự hợp nhất với Ki-tô, bởi vì tự ngã không thể thấu rõ sự hợp nhất với Ki-tô. Nó được tạo ra từ sự tách biệt. Làm sao nó có thể thấu rõ sự hợp nhất? Con không thể làm cho tự ngã thấy những gì tôi vừa giải thích. Tự ngã sẽ mãi mãi—hay đúng hơn, chừng nào con còn cho phép nó tồn tại, sẽ theo đuổi cuộc tìm kiếm bất khả thi này để đạt được sự bất tử cho những thứ của bầu cõi chưa thăng thiên này, nơi không có gì có thể bất tử. Tại sao không có gì có thể bất tử? Chà, bởi vì không có gì có thể đứng yên. Có sự bất tử, vâng, thông qua Tâm thức Ki-tô, vâng, nhưng Tâm thức Ki-tô là gì? Sự tự thăng vượt liên tục không ngừng. Chỉ trong sự tự thăng vượt mới có sự bất tử, trừ khi con đi vào cái Tất Cả nơi phương trình khác. Nhưng trong một thế giới hình tướng đang tiến hóa, chỉ có sự bất tử trong sự tự thăng vượt.

Và không có gì có thể tự thăng vượt chính nó trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Và tự ngã không tìm cách tự thăng vượt chính nó. Nó đang tìm cách làm cho ý niệm bản ngã của nó trở nên thường hằng, bất tử, bằng cách dừng lại một khi nó đã đạt đến cái mà tự ngã coi là một trạng thái tối hậu. Các sa nhân nghĩ rằng một khi họ đã nâng cái ta tách biệt của họ lên địa vị tối hậu này, luôn ở ngay gần, và đã như vậy kể từ khi họ sa ngã trong bầu cõi thứ tư hoặc thứ năm hoặc thứ sáu. Họ nghĩ rằng khi họ đạt đến địa vị tối hậu này, Thượng đế sẽ phải ban cho họ sự bất tử. Con không thể giải thích điều này cho một sa nhân, chừng nào họ còn ở trong tâm thức sa ngã.

Bây giờ, sa nhân, có một cái Ta Biết, có tiềm năng quay trở lại sự hợp nhất. Nhưng tự ngã thì không. Tự ngã của một sa nhân, cho dù nó có vẻ mạnh mẽ và tinh xảo đến đâu, cũng không thể trở thành bất tử. Tự ngã không thể thấy rằng nó đang theo đuổi một cuộc tìm kiếm bất khả thi. Nhưng con, cái Ta Biết, có thể đến để thấy nó. Và khi con đến để thấy nó, không chỉ thấy nó, mà còn trải nghiệm thực tại của nó bằng cách trải nghiệm sự sống của tâm Ki-tô, thì con, cái Ta Biết, có thể buông bỏ cuộc tìm kiếm bất khả thi này để đạt đến một trạng thái tối hậu trong thế giới này. Và khi con buông bỏ cuộc tìm kiếm bất khả thi này, con có thể đạt được tâm an bình.

Có thể có một số cái ta mà con cần làm sạch trong một khoảng thời gian, nhưng con có thể khá nhanh chóng đạt được tâm an bình. Và khi con có tâm an bình đó, con không tìm cách bù đắp cho bất cứ điều gì đã sai trái. Con không tìm cách đạt được bất kỳ mục tiêu tối hậu nào trong thế giới này. Và điều này có nghĩa là con không có động cơ vị kỷ nào để phụng sự, điều này tất nhiên có nghĩa là bây giờ con có thể phụng sự với tâm an bình. Bởi vì con không phụng sự từ một quyết định nào đó, từ một lý tưởng nào đó. Sự phụng sự không phải là điều con đảm nhận như điều con phải làm trong thế giới này, hay con phải làm để đạt được một mục tiêu nào đó. Sự phụng sự chỉ là một biểu hiện của con người con ở tầng tâm thức này.

Có một sự khác biệt cơ bản giữa việc nhìn vào sự phụng sự thông qua phin lọc của tâm vỏ ngoài và quyết định, vì bất cứ lý do gì, rằng con phải phụng sự, và sau đó tham gia vào một hoạt động nào đó đáp ứng định nghĩa của con về ý nghĩa của sự phụng sự—và sau đó nhìn vào sự phụng sự thông qua sự trong sáng, sự trung dung của tâm Ki-tô. Khi con phụng sự thông qua tự ngã, luôn có một cảm giác phán xét nhất định. Hình thức phụng sự nào là đúng? Hình thức phụng sự nào là cao nhất? Người khác nên phản ứng như thế nào với sự phụng sự của con? Con có thể bác bỏ những người không phản ứng đúng cách không? Và con luôn phán xét người khác và chính mình.

Khi con buông bỏ tất cả những điều này, và phụng sự thông qua tâm Ki-tô, con không có mục tiêu nào về cách người khác nên phản ứng. Trên thực tế, con có thể nói rằng con đạt đến một điểm mà con không có mục tiêu nào cho sự phụng sự của con. Con chỉ phụng sự bởi vì sự phụng sự là một hình thức tự biểu đạt, và nó mang lại cho con niềm vui và sự thỏa mãn khi thực hiện sự phụng sự. Con không thực hiện sự phụng sự với cảm giác rằng có một mục tiêu cần đạt được, và con sẽ không được thỏa mãn cho đến khi con đứng trên bục vinh quang tại Sân vận động Olympic, và họ treo huy chương vàng quanh cổ con. Con được thỏa mãn khi thấy sự phụng sự của con trải bày, và nó không gắn liền với bất kỳ kết quả bên ngoài nào. Chính việc ban tặng sự phụng sự là phần thưởng của chính nó. Và sau đó, tất nhiên, con có tâm an bình, bởi vì không có sự thiếu thốn, không có sự khiếm khuyết, không có mục tiêu.

Trong một đợt truyền giáo trước đây, El Morya, như ông tự gọi mình vào thời điểm đó, đã đưa ra giáo lý này: “Phần thưởng của sự phụng sự là phụng sự nhiều hơn”. Ông không thể cưỡng lại từ ‘nhiều hơn’, phải không? Và điều đáng nói hơn là câu nói này có giá trị. Bây giờ, cách nó được diễn giải vào thời điểm đó, đặc biệt đối với những người trong đội ngũ nhân viên, và những người có tham vọng đạt được một số loại công nhận cho sự phụng sự của họ, cách họ diễn giải điều này là con càng phụng sự nhiều, tổ chức càng có thể yêu cầu con phụng sự nhiều hơn. Nếu con sẵn lòng làm việc tám giờ một ngày, họ có thể yêu cầu con làm việc chín giờ. Và nếu con sẵn lòng làm việc chín giờ, họ có thể yêu cầu con làm việc mười giờ. Và nếu con sẵn lòng làm việc mười giờ, họ có thể yêu cầu con làm việc hai mươi lăm giờ một ngày. Chắc chắn, đó là phụng sự nhiều hơn. Họ coi phụng sự là một thứ định lượng—số lượng. Nhưng điều thực sự có nghĩa là, phần thưởng của sự phụng sự là phụng sự nhiều hơn, là con đạt đến một tầng phụng sự cao hơn về chất lượng, như tôi vừa mô tả. Và rồi con không tìm kiếm phần thưởng cho sự phụng sự của mình.

Con cũng có thể nói rằng một ý nghĩa khác của câu nói này là, trong đợt truyền giáo trước đây, chúng tôi thường phóng đại một số điều nhất định để buộc mọi người phải đạt đến điểm mà họ không thể làm được nữa, và do đó, phải lùi lại và nhìn vào bản thân và cách tiếp cận của họ. Có những người không sẵn lòng xem xét ý nghĩa của việc ban tặng hình thức phụng sự cao hơn đó. Họ bị thúc đẩy để ban tặng ngày càng nhiều sự phụng sự ở tầng đó cho đến khi họ không thể làm được nữa. Họ có cơ hội để sau đó lùi lại.

Nhưng thực sự, ý nghĩa cao hơn là phụng sự từ tâm Ki-tô là phụng sự nhiều hơn phụng sự từ tâm tự ngã. Điều này có ý nghĩa gì trong đời sống thường ngày của con? Chà, khi con đạt đến điểm tôi đang nói đến, nơi con không có mục tiêu, không có tham vọng, không có sự khiếm khuyết, con có thể tiếp cận đời sống thường ngày của mình với một cảm giác an bình. Con thực sự không còn xung đột nữa. Con không có kẻ thù. Con không cần phải ép buộc người khác hoặc để người khác ép buộc con. Bây giờ, khi con đạt đến tầng này, con sẽ trải nghiệm rằng có một số người không thể chịu đựng được việc ở gần con nữa, vì họ đã quá quen với tất cả các mối quan hệ của họ dựa trên động lực tự ngã, nơi họ có điều gì đó trong con mà họ có thể sử dụng để kiểm soát con, và mối quan hệ của họ với con dựa trên việc muốn kiểm soát con. Họ muốn nhấn nút của con để đẩy con theo một hướng nhất định. Nhưng khi con đạt đến tầng an bình này, con không còn nút nào để nhấn nữa. Họ không thể ép buộc con. Họ không thể thao túng con. Họ không thể lừa dối con.

Và có một số người sẽ nói—chà, họ sẽ không nói điều này một cách ý thức, nhưng họ sẽ tiềm thức quyết định rằng họ không muốn ở gần con. Và họ sẽ làm gì? Chà, họ phải có một lý do để không muốn ở gần con. Họ phải đổ lỗi cho con. Họ phải hướng một loại đổ lỗi nào đó vào con. Con là người đã thay đổi. Con là người không còn yêu họ nữa. Con không quan tâm. Con chỉ lạnh lùng và xa cách, hoặc bất cứ lý do vô tận nào mà tự ngã có thể nghĩ ra. Nhưng khi con đạt đến tầng an bình này, điều này không làm phiền con, bởi vì con không có ý định rằng họ phải theo một cách nào đó. Nếu họ muốn rời xa con, con hãy để họ rời xa. “Điều đó can hệ gì đến con, con hãy theo ta”, như Ki-tô sẽ nói với con. Bây giờ, tất nhiên, những người này, khi họ cảm nhận được sự thay đổi trong con, họ có cơ hội tự hỏi: “Tại sao người này lại thay đổi? Điều đó đã xảy ra như thế nào? Con cũng có thể thay đổi và an bình hơn không?” Và một số sẽ làm. Và một số sẽ, tất nhiên, quyết định phủ nhận nhu cầu nhìn vào bản thân, và do đó, đi vào phản ứng tự ngã yêu thích mọi thời đại là phóng chiếu đổ lỗi vào con, phóng chiếu đổ lỗi ra ngoài bản thân: “À, chính cái dằm trong mắt người anh em là nguyên nhân của tất cả các vấn đề của thế giới. Và nếu con có thể ép buộc người anh em của con loại bỏ cái dằm đó, chúng ta sẽ giải quyết tất cả các vấn đề của thế giới mà không cần con phải nhìn vào bản thân.” Nhưng con sẽ an bình khi họ phản ứng theo cách này. Khi họ buộc tội con, con sẽ không cảm thấy bị đổ lỗi. Con sẽ không cảm thấy cần phải tự vệ. Đây là điều Giê-su đã chứng tỏ trong cái gọi là phiên tòa của ngài. Ngài có tự vệ không? Ngài có cố gắng tranh luận tại sao ngài vô tội không? Không, ngài để họ làm những gì họ muốn làm, và nó trở thành sự phán xét của họ: phán xử Ki-tô. Và đối với một số người, hình thức phụng sự cao nhất mà con có thể ban tặng, cả cho mọi người mà còn cho thế giới, là trở thành công cụ của phán xử Ki-tô. Sự phán xét của Ki-tô, trong một số trường hợp, có thể loại bỏ họ khỏi trái đất để trái đất có thể thăng lên cao hơn.

Đó, tất nhiên, cũng là điều Giê-su đã chứng tỏ. Điều đó không có nghĩa là con phải bị đóng đinh và bị giết, nhưng nó có nghĩa là bất cứ điều gì đến, con đều an bình với nó. Nó chỉ là một biểu hiện tự nhiên của con người con ở tầng nhận biết đó. Con có thể, nếu con chưa hoàn toàn ở đó—con có thể tự hỏi mình trong mọi tình huống—cơ hội là tự hỏi mình, con có an bình trong tình huống này không?” Và nếu không, chà, con biết có một cái ta tiềm thức đang ẩn nấp, và rồi con có thể đưa nó ra khỏi nơi ẩn nấp, nhìn vào nó và quyết định; “Con yêu cái ta này hơn Ki-tô, hay con yêu Ki-tô hơn cái ta này?” Và nếu câu trả lời là con yêu Ki-tô, thì giải pháp là, cứ để cái ta chết. Con không cần phải sửa chữa bất cứ điều gì. Con không cần phải bù đắp cho bất cứ điều gì. Con cứ để cái ta chết. Con không cần phải chứng minh bất cứ điều gì. Con không cần phải hiểu. Con không cần phải nắm bắt. Con không cần phải thuyết phục người khác. Con không cần phải giải thích bản thân với người khác. Con cứ để cái ta đó chết.

Con yêu dấu của tôi, giáo lý này thuần túy thần diệu. Nhiều người trong con có thể chưa hoàn toàn nắm bắt được nó, nhưng so với những gì đã được ban tặng qua các thời đại bởi các phong trào tâm linh, và những gì đã được ban tặng trong một thời gian bởi ngành tâm lý học, giáo lý về việc cứ để một cái ta chết là thần diệu một khi con nắm bắt được nó, một khi con đã trải nghiệm rằng con thực sự để cái ta đó chết bởi vì con đã từ chối tham gia vào hành vi mà cái ta đó đang kéo con về phía đó. Con từ chối, ví dụ, tự vệ khi con bị buộc tội. Và do đó, cái ta đó không có quyền năng nào đối với con bởi vì nó chỉ có thể kéo con bằng chương trình đã tạo ra nó. Và khi con từ chối phản ứng với điều đó, cái ta đó chết, và con được tự do. Khi con trải nghiệm điều này và trải nghiệm nó lặp đi lặp lại nhiều lần, con nhận ra con thực sự đã tìm thấy chìa khóa đến sự tự do. Và điều đó thật thần diệu, kỳ diệu, đáng kinh ngạc, tuyệt vời, không thể tin được, vượt xa mọi thứ, vượt xa ‘vượt xa’.

Đó là hy vọng lớn lao của chúng tôi rằng tất cả các con có thể trụ vững và áp dụng điều này. Và con sẽ thấy, ví dụ, trong phong trào của con ở Hàn Quốc hay ở nơi khác, rằng khi con trụ vững và áp dụng điều này, phong trào của con sẽ bắt đầu phát triển.

Con sẽ thu hút những người khác sẽ thấy sự an bình này trong con và nói: “Con tự hỏi làm thế nào họ đạt được điều đó. Con cũng muốn điều đó. Con có thể làm những gì họ đã làm không?” Và con có thể nói: “Chà, đây là một số giáo lý mà chúng tôi đã áp dụng. Có lẽ chúng cũng sẽ hiệu quả với con.” Và điều tương tự, tất nhiên, cũng xảy ra trên khắp thế giới. Nhưng rồi lại, khi con đạt đến tầng an bình đó, mục tiêu của con có nhất thiết phải là phát triển một tổ chức bên ngoài không? Mục tiêu của con có phải là có một số lượt xem nhất định trên các video YouTube của con không? Hay con chỉ phụng sự trong an bình như một biểu hiện của con người con?

Con thấy đó, có rất nhiều người trên thế giới sẽ nói: “Nếu con không có mục tiêu, nếu con không có mục đích, làm sao con có thể hoàn thành bất cứ điều gì?” Vâng, nhưng nếu con không cố gắng hoàn thành bất cứ điều gì, tại sao con cần một mục tiêu? Mục đích của con không phải là hoàn thành điều gì đó trong thế giới này. Mục đích của con là biểu hiện bản thân trong thế giới này. Bởi vì chính sự biểu hiện bản thân giúp con thăng vượt ý niệm bản ngã của con cho đến khi con thăng vượt cái ta đã đưa con đến trái đất, đã giữ con tương tác với trái đất trong một thời gian dài. Và bây giờ con thăng vượt nó, và con thăng thiên. Và rồi con có thể tiếp tục tự thăng vượt vô hạn.

Tôi cũng biết ơn cơ hội được biểu hiện bản thân theo cách này. Và do đó, con có lòng biết ơn của tôi. Và tôi niêm phong con trong Ngọn lửa An bình, phụng sự an bình, mà TA LÀ. Nada, TA LÀ.

10 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Hilarion

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion, qua trung gian Kim Michaels ngày 7/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên Hilarion và có nhiều người, khi nghe về khái niệm quả vị Ki-tô và khái niệm rằng quả vị Ki-tô ban cho các con sự phân biện, họ nghĩ: “Ồ, khi tôi có quả vị Ki-tô, tôi sẽ biết chân lý tối hậu và do đó, tôi có thể đi khắp nơi trên trái đất này và ban cho mọi người chân lý tối hậu.” Và tự ngã thêm vào cái giọng nhỏ này: “Vâng, và khi chúng ta có chân lý tối hậu, chúng ta có thể đánh bại tất cả mọi người để họ phải phục tùng chân lý tối hậu này.” Nhưng tôi chỉ xin các con nhìn lại lịch sử và xem bao nhiêu lần các nhóm người, tổ chức, quốc gia, ý thức hệ đã tự xưng rằng họ có chân lý tối hậu và họ đã cố gắng đánh bại tất cả những người khác để bắt phục tùng, và những người khác đã từ chối bị đánh bại để phục tùng nên họ đã đánh trả, và đột nhiên các con có một mớ hỗn độn khổng lồ. Hãy nhìn xem bao nhiêu mớ hỗn độn đã được tạo ra trong suốt lịch sử và hãy nhìn xem bao nhiêu trong số đó đã được tạo ra vì một số nhóm người tin rằng họ có chân lý tối hậu.

Các thày có thật sự nghĩ rằng chúng ta, những chân sư thăng thiên, muốn các đệ tử của mình tiếp tục cuộc chiến này để cố gắng chứng minh ai có chân lý tối hậu, hay chúng ta có lẽ muốn các con áp dụng một cách tiếp cận khác? Và cách tiếp cận khác là gì? Chà, nó không thực sự là một cách tiếp cận, đó là hòa điệu với tâm Ki-tô, bởi vì các con thấy, những người tin rằng tâm Ki-tô sẽ ban cho các con chân lý tối hậu, đó là động cơ của tự ngã được phóng chiếu lên tâm Ki-tô và một khái niệm về quả vị Ki-tô và một khái niệm về sự phân biện. Chúng ta đã cố gắng giải thích cho các con bao nhiêu lần về tâm thức nhị nguyên? Luôn luôn có hai đối cực nhị nguyên, chúng liên quan đến nhau, chúng dựa trên sự tách biệt. Không có đối cực nhị nguyên nào đại diện cho chân lý tối hậu, không có đối cực nào có sự thật. Chủ nghĩa tư bản có phải là chân lý tối hậu không? Chủ nghĩa cộng sản có phải là chân lý tối hậu không? Không, không có chân lý tối hậu nào trong nhị nguyên, trên thực tế không có sự thật nào trong nhị nguyên, nhưng đây là điều các con chỉ có thể trải nghiệm khi các con được nối kết với tâm Ki-tô.

Vâng, phải, các con có thể hiểu nó một cách duy lý, nhưng sau đó các con có xu hướng lấy một sự hiểu biết duy lý và phóng chiếu điều đó lên khái niệm về quả vị Ki-tô, suy nghĩ: “Vâng, có lẽ nhị nguyên có thể ban cho tôi chân lý tối hậu, nhưng chắc chắn quả vị Ki-tô có thể, tâm thức Ki-tô có thể.” Vì Giê-su đã không nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” sao? Vậy, quả vị Ki-tô, tâm thức Ki-tô có phải là sự thật hay không? Chà, con yêu dấu, điều đó tùy thuộc vào sự hiểu biết của con về sự thật. Chúng ta đã mô tả bao nhiêu lần, một điều mà chúng ta không thể ban cho trong các đợt truyền giáo trước và hầu như không có giáo lý tâm linh nào trên trái đất bao hàm được. Chúng ta đã mô tả rằng các con có tiềm năng bắt đầu với một ý niệm bản ngã như một điểm và mở rộng ý niệm bản ngã của các con cho đến khi các con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo. Vậy chân lý tối hậu là gì? Chà, các con chỉ có thể trả lời câu hỏi đó trong một ngữ cảnh, và vì vậy, chúng ta hãy lấy khái niệm này là thế giới hình tướng được tạo ra bởi Đấng Sáng tạo của chúng ta.

Chân lý tối hậu trong thế giới hình tướng của chúng ta là gì? Đó là các con hiểu Đấng Sáng tạo, các con nắm bắt, các con trải nghiệm viễn quan của Đấng Sáng tạo, các quyết định của Đấng Sáng tạo, sự lựa chọn của Đấng Sáng tạo về những nguyên tắc để xây dựng tạo vật này. Đó chính là chân lý tối hậu trong thế giới hình tướng của chúng ta. Tất nhiên, có vô số tạo vật khác dựa trên các nguyên tắc và quyết định hơi khác nhau do các Đấng Sáng tạo khác đưa ra, và sau đó là Cái Tất Cả, đó là một mức độ hoàn toàn khác. Vậy có một chân lý tối hậu, tối hậu không? Không phải điều mà tôi nhận biết từ mức độ tâm thức của tôi với tư cách là một chân sư thăng thiên, và do đó, các con là một sinh thể chưa thăng thiên, nên rất thận trọng để nhận ra rằng các con không thể thấu suốt một chân lý tối hậu, và do đó, khái niệm về một chân lý tối hậu là không thích đáng trong một bầu cõi chưa thăng thiên và đặc biệt là trên một hành tinh phi tự nhiên.

Nhưng Giê-su nói: “Ta là sự thật” hay đúng hơn, tâm thức Ki-tô thông qua Giê-su nói: “Ta, tâm thức Ki-tô, là sự thật.” Vâng, đó là sự thật theo nghĩa đó là thuốc giải cho nhị nguyên vì đó là lối thoát khỏi nhị nguyên. Nhưng điều mà con người có xu hướng nghĩ, đặc biệt là với tâm đường thẳng, là nếu Ki-tô là sự thật, thì Ki-tô phải có khả năng ban cho các con một câu trả lời, một lời giải thích, một định nghĩa cho bất kỳ câu hỏi, bất kỳ xung đột, bất kỳ vấn đề nào sẽ giải quyết nó bằng cách nói: “Chà, đây là sự thật trong vấn đề này.” Nhưng các con thấy, như chúng ta đã giải thích, tâm đường thẳng có thể đặt ra những câu hỏi mà không có câu trả lời đường thẳng. Tâm nhị nguyên có thể đưa ra những câu hỏi, vấn đề, xung đột mà không thể giải quyết bằng lời nói. Các con thấy, tâm nhị nguyên sẽ luôn sử dụng lời nói một cách tinh vi. Chỉ cần nhìn vào câu chuyện về sự sa ngã của A-đam và Ê-va. Họ đã bị dẫn dắt tin rằng nếu họ ăn trái cấm, họ chắc chắn sẽ chết. Con rắn đã xuyên tạc từ “chắc chắn” và điều đó đủ để làm rối trí tâm trí của họ. Điều đó cho các con thấy điều gì? Không có sự thật nào trong nhị nguyên, và do đó, một khi các con đang nói về lời nói, một điều gì đó được diễn đạt bằng lời nói, tâm Ki-tô không có một sự thật nào có thể diễn đạt bằng lời nói để chống lại một sự thật nhị nguyên, bởi vì một khi nó được diễn đạt bằng lời nói, nó chỉ là lời nói và lời nói có thể được diễn giải.

Chỉ cần nhìn xem có bao nhiêu giáo hội Công giáo diễn giải cùng một kinh điển theo những cách khác nhau. Chỉ cần nhìn xem có bao nhiêu giáo phái Phật giáo diễn giải về cơ bản cùng một kinh điển theo những cách khác nhau. Một khi một điều gì đó đã được diễn đạt bằng lời nói, nó không còn là sự thật nữa, và do đó, câu nói “Ta là sự thật” không thể được hiểu theo nghĩa đen. Nó không thể được hiểu là tâm Ki-tô có thể đưa ra một diễn đạt bằng lời nói là sự thật. Các con cần phải vượt ra ngoài lời nói. Các con cần phải vượt ra ngoài tâm vỏ ngoài. Các con cần phải trải nghiệm tâm Ki-tô. Khi đó các con sẽ trải nghiệm sự thật vượt ra ngoài nhị nguyên. Đó không phải là chân lý tối hậu như tôi đã nói, bởi vì đó chỉ là tâm thức Đấng Sáng tạo trong thế giới hình tướng của chúng ta, nhưng đó là sự thật vượt ra ngoài nhị nguyên vì đó là sự thật hợp nhất các con với Đấng Sáng tạo của các con và nó hợp nhất tất cả mọi người theo chiều ngang.

Tự ngã, tâm nhị nguyên, tâm rắn gian manh, tâm sa ngã làm gì? Nó phân rẽ con người theo chiều ngang, và chỉ khi các con hướng về tâm Ki-tô và khi người hàng xóm của các con hướng về tâm Ki-tô thì các con mới có thể được hợp nhất theo chiều ngang thông qua sự hợp nhất theo chiều dọc cá nhân của các con với tâm Ki-tô. Không có sự hợp nhất theo chiều ngang nào có thể đạt được. Có sự tuân thủ theo chiều ngang thông qua kiểm soát, thông qua ép buộc, thông qua quyền lực, thông qua sợ hãi, thông qua lừa dối. Các con thấy rằng xuyên suốt lịch sử, những sinh thể sa ngã đã cố gắng làm là khiến tất cả mọi người chấp nhận cùng một hệ tin tưởng, do đó nghĩ rằng họ có thể tạo ra sự hợp nhất. Cái cớ là tạo ra sự hợp nhất bằng cách mọi người tin cùng một điều. Điều đó đã bao giờ thành công chưa? Không. Tại sao không? Bởi vì như Abraham Lincoln đã được linh hứng để nói: “Bạn có thể lừa một số người mọi lúc và mọi người một số lúc, nhưng bạn không thể lừa tất cả mọi người mọi lúc.” Các con không thể khiến tất cả mọi người tin rằng một hệ tin tưởng do con người tạo ra theo chiều ngang sẽ hợp nhất tất cả mọi người và giải quyết mọi vấn đề. Và tại sao không? Bởi vì tâm thức nhị nguyên. Một số sẽ chọn một đối cực nhị nguyên, một số sẽ thích đối cực kia. Một khi các con tạo ra một hệ tin tưởng nhị nguyên gọi là Cơ đốc giáo, nó sẽ thu hút một đối cực nhị nguyên gọi là Hồi giáo và sau đó các con có các cuộc Thập tự chinh.

Điều này áp dụng cho các con trong cuộc sống hàng ngày như thế nào? Chà, rất nhiều lần chúng ta đã thấy các đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào xung đột với nhau vì hai người đều nghĩ rằng họ đều có chân lý Ki-tô. Cả hai người đều nghĩ rằng họ đúng vì họ được hòa điệu với tâm Ki-tô và họ tin rằng thông qua tâm Ki-tô, họ đã nhận được sáng ngộ này rằng đây là sự thật và đây là điều cần phải xảy ra trong tổ chức tâm linh, nếu không thì mọi thứ sẽ mất mát và sự nghiệp của chân sư thăng thiên sẽ mất nếu người kia không đồng ý, không đồng ý với người thứ nhất. Nhưng đây không phải là tâm Ki-tô. Một cuộc xung đột mà hai người đều tin rằng họ có tâm Ki-tô nhưng lại bất đồng, không ai trong số họ có tâm Ki-tô. Điều này có nghĩa là các con không thể có một tình huống mà một người có tâm Ki-tô và người kia thì không? Không, tất nhiên là không. Điều đó có thể xảy ra. Nhưng khi đó, người có tiếp xúc với tâm Ki-tô không đối xử với người kia như kẻ thù và tìm cách chứng minh họ sai hoặc hủy diệt họ hoặc khiến họ rời đi.

Các con áp dụng một cách tiếp cận khác như chúng ta đã nói về việc tìm cách nâng cao người đó. Nếu điều đó không thể, thì trong một tổ chức tâm linh, đôi khi các con có thể phải loại trừ người. Nhưng điều này không được thực hiện từ mức độ của tự ngã, nơi các con cần quỷ hóa những người khác và khiến có vẻ như họ rất sai khi làm những gì họ đang làm. Các con nhận ra họ có tầm nhìn hạn chế, các con nhận ra họ gây xáo trộn cho nhóm và sau đó các con có thể yêu cầu họ rời đi. Nhưng các con không làm điều này từ một trạng thái tâm lý dựa trên nỗi sợ hãi. Vì Ki-tô có thể sợ điều gì? Các con thấy, rất nhiều lần các con có những người phóng chiếu nỗi sợ hãi vào một phong trào tâm linh, một tổ chức. Họ phóng chiếu rằng mọi thứ cần phải theo một cách nhất định vì đây là cách các chân sư thăng thiên muốn, và nếu không, sẽ có những hậu quả tai hại. Nhưng mọi thứ không đen trắng như vậy. Khi các con thấy có một xung đột mà mọi người đang phản ứng dựa trên tư duy cuồng đại này, tư duy đen trắng, tư duy dựa trên nỗi sợ hãi, các con cần bước lui lại và nhìn vào tâm lý. Trước hết, tâm lý của chính các con, những khuôn nếp phản ứng của chính các con. Giải trừ những cái ta đó đang khiến các con phản ứng theo cách này. Sau đó nói chuyện với những người khác. Tìm cách làm cho họ nhận biết rằng họ có những cái ta chưa giải quyết và nếu họ sẵn lòng làm điều này, các con có thể đạt được một sự hiểu biết cao hơn, một sự hợp nhất cao hơn.

Nhưng các con cũng có thể nhận ra rằng không chỉ có một cách để làm mọi việc trên trái đất này, và do đó, đôi khi cần phải khoan nhượng, làm điều gì đó khả thi trong một tình huống. Chúng ta đã nói gì về lý duyên khởi? Các con có một nhóm người đang thành lập một tổ chức tâm linh. Đây là lý duyên khởi nơi tất cả các con đều là một phần của tổng thể cục bộ đặc biệt này và sự tương tác của tất cả các con, tất cả tâm thức của các con là điều tạo ra một kết quả nhất định. Nếu các con có thể bước ra ngoài phản ứng dựa trên tự ngã gây ra xung đột, các con có thể nói, đây có phải là cuộc họp của chúng ta, tổ chức của chúng ta, đây có phải là về việc tạo ra một kết quả vỏ ngoài nhất định không? Hay đó là về việc giúp tất cả chúng ta trưởng thành và đạt đến một mức độ hợp nhất và hài hòa cao hơn? Có lẽ sự hài hòa quan trọng hơn các kết quả vỏ ngoài cụ thể không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng ta tập trung vào việc đạt được sự hài hòa và để các kết quả vỏ ngoài là thứ yếu?

Trong một số trường hợp, các con sẽ thấy rằng nếu các con có thể làm điều này như một nhóm, có thể có một người không sẵn lòng làm điều này, không sẵn lòng buông bỏ ý nghĩ rằng người đó đúng. Nhưng sau đó, nếu những người khác trong nhóm sẵn lòng tập trung vào sự hài hòa, thì các con có quyền khiến người đó nhận biết rằng con không tiến lên và điều đó có nghĩa là con không đến từ mức độ Ki-tô. Con không tìm kiếm sự hợp nhất cao hơn. Con không tìm kiếm vượt ra ngoài sự tập trung vào bản thân và cuối cùng các con có thể đạt đến điểm mà người đó không còn chỗ trong nhóm nữa vì nhóm đã nâng tâm thức của mình lên một mức độ cao hơn và một người đang ở dưới mức độ đó và do đó, các con có quyền nói, đã đến lúc con phải đi, vì chúng ta đã gia tốc bản thân vượt ra ngoài mức độ tâm thức mà chúng ta muốn đúng. Các con có thể chuyển điều này sang bất kỳ tình huống nào các con gặp trong cuộc sống, trong gia đình, tại nơi làm việc, trong tình bạn. Các con có thể nhìn vào bản thân và thấy, tôi có một khuôn nếp phản ứng không? Tôi có muốn đúng không? Có quá quan trọng đối với tôi khi có sự thật và khiến người khác thấy sự thật mà tôi thấy không? Và sau đó các con có thể nhận ra nó đến từ một ngã tiềm thức. Nó thậm chí có thể trở lại chấn thương nhập đời của các con, nơi các con cảm thấy bị từ chối và bị hạ thấp bởi những sinh thể sa ngã, và các con muốn bù đắp điều này bằng cách nghĩ: “Ồ, giá mà tôi tìm thấy chân lý tối cao, thì họ phải chấp nhận những gì tôi nói.”

Nhưng như chúng ta đã nói, những sinh thể sa ngã sẽ không bao giờ chấp nhận những gì các con nói vì họ có sự thật nhị nguyên của riêng họ mà họ tin là chân lý tối hậu, và khi ai đó tin rằng họ có chân lý tối hậu, làm sao các con có thể thuyết phục họ khác đi? Tại sao họ lại lắng nghe bất cứ ai không có sự thật mà họ có khi họ nghĩ rằng của họ là tối hậu? Tôi đang nói gì ở đây? Tôi đang nói rằng trong bất kỳ tình huống nào, câu hỏi cho các con là: “Tôi có sẵn lòng hướng tới một chân lý cao hơn, một viễn quan cao hơn những gì tôi có ngay bây giờ không?” Và nếu các con sẵn lòng hướng tới điều đó, các con có thể trưởng thành từ bất kỳ tình huống nào, và sau đó việc người khác có trưởng thành hay không không phải là mối quan tâm của các con. Chà, đó có thể là mối quan tâm của các con trong một mối quan hệ gần gũi như một nhóm hoặc một gia đình, nhưng dù sao khi các con tiếp tục hướng tới chân lý cao hơn, trong nhiều trường hợp tình hình sẽ dần dần thay đổi.

Tại sao? Bởi vì khi các con tương tác với những người khác, thậm chí hai người cũng tạo thành lý duyên khởi. Các con gia tốc bản thân, các con sẽ gia tốc mối quan hệ và có thể những người khác sẽ hòa điệu với điều này và sẵn lòng thay đổi và có thể họ sẽ không, nhưng khi đó các con sẽ vẫn tiến bước đi tiếp và phản ứng của các con đối với những người khác sẽ thay đổi nên các con đã hưởng lợi từ điều này. Các con có thể nói, nếu các con lấy điều Serapis Bey nói về việc đạt đến một điểm trên đường tu tâm linh nơi các con cần bắt đầu phụng sự một điều gì đó khác ngoài bản thân mình, các con có thể nói: “Tôi đang tập trung vào việc phụng sự một sự nghiệp cuồng đại hơn, đó là một sự nghiệp phi cá nhân. Nó phi cá nhân đối với tôi, nhưng nó cũng phi cá nhân đối với những người xung quanh tôi, cho dù đó là trong một mối quan hệ cá nhân, một gia đình, tình bạn hay một nhóm. Tôi không phụng sự tự ngã của riêng tôi, cũng không phụng sự tự ngã của người khác và do đó, tôi đang cố gắng phi cá nhân hóa những mối quan hệ này để tôi không tìm cách ép buộc người khác thay đổi để thay đổi trạng thái tâm lý của chính tôi. Tôi sẵn lòng tập trung vào việc thay đổi trạng thái tâm lý của chính tôi và để lại cho quyết định của những người khác liệu họ có thay đổi hay không.” Và nếu các con làm điều này, mọi tình huống đều trở thành một cơ hội để trưởng thành.

Các con sẽ biết rằng trong tình huống mà Giê-su nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” là vì ông được Philatô hỏi, và các con có lẽ sẽ nhớ câu trả lời của Philatô: “Sự thật là gì?” Và theo một nghĩa nào đó, các con có thể nói điều này đến từ một người chưa tiếp xúc với tâm Ki-tô trong chính mình và do đó, đang bối rối và lẫn lộn. Nhưng các con cũng có thể nói rằng điều đó cho thấy Philatô thực sự có một mức độ nhận biết cao hơn, chẳng hạn như các thầy thông giáo và người Pha-ri-si, vì họ tin rằng họ có chân lý tối hậu và Philatô ít nhất cũng sẵn lòng thừa nhận rằng ông không cảm thấy mình có nó và đó là bước đầu tiên để thực sự tiếp xúc với tâm Ki-tô. Nếu tâm trí các con quá tập trung vào một diễn đạt cụ thể về sự thật và nghĩ rằng đó là tối hậu, các con không mở lòng với tâm Ki-tô, không có lối vào cho tâm Ki-tô đến gõ cửa tâm trí các con và nói: “À, có lẽ còn nhiều điều để hiểu hơn những gì các con hiểu ngay bây giờ, tôi có thể chỉ cho các con một viễn quan cao hơn không?” Hầu hết mọi người nói: “Ồ không, tôi cần điều này để làm gì, tôi đã có chân lý tối hậu rồi.”

Nhưng những ai sẵn lòng bị bối rối, chà, “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì cửa sẽ mở cho các con, hãy để những ai có tai nghe, những ai có mắt thấy.” Có rất nhiều người tâm linh, bao gồm cả các đệ tử chân sư thăng thiên, đạt đến một sự nắm bắt rằng có một trạng thái tâm thức cao hơn, dù họ gọi đó là tâm Ki-tô hay không, nhưng chúng ta hãy tập trung vào tâm Ki-tô ở đây, để các con hiểu rằng có tâm Ki-tô này và khi các con vẫn còn động cơ dựa trên tự ngã, sự pha màu dựa trên tự ngã, các con đang nghĩ: “Chà, tâm Ki-tô chắc chắn sẽ chứng thực niềm tin của tôi vì chúng phải là sự thật.” Hầu hết mọi người khi tìm thấy đường tu tâm linh, họ trải qua giai đoạn này, nơi họ đang nghiên cứu các giáo lý tâm linh, họ thậm chí có thể mở lòng với một số sáng ngộ trực giác trực tiếp từ chúng ta, nhưng họ đang hy vọng, có hy vọng rằng một ngày nào đó giáo lý hoặc các Chân sư sẽ chứng thực một quan điểm cụ thể về bản thân các con hoặc một quan điểm cụ thể về cuộc sống mà các con có. Nhiều người trong các con, nếu các con trung thực với chính mình, sẽ có thể nhận ra điều này.

Sứ giả này chắc chắn đã thấy điều đó ở chính mình, ban đầu, nhiều năm trên con đường, nơi anh ta liên tục hy vọng tìm thấy sự chứng thực cho những gì chỉ là một ngã tách biệt. Anh ta liên tục hy vọng tìm thấy sự chứng thực cho những ngã tiềm thức được tạo ra để trấn áp chấn thương nhập đời, để anh ta có thể được chứng thực trong niềm tin rằng một ngày nào đó anh ta có thể tìm thấy một cách để trưởng thành tâm linh, để thăng thiên mà không cần phải nhìn vào chấn thương nhập đời. Nhưng anh ta đã đến một điểm mà anh ta sẵn lòng nhìn vào niềm tin này và nhiều niềm tin khác khiến các con tin rằng một ngày nào đó chân lý Ki-tô sẽ chứng thực những niềm tin dựa trên tự ngã của các con. Và anh ta sẵn lòng tham gia vào một quá trình chất vấn những niềm tin này cho đến khi anh ta đã buông bỏ đủ trong số đó để chúng ta có thể bắt đầu làm việc trực tiếp với anh ta. Bây giờ, như chúng ta đã cố gắng giải thích trong đợt truyền giáo này, điều mà chúng ta không thể làm vì nhiều lý do trong các đợt truyền giáo trước, không có gì đặc biệt về sứ giả này. Anh ta không có điều gì mà các con không có.

Tất cả các con đều có khả năng thiết lập một mối quan hệ trực tiếp với các chân sư thăng thiên thông qua tâm Ki-tô bởi vì tất cả các con đều có tâm Ki-tô bên trong mình, tiềm năng Ki-tô bên trong mình, tất cả các con đều là Cái Ta Biết được tạo ra từ tâm Ki-tô như chúng ta đã giải thích gần đây. Điều đó không có nghĩa là tất cả các con sẽ đi khắp nơi và trở thành sứ giả và nhận truyền đọc từ các chân sư thăng thiên, bởi vì tất cả các con đều có kế hoạch trọn đời cá nhân của riêng mình, Sứ vụ Thiêng liêng. Nhưng điều đó có nghĩa là tất cả các con đều có tiềm năng đạt đến một điểm mà các con không còn cần giáo lý công truyền để tiếp xúc trực tiếp với chúng ta bên trong chính mình. Điều đó không có nghĩa là các con nhất thiết phải làm ngơ giáo lý công truyền. Các con vẫn có thể hưởng lợi từ nó nhưng các con không cần nó để tiếp xúc với chúng ta bởi vì các con đã thiết lập mối tiếp xúc trực tiếp này với chúng ta và đây là điều chúng ta mong muốn thấy cho mỗi và mọi người trong các con. Các con có nhận ra điều tôi đã nói không? Mỗi và mọi người trong các con, con và con và con và con và mỗi và mọi người trong các con, các con đều có tiềm năng thiết lập một mối tiếp xúc trực tiếp với chúng ta.

Điều này không có nghĩa là tất cả các câu hỏi của các con sẽ được trả lời. Nó không có nghĩa là các con sẽ biết mọi thứ. Nó không có nghĩa là các con sẽ luôn đúng. Nhưng nó có nghĩa là các con có thể nhận được những sáng ngộ trực giác từ chúng ta khi các con mở lòng, khi các con sẵn lòng nhìn vào bản thân hoặc ghi nhận những gì chúng ta đã nói. Chúng ta sẽ không chứng thực những niềm tin dựa trên tự ngã của các con, đặc biệt là niềm tin dựa trên tự ngã rằng các con bằng cách nào đó là đặc biệt. Tại sao chúng ta nói rằng sứ giả không có bất cứ điều gì mà các con không có? Bởi vì sứ giả không đặc biệt và các con cũng không đặc biệt. Không ai trong số các con đặc biệt hơn người khác. Đó là lý do tại sao tất cả các con đều có cùng tiềm năng. Chúng ta sẽ không chứng thực niềm tin dựa trên tự ngã của các con rằng các con bằng cách nào đó là đặc biệt. Chúng ta sẽ làm việc với các con để khắc phục những cái ta dựa trên tự ngã này để các con có thể thăng lên trong quả vị Ki-tô.

Ki-tô là gì? Chà, một khía cạnh của Ki-tô là Ki-tô là đấng làm cho mọi người bình đẳng vĩ đại. Giê-su đã nói gì? “Kẻ cao sẽ bị hạ thấp và kẻ thấp sẽ được nâng cao.” Những ai nghĩ mình đặc biệt sẽ bị hạ bệ. Những ai nghĩ mình không đủ tốt sẽ được nâng lên cho đến khi tất cả thấy rằng hoặc không ai trong số các con đặc biệt hoặc tất cả các con đều đặc biệt. Theo một nghĩa nào đó, tất cả các con đều độc đáo, nhưng không dựa trên ý niệm của tự ngã về ý nghĩa của sự độc đáo, mà dựa trên ý niệm của Ki-tô rằng tất cả các con đều có cá thể độc đáo đó được định nghĩa trong Hiện diện TA LÀ của các con. Thật không may, trong các phong trào tâm linh, các con thấy xu hướng này là có một vài đệ tử bị tự ngã lừa dối tin rằng: “À, tôi hẳn phải đặc biệt. Tôi đã nhận ra giáo lý này. Tôi đã làm tất cả những điều khác được quy định. Tôi đã hy sinh tất cả những điều này. Tôi hẳn phải đặc biệt.” Hoặc họ sử dụng các phương tiện khác nhưng đây không phải là điều chúng ta tìm cách chứng thực. Tại sao không? Chà, có những người nghĩ rằng quả vị Ki-tô là một con đường dần dần, điều này là đúng. Các con dần dần thăng lên trong quả vị Ki-tô. Nhưng họ nghĩ rằng các con càng đi cao, các con càng trở nên đặc biệt và các con càng thấy mình đặc biệt hơn vì họ có sự sùng bái thần tượng mà Serapis đã nói đến và họ có, ví dụ, sự sùng bái thần tượng Giê-su nên họ nghĩ rằng khi họ đạt đến quả vị Ki-tô, họ sẽ có thể làm tất cả những điều độc đáo mà Giê-su đã làm và những người khác sẽ thấy họ là độc đáo.

Nhưng thực tế là các con càng thực sự thăng lên trên con đường của quả vị Ki-tô, các con càng trở nên khiêm tốn hơn bởi vì khi các con hợp nhất với tâm Ki-tô trong chính mình, các con vượt qua nhu cầu, nhu cầu của tự ngã muốn cảm thấy đặc biệt và do đó, các con không muốn cảm thấy tốt hơn người khác. Các con không muốn đặt mình vào vị thế mà các con quan trọng hơn người khác. Serapis Bey nói về điều gì? Ngài nói về việc xoay chuyển sang tư duy phụng sự một sự nghiệp cuồng đại hơn tự ngã của các con. Chà, làm thế nào để các con làm điều đó? Khi các con đạt được sự hợp nhất nào đó với tâm Ki-tô, các con làm điều đó bằng cách tìm cách nâng cao Ki-tô trong mỗi người thay vì nâng mình lên trên người khác. Không phải là các con hạ thấp mình. Nó không thực sự theo nghĩa là các con trở nên khiêm tốn, mặc dù tôi đã sử dụng từ đó vài phút trước. Thực tế là các con trở nên bình đẳng, và các con không cần phải nâng mình lên và do đó, các con tập trung vào việc nâng cao Ki-tô trong những người khác và đây là một sự xoay chuyển mà các con cần thực hiện khi các con đến gần mức 96 hoặc đi xa hơn một chút.

Bây giờ các con có thể nhận thấy ở đây rằng chúng ta, các Thượng sư, đang ban cho các con những giáo lý ở đây thực sự vượt ra ngoài những gì chúng ta đã ban trong khóa học “Con đường Tự Điều Ngự” bởi vì khi các con vượt ra ngoài mức độ 96 đó, điều đó không có nghĩa là các con không còn cần bảy tia sáng, nhưng nó có nghĩa là bây giờ các con có thể nhìn vào bảy tia sáng từ một góc nhìn cao hơn và nắm bắt các khía cạnh cao hơn của mỗi tia sáng. Một khi các con vượt ra ngoài nhu cầu phụng sự tự ngã hoặc thậm chí phụng sự cái ta tâm linh đã đưa các con từ mức độ 48 lên mức độ 96, các con chỉ là Ki-tô trong hành động và Ki-tô trong hành động tìm cách nâng cao tất cả mọi người, bất kể điều đó có nghĩa là gì, trong tình huống cá nhân.

Trở lại khái niệm về sự thật, có những người sẽ nói: “Chà, trong tâm Ki-tô phải có một sự thật, bất khả phân chia, vì nếu có nhiều hơn một sự thật, thì tâm Ki-tô sẽ bị phân rẽ chống lại chính nó. Và làm sao nó có thể là tâm hợp nhất?” Vâng, một đoạn logic rắn gian manh, nhưng đó là logic, không phải là trải nghiệm của Ki-tô. Như tôi đã nói, không có diễn đạt nào bằng lời nói mà không thể được diễn giải. Chân lý Ki-tô là trải nghiệm của Ki-tô trong chính các con. Và khi các con có trải nghiệm đó, các con nhận ra không có một sự thật nào có thể được diễn đạt trên trái đất, bởi vì trong mọi tình huống các con gặp phải, mọi người các con gặp, Ki-tô áp dụng một cách tiếp cận cá nhân đối với người đó, bởi vì mục tiêu của Ki-tô không phải là ban cho người đó một chân lý tối hậu nào đó, mà là hòa điệu với nơi người đó đang ở trong tâm thức và ban cho họ một điều gì đó có thể nâng họ lên mức độ tiếp theo.

Mục tiêu của Ki-tô là đưa mọi người vào con đường nơi họ đang thăng lên từ mức độ này sang mức độ khác và họ tiếp tục làm như vậy. Đó không phải là mục tiêu của Ki-tô để đưa một người từ mức độ 48 và phóng họ lên mức độ 144 trong một bước nhảy vọt khổng lồ, mà là để giúp họ trụ vững vào con đường đưa họ qua các mức độ khác nhau hướng tới mức độ 144 đó. Và do đó, không có một sự thật nào cho mỗi người. Có một chén nước lạnh nhân danh Ki-tô cho mỗi người sẽ giúp người đó đi lên mức độ tiếp theo.

Có lẽ không phải tất cả các con đều có cảm giác này, nhưng nhiều người trong các con sẽ có cảm giác rằng kể từ khi các con tìm thấy đường tu tâm linh, các con đã trưởng thành trong tâm thức nhiều mức độ, và do đó, các con sẽ có cảm giác rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa mức độ 48 và mức độ 144. Và khi các con nhận ra điều này, các con có thể nói: “Chà, chúng ta thấy gì trong hệ thống giáo dục trên trái đất? Chúng ta thấy rằng có một trường đại học nhất định nơi họ có một khoa toán học rất nổi tiếng và ở đây họ có một số giáo sư toán học rất, rất giỏi trong việc sử dụng toán học, phát triển các dạng toán học mới, các dạng toán học cao cấp hơn. Bây giờ, tại sao chúng ta không đưa những giáo sư này từ trường đại học này và cho họ đến một trường mẫu giáo và dạy cho học sinh mẫu giáo dạng toán học cao nhất này? Tại sao chúng ta lại để học sinh mẫu giáo bắt đầu với 1 cộng 1 và 2 cộng 2? Tại sao không cho chúng chân lý tối hậu ngay từ đầu?”

Chà, tất nhiên, các con có thể thấy rằng đây không thực sự là một cách tiếp cận hiệu quả. Làm sao họ có thể nắm bắt được toán học này khi họ thậm chí còn không biết cách cộng và trừ? Do đó, các con thấy, các con có thể ban cho học sinh mẫu giáo một sự thật mà họ có thể nắm bắt. Không phải là nó sai, nhưng nó không phải là sự viên mãn của toán học là gì. Các con có thể ban cho học sinh trung học một giáo lý cao hơn, nhưng nó vẫn chưa phải là sự viên mãn. Ngay cả ở cấp đại học, nó vẫn chưa phải là sự viên mãn. Và điều tương tự cũng xảy ra với đường tu tâm linh và sự diễn đạt chân lý Ki-tô. Nó phải và sẽ được thích nghi và do đó, đến điểm đó khoảng mức 96, nơi các con cần nắm bắt điều này và các con cần đến để thấy rằng đó là một cái ta trong các con muốn chân lý Ki-tô là tối hậu bởi vì nó muốn có chân lý tối hậu để đánh bại người khác để phục tùng.

Và các con cần đến và nhìn thấy cái ta đó và các con cần ý thức quyết định để cho nó chết bởi vì nếu các con không làm vậy, các con sẽ không vượt qua mức độ đó và các con thực sự có thể bắt đầu đi xuống các mức độ tâm thức tìm cách sử dụng thành đạt tâm linh của mình để định nghĩa một chân lý tối hậu nào đó và tự xưng mình là một đạo sư quảng bá chân lý đó. Các con cần đạt đến điểm này, nơi các con nhận ra tâm trí của mình, tâm vỏ ngoài, có những giới hạn. Tâm trí các con không thể nắm bắt chân lý tối hậu. Nó không thể tự mình tìm ra. Nó không thể định nghĩa nó. Và do đó, các con cần một điều gì đó từ bên ngoài tâm trí của chính các con và điều đó là tâm Ki-tô nhưng tâm Ki-tô được diễn đạt thông qua các chân sư thăng thiên là những vị thày được giao nhiệm vụ cho trái đất. Nhưng chúng ta không ban cho các con chân lý tối hậu.

Chúng ta ban cho các con sự thật mà các con cần để thăng lên cao hơn và khi các con buông bỏ cái ta này muốn đạt đến chân lý tối hậu vì nó muốn đạt đến một mức độ tối hậu, các con có thể trụ vững trên các mức độ cao hơn của con đường nơi các con tiếp tục trưởng thành, khiêm tốn hướng tới một điều gì đó từ mức độ thăng thiên cho mỗi bước đi thay vì bị lừa dối tin rằng các con bây giờ quá đặc biệt vì các con đã đạt đến mức độ tâm thức này, sự sáng ngộ này, các con đã thức tỉnh, các con đã giác ngộ, các con là cái này, các con là cái kia. Đó là cách các con tiếp tục trên con đường và thực sự các con trở nên ngày càng bình đẳng hơn trong cách các con nhìn nhận bản thân và những người khác. Nó sẽ nghe có vẻ mâu thuẫn một lần nữa bởi vì chắc chắn khi các con ở mức độ 134, các con cao hơn về thành đạt tâm linh và nhận biết hơn một người ở mức độ 48. Chà, vâng, các con là như vậy, nhưng trong tâm Ki-tô, các con không tốt hơn hay có giá trị hơn. Chỉ trong tâm tự ngã mới có phán xét giá trị này. Và các con càng đi cao trên con đường của quả vị Ki-tô, điều này càng phai nhạt cho đến khi nó không còn nhập vào tâm trí các con nữa và tại thời điểm đó, các con sẽ cảm thấy một sự tự do mà các con khó có thể tưởng tượng được khi các con vẫn còn mắc kẹt trong những phán xét giá trị của tự ngã.

Với điều này, tôi đã ban cho các con phần của tôi về những gì chúng ta cống hiến tại hội nghị này. Chúng ta rất biết ơn cơ hội này. Các con nhận ra, chúng ta hy vọng, rằng vì chúng ta có ba ngày cho hội nghị này, các con đang nhận được rất nhiều truyền đọc trong một khoảng thời gian ngắn và chúng ta hy vọng các con có thể đánh giá cao sự cần thiết của việc làm điều này bởi vì chúng ta có một lượng giáo lý nhất định mà chúng ta muốn ban truyền. Và điều đó có nghĩa là có ít thời gian hơn cho các bài chú và thỉnh gọi và có thể ít thời gian hơn để trả lời các câu hỏi nhưng chúng ta sẽ xem thời gian và không gian cho phép chúng ta ban truyền thêm như thế nào.

Với điều này, tôi niêm các con trong ngọn lửa chân lý Ki-tô mà tôi cầm giữ cho trái đất, Hilarion, TA LÀ.

9 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Serapis Bey

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, qua trung gian Kim Michaels ngày 7/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Ta là Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, như các con hẳn đã đoán được từ tiến trình đường thẳng, mặc dù chúng ta đang nói về những thứ không phải là đường thẳng. Đây là một trong những bí ẩn của đường tu tâm linh. Đó là nó có những khía cạnh đường thẳng nhưng cũng có những khía cạnh phi đường thẳng. Và thách thức của điều này, mà các con thấy qua các thời đại, là một số người tập trung vào các khía cạnh đường thẳng và bỏ qua các khía cạnh phi đường thẳng. Trong khi những người khác tập trung vào các khía cạnh phi đường thẳng và bỏ qua các khía cạnh đường thẳng. Thách thức là tìm thấy sự cân bằng giữa hai điều này.

Chúng ta đã nói trước đây rằng có tâm đường thẳng, có tâm khái niệm, và các con dùng tâm khái niệm để đồng-sáng tạo. Bởi vì tâm khái niệm cho phép các con hình thành một khái niệm về thứ gì đó hiện không nằm trong sự thị hiện vật lý. Các con có thể khái niệm hóa một hình tướng chưa thị hiện và do đó đưa ra một thứ gì đó mới. Mặt khác, tâm đường thẳng dựa trên những gì hiện có, những gì đã thị hiện. Và khi các con hiểu điều này, bây giờ các con có thể nói: “Chỉ có tâm khái niệm mới được các con dùng để đồng-sáng tạo sao?”

Chà, điều đó tùy thuộc vào giai đoạn các con đang ở. Bởi vì các con thấy, khi các con là một đồng-sáng tạo mới trong một môi trường cũng còn khá mới, thì các con sử dụng tâm khái niệm nhiều hơn. Nhưng khi các con tăng trưởng trong nhận biết, khi các con đã đồng-sáng tạo một thứ gì đó, cả trong môi trường vật lý của các con và trong bốn thể phàm của các con, thì tinh xảo hơn, thì các con cũng bắt đầu sử dụng tâm đường thẳng. Và các con thực sự tìm thấy một sự cân bằng nhất định giữa tâm khái niệm và tâm đường thẳng.

Và cách điều này cần hoạt động là, tất nhiên, khi các con có một hành tinh với nhiều người trên đó, với một nền văn minh khá cũ—ta đang nói về một hành tinh tự nhiên ở đây—thì các con không thể chỉ hình dung ra một thứ gì đó bằng tâm khái niệm hoàn toàn tách rời khỏi những gì đã được đưa vào thị hiện. Các con thấy cách các con có thể bắt đầu bằng tâm khái niệm, hình dung ra những điều mới, bởi vì không có quá nhiều thứ đang thị hiện. Nhưng rồi khi các con thị hiện ngày càng nhiều, các con cần sử dụng tâm đường thẳng để các con có thể thấy một sự tiến triển từ những gì đã có đến những gì các con muốn đồng-sáng tạo, để các con khai triển thêm những gì đã có và tạo ra một sự liên tục.

Các con thấy rằng mặc dù chúng ta thường nói về tâm đường thẳng như một vấn đề trên một hành tinh tự nhiên trong trạng thái nguyên thủy, nhưng không có vấn đề gì với tâm đường thẳng. Nhưng tâm đường thẳng rõ ràng là thứ yếu so với tâm khái niệm. Nó, nói cách khác, là người giúp việc của tâm khái niệm. Điều xảy ra trên một hành tinh phi tự nhiên là khi đa số mọi người mất liên lạc với cái ta cao của họ, họ không còn có thể nhìn nhận mình là đồng-sáng tạo. Và do đó, họ thấy rất khó để sử dụng tâm khái niệm để hình dung ra một thứ gì đó chưa thị hiện.

Bởi vì tâm khái niệm sử dụng gì để khái niệm hóa một hình tướng mới? Đó là tâm Ki-tô. Bây giờ, khi các con có một hành tinh phi tự nhiên nơi mọi người đã đi vào sự tách biệt, họ có xu hướng trở nên tập trung hơn vào tâm đường thẳng, nhìn thấy những gì hiện có, phân loại những gì hiện có, gán nhãn những gì hiện có, áp dụng phán xét giá trị của tâm nhị nguyên vào đó. Và bây giờ họ trở nên rất mắc kẹt trong những gì đã ở trong hình tướng trong cõi vật lý. Họ có xu hướng nghĩ rằng họ không thể vượt ra ngoài nó, rằng hoặc Thượng đế đã tạo ra nó như vậy hoặc các định luật tự nhiên đã quy định rằng nó phải như vậy.

Nhưng họ cũng bắt đầu sử dụng tâm đường thẳng theo cách không được trù định trong trạng thái nguyên thủy, trong trạng thái tự nhiên. Bởi vì bây giờ họ muốn nói: “Nếu chúng ta lấy tâm đường thẳng và nhìn vào những gì đang có ở đây, thì đây hẳn là tác động của những nguyên nhân vô hình; và nếu chúng ta cứ quay trở lại các nguyên nhân trước đó, chúng ta hẳn phải kết thúc với nguyên nhân nguyên thủy.” Cái đó có thể là Thượng đế hoặc các định luật tự nhiên hoặc Big Bang hoặc Ông Bí ngô Vĩ đại hoặc bất cứ thứ gì các con có thể hình dung. Sau đó họ muốn lấy tâm đường thẳng và mở rộng nó theo hướng ngược lại, chỉ đến một kết quả tối hậu nào đó. Nhưng đây không phải là cách sử dụng tự nhiên của tâm đường thẳng. Như ta đã nói, nó chỉ là một người giúp việc của tâm khái niệm: rằng các con nhìn vào những gì đã thị hiện, các con nhìn lại một thời gian để xem tại sao xã hội, chẳng hạn, lại được cấu trúc như vậy, những ý tưởng nào đằng sau nó, những bài học nào mà mọi người đã học được, và rồi các con sử dụng điều đó để hướng dẫn tâm khái niệm đưa ra một thứ gì đó được xây dựng trên nền tảng đó. Các con tất nhiên cũng nhìn vào những gì Elohim đã đưa ra trên một hành tinh cụ thể, những ý tưởng của họ là gì, những nguyên tắc hướng dẫn nào mà họ đã sử dụng. Và rồi các con sử dụng điều đó để hình thành những khái niệm mới, nhưng vẫn trong khuôn khổ đó.

Nhưng khi các con bị mất kết nối với tâm khái niệm, tâm trực giác, thì mọi người trở nên rất đường thẳng trong suy nghĩ của họ. Và đó là điều khiến hầu hết mọi người suy nghĩ theo cách của họ, nghĩ rằng họ có thể suy nghĩ theo cách của họ để đạt đến Quả vị Ki-tô. Và điều này tất nhiên không thể thực hiện được, như chúng ta đã nói. Nhưng cũng có những người hòa điệu hơn với khía cạnh trực giác của tâm, và họ thường có xu hướng đi theo điều mà ở phương Đông được gọi là “con đường của sự sùng kính”. Nơi họ trở nên rất sùng kính, rất yêu thương, yêu một vị thần, yêu một vị chân sư, và cảm thấy như đây là tất cả những gì họ cần làm. Nhưng điều này, mặc dù nó có thể dẫn đến tiến bộ, cũng có những giới hạn của nó, bởi vì cũng như các con không thể suy nghĩ theo cách của mình để đạt đến Quả vị Ki-tô, các con không thể yêu theo cách của mình để đạt đến Quả vị Ki-tô.

Cần phải có sự cân bằng nhất định đó, nơi ngay cả những người sùng kính cũng có một sự hiểu biết nhất định về các khái niệm tâm linh, về mục đích của sự hiện hữu, về lý do tại sao vũ trụ lại hiện hữu, rằng nó là một môi trường học tập, rằng có một con đường, một con đường dần dà. Bởi vì những người trở nên rất sùng kính thường cảm thấy như thể họ đã vượt ra ngoài thời gian, tiến triển, một con đường đường thẳng, và đôi khi họ bị mắc kẹt trong vòng lặp này, chúng ta có thể gọi đó là một vòng lặp thời gian, nơi họ nghĩ rằng sự sùng kính của họ là đủ. Và họ không nhận ra rằng có những tâm lý chưa giải quyết đã được tạo ra trong các kiếp sống trước, và tâm lý này cần được giải quyết. Và điều này đòi hỏi một tiến trình đường thẳng nhất định, bởi vì các con không thể cứ làm bừa, các con phải bắt đầu từ đâu đó và tìm đường quay trở lại cho đến khi các con đạt đến chấn thương nhập đời nguyên thủy đó.

Điều này tất cả xoay quanh, từ góc nhìn của Tia thứ Tư tất nhiên, là ý định của các con. Ý định của các con khi đi trên đường tu tâm linh là gì? Và các con có thể nói về ý định ở một mức độ thấp hơn nơi, như chúng ta đã nói, khi các con lần đầu tiên nghe về con đường đến Quả vị Ki-tô, tự ngã của các con hình thành một hình ảnh về ý nghĩa của điều này. Và tự ngã làm điều này dựa trên những gì nó có thể thấy, đó tất nhiên là nhìn nhận mình như một sinh thể tách biệt, đi trên con đường như một sinh thể tách biệt, đạt được một kết quả cuối cùng nào đó như một sinh thể tách biệt. Một kết quả cuối cùng được tự ngã định nghĩa trong thế giới này, được định nghĩa bởi những gì đã có ở đây. Và vấn đề với tự ngã tất nhiên là nó không thể thăng vượt những gì đang có ở đây trong hình tướng, bởi vì nó không thể khái niệm hóa nó. Tự ngã không thể khái niệm hóa ý nghĩa thực sự của Quả vị Ki-tô. Tự ngã không thể khái niệm hóa cõi tâm linh thực sự là gì. Nó có thể tạo ra những hình ảnh về nó dựa trên những gì nó thấy trong thế giới vật chất, nhưng điều đó tất nhiên là không đầy đủ.

Các con có thể có lúc đầu, trên thực tế các con sẽ có lúc đầu, một ý định đi trên đường tu tâm linh dựa một phần vào tự ngã và những gì tự ngã có thể thấy. Đến một thời điểm các con cần bước lui lại, xem xét lại ý định của mình: “Có một hình thức ý định cao hơn để đi trên đường tu tâm linh không?” Và tất nhiên là có. Nhưng các con, Cái Ta Biết có thể thấy nó, trong khi tự ngã thì không thể. Các con cần có sự sẵn lòng để nhận ra những giới hạn của tự ngã và những ý định của nó, tầm nhìn của nó, cách suy nghĩ của nó về đường tu tâm linh. Vì vậy, các con sẵn lòng đi vào trạng thái tâm trung dung của Cái Ta Biết và vươn tới một ý định cao hơn từ tâm Ki-tô, từ một chân sư thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của các con.

Thanh lọc ý định của các con là cực kỳ quan trọng. Một lần nữa, mỗi người trong số chúng ta với tư cách là Thượng sư tất nhiên đều tập trung vào tia sáng đặc thù của mình. Và vì vậy chúng ta có xu hướng nghĩ rằng tia sáng của chúng ta là bước quan trọng nhất. Nhưng tất nhiên tất cả chúng ta đều nhận ra rằng các con cần kết hợp cả bảy tia sáng để hội đủ tư cách thăng thiên. Đơn giản là vai trò của ta là làm cho các con nhận biết rằng sẽ đến một lúc các con không thể tiến bộ trừ khi các con sẵn lòng lùi lại và nhìn vào ý định của mình: “Bao nhiêu phần ý định của tôi trên đường tu tâm linh bị pha màu bởi tự ngã? Và tôi có sẵn lòng đẩy nhanh ý định của mình lên một mức độ cao hơn không dựa trên tự ngã không? Và tôi có thực sự sẵn lòng tiếp tục làm điều đó chừng nào tôi còn trong hiện thân không?” Bởi vì các con cần tiếp tục làm điều đó chừng nào các con còn trong hiện thân. Bởi vì các con có thể nói, ở một mức độ nhất định, chẳng hạn mức 65, các con có thể thấy một mức độ ý định cao hơn so với mức 48. Nhưng ở mức 96, các con có thể thấy một mức độ cao hơn nữa, và ở mức 124, các con có thể thấy một ý định cao hơn mà các con không thể nắm bắt ở các mức độ thấp hơn. Không có sự nắm bắt tối hậu về ý định của các con, không có ý định tối hậu nào khác ngoài việc tiếp tục tự vượt thăng và sẵn lòng thực hiện từng bước tiến lên và luôn luôn thực hiện bước tiếp theo.

Nếu chúng ta nhìn vào con người nói chung những người tìm thấy một loại giáo lý tâm linh nào đó, chúng ta có thể thấy rằng có những giai đoạn nhất định trên đường tu tâm linh. Và một trong những giai đoạn này là các con nhận ra rằng có một trạng thái tâm thức cao hơn là khả thi. Và các con nhận ra điều đó bằng cách nhìn thấy một người khác mà các con thấy đã đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn các con. Đây là toàn bộ ý tưởng đằng sau khái niệm đạo sư. “Đây là một đạo sư đã đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn và do đó đủ tư cách để dạy dỗ người khác và giúp người khác đạt đến trạng thái tâm thức tương tự.”

Không phải điều này là vô giá trị. Có một truyền thống đạo sư cổ xưa ở một số khu vực trên thế giới và nó có giá trị của nó. Chúng ta không cố gắng phủ nhận nó. Nhưng điều ta đang cố gắng chỉ ra ở đây là đối với nhiều người, nó trở thành một ngõ cụt sau một thời gian. Và đó là bởi vì họ trở thành con mồi của ảo ảnh rắn gian manh rất vi tế đang được phóng chiếu vào tâm thức tập thể của trái đất. Cụ thể là: “Đạo sư của họ là đạo sư chân chính duy nhất và đã đạt đến một trạng thái tâm thức tối hậu cao hơn tất cả những người khác.” Và trên thực tế, “đạo sư của họ đã đạt đến một mức độ tâm thức mà chính họ không thể đạt được ngay cả khi họ cố gắng.” Do đó, “họ phụ thuộc vào đạo sư bên ngoài để tăng trưởng của mình.” “Họ chỉ có thể đạt được tăng trưởng thông qua đạo sư bên ngoài.”

Đây là điều các con thấy ít nhất ở một số phần của truyền thống đạo sư Ấn Độ. Đây về cơ bản là điều các con thấy trong Cơ đốc giáo sau khi nó bị tha hóa và nâng Giê-su lên địa vị tối thượng là “con trai duy nhất của Thượng đế”. Các con thấy điều đó trong một số khía cạnh của Phật giáo nơi họ cũng gần như thần thánh hóa Đức Phật. Và các con thấy điều tương tự trong các truyền thống tâm linh khác. Và vấn đề với điều này là tại sao mọi người có thể nhận ra rằng một đạo sư nào đó đã đạt được một mức độ tâm thức cao hơn? Đó là bởi vì, như được mô tả trong tình huống nơi Phê-rô nhận ra Ki-tô trong Giê-su rằng tất cả mọi người đều có một khả năng nào đó để nhận ra Ki-tô, Ki-tô, tâm Ki-tô. Và đối với hầu hết mọi người, họ thấy điều đó ở một người khác.

Họ thấy nó ở một đạo sư đã đạt được một mức độ Quả vị Ki-tô nào đó. Nhưng mục đích của điều này không phải là thần thánh hóa đạo sư, thần thánh hóa Ki-tô trong người khác. Mục đích là giúp các con tăng trưởng đến một điểm mà các con có thể bắt đầu nhận ra Ki-tô trong chính mình. Và các con có thể bắt đầu chấp nhận rằng đạo sư chỉ có ý nghĩa là một ví dụ cho sự thật rằng: “Những gì một người đã làm thì tất cả đều có thể làm.” Và do đó, “các con cũng có thể trở thành Ki-tô, cánh cửa mở cho ánh sáng Ki-tô.” Nếu các con không nắm bắt được điều này, nếu đạo sư không dạy điều này, thì các con có thể đi vào một ngõ cụt nơi các con thần thánh hóa đạo sư. Các con có thể trở nên rất cảm xúc đối với đạo sư hoặc các con có thể có một niềm tin rất đường thẳng vào sự cao trội của đạo sư. Nhưng điều này gây ra cho các con, khi thời gian trôi qua, “phủ nhận Ki-tô trong chính mình”.

Và điều xảy ra trong các phong trào này là, dần dần, một nền văn hóa thờ cúng thần tượng đạo sư được xây dựng. Và sự thờ cúng thần tượng là cần thiết bởi vì tất cả mọi người đều có một cảm giác rằng có điều gì đó không ổn khi chỉ nhìn thấy Ki-tô trong một người. Đó là lý do tại sao họ có thể nhận ra Ki-tô trong đạo sư ngay từ đầu. Nền văn hóa thờ cúng thần tượng được xây dựng xung quanh đạo sư phải giải thích lý do tại sao các con không thực sự “phủ nhận Ki-tô trong chính mình”.

Một số người có thể bị mắc kẹt trong điều này trong một thời gian rất dài, thậm chí có thể là hết phần đời còn lại này. Nhưng nhiều người sẽ dần dần cảm thấy một sự căng thẳng trỗi dậy trong chính họ. Và đối với một số người, điều cần thiết là phải chuyển từ thần thánh hóa đạo sư sang nhìn đạo sư dưới một ánh sáng tiêu cực, có lẽ gọi ông ta là “đạo sư giả” hoặc bà ta là “đạo sư giả”. Có lẽ là hạ thấp đạo sư theo nhiều cách khác nhau. Bởi vì họ phải phá hủy thần tượng rằng “Ki-tô ở bên ngoài chính họ” trước khi họ có thể bắt đầu nhận ra Ki-tô trong chính mình. Và bây giờ một lần nữa các con có thể nói đối với một số người, điều cần thiết là phải trải qua kinh nghiệm đó. Nhưng liệu nó có thực sự cần thiết không? Hay nó có thể tránh được bằng sự hiểu biết đơn giản mà chúng ta đang ban truyền cho các con?

Và do đó, các con không cần phải thần thánh hóa một đạo sư bên ngoài. Các con chắc chắn không cần phải thần thánh hóa sứ giả này vì chúng ta chưa bao giờ khuyến khích các con làm như vậy, vì anh ấy chưa bao giờ khuyến khích các con làm như vậy, và trên thực tế anh ấy đã làm gần như mọi thứ có thể để tránh sự thờ cúng thần tượng này.

Điều gì đằng sau hình thức thờ cúng thần tượng này? Chà, đó là một ý định dựa trên tự ngã, nơi mọi người nghĩ rằng họ có thể đi trên đường tu tâm linh mà không cần nhìn vào bên trong. Và đây tất nhiên là giấc mơ của tự ngã, để khiến các con nghĩ rằng các con đang tiến bộ trên đường tu tâm linh mà không nhìn vào tự ngã, để nó có thể tiếp tục ẩn mình khỏi các con. Chừng nào các con còn có ý thức hệ về đạo sư bên ngoài này, tự ngã cảm thấy an toàn. Nhưng điều xảy ra với một số đệ tử sau đó vụt thoát ra khỏi sự thờ cúng thần tượng, là bây giờ họ đi vào một ngõ cụt khác. Lý tưởng nhất là khi các con thoát khỏi sự thờ cúng thần tượng, các con nên nhận ra rằng sự thờ cúng thần tượng không phải do đạo sư gây ra, mà là do điều gì đó trong tâm lý của các con. Cụ thể là một số ngã tiềm thức nhất định mà các con đã phát triển trong các kiếp sống trước. Nếu các con sẵn lòng giải quyết những ngã đó, các con có thể làm hòa với đạo sư và do đó, các con có thể đi theo đạo sư một lần nữa hoặc các con tìm một đạo sư cao hơn, thường là các chân sư thăng thiên. Nhưng có một số người đi vào ngõ cụt này khi nghĩ rằng bây giờ họ đã thấy sự yếu kém hoặc sự giả dối của đạo sư, họ “biết giỏi hơn đạo sư”, và do đó, họ đã đạt đến một trạng thái phát triển tâm linh tối hậu nào đó. Và bây giờ họ có thể bị mắc kẹt trong điều này, một lần nữa, trong một kiếp sống. Các con thấy cách tự ngã luôn ở đó hoạt động theo những cách vi tế để giam hãm các con trong một ngõ cụt nào đó. Và luôn có một cặp đôi nhất định của những ngõ cụt này. Một là mù quáng đi theo đạo sư, một là nghĩ rằng các con “biết giỏi hơn bất kỳ đạo sư nào”.

Các con thấy rằng khi các con sẵn lòng lùi lại, các con có thể thanh lọc ý định của mình để nó không còn dựa trên tự ngã nữa. Ý định thuần khiết là gì? Các con sẽ đạt đến điều gì ở các cấp độ cao hơn? Chà, một cách để giải thích điều này là nói rằng trong khi các con đang đi trên con đường từ mức 48 đến mức 96, các con cần tập trung vào bản thân. Nhiều người trong số các con có thể nhận ra trong cuộc sống của chính mình cách các con đã phải rất tập trung vào một đường tu tâm linh, một pháp tu tâm linh. Thường bỏ qua những gì người khác nghĩ các con nên làm, không để họ làm các con xao lãng khỏi mục tiêu và con đường của các con. Nhiều người trong số các con đã từ bỏ cuộc sống của mình để sống trong một cộng đồng tâm linh nào đó và điều này một lần nữa là vì các con phải tập trung vào sự tăng trưởng của chính mình. Nhưng khi các con gần đến mức 96 và vượt qua nó, các con có thể chuyển đổi ý định của mình. Và khẩu hiệu có thể là: “Chuyện này không nhắm vào tôi. Nó không nhắm vào tôi chút nào.”

Và cách duy nhất để thực sự buông bỏ thành công cái ta tâm linh mà các con đã xây dựng từ mức 48 đến mức 96 là chuyển sang một trạng thái tâm nơi các con đang phụng sự một điều gì đó vĩ đại hơn chính mình. Do đó, nó không phải về các con, những gì các con với tư cách là một người tách biệt, những gì các con dựa trên những ý định của tự ngã muốn hoàn thành. Nó không phải về việc các con nhận được điều gì đó từ con đường. Nhận được một sự công nhận nào đó, một khả năng nào đó, một trạng thái tâm thức cao hơn nơi các con có những khả năng hoặc tầm nhìn đặc biệt. Nó là về việc các con phụng sự một điều gì đó. Điều này có thể là người khác. Nó có thể là các chân sư thăng thiên. Nó có thể là xã hội. Nhưng sẽ đến một lúc các con không thể tiến bộ hơn nữa trừ khi các con chuyển đổi ý định của mình và nhìn nhận rằng các con không đi trên đường tu tâm linh vì lợi ích của chính mình để hoàn thành điều gì đó cho bản thân như một sinh thể tách biệt. Các con đang đi trên đường tu tâm linh để phụng sự một đại nghĩa lớn hơn.

Làm thế nào để các con thực hiện sự chuyển đổi đó? Chà, chắc chắn sẽ hữu ích nếu các con có thể thấy rằng các con yêu một đại nghĩa nào đó hơn sự tôn vinh của chính mình, sự tự tôn vinh của các con, sự tôn vinh tự ngã của các con. Bởi vì bằng cách yêu một điều gì đó hơn những mục tiêu của tự ngã, các con có thể tự gia tốc vượt ra ngoài nó. Các con có thể vứt bỏ những xiềng xích này nơi Cái Ta Biết đang nhìn con đường qua phin lọc của những ngã tiềm thức này luôn muốn một điều gì đó: “Tôi được gì khi đi trên đường tu tâm linh? Tôi được gì khi đọc chú? Tôi được gì khi đọc thỉnh? Tôi được gì khi tham gia vào một cộng đồng tâm linh hoặc tổ chức tâm linh? Tôi được gì?”

Và có thể cần thiết phải trải qua một giai đoạn nơi các con đang tích cực nhìn vào bản thân, theo dõi bản thân để tìm kiếm giọng nói bên trong này muốn nhận được điều gì đó. Và các con đang tìm cách đưa nó vào nhận biết có ý thức để các con có thể thấy nó như một ngã và buông bỏ nó. Và có thể hữu ích khi tập trung vào: “Làm thế nào tôi có thể phụng sự? Điều gì quan trọng hơn tôi? Các chân sư thăng thiên có quan trọng hơn tôi không?” Nghĩa là, thực sự, tự ngã của các con. Và điều đó sau đó giúp các con tách biệt Cái Ta Biết khỏi sự tự đồng hóa với tự ngã khiến các con quá tập trung vào bản thân. Nhưng tất nhiên, để thực hiện sự chuyển đổi này, các con cũng cần sử dụng những lời dạy của chúng ta về ngã gốc, chấn thương nhập đời hoàn vũ, bởi vì chừng nào các con còn bị chấn thương bởi điều này, các con không thể buông bỏ.

Chúng ta có thể nói ở đây rằng có hai động lực dựa trên tự ngã, hai loại động lực dựa trên tự ngã. Một là tự ngã muốn nâng mình lên một địa vị tối hậu nào đó trên trái đất này. Nhưng cái kia là tự ngã đang tìm cách đền bù cho chấn thương mà các con đã nhận được bằng cách nghĩ rằng một phép lạ nào đó hoặc một đạo sư nào đó có thể chữa lành các con khỏi điều này. Một lần nữa, để các con có thể được chữa lành mà không cần nhìn vào bản thân. Có thể có động lực đó khiến các con nghĩ rằng các con có thể tiến bộ mà không cần nhìn vào chấn thương. Và một lần nữa, như chúng ta đã giải thích, điều này không thể thực hiện được. Nó không khả thi.

Trong các đợt truyền giáo trước đây, ta, Serapis Bey, được miêu tả là một nhà kỷ luật rất nghiêm khắc. Rằng ta có tu viện ở Luxor, Đền Thăng Thiên. Và khi các con đến đó, các con được đưa vào một chế độ rất nghiêm ngặt nơi các con phải đi theo một con đường rất kỷ luật. Nhưng đây là một hình ảnh được ban truyền cho một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ta, như tất cả chúng ta, có các cấp độ tu viện của mình dành cho những người ở các cấp độ tâm thức khác nhau. Nhưng ở các cấp độ cao hơn, ta rất tập trung vào việc làm việc với từng cá nhân các con. Làm việc với các con để các con có thể thấy điều gì trong tâm lý của các con đang kìm hãm các con. Và ta làm việc với các con để giúp các con giải quyết tâm lý của mình, như tất cả các Thượng sư đều làm. Nhưng ta cũng có, như một khía cạnh của Tia thứ Tư, ngọn lửa gia tốc đó. Bởi vì thực sự có một điểm trên con đường nơi các con không thể suy nghĩ theo cách của mình để đạt đến cấp độ tiếp theo, các con không thể dùng quyền năng để đạt đến cấp độ tiếp theo, các con không thể dùng ý chí của mình để đạt đến cấp độ tiếp theo, các con không thể dùng tình yêu của mình để đạt đến cấp độ tiếp theo. Các con phải gia tốc. Và các con có thể nói, ồ, gia tốc nghe có vẻ giống quyền năng. Nhưng nó thực sự vượt quá quyền năng. Nó là một ngọn lửa riêng biệt. Không phải là nó tốt hơn hay quan trọng hơn quyền năng, nhưng nó là một ngọn lửa riêng biệt. Và ở các cấp độ cao hơn của tu viện của ta, ta giúp các đệ tử sẵn lòng hòa điệu với ngọn lửa gia tốc đó.

Và tất nhiên, các con không cần phải nhận biết có ý thức rằng các con đang tham dự tu viện của ta, nhưng các con có thể thực hiện một nỗ lực có ý thức. Khi ta nói nỗ lực, ý ta là tập trung vào việc hòa điệu với ngọn lửa gia tốc đó. Bởi vì thực sự có một điểm nơi các con đang đứng đó, các con có sự hiểu biết, các con đã giải quyết một số tâm lý, các con có quyết tâm, các con có sáng ngộ, các con có tình yêu. Nhưng để vươn lên cấp độ tiếp theo, các con chỉ cần gia tốc. Đó không phải là vấn đề hiểu một điều gì đó. Nó chỉ là vấn đề đưa ra một quyết định: “Tôi đang gia tốc ý định của mình. Tôi đang gia tốc tầm nhìn của mình về đường tu tâm linh. Tôi đang gia tốc sự sẵn lòng của mình để phụng sự một đại nghĩa lớn hơn chính mình.” Và khi các con trụ vững vào ngọn lửa gia tốc, các con có thể đưa ra quyết định có ý thức đó. Nó không được đưa ra bởi tâm vỏ ngoài. Nhưng đó là một quyết định để gia tốc.

Và đó là đặc ân và niềm vui của ta khi giúp các đệ tử vượt qua ranh giới cơ yếu đó nơi các con biết rằng đôi khi đó không phải là vấn đề hiểu biết, đó chỉ là vấn đề đưa ra quyết định gia tốc đó. Không có lý do, không có lý do bên ngoài, không có gì các con cần giải quyết và tìm ra. Các con chỉ cần gia tốc. Và đó là niềm vui lớn của ta khi thấy các đệ tử nắm bắt được điều này. Và đột nhiên, ánh sáng bắt đầu chiếu sáng trong mắt họ, và họ nhận ra: “Ồ, tôi không cần phải tìm hiểu tất cả những thứ này, tôi chỉ cần gia tốc vượt ra ngoài nó.” Và rồi họ hòa điệu vào ngọn lửa, và họ gia tốc.

Về cơ bản, đây là điều xảy ra khi các con thăng thiên. Đó là sự gia tốc tối hậu có thể có trên trái đất. Nhưng theo một cách nào đó, các con có thể nói rằng ở mỗi cấp độ của con đường, cũng có một sự gia tốc. Nhưng thực sự có một điểm nhất định ở khoảng mức 96 nơi các con chỉ cần gia tốc. Gia tốc vượt ra ngoài sự tập trung vào ngã vỏ ngoài và những gì nó có thể đạt được trên đường tu tâm linh. Nó không phải về việc đạt được điều gì cả. Nó không phải về việc đạt đến một cấp độ tối hậu nào đó. Nó là về việc gia tốc vượt ra ngoài cấp độ hiện tại của các con.

Đó là niềm vui lớn của ta, và đó là điều ta cống hiến cho các con, ngọn lửa gia tốc đó, khi các con cảm thấy mình đã sẵn sàng cho nó. Bởi vì ta luôn sẵn sàng cho các con. Với điều này, đó là niềm vui lớn của ta khi niêm các con trong ngọn lửa gia tốc đó. Serapis Bey, TA LÀ.

8 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Paul người Venice

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice, qua trung gian Kim Michaels ngày 7/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi LÀ Chân sư Thăng thiên Paul người Venice. Giê-su đã nói gì 2000 năm trước về tình yêu? Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám bỏ mạng sống mình vì bạn hữu.” Vâng, lời đó dĩ nhiên đã được nói ra 2000 năm trước trong một xã hội rất khác, nơi mà việc bỏ mạng sống mình dễ dàng hơn ở nhiều quốc gia ngày nay, dù dĩ nhiên không phải tất cả.

Xét cho cùng, vì chúng ta đều hướng đến sự tiết lộ tuần tự, thì hôm nay chúng ta có thể nói gì? Vâng, chúng ta có thể nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám bỏ tự ngã mình vì bạn hữu.” Và có một điểm trên đường tu tâm linh mà con cần phải lấy quyết định và con có thể nói: “Có phải là có gì mâu thuẫn khi nói con phải lấy quyết định về tình yêu chăng? Vì tình yêu có phải là một quyết định chăng? Khi con yêu, đó có phải là một quyết định hay nó chỉ xảy ra thôi?” Nhưng con thấy đấy, ở các mức tâm thức thấp hơn, dường như mọi việc cứ thế mà xảy ra. Nhưng khi con tiến lên cao hơn trong tâm thức, con trở nên nhận biết hơn rằng trong lý duyên khởi, không có gì tự nhiên mà xảy ra. Và khi con trở nên nhận biết hơn về đường tu tâm linh, con trở nên ý thức rằng con có một số chọn lựa phải thực hiện.

Chẳng hạn, như Chân sư Lanto vừa giải thích và dĩ nhiên chúng tôi đã giải thích trước đây, giữa tầng tâm thức thứ 48 và thứ 96, con đang vươn lên trên lực hút từ tính của tâm thức tập thể. Điều này không tự nhiên mà xảy ra. Điều gì xảy ra nếu con không nỗ lực vươn lên trên là con bị cuốn theo dòng chảy của tâm thức tập thể. Điều đó xảy ra. Nhưng khi con đi trên đường tu tâm linh, con phải lấy quyết định và có một điểm trên con đường đó mà con phải lấy một quyết định có ý thức về tình yêu. Con yêu cái gì hơn?

Con yêu tự ngã và các trò kiểm soát của nó hơn Ki-tô hay con yêu Ki-tô hơn tự ngã? Vì con không thể yêu cả hai. Thật vậy, khi con quán chiếu điều này, con trở nên nhận biết rằng con không yêu tự ngã. Con không thể yêu tự ngã và tự ngã không thể yêu. Điều này sẽ nghe có vẻ mâu thuẫn vì hầu hết con người sẽ nói rằng họ yêu ai đó hoặc họ yêu một đại nghĩa hoặc họ yêu một ý tưởng hoặc họ yêu một đạo sư tâm linh. Nhưng điều mà tự ngã gọi là tình yêu chỉ là một lớp ngụy trang cho một trò kiểm soát.

Tự ngã tìm cách có được điều gì đó thông qua tình yêu. Tự ngã, bằng cách nói “tôi yêu bạn” với người khác, cảm thấy rằng nó đã giành được quyền sở hữu người đó. Nó đã tuyên bố quyền sở hữu người đó và người đó phải sống theo mong đợi của tự ngã về cách người đó nên cư xử vì tự ngã đã nói “tôi yêu bạn nên bạn là của tôi.” Và đây là điều tự ngã muốn làm với mọi thứ. Nó muốn sở hữu. Nó muốn kiểm soát.

Nhưng tình yêu, tình yêu Ki-tô, có muốn sở hữu và kiểm soát không? Tại sao lại muốn? Ki-tô là gì? Đó là yếu tố hợp nhất. “Nếu không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành.” Ki-tô ở trong mọi thứ. Làm sao nó có thể muốn bất cứ điều gì khi nó là mọi thứ? Chỉ có tự ngã mới có cái cảm nhận thiếu hụt hiện sinh mà nó không bao giờ có thể khắc phục được. Và nó sẽ tìm cách sử dụng bất kỳ phẩm chất Thượng đế nào để bù đắp cho sự thiếu hụt đó, bao gồm, như tôi đã nói, sử dụng tình yêu như một cách để tuyên bố quyền sở hữu của con đối với người khác. Hãy nhìn tình yêu nhân loại và cân nhắc có bao nhiêu người không bị cái cảm giác rằng họ có quyền sở hữu đối với những người họ nói là họ yêu thương.

Và rồi con sẽ thấy thách thức mà con phải đối mặt khi con leo lên đường tu tâm linh, leo lên con đường đến quả vị Ki-tô, nơi con dần dần khám phá ra những cái ta tách biệt dựa trên tình yêu như quyền sở hữu, tình yêu giả hiệu này, tình yêu dựa trên sợ hãi, tình yêu dựa trên sự thiếu hụt. Và khi con nhận biết chúng và buông bỏ chúng, điều gì xảy ra? Điều xảy ra là tình yêu của Ki-tô bắt đầu tỏa sáng xuyên qua màn sương mù trong bốn thể thấp của con và rồi con nhận ra tự ngã chưa bao giờ thực sự yêu bất cứ thứ gì hay bất cứ ai. Và con nhận ra rằng khi con tuyên bố quyền sở hữu bất cứ thứ gì trong thế giới vật chất, thì cái thứ mà con nghĩ rằng con sở hữu đó lại tuyên bố quyền sở hữu con.

Đây là một cách để diễn giải ý tưởng cũ về việc “bán linh hồn cho quỷ dữ”, nơi con về cơ bản đang nói: “Tôi muốn sở hữu một thứ gì đó trong thế giới này. Tôi muốn trải nghiệm cảm giác một cái ta tách biệt có thể sở hữu một thứ gì đó trong thế giới này.” Giờ thì nghe rất bi kịch khi con nói rằng con đang bán linh hồn cho quỷ dữ, nơi con đang nói: “Ồ quỷ dữ, nếu ngươi cho ta thứ này trong thế giới này mà ta muốn, ngươi có thể có linh hồn ta mãi mãi.”

Dĩ nhiên, không phải như vậy. Trước hết, có thực sự có một con quỷ như được miêu tả trong nhiều huyền thoại không? Dĩ nhiên có những sa nhân, nhưng chúng không có quyền năng ban cho con quyền sở hữu hoặc lấy linh hồn con. Điều gì xảy ra khi con thực hiện giao dịch này với quỷ dữ? Tất cả đều nằm trong tâm lý của con, bởi vì hãy nghĩ về những gì con đang nói. Con muốn trải nghiệm cảm giác sở hữu một thứ gì đó trong thế giới vật chất. Bây giờ con có thực sự sở hữu bất cứ thứ gì trong thế giới vật chất không? Vâng, con có thể trong các xã hội có một số luật pháp và trật tự, nơi họ sẽ nói: “Vâng, bạn mua mảnh đất này và bạn sở hữu nó. Vâng, bạn kết hôn với ai đó và bạn có một số quyền nhất định được xã hội hoặc tôn giáo định nghĩa.”

Nhưng con có thực sự sở hữu bất cứ thứ gì trong thế giới này, nơi mọi thứ có thể xảy ra bất cứ lúc nào không? Con có thể có một cung điện đồ sộ, nhưng nếu một trận động đất quét sạch nó trong vài giây thì sao?

Tại sao con không thể thực sự sở hữu bất kỳ thứ riêng biệt nào như một cái ta riêng biệt? Vâng, vì lý duyên khởi. Nếu thực sự không có những thứ riêng biệt, làm sao con có thể sở hữu hoàn toàn một thứ gì đó?

Điều tôi đang nói là, con không thực sự sở hữu bất cứ thứ gì, nhưng con có trải nghiệm rằng con sở hữu một thứ gì đó. Nhưng trải nghiệm đó diễn ra ở đâu? Bên trong tâm trí của con. Tại sao cái thứ mà con nghĩ rằng con sở hữu lại có quyền sở hữu con? Bởi vì chừng nào con còn muốn trải nghiệm đó, chừng nào con còn muốn trải nghiệm rằng con sở hữu một thứ gì đó, thì thứ đó sẽ chiếm lấy tâm trí con. Thứ đó định nghĩa cách con trải nghiệm cuộc sống. Con thấy không? Tất cả là về trải nghiệm của con.

Quyết định mà con phải thực hiện là gì? Chắc chắn là khi con tiếp cận hoặc đạt đến tầng thứ 96 đó, nhưng con có thể thực hiện nó trước, đó là: “Tôi yêu cái gì hơn? Tôi yêu trải nghiệm sở hữu một thứ gì đó trên trái đất hơn, hay tôi yêu trải nghiệm xuôi chảy với tâm Ki-tô, xuôi chảy với Dòng sông sự Sống hơn? Tôi yêu cái gì hơn? Tôi yêu tự ngã và nhu cầu kiểm soát và sở hữu của nó hơn, hay tôi yêu Ki-tô và sự xuôi chảy tự phát của nó từ tình huống này sang tình huống khác mà không có bất kỳ sự kiểm soát nào, không có bất kỳ sự dự đoán nào hơn?”

Chân sư Lanto đã nói về việc đi bộ qua sông, cố gắng đi ngược dòng, cố gắng giữ vị trí của mình trong dòng sông, bởi vì con nghĩ rằng mục tiêu là vượt qua sông. Ngài đã nói về việc đầu hàng dòng chảy. Nhưng làm thế nào con thực sự đầu hàng dòng chảy? Con phải từ bỏ ham muốn sở hữu của tự ngã, nhưng làm thế nào con có thể từ bỏ ham muốn đó? Chỉ khi có điều gì đó con yêu hơn trải nghiệm sở hữu.

Con thấy đấy, tâm vỏ ngoài của đại đa số người trên trái đất phóng chiếu hình ảnh rằng có những điều kiện vật lý thực tế mà con phải đối mặt ở đây trên trái đất và những điều kiện vật lý đó là những gì quyết định trạng thái tâm trí của con, trải nghiệm cuộc sống của con. Và vâng, ở các mức tâm thức thấp hơn, như tôi đã nói, con đang xuôi chảy theo dòng chảy của tâm thức đại chúng. Các điều kiện ngoại cảnh, các điều kiện vật lý, nhưng cũng là các điều kiện ở tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của tâm thức đại chúng, chúng thực sự quyết định trải nghiệm cuộc sống của con khi con ở mức tâm thức thấp hơn. Nhưng đường tu tâm linh là về việc nâng cao mức tâm thức của con, nâng cao trải nghiệm cuộc sống của con lên trên trải nghiệm cuộc sống thông thường. Và có một điểm mà con nhận ra rằng đó không phải là về việc thay đổi các điều kiện ngoại cảnh, đó là về việc thay đổi trải nghiệm của con về các điều kiện ngoại cảnh.

Một lần nữa, như chúng tôi đã nói nhiều lần, tâm Ki-tô không tìm cách thị hiện những điều kiện vật lý cụ thể trên trái đất, nó chỉ tìm cách nâng cao trải nghiệm cuộc sống của con. Nhưng điều gì quyết định liệu con vẫn đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên như trái đất, hay liệu con thăng thiên, hiện thân là gì? Đó là có một trải nghiệm cuộc sống cụ thể. Thăng thiên là gì? Đó là có một trải nghiệm cuộc sống khác. Con có thể nghĩ rằng với tư cách là một chân sư thăng thiên, tôi bằng cách nào đó khác biệt cơ bản so với con. Trên thực tế, tôi chỉ đang có một trải nghiệm cuộc sống khác với con. Tôi là một sinh thể tự nhận biết. Tôi đang có một trải nghiệm cuộc sống trong cõi thăng thiên. Tôi đã từng hiện thân trên trái đất. Tôi đã từng có một trải nghiệm cuộc sống như con đang có. Làm thế nào tôi chuyển đổi? Bằng cách nâng cao trải nghiệm cuộc sống của tôi, không phải bằng cách thay đổi bất kỳ điều kiện ngoại cảnh nào, bằng cách nâng cao trải nghiệm cuộc sống của tôi.

Bây giờ nếu con nhìn lại các đợt truyền giáo của các chân sư thăng thiên trước đây, con sẽ thấy rằng ngay cả chúng tôi vào thời điểm đó cũng phải đưa ra một số hình ảnh khác so với những gì tôi đang ban cho con bây giờ.

Con có thể quay trở lại phong trào I AM nơi họ có một khái niệm rằng trong tu viện của Saint Germain có một chiếc ghế cụ thể được gọi là Gia tốc Nguyên tử, và con có thể ngồi vào chiếc ghế này và nó sẽ rung động và gia tốc các nguyên tử của bốn thể thấp của con. Nhưng đây là một khái niệm được ban vào thời điểm đó bởi vì đây là những gì chúng tôi xác định rằng mọi người có thể liên hệ được với mức độ của tâm thức tập thể, rằng có một số phương tiện gần như vật lý để gia tốc bốn thể thấp của con để chúng sẽ rung động ở mức độ của cõi thăng thiên.

Chúng tôi đã ban cho con điều gì trong đợt truyền giáo này? Một sự hiểu biết ngày càng cao hơn. Có phải là về việc gia tốc các nguyên tử của cơ thể vật lý của con để chúng đột nhiên rung động ở mức độ của cõi thăng thiên không? Không, vì điều này không bao giờ có thể thực hiện được. Các cơ thể vật lý của con sẽ bị thổi tung nếu các nguyên tử bị gia tốc vượt quá một mức độ nhất định. Điều này giống như một số người theo đạo Cơ đốc tin rằng họ sẽ có những cơ thể vật lý ở thiên đàng giống như những cơ thể vật lý mà họ đang có bây giờ.

Có phải là về việc nâng thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc của con lên một mức cao hơn không? Không, như chúng tôi đã giải thích, bốn thể thấp đó là những cỗ xe để tương tác với thế giới vật chất. Trong cõi thăng thiên con không cần điều đó. Chúng tôi đã ban cho con những giáo lý về cái Ta Biết. Thăng thiên có phải là một tiến trình gia tốc sự rung động của cái Ta Biết không? Nhưng nó là nhận biết thuần khiết. Nó là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Tại sao nó cần được gia tốc? Nó chưa bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì đã xảy ra trên trái đất. Tất cả những điều đó đang xảy ra, tác động đó đang xảy ra trong bốn thể thấp.

Con đang gia tốc điều gì khi con thăng thiên? Trải nghiệm cuộc sống của con. Làm thế nào con gia tốc trải nghiệm cuộc sống của con? Vâng, một phần trong đó, không phải toàn bộ, bởi vì tất cả bảy tia sáng đều cần thiết để con thăng thiên. Nhưng một phần lớn của việc gia tốc trải nghiệm cuộc sống của con là đạt đến nhận biết có ý thức đó. Tôi yêu cái gì hơn? Tôi yêu tự ngã hơn hay tôi yêu Ki-tô hơn? Tôi yêu trải nghiệm là một cái ta tách biệt hơn hay tôi yêu trải nghiệm là một phần của tổng thể hơn? Điều mà tự ngã ban cho con là trải nghiệm là một cái ta tách biệt, sống trong một thế giới của những cái ta tách biệt khác và những vật thể tách biệt.

Điều mà Ki-tô ban cho con là trải nghiệm là một cái ta nối kết, sống trong một thế giới nơi con là một phần của một tổng thể, lý duyên khởi, cõi thăng thiên, đoàn chưởng giáo của các chân sư thăng thiên vươn tới Đấng Sáng tạo. Con không thể có cả hai cùng một lúc, nhưng con đang có cả hai cùng một lúc trong khi con đang đi trên con đường. Chừng nào con còn hiện thân vật lý, con còn có một chút cả hai cùng một lúc.

Vậy tại sao tôi lại nói con không thể có cả hai cùng một lúc? Vâng, con có thể khi con không nhận biết, nhưng khi con ngày càng nhận biết hơn, con nhận biết rằng con đang bị kéo theo nhiều hướng khác nhau. Và đó là lý do tại sao con có thể thực hiện lựa chọn có ý thức để từ bỏ tự ngã, bởi vì con thấy rằng con yêu hợp nhất hơn chia ly. Con có thể nói: “Vâng, Paul người Venice, nhưng thày đang nói một cách khái quát ở đây, nghe có vẻ rất siêu hình, nhưng nó liên quan gì đến cuộc sống hàng ngày của con?” Vâng, tất cả và không gì cả, tùy thuộc vào cách con nhìn nhận nó.

Con hãy lấy điều Chân sư Lanto đã nói, con thức dậy vào buổi sáng, con đang đối mặt với một tình huống nhất định, con có thể đang hành động với các thành viên trong gia đình, sau đó con đi làm, con đang tương tác với những người khác. Trong mọi tình huống, con đều có cơ hội lựa chọn điều gì con yêu hơn, các khuôn nếp phản ứng dựa trên tự ngã, hay xuôi chảy với tâm Ki-tô? Nhưng để xuôi chảy với tâm Ki-tô, con phải từ bỏ ham muốn kiểm soát. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám bỏ tự ngã vì một người bạn”, hay một kẻ thù, hay bất cứ ai con gặp.

Con thấy đấy, khi con nhìn vào một tình huống ngoại cảnh nơi con đang đối phó với những người khác, thật dễ dàng bị cuốn vào suy nghĩ rằng có một kết quả nhất định phải được thị hiện, con phải được chứng minh là đúng, con phải thuyết phục người khác. Nhưng khi con quyết định rằng con yêu Ki-tô hơn tự ngã, mọi tình huống đều trở nên khác biệt. Mọi tình huống đều trở thành một cơ hội để nhìn vào các khuôn nếp phản ứng của con, thấy rằng chúng đến từ tự ngã, và sau đó quyết định rằng con yêu Ki-tô hơn tự ngã. Con sẵn lòng từ bỏ tự ngã và cách tự ngã nhìn nhận tình huống đó, để con có thể hòa điệu với cách tâm Ki-tô nhìn nhận tình huống đó. Và do đó con có thể phản ứng với tình huống từ mức độ của Ki-tô thay vì từ mức độ của tự ngã.

Mọi tình huống con đối mặt trong cuộc sống đều cho con cơ hội đó. Những người tiến bộ trên con đường là những người nhận biết điều này, những người tận dụng cơ hội này, và những người tiếp tục tận dụng nó chừng nào con còn hiện thân. Bây giờ đôi khi chúng tôi thấy những đệ tử tìm thấy giáo lý, họ sẵn lòng áp dụng giáo lý, họ thực sự tiến bộ trong tâm lý và giải quyết tâm lý của mình, nhưng sau đó họ đến một điểm mà họ cảm thấy: “Ồ, bây giờ tôi đã đạt đến một mức cao hơn.” Và họ đúng, họ đã đạt đến một mức cao hơn so với khi họ tìm thấy con đường, họ đã áp dụng giáo lý, họ đã đạt đến một mức cao hơn nhiều so với nhiều người xung quanh họ. Nhưng bây giờ họ quyết định: “À, bây giờ tôi không cần phải nhìn vào tâm lý của mình.” Có thể họ thậm chí còn quyết định: “Ồ, tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô hằng sống, tôi là quả vị Ki-tô thị hiện.”

Quyết định mà tôi đã nói là gì? Con yêu Ki-tô hơn quyền sở hữu của tự ngã ư? Ki-tô có cần sở hữu không? Ki-tô có bao giờ cần, có bao giờ đạt đến một mức tối hậu không? Ki-tô hằng sống trong hiện thân có thấy mình đã đạt đến một mức tối hậu mà nó không còn cần tìm kiếm một khuôn nếp phản ứng ẩn giấu nào nữa không? Không. Khi con hòa điệu với tâm Ki-tô, con đang xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Và con tiếp tục xuôi chảy cho đến khi con đột nhiên thấy mình trong cõi thăng thiên. Khoảnh khắc con ngừng dòng chảy, khoảnh khắc con nghĩ rằng con đã đạt đến một trạng thái tối hậu nào đó, con không còn yêu Ki-tô hơn tự ngã nữa bởi vì chính tự ngã đã khiến con nghĩ rằng con là Ki-tô. Hãy nghĩ về điều đó.

Tự ngã sẽ không bỏ cuộc khi con tìm thấy con đường tâm linh. Nó luôn ở đó trong nền và nó luôn tìm kiếm những cách tinh vi để khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tâm linh từ rất lâu, tôi đã áp dụng tất cả những giáo lý này. Tôi đã phủ phục trên sàn mười ngàn lần, như người Tây Tạng nói. Tôi đã đọc chú trong nhiều giờ, do đó, tôi đã đạt đến một mức tối hậu nào đó. Tôi đã thức tỉnh. Tôi đã giác ngộ. Tôi là Ki-tô hằng sống.”

Và do đó, tự ngã xen vào và nói: “Bây giờ con có thể ngừng nhìn vào tâm lý của con. Con đã đạt đến một mức tối hậu. Con không còn tâm lý chưa giải quyết nữa.” Nhưng con thấy đấy, phản ứng của Ki-tô là gì khi tự ngã xen vào, rình rập như con rắn với cái tâm rắn gian manh của nó? Phản ứng thích hợp của Ki-tô là gì? “Hỡi Sa-tan, lui ra đằng sau ta.” Tại sao? Bởi vì con yêu Ki-tô hơn và do đó, con muốn tiếp tục xuôi chảy với Ki-tô hơn là dừng lại ở một điểm nào đó ở đây trên trái đất.

Bây giờ có thể có một số đệ tử mà khi họ tìm thấy con đường tâm linh và ngay cả sau khi họ đã đi trên đó một thời gian, họ nhận biết rằng họ vẫn có một ham muốn về một trải nghiệm cụ thể, rằng con đã đạt đến một mức độ tâm linh tối hậu, của sự phát triển tâm linh ở đây trên trái đất. Bây giờ tôi không cố gắng nói với con rằng ham muốn này là hoàn toàn sai. Nó dĩ nhiên sẽ ngừng dòng chảy của con hướng tới quả vị Ki-tô. Nhưng quyền tự quyết là quyền tự quyết và có đủ loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất.

Ví dụ, con sẽ thấy rằng có một số người ngoài kia đã đi theo con đường tâm linh một thời gian, đã đạt đến một mức độ nhất định, tự xưng là một đạo sư và bây giờ tuyên bố rằng họ đã đạt đến một trạng thái tối hậu nào đó dù họ mô tả nó như thế nào. Tôi đã giác ngộ. Tôi đã thức tỉnh. Tôi đã đạt đến nhận biết bất nhị. Tôi đã trải nghiệm cái chết của tự ngã. Tôi không có cái ta. Tôi là nhận biết thuần khiết. Tôi là Ki-tô hằng sống. Tôi là Phật. Tôi là hiện thân của vị thần này hay vị thần kia. Tất cả các loại điều mà mọi người dùng để tuyên bố rằng họ đã đạt đến một giai đoạn tâm thức tối hậu, của sự phát triển tâm linh trong khi vẫn còn trong một cơ thể vật lý.

Quyền tự quyết cho phép họ có trải nghiệm đó. Quyền tự quyết cho phép những người khác có trải nghiệm đó. “Ồ, tôi đang đi theo vị đạo sư toàn hảo này, vị đạo sư cao nhất từng đến trái đất.” Nhưng tất cả điều này là một trải nghiệm và đó là một trải nghiệm con có khi con ở ngoài Ki-tô. Con không thể có được nó trong hợp nhất rằng con là một sinh thể tách biệt đã đạt đến một giai đoạn tối hậu nào đó trên trái đất bởi vì khi con nối kết với tâm Ki-tô, con nhận ra, con trải nghiệm rằng tâm Ki-tô là một dòng chảy không ngừng.

Không có trải nghiệm tối hậu nào trên trái đất. Làm sao có thể có một trải nghiệm tối hậu trong bầu cõi chưa thăng thiên? Làm sao có thể có một trải nghiệm tối hậu trong cõi thăng thiên cho đến khi con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo? Nhưng khi con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo, con thấy rằng có rất nhiều điều để trải nghiệm hơn nữa trong cái Tất Cả. Có bao giờ có một trải nghiệm tối hậu không?

Tâm đường thẳng và tự ngã khao khát nói: “Vâng, chắc chắn phải có. Phải có một mức tâm thức cao nhất, chính Thượng đế.” Nhưng không phải vậy. Nhưng con chỉ có thể biết điều này, trải nghiệm điều này thông qua tâm Ki-tô, không phải thông qua tâm tách biệt, không phải thông qua tâm đường thẳng muốn nói rằng phải có một khởi đầu tối hậu, phải có một mục tiêu tối hậu. Nhưng không có.

Điều tôi đang nói về cơ bản là, có thể mọi người có thể tiến lên trên con đường tâm linh, đạt được tiến bộ chân thực bằng cách xuôi chảy với dòng sông của tâm Ki-tô, dù họ gọi nó là gì hay một cái tên khác. Nhưng họ đang xuôi chảy và sau đó họ đến một điểm mà bây giờ họ đã đạt đến một mức độ nào đó và họ ham muốn có trải nghiệm ở lại mức độ đó, cảm thấy đây là một mức độ tối hậu nào đó.

Và tâm Ki-tô sau đó phải nói: “Vâng, con rõ ràng không còn cần đến ta nữa, nhưng ta luôn ở bên con, vì vậy khi con đã chán chê trải nghiệm đó, thì ta ở đây để giúp con quay trở lại dòng chảy.” Nhưng con có thể tránh rơi vào cái bẫy đó, ngõ cụt đó, bằng cách luôn quyết định rằng con yêu Ki-tô hơn ham muốn sở hữu bất kỳ trải nghiệm nào. Con thấy điều mà tự ngã muốn làm. Nó muốn đạt được một trải nghiệm nhất định trên trái đất và sau đó nó muốn duy trì trải nghiệm đó theo thời gian. Nhưng Ki-tô không muốn đạt được bất kỳ trải nghiệm nào và nó không muốn duy trì bất kỳ trải nghiệm nào. Nó muốn xuôi chảy và tình yêu Ki-tô muốn xuôi chảy. Nó không muốn sở hữu.

Bây giờ con có thể nói ở đây, thày lại không mâu thuẫn với chính mình sao? Vì thày đang nói rằng tâm Ki-tô là tất cả và có tất cả và tuy nhiên tâm Ki-tô thúc giục chúng ta luôn xuôi chảy và vươn tới nhiều hơn. Nhưng con thấy đấy, đây không phải là một sự mâu thuẫn. Khi con nắm bắt được tâm Ki-tô là gì, nó là yếu tố hợp nhất và đối với con với tư cách là một sinh thể cá nhân, con là một phần nối dài của bản thể Đấng Sáng tạo và Ki-tô thúc giục con tiếp tục xuôi chảy và tự vượt thăng cho đến khi con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo đó, điều mang lại cho con sự hợp nhất với nguồn cội của con, hợp nhất với Đấng Sáng tạo của con.

Đó là chức năng của tâm Ki-tô. Mặc dù bản thân tâm Ki-tô không cần phải tăng trưởng, nhưng con với tư cách là một sinh thể cá nhân có một sự thôi thúc, ham muốn, lực kéo hiện sinh, cố hữu, không thể tránh khỏi để tăng trưởng, để vươn trở lại nguồn cội. Con có thể phủ nhận nó và những người nghĩ rằng họ đã đạt đến một mức độ tâm thức tối hậu nào đó trên trái đất đang phủ nhận nó khi nói: “Tôi không cần phải tiến lên cao hơn nữa.” Nhưng đó là phủ nhận động lực hiện sinh của bản thể con và đó không phải là tình yêu. Vì tình yêu là luôn muốn nhiều hơn cho đến khi con trở về nguồn cội của con và sau đó dĩ nhiên con có thể tăng trưởng từ đó. Nhưng động lực trực tiếp mà tâm Ki-tô đang đại diện cho con là động lực trở về hợp nhất với nguồn cội của con, với Đấng Sáng tạo của con.

Tôi LÀ một chân sư thăng thiên. Tôi đã trở thành một chân sư thăng thiên bởi vì tôi đã trụ vững vào động lực đó. Tôi không phủ nhận nó. Tôi sẵn lòng xuôi chảy với nó. Nhưng ngay cả khi tôi là một chân sư thăng thiên, tôi không thấy mình đã đạt đến một mức tối hậu. Làm sao tôi có thể làm được điều đó, khi tôi thường xuyên tương tác với các chân sư thăng thiên rõ ràng có mức độ tâm thức cao hơn nhiều so với tôi với tư cách là một Thượng sư đang làm việc với trái đất?

Khi tôi tương tác với Phật, tôi trải nghiệm rằng Phật Gautama có mức độ tâm thức cao hơn tôi, rằng các đại thiên thần, các Elohim có mức độ tâm thức cao hơn, rằng các sinh thể vũ trụ như Chỉ đạo Thiêng liêng, Surya, Shiva có mức độ tâm thức cao hơn tôi. Đôi khi tôi thậm chí còn trải nghiệm Alpha và Omega có mức độ tâm thức cao hơn. Làm sao tôi không thể trụ vững vào động lực vươn lên cao hơn, luôn vươn lên cao hơn? “Không có bản thể nào có tình yêu lớn hơn tình yêu của một bản thể dám bỏ trải nghiệm cuộc sống hiện tại của nó để xuôi chảy đến trải nghiệm cuộc sống cao hơn.”

Với điều này, đó là đặc ân và niềm vui lớn của tôi khi tương tác với con và tôi cảm ơn con đã cho tôi cơ hội. Tôi niêm phong con trong tình yêu mà tôi đại diện cho trái đất, tình yêu Ki-tô luôn xuôi chảy, luôn tăng trưởng, luôn tự vượt thăng.

Paul người Venice, tôi LÀ.

7 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Lanto

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Lanto, qua trung gian Kim Michaels ngày 7/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư thăng thiên Lanto. Mục tiêu của tôi ở đây là đem đến cho các con cái nhìn của Tia sáng Thứ nhì về Quả vị Ki-tô. Tia sáng Thứ nhì thường được gắn với minh triết, và có những người nghĩ rằng khi các con chứng đạt Quả vị Ki-tô, các con sẽ biết mọi sự, các con sẽ có lời giải đáp cho mọi câu hỏi. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, đó không phải là một cái nhìn đúng đắn. Bởi vì có những câu hỏi, không chỉ được hình thành bởi tâm nhị nguyên mà ngay cả bởi tâm đường thẳng, mà ngay cả đấng Ki-tô cũng không thể trả lời, vì chúng không có lời giải đáp.

Các con thấy đó, tâm đường thẳng muốn tạo ra một thế giới quan cho rằng thế giới này là đường thẳng. Các con thấy điều này trong các tôn giáo. Thượng đế đã tạo ra thế giới trong bảy ngày, à, nói đúng ra là sáu ngày, và rồi vì một lý do nào đó, vị Thượng đế Toàn năng này phải nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Các con thấy điều đó trong khoa học. Mọi thứ bắt đầu bằng Big Bang. Cái gì đã có trước Big Bang? À, chúng ta đừng nói về điều đó. Mọi thứ tiến triển, xem như vậy, theo kiểu đường thẳng này, nơi các con có thể cô lập một hiệu ứng cụ thể là kết quả của một nguyên nhân cụ thể, và trước đó là một nguyên nhân khác, và trước đó là một nguyên nhân khác. Nhưng các con thấy cách tâm đường thẳng muốn cô lập một chuỗi nguyên nhân này dẫn đến hiệu ứng này dẫn đến nguyên nhân khác, cứ thế mà đi.

Giờ đây, đây là tâm đường thẳng. Trên cả điều đó là tâm nhị nguyên, lấy thế giới quan đường thẳng và áp đặt phán xét giá trị lên nó để giờ đây các con có thể tạo ra một sự phân chia xa hơn, không chỉ giữa nhân và quả, một nguyên nhân trung hòa dẫn đến một hiệu ứng trung hòa, mà là một điều đúng và sai. Giờ đây các con có thể nói, giờ đây các con có thể quay ngược thời gian qua chuỗi nhân quả này và nói, rất lâu trong quá khứ, trong Vườn Eden đó, đã có một nguyên nhân xảy ra mà đáng lẽ không nên xảy ra và do đó, mọi thứ đã đi sai đường kể từ đó, liên quan đến loài người trên trái đất. Và do đó, chúng ta cần sử dụng tôn giáo để khôi phục những gì đã sai. Hoặc chúng ta cần sử dụng chủ nghĩa cộng sản để khôi phục những gì đã sai. Hoặc chúng ta cần sử dụng khoa học để khôi phục những gì đã sai. Hoặc chúng ta cần sử dụng thông minh nhân tạo để khôi phục những gì đã sai.

Các con thấy đó, có gì đó đã sai. Nhưng điều này chỉ có thể được nghĩ ra bởi một tâm trí suy nghĩ theo các nguyên nhân cô lập dẫn đến các hiệu ứng cô lập. Nhưng Phật đã dạy gì 2500 năm trước? Lý duyên khởi. Trong lý duyên khởi, các con có thể cô lập một nguyên nhân duy nhất không? Không. Nguyên nhân duy nhất trong một vũ trụ duyên khởi là gì? Đó là cái Toàn thể. Toàn bộ vũ trụ là nguyên nhân duy nhất và toàn bộ vũ trụ là hiệu ứng duy nhất. Các con không thể chọn ra bất kỳ nguyên nhân duy nhất nào hoặc bất kỳ hiệu ứng duy nhất nào. Vì tất cả đều vận hành như một tổng thể duyên khởi.

Khi các con bắt đầu, và tôi nói là bắt đầu, bởi vì đây là một quá trình dài để thấu rõ điều này, để thể nhập điều này, nhưng khi các con bắt đầu nắm bắt được điều này, các con sẽ thấy thế giới quan mà hầu hết mọi người đang bị mắc kẹt là lạc lõng với thực tại. Và các con sẽ thấy thế giới đang tìm kiếm, luôn tìm kiếm một giải pháp nào đó để loại bỏ các vấn đề, để loại bỏ những gì đã sai, để loại bỏ sự đau khổ. Và các con bắt đầu thấy rằng cuộc tìm kiếm một giải pháp tối hậu, một lời giải thích tối hậu, một sự hiểu biết tối hậu, một minh triết tối hậu, chính cuộc tìm kiếm này đã tạo ra sự đau khổ, duy trì sự đau khổ, và cuộc tìm kiếm này không bao giờ có thể chấm dứt sự đau khổ.

Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đã cố gắng giải thích cho các con điều gì trong nhiều năm qua? Rằng động lực thúc đẩy sự tăng trưởng tâm linh không phải là tâm đường thẳng, mà là tâm trực giác. Các con không tư duy để đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Các con hòa điệu với một trạng thái tâm thức cao hơn. Các con thấy rằng khi mọi người lần đầu nghe về khái niệm Quả vị Ki-tô, tâm tư duy của họ, tâm đường thẳng của họ, tâm phân tích của họ bắt đầu làm những gì mà tâm trí đó luôn làm. Nó nói: “À, hãy cho tôi một số giáo lý về Quả vị Ki-tô, hãy cho tôi biết các đặc điểm, hãy chia nhỏ nó thành các đơn vị nhỏ hơn, hãy chia nhỏ nó thành một nguyên nhân tối hậu để tôi có thể nắm bắt nó, để tôi có thể hiểu nó, để tôi có thể phân loại và dán nhãn nó và đặt nó vào kho dữ liệu của tôi để tôi có thể kiểm soát Quả vị Ki-tô.”

Nhưng các con thấy đó, các con không thể tư duy để đạt đến Quả vị Ki-tô. Các con có thể hòa điệu với tâm Ki-tô, nhưng tâm Ki-tô vượt quá tâm tư duy. Nhưng có nhiều người nghĩ, và một lần nữa chúng tôi không đổ lỗi cho ai cả, điều đó là tất yếu trong điều kiện trên trái đất, nhưng có nhiều người nghĩ rằng họ có thể tư duy để trở thành đấng Ki-tô, và họ thường cố gắng sử dụng giáo lý của chúng tôi để định nghĩa các đặc điểm của Quả vị Ki-tô, và họ nghĩ rằng nếu họ có thể tuân theo những điều kiện này bằng tâm vỏ ngoài, thì họ sẽ là đấng Ki-tô.

Nhưng đấng Ki-tô không phải là vấn đề tư duy, mà là vấn đề cái Là. Không phải là tư duy hay không tư duy, mà là “là hay không là”. Điều này, tất nhiên, không phải là câu trả lời mà tâm đường thẳng thích, bởi vì “là hay không là” nghĩa là gì? Hãy giải thích cho tôi, hãy cho tôi điều gì đó mà tôi có thể nắm bắt được. Nhưng các con thấy đó, trong cái Là hay không Là, không có gì để hiểu. Các con không thể tư duy để đạt đến cái Là. Các con hoặc có thể Là hoặc không thể Là. Điều này không có nghĩa là trở thành đấng Ki-tô hay không trở thành đấng Ki-tô là một quyết định trọng đại hay một sự kiện trọng đại, như một số người muốn miêu tả – giác ngộ tức khắc. Đó là một quá trình gồm rất nhiều lựa chọn cá nhân, nhưng lựa chọn là trong các tình huống hằng ngày, hãy chọn vươn tới một điều gì đó vượt quá tâm vỏ ngoài, tâm tư duy, hoặc thậm chí tâm cảm nhận, hoặc thậm chí tâm bản sắc. Vì khi tôi nói tâm tư duy, tâm đường thẳng, điều này thực sự bao gồm tất cả các tự ngã tiềm thức ở cấp độ cảm xúc, tinh thần, bản sắc, bởi vì chúng cũng tuyến tính, chúng muốn có một quy tắc.

Tự ngã không muốn sai, vì vậy tự ngã nói, hãy cho tôi một quy tắc để nếu tôi tuân theo quy tắc đó, tôi sẽ không bao giờ sai. Nhưng đó không phải là Quả vị Ki-tô. Hãy lấy minh triết. Tự ngã muốn chúng tôi định nghĩa minh triết là gì. Tự ngã sẽ thích các chân sư thăng thiên ban ra một cuốn sách, nó thậm chí có thể là một cuốn sách dày, nhưng hãy ban ra một cuốn sách và nói rằng cuốn sách này chứa tất cả minh triết mà các con cần biết, để tự ngã sẽ nói, à nếu tôi học thuộc lòng cuốn sách này, nếu tôi biết tất cả những gì trong đó, thì tôi sẽ không bao giờ sai. Nhưng tự ngã theo định nghĩa là sai, bởi vì tự ngã không ở trong hợp nhất. Và minh triết chỉ được thu hoạch từ bên ngoài, nghĩa là kiến thức được thu hoạch từ bên ngoài và giờ đây các con nghĩ đây là minh triết, đây không phải là Quả vị Ki-tô.

Các con không thể định nghĩa một chương trình học, một cuốn sách, và nói rằng nếu các con biết điều này, các con là đấng Ki-tô. Tại sao không? Bởi vì hãy nghĩ về cuộc sống hằng ngày, chỉ cần nghĩ về cuộc sống hằng ngày. Hãy hình dung mình thức dậy vào buổi sáng, các con có thể tương tác với các thành viên trong gia đình, giờ đây các con rời nhà, các con có thể gặp gỡ mọi người trên xe buýt hoặc tàu hỏa hoặc tàu điện ngầm, các con đến nơi làm việc, các con đang tương tác với mọi người.

Các con có thể ngồi đó vào buổi sáng trong khi đang ăn sáng và định nghĩa mọi thứ sẽ xảy ra với các con trong ngày không? Các con có thể làm điều đó trước thời hạn và rồi các con sẽ biết rằng ngày của các con sẽ diễn ra đúng như các con đã dự đoán không? Giờ đây các con thấy có những nhà khoa học sẽ nói rằng, vâng, về mặt lý thuyết thì có thể, nếu các con có đủ kiến thức về các điều kiện, thì các con có thể dự đoán mọi thứ sẽ xảy ra. Nhưng điều này không thực tế, vì giờ đây có những nhà khoa học khác đang bắt đầu nhận ra, và các con có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày của mình, rằng không thể dự đoán mọi tình huống.

Thực ra các con đang đối mặt với điều gì trong cuộc sống hằng ngày của mình? Tôi biết rằng khi chúng tôi nói về khái niệm duyên khởi này, nó có vẻ hơi lý thuyết, hơi mơ hồ, hơi trừu tượng. Nhưng các con đang đối mặt với điều gì trong cuộc sống hằng ngày ngoài việc tương tác với những người các con tương tác? Các con có biết người đó sẽ nói gì với các con không? Khi các con đi trên phố và có một người khác, họ sẽ cau mày với các con hay mỉm cười với các con? Điều gì chính xác sẽ xảy ra với các con trong ngày? Điều gì các con đang đối mặt trong cuộc sống hằng ngày của mình? Lý duyên khởi. Các con thức dậy vào buổi sáng và ngày của các con là một sự tương tác với những người và tình huống khác mà không thể dự đoán được. Chúng không có kết quả cố định. Chúng đang ảnh hưởng đến các con, những gì các con làm ảnh hưởng đến chúng. Đây không phải là duyên khởi sao? Các con thấy đó, các con không thể chia nhỏ mọi thứ có thể xảy ra trong ngày của mình và dự đoán và kiểm soát nó. Do đó, biết mọi thứ trước khi các con bắt đầu ngày của mình thì có ích gì? Các con vẫn không thể dự đoán người này sẽ làm gì hay nói gì, người kia sẽ làm gì hay nói gì.

Minh triết đích thực, minh triết dựa trên Ki-tô là gì? Đó là các con có khả năng đáp ứng mọi tình huống, tùy thuộc vào cách tình huống đó diễn ra. Các con thấy đó, tự ngã sẽ nói, Quả vị Ki-tô có nghĩa là tôi có thể biết chính xác cách hành xử đúng đắn trong mọi tình huống. Hãy cho tôi một quy tắc, một quy tắc cố định nói rằng nếu tôi đối xử với mọi người tôi gặp như thế này, tôi sẽ đúng. Tôi sẽ làm điều phải lẽ. Nhưng các con thấy đó, mỗi người khác nhau, mỗi tình huống khác nhau. Làm sao các con có thể đối xử với tất cả họ giống nhau?

Minh triết của tâm Ki-tô là gì? Đó là các con trực giác hòa điệu với tâm Ki-tô trong mọi tình huống, và sử dụng nó gần như tự phát, và khi các con thực sự hòa điệu và có động lượng trong việc sử dụng tâm Ki-tô, nó là tự phát. Các con xử lý tình huống đó theo cách tốt nhất có thể. Điều này không có nghĩa là mọi tình huống sẽ diễn ra theo một tiêu chuẩn hoàn hảo nào đó. Nó chỉ có nghĩa là đây là một tình huống, có những khuôn khổ quy định nhất định. Chúng tôi có thể nói rằng trong mọi tình huống, có một tập hợp các yếu tố duyên khởi đang ảnh hưởng đến tình huống. Các con có thể không biết điều này bằng tâm vỏ ngoài. Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, các con không biết bằng tâm vỏ ngoài. Nhưng giả sử, chỉ để làm cho nó đơn giản, mặc dù nó hiếm khi đơn giản như vậy, giả sử có năm kết quả có thể xảy ra của một tình huống mà các con gặp một người ở nơi làm việc và các con phải tương tác với họ. Năm kết quả có thể xảy ra.

Giờ đây có thể có một kết quả không mong muốn lắm, nơi các con không thể giao tiếp, không thể đạt được một loại kết quả nào đó, thậm chí có thể kết thúc trong một cuộc xung đột. Có thể có những kết quả khác tốt hơn, và có thể có một kết quả là tốt nhất có thể trong tình huống đó. Trở nên hòa điệu với tâm Ki-tô trong tình huống đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là các con, mà không biết bằng tâm vỏ ngoài, các con chọn điều gì dẫn đến kết quả cao nhất có thể. Nhưng các con thấy đó, kết quả đó phụ thuộc vào tình huống. Giờ đây các con có thể, như nhiều người làm, như nhiều người mộ đạo và sùng đạo làm, các con có thể lùi lại và nói: “Ồ, nhưng phải có một kết quả cao nhất có thể, một kết quả luôn đúng đắn.” Nhưng các con thấy đó, các con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Chúng tôi đã nói với các con điều này trong vài năm qua. Và một trong những kết luận mà các con có thể rút ra dựa trên giáo lý này là, trên một hành tinh phi tự nhiên, không có kết quả cao nhất, không có kết quả lý tưởng, vậy, các con thấy gì?

Các con thấy rằng tự ngã có cái thôi thúc này để đền bù cho sự mất kết nối. Nó muốn thị hiện sự an toàn tối thượng. Ý tưởng rằng phải có một kết quả cao nhất có thể hấp dẫn tự ngã. Và nó đến từ đâu? Từ các sa nhân, tất nhiên. Nhưng đối với tâm Ki-tô, không có kết quả cao nhất có thể. Chỉ có một thang đo nhất định nơi có thể có một kết quả thấp hơn và cao hơn, và đấng Ki-tô luôn tìm cách giúp mọi người đạt đến mức cao nhất có thể, tùy theo tình huống, lý duyên khởi của tình huống.

Các con lấy một tình huống nơi các con đang làm việc, các con gặp một người mới mà các con chưa từng tương tác trước đây. Nếu các con trực giác hòa điệu với tâm Ki-tô, các con sẽ hành động theo cách dẫn đến kết quả cao nhất có thể trong tình huống đó. Giờ đây, điều đó có nghĩa là có thể vài ngày hoặc vài tuần sau các con lại tương tác với cùng một người đó và giờ đây các con đang bắt đầu ở một kết quả cao hơn, ở một điểm cao hơn so với tương tác đầu tiên của các con. Và nếu các con lại hòa điệu với tâm Ki-tô, các con lại có thể dẫn đến một kết quả cao hơn và các con có thể dần dần xây dựng một mối quan hệ tốt hơn và tốt hơn với người đó. Nếu các con không hòa điệu với kết quả cao hơn, thì nó đi theo chiều ngược lại và các con có thể dần dần xây dựng một vòng xoáy hướng hạ với người đó.

Nhưng các con thấy đó, tự ngã lại muốn phóng chiếu rằng Quả vị Ki-tô, minh triết, minh triết của đấng Ki-tô, luôn là biết kết quả lý tưởng nhưng tâm Ki-tô là thực tế. Tâm Ki-tô không tìm kiếm kết quả lý tưởng. Nó tìm cách làm thế nào để lấy một tình huống cụ thể với các khuôn khổ quy định duyên khởi của tình huống đó và nâng nó lên mức tiếp theo, và rồi từ đó nâng nó lên, và đây là điều trở thành Dòng sông sự Sống. Nhưng rất nhiều người, khi lần đầu nghe về Quả vị Ki-tô, tự ngã của họ đã nhuộm màu khái niệm Quả vị Ki-tô và nói: “À, đây là điều sẽ cho tôi minh triết tối thượng về cách làm cho mọi tình huống trở nên lý tưởng, cách tôi có thể luôn kiểm soát mọi tình huống, cách tôi có thể luôn có được những gì tôi muốn.” Nhưng các con thấy đó, đấng Ki-tô không muốn có được những gì nó muốn. Tại sao? Bởi vì đấng Ki-tô không cần gì từ thế giới vật chất.

Tâm Ki-tô, như chúng tôi đã nói, vượt quá thế giới vật chất. Nó không cần kết quả cụ thể nào. Tâm Ki-tô không nhìn vào một tình huống bên ngoài, nói rằng đây là kết quả lý tưởng và nếu năm người này chỉ làm những gì tôi bảo họ làm, chúng ta sẽ có kết quả vật lý lý tưởng. Tâm Ki-tô, theo một nghĩa nào đó các con có thể nói, không quan tâm đến kết quả vật lý. Tâm Ki-tô nhìn vào năm người đó trong tình huống duyên khởi đó và nó chỉ muốn nâng tất cả họ lên từ mức độ tâm thức hiện tại của họ lên bước tiếp theo. Đấng Ki-tô luôn tìm cách nâng đỡ con người, không phải điều kiện vật lý.

Điều này, tất nhiên, không phải là điều mà thế giới kinh doanh muốn nghe, bởi vì họ muốn nói, à, nhưng nếu chúng ta có tâm Ki-tô, chúng ta sẽ có thể tạo ra lợi nhuận cao nhất cho công ty của mình. Tâm Ki-tô có quan tâm đến lợi nhuận không? Tất nhiên là không. Nó quan tâm đến những người là một phần của công ty, bởi vì đối với tâm Ki-tô, tài sản tối thượng là con người, hay đúng hơn là tâm trí. Đấng Ki-tô luôn tìm cách nâng cao tâm trí của tất cả mọi người.

Ngược lại, tâm của phản Ki-tô, các sa nhân, chúng muốn gì? Chúng muốn kiểm soát tất cả mọi người. Và chắc chắn có một số đệ tử nghe về khái niệm Quả vị Ki-tô và họ nghĩ rằng trở thành đấng Ki-tô có nghĩa là các con đầu hàng bản thân, ý chí của mình cho tâm Ki-tô, và giờ đây các con giống như một con rối mà tâm Ki-tô bảo các con phải làm gì. Nhưng tâm Ki-tô không muốn bảo các con phải làm gì. Nó muốn các con đưa ra lựa chọn cao nhất trong một tình huống cụ thể sẽ đưa các con lên bước tiếp theo trong tâm thức.

Các sa nhân, ngược lại, chúng muốn kiểm soát tình huống của chúng, và chúng nghĩ rằng chúng chỉ có thể kiểm soát tình huống của chúng bằng cách kiểm soát tất cả những người khác. Một nhà độc tài muốn gì? Kiểm soát tất cả những người trong phạm vi ảnh hưởng của mình. Lý tưởng nhất là nó muốn kiểm soát tất cả mọi người trên trái đất nếu có thể, nhưng điều đó không thể thực hiện được vì kích thước và sự phức tạp của trái đất và vì lý duyên khởi.

Có lẽ đây là một chủ đề để một số các con suy ngẫm. Làm sao các con có thể kiểm soát bất cứ điều gì khi xét đến lý duyên khởi? Các con thấy rằng các sa nhân đang sử dụng tâm đường thẳng để giành quyền kiểm soát. Chúng muốn nói đây là các điều kiện ban đầu, đây là các định luật hướng dẫn sự diễn bày của vũ trụ. Nếu chúng ta biết tất cả điều này, chúng ta có thể dự đoán kết quả, và nếu chúng ta có thể dự đoán kết quả, chúng ta có thể kiểm soát nó. Nếu chúng ta có thể thay đổi một chút các điều kiện ban đầu, nếu chúng ta có thể thay đổi một số thông số và định luật, chúng ta có thể kiểm soát kết quả. Các sa nhân tin rằng nếu chúng có thể kiểm soát tâm trí của tất cả mọi người trên trái đất, chúng có thể kiểm soát kết quả trên trái đất. Nhưng các con thấy đó, lý duyên khởi khiến điều này trở nên bất khả thi. Các con thậm chí không thể kiểm soát tâm trí của tất cả mọi người trên trái đất, nhưng trái đất không phải là một đơn vị cô lập trôi nổi trong không gian.

Trái đất đang được kéo lên bởi tất cả các hành tinh khác đang trong một vòng xoáy hướng thượng trong bầu cõi chưa thăng thiên này, và toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên đang được kéo lên bởi các bầu cõi đã thăng thiên trước đó. Không có gì có thể kiểm soát các duyên khởi này. Các con có thể có ảo tưởng trong một thời gian trên một hành tinh phi tự nhiên rằng các con có thể giành quyền kiểm soát, nhưng đó là một ảo tưởng. Nó sẽ luôn là một ảo tưởng.

Có một điểm trên đường tu tâm linh cá nhân của các con nơi các con đang đối mặt với một lựa chọn. Đó là một lựa chọn quan trọng, không phải một lựa chọn quan trọng cuồng đại, nhưng đó là một lựa chọn quan trọng, nơi các con đã đi trên đường tu tâm linh một thời gian, các con đã có được một số động lượng, các con đã cầu thỉnh ánh sáng, các con đã bắt đầu giải quyết mọi thứ trong tâm lý của mình và giờ đây các con đã đến một điểm mà để vươn lên cao hơn trên đường tu tâm linh, các con phải lựa chọn giữa kiểm soát và buông bỏ.

Để minh họa, các con có thể nói rằng khi các con mới bắt đầu đường tu tâm linh, các con có ý tưởng rằng các con phải đi đến một nơi nào đó, các con phải đạt đến một nơi nào đó. Đây không phải là một ý tưởng vô lý. Tôi không nói nó sai, nhưng các con có ý tưởng rằng các con cần đến một nơi nào đó, vì vậy các con bắt đầu đi trên đường tu tâm linh và giờ đây các con đến một con sông, và các con có ý tưởng rằng các con phải vượt qua con sông đó và các con bắt đầu đi qua, nhưng nó ngày càng sâu hơn, và dòng chảy ngày càng mạnh hơn và nó trở nên ngày càng khó hơn, mặc dù các con có một cây gậy để tự hỗ trợ, nó trở nên ngày càng khó hơn để cưỡng lại dòng chảy. Dòng chảy là gì? À, tự ngã của các con nghĩ đó là sự đối kháng. À, có thể là các tà lực đang chống lại sự tiến bộ của các con, nhưng trên thực tế đó là đấng Ki-tô, đó là tâm Ki-tô. Đến một thời điểm mà các con phải quyết định, các con sẽ sử dụng tất cả sức mạnh của mình để cưỡng lại dòng chảy và cố gắng vượt qua con sông, hay các con sẽ chỉ buông bỏ và xuôi theo Dòng sông sự Sống?

Và có những người đã đi trên con đường này hàng thập kỷ, những người chưa nắm bắt được lựa chọn này, những người chưa sẵn lòng đưa ra lựa chọn, họ vẫn đang chống cự. Và nhiều người trong số này không thể hiểu tại sao tôi không đạt được kết quả? Tại sao tôi vẫn đau khổ? Tại sao tôi vẫn căng thẳng? Tại sao tôi ngày càng căng thẳng hơn khi tôi đi xa hơn trên con đường?

Nhưng lý do cho điều này là các con chưa đưa ra quyết định rằng các con sẽ không đi theo thôi thúc kiểm soát con đường của mình của tự ngã, thay vào đó các con sẽ buông bỏ cho tâm Ki-tô. Quay trở lại tình huống hằng ngày của các con nơi các con gặp gỡ mọi người, có một tình huống nhất định được định nghĩa, có một số lượng kết quả có thể xảy ra nhất định, cần gì để thị hiện kết quả tốt nhất có thể? À, nó phụ thuộc vào ý nghĩa của các con với kết quả tốt nhất có thể, bởi vì tự ngã của các con sẽ có một định nghĩa và đấng Ki-tô sẽ có một định nghĩa khác và nếu các con vẫn bị mắc kẹt trong ham muốn kiểm soát của tự ngã, các con sẽ tìm cách thị hiện kết quả đó. Nhưng nếu các con buông bỏ cho đấng Ki-tô, các con sẽ thị hiện kết quả cao nhất có thể trong tình huống đó. Nó có thể không phải là điều tự ngã của các con muốn.

Các con có thấy điều tôi đang cố gắng nói ở đây không? Buông bỏ là chìa khóa. Các con không thể tư duy để đạt đến tâm Ki-tô. Các con có thể buông bỏ để đạt đến nó. Các con có thể xuôi theo nó. Nhưng để buông bỏ, các con cần từ bỏ ham muốn kiểm soát, vì các con sẽ không biết bằng tâm vỏ ngoài nơi Dòng sông sự Sống sẽ đưa các con đến. Rất nhiều người trên đường tu tâm linh, không chỉ đệ tử chân sư thăng thiên, mà trong tất cả các truyền thống tâm linh, họ đã cố gắng kiểm soát con đường của mình. Họ đã định nghĩa một mục tiêu. Bất cứ điều gì mà truyền thống tâm linh của họ định nghĩa là mục tiêu, họ đã định nghĩa các phương tiện để đạt được nó và giờ đây họ đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài để cấu trúc cuộc sống của họ theo cách mà họ có thể tuân theo các bước tuyến tính đó để đạt được mục tiêu. Nhiều người đã làm điều này trong nhiều thập kỷ. Một số đã làm điều đó trong nhiều kiếp sống và họ không thể hiểu tại sao họ chưa đạt được mục tiêu, nhưng đó là vì họ chưa từ bỏ giấc mơ về con đường đường thẳng này.

Giờ đây các con có thể nói lại, như các chân sư khác đã nói: “Nhưng Lanto, ngài không mâu thuẫn với mọi thứ ngài đã nói với chúng con rằng có một đường tu tâm linh sao? Ngài có nói rằng đường tu tâm linh không phải là đường thẳng sao? Còn 144 tầng tâm thức thì sao? Còn khóa học tự điều ngự nơi chúng ta bắt đầu ở Tia sáng Thứ nhất ở tầng 48 và đi lên tầng 96 thì sao? Đó không phải là một tiến triển đường thẳng sao?” Vâng. Từ một góc độ nhất định, đó là một quá trình đường thẳng có các bước được xác định rõ ràng, nhưng chìa khóa để di chuyển từ tầng 48 lên tầng 49 là gì? Đó là nhìn thấy một ảo tưởng nhất định và buông bỏ ảo tưởng đó. Chìa khóa để di chuyển từ bước này sang bước tiếp theo là buông bỏ, không phải kiểm soát, không phải ép buộc. Các con không thể ép buộc mình từ tầng 48 lên tầng 49. Các con có thể ép buộc mình từ tầng 48 xuống tầng 47, xuống tầng 46, xuống tầng 45, xuống mức thấp nhất có thể trên trái đất. Hướng đó các con có thể ép buộc, nhưng các con không thể ép buộc mình vào thiên đường – trừ khi các con “trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không đời nào vào được vương quốc”.

Trẻ nhỏ là gì? Chúng chỉ xuôi theo cuộc sống. Chúng chỉ buông bỏ. Chúng không cố gắng kiểm soát cuộc sống của mình. Chúng chỉ vui chơi trong cuộc sống. Và đặc biệt là khi các con đạt đến tầng 96, các con không thể vượt quá tầng 96 mà không buông bỏ ham muốn kiểm soát đó, ham muốn kiểm soát của tự ngã. Và tất nhiên, các con không thể buông bỏ ham muốn kiểm soát của tự ngã trừ khi các con chữa lành chấn thương nhập đời, bởi vì chính chấn thương đó đã cho các con ham muốn kiểm soát để các con có thể tránh lặp lại chấn thương. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, các con đã nhận chấn thương khi các con mới đến trái đất.

Các con sẽ không bao giờ có thể bị sốc như lần đầu tiên đó nữa. Các con sẽ không bao giờ có thể trải nghiệm cùng chấn thương đó nữa. Tự ngã đang cố gắng ngăn chặn một điều gì đó thực sự không thể xảy ra nữa. Nhưng cho đến khi các con thấy điều này, thấy ảo tưởng đã khiến các con tạo ra cái ta nguyên thủy của mình, ngã gốc của mình, các con không thể buông bỏ nó. Các con không thể buông bỏ. Các con không thể tin rằng tâm Ki-tô thực sự sẽ đưa các con lên cao hơn.

Các con có thấy, các con có bắt đầu thấy rằng minh triết cao hơn của tâm Ki-tô là nắm bắt rằng tâm Ki-tô là tâm hợp nhất, tâm hợp nhất các con với nguồn gốc của mình, với Đấng Sáng tạo của mình, với cái ta cao của mình, với các chân sư thăng thiên trên các con không? Các con có bắt đầu thấy rằng đây không phải là ép buộc không? Các con thực sự không thể đoạt thiên đường bằng vũ lực, mặc dù Chúa Giê-su đã cảnh báo về những kẻ đang cố gắng làm điều đó. Điều ông ấy nói đến là các sa nhân tin rằng họ có thể ép buộc mình vào thiên đường. Không, các con có thể ép buộc mình ra khỏi hợp nhất. Các con không thể ép buộc mình quay trở lại hợp nhất.

Hãy nghĩ về một sợi dây cao su, hãy nghĩ về một sợi dây cao su dài mà các con đã buộc vào một cái cây. Giờ đây các con bắt đầu đi bộ, cầm sợi dây cao su đó, và các con đang kéo căng sợi dây cao su, và các con đang kéo nó ngày càng chặt hơn. Các con đang ép buộc mình ra xa khỏi cây sự sống. Cần gì để quay trở lại cây sự sống? Có cần các con tiếp tục dùng càng nhiều sức mạnh hơn nữa không? Không, các con chỉ cần buông ra, và sợi dây cao su sẽ kéo các con trở lại. À, đó là tâm Ki-tô. Các con buông bỏ sức mạnh, và tâm Ki-tô sẽ kéo các con trở lại. Đó là một sự buông bỏ vào hợp nhất.

Các con không thể ép buộc mình vào hợp nhất. Các con có thể ép buộc mình vào sự tách biệt, ngày càng sâu hơn các lớp tách biệt, nhưng các con không thể ép buộc, không cần phải ép buộc mình vào hợp nhất. Các con chỉ cần buông bỏ cho nó, và đó là minh triết cao nhất. Tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm tự ngã, tâm rắn gian manh tin rằng điều tôi đang nói ở đây – không, không, đây không phải là minh triết cao nhất – có một cách nào đó, có một công thức bí mật nào đó, có một hòn đá triết gia nào đó, có một quy trình nào đó, một nghi lễ nào đó trong một ngôi đền nào đó, để các con có thể ép buộc mình vào hợp nhất.

Nhưng nếu các con lùi lại, các con thấy rằng tự ngã không muốn hợp nhất. Tự ngã muốn kiểm soát như một sinh thể tách biệt. Làm sao một sinh thể tách biệt có thể đi vào hợp nhất? Khi tự ngã nghe về Quả vị Ki-tô, nó nghĩ: “À, đây là công thức bí mật mà tôi đã tìm kiếm. Khi tôi đạt được Quả vị Ki-tô, tôi sẽ có quyền kiểm soát.” Nhưng các con thấy đó, các con không thể đạt được Quả vị Ki-tô như một sinh thể tách biệt. Rất nhiều đệ tử chưa thấu rõ điểm này. Họ nghe về Quả vị Ki-tô, họ vẫn thấy mình là những sinh thể tách biệt, và họ nghĩ: “À, tôi có thể đi trên con đường Quả vị Ki-tô và tôi sẽ đạt đến mức tối thượng như một sinh thể tách biệt, thành đạt tâm linh tối thượng, và rồi tôi có thể thăng thiên như một sinh thể tách biệt.”

Đây là điều các con nghĩ dưới tầng 96, khi các con chưa vượt qua sự khai ngộ đó để nhận ra rằng, vâng, các con có thể vươn lên từ tầng 48 lên tầng 96 như một sinh thể tách biệt, tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng, nhưng các con không thể vượt quá tầng 96 khi các con thấy mình là một sinh thể tách biệt. Chỉ khi các con từ bỏ sự tách biệt đó, ham muốn kiểm soát đó, và sẵn lòng xuôi theo Dòng sông sự Sống, với lý duyên khởi.

Hãy nghĩ về hình ảnh các con đang cố gắng vượt sông và các con đang chiến đấu chống lại dòng chảy, và giờ đây các con thấy sự vô ích của điều này, và các con từ bỏ, các con buông bỏ, và giờ đây các con xuôi theo dòng sông. Bằng cách nào? Vẫn có thể có một phần tâm trí của các con nghĩ: “À, giờ tôi đã làm những gì anh chàng Lanto này nói, tôi đã buông bỏ. Mọi thứ từ đây sẽ trở nên lý tưởng và tuyệt vời và hoàn hảo.” Nhưng các con thấy đó, các con vẫn đang ở trên hành tinh trái đất, các con vẫn đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên, nơi lý duyên khởi ở mức độ thấp hơn nhiều so với một hành tinh tự nhiên. Ngay cả khi các con quyết định xuôi theo Dòng sông sự Sống, sẽ có một số thách thức, sẽ có những tình huống khó khăn, sẽ có những tình huống mà các con không đạt được kết quả như mong muốn.

Nhưng các con làm gì khi các con hòa điệu với tâm Ki-tô? À, điều đó không có nghĩa là các con không nỗ lực, nhưng khi một tình huống hóa ra không như các con mong muốn, các con không phàn nàn về nó, các con không than vãn về nó, các con không chống cự nó, các con không phân tích nó và nghĩ xem các con có thể làm gì khác. Các con chỉ xuôi theo kết quả. Các con chấp nhận đây là kết quả duy nhất có thể xảy ra trong tình huống đó, và thay vì cố gắng bám vào một cành cây nào đó đang thò ra từ bờ, các con lại xuôi theo, các con lại đưa ra quyết định, xuôi theo tình huống như nó vốn có, và rồi di chuyển đến một kết quả tốt hơn. Các con liên tục xuôi theo, các con đang tìm thấy sự cân bằng giữa việc nỗ lực, nhưng trong một số tình huống chấp nhận kết quả và buông bỏ theo dòng chảy. Các con không tìm cách ép buộc dòng chảy, và đây là chìa khóa, đây là chìa khóa để có được minh triết của tâm Ki-tô.

Tâm Ki-tô lại không tìm cách tạo ra một kết quả lý tưởng trong một tình huống, nó tìm cách giúp các con tiếp tục xuôi theo, bởi vì chính bằng cách xuôi theo mà các con đạt đến các tầng tâm thức cao hơn. Chúng tôi có thể nói rằng từ tầng 48 đến tầng 96 các con đang leo lên, và các con đang nỗ lực bởi vì để leo lên các con phải chống lại lực hấp dẫn từ tâm thức tập thể. Nhưng ở tầng 96, từ tầng 96 đến tầng 144, các con không còn leo lên nữa, các con đang xuôi theo.

Chỉ là trên trái đất, một con sông thường chảy xuống, nhưng Dòng sông sự Sống không ở trên trái đất, nó không thuộc về trái đất, nó chảy lên trên. Giờ đây theo một nghĩa nào đó, ngay cả từ tầng 48 đến tầng 96, như tôi đã nói, nó đòi hỏi một sự buông bỏ nhất định ở mỗi bước, vì vậy ngay cả ở đó các con có thể nói rằng các con vẫn đang xuôi theo dòng chảy lên trên, nhưng đối với tâm vỏ ngoài, nó thường có vẻ như các con phải nỗ lực để đi ngược lại lực kéo từ tâm thức tập thể, mặc dù có thể, ngay cả giữa tầng 48 và tầng 96, hòa điệu vào dòng chảy, như một số người chắc chắn đã làm.

Con yêu dấu của tôi, tôi đã ban cho các con những gì tôi muốn ban cho các con, và tôi, cũng như các chân sư khác, rất biết ơn cơ hội được nói điều này vào cõi vật lý, nơi thông qua sự tham gia của các con, nó đi vào tâm thức tập thể và hiệu ứng được các con nhân lên rất nhiều. Các con thấy ngay cả ở đây, tình huống hiện tại này nơi các con đang nghe lời truyền đọc này là gì? Các con chỉ đang nghe một cách thụ động sao? Không. Chúng ta cùng nhau, chúng ta hình thành một duyên khởi trong tình huống này trên hành tinh nói chung, và chúng ta cùng nhau đang tạo ra một xung lực sẽ ảnh hưởng đến duyên khởi của hành tinh, của tâm thức tập thể, do đó, nâng nó lên, tạo ra một lực kéo lên nó.

Liệu nó có ảnh hưởng đến toàn bộ tâm thức tập thể không? À, vâng, nó thực sự sẽ ảnh hưởng, nhưng nó sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn đến những cá nhân có khả năng hòa điệu, để như chúng tôi đã nói trước đây, do xung lực mà chúng tôi đã cùng nhau tạo ra, sẽ có những người đột nhiên thức tỉnh và nhìn thấy điều gì đó mà họ đã cố gắng nhìn thấy, điều mà họ chưa từng nhìn thấy trước đây, nhưng giờ đây họ sẽ nói: “Ồ, điều này quá rõ ràng, tại sao trước đây tôi không nhìn thấy nó? Giờ đây tôi có thể di chuyển theo một hướng khác.” Và đây là cách các con với tư cách là những người tâm linh có tác động lớn nhất.

Khó khăn tất nhiên là, các con có thể không bao giờ biết những người này, các con có thể không bao giờ gặp họ, nhưng rồi lại, đó có phải là minh triết cao hơn của tâm Ki-tô rằng các con không cần biết tác động mà các con đang có lên lý duyên khởi của hành tinh không? Các con chỉ biết mình đang có tác động và do đó, đáng giá khi ở đây, trở thành đấng Ki-tô trên trái đất trong cuộc sống hằng ngày của các con.

Với điều này, tôi niêm các con trong ngọn lửa minh triết phân biện mà tôi nắm giữ cho trái đất. Lanto TA LÀ.

6 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Portia

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Portia, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi LÀ Chân sư thăng thiên Portia. Điều tôi muốn nói ở đây là một hiện tượng mà chúng tôi thường quan sát thấy nơi những người tâm linh, không chỉ trong các phong trào chân sư thăng thiên, mà còn trong nhiều, nếu không muốn nói là tất cả, các phong trào tâm linh. Và hiện tượng đó là: ở đây các con, các con đang sống cuộc đời mình theo cách các con được nuôi dạy để sống, các con có thể có nhiều vấn đề, nhiều nan giải khác nhau mà các con đang đối phó, hoặc các con có thể sống một cuộc đời tương đối bình thường nhưng cảm thấy thiếu thốn điều gì đó. Sau đó, các con tìm thấy một giáo lý tâm linh, một đạo sư tâm linh, một phong trào tâm linh và các con quyết định tham gia. Các con quyết định nỗ lực thực sự nghiên cứu giáo lý, áp dụng các pháp tu, có lẽ các con thậm chí còn thay đổi cuộc đời mình, chuyển từ nơi các con đang sống để gia nhập một cộng đồng tâm linh như nhiều người trên thế giới đã làm. Sau khi các con cam kết với con đường tâm linh này, các con thường có cái mà chúng tôi gọi là “thời kỳ trăng mật” nơi mọi thứ đều tuyệt vời, các con thực sự yêu thích trọng tâm tâm linh mới trong cuộc đời mình, các con cảm thấy phấn khởi về cuộc sống, về tương lai của mình, các con cảm thấy mình luôn khám phá những điều mới mẻ, các con có hy vọng rằng một ngày nào đó các con sẽ đạt được bất kỳ mục tiêu nào được xác định trong phong trào tâm linh của mình và các con rất lạc quan về tương lai.

Nhưng rồi sau một thời gian, có thể mất vài tháng, vài năm, đối với một số người thì mất hàng thập kỷ, sẽ có một sự xoay chuyển dần dần hoặc thậm chí là một sự xoay chuyển đột ngột, nơi các con bắt đầu trở nên căng thẳng hơn. Giống như sự ngây thơ của thời kỳ đầu dần phai nhạt và giờ đây các con trở nên nghiêm túc hơn nhiều, và trong nhiều trường hợp, mọi người nghĩ rằng điều này thực sự chứng tỏ rằng họ đã cam kết cao hơn với con đường tâm linh, họ coi trọng nó hơn, họ nỗ lực hơn, họ có một cam kết mạnh mẽ hơn. Nhưng điều thực sự xảy ra là mọi người trở nên căng thẳng. Ban đầu, tâm linh của các con là một cảm giác vui tươi, một cảm giác về cơ hội, một sự mong đợi ngây thơ về tương lai. Và rồi sau một thời gian, các con trở nên căng thẳng, các con trở nên nghiêm túc, mọi thứ dường như quá nghiêm trọng, có những lỗi lầm có thể mắc phải, những bài kiểm tra có thể không vượt qua được, các con có thể không đáp ứng được những yêu cầu nhất định, dù chúng được xác định từ bên ngoài bởi đạo sư hoặc tổ chức hay được xác định từ bên trong. Nhưng các con trở nên căng thẳng, các con bắt đầu cảm thấy không hài lòng, có lẽ các con cảm thấy mình không đáp ứng được kỳ vọng, yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, có lẽ các con cảm thấy người khác không đáp ứng được, có lẽ các con cảm thấy mình không tiếp cận được những người mà các con nghĩ mình nên tiếp cận, các con cảm thấy mình không thu hút được những người mới vào nhóm hoặc phong trào của mình và đột nhiên có một cảm giác căng thẳng nhất định len lỏi vào.

Một lần nữa, như chúng tôi đã nói nhiều lần, chúng tôi không hề đổ lỗi cho các con về điều này. Chúng tôi không cố gắng nói rằng điều này không nên xảy ra. Nó xảy ra với đại đa số những người tâm linh và các đệ tử chân sư thăng thiên cũng không phải là ngoại lệ. Có lẽ trong một số trường hợp, họ còn tệ hơn vì họ nghĩ rằng họ đã tìm thấy giáo lý tâm linh cao nhất nên họ cần phải sống theo tiêu chuẩn cao nhất có thể. Điều tôi muốn đề cập ở đây là tại sao điều này lại xảy ra. Ở một khía cạnh nào đó, chúng tôi đã đề cập đến nó rồi, bởi vì như chúng tôi đã giải thích, khi các con lần đầu tiên tìm thấy một giáo lý hoặc phong trào tâm linh, cái nhìn về cuộc sống của các con bị pha màu bởi tự ngã, bởi những ngã tiềm thức. Điều xảy ra là lúc đầu có thể có rất nhiều điều mới mẻ đang xảy ra với các con, rất nhiều giáo lý mới mà các con gặp phải, đến nỗi trong một thời gian ngắn, tự ngã, những ngã tiềm thức mất đi sự kiểm soát đối với tâm trí các con vì các con quá phấn khích và các con đang trôi theo sự phấn khích này, khám phá một điều gì đó mới mẻ. Nó giống như đang yêu một người mà mọi thứ đều mới mẻ và mọi thứ đều thú vị và các con lạc quan về tương lai.

Nhưng rồi sau một thời gian, dần dần các ngã lại bắt đầu tìm cách để lại gây ảnh hưởng đến các con và chúng bắt đầu tinh vi pha màu cách các con tiếp cận con đường tâm linh. Các ngã làm gì? Chà, chúng chỉ làm điều duy nhất mà chúng có thể làm và như Mẹ Mary đã giải thích, tự ngã đang trong cuộc tìm kiếm bất khả thi này để đền bù cho sự mất kết nối với cái ta cao của các con. Có thể xảy ra là dần dần các con tiếp nhận cuộc tìm kiếm bất khả thi này của tự ngã, các con chuyển nó sang giáo lý tâm linh, đạo sư, con đường của các con và giờ đây các con nghĩ rằng phong trào, giáo lý đã định nghĩa con đường này, những yêu cầu này mà các con phải đáp ứng và các con không chắc rằng mình có thể. Và thực ra, đây là trực giác của các con, không phải nỗi sợ hãi của các con, à, nó cũng có thể là nỗi sợ hãi của các con, nhưng thường thì đó là trực giác của các con đang cố gắng nói với các con rằng các con không thể đáp ứng những yêu cầu bên ngoài này. Tại sao? Bởi vì tự ngã cố gắng làm gì? Nó cố gắng lấy một thứ gì đó trong thế giới này và cố gắng sử dụng nó để đền bù cho sự mất kết nối với Hiện diện TA LÀ của các con và vì không có gì trong thế giới này có thể thay thế sự kết nối đó, trực giác của các con đang cố gắng nói với các con rằng việc các con cam kết tuân theo tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn và yêu cầu bên ngoài thực sự sẽ không đưa các con đến nơi các con hy vọng sẽ đến.

Khi các con cố gắng đáp ứng tất cả những yêu cầu bên ngoài này để tạo ra một cảm giác bên trong mình, cụ thể là cảm giác được kết nối với Hiện diện TA LÀ của các con, thì các con sẽ trải nghiệm, thường là sau một thời gian, trong một vài trường hợp là sau một thời gian dài, rằng các con vẫn chưa đến đích. Các con không đáp ứng được yêu cầu, các con không đạt được kết quả mà các con nghĩ mình sẽ đạt được và điều này sau đó gây ra căng thẳng, gây ra áp lực và nhiều người trong các con nghĩ rằng, nhưng rồi tôi phải nỗ lực hơn nữa. Tôi phải đọc chú nhiều hơn, tôi phải dậy sớm hơn và đọc chú, tôi phải làm đúng tất cả những điều bên ngoài. Và các con tự đặt mình vào cái máy chạy bộ này, nơi mà như các con biết trên máy chạy bộ, các con có thể chạy nhanh hơn và nhanh hơn, nhưng các con vẫn không đi đến đâu cả.

Chúng tôi mong muốn điều gì ở các đệ tử chân sư thăng thiên của chúng tôi trong đợt truyền giáo này? Chúng tôi mong muốn thấy rằng nếu các con đã rơi vào trạng thái căng thẳng, cảm thấy không hài lòng, cảm thấy như mình chưa đến đích, chưa đạt được những kết quả mà các con nên đạt được, chúng tôi mong muốn thấy các con thoát ra khỏi trạng thái đó, để một lần nữa lấy lại cảm giác nội tại rằng con đường này thật thú vị, rằng các con không ngừng tiến về phía trước, rằng các con không ngừng thực hiện những bước đi khiến các con cảm thấy tốt hơn về bản thân và con đường của mình. Nhưng cách duy nhất để làm được điều này là gì? Đó là bằng cách giải quyết những ngã tiềm thức đang pha màu cái nhìn của các con về con đường. Nếu các con thấy mình ở vị trí này, nơi các con không còn niềm vui như trước đây, thì hãy sẵn lòng nhìn vào tâm tiềm thức của mình. Nó không khó như các con nghĩ đâu, các con chỉ cần sẵn lòng nhìn nhận: “À, nhưng tôi đã mất đi một phần sự ngây thơ đó, tôi thực sự cảm thấy căng thẳng, nhưng tại sao? Tôi thực sự cảm thấy gì? Những suy nghĩ đằng sau nó là gì? Điều gì khiến tôi rơi vào thế kẹt, vào tình trạng lưỡng nan này, nơi tôi bị kéo theo nhiều hướng khác nhau, và do đó tôi không thể nào có được sự an bình?”

Các con có thể gỡ mối này, sử dụng các dụng cụ, sử dụng các giáo lý mà chúng tôi đã ban truyền về các ngã tiềm thức, và đến được điểm mà các con có thể thấy cơ chế đó, về việc làm thế nào, bởi vì chúng dựa trên nhị nguyên, chúng trước hết không thể đưa các con đến mục tiêu, nhưng chúng cũng đang kéo các con theo những hướng đối lập, và đây là điều gây ra căng thẳng. Và khi các con thấy hai ngã đang kéo các con theo những hướng đối lập, thì các con có thể tìm kiếm ảo tưởng trong mỗi ngã, và nhận ra rằng nó thực sự chỉ là một ảo tưởng, rằng nó không có thật, rằng đó là tự ngã đang cố gắng định nghĩa con đường đến quả vị Ki-tô, nhưng điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Và làm thế nào các con đạt được nhận thức đó? Chà, bằng cách vươn tới tâm Ki-tô, cái đang ở ngay bên cạnh các con. Nó không ở mãi tận trên cao đâu, tâm Ki-tô không hề xa rời các con, tâm Ki-tô luôn ở trong các con, “vương quốc Thượng đế ở trong các con”, và do đó nó không đến bằng việc tuân thủ các quy tắc bên ngoài, nó đến bằng việc quán sát các ngã bên trong.

Và tâm Ki-tô, các con thấy đấy, và đây là một điểm tinh vi có thể đòi hỏi một số suy ngẫm, bởi vì có một xu hướng, rõ rệt hơn trong các đợt truyền giáo trước đây, nhưng ngay cả trong đợt này, các đệ tử có thể nhìn thấy tâm Ki-tô trong ánh sáng đen trắng này, của tư duy đen trắng của tự ngã. Như chúng tôi đã nói, nếu các con là Ki-tô, các con luôn đúng, các con có chân lý tối thượng sẽ giải quyết mọi xung đột. Nhưng các con thấy đấy, trong tâm Ki-tô, có bất kỳ căng thẳng nào không? Tâm Ki-tô có bao giờ bị căng thẳng không? Nhưng tại sao nó lại căng thẳng? Nó đang trải nghiệm sự hợp nhất với Đấng Sáng tạo, với nguồn cội, tại sao nó lại cảm thấy căng thẳng? Tâm Ki-tô có cần bất cứ điều gì trên trái đất không? Không. Tâm Ki-tô có thể cần gì từ trái đất? Nó có thể cần gì từ hình tướng? Nó có thể cần gì từ vật chất? Tâm Ki-tô được kết nối với nguồn gốc của mọi sự sống, chính Đấng Sáng tạo. Tâm Ki-tô không bao giờ có thể cảm thấy thiếu thốn, không bao giờ có thể cảm thấy căng thẳng. Do đó, khi các con bắt đầu trụ vững trong tâm Ki-tô, các con có thể dần dần khắc phục những ngã gây ra cho các con cảm giác căng thẳng về con đường tâm linh.

Các con có thể nhận ra rằng những ngã này, chúng muốn các con cảm thấy căng thẳng vì hai lý do. Trước hết, khi các con căng thẳng, khi các con bị phân chia trong chính mình, các con đang phú cho năng lượng một đặc tính rung động dựa trên nỗi sợ hãi, và điều đó nuôi dưỡng các ngã. Chúng chỉ có thể hấp thụ ánh sáng dưới một rung động nhất định, và vì vậy chúng cần các con phải căng thẳng để nuôi dưỡng chúng. Nhưng điều khác là, khi các con căng thẳng, các con đang làm gì? Các con đang tập trung vào những thứ bên ngoài. Ồ, có con đường này, tôi phải đi theo nó, có tất cả những yêu cầu này, có những người khác, có một đạo sư, có những chân sư thăng thiên ở trên đó đang đưa ra yêu cầu cho tôi, họ đang nhìn xuống tôi từng giây, xem tôi có vượt qua các bài kiểm tra của mình không, tôi phải vượt qua các bài kiểm tra của mình, nhưng tôi không biết các bài kiểm tra là gì, vậy làm sao tôi có thể vượt qua chúng? Nhưng ít nhất nếu tôi căng thẳng về điều đó, có vẻ như tôi là một học trò nghiêm túc, nghiêm túc hơn những học trò khác không căng thẳng.

Các con thấy hiệu quả của điều này là gì không? Các con đang nhìn ra bên ngoài, các con nghĩ rằng khi các con tìm thấy điều gì đó ở bên ngoài, khi các con đạt được điều gì đó ở bên ngoài, thì các con sẽ cảm thấy an bình, thì các con sẽ cảm thấy viên mãn. Điều đó sẽ xảy ra như thế nào đây? Như chúng tôi đã nói, sự viên mãn tối hậu là trải nghiệm sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của các con, với tâm Ki-tô, với các chân sư thăng thiên. Chừng nào các con còn tìm kiếm bên ngoài chính mình, làm sao các con có thể khám phá Vương quốc Thượng đế ở trong các con? Làm sao các con có thể nói với Ki-tô: “Điều đó can hệ gì đến con, con hãy theo ta?” Khi các con thấy điều này, khi các con thấy rằng các ngã chỉ đang cố gắng một cách điên cuồng để kéo sự chú ý của các con ra khỏi điều duy nhất có thể cho các con những gì các con cần, thì các con có thể bắt đầu tách biệt chính mình, tách biệt Cái Ta Biết ra khỏi chúng. Và các con có thể tự hỏi một câu hỏi đơn giản: “Sự căng thẳng của tôi nằm ở đâu? Nó có nằm trong Cái Ta Biết không?” Chà, một số người nghĩ vậy, bởi vì họ tự đồng hóa quá nhiều với các ngã bên ngoài, đến nỗi họ nghĩ rằng tôi, Cái Ta Biết, tôi là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt như vậy, và do đó, tôi phải đáp ứng những yêu cầu bên ngoài này.

Nhưng các con thấy đấy, Cái Ta Biết, chúng tôi đã nói bao nhiêu lần rồi? Cái Ta Biết có phải là cơ thể vật lý của các con không? Để giúp các con thức tỉnh, hãy trả lời! Cái Ta Biết có phải là cơ thể vật lý của các con không? Không. Cái Ta Biết có phải là thể cảm xúc của các con không? Không. Cái Ta Biết có phải là thể lý trí của các con không? Không. Cái Ta Biết có phải là thể bản sắc của các con không? Không. Cái Ta Biết còn hơn thế nữa. Nếu Cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, nhận biết trung hòa, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì trên trái đất, tại sao Cái Ta Biết lại căng thẳng? Các con thấy đấy, Cái Ta Biết không thể căng thẳng. Vậy tại sao các con lại cảm thấy căng thẳng? Bởi vì Cái Ta Biết đang trải nghiệm căng thẳng thông qua một ngã tách biệt. Ngã đó căng thẳng vì ngã đó dựa trên nhị nguyên, và chúng tôi đã nói gì? Có một sự căng thẳng hiện sinh trong tâm thức nhị nguyên. Không ai căng thẳng hơn những sa nhân. Khi các con nhận ra điều này, các con có thể thấy rằng các con không hề căng thẳng. Các con không thể căng thẳng. Các con chỉ có thể trải nghiệm nó và khi các con thấy rằng căng thẳng chỉ đơn giản là một trải nghiệm, các con có thể tự hỏi: “Tại sao tôi lại muốn có trải nghiệm đó?”

Rất có thể các con chưa bao giờ nghĩ về điều đó theo cách này, và tâm vỏ ngoài của các con sẽ nói, các ngã sẽ nói: “Ồ, nhưng không phải con đã chọn trải nghiệm này. Đó chỉ là cuộc sống trên trái đất mà thôi. Hãy nhìn tất cả những điều kiện ngoại cảnh này, hãy nhìn tất cả những vấn đề này, làm sao con có thể hiện thân trên trái đất mà không căng thẳng được?” Và thật dễ dàng tin rằng cuộc sống trên trái đất, trên một hành tinh phi tự nhiên quá khó khăn, rằng trái đất quá dày đặc, rằng có quá nhiều xung đột, đến nỗi các con chỉ có thể căng thẳng. Và chúng tôi nhận ra rằng tất cả chúng tôi đều cảm thấy một sự căng thẳng nhất định khi ở trên một hành tinh phi tự nhiên, nhưng dù vậy các con không cần phải căng thẳng. Cái Ta Biết không cần phải căng thẳng khi các con nhận ra rằng không có gì trên trái đất có thể chạm vào các con khi các con tiếp xúc với nhận biết thuần khiết, nhận biết trung hòa. Nếu các con trung hòa, điều gì có thể làm các con căng thẳng? Điều gì có thể kéo các con theo những hướng đối lập? Căng thẳng là gì? Các con luôn bị kéo theo những hướng đối lập, ít nhất là hai hướng khác nhau, thậm chí có thể nhiều hơn nếu các con có nhiều ngã đang kéo các con. Do đó, các con có thể bắt đầu tự hỏi mình những câu hỏi này: “Tâm Ki-tô có bao giờ căng thẳng không? Hiện diện TA LÀ của tôi có bao giờ căng thẳng không? Tại sao Cái Ta Biết lại căng thẳng?” Và các con có thể nhận ra rằng không hề.

Giờ đây, có thể, đối với một số người trong các con, có một ngã vỏ ngoài sẽ nói: “Nhưng các chân sư thăng thiên có căng thẳng không? Họ không muốn trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên sao? Họ không muốn sự thị hiện của Thời Hoàng kim của Saint Germain sao? Họ không muốn tôi thị hiện quả vị Ki-tô, đọc tất cả những bài chú này, giúp nâng cao tâm thức tập thể sao?” Và chúng tôi đã thấy trong các đợt truyền giáo trước đây làm thế nào các đệ tử chân sư thăng thiên có thể trở nên quá tập trung vào việc thay đổi thế giới, đến nỗi họ thực sự nghĩ rằng sự căng thẳng của họ đến từ chúng tôi, rằng chúng tôi là những người đã đặt sự căng thẳng này lên họ, muốn họ làm tất cả những điều này, muốn họ làm nhiều hơn những gì có thể làm được. Đây không phải là một thực tế.

Hãy tự hỏi mình, tại sao một chân sư thăng thiên lại căng thẳng? Các con đã thăng thiên bằng cách bỏ lại tất cả những dính mắc vào bất cứ thứ gì trên trái đất. Điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là chúng tôi không trong tâm trí mình nhìn vào trái đất và nghĩ rằng có một thiếu sót lớn, có một khoảng cách lớn. Hãy nhìn vào điều kiện, chúng như thế nào. Hãy nhìn vào Thời Hoàng kim của Saint Germain sẽ như thế nào. Hãy nhìn vào sự khác biệt lớn và hãy nhìn vào những người này, đặc biệt là các đệ tử của chúng tôi, những người sẽ không đọc tất cả những bài chú mà chúng tôi muốn họ đọc để chúng tôi có thể thu hẹp khoảng cách. Các con nghĩ đây là cách chúng tôi nghĩ, nhưng đây không phải là cách chúng tôi nghĩ, bởi vì nếu chúng tôi nghĩ như vậy, chúng tôi sẽ không thăng thiên, chúng tôi sẽ hiện thân như các con. Các con thấy đấy, vâng, tất nhiên chúng tôi muốn trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên. Vâng, tất nhiên chúng tôi muốn Thời Hoàng kim của Saint Germain được thị hiện. Nhưng chúng tôi không muốn điều này từ cảm giác thiếu thốn, mà từ cảm giác trôi chảy với Dòng sông sự Sống và có một sự khác biệt lớn, và sự khác biệt đó như chúng tôi đã nói, nằm ở rung động.

Đọc rung động, như Chân sư MORE đã nói, khi các con đến từ cách tiếp cận thiếu thốn này, có một rung động cụ thể. Nó dựa trên nỗi sợ hãi, nó gây ra căng thẳng, nó khiến các con cảm thấy ám ảnh cưỡng chế, ví dụ về việc đọc chú hoặc nghiên cứu giáo lý và các con có thể học cách đọc rung động đó. Và các con có thể nhận ra rằng loại rung động này không đến từ tâm Ki-tô. Và rồi khi các con hòa điệu với tâm Ki-tô, sau khi làm việc trên các ngã, các con sẽ trải nghiệm sự khác biệt về rung động giữa tâm Ki-tô và rung động thấp hơn này và rồi các con có thể trải nghiệm rung động của một chân sư thăng thiên, như Chân sư MORE đã nói về tình yêu vô điều kiện, bởi vì tất cả chúng ta đều có tình yêu vô điều kiện. Và tôi có thể đảm bảo với các con rằng tình yêu vô điều kiện là vô điều kiện. Tình yêu vô điều kiện của Chân sư MORE không vô điều kiện hơn tình yêu vô điều kiện của tôi. Bởi vì tất nhiên không thể có các cấp độ, không thể có sự so sánh trong cái vô điều kiện. Nhưng nó còn hơn cả tình yêu mà các con biết trên trái đất và khi các con trải nghiệm điều đó, các con có thể bắt đầu giải thoát mình khỏi cảm giác căng thẳng này.

Giờ đây, có những người sẽ nói, thậm chí một số người từ các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, nhưng làm thế nào chúng ta sẽ hội đủ tư cách thăng thiên nếu chúng ta không cố gắng và cố gắng hết sức? Nếu có một khoảng cách giữa nơi tôi đang ở bây giờ và nơi tôi cần phải ở để hội đủ tư cách thăng thiên của mình, lẽ nào không hợp lý khi tôi phải chạy nhanh hơn để tôi có thể thu hẹp khoảng cách trong thời gian còn lại tôi có trong kiếp đầu thai? Không, điều đó không hợp lý. Bởi vì nếu các con đang cố gắng, nếu các con đang chạy nhanh, nó dựa trên sự pha màu của tự ngã và các ngã vỏ ngoài nghĩ rằng các con phải đạt được điều gì đó trong thế giới này. Thì điều đó sẽ không đưa các con đến gần hơn điểm thăng thiên của các con. Đây là điều đã được tin tưởng trong các đợt truyền giáo trước đây, bởi vì họ không có giáo lý mà chúng tôi đã ban truyền trong đợt truyền giáo này về tâm lý học, về những khía cạnh sâu sắc hơn của tâm lý học. Chỉ thông qua việc giải quyết phần tâm lý chưa chữa lành còn lại mà các con mới thu hẹp khoảng cách và hội đủ tư cách thăng thiên, bằng cách khắc phục những ngã có dính mắc vào những điều của thế giới này, để lũ quỷ Mara, “ông hoàng của thế gian”, nắm được điều gì đó trong các con.

Các con chạy càng nhanh, các con càng tìm cách đáp ứng những yêu cầu bên ngoài, các con càng tìm kiếm bên ngoài bản thân, các con càng có ít thời gian và sự chú ý để giải quyết những ngã đó. Chúng tôi đã thấy những đệ tử chân sư thăng thiên, trong hàng thập kỷ, đã chuyên cần, dậy lúc năm giờ sáng, đọc chú trong vài giờ, sau đó làm việc của họ, sau đó lại đọc chú vào buổi tối, tuân thủ một chế độ rất nghiêm ngặt. Nhưng hầu hết họ đạt được rất ít tiến bộ trên con đường thăng thiên, ngay cả trong hàng thập kỷ tận hiến bên ngoài này. Tại sao chúng tôi lại cho phép điều này? Chúng tôi có thể làm gì khác khi mọi người không mở lòng lắng nghe chúng tôi từ bên trong? Bởi vì họ đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài rằng nếu họ đi theo con đường vỏ ngoài mà họ đã định nghĩa, hoặc mà họ cảm thấy rằng các chân sư hay đạo sư hay tổ chức đã định nghĩa cho họ, thì họ được đảm bảo sẽ hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, việc hội đủ tư cách thăng thiên không phải là vấn đề đáp ứng các yêu cầu bên ngoài. Đó là vấn đề đứng ở cánh cổng dẫn đến cõi thăng thiên, nhìn lại trái đất, cảm thấy hoàn toàn trung hòa. Không có gì trên trái đất kéo các con, và do đó, các con có thể nhìn vào trái đất, nhìn vào lũ quỷ Mara, nhìn vào “ông hoàng của thế gian”, chúng không có sức kéo nào đối với các con, và các con có thể quay lại, nói theo nghĩa bóng, bước qua cánh cổng, vào cõi thăng thiên. Hoàn toàn tự nguyện.

Những đệ tử chân sư thăng thiên mà tôi đang nói đến, về cơ bản họ tin mà không nhận biết điều này, rằng sự thăng thiên không phải là một tiến trình tự nguyện dẫn đến việc các con đưa ra lựa chọn tối hậu để rời bỏ trái đất. Họ nghĩ đó là một điều gì đó theo một nghĩa nào đó đã bị áp đặt lên họ, hoặc họ có thể tự áp đặt lên mình. Một số thậm chí còn nghĩ rằng chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đang ép buộc họ, bởi vì cần thiết phải có một số người thăng thiên để trái đất có thể được nâng lên. Nhưng các con thấy đấy, trên trái đất, trong tâm thức nhị nguyên, nhiều thứ có thể bị ép buộc. Trong tâm thức Ki-tô, có thể có lực nào? Tâm thức Ki-tô được viên mãn trong sự hợp nhất với Đấng Sáng tạo. Điều gì có thể ép buộc nó? Điều kiện nào trên trái đất có thể ép buộc tâm Ki-tô? Sự thăng thiên là một lựa chọn hoàn toàn tự nguyện. Nó phải là một lựa chọn tự do, bởi vì không có gì kéo các con phản ứng với bất cứ điều gì trên trái đất, và vì vậy các con về cơ bản trôi chảy vào trạng thái thăng thiên. Nó không phải là một quyết định to lớn, kịch tính, cuồng đại. Nó chỉ là một hệ quả tự nhiên của việc các con đã đạt đến tầng tâm thức thứ 144. Các con đã chọn bỏ lại, để cho chết rất nhiều những ngã tách biệt này, “để người chết đi chôn người chết”, để nói: “Điều đó can hệ gì đến con, con hãy theo ta!” Và do đó, đó chỉ là một lựa chọn nữa nơi các con trôi chảy vào cõi thăng thiên.

Một điều nữa mà tôi muốn thảo luận ở đây. Đó là một điều tinh vi. Nó có thể gây bối rối. Nhưng đó là một phần của điều mà chúng tôi muốn đạt được với hội nghị này, để làm bối rối tâm vỏ ngoài. Ki-tô là gì? Chà, các con có thể nói, từ góc nhìn của tôi với tư cách là nữ thần cơ hội, rằng Ki-tô là cơ hội. Ki-tô đang cho mọi người một cơ hội để chọn lựa giữa điều thuộc về Ki-tô và điều thuộc về thế giới này. Và cho đến khi họ gặp Ki-tô, họ không có cơ hội đó, bởi vì trên một hành tinh phi tự nhiên, hầu hết mọi người chưa bao giờ gặp Ki-tô, và do đó, họ hoàn toàn bị bao trùm trong sương mù, maya, ảo tưởng của nhị nguyên. Nhưng một lần nữa, Ki-tô có bất kỳ mong muốn nào để ép buộc mọi người chọn đến sự hợp nhất không? Không. Tại sao nó lại vậy? Vậy tại sao các con lại vậy? Điều phổ biến trong các phong trào tâm linh, trong các nhóm tâm linh, trong các cộng đồng tâm linh, là các con có mong muốn phát triển này. Nhưng các con có thể học cách đọc rung động đằng sau điều này và xem, có phải vì các con có một ngã tiềm thức nào đó có tham vọng muốn thấy một sự phát triển nhất định của cộng đồng hoặc phong trào của các con, hoặc muốn thấy một kết quả vật lý nhất định, mà nó sẽ cảm thấy được xác nhận nếu ngày càng có nhiều người tham gia. Hoặc các con có mong muốn có được chân lý Ki-tô tối thượng này có thể thuyết phục mọi người, đánh thức mọi người, và do đó khi các con không thấy kết quả nơi mọi người liên tục được đánh thức, các con cảm thấy như mình phải đang làm điều gì đó sai trái.

Nhưng các con thấy đấy, tất cả những gì các con có thể làm là cho mọi người một cơ hội, các con không thể chọn lựa thay họ. Giê-su đã kể ẩn dụ về người gieo hạt, một số hạt rơi vào đất cằn cỗi và không nảy mầm, một số khác bắt đầu mọc nhưng cỏ dại lấn át chúng và một số rơi vào đất màu mỡ và cho kết quả. Các con đang làm gì khi các con bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình? Các con đang cho mọi người một cơ hội. Các con đang gieo hạt. Và rồi các con cần phải để hạt giống được tự do và để mọi người được tự do về việc họ làm gì với hạt giống. Họ có tiếp nhận hạt giống không? Họ có nuôi dưỡng nó trong trái tim mình và để nó nảy mầm và phát triển không? Hay trái tim họ sẽ là đất cằn cỗi nơi hạt giống Ki-tô không thể phát triển? Chà, đó không phải là lựa chọn của các con, vậy tại sao các con lại căng thẳng về phản ứng của mọi người? Một lần nữa, khi các con hòa điệu với Ki-tô, các con thấy rằng Ki-tô chỉ muốn được biểu đạt. Nó không muốn được biểu đạt để tạo ra một kết quả vật lý cụ thể, một thành quả cụ thể. Các con có thể quá tập trung vào tâm vỏ ngoài của mình đến nỗi, à, chúng ta có nhóm tâm linh này và chúng ta muốn phát triển nó để nó ngày càng lớn hơn, nhưng giờ đây chúng ta không có sự phát triển. Chúng ta đang làm gì sai? Chúng ta có thể làm gì khác đi? Và các con có thể căng thẳng về điều này. Như chúng tôi đã thấy nhiều người, không chỉ trong các phong trào chân sư thăng thiên, mà còn nhiều phong trào tâm linh khác đều trở nên căng thẳng.

Nhưng các con thấy đấy, Ki-tô không nghĩ theo cách này. Ki-tô không vươn tới một kết quả bên ngoài cụ thể. Nó chỉ mong muốn được biểu đạt và bất cứ điều gì các con đã làm, bất cứ điều gì các con đang làm trong nhóm tâm linh của mình, đó là biểu đạt ánh sáng Ki-tô. Đây là một trong những bí ẩn trên con đường tâm linh đã khiến nhiều người thất vọng, nhưng các con chỉ thất vọng khi các con tập trung vào một kết quả vật lý bên ngoài cụ thể. Nhưng các con thấy đấy, các con đã làm gì ở Hàn Quốc trong nhóm của mình? Các con đã biểu đạt ánh sáng Ki-tô, và các con có thể nói: “Chúng ta có thấy một kết quả cụ thể nào không? Bắc và Nam Hàn đã thống nhất chưa? Họ đã tiến gần hơn đến thống nhất chưa?” Chà, chúng tôi không thể thấy điều đó trong cõi vật lý. Nhóm của chúng ta đã phát triển nhiều như chúng ta mong muốn chưa? Nhưng các con thấy đấy, tâm Ki-tô không nhìn vào những kết quả cụ thể này. Tâm Ki-tô nhìn vào việc các con đã gia tăng ánh sáng trong thể bản sắc, thể lý trí, thể cảm xúc và cơ thể vật lý của Hàn Quốc và người dân Hàn Quốc chưa? Câu trả lời là, vâng, các con đã làm rồi và sự gia tăng ánh sáng đó đã tạo ra kết quả và nó sẽ tiếp tục tạo ra nhiều kết quả hơn nữa. Có thể đó không phải là những kết quả cụ thể mà các con đang hy vọng, ít nhất là chưa. Nhưng đừng để điều đó làm các con nản lòng.

Thay vào đó, hãy sẵn lòng nhìn vào: “Mong đợi của tôi về những kết quả cụ thể đến từ đâu? Có phải nó bị ảnh hưởng bởi những ngã tiềm thức, bởi mong muốn của tự ngã muốn đạt được điều gì đó trong thế giới này không? Và đó có lẽ là lý do tại sao tôi cảm thấy căng thẳng thay vì trôi chảy trong niềm vui khi nhận ra rằng chúng ta đã là cánh cửa mở cho sự biểu đạt của ánh sáng Ki-tô?” Nó đã tạo ra kết quả, và nó sẽ tạo ra nhiều hơn nữa, dù chúng ta có thấy điều đó trong cõi vật lý hay không. Nếu các con hòa điệu với ánh sáng Ki-tô, thì những kết quả vật lý không quan trọng. Các con có nắm được điều tôi đang nói ở đây không? Tự ngã nghĩ, các ngã tiềm thức nghĩ: “À, tôi muốn cảm thấy viên mãn, tôi muốn cảm thấy mình đã làm được điều gì đó, tôi muốn cảm thấy mình đã tạo ra sự khác biệt và khi tôi thấy những kết quả vật lý bên ngoài này, thì tôi sẽ cảm thấy như vậy.” Nhưng điều tôi đang nói với các con là, chìa khóa để cảm thấy viên mãn là hòa điệu với ánh sáng Ki-tô, ánh sáng tìm thấy sự viên mãn trong việc được biểu đạt trong thế giới này, chứ không phải trong việc tạo ra những kết quả bên ngoài cụ thể. Khi các con hòa điệu với ánh sáng Ki-tô, cảm nhận nó trôi chảy qua các con, thì các con có thể khắc phục sự căng thẳng và các con có thể cảm thấy viên mãn khi là cánh cửa mở đó.

Các con có thể nhìn người sứ giả này, người đã bắt đầu vào năm 2002. Bao nhiêu người đã tìm thấy giáo lý? Người ta đến rồi đi. Nhưng ông ấy có nản lòng không? Không, bởi vì ông ấy cảm thấy rằng sự biểu đạt của giáo lý, sự biểu đạt của ánh sáng, tự nó mang lại phần thưởng riêng. Đó là sự viên mãn từ bên trong. Và hãy nghĩ về điều đó. Các con đang tìm kiếm điều gì? Sự viên mãn. Điều đó là gì? Một cảm giác nội tại, một cảm nhận nội tại, một trải nghiệm nội tại. Một trải nghiệm nội tại có thể đến từ đâu, ngoại trừ từ bên trong? Và điều gì ở bên trong? Vương quốc Thượng đế. Và Vương quốc Thượng đế là gì? Tâm Ki-tô chỉ muốn trôi chảy và được biểu đạt. Các con đã không làm điều đó sao? Vâng, các con đã làm rồi. Tại sao không cho phép mình cảm nhận niềm vui và sự viên mãn và phần thưởng của sự biểu đạt ánh sáng Ki-tô qua các con? Các con muốn gì hơn nữa? Có lẽ là một sự biểu đạt ánh sáng Ki-tô nhiều hơn, nhưng các con có thực sự cần những kết quả bên ngoài để cảm thấy viên mãn không?

Với điều này, tôi xin gửi lời tri ân đến các con không chỉ vì hội nghị này mà còn vì tất cả công việc mà các con đã làm ở Hàn Quốc và vì tất cả công việc mà các đệ tử trên toàn thế giới đã làm. Rất nhiều người ở các nơi khác trên thế giới cũng có thể cảm thấy, chúng ta có thực sự tạo ra sự khác biệt nào không? Vâng, các con đã làm rồi. Nhiều người tâm linh khác cũng đã tạo ra sự khác biệt. Nhiều người không công khai tâm linh cũng đã tạo ra sự khác biệt bằng cách cho phép một số biểu đạt của ánh sáng Ki-tô, bởi vì mỗi biểu đạt đều làm tăng lượng ánh sáng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất trên trái đất. Và ánh sáng càng tăng, càng nhiều người có thể thấy. Càng nhiều người có thể thấy, càng nhiều người có thể được đánh thức. Và tất cả điều đó đang hướng tới sự thị hiện của Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Tôi hy vọng rằng tôi đã cho các con một cơ hội để khắc phục sự căng thẳng và đạt được một cảm giác viên mãn và niềm vui nội tại. Portia LÀ tôi.

5 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Chân sư MORE

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên More, và tôi luôn LUÔN LÀ NHIỀU HƠN NỮA.

Cốt tủy của Ki-tô là gì? Ki-tô luôn là nhiều hơn nữa. Trong bất kỳ tình huống nào trên trái đất, bất kể con có thể gặp phải điều gì, câu hỏi luôn là: “Con có muốn là nhiều hơn nữa, hay con muốn tuân theo những gì đang có?” Luôn có một cám dỗ từ “ông hoàng của thế gian”, từ “lũ quỷ Mara”, để con tuân theo những gì đang có. Và thông điệp tinh vi là: “Những gì đang có không thể là nhiều hơn nữa, không được là nhiều hơn nữa, không cần là nhiều hơn nữa, không thể là nhiều hơn nữa so với những gì đang có.” Và con thậm chí sẽ thấy những kẻ đã tôn vinh điều này, khi chúng nói: “À, những gì đang có thì cứ là những gì đang có, và thật chẳng ích gì mà cố gắng là nhiều hơn nữa. Con chỉ cần chấp nhận những gì đang có, và trong đó con được tự do, con được thức tỉnh, con được giác ngộ khi con không cố gắng là nhiều hơn nữa.” Này, con yêu dấu của tôi, điều vô lý này đến từ đâu? Chắc chắn không phải từ tâm của tôi, và chắc chắn không phải từ tâm Ki-tô. Chức năng của tâm Ki-tô là gì? Con có thể nói: “Để hợp nhất Đấng Sáng tạo với tạo vật của Ngài.” Vâng, nhưng đó không phải là tất cả, có nhiều hơn nữa. Vì mục đích của Đấng Sáng tạo khi tạo ra một tạo vật, tạo ra một thế giới hình tướng là gì?

Đó là để gửi các phần nối dài của chính Ngài, của chính cái Là của Ngài, vào thế giới hình tướng, nơi chúng có thể bắt đầu với ý niệm cái ta như một điểm, và dần dần mở rộng nó bằng cách trở nên nhiều hơn nữa. Mục đích của điều này là gì? Để lôi cuốn những đốm sáng đó, những đốm linh thể đó của cái Là của Đấng Sáng tạo, không thực sự trở lại vào cái Là của Đấng Sáng tạo, mà là để lôi cuốn chúng hướng tới tâm thức Đấng Sáng tạo, để chúng trở thành những người sáng tạo theo quyền riêng của mình. Và cần gì để một đốm linh thể với ý niệm bản sắc như một điểm đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo? Nó phải cố gắng là nhiều hơn nữa, rồi nhiều hơn nữa, và rồi nhiều hơn nữa, và tiếp tục cố gắng là nhiều hơn nữa, cho đến khi nó đạt đến tầng tâm thức Đấng Sáng tạo đó. Và ngay cả khi đó, vẫn còn nhiều hơn nữa, nhưng đó vẫn là một chặng đường dài đến mức cả con và tôi đều không cần phải lo lắng về điều đó vào thời điểm hiện tại.

Bây giờ, con thấy những gì chúng tôi đã nói, đây là tâm Ki-tô. Trong bất kỳ tình huống nào mà có một lối vào để tâm Ki-tô được biểu đạt, nó tìm cách làm gì? Nó không, như Quan Âm đã giải thích rất cẩn thận, tìm cách khiến một người đúng, người khác sai, một lập luận đúng, một ý thức hệ, một tôn giáo đúng. Không. Nó tìm cách cho mọi người thấy rằng trong bất kỳ tình huống nào trên trái đất đều có nhiều hơn nữa, và khi con vươn tới cái nhiều hơn nữa, con có thể thăng vượt những gì đang có, vì những gì đang có trên trái đất tất nhiên là [đang diễn ra trên] một hành tinh phi tự nhiên. Tại sao có đau khổ trên trái đất? Bởi vì tâm thức nhị nguyên. Khi con đến và nói: “Những gì đang có thì là những gì đang có, và nó không thể là nhiều hơn nữa,” con thực sự đang nói gì? Con đang nói rằng trái đất không bao giờ có thể thoát khỏi đau khổ. Đây tất nhiên là giấc mơ của những sa nhân. Chúng có thể đưa một hành tinh vào trạng thái phi tự nhiên, và không gì có thể giải thoát nó khỏi trạng thái đó. Một khi nó ở đó, nó bị giam hãm vô thời hạn, và chúng có thể cai trị hành tinh và vắt kiệt năng lượng của cư dân. Đây là tâm thức sa ngã. Nó muốn hạ thấp một cái gì đó xuống dưới mức của một hành tinh tự nhiên và giữ nó ở đó vô thời hạn. Điều duy nhất có thể chống lại điều này là gì? Tâm Ki-tô. Nhưng nó làm điều đó như thế nào? Bằng cách luôn cho thấy rằng có nhiều hơn những gì đang có. Nếu những gì đang có không thể trở nên nhiều hơn nữa, thì khả năng thoát khỏi đau khổ mà Phật đã nói, mà Giê-su đã nói, mà nhiều truyền thống tâm linh và thần bí đã nói, nằm ở đâu?

Mục đích của một trạng thái tâm thức cao hơn là gì nếu không phải là để thoát khỏi đau khổ? Con nhìn những đạo sư giả đang phô bày hàng hóa của chúng ở ngoài kia, nơi chúng nói: “Ồ, con phải đạt đến một điểm mà con chỉ chấp nhận những gì đang có.” Và nó đến từ đâu? Chà, nó đến từ những truyền thống mà các đạo sư giả đã tạo ra, đặc biệt ở phương Đông, nơi chúng nói: “Chỉ Brahman là thực, thế giới là ảo tưởng. Và tăng trưởng tâm linh có nghĩa là con đạt đến một điểm mà con đã thăng vượt mọi ý niệm cái ta, và con chấp nhận những gì đang có, con chấp nhận các điều kiện như chúng đang có trên trái đất, con không cố gắng cải thiện chúng để làm cho chúng tốt hơn, con chỉ chấp nhận những gì đang có, và trong đó con đoán chừng là được thức tỉnh hoặc giác ngộ.” Này, con yêu dấu của tôi, nếu đó là định nghĩa của sự thức tỉnh, thì tôi không được thức tỉnh. Nếu đó là định nghĩa của sự giác ngộ, thì tôi không được giác ngộ. Và tôi là một chân sư thăng thiên, vậy nên tôi vượt quá những gì con người định nghĩa là thức tỉnh hay giác ngộ, vì tôi nhiều hơn bất kỳ định nghĩa nào có thể được đưa ra trên trái đất.

Và như tôi đã nói, ý tưởng rằng con nên chấp nhận những gì đang có theo đúng bản chất của nó, và không cố gắng là nhiều hơn nữa, là sự phủ nhận chính mục đích của sự sống. Và đây là điều mà trong các truyền thống phương Đông thường không được đặt câu hỏi. Nếu Brahman, cái không phân biệt, là tất cả những gì tồn tại trước thế giới hình tướng, điều đó có nghĩa là Brahman hẳn đã quyết định tạo ra thế giới, và Brahman hẳn đã tạo ra thế giới từ chính mình, vì còn gì khác nữa? Điều này hẳn có nghĩa là Brahman có một mục đích khi tạo ra thế giới. Nhưng rất nhiều lần ở phương Đông, họ không đặt câu hỏi đó, vì họ đã bị giam hãm trong ý tưởng rằng mục tiêu tối hậu của tăng trưởng tâm linh là trở về Brahman, cái không phân biệt, theo đó cái ta không còn tồn tại. Nhưng tại sao cái ta được tạo ra? Nó được tạo ra để trở nên nhiều hơn nữa. Tại sao thế giới được tạo ra từ mong muốn của Brahman, Đấng Sáng tạo, là trở nên nhiều hơn nữa? Mong muốn trở nên nhiều hơn nữa là động lực, không chỉ đằng sau thế giới hình tướng này, mà đằng sau vô số thế giới hình tướng, nhiều hơn con có thể thấu rõ, nhiều hơn cả tôi có thể thấu rõ với tư cách một chân sư thăng thiên.

Nhưng tôi ít nhất có thể thấu rõ những gì tôi không thể thấu rõ, đó là sự tiến bộ so với những sa nhân, những kẻ nghĩ rằng chúng có thể thấu rõ và định nghĩa mọi thứ. Chúng đã làm gì? Chúng đã định nghĩa toàn bộ một giáo lý giả hiệu, và sau đó chúng phóng chiếu rằng đây là sự hiểu biết tâm linh tối hậu, giáo lý tâm linh tối hậu. Chức năng của Ki-tô là gì? Để cho thấy rằng đây không phải là giáo lý tâm linh tối hậu. Bởi vì có nhiều hơn nữa để hiểu, nhiều hơn nữa để nắm bắt, nhiều hơn nữa để trải nghiệm. Và đó luôn là mục đích của Ki-tô, để cho thấy rằng có nhiều hơn nữa. Và đây không phải là một điểm đơn giản để nắm bắt. Chúng tôi đã thấy trong rất nhiều năm khi chúng tôi ban truyền giáo lý về quả vị Ki-tô, làm thế nào mà các đệ tử đã đến, họ đã hiểu rằng có một khái niệm gọi là quả vị Ki-tô, nhưng họ nghĩ rằng nó có nghĩa là con đạt đến một trạng thái tối hậu nào đó. Một số thậm chí nghĩ rằng sự thăng thiên có nghĩa là đạt đến một trạng thái tối hậu nào đó. Thực tế là mục tiêu của tâm Ki-tô không bao giờ là định nghĩa hay chứng minh một chân lý tối hậu nào đó. Mục tiêu của tâm Ki-tô chỉ là, trong bất kỳ tình huống nào, chứng tỏ rằng có nhiều hơn nữa.

Con thấy điều này liên quan đến bài nói chuyện của Quan Âm về việc muốn đúng, bằng cách có một bằng chứng tối hậu nào đó rằng đây là lập luận cao trội hơn, đây là ý tưởng cao nhất, đây là giáo lý cao nhất. Thực sự không phải mục tiêu của Ki-tô là chứng minh bất cứ điều gì trên trái đất. Mục tiêu của Ki-tô là luôn cho thấy rằng có nhiều hơn nữa. Lấy một tình huống mà con có xung đột cá nhân này giữa hai người. Cả hai đều muốn đúng, mỗi người đều muốn cái tự ngã của mình được chứng minh là đúng tuyệt đối, và trong tâm của cái tự ngã, điều này có nghĩa là người kia phải bị chứng minh là sai. Cả hai họ làm gì? Họ đi vào trạng thái tâm này nơi con tìm cách chứng minh người kia sai để chứng minh mình đúng. Nhưng điều mà Ki-tô muốn làm là gì? Nó không muốn chứng minh bất kỳ ai trong số họ sai hay hạ thấp bất kỳ ai trong số họ. Nó muốn nâng cả hai người họ lên. Nếu cả hai người họ đều tìm cách hạ thấp người kia, làm sao một trong hai người họ có thể mở lòng cho Ki-tô biểu đạt chính mình thông qua họ? Con thấy đó, một trong những tình huống đáng buồn nhất con có thể thấy trên đường tu là khi hai người đều tin rằng họ đã đạt được một mức độ quả vị Ki-tô nhất định, nhưng bây giờ vì một số xung đột nảy ra từ tâm lý chưa chữa lành, những ngã tiềm thức, họ đang cố gắng chứng minh người kia sai, họ đang cố gắng chứng minh lẫn nhau sai, và họ nghĩ rằng việc họ chứng minh mình đúng có một tầm quan trọng cuồng đại nào đó, bởi vì nếu không thì những điều khủng khiếp sẽ xảy ra, dù là đối với bản thân họ hay phong trào tâm linh của họ hay bất cứ điều gì có thể xảy ra.

Giải pháp duy nhất là gì? Chà, nói cho cùng thì đó là cả hai đều nhận ra, tôi muốn là nhiều hơn nữa, nhưng ít nhất nếu con có thể đạt đến sự nhận ra đó, con có thể giải phóng mình khỏi xung đột không bao giờ kết thúc và không thể giải quyết này. Con thấy đó, nếu con đang cố gắng chứng minh người khác sai, con không thể là nhiều hơn nữa, vì con đang tìm cách đạt được điều gì đó trong thế giới này, và là nhiều hơn nữa có nghĩa là vượt ra ngoài thế giới này. Điều này tất nhiên cái tự ngã không thể thấu rõ, điều này tất nhiên những sa nhân không thể thấu rõ, vì chúng đang tìm cách đạt đến một trạng thái tối hậu trong thế giới này bằng cách sử dụng những thứ của thế giới này. Đó là Tháp Babel, xây dựng một cái tháp vươn tới thiên đàng bằng cách sử dụng những thứ trên trái đất. Điều gì sẽ xảy ra? Nó sẽ sụp đổ dưới trọng lượng của chính nó, và đối với một số người chỉ có một sự sụp đổ như vậy mới có cơ hội đánh thức họ để họ lại vươn tới cái nhiều hơn nữa, nhưng không phải ai cũng cần trải qua quá trình này, vì nhiều người có tiềm năng để thấy sự phù phiếm của nó, sự huyễn ảo của nó. Một trong những biểu đạt của quả vị Ki-tô mà tôi muốn đề cập ở đây là quyền năng, đó tất nhiên là một đặc điểm của Tia Thứ nhất, ít nhất là theo cách đã được giải thích theo truyền thống.

Nhưng biểu đạt vĩ đại nhất của quyền năng là gì? Đó là con muốn là nhiều hơn nữa, và con đang tìm cách nâng tất cả mọi người và mọi thứ khác lên để trở thành nhiều hơn nữa. Đó là quyền năng, quyền năng thực sự. Nhưng con thấy quyền năng được biểu đạt trên trái đất như thế nào? Chà, rất nhiều lần đó là khi một người muốn đạt được một địa vị tối hậu nào đó nơi họ có quyền lực tuyệt đối đối với những người khác, và sau đó họ muốn duy trì điều đó vô thời hạn. Con thấy đó, ví dụ, các công ty đưa ra một sản phẩm mới sáng tạo, và bây giờ trong một thời gian chúng đang phát triển, chúng đang sáng tạo, chúng đang đưa ra các giải pháp mới, nhưng sau đó chúng chiếm được một thị phần nhất định, hoặc có lẽ chúng thậm chí thống trị thị trường, bởi vì chúng tạo ra một thị trường mới. Và đột nhiên có một sự xoay chuyển bắt đầu xảy ra. Bây giờ chúng trở nên quan tâm hơn đến việc duy trì thị phần bằng cách trấn áp cạnh tranh, hơn là bằng cách trở nên nhiều hơn nữa và do đó, vượt xa cạnh tranh bằng ý muốn luôn vươn tới cái nhiều hơn nữa. Con thấy các nhà lãnh đạo thế phàm trong một thời gian đang tìm cách đạt được ngày càng nhiều quyền lực, thường bằng cách tuyên bố rằng họ đang làm điều gì đó tốt, rằng họ đang thúc đẩy một đại nghĩa tối hậu nào đó, nhưng sau đó cuối cùng khi họ có đủ mức độ quyền lực, họ trở nên quan tâm đến việc duy trì quyền lực đó.

Và do đó, bây giờ họ thậm chí không cố gắng là nhiều hơn nữa trong thế giới này, họ đang cố gắng duy trì hiện trạng, để bảo tồn những gì đang có, thay vì trở nên nhiều hơn nữa. Và điều đó, tất nhiên, là nơi định luật thứ nhì của nhiệt động học bắt đầu tác động, và phá vỡ các cấu trúc mà họ đã tạo ra, để cuối cùng chúng xuống cấp thành hư vô. Có một sự khác biệt cơ bản giữa việc tìm cách đạt được ngày càng nhiều trong thế giới này, tìm cách đạt được nó theo chiều ngang, và sau đó cố gắng là nhiều hơn nữa theo chiều dọc, bằng cách luôn vượt ra ngoài thế giới này. Chúng tôi đã thấy các đệ tử, những người đã tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, hoặc đã học về quả vị Ki-tô, và nghĩ: “À, đạt được quả vị Ki-tô là cách để có được quyền năng tối hậu. Ồ, khi chúng ta có quả vị Ki-tô, thì chúng ta có thể tạo ra những phép lạ sẽ chứng minh giáo lý tâm linh của chúng ta, sẽ chứng minh chúng ta là những nhà tu tâm linh tinh tiến, những người có khả năng điều ngự tâm làm chủ vật chất.” Họ nghĩ rằng Ki-tô có quyền năng vô hạn trên trái đất, và có khả năng điều ngự tâm làm chủ vật chất. Và thường họ nhìn vào những phép lạ của Giê-su như là sự xác chứng cho điều này, nhưng họ quên tự hỏi mình một câu hỏi đơn giản.

Nếu Giê-su có thể đi trên mặt nước, dẹp yên bão tố, biến nước thành rượu, vực người chết sống lại, chữa lành người bệnh, tại sao ngài lại để mình bị đóng đinh? Tại sao ngài không, như ngài đã nói, gọi các đạo quân thiên thần đến giải thoát ngài khỏi thập tự giá? À, đó là một câu hỏi mà cái tự ngã sẽ không bao giờ hỏi, và tại sao nó lại phải hỏi, vì dù sao nó cũng không bao giờ có thể tìm thấy câu trả lời? Nhưng con có thể hỏi nó, bởi vì con có thể tìm thấy câu trả lời, cái Ta Biết có thể tìm thấy câu trả lời. Và chính xác là điều này, Ki-tô không tìm cách thị hiện một trạng thái tối hậu nào đó, ngay cả vương quốc Thượng đế trên trái đất. Nó tìm cách luôn chỉ ra cái nhiều hơn nữa, nhiều hơn những gì đang có ở đây bây giờ, nhiều hơn những gì con người có thể hình dung, nhiều hơn những gì họ có thể tưởng tượng, bởi vì rất nhiều người có trí tưởng tượng của họ bị giam hãm trong hộp tư duy được tạo ra bởi những gì đang có. Và một khi con có một hành tinh phi tự nhiên, mọi thứ đều bị giới hạn bởi tâm thức nhị nguyên. Cách duy nhất để thăng vượt trạng thái phi tự nhiên và đưa một hành tinh trở lại trạng thái tự nhiên là gì? Đó là vươn tới cái nhiều hơn nữa, và điều đó có nghĩa là vươn tới tâm Ki-tô. Chúng tôi đã nói, một khi con đi vào nhị nguyên, con không thể tự mình thoát khỏi nhị nguyên bằng cách sử dụng tâm, tâm lý trí hợp lý.

Chà, con cũng không thể đưa một hành tinh từ trạng thái phi tự nhiên sang trạng thái tự nhiên bằng cách sử dụng tâm lý trí. Con chỉ có thể làm điều đó bằng cách sử dụng tâm Ki-tô, hoặc đúng hơn là bằng cách không cố gắng sử dụng tâm Ki-tô, mà cho phép nó biểu đạt chính nó thông qua con, bởi vì con đã trở thành cánh cửa mở luôn là nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thấy các đệ tử chân sư thăng thiên có đủ loại giấc mơ, đủ loại ảo tưởng, rằng một ngày nào đó chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ xuất hiện trong một thị hiện không thể phủ nhận nào đó sẽ chứng minh rằng những đệ tử này đã đúng, rằng họ là những người tiên phong như các môn đồ của Giê-su. Nhiều đệ tử ở Summit Lighthouse đã nghĩ như vậy, nghĩ rằng một ngày nào đó sứ giả của Summit Lighthouse sẽ thăng thiên vật lý trong một thị hiện khả kiến không thể phủ nhận, hoặc sẽ có những cuộc thăng thiên đại chúng từ các sườn đồi, hoặc các chân sư thăng thiên sẽ xuất hiện trong một thị hiện khả kiến, không thể phủ nhận nào đó. Điều gì đã xảy ra với họ khi sứ giả bị bệnh và cuối cùng qua đời mà không có bất kỳ sự phô trương nào? Chà, điều đã xảy ra với họ cũng giống như điều đã xảy ra với các môn đồ của Giê-su sau khi ngài qua đời trên thập tự giá.

Họ cũng có những tưởng tượng này, những ảo tưởng này, rằng bằng cách nào đó Giê-su sẽ trở lại và xác chứng họ. Tại sao những ảo tưởng đó không thành hiện thực? Bởi vì những ảo tưởng đó dựa trên cái tự ngã và mong muốn bất khả của nó là đạt được điều gì đó tối hậu ở đây trên trái đất, chứ không phải ý muốn vươn tới tâm Ki-tô. Vâng, các môn đồ của Giê-su đã nhận ra Ki-tô trong ngài, nhưng họ không nhận ra Ki-tô trong chính họ. Và nếu có một thị hiện không thể phủ nhận nào đó, bên ngoài, nó sẽ chỉ xác chứng những ảo tưởng của họ, đó là sự phủ nhận Ki-tô trong chính họ. Hãy cẩn thận với những ảo tưởng con có, về việc con có quyền năng, về việc sứ giả này có những quyền năng đặc biệt. Giê-su đã nói: “Có một thế hệ xấu ác và ngoại tình đã tham dục một dấu lạ, nhưng sẽ không có dấu lạ nào được ban cho chúng”. Tại sao? Bởi vì, nếu một dấu lạ được ban cho, nó sẽ xác chứng tư duy đã tách biệt họ khỏi việc nhìn nhận Ki-tô trong chính họ. Con có thể tạm thời thấy rằng ai đó có nhiều ánh sáng Ki-tô chảy qua họ hơn con. Nhưng chỉ trong một thời gian thôi. Nếu con đi vào trạng thái sùng bái thần tượng và phóng chiếu rằng người này bằng cách nào đó đặc biệt hơn con, thì Ki-tô phải rút lui khỏi con, để không củng cố cái nhìn sùng bái thần tượng đó, mà thực sự là một cái nhìn sùng bái thần tượng về chính con, như thể con không đặc biệt. Nhưng đó là một biểu đạt của sự kiêu hãnh tâm linh bởi vì con nghĩ con có thể tự hạ thấp mình so với người khác, và do đó, con đang hạ thấp Ki-tô trong con, có lẽ bằng cách nâng Ki-tô trong người khác với một loại quyền năng tưởng tượng nào đó, nghĩ rằng, ồ, người này không bao giờ nên bị bệnh, chẳng hạn. Nhưng con thấy đó, khi con ở trong một cơ thể vật lý, cơ thể vật lý phải chịu những điều kiện trên trái đất. Đức Phật chết vì một nguyên nhân vật lý, Giê-su chết vì một nguyên nhân vật lý, chúng tôi đều đã chết vì những nguyên nhân vật lý.

Thách thức là đạt đến điểm đó nơi con ngừng tìm cách đạt được một địa vị tối hậu, trạng thái tối hậu trên trái đất, trạng thái tối hậu trong vật chất, nhưng con cố gắng chấp nhận rằng Ki-tô được sinh ra trong con. Và con nuôi dưỡng và con hướng dẫn hài nhi Ki-tô đó, và con sẵn lòng cho phép nó trưởng thành và bắt đầu biểu đạt chính nó thông qua con. Một trong những tưởng tượng phổ biến nhất của những người bắt đầu nghe về quả vị Ki-tô, là Ki-tô không bao giờ phạm lỗi. Nếu con là Ki-tô, con không bao giờ có thể sai. Nhưng con thấy đó, đây lại là cái tự ngã trên cuộc tìm kiếm bất khả của nó về một địa vị tối hậu nào đó trong thế giới này. Và khái niệm về việc luôn đúng và không bao giờ sai đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ trạng thái nhị nguyên luôn định nghĩa hai thái cực đối lập. Trong tâm Ki-tô không có thái cực, đó là lý do tại sao nó là tâm hợp nhất.

Con không thấy những gì tâm phản Ki-tô phóng chiếu vào con sao? Nó phóng chiếu rằng biểu đạt của Ki-tô phải tuân theo tiêu chuẩn được định nghĩa trong thế giới này. Nhưng chúng tôi đã nói gì bây giờ từ các góc nhìn khác nhau? Biểu đạt của Ki-tô sẽ không bao giờ tuân theo tiêu chuẩn được định nghĩa bởi tâm thức nhị nguyên. Vì nếu nó làm vậy, nó sẽ xác chứng tiêu chuẩn đó, và nó ở đây để thách thức tiêu chuẩn đó. Trong tâm Ki-tô không có đúng và sai. Chúng tôi thường thấy các đệ tử cố gắng định nghĩa một tiêu chuẩn nào đó cho ý nghĩa của việc là Ki-tô, để biểu đạt quả vị Ki-tô của con. Và sau đó con từ chối để Ki-tô biểu đạt chính nó thông qua con trong những điều kiện mà con không nghĩ rằng chúng tuân theo định nghĩa của con. Nhưng, con thấy đó, sẽ đến một điểm trên đường tu nơi, để đạt đến cấp độ tiếp theo con cần cho phép Ki-tô biểu đạt chính nó, bất kể nó muốn biểu đạt chính nó như thế nào. Và con cần không sử dụng cái tâm vỏ ngoài đó để đánh giá, ồ, cái này đúng hay sai? Nó có tạo ra kết quả mà tôi nghĩ nó phải tạo ra không? Và nếu không, nó hẳn đã sai, bởi vì chắc chắn Ki-tô có thể hoàn thành bất cứ điều gì trong thế giới này.

Nhưng chúng tôi đã giải thích điều gì bây giờ. Không, Ki-tô không thể hoàn thành bất cứ điều gì trong thế giới này. Ki-tô sẽ không phải lúc nào cũng đúng. Ki-tô không thể giải quyết mọi xung đột. Ki-tô không thể đưa ra lập luận tối hậu giải quyết mọi tranh chấp. Ki-tô có thể và sẽ chỉ chỉ con hướng tới cái nhiều hơn nữa, hướng tới việc thăng vượt trạng thái tâm hiện tại của con đã giam hãm con trong suy nghĩ rằng vật chất quan trọng, rằng các điều kiện, như chúng đang có, có quyền kiểm soát con như một sinh thể tâm linh. Điều gì có thể giữ con? Điều gì có thể định nghĩa con trên trái đất? Không điều kiện ngoại cảnh nào có thể định nghĩa con. Điều gì định nghĩa con? Những điều kiện nội tại của con, những ngã tiềm thức. Nhưng tại sao chúng định nghĩa con? Bởi vì con không dám để chúng chết, để đi khỏi chúng, để nhận ra rằng chúng không quan trọng, để vươn tới tâm Ki-tô.

Sứ giả này gần đây đã gặp một tình huống, nơi anh ấy đang xem một chương trình trên TV và có một người ở đó rất rối trí vì một tình huống cụ thể không quan trọng. Và cô ấy đang tự trách mình rằng cô ấy hẳn đã có thể ngăn chặn điều này. Và cô ấy đang mô tả mình cảm thấy tồi tệ như thế nào, cô ấy cảm thấy như gánh nặng của thế giới đang đè nặng lên vai mình, như thể cả thế giới đang nhìn cô ấy và sai lầm mà cô ấy đã mắc phải, mà cô ấy nghĩ mình đã mắc phải. Và khi xem điều này, sứ giả được đưa ngược trở lại khi anh ấy còn là một thiếu niên, và khi anh ấy đã mắc phải những gì anh ấy nghĩ là một số sai lầm, anh ấy đã làm mình xấu hổ. Và anh ấy nghĩ rằng toàn bộ gánh nặng của thế giới đang đè nặng lên vai mình, rằng cả thế giới đang đứng đó, tạm dừng bất cứ điều gì họ đang làm, nhìn anh ấy và nói: “Ồ, nhìn sai lầm anh ấy đã mắc phải kìa, nó không bao giờ có thể được gỡ bỏ.” Bao nhiêu con có thể nhận ra điều này trong chính mình? Nhưng con thấy đó, đây đều là những ngã tiềm thức. Nó không có thực tại, ngoài những gì con gán cho nó, bởi vì con nghĩ điều này định nghĩa con. Con nghĩ một lựa chọn con đã đưa ra trong quá khứ có thể định nghĩa con mãi mãi về sau. Và đây là điều mà những sa nhân muốn con tin. Rằng khi con gặp phải chấn thương nhập đời đó cách đây rất nhiều kiếp đầu thai, con đã mắc một sai lầm sẽ định nghĩa con miễn là con còn trên trái đất.

Tôi đã thăng thiên như thế nào? Con có nghĩ rằng tôi chưa bao giờ phạm lỗi trên trái đất không? Không. Tôi thăng thiên bằng cách đạt đến điểm mà tôi thấy rằng bất kể những lựa chọn nào tôi đã đưa ra trong quá khứ đều không định nghĩa tôi là một sinh thể tâm linh. Và do đó, thay vì cố gắng giải thích chúng, giải thích cho qua chuyện, bù đắp cho chúng, gỡ bỏ chúng, chuộc lỗi cho những sai lầm, tôi chỉ đơn giản là bỏ qua chúng. Bỏ qua những cái ta đã phóng chiếu vào tôi rằng điều này quan trọng. Nhưng làm thế nào con đi khỏi cảm giác rằng điều gì đó trong vật chất quan trọng? Con làm điều đó bằng cách nhận ra rằng có điều gì đó quan trọng hơn. Và đó là gì? Tâm Ki-tô. Bước đi với Ki-tô vào Vương quốc Thiên đàng, trong chính tâm của con.

Rất nhiều điều có thể nói. Tôi ước rằng tôi có thể đưa mỗi con, đưa con vào một căn phòng, ngồi xuống, và trước hết, cho con thấy tình yêu tôi dành cho mỗi con. Và tôi ước con mở lòng để trải nghiệm tình yêu đó. Và sau đó, tôi ước tôi có thể cho con thấy điều gì là điểm nghẽn lớn nhất đang kìm hãm con. Nhưng con thấy đó, tôi thực sự có thể làm điều này. Câu hỏi là, con có để tôi làm điều đó không? Vì tôi có thể làm điều này cho mỗi và mọi con, riêng biệt, bất kỳ người nào có thể nghe hoặc đọc bài truyền đọc này. Tôi không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tôi có thể ở bên con, nhưng con có thể nghe tôi không, hay con sẽ phóng chiếu vào tôi rằng tương tác của chúng ta nên như thế nào, thay vì chỉ vươn tới cái nhiều hơn nữa? Đó là câu hỏi. Tôi chỉ có thể cống hiến cho con sự phụng sự của tôi. Tôi đề nghị rằng, như một cách để bắt đầu, con có thể đọc điệp khúc của bài chú của tôi như con đã đọc trước bài truyền đọc này, bao nhiêu lần con có thời gian. Con có thể đọc hoặc nghe ít nhất một phần của bài truyền đọc này, và sau đó lấy một cuốn sổ, một cây bút, hòa điệu với cái Là của tôi, và chỉ viết bất cứ điều gì đến với con. Đừng suy nghĩ, đừng phân tích, như chúng tôi đã nói trước đây. Cứ viết và để nó tuôn chảy cho đến khi con cảm thấy không còn dòng chảy nữa. Điều này có thể là một câu duy nhất vì đó có thể là tất cả những gì con cần vào thời điểm đó để quán chiếu điểm nghẽn đang kìm hãm con, hoặc nó có thể dài hơn khi chúng tôi tiếp tục trong quá trình này.

Với điều này, tôi gần như đã hoàn thành việc ban truyền của mình, nhưng còn một điều nữa. Làm sao lại không thể có một điều nữa? Trên thực tế, người ta có thể nói luôn có một điều nữa. Điều đó kết thúc khi nào? Chà, đối với tôi, nó không bao giờ kết thúc. Nhưng đối với con, đang ở trong thời gian và không gian, tất nhiên, có những giới hạn. Do đó, tôi sẽ giới hạn mình trong một điều nữa.

Tại sao tôi đổi tên từ El Morya thành Chân sư MORE? Chà, vì nhiều lý do mà tôi đã giải thích trước đây, nhưng lý do tinh vi hơn là những người trong con, những người biết về lịch sử của các phong trào chân sư thăng thiên, sẽ biết rằng Saint Germain đã bảo trợ I AM Movement, và sau khi rõ ràng rằng I AM Movement không thể tiếp tục hoạt động với một sứ giả được bảo trợ, ngài nhận ra rằng ngài đã đưa I AM Movement và việc ban truyền giáo lý thông qua nó đến mức xa nhất có thể, với các điều kiện trên trái đất. Ngài đã tiếp cận Hội đồng Nghiệp quả để được phép bảo trợ một phong trào khác, cụ thể là Summit Lighthouse. Nhưng Hội đồng Nghiệp quả đã từ chối ngài, bởi vì ngài đã đầu tư quá nhiều ánh sáng của mình vào I AM Movement, đến nỗi họ không muốn ngài mất bất kỳ ánh sáng nào trong một phong trào khác, vì vậy ngài không có đủ để trở thành một trưởng giáo cho Thời đại Bảo bình.

Câu chuyện được kể ở Summit Lighthouse là tôi đã bước vào, và tôi có một viên kim cương trên trán tượng trưng cho thành đạt của tôi, và tôi phải trao viên đó làm bảo đảm cho Hội đồng Nghiệp quả để bảo trợ Summit Lighthouse. Do đó, Summit Lighthouse đã kể câu chuyện này và sử dụng nó để khắc sâu một cảm giác khẩn cấp vào các đệ tử, một cảm giác về tầm quan trọng của họ, tầm quan trọng của Summit Lighthouse, tầm quan trọng của việc họ sẽ vượt qua mọi thử thách, như câu nói: “Mong con vượt qua mọi thử thách.” Và ý tưởng là tôi, El Morya, luôn ở đó để thử thách con.

Bây giờ một lần nữa, như Mẹ Mary đã bắt đầu nói, mọi thứ đều có thể được xem là một biểu tượng với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Và ý nghĩa sâu sắc hơn là Summit Lighthouse được bảo trợ chủ yếu cho những người chưa vượt qua các khai ngộ của Song ngư, và những người được ban cho một cơ hội cuối cùng. Nhiều người đã thực sự vượt qua khai ngộ này và đã tiếp tục, những người khác thì không. Đó là cách mọi việc luôn diễn ra. Nhưng đã đến một điểm mà chúng tôi không thể tiếp tục duy trì một sứ giả được bảo trợ cho Summit Lighthouse, và nơi những người có cơ hội đảm nhận trách vụ đó đã không muốn làm như vậy. Và do đó, rõ ràng là chúng tôi phải rút lui. Tôi chắc chắn phải rút lui khỏi Summit Lighthouse, và sau khi suy ngẫm về điều này một thời gian, tôi quyết định rằng việc đổi tên của mình sẽ hiệu quả hơn đối với tôi, để báo hiệu cho những người mở lòng lắng nghe rằng tôi không chỉ đã tiếp tục, mà tôi đã trở nên nhiều hơn nữa. Và tất nhiên có những người, như có thể dự đoán được, đã nói: “Ồ, một chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ đổi tên của mình, vậy đây hẳn là một thày giả.” Vậy thì cứ thế đi. “Sic transit gloria mundi”. Thế gian vinh hoa trôi qua. Vì khi con vươn tới Ki-tô, con đang vượt qua vinh quang của thế giới này và bước vào vinh quang của thế giới tiếp theo, như tôi đã làm.

Một cái tên có ý nghĩa gì? Thực sự, chỉ có điều này: Con không bao giờ có thể định nghĩa Chân sư More. Trong Summit Lighthouse, họ nghĩ rằng họ đã định nghĩa tôi. Tôi là người kỷ luật nghiêm khắc. Tôi là người luôn thử thách con. Và đối với hầu hết các đệ tử, điều đó có nghĩa là họ không thể thấy tình yêu vô điều kiện mà tôi tỏa ra. Và điều gì đã đưa sứ giả này vào con đường trở thành một sứ giả? Đó là anh ấy, trong một tình huống cụ thể mà anh ấy đã nói đến, đã quyết định vươn tới cái nhiều hơn nữa, không bảo vệ cái tự ngã của mình, không tìm cách xác chứng nó và đúng và chứng minh người khác sai, mà chỉ đơn giản là bỏ lại tất cả và đi theo Ki-tô. Và khi làm như vậy, anh ấy đã trải nghiệm tình yêu vô điều kiện mà tôi dành cho tất cả các đệ tử, nhưng con không thể trải nghiệm điều đó cho đến khi con vươn tới nhiều hơn cái tâm vỏ ngoài muốn đúng trong thế giới này. Và do đó, theo một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng sứ mạng của sứ giả này đã dựa trên một điều này, vươn tới cái nhiều hơn nữa. Nếu con đang tuân theo những giáo lý này được ban truyền thông qua đợt truyền giáo này, con có thể hưởng lợi từ việc nắm bắt rằng điều này tất nhiên cũng áp dụng cho con. Nếu con muốn nhận được sự viên mãn của cơ hội mà những giáo lý này đại diện, có một chìa khóa đơn giản, luôn vươn tới cái nhiều hơn nữa.

Tôi luôn là nhiều hơn nữa, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không thể tiếp cận được. Tôi có thể tiếp cận được bất cứ lúc nào. Con thấy đó, không phải là tôi ở trên này, con ở dưới kia, và con chỉ có thể tiếp cận tôi nếu con vượt qua khoảng cách. Không, tôi luôn là nhiều hơn nữa. Nó không có nghĩa là tôi luôn đi cao hơn. Tôi cũng đi thấp hơn. Tôi trở nên có thể tiếp cận ngày càng nhiều người, nhưng chỉ khi họ vươn tới nhiều hơn trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Có lẽ đây là nhiều hơn một điều nữa, nhưng dù sao đi nữa, tôi hy vọng con có thể nắm bắt được một chút về cái nhiều hơn nữa mà tôi là. Với điều này, tôi niêm con trong tình yêu vô điều kiện mà tôi là. Và với một ánh nhìn lấp lánh trong mắt, tôi nói: “Mong con vượt qua mọi thử thách.” Làm thế nào con vượt qua mọi thử thách? Đơn giản thôi, luôn vươn tới cái nhiều hơn nữa.

4 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Quan Âm

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Quan Âm, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư thăng thiên Quan Âm. Điều tôi muốn diễn giải ở đây là một yếu tố khác về cách tự ngã có thể sử dụng quả vị Ki-tô để đạt được một mục tiêu tự ngã khác.

Đã có rất nhiều đệ tử trong nhiều thập kỷ, nơi chúng tôi đã ban truyền giáo lý trực tiếp qua nhiều đợt truyền giáo khác nhau, đã bắt gặp khái niệm về quả vị Ki-tô, và mà không nhận ra điều gì đang xảy ra, họ đã cho phép cái tôi của mình phóng chiếu một hình ảnh vào tâm trí họ rằng khi con có quả vị Ki-tô, điều đó có nghĩa là con luôn đúng. Con luôn có thể thắng trong một cuộc tranh luận, vì chắc chắn quả vị Ki-tô phải là chân lý tối hậu, thực tại tối hậu, và khi con có chân lý tối hậu, chắc chắn con sẽ luôn đúng.

Đây là lối suy luận không xuất phát đặc biệt từ các đệ tử chân sư thăng thiên hay thậm chí là các đệ tử tâm linh. Nó thực sự đến từ những sa nhân và tâm rắn gian manh. Giờ đây, để hiểu điều này, chúng ta cần lùi lại, nhìn vào tâm rắn gian manh. Giờ đây, như chúng tôi đã nói, đã giải thích rất cẩn thận, cái tôi đang theo đuổi cuộc tìm kiếm bất khả thi là tìm cách đạt được một trạng thái tối hậu bằng cách sử dụng những thứ của thế gian này.

Khi tôi nói những thứ của thế gian này, điều này có nghĩa gì trong ngữ cảnh cụ thể này? Chà, nó thực sự có nghĩa là tâm thức nhị nguyên. Cái tôi đang tìm cách đạt được bất kỳ mục tiêu tối hậu nào mà nó đặt ra bằng cách sử dụng tâm thức nhị nguyên. Điều chúng tôi đã giải thích nhiều lần, và điều sứ giả này đã giải thích trong nhiều video YouTube của anh ấy, là tâm thức nhị nguyên có đặc điểm này. Luôn luôn có hai thái cực đối lập.

Điều này có nghĩa là khi cái tôi tìm cách trở nên đúng đắn tối hậu, cái tôi đi vào một thái cực. Nó xem thái cực này là tối hậu và thái cực đối lập cũng là tối hậu nhưng hoàn toàn sai. Một thái cực là hoàn toàn đúng, đó là chân lý, thái cực kia là hoàn toàn sai, đó là lời dối. Tuy nhiên, như chúng tôi cũng đã giải thích, trong tâm thức nhị nguyên, con thực sự có thể chứng minh cả hai thái cực là đúng, bởi vì con làm gì trong tâm thức nhị nguyên? Con thêm một phán xét giá trị, và khi con thêm phán xét giá trị, điều đó có nghĩa là con tạo ra một phin lọc, và do đó con nói điều này là hoàn toàn đúng, đó là phán xét giá trị, nhưng phin lọc được tạo ra là bất kỳ lập luận nào ủng hộ quan điểm này đều có giá trị. Bất kỳ lập luận nào chất vấn nó đều vô giá trị.

Nhưng con thấy đấy, tất yếu là con sẽ có một số người làm chính xác điều tương tự với thái cực nhị nguyên khác, nói rằng thái cực nhị nguyên này là đúng, họ chỉ thêm một phán xét giá trị khác, và giờ đây họ tạo ra phin lọc đối lập nói rằng bất cứ điều gì xác chứng thái cực nhị nguyên này là đúng, bất cứ điều gì chất vấn nó là sai. Để đưa ra một ví dụ lịch sử chúng tôi đã sử dụng trước đây, một số người nói chủ nghĩa tư bản là hệ thống kinh tế tối hậu. Bất kỳ lập luận nào ủng hộ chủ nghĩa tư bản đều có giá trị, bất kỳ lập luận nào chất vấn nó đều vô giá trị.

Những người khác nói chủ nghĩa cộng sản là hệ thống kinh tế tối hậu, đó là phán xét giá trị, bất kỳ lập luận nào xác chứng điều đó là đúng, bất kỳ lập luận nào đến từ phía bên kia từ các nhà tư bản là sai, và do đó, con có thể bỏ qua nó. Khi con hiểu cơ chế vận hành này, con có thể thấy điều gì xảy ra khi cái tôi của một người bị mắc kẹt trong tư duy này nghe về khái niệm quả vị Ki-tô không? Cái tôi của người này tin rằng, à, khi tôi đạt được quả vị Ki-tô, tôi sẽ hoàn toàn đúng, nghĩa là cái tôi tin rằng Ki-tô sẽ xác chứng thái cực nhị nguyên mà cái tôi đã chọn là tối hậu.

Và do đó, Ki-tô sẽ vô hiệu hóa hoặc tống khứ khỏi trái đất thái cực đối lập và những người tin vào điều đối lập. Con có thể bắt đầu thấy sự trớ trêu không? Cái tôi bị mắc kẹt trong tư duy nhị nguyên. Chức năng của Ki-tô là gì? Để giải phóng con người khỏi tư duy nhị nguyên khỏi sự tách biệt. Nhưng giờ đây, con người nghe về khái niệm quả vị Ki-tô nhưng họ cho phép cái tôi của mình phóng chiếu vào tâm trí họ rằng khi họ đạt được quả vị Ki-tô, điều đó có nghĩa là thái cực nhị nguyên của họ sẽ được tâm Ki-tô xác chứng là chân lý tối hậu.

Ví dụ, con sẽ thấy những người theo đạo Cơ đốc, tất nhiên, hầu hết những người theo đạo Cơ đốc không tin rằng họ có thể đạt được quả vị Ki-tô, nhưng con sẽ thấy một số người đã mở lòng với ý tưởng rằng những người khác ngoài Giê-su có thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng họ nghĩ điều này có nghĩa là khi họ đạt được quả vị Ki-tô, đạo Cơ đốc sẽ được tâm Ki-tô xác chứng là tôn giáo tối hậu và bất kỳ tôn giáo nào khác sẽ bị tâm Ki-tô vô hiệu hóa và hạ thấp. Con có thể bắt đầu thấy tại sao điều này không bao giờ có thể xảy ra không?

Con có thể, con yêu dấu của ta, bắt đầu thấy điều này không? Có hay không? Ta chỉ đơn thuần hỏi để giúp con tỉnh thức. Nếu con lại ngủ thiếp đi, ta sẽ phải hỏi con nhiều câu hỏi hơn. Nhân tiện, đây là cách biểu đạt Ki-tô có thể thích nghi với thực tại của bát cung vật lý. Con có thể thấy sau đó cơ chế vận hành này đã trải bày như thế nào xuyên suốt các thời đại trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, trong nhiều truyền thống tâm linh khác nhau nơi con người bước vào một truyền thống tâm linh. Họ có thể đến từ không có truyền thống tâm linh nào hoặc họ có thể lớn lên trong một truyền thống tâm linh khác, nhưng giờ đây họ trải qua một quá trình thức tỉnh hoặc chuyển đổi và giờ đây họ trở nên tin chắc rằng giờ đây họ đã tìm thấy giáo lý hoặc truyền thống tâm linh tối hậu.

Chúng tôi đã thấy nhiều người ở phương Đông đột nhiên thức tỉnh với Phật giáo, một trong những hình thức Phật giáo, một trong những truyền thống Phật giáo, và họ tin rằng đây là tối hậu. Và sau đó họ nghe về ý tưởng về các trạng thái tâm thức cao hơn và một con đường tâm linh, và giờ đây họ nghĩ rằng đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn có nghĩa là truyền thống vỏ ngoài của họ sẽ được xác chứng. Và họ tìm đến một đạo sư cụ thể đã xác chứng truyền thống vỏ ngoài của họ và họ lấy đó làm bằng chứng rằng truyền thống của họ là tối hậu.

Con có thể thấy cách có những người ở Ấn Độ đã tin chắc rằng đạo sư Ấn Độ này hay đạo sư Ấn Độ kia hoặc đã giác ngộ hoặc đã đạt đến một định nghĩa nào đó về trạng thái tâm thức tối hậu, và họ đã cảm thấy rằng vì đạo sư này đến từ truyền thống Hindu, điều này giờ đây đã xác chứng Ấn Độ giáo là tôn giáo tối hậu. Tương tự trong Phật giáo, tương tự trong Đạo giáo, tương tự trong Cơ đốc giáo, tương tự trong Hồi giáo, ở khắp mọi nơi.

Điều con thấy ở đây là hầu hết mọi người đang theo tôn giáo vỏ ngoài, nhưng trong mỗi tôn giáo hoặc truyền thống tâm linh đều có những người đang bắt đầu thức tỉnh với con đường thần bí. Họ đang bắt đầu trở thành những nhà thần bí, nhưng giờ đây họ bị cái tôi lừa dối tin rằng việc đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, dù họ định nghĩa nó như thế nào, có nghĩa là truyền thống của họ sẽ được xác chứng và bản thân họ sẽ được xác chứng là những đệ tử tiến bộ nhất. Con có thể thấy điều này không, con yêu dấu của ta?

Vậy thì tôi sẽ tiếp tục. Con thấy đấy, khi con nhìn vào các đệ tử chân sư thăng thiên, con sẽ thấy cơ chế vận hành tương tự. Con quay lại những năm 1930 khi chúng tôi bắt đầu biểu đạt bản thân qua phong trào TA LÀ. Không có nhiều đệ tử TA LÀ ban đầu vẫn còn hiện thân, nhưng vẫn còn một số người tin chắc rằng đó là tiết lộ tuần tự tối hậu từ các chân sư thăng thiên. Và họ không cần phải xem xét bất cứ điều gì đến sau vì của họ là tối hậu.

Tương tự trong Summit Lighthouse và chúng tôi hy vọng rằng những người trong các con là một phần của đợt truyền giáo này sẽ không rơi vào cái bẫy này hoặc ít nhất sẽ có thể thoát ra khỏi nó khá nhanh chóng vì chúng tôi không có mong muốn con tìm kiếm sự xác chứng tối hậu của giáo lý vỏ ngoài hoặc sứ giả vỏ ngoài hoặc thông điệp vỏ ngoài. Điều chúng tôi mong muốn thấy là con đạt được quả vị Ki-tô cá nhân, nhưng để đạt được điều đó, con cần từ bỏ mong muốn được đúng. Và điều này không chỉ áp dụng cho giáo lý tâm linh của con, nó áp dụng trong đời sống hàng ngày.

Hãy nhìn vào bản thân con, vào những người con biết và xem có bao nhiêu lần con ở trong những tình huống mà con muốn mình đúng hoặc người khác muốn mình đúng. Trong mỗi phong trào tâm linh con có thể tìm thấy trên hành tinh này, con sẽ có những người rơi vào xung đột cá nhân. Giờ đây, trong nhiều trường hợp, những xung đột này không khác gì những xung đột con tìm thấy ngoài kia trên thế giới giữa những người không tâm linh. Chúng chỉ đơn giản là sự khác biệt về quan điểm vì con có một nền tảng khác, con có một tâm lý khác, con nhìn mọi thứ từ một góc nhìn khác.

Nhưng trong một phong trào tâm linh, điều này thường bị thổi phồng quá mức vì con nghĩ rằng việc con được chứng minh là đúng và phía đối diện được chứng minh là sai có tầm quan trọng cuồng đại. Giờ đây con có một xung đột đen trắng giữa những người tâm linh và thường không thể giải quyết được. Chúng tôi đã thấy con người tức giận và rời bỏ các phong trào tâm linh, chúng tôi đã thấy các phong trào tâm linh tan rã từ bên trong vì họ không thể giải quyết điều này.

Nhưng con thấy điều gì tạo ra xung đột đen trắng trong các phong trào tâm linh? Đó là ý tưởng rằng con đã đạt được một mức độ Ki-tô và vì con đã đạt được mức độ Ki-tô này nên con đúng và người kia chưa đạt được mức độ Ki-tô này và do đó, người đó sai. Con có thể thấy điều này vì con có quả vị Ki-tô, người kia không thể thấy điều này vì người đó không có mức độ Ki-tô mà con có và do đó, tình huống bị khóa và không có cách nào để giải quyết.

Không có cách nào để giải quyết khi cả hai bên vẫn nghĩ rằng biểu đạt Ki-tô của họ không bị cái tôi pha màu. Nhưng con thấy đấy, khi có một xung đột, cả hai bên đều bị cái tôi pha màu hoặc sẽ không có xung đột ngay từ đầu. Giải pháp cho điều này là gì? Đó là những đệ tử chân thành thực sự muốn đạt được quả vị Ki-tô, con cần nhận ra rằng tất cả các con, tất cả chúng ta khi chúng ta hiện thân trên trái đất, chúng ta có những bản ngã được tạo ra trong tiền kiếp muốn được đúng trên trái đất bằng cách chứng minh điều gì đó trên trái đất.

Và do đó, con nghĩ rằng khi con đạt được quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô qua con sẽ chứng minh điều gì đó trên trái đất, sẽ chứng minh điều gì đó trong vật chất. Nhưng điều này không phải vậy, đây là một sự hiểu lầm về Ki-tô là gì. Vì chức năng của tâm Ki-tô là gì? Đó là hợp nhất con với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên và hợp nhất con người theo chiều ngang. Có một sự hợp nhất theo chiều dọc dẫn đến một sự hợp nhất theo chiều ngang. Nếu không có sự hợp nhất theo chiều ngang, có lẽ lý do là không có đủ sự hợp nhất theo chiều dọc ở cả hai bên.

Bây giờ điều này có thể dễ dàng bị hiểu lầm nhưng hãy kiên nhẫn với tôi. Chức năng của tâm Ki-tô là hợp nhất, hợp nhất với cái ta cao của con, hợp nhất theo chiều ngang. Cái tôi, tâm nhị nguyên sẽ không bao giờ có thể thấu rõ điều này, không bao giờ. Nó không tính toán được như họ nói. Cái tôi sẽ luôn tìm cách đúng bằng cách chứng minh điều gì đó trên trái đất. Câu hỏi con cần tự hỏi mình là, con muốn đúng ở đâu? Con muốn đúng giữa loài người hay đúng với Thượng đế?

Nếu con muốn đúng với Thượng đế thì con hãy tìm trước vương quốc Thượng đế và sự công chính của Ngài, sự sử dụng đúng đắn khả năng phân biện của con. Và sau đó tất cả những thứ khác sẽ được thêm vào cho con. Nhưng chỉ khi con tìm trước vương quốc Thượng đế bằng cách từ bỏ tất cả những thứ của vật chất. Con có thể lại quán chiếu một phiên bản của câu hỏi của Padmasabhava: “Tại sao những điều quan trọng với con lại quan trọng với con?” Tại sao việc con đúng giữa loài người lại quan trọng với con?

Thường thì con sẽ thấy rằng điều này quay trở lại chấn thương nhập đời hoàn vũ nơi những sa nhân đã cố gắng đặt con vào một tình huống mà con được cho là đã bị chứng minh là sai theo một nghĩa tối hậu nào đó và cái tôi của con đã cố gắng bù đắp cho điều đó bằng cách chứng minh con đúng, rằng con đúng rốt cuộc.

Nhưng một lần nữa, đây là một cuộc tìm kiếm vô ích, một cuộc tìm kiếm bất khả thi của cái tôi. Tại sao? Tôi đã nói gì trước đây? Trong tâm thức nhị nguyên, con có thể chứng minh hoặc bác bỏ bất cứ điều gì. Không có cái đúng tối hậu. Con sẽ không bao giờ chứng minh được cho những người trong tâm thức sa ngã rằng con đúng. Con sẽ không bao giờ thuyết phục được những người vẫn còn trong tư duy nhân gian rằng con đúng.

Để biến điều này thành thực tế hàng ngày, con có một tình huống mà con không đồng ý với người khác. Dù đó là trong một phong trào tâm linh hay trong gia đình con hay ở nơi làm việc thì không quan trọng. Con có một sự bất đồng. Cái tôi sẽ luôn tìm cách chứng minh rằng con đúng bằng cách chứng minh người kia sai. Đây không phải là cách tiếp cận của Ki-tô. Cách tiếp cận cho những người tìm kiếm quả vị Ki-tô là, trước hết, tìm kiếm Vương quốc Thượng đế. Điều đó có nghĩa là gì? Tìm kiếm sự hợp nhất với cái ta cao của con.

Làm thế nào con đạt được sự hợp nhất với cái ta cao của con? Buông bỏ những bản ngã tiềm thức kéo con vào sự tách biệt. Hãy thành thật, hãy sẵn lòng nhìn vào bản thân và nói: “Tôi có một bản ngã tiềm thức đang ảnh hưởng đến cách tôi nhìn nhận tình huống này, cách tôi tiếp cận người khác không? Có phải tôi, Cái Ta Biết, có nhu cầu ám ảnh cưỡng chế này để được đúng không? Hay đó là một bản ngã tiềm thức có nhu cầu này?” Tất nhiên câu trả lời là rõ ràng, đó là một bản ngã tiềm thức. Con nhìn vào điều này, con giải thể bản ngã, con buông bỏ nó. Đây là tìm kiếm Vương quốc Thượng đế trước hết.

Khi con tìm kiếm điều này, tất cả những thứ khác sẽ được thêm vào cho con. Điều gì sẽ được thêm vào cho con? Chà, nhiều thứ có thể được thêm vào cho con, nhưng trước hết là sự trong sáng, một góc nhìn khác. Trong một số trường hợp, giả sử đó là một thành viên trong gia đình mà con sẽ có mối quan hệ lâu dài. Con có thể nhận được xung lực: “Điều gì quan trọng hơn đối với tôi? Được đúng? Chứng minh thành viên gia đình tôi sai? Hay có một mối quan hệ tốt hơn với người đó?”

Con cũng có thể nhận được xung lực, sự sáng ngộ, rằng điều quan trọng hơn cuộc tranh luận vỏ ngoài là con người, rằng con người quan trọng hơn việc con đúng, rằng điều quan trọng hơn là xem xét thay vì đúng: “Làm thế nào tôi có thể giúp người khác?” Hoặc đúng hơn: “Tâm Ki-tô qua tôi có thể giúp người khác thay vì tâm tự ngã chứng minh người khác sai và hạ thấp người đó không?”

Có nhiều sáng ngộ con có thể nhận được trong những tình huống này, nhưng con thấy đấy, nó đòi hỏi con phải tìm kiếm Vương quốc Thượng đế bên trong con trước bằng cách tìm cách đi vào một tâm thái mà con có thể nhìn tình huống một cách trung dung. Điều này đòi hỏi con phải trau dồi một khả năng mà tất cả các con đều có, và đó là khả năng đọc rung động. Giờ đây tại sao con lại ngồi đây lắng nghe một con người được cho là cho phép một chân sư thăng thiên nói qua anh ấy?

Không, vì con có thể đọc được rằng có một rung động đang chảy qua người vỏ ngoài này mà không thể đến từ người đó. Nó đến từ một mức độ cao hơn, và do đó, đáng để lắng nghe. Nếu đây là một con người đang biểu đạt một quan điểm nhân gian nào đó, ai quan tâm? Họ nhiều như rạ, như người ta nói. Nhưng vì con cảm thấy có một rung động cao hơn đang chảy qua người đó, con cảm thấy có điều gì đó khác biệt ở đây.

Con có khả năng đọc rung động, nhưng nhiều lần con không áp dụng nó cho bản thân để đọc rung động trong con, để đọc rung động của các bản ngã tiềm thức của con. Nhưng khi con tìm kiếm Vương quốc Thượng đế trước hết, con sẵn lòng nhìn vào bản thân và đọc rung động mà con đang tiếp cận tình huống mà con đang xung đột với người khác. Nếu con áp dụng điều này, con có thể học rất nhanh để đọc: “Ồ, rung động của tôi bị lệch. Nó không ở mức cao nhất. Nó không hài hòa.”

Trước hết con có thể học cách đọc: “Nó có ám ảnh cưỡng chế không? Có phải là điều tôi cảm thấy tôi phải làm không? Tôi phải thuyết phục người khác, và nếu tôi không thể thuyết phục người khác, tôi phải chứng minh họ sai, và tôi phải chứng minh cho người khác rằng họ sai. Bởi vì chúng ta phải có một giải pháp.” Sự ám ảnh cưỡng chế này chỉ có thể đến từ tâm thức nhị nguyên, các bản ngã tách biệt. Nó không đến từ tâm Ki-tô, bởi vì tâm Ki-tô tìm cách hợp nhất.

Con hợp nhất như thế nào? Chỉ qua các lựa chọn quyền tự quyết của con người. Sự hợp nhất không thể bị ép buộc. Sự chia rẽ và tách biệt có thể bị ép buộc. Xung đột có thể bị ép buộc. Sự hợp nhất không thể bị ép buộc. Có thể có những tình huống mà con nhìn vào sự ám ảnh cưỡng chế trong con, con đọc các bài chú để tiêu trừ năng lượng, con tìm kiếm bản ngã tiềm thức, con bắt đầu thấy bản ngã đó, và con để nó chết. Con đơn giản là để nó chết. Con nói, như Giê-su đã nói: “Điều đó can hệ gì đến con? Con hãy theo ta.” Con đang theo Ki-tô vào vương quốc, bỏ lại phía sau những gì trên trái đất, bỏ lại phía sau những gì quan trọng đối với ngã vỏ ngoài. Con đang để người chết đi chôn người chết. Khi con đã buông bỏ bản ngã, con có thể thấy người kia vẫn đang ở trong một trạng thái tâm trí nhất định. Họ có một bản ngã tiềm thức nhất định. Họ không thể thấy nó. Họ không thể thấy sự ám ảnh cưỡng chế của họ.

Trong một số trường hợp, con có thể chỉ đơn giản là quyết định: “Hãy cho người đó thêm thời gian. Hãy cố gắng tìm một giải pháp khả thi. Nhưng, đừng cố gắng chứng minh người khác sai.” Tôi không nói đây luôn là kết quả, nhưng trong một số trường hợp, nó sẽ là như vậy.

Có nhiều người, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, đã bị ám ảnh, chúng ta có thể nói, bởi ý tưởng Ki-tô luôn đúng, rằng luôn phải có đúng và sai, và do đó, bất kỳ lập luận nào cũng có thể được giải quyết bằng cách có chân lý đúng, chân lý cao nhất từ tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu hiểu sự tương phản giữa tâm thức nhị nguyên và tâm thức Ki-tô, con thấy rằng ngay cả tâm thức Ki-tô cũng không thể giải quyết các cuộc tranh luận được tạo ra từ nhị nguyên.

Tôi đã nói gì? Luôn luôn có hai thái cực đối lập. Con có thể tranh luận cho một bên, cho bên kia, và nếu con thiên vị một bên, con sẽ thấy những lập luận đó là có giá trị, nếu con thiên vị bên kia, con sẽ thấy những lập luận đó cũng có giá trị. Không có cách nào để hòa giải điều này bằng các lập luận, bằng cách chứng minh điều gì đó đúng. Nhưng con thấy đấy, đó không phải là trách nhiệm của con để thuyết phục người khác, đó là trách nhiệm của con để tăng trưởng, để đến gần hơn với quả vị Ki-tô, để dù kết quả của tình huống vỏ ngoài là gì, con vẫn tăng trưởng, con vẫn đến gần hơn với quả vị Ki-tô. Người khác, điều đó tùy thuộc vào quyền tự quyết của họ.

Khi con phấn đấu cho điều này, con sẽ nhận ra và con sẽ chấp nhận hoàn toàn, có những tình huống và xung đột không có giải pháp. Con có nghe tôi nói gì không? Có thể tạo ra các xung đột với tâm thức nhị nguyên mà không có giải pháp. Con không thể đưa ra một lập luận. Nghe này, ngay cả tâm Ki-tô cũng không thể đưa ra một lập luận có thể giải quyết các tranh chấp giữa con người.

Con có thể lấy bất kỳ số lượng tình huống nào, lấy ngay bây giờ tình hình giữa Israel và Palestine, hoặc tình hình giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Không có cách nào mà ngay cả tâm Ki-tô có thể giải quyết điều này ở mức độ mà xung đột được hình thành. Ở mức độ tâm thức, tâm thức nhị nguyên, nơi xung đột được định nghĩa, ngay cả tâm Ki-tô cũng không thể giải quyết nó. Không có giải pháp nào khả thi.

Đây là điều chúng tôi đã thấy lặp đi lặp lại, rất khó để con người chấp nhận. Nhưng con có tiềm năng vì chúng tôi đã chuẩn bị cho con rất nhiều giáo lý về tâm thức nhị nguyên và về quả vị Ki-tô. Giờ đây, điều này không có nghĩa là con bị mắc kẹt trong một tình huống, bởi vì như tôi đã nói, con tìm kiếm Vương quốc Thượng đế trước hết, con tìm cách đến gần hơn và gần hơn với quả vị Ki-tô, và đột nhiên việc tình huống vỏ ngoài không được giải quyết sẽ không còn quan trọng nữa.

Lấy tình hình giữa người Israel và người Palestine, người Do Thái và người Ả Rập. Không có giải pháp ở mức độ ngang. Giải pháp duy nhất là cả hai đều tăng cường kết nối dọc của họ với tâm Ki-tô, để họ nhận ra, tôi không phải là người Do Thái hay người Ả Rập, tôi còn hơn những định nghĩa này trong vật chất. Các đặc điểm của vật chất không quan trọng bằng sự hợp nhất của tôi với tâm Ki-tô. Do đó, khi con kết nối với tâm Ki-tô, con thấy rằng tất cả những người khác, những người từ phía bên kia cũng có nguồn gốc từ tâm Ki-tô.

Do đó, con có thể tìm kiếm một mức độ hợp nhất cao hơn để con có thể, thay vì cố gắng giải quyết xung đột ở mức độ ngang, con rời bỏ xung đột. Không có cách nào để giải quyết nó, nhưng con có thể thăng vượt nó. Con, những đệ tử trực tiếp của chúng tôi, chúng tôi trông cậy vào con để trở thành những người tiên phong cho điều này trong cuộc sống cá nhân của con, trong các tương tác của con với nhau, ngay cả trong các tương tác của con với tư cách là một cộng đồng tâm linh, để luôn tìm kiếm sự hợp nhất cao hơn đó, để tìm kiếm Vương quốc Thượng đế bên trong, để nói: “Điều đó can hệ gì đến tôi? Tôi sẽ theo Ki-tô vào một cõi cao hơn.”

Đó là cách con có thể thể hiện một ví dụ dũng mãnh về ý nghĩa của việc biểu đạt quả vị Ki-tô trong đời sống hàng ngày. Một số con đã làm được điều đó. Một số con rất gần. Đôi khi chỉ là một chút chuyển đổi tâm trí nơi con thấy: “Ồ, tôi chưa bao giờ thấy điều này trước đây, nhưng bây giờ nó quá rõ ràng. Việc tôi đúng với Thượng đế quan trọng hơn việc tôi đúng giữa loài người.” Rốt cuộc, cái con muốn đúng là gì? Nó không phải là Cái Ta Biết.

Vì Cái Ta Biết trong trạng thái thuần khiết của nó là gì? Nó là trung dung. Điều đó có nghĩa là gì? Chà, nó không bị kéo vào các thái cực nhị nguyên. Nó không ở giữa hai thái cực. Nó vượt quá thang đo. Nó nằm ngoài nhị nguyên. Nó chỉ đơn thuần quan sát. Tôi đã nói gì về việc đọc rung động? Con có thể học cách đọc khi rung động của con không ở mức độ Ki-tô, bởi vì con bị kéo vào suy nghĩ rằng điều gì đó thực sự quan trọng. Điều gì đó trong vật chất thực sự quan trọng. Sau đó con có thể kéo mình lại, đi vào bên trong, và tái kết nối, đạt được trạng thái trung dung đó nơi con có thể thấy: “À, điều tôi nghĩ là quan trọng thực sự không quan trọng. Nó không quan trọng bằng sự hợp nhất của tôi với tâm Ki-tô.”

Cuối cùng con sẽ thấy, như Padmasambhava đã nói: “không có gì trong vật chất quan trọng.” Đó là vấn đề thay đổi góc nhìn của con về vật chất và những gì quan trọng.

Với điều này, tôi đã cho con những gì tôi muốn cho con. Tôi biết ơn vì cơ hội này. Con có thể nói rằng những gì tôi đã cho con ở đây là một biểu hiện của từ bi. Vì từ bi tối hậu là gì? Một số người nghĩ đó là tha thứ, nhưng điều gì tha thứ? Liệu tâm nhị nguyên có bao giờ có thể tha thứ không? Liệu cái tôi có bao giờ có thể tha thứ không? Không, nhưng chỉ tâm Ki-tô mới có thể tha thứ. Nhưng tại sao tâm Ki-tô có thể tha thứ? Bởi vì đối với tâm Ki-tô, không có gì trong vật chất quan trọng. Tất cả có thể được tha thứ. Tất cả tội lỗi có thể được tẩy trắng như tuyết.

Với điều này, tôi niêm con trong Ngọn lửa Từ bi mà tôi nắm giữ cho trái đất. Cầu mong con chấp nhận Ngọn lửa Từ bi cho bản thân để con có thể tha thứ cho chính mình, trước hết, và chấp nhận sự tha thứ vô điều kiện của tâm Ki-tô.

3 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Saint Germain

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên Saint Germain. Chúng ta hãy đi vào câu chuyện trong Kinh thánh về Thánh Giu-se là cha của Chúa Giê-su và điều đã được nói trong những đợt truyền giáo trước đây rằng tôi là sinh thể đã đầu thai làm Giu-se. Một lần nữa, như Mẹ Mary đã giải thích, đây đều là biểu tượng và các con có thể nhìn vào biểu tượng ở những tầng cấp khác nhau. Nhưng chắc chắn các con có thể nhìn vào sự thật rằng con trẻ Ki-tô được nuôi dưỡng bởi mẹ nhưng cũng có một hình bóng người cha. Người cha làm gì cho Ki-tô khi Ki-tô lớn lên, khi con trẻ Ki-tô trưởng thành?

Chà, trước hết, người cha dạy con trẻ Ki-tô một nghề, một kỹ năng. Và điều này, tất nhiên, áp dụng cho các con theo nghĩa rằng các con là cha của Ki-tô bên trong các con. Các con là hình bóng người cha cũng như hình bóng người mẹ. Để biểu đạt quả vị Ki-tô cá nhân của mình, các con cần dạy Ki-tô một kỹ năng nhất định, một kiến thức nhất định. Điều này không nhất thiết có nghĩa là một nghề như thợ mộc hay nhà khoa học hay bất cứ thứ gì. Có thể là các con chọn một chủ đề gần gũi với mình, mà các con tâm huyết, và các con nghiên cứu chủ đề đó.

Nó không nhất thiết phải là một giáo dục chính quy. Có thể là các con tự nghiên cứu chủ đề này. Và các con trở thành một chuyên gia trong chủ đề đó theo nghĩa là các con biết chủ đề đó từ các góc độ, các quan điểm khác nhau. Điều này làm gì? Nó tạo ra một cấu trúc mà qua đó tâm Ki-tô có thể biểu đạt chính nó qua tâm của các con để có một chén thánh để dòng chảy tuôn vào. Các con, tất nhiên, có một biểu tượng khác từ Kinh thánh về chén mà Chúa Ki-tô đã dùng trong bữa Tiệc ly, Chén Thánh, như nó thường được gọi. Và biểu tượng cho điều này là, khi các con đang thu hoạch một kỹ năng nhất định, một kiến thức nhất định, các con đang hình thành trong bốn thể thấp của mình cái chén đó, cái chén thánh đó, để khi các con trưởng thành trong quả vị Ki-tô, có một chén thánh, một cấu trúc để rượu của tâm thức Ki-tô được rót vào. Bởi vì Ki-tô sẽ không chảy vào hư không, sẽ không chảy vào một bình rỗng nơi nó sẽ bị đổ ra đất.

Bây giờ một lần nữa, như PadmaSambhava đã chỉ ra, tâm vỏ ngoài, tâm lý trí, có thể lấy bất cứ điều gì chúng tôi nói và bóp méo nó và nói: “Có phải đó không phải là một mâu thuẫn sao? Bởi vì PadmaSambhava đã không nói về việc đến để thấy tất cả những cái ta này mà các con có, cái mà bị trói buộc vào quá khứ, cái mà bị trói buộc vào tương lai sao? Chúng ta không thể từ đây suy ra rằng nếu các con làm sạch tâm mình khỏi tất cả những cái ta này, thì tâm sẽ trong sạch và ánh sáng Ki-tô có thể chảy vào sao?”

Bây giờ tôi đang nói về việc trở thành một chuyên gia trong một chủ đề nào đó, nâng lên một cấu trúc trong tâm. Nhưng tôi không nói về việc nâng lên một cấu trúc được hình thành bởi những cái ta tiềm thức tách biệt này. Tôi đang nói về việc nâng lên một cấu trúc kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, để tâm Ki-tô có thứ mà nó có thể biểu đạt qua. Các con có thể nói: “Đây là vị sứ giả đang mang một thông điệp từ một chân sư thăng thiên mà tự nhiên chảy qua tâm Ki-tô. Và đúng vậy, vị sứ giả, như anh ấy đã giải thích, tìm cách trở nên trung hòa.” Nhưng nếu anh ấy hoàn toàn không biết gì về chủ đề đó, thì tôi không thể ban một bài truyền đọc qua anh ấy. Tôi không thể, qua vị sứ giả này, ban một bài truyền đọc có ý nghĩa về vật lý thiên văn hay vật lý hạt nhân hay phẫu thuật não. Bởi vì không có cấu trúc trong tâm của vị sứ giả có thể nhận các khái niệm mà tôi có trong tâm mình.

Đây là điều tôi muốn nói khi tôi nói, các con đang nâng lên một chén thánh, hình thành một chén thánh. Chén thánh này không được tạo thành từ những cái ta tách biệt. Nó được tạo thành từ các khái niệm, ý tưởng, ngôn ngữ, để các con có thể nhận các xung lực đến từ tâm Ki-tô. Bây giờ rõ ràng, tất nhiên, điều này không phải là một việc đơn giản để làm. Nó không chỉ là vấn đề tìm mọi cuốn sách các con có thể tìm thấy về một chủ đề nhất định và nghiên cứu tất cả chúng và ghi chép. Và ở đây các con biết tất cả những điều này. Bởi vì thách thức là cung cấp một cấu trúc mà Ki-tô có thể chảy vào, nhưng mà hạn chế sự biểu đạt của tâm Ki-tô càng ít càng tốt.

Tôi muốn nói gì với điều này? Chà, điều tôi muốn nói là nếu các con lấy ví dụ một nhà khoa học lớn lên trong một xã hội phương Tây hay hiện đại, đi học, đi đại học, học nhiều năm, nhận bằng cấp, có việc làm, tiếp tục thử nghiệm và nghiên cứu, nhà khoa học đó trong môi trường hiện tại trên trái đất sẽ bị lập trình, bị truyền giáo, bị tẩy não với triết học, ý thức hệ, tôn giáo gọi là chủ nghĩa duy vật khoa học.

Và điều đó có nghĩa là nếu nhà khoa học chấp nhận những gì đã được đặt vào tâm trí mình, thì nhà khoa học sẽ không dám nhận bất cứ điều gì từ tâm Ki-tô mà tra vấn, thách thức, vượt ra ngoài thế giới quan duy vật. Và điều này, tất nhiên, sẽ hạn chế sự biểu đạt của tâm Ki-tô. Các con thấy rằng thách thức là trở thành một chuyên gia trong một lĩnh vực nhất định mà không chấp nhận những niềm tin gây giới hạn cũng được tìm thấy trong lĩnh vực đó. Điều này có thể không phải là chủ nghĩa duy vật, đây có thể là những ý tưởng khác. Nó có thể là những ý tưởng vi tế mà không phải là một phần của bất kỳ ý thức hệ hay tôn giáo nào. Nhưng trong bất kỳ lĩnh vực nào, có những giới hạn nhất định. Và tại sao tôi lại nói điều này? Bởi vì nếu các con nhìn vào bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội, có một lối tư duy nhất định, có một hệ tư tưởng nhất định thống trị lĩnh vực đó. Và mặc dù điều này đặt ra một nền tảng cho lĩnh vực, nó cũng đặt ra giới hạn cho khả năng của một người để nhận những ý tưởng mới từ cõi thăng thiên. Và đây, tất nhiên, là thách thức đối với các con, nhưng nó không phải là một thách thức lớn như đối với những người ngoài thế giới không biết gì về quả vị Ki-tô.

Vì khi các con có kiến thức chúng tôi đã ban cho các con về quả vị Ki-tô, các con có thể thấy rằng các con có thể nghiên cứu một lĩnh vực, các con có thể biết những gì đã được đưa ra trong lĩnh vực đó cho đến nay, mà không giới hạn tâm trí của mình bằng cách nghĩ: “Ồ, đây là kiến thức tối hậu.” Các con biết, khi các con có một cái nhìn tâm linh, ví dụ, rằng chủ nghĩa duy vật khoa học không phải là thế giới quan tối hậu, hoặc thế giới quan Công giáo không phải là cái nhìn tối hậu. Do đó, các con có thể tránh để tâm mình bị giới hạn bởi những hộp tư duy đã được tạo ra trong thế giới, để kiến thức của các con không giới hạn khả năng của tôi hoặc khả năng của một chân sư thăng thiên khác để ban cho các con những ý tưởng mới có thể đưa lĩnh vực đó tiến lên, có thể cho phép các con nói về lĩnh vực đó theo một cách mới, khác biệt, mang lại một góc nhìn khác có thể giúp những người khác suy nghĩ.

Bây giờ, có một khía cạnh khác của yếu tố cha, đó là con trẻ Ki-tô, khi nó còn là một đứa trẻ, cần được đặt ra ranh giới cho nó.

Có một số câu chuyện kể rằng Chúa Giê-su, khi còn là một đứa trẻ, đã thử nghiệm khả năng của mình, chẳng hạn như tạo ra các hình đất sét và thổi sự sống vào chúng. Mặc dù những câu chuyện này là hư cấu, nhưng nó là một ví dụ về điều mà nhiều người mơ ước khi họ nghe khái niệm quả vị Ki-tô. Họ nghĩ rằng họ có thể làm những điều kỳ diệu này, biểu hiện tất cả các loại phép lạ, tất cả các loại dấu hiệu và điềm lạ. Và tâm Ki-tô này cần được rèn luyện để nó hòa điệu vào thời gian, xã hội mà các con đang sống.

Như chúng tôi đã nói trước đây, vào thời Chúa Giê-su, tâm thức tập thể dày đặc đến nỗi cần thiết cho ngài phải thực hiện những phép siêu phàm dường như kỳ diệu nhất định để thu hút sự chú ý của mọi người. Bây giờ, các con tất nhiên có thể nhìn vào tất cả các phép lạ được mô tả trong kinh thánh theo một cách hoàn toàn biểu tượng và thấy một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn đằng sau chúng thay vì hiểu theo nghĩa đen. Nhưng đó là một cuộc thảo luận khác cho một ngày khác. Điều tôi muốn chỉ ra ở đây là, tâm Ki-tô có thể biểu đạt những điều nhất định trong sự hăng hái tìm kiếm sự biểu đạt của nó mà không nhất thiết phải mang tính xây dựng cho tình huống cụ thể.

Các con phải rèn luyện tâm trí của mình bằng cách nhận ra rằng các con sẽ có những cái ta trong tâm tiềm thức của mình muốn tạo ra một loại biểu hiện không thể phủ nhận nào đó để các con có thể chứng minh rằng có điều gì đó vượt ra ngoài những gì mọi người tin. Điều này đặc biệt đúng đối với các avatar vì các con có động lực rằng các con có một tầm nhìn nhất định, một khao khát nhất định trước khi các con đến trái đất về những gì các con muốn đạt được. Và sau đó các con nhận được chấn thương nhập đời, cảm thấy bị từ chối, bắt đầu nghi ngờ rằng nó có thể đạt được. Khi các con bắt đầu tìm hiểu về khái niệm quả vị Ki-tô và mở lòng mình với khả năng rằng các con có thể có Ki-tô được sinh ra trong các con, thì các con có thể rất dễ dàng chuyển đổi điều này và nghĩ: “À, khi tôi đạt được quả vị Ki-tô, thì tôi có thể làm những gì tôi muốn làm trước khi tôi đến đây, thì tôi có thể biểu hiện điều gì đó mà họ không thể phủ nhận, mà họ không thể hạ thấp.” Nhưng đây không phải là một biểu hiện thích hợp của quả vị Ki-tô trong hầu hết các trường hợp. Và do đó, yếu tố cha cần phải đến và rèn luyện con trẻ Ki-tô.

Yếu tố cha trong bản thể của các con là gì? Đó không phải là Cái Ta Biết, mà là Hiện diện TA LÀ. Và bằng cách Cái Ta Biết, hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, các con có thể học cách cẩn thận với sự biểu đạt của quả vị Ki-tô.

Bây giờ có vẻ như một lần nữa, như PadmaSambhava đã chỉ ra, rằng chúng tôi đang mâu thuẫn với chính mình, vì ngay cả trong kinh thánh cũng đã nói rằng “Thánh Linh thổi đâu tùy ý”. Điều đó hài hòa với ý tưởng rằng các con nên hạn chế sự biểu đạt của quả vị Ki-tô của mình như thế nào? Chà, tôi không nói rằng tâm vỏ ngoài của các con nên hạn chế sự biểu đạt của quả vị Ki-tô của các con. Tôi nói là Hiện diện TA LÀ của các con. Tâm vỏ ngoài sẽ hạn chế quả vị Ki-tô dựa trên văn hóa, ví dụ, các con lớn lên hoặc gia đình và những gì thích hợp ở đó. Nhưng Hiện diện TA LÀ không bị ràng buộc bởi điều này. Nhưng nó có tầm nhìn cao hơn về cách xây dựng nhất để biểu đạt quả vị Ki-tô. Và điều này sau đó đưa tôi đến một chủ đề mà tôi không phải là người duy nhất sẽ bình luận. Nhưng đó là một chủ đề mà một lần nữa, thực sự chỉ có Hiện diện TA LÀ mới có thể giúp các con có được tầm nhìn về điều tôi đang nói.

Các con thấy ở đây, chúng ta hãy lùi lại và xem xét tình huống của một người tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên, nghe nói về khái niệm quả vị Ki-tô cá nhân, và quyết định: “Tôi muốn biết thêm về điều này.” Tình huống của một người tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên là gì? Tình huống của tất cả các con khi các con tìm thấy một giáo lý chân sư thăng thiên là gì? Chà, các con đã lớn lên trong một nền văn hóa nhất định, các con có một tâm lý nhất định dựa trên tiền kiếp của các con và dựa trên kiếp này, các con có một số lượng nhất định những cái ta tiềm thức, những cái ta đó cùng nhau hình thành tập hợp mà chúng ta có thể gọi là tự ngã. Tư duy của các con, cách các con nhìn thế giới, cách các con nhìn bản thân, toàn bộ cách tiếp cận cuộc sống của các con ở một mức độ nào đó đã bị pha màu bởi tự ngã.

Và đây là, chúng ta có thể nói, bí ẩn trung tâm trên con đường tâm linh. Nó là một thách thức đối với các con, nó là một thách thức đối với chúng tôi, các chân sư thăng thiên. Bởi vì khi các con nghe nói về khái niệm quả vị Ki-tô, các con vẫn bị pha màu bởi tự ngã đến mức các con sẽ chuyển một phần màu sắc đó sang mọi điều chúng tôi đã nói về quả vị Ki-tô.

Chúng tôi đã thấy điều này cả trong phong trào I AM, trong Summit Lighthouse, và trong đợt truyền giáo này, nơi những đệ tử mới, ngay cả những người đã đi trên con đường một thời gian, nghe nói về khái niệm quả vị Ki-tô. Và trong tâm trí của họ, họ hình thành một hình ảnh về ý nghĩa của điều này. Và hình ảnh đó ở một mức độ nào đó bị pha màu bởi tự ngã, bởi những cái ta tiềm thức. Bây giờ một lần nữa, điều này không phải là để đổ lỗi cho các con, điều này là tất yếu. Không thể có cách nào khác. Điều đó cũng giống như đối với tất cả chúng tôi, những người đã thăng thiên từ trái đất. Chúng tôi cũng vậy, khi chúng tôi lần đầu tiên nghe về những khái niệm này, trong tâm trí của chúng tôi, chúng tôi đã pha màu các ý tưởng, các khái niệm, với các quan điểm, tầm nhìn của tự ngã.

Một lần nữa, yếu tố cha trong tâm trí của các con, Hiện diện TA LÀ, là cái có thể ban cho các con những xung lực vi tế này có thể giúp các con thấy nơi nỗ lực biểu đạt quả vị Ki-tô của các con bị pha màu bởi tự ngã. Và điều này có nhiều hệ quả khác nhau, mà chúng ta sẽ nói về. Nhưng điều tôi muốn tập trung vào ở đây là, ý tưởng này rằng tự ngã sẽ luôn nghĩ rằng bằng cách các con đạt được quả vị Ki-tô, quyền năng của tâm Ki-tô có thể thỏa mãn những ham muốn của tự ngã.

Hãy lắng nghe điều tôi đang nói. Tự ngã có ham muốn. Tự ngã chưa thấy sự thỏa mãn các ham muốn của nó. Do đó, tự ngã luôn bực bội.

Như chúng tôi đã giải thích, không thể thỏa mãn những ham muốn sâu sắc hơn của tự ngã. Tại sao lại như vậy? Bởi vì tự ngã, ít nhất là trong biểu hiện thấp hơn của nó, được sinh ra khi các con bước xuống dưới tầng tâm thức thứ 48, bước vào ảo tưởng tách biệt, ngừng nhìn nhận bản thân như một sinh thể nối kết.

Đây là một mất mát, bởi vì khi các con nhìn nhận bản thân như một sinh thể nối kết, các con có cảm giác rằng sự thỏa mãn tối hậu các ham muốn của các con có thể đạt được bằng cách tăng cường kết nối của các con với Hiện diện TA LÀ của các con. Bởi vì cuối cùng, điều mà Cái Ta Biết mong muốn là hợp nhất với Hiện diện. Sự thỏa mãn tối hậu của Cái Ta Biết là hợp nhất với Hiện diện. Khao khát tối hậu của Cái Ta Biết là quay trở lại hợp nhất với Hiện diện.

Chừng nào các con còn nhìn nhận bản thân như một sinh thể nối kết, các con chưa cảm thấy hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện, các con chưa cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn, nhưng các con biết rằng bằng cách tăng cường cảm giác kết nối của mình, cảm giác hợp nhất của mình, các con có thể tiến gần hơn và gần hơn đến sự thỏa mãn tối hậu các ham muốn của mình.

Nhưng ngay khi các con bước vào sự tách biệt và tạo ra tự ngã, các con không thể thỏa mãn khao khát hợp nhất với Hiện diện thông qua tự ngã nữa. Các con có thể thỏa mãn nó, tất nhiên, bằng cách quay trở lại làm một sinh thể nối kết, nhưng chừng nào các con còn nhìn nhận bản thân qua màu sắc của tự ngã, phin lọc nhận thức của tự ngã, các con không thể thỏa mãn khao khát tối hậu của mình. Do đó, tự ngã ngay từ đầu đã ở trong một cuộc tìm kiếm bất khả thi. Nhưng tự ngã, tất nhiên, sẽ không bao giờ có thể thấy điều này — không bao giờ. Nó thậm chí không thể hiểu được điều đó về mặt lý trí.

Tự ngã luôn tìm cách tìm một thứ gì đó có thể đền bù cho sự thiếu hụt cơ bản về kết nối với Hiện diện. Lúc đầu, tự ngã tìm cách tìm thứ đó ở thế giới vật chất này, điều gì đó trong vật chất sẽ thỏa mãn các con. Nếu các con có đủ tiền, nếu các con có đủ quyền lực, nếu các con có đủ cái này, đủ cái kia trong thế giới vật chất, thì các con sẽ được thỏa mãn.

Rất nhiều người qua các thời đại đã cố gắng tìm kiếm sự thỏa mãn thông qua vật chất, nhưng dù họ làm gì đi nữa, họ không tìm thấy. Những sa nhân đã, qua nhiều bầu cõi, cố gắng tìm kiếm sự thỏa mãn thông qua một thứ gì đó trong thế giới vật chất và họ đã không tìm thấy. Cuối cùng, một sinh thể có thể đạt đến một điểm mà nó trở nên chán chê cuộc tìm kiếm bất khả thi này. Nó thấy sự phù phiếm của nó, sự phù phiếm của phù phiếm, tất cả đều là phù phiếm. Và sau đó nó có thể mở lòng với một con đường tâm linh nói về điều gì đó từ bên ngoài thế giới này.

Nhưng các con thấy đấy, tự ngã vẫn đang cố gắng làm điều bất khả thi. Khi các con nghe nói về khái niệm quả vị Ki-tô, tự ngã nghĩ gì? Nó nghĩ: “À! Quả vị Ki-tô là một cách để làm điều bất khả thi. Chắc chắn, tâm Ki-tô… Ồ! hãy nhìn những phép lạ của Chúa Giê-su! Chắc chắn khi tôi đạt được quả vị Ki-tô, tôi có thể làm điều bất khả thi.” Nhưng các con không thể. “Thánh Linh thổi đâu tùy ý”, quả vị Ki-tô biểu đạt chính nó theo tầm nhìn lớn hơn, chứ không phải theo tầm nhìn của tự ngã.

Các con thấy đấy, một trong những yếu tố chính có thể chặn đứng quả vị Ki-tô đối với bất kỳ ai chính là việc các con có trong tâm vỏ ngoài của mình một ý tưởng nhất định, một tầm nhìn nhất định rằng khi các con là Ki-tô, khi các con có quả vị Ki-tô, các con có thể làm phép lạ này, phép siêu phàm kia, các con có thể làm điều bất khả thi. Chừng nào các con còn có niềm tin đó, các con có thể đến gần quả vị Ki-tô, nhưng các con sẽ không vượt qua vạch đích.

Các con sẽ giống như một vận động viên chạy đường dài, một cuộc marathon, và nó thấy vạch đích, nhưng nó không nhận ra rằng nó có một sợi dây kéo theo phía sau, và sợi dây được buộc vào một cái cột. Và ngay trước khi nó đến vạch đích, sợi dây đã được kéo hết cỡ. Và vận động viên vẫn đang chạy, đôi chân đang đạp, cánh tay đang vung, phổi đang thở, và anh ấy đang nghĩ: “Tôi rất gần, tôi đang ở ngay đó.” Nhưng anh ấy không nhận ra sợi dây không thể cho phép anh ấy đi xa hơn.

Và chúng tôi đã thấy những đệ tử chân sư thăng thiên, chúng tôi đã thấy những đệ tử tâm linh từ các truyền thống khác đang ở đó. Họ đang chạy, họ đang thực hành, họ đang đọc chú, họ đang làm điều này, họ đang học, và họ đang nghĩ: “Tại sao tôi không ở đó? Tại sao tôi không ở đó?” Nhưng đó là vì họ bị ràng buộc với tự ngã bởi khao khát về một điều gì đó tối hậu.

Mẹ Mary đã giải thích cẩn thận điều gì? Các con không chuyển đổi tức thì từ việc không là Ki-tô sang việc là Ki-tô. Đó là một tiến trình đòi hỏi nhiều bước dần dần, nhưng tự ngã không có thời gian cho các bước dần dần. Nó muốn nó ngay bây giờ, sự thỏa mãn tối hậu ngay bây giờ, và cái nhìn đó có thể chặn đứng quả vị Ki-tô của các con nhiều hơn bất kỳ yếu tố đơn lẻ nào khác. Tất nhiên có những yếu tố khác, nhưng yếu tố này có thể chặn đứng quả vị Ki-tô của các con nhiều hơn bất kỳ yếu tố đơn lẻ nào khác.

Do đó, các con cần dành một chút thời gian để quán chiếu điều này. Để hỏi bất kỳ chân sư nào mà các con cảm thấy gần gũi với mình, để giúp các con thấy những yếu tố nào của điều này mà các con có trong tâm trí, trong tâm tiềm thức của các con, trong bốn tầng của tâm trí các con, mà vẫn còn có giấc mơ biểu đạt một điều gì đó tối hậu. Một điều gì đó không thể phủ nhận, điều gì đó mà những người ở trái đất này không thể phủ nhận, và cuối cùng họ sẽ lắng nghe các con, họ sẽ công nhận các con, và họ sẽ thấy các con là vị cứu tinh, là đấng cứu thế mà các con khao khát trở thành trước khi các con đến. Điều mà tất cả chúng ta đều khao khát trở thành trước khi chúng ta đến, bởi vì tất cả chúng ta đều có một tầm nhìn nhất định về những gì chúng ta muốn hoàn thành trên trái đất, nếu không thì chúng ta đã không đến đây, không một ai trong chúng ta.

Nhưng các con thấy đấy, tầm nhìn đó có thể vẫn hợp lệ nhưng khi nó đã bị pha màu bởi tự ngã, nó trở nên vô hiệu. Nó trở thành sợi dây đang níu giữ các con không cho vượt qua vạch đích. Nhưng tất nhiên không có vạch đích nào cả, bởi vì, như Mẹ Mary đã giải thích, quả vị Ki-tô là một tiến trình không ngừng nghỉ, không bao giờ kết thúc.

Khi nào các con hoàn toàn là Ki-tô? Không phải khi các con còn trên trái đất. Ngay cả vào thời điểm thăng thiên, các con cũng không hoàn toàn là Ki-tô. Khi các con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo, chúng ta có thể nói về sự viên mãn của Ki-tô. Nhưng điều đó thực sự còn rất xa đối với tất cả chúng ta, bao gồm cả tôi, với tư cách là một chân sư thăng thiên vẫn đang làm việc với trái đất.

Các con thấy ở đây, giấc mơ về một điều gì đó tối hậu này phải được buông bỏ, để các con sẵn lòng là Ki-tô từng bước một. Từng biểu hiện một của quả vị Ki-tô. Ngay cả biểu hiện nhỏ nhất của quả vị Ki-tô cũng quan trọng, bởi vì nó giúp các con trải nghiệm rằng tâm Ki-tô có thể chảy qua các con, và điều này tăng cường khả năng tin tưởng của các con rằng tâm Ki-tô có thể được biểu đạt qua các con, và sẽ biểu đạt chính nó qua các con.

Nó cũng giúp các con nhận ra rằng tâm Ki-tô chỉ có thể biểu đạt chính nó qua các con khi tự ngã của các con không tìm cách kiểm soát nó, và ép buộc nó vào một hình thức nhất định. Bởi vì nếu tâm Ki-tô biểu đạt chính nó qua hình ảnh mà tự ngã của các con nắm giữ, nó sẽ chứng thực hình ảnh đó, và Cái Ta Biết có thể sẽ nghĩ rằng cái nhìn của tự ngã về Ki-tô là cái nhìn tối hậu về Ki-tô. Và điều đó, tất nhiên, có thể trở thành một cối đá nữa quanh cổ các con.

Vì tự ngã không bao giờ có thể nắm bắt được Ki-tô là gì. Nó thậm chí không thể hiểu được điều đó về mặt lý trí, vì chúng tôi đã nói bao nhiêu lần rồi? Ki-tô luôn luôn là hơn nữa. Ki-tô biểu đạt điều gì đó hơn nữa trong mọi tình huống. Nhưng nó không phải là tối hậu, nó chỉ là một chút hơn nữa đó cho phép mọi người thấy rằng có nhiều điều để hiểu, nhiều điều để nắm bắt hơn những gì họ đang hiểu ngay bây giờ. Nó đưa họ lên một bước cao hơn. Đó là Ki-tô.

Các con lại thấy, làm thế nào giấc mơ về sự biểu đạt tối hậu của Ki-tô có thể phá hoại ngay cả biểu hiện nhỏ nhất của Ki-tô, để các con thậm chí không bao giờ bắt đầu. Và đó, tất nhiên, là mục tiêu lớn hơn của tự ngã, rằng khi các con nghe nói về con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, nó muốn các con không bao giờ bắt đầu trên con đường đó.

Nó muốn các con đi con đường giả dối của việc tìm cách làm cho Ki-tô tuân theo tầm nhìn của tự ngã, nhưng Ki-tô sẽ không bao giờ tuân theo. Do đó, các con đang làm gì? Mọi người đang làm gì khi họ đang đi con đường giả dối, con đường tay trái? Họ đang sử dụng tự ngã để xây dựng một thần tượng của Ki-tô, về Ki-tô là gì, và họ đang tìm cách sống theo thần tượng này để tuân theo nó.

Có những ví dụ về những người đã đạt được một số khả năng thao túng người khác, thao túng tâm trí, thậm chí thao túng vật chất, bằng cách đi con đường giả dối này. Nhưng đây không phải là con đường mà chúng tôi đang tìm cách giúp các con đi. Chúng tôi đang tìm cách giúp các con đi con đường chân chính thực sự dẫn đến quả vị Ki-tô.

Nhưng điều gì có thể hướng dẫn các con vào con đường chân chính? Yếu tố cha trong bản thể của các con. Và yếu tố cha là Hiện diện TA LÀ của các con, nhưng cũng là tất cả các chân sư thăng thiên, những người gần gũi nhất với các con. Có thể là một chân sư thăng thiên nữ có thể đại diện cho yếu tố cha trong bản thể của các con, nếu các con sẵn lòng cầu xin sự hướng dẫn.

Không ai đã từng thăng thiên từ trái đất có thể làm điều đó trong một bước nhảy vọt khổng lồ, hoặc không có sự giúp đỡ từ trên cao. Đây là toàn bộ ý tưởng về Ki-tô. Hãy cẩn thận và lắng nghe ở đây. Một khi các con đã đi vào sự tách biệt và nhị nguyên, các con không thể tự mình thoát ra. Tâm trí của các con có thể suy luận theo cách của nó vào sự nhị nguyên và tách biệt. Các con không thể suy luận theo cách của mình để thoát ra.

Chỉ có một lối thoát, và đó là tái kết nối với tâm Ki-tô. Nhưng các con không thể tái kết nối với tâm Ki-tô hoàn vũ, mà chỉ với một biểu hiện cá nhân của tâm Ki-tô, cụ thể là một chân sư thăng thiên. Đó là vai trò của chúng tôi, đó là vai trò chúng tôi đã chọn. Đó là vai trò chúng tôi được giao phó để thực hiện. Niềm vui của chúng tôi là hướng dẫn các con nhưng chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết của các con. Do đó, các con phải hỏi, các con phải hỏi với một tâm trí cởi mở và trung hòa nhất có thể.

Rất nhiều đệ tử đã đến hỏi, nhưng họ lại vô thức nói: “Ồ Saint Germain, làm ơn hãy chứng thực tự ngã của con! Con thực sự cảm thấy rằng nếu ngài chứng thực tự ngã của con, đó sẽ là sự chứng thực cao nhất mà tự ngã của con có thể nhận được, và nó sẽ cảm thấy rất mạnh mẽ và rất tốt.” Đương nhiên, tôi không thể đáp ứng yêu cầu như vậy, vì nó sẽ giam hãm các con nhiều hơn trong những ảo tưởng của tự ngã.

Đó là lý do tại sao đôi khi yếu tố cha phải tát đứa trẻ, nói theo nghĩa biểu tượng, để làm đứa trẻ thoát ra khỏi niềm tin rằng nó đã hiểu rõ mọi thứ. Các con có thể, và nhiều người đã nghĩ qua các thời đại, rằng các con đã hiểu rõ mọi thứ, nhưng họ chỉ giữ mình ra khỏi vương quốc Thượng đế. Vì vương quốc Thượng đế ở đâu? Ở bên trong các con. Không phải bên trong cơ thể vật lý của các con, không phải bên trong thể cảm xúc của các con, không phải bên trong thể lý trí của các con, không phải bên trong thể bản sắc của các con. Bên trong các con, Cái Ta Biết. Cái gì ở bên trong Cái Ta Biết? Hiện diện TA LÀ.

Với điều này, tôi đã ban cho các con những gì tôi muốn ban cho các con, thậm chí còn hơn một chút. Tôi cảm ơn các con đã chú ý, vì đã cho phép tôi làm người cha như tôi đã làm cho Chúa Giê-su, và như tôi đã làm cho sự giáng sinh của Ki-tô trong chính mình — hoặc ít nhất là Hiện diện TA LÀ của tôi đã làm.

Với điều này, tôi niêm các con trong niềm vui của trái tim tôi.

2 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của PadmaSambhava

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên PadmaSambhava, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi là Chân sư Thăng thiên PadmaSambhava. Và một số người có thể nói: “Ngài không phải từ truyền thống Phật giáo sao? Và giờ ngài lại có mặt ở một hội nghị về quả vị Ki-tô?” Vâng, trước hết, tôi không đến từ truyền thống Phật giáo nào cả. Tôi là một chân sư thăng thiên! Không có chân sư thăng thiên nào đến từ bất kỳ truyền thống nào trên trái đất. Bởi vì làm sao con thăng thiên được? Bằng cách thăng vượt mọi truyền thống trên trái đất. Dù là cái này, dù là cái kia, dù là cái kế tiếp. Không gông cùm nào từ trái đất có thể trói buộc con khi con thăng thiên. Đó là toàn bộ tiến trình rũ bỏ—trước tiên là gông cùm này, rồi đến cái kế tiếp, rồi đến cái kế tiếp, cho đến khi không còn gông cùm nào nữa. Và sau đó, con có thể bước vào cõi thăng thiên. Nếu con coi tôi đến từ một truyền thống nào đó, con đã không hòa điệu với sinh thể thăng thiên mà tôi LÀ.

Sau đó, tất nhiên, là khái niệm về quả vị Ki-tô. Vâng, quả vị Ki-tô, Ki-tô, Cơ đốc giáo. Nhưng quả vị Ki-tô có thể bị trói buộc bởi bất kỳ truyền thống, bất kỳ tôn giáo nào trên trái đất không? Nó có thể bị giới hạn trong các giáo điều và tín điều, các nghi lễ không? Không, quả vị Ki-tô là một trạng thái tâm thức cao hơn. Đó là Tâm Một, Tâm Một hiệp nhất Đấng Sáng tạo với tạo vật của Ngài. Điều đó cũng vượt quá mọi thứ trên trái đất. Và con có thể chứng minh điều đó bằng cách đọc Phúc âm Giăng. “Ban đầu có Ngôi Lời.” Ban đầu có tâm Ki-tô, Tâm Một. Trước khi bất cứ điều gì, bất kỳ hình tướng nào xuất hiện, đã có Tâm Một, tâm Ki-tô. “Nếu không có Ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành.” Trước tiên là tâm Ki-tô, sau đó mới có hình tướng.

Vậy làm sao bất kỳ hình tướng nào có thể giới hạn cái đã có trước nó? Đây là lời dối trá của những sa nhân, hay tâm phản Ki-tô, mà chúng muốn con người trên trái đất tin—rằng hình tướng có thể giới hạn nguồn gốc của nó, mà theo định nghĩa phải vượt quá hình tướng. Rằng hình tướng có thể giới hạn cái vô hình tướng, cái vượt quá hình tướng. Thật khó để nhận ra lời dối trá này sao? Vâng, đây là thế kẹt lưỡng nan, là bí ẩn. Con chỉ có thể thấy rằng đây là một lời dối trá khi con có một sự hòa điệu nào đó với tâm Ki-tô. Sự hòa điệu này mang lại điều gì cho con? À, nó mang lại cho con một khung tham chiếu vượt ra ngoài tranh luận, vượt ra ngoài lý luận, vượt ra ngoài tư duy duy lý, vượt ra ngoài giáo điều và tín điều, vượt ra ngoài các cuộc thảo luận. Không gì trên trái đất có thể trói buộc tâm Ki-tô. Không hình tướng nào có thể trói buộc cái vô hình tướng. Nó chỉ tự trói buộc chính nó. Và nó trói buộc con nếu con tin vào nó. Nếu con tin rằng hình tướng có thể giới hạn biểu hiện của Ki-tô trong con.

Có phải tôi đang mâu thuẫn với điều mà Mẹ Mary đã giải thích rất cẩn thận không? Rằng biểu hiện của quả vị Ki-tô cần phải được thích nghi với cách mọi thứ đang diễn ra trên trái đất hiện nay? Có phải về cơ bản bà đang nói rằng biểu hiện của quả vị Ki-tô, vốn là một biểu hiện của cái vô hình tướng, phải bị giới hạn bởi, phải thích nghi với, hình tướng đang hiện hữu ngay bây giờ không? Có phải tôi đang nói điều ngược lại không? Không hẳn vậy. Khi con nắm bắt được rằng mặc dù Ki-tô được thích nghi với hình tướng như hiện tại, nhưng biểu hiện của Ki-tô luôn luôn nhiều hơn hình tướng. Đó là toàn bộ mục đích. Điều Mẹ Mary đang nói không phải là quả vị Ki-tô phải tuân theo hình tướng, mà phải thích nghi với hình tướng. Nhưng biểu hiện của quả vị Ki-tô vẫn vượt ra ngoài hình tướng hiện có, biểu hiện một điều gì đó vượt ra ngoài. Điều Mẹ Mary đang nói là biểu hiện đó không thể quá xa vời so với hình tướng đến nỗi những người vẫn còn tự đồng hóa với hình tướng không thể nắm bắt được biểu hiện đó. Nó phải được thích nghi với mức độ tâm thức của họ để họ thấy có điều gì đó hơn thế nữa.

Và họ có thể thấy gì khi họ trải nghiệm biểu hiện của tâm Ki-tô? À, họ có thể trải nghiệm rằng có điều gì đó hơn hình tướng đang quan trọng với họ ngay bây giờ. Hãy nhìn chính mình, nhìn những người con biết, nhìn những người trong thế giới. Điểm chung mà tất cả mọi người đều có là gì? Có điều gì đó quan trọng đối với họ. Điều gì đó trên trái đất, điều gì đó trong hình tướng, điều gì đó trong vật chất quan trọng đối với họ. Nhưng khi con gặp Ki-tô, con có thể thấy rằng có lẽ điều mà con coi trọng không nhất thiết phải quan trọng đến mức đó. Điều tôi muốn truyền tải đến con ngay từ đầu hội nghị này là ý nghĩ này. Hãy quán chiếu khi con có một khoảnh khắc trong hội nghị, sau hội nghị. Hãy quán chiếu. Có lẽ trước khi con đi ngủ vào buổi tối. Hãy quán chiếu. Tại sao điều quan trọng đối với tôi lại quan trọng đối với tôi? Tại sao điều quan trọng đối với con lại quan trọng đối với con? Hãy quán chiếu điều này.

Con sẽ thấy rằng con có nhiều điều quan trọng đối với mình. Nó có thể không phải là hình tướng vật lý quá nhiều. Nó có thể là cách người khác nhìn con. Hoặc cách con nghĩ người khác nhìn con. Hoặc cách con muốn người khác nhìn con. Hoặc cách con thực sự nhìn chính mình, dựa trên cách con nghĩ người khác nhìn con. Và cứ thế, cứ thế. Khi con bắt đầu quán chiếu điều này, con có thể thấy rằng có rất nhiều điều này quan trọng đối với con. Và đối với mỗi điều quan trọng đối với con, điều gì đang ẩn giấu đằng sau nó? Vâng, tất nhiên, đó là một tiềm ngã.

Đâu là chìa khóa cốt yếu để giải quyết bí ẩn về lý do tại sao điều quan trọng đối với con lại quan trọng đối với con? Đó là tự hỏi chính mình: “Cái ‘con’ mà điều đó quan trọng đối với nó là ai? Có phải là cái con thật sự, cái Ta Biết? Hay đó là một cái ‘con’ vỏ ngoài?” Một cái ‘con’ nào đó mà con đã tạo ra có lẽ từ nhiều kiếp trước, có lẽ là kết quả của chấn thương nhập đời vũ trụ của con, mà con nghĩ rằng cách thế giới nhìn con là quan trọng đối với con. Và cái ngã này chỉ có thể nghĩ như vậy bởi vì nó được tạo ra dựa trên niềm tin này, ảo tưởng này rằng cách thế giới nhìn con là quan trọng đối với con. Rằng cách hình tướng nhìn con là quan trọng đối với con, cái Ta Biết.

Có điều gì trong hình tướng quan trọng đối với cái Ta Biết không? Không khi cái Ta Biết tự nhận biết chính nó là nhận biết thuần khiết, là một biểu hiện của Hiện diện TA LÀ. Là một sinh thể tâm linh chỉ giáng thế vào thế giới vật chất này và đang biểu hiện chính nó thông qua, tương tác với thế giới vật chất thông qua nội dung của bốn thể phàm của con. Khi cái Ta Biết nhận ra rằng: “Tôi không phải là nội dung của bốn thể phàm này.” Khi đó, cái Ta Biết có thể đạt đến một điểm mà nó nhìn vào một điều cụ thể quan trọng đối với con, đã quan trọng đối với con cả đời, đã quan trọng đối với con qua nhiều kiếp. Nó nhìn vào điều này và trải nghiệm: “Vâng, nó quan trọng đối với cái ‘con’ bên ngoài trong bốn thể phàm của tôi, nhưng nó không quan trọng đối với tôi.” Và đó là khi con có thể tự do, khi con thấy rằng nó không quan trọng đối với tôi. Nó chỉ quan trọng đối với cái con vỏ ngoài đó.

Và sau đó, con có thể bắt đầu nhìn vào cái con vỏ ngoài đó và con có thể bắt đầu thấy rằng có lẽ có một tình huống cụ thể, có lẽ có một niềm tin cụ thể mà con đã chấp nhận rằng cách thế giới nhìn con, cách thế giới phản ứng với con, cách thế giới đón nhận hay bác bỏ con, đều quan trọng. Nhưng nó chỉ quan trọng đối với cái ngã đã được tạo ra. Và cái ngã được tạo ra bởi vì bằng cách nào đó con nghĩ rằng phản ứng của thế giới đối với biểu hiện của quả vị Ki-tô của con là quan trọng đối với con, rằng việc thế giới bác bỏ hay chấp nhận con là quan trọng đối với con.

Và điều này là thông cảm được, như chúng ta đã nói. Tất cả những ai đã hiện thân trên trái đất đều đã trải qua cùng một tiến trình. Tất cả những ai đã hiện thân trên trái đất như các avatar, chúng tôi đến đây vì chúng tôi muốn đạt được điều gì đó. Chúng tôi muốn thay đổi điều gì đó. Hoặc chúng tôi sẽ không đến. Nhưng khi con bắt đầu thấy một cái ngã và thấy rằng điều quan trọng đối với cái ngã thực sự không quan trọng đối với cái Ta Biết. Và con trải nghiệm con có thể tự do khỏi cái ngã đó. Và khi con trải qua tiến trình này nhiều lần, con có thể đạt đến điểm mà cái Ta Biết nhận ra rằng cách thế giới chấp nhận hay bác bỏ biểu hiện của quả vị Ki-tô của con không quan trọng đối với con. Điều quan trọng là quả vị Ki-tô đã được biểu hiện. Không phải hình tướng của biểu hiện, không phải phản ứng đối với biểu hiện, mà là chính biểu hiện. Điều quan trọng là ánh sáng đã được phép chiếu sáng.

Và đây có thể là sự khởi đầu của điều mà Mẹ Mary đã nói đến, nơi con đạt đến điểm mà Ki-tô trong con đã trưởng thành đến mức sẵn sàng được biểu hiện ra thế giới. Và giờ đây, con có thể làm điều đó với sự không dính mắc đó, rằng phản ứng của thế giới đối với biểu hiện của Ki-tô trong con không quan trọng đối với cái Ta Biết. Và nó không quan trọng đối với bất kỳ cái ngã nào, bởi vì cái ngã đã bị giải thể. Con đã để nó chết. Như Ki-tô đã phải để cái ngã cuối cùng đó chết trên thập tự giá để được tự do. Và tất cả chúng ta đều đã phải làm điều tương tự để thăng thiên. Nhưng con có thể làm điều đó mà không cần thăng thiên ngay lập tức. Con có thể đạt đến mức độ đó, nơi con vẫn còn nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ trong cơ thể vật lý. Và do đó, con có thể biểu hiện. Và bất kể điều gì xảy ra, con vẫn biểu hiện.

Bây giờ, một yếu tố quan trọng khác để giải quyết bí ẩn về cách biểu hiện quả vị Ki-tô trong thế giới là cân nhắc: “À, tại sao mình lại nghĩ bất cứ điều gì là quan trọng?” Con có thể có một cái ngã cụ thể mà một tình huống cụ thể lại quan trọng đối với cái ngã đó. Con có thể có nhiều cái ngã như vậy. Nhưng đằng sau tất cả có thể là cảm giác này—như chúng ta đã nói tại hội nghị ở Hà Lan—rằng con đến trái đất với một ý định nhất định. Và do đó, con có cảm giác—ngay cả ở mức độ của cái Ta Biết—rằng cách con được đón nhận hay bị bác bỏ trên trái đất là quan trọng. Con nghĩ rằng hình tướng quan trọng đối với con. Có một hình tướng cụ thể—”Tôi được chấp nhận hay bị bác bỏ?”—mà lại quan trọng đối với con. Điều này là riêng biệt đối với mỗi người trong chúng ta.

Con có thể trong dài hạn hơn quán chiếu điều này: “Tại sao tôi lại nghĩ bất cứ điều gì trong vật chất lại quan trọng đối với tôi, một sinh thể tâm linh?” Và sau đó, con có thể cân nhắc: “Khi nào thì điều gì đó quan trọng? Khi nào trong thời gian thì điều gì đó quan trọng?” Và con sẽ thấy rằng có những cái ngã nhìn lại điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ. Nó có thể đã xảy ra năm phút trước. Nó có thể đã xảy ra sớm hơn trong kiếp sống này. Nó có thể đã xảy ra vài kiếp trước. Nó có thể đã xảy ra trong kiếp sống đầu tiên của con trên trái đất khi con nhận chấn thương nhập đời vũ trụ đó. Nhưng có một cái ngã nhìn về quá khứ và nó nghĩ: “Ồ, điều gì đó đáng lẽ ra không nên xảy ra. Nhưng nó đã xảy ra. Bây giờ, tôi phải tìm cách bù đắp, để giải thích, để giải thích cho qua, để phân tích, để tìm ra.” Nhưng con có thể thay đổi điều đã xảy ra trong quá khứ không? Ngay cả năm phút trước?

(Sứ giả đánh chuông hát.)

Có quyền năng nào trên trái đất có thể thay đổi âm thanh tạo ra bởi chiếc chuông này không? Lấy lại nó. Không. Nhưng âm thanh đó bây giờ ở đâu? Âm thanh đó ở đâu? Nó đã ở đó một phút trước, một khoảnh khắc trước. Bây giờ nó ở đâu trong vật chất? Vâng, âm thanh này ở trong vật chất. Con có thể nghe nó bằng tai vật lý của mình. Do đó, nó ở trong vật chất. Con có nghe nó bây giờ không? Âm thanh đó ở đâu? Nó không còn ở đó nữa. Điều đã xảy ra trong quá khứ không còn ở đó trong vật chất nữa. Nếu nó không còn ở đó trong vật chất, tại sao nó lại quan trọng đối với con? Bởi vì con đã tạo ra một cấu trúc trong tâm trí mình và đối với cái ngã đó, điều đã xảy ra lúc đó trong vật chất vẫn còn quan trọng bây giờ. Nhưng nó có cần phải quan trọng bây giờ không, khi nó không còn ở đó trong vật chất nữa?

Con thấy đấy, đó là vấn đề thay đổi nhãn quan của con về vật chất và về thời gian. Điều không còn ở đó trong vật chất không có tác động vật lý nào đến con. Nó chỉ có thể có tác động mà con mang theo trong bốn thể phàm của con. Nhưng đó là một cái ngã, đó là năng lượng. Năng lượng có thể được biến hóa. Một cái ngã có thể được để chết. Con có thể quán chiếu: “Tôi có những cái ngã nào nhìn về quá khứ? Muốn sửa chữa điều gì đó đã xảy ra từ rất lâu mà không ai ngoài tôi còn nhớ? Có lẽ không ai ngoài tôi nhận ra cái ‘tôi’ là một cái ngã, không phải cái Ta Biết.” Và khi cái Ta Biết bước ra khỏi cái ngã và nhìn vào nó, nó có thể nói: “Tại sao điều không còn ở đó trong vật chất lại quan trọng đối với tôi?” Và con có thể để những cái ngã đang nhìn về quá khứ chết đi từng cái một.

Và sau đó, con có thể nhìn vào những cái ngã khác nhìn về tương lai của điều nên xảy ra hoặc có lẽ không nên xảy ra. Và những cái ngã này từ đâu mà có? Vâng, một số trong số đó được tạo ra ở đây trên trái đất bởi vì con đã trải nghiệm rằng hành tinh Trái Đất là một nơi rất khó để tồn tại, rằng con không thể kiểm soát điều gì xảy ra hay không xảy ra. Con không thể thấy trước điều gì xảy ra hay không xảy ra. Nó cứ xảy ra, dường như từ hư không. Con học cách tạo ra những cái ngã dự đoán điều gì có thể xảy ra, bởi vì con nghĩ: “Không gì tệ hơn là bị bất ngờ, là không được chuẩn bị. Nếu tôi ít nhất cũng dự đoán được, tôi sẽ không bị bất ngờ. Và sau đó, tôi có thể xử lý tốt hơn.” Con nghĩ vậy đấy.

Nhưng sau đó, con mang theo cái ngã đó từ kiếp này sang kiếp khác, luôn tìm kiếm điều gì có thể xảy ra hoặc điều gì không nên xảy ra. Nhưng tương lai có ở đó trong vật chất ngay bây giờ không? Không. Tại sao điều không có trong vật chất lại phải quan trọng đối với cái Ta Biết? Cái không có trong vật chất, nó là tánh linh. Con có cần phải biết điều gì sẽ xảy ra không? Con có cần phải được chuẩn bị cho mọi trường hợp không? Không khi con buông bỏ những cái ngã này. Và nhận ra rằng nếu tôi là cái Ta Biết, nếu tôi không ở trong vật chất, thì bất cứ điều gì có thể xảy ra trong vật chất sẽ không quan trọng đối với tôi khi nó xảy ra. Nó cũng sẽ không quan trọng đối với tôi nếu nó không xảy ra. Một lần nữa, đó là vấn đề thay đổi nhãn quan của con.

Khi con dần dần buông bỏ những cái ngã này, con còn lại gì? Cái bây giờ. Ki-tô có ở trong quá khứ không? Ki-tô có ở trong tương lai không? Không. Ki-tô vượt quá vật chất. Vâng, thời gian là một chức năng của vật chất. Do đó, Ki-tô vượt quá thời gian. Điều đó có nghĩa là Ki-tô ở trong cái bây giờ. Không có quá khứ trong tâm Ki-tô. Không có tương lai trong tâm Ki-tô. Có cái bây giờ. Nhưng cái bây giờ không phải là tĩnh lặng. Cái bây giờ là hiện tại vĩnh cửu liên tục tuôn chảy. Dòng sông sự Sống.

Bây giờ, tâm vỏ ngoài sẽ nói: “Nhưng thời gian cũng trôi chảy. Thời gian liên tục trôi chảy. Tôi có thể nhìn vào đồng hồ của mình. Có một kim đếm giây. Một giây, hai giây, ba giây. Nó liên tục đếm. Nó không bao giờ ngừng.” Có lẽ khi còn nhỏ, con thường nhìn vào chiếc đồng hồ lớn của cha mẹ trên tường và thấy kim đó cứ tích tắc, tích tắc, tích tắc và di chuyển. Và tâm trí con bị mê hoặc bởi điều này. Con không thể ngừng nhìn vào nó, tự hỏi: “Điều này có nghĩa là gì? Điều gì đang xảy ra? Làm sao thời gian cứ trôi đi?”

Nhưng con thấy đấy, có một sự khác biệt giữa thời gian trong vật chất và Dòng sông sự Sống. Bởi vì thời gian trong vật chất dựa trên quá khứ và tương lai. Nhưng Dòng sông sự Sống là hiện tại vĩnh cửu, cái bây giờ đang tuôn chảy. Và khi con đạt được quả vị Ki-tô, con không còn quá khứ nào đang kéo con theo. Con không còn tương lai nào mà con đang mong muốn tạo dựng với sự mong đợi hoặc với nỗi sợ hãi và run rẩy. Con chỉ đơn giản là tuôn chảy từ bây giờ đến bây giờ. Và bất cứ điều gì cái bây giờ mang lại, con đều biểu hiện quả vị Ki-tô trong tình huống đó.

Đây là lý duyên khởi. Nó di chuyển liên tục. Nhưng sau đó, con không có quá khứ kéo theo, không có tương lai thúc đẩy phía trước. Con tuôn chảy cùng dòng chảy và con biểu hiện thêm tâm Ki-tô trong mọi tình huống. Con không có cảm giác về điều đã qua, điều đáng lẽ ra đã xảy ra, điều đáng lẽ ra không nên xảy ra. Con không có cảm giác về điều gì sắp tới, điều gì nên xảy ra hay không nên xảy ra. Do đó, con không có cấu trúc nào nói rằng: “Tôi không thể biểu hiện Ki-tô trong tình huống này. Tôi cần có tình huống phù hợp để biểu hiện quả vị Ki-tô.” Nhưng khi con ở trong cái bây giờ, đó luôn luôn là tình huống phù hợp. Vì con đã thăng vượt đúng hay sai. Con chỉ đơn giản là biểu hiện trong cái bây giờ. Bởi vì chỉ có cái bây giờ mới quan trọng. Cái bây giờ nào? Cái bây giờ này. Cái này. Cái này. Cái này. Cái bây giờ đang hiện hữu.

Tôi biết tôi đã làm rối trí những tâm trí đường thẳng của con và đó chính xác là ý định của tôi. Bởi vì con không thể suy nghĩ để đạt đến quả vị Ki-tô. Con không thể hiểu nó. Con không thể nắm bắt nó. Con không thể định nghĩa nó dựa trên vật chất và nói: “Đây là cách quả vị Ki-tô nên được biểu hiện.”

Tôi đã biểu hiện điều tôi muốn biểu hiện trong cái bây giờ này. Và tôi biết ơn cơ hội này. Và do đó, tôi niêm con trong tình yêu của trái tim tôi. PadmaSambhava LÀ tôi. Và tôi vượt quá thời gian. Tôi luôn ở trong Cái Bây Giờ.

1 | Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Bài truyền đọc của Mẹ Mary

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2025. Bài truyền đọc này được trao truyền tại Hội nghị Hàn Quốc 2025 – Là Ki-tô Hằng sống trong đời sống hàng ngày.

Bài dịch này được dịch thẳng bằng máy thông minh nhân tạo và chưa được kiểm chứng. Xin quý vị sử dụng thận trọng và chỉ để tham khảo mà thôi.

Tôi LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary và tôi rất biết ơn tất cả các con đã hiện diện ở đây – những người có mặt trực tiếp và những người tham gia qua webinar – chào đón chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đến Hàn Quốc. Đương nhiên, khi tôi nói chào đón chúng tôi, nghe có vẻ như chúng tôi ở rất xa và chỉ đến đây cho hội nghị này. Nhưng như nhiều con đã trải nghiệm, chúng tôi luôn ở bên các con. Vì chúng tôi không bị giới hạn bởi thời gian và không gian.

Bây giờ, nếu các con nhìn lại năm 2002, khi chúng tôi bắt đầu làm việc với sứ giả này, các con sẽ thấy rằng chúng tôi đã ban truyền một khối lượng giáo lý rất lớn về chủ đề quả vị Ki-tô. Đương nhiên, chúng tôi cũng đã ban truyền giáo lý về quả vị Ki-tô trong các đợt truyền giáo trước đây, cả Phong trào TA LÀ và Summit Lighthouse. Các con có thể nói rằng đã có rất nhiều giáo lý về quả vị Ki-tô rồi. Vậy còn điều gì có thể được nói thêm nữa? Chắc chắn, Chân sư More sẽ nói rằng luôn có nhiều điều để nói thêm. Và chắc chắn, tôi cũng sẽ nói như vậy. Chúng tôi biết ơn các con ở Hàn Quốc đã có thể hòa điệu với chủ đề Là Ki-tô trong Đời sống Thường nhật, đây đương nhiên là thách thức lớn nhất về quả vị Ki-tô.

Bởi vì khi chúng tôi nhìn lại xuyên suốt các thời đại, xuyên suốt các đợt truyền giáo trước đây, và xuyên suốt đợt truyền giáo này, chúng tôi có thể thấy rằng nhiều người thấy khá dễ dàng để đạt được một sự hiểu biết thuần trí về quả vị Ki-tô – nó là gì, định nghĩa nó ra sao. Nhưng thách thức luôn là áp dụng nó, và đặc biệt là áp dụng nó vào đời sống thường nhật. Các con có thể nhìn, khi các con nhìn lại xuyên suốt hàng thiên niên kỷ, có bao nhiêu lần, bao nhiêu người đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, một đường tu tâm linh nói về các trạng thái tâm thức cao hơn. Và họ thấy cần thiết phải rút lui khỏi thế gian, ngồi ở một nơi nào đó tách biệt khỏi thế gian, và sau đó tìm cách trau dồi trạng thái tâm thức cao hơn này.

Nhưng rất ít người có thể thoát ra khỏi trạng thái thiền định này và áp dụng, biểu hiện trạng thái tâm thức cao hơn trong đời sống thường nhật. Thậm chí còn ít người hơn có thể thể hiện, chứng đạt trạng thái tâm thức đó trong khi sống một cuộc đời bình thường, năng động. Nhưng như chúng tôi đã giải thích, đây thực sự là thách thức của Thời đại Bảo bình. Và các con, những người đã sẵn lòng quán chiếu chủ đề này, các con là những người tiên phong cho sự xoay chuyển trong nhận biết này, điều mà phải trở thành, sẽ trở thành một hiện tượng phổ biến toàn cầu trong số những người tâm linh, nơi họ nhận ra rằng có thể có sự tách biệt giữa giáo hội và nhà nước, nhưng thực sự không có sự tách biệt nào giữa tâm linh và đời sống thường nhật.

Vì đây là thách thức của Thời đại Bảo bình, là mang tâm linh vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Đây là chủ đề mà chúng tôi, đương nhiên, sẽ nói xuyên suốt hội nghị này. Chúng tôi sẽ làm điều đó theo một cách hơi khác so với những gì chúng tôi đã làm trước đây. Chúng tôi sẽ làm từ các góc độ khác nhau. Và có thể, khi các con trải nghiệm những gì chúng tôi sẽ mang lại, nó sẽ có vẻ khó hiểu. Và điều đó, con yêu dấu của tôi, không chỉ là chủ tâm từ phía chúng tôi, mà nếu các con thấy mình bối rối, thì hãy nhớ khái niệm về sự bối rối diệu kỳ này. Rất tốt khi bối rối về quả vị Ki-tô, ít nhất là trong một thời gian. Thực tế, những người không bối rối về quả vị Ki-tô, mà nghĩ rằng họ đã hiểu rõ tất cả, thường là những người xa nhất khỏi việc chứng đạt hoặc áp dụng nó, chắc chắn là áp dụng nó vào đời sống thường nhật.

Vậy thì, tôi muốn nói gì ở phần mở đầu này? Chà, tôi muốn nói về câu chuyện Giê-su thụ thai và giáng sinh. Bây giờ, khi các con nhìn vào các thánh kinh, Tân ước, có một câu ở đó mà rất ít người Cơ đốc thực sự chú ý, nhưng nó là một lời phát biểu then chốt trong các thánh kinh. Và nó đơn giản là: “Giê-su dạy đám đông bằng các ẩn dụ. Nhưng khi họ ở riêng với nhau, ngài giải thích mọi điều cho các môn đồ của ngài.” Ngay tại đó, các con có một bằng chứng không thể chối cãi trong thánh kinh rằng Giê-su đã dạy ở hai cấp độ khác nhau, một cấp độ rộng hơn cho công chúng và một cấp độ huyền bí, thần bí, trực tiếp hơn cho các môn đồ của ngài.

Câu hỏi là, sau 2.000 năm, sau 17 thế kỷ kể từ khi giáo hội Công giáo được thành lập, tại sao rất ít người tự xưng là Cơ đốc đã quán chiếu những gì có thể là những giáo lý tâm truyền mà Giê-su đã ban cho các môn đồ của ngài? Tại sao họ lại quá chú tâm vào những gì có trong thánh kinh thay vì quán chiếu những gì mà chính thánh kinh nói là không có trong thánh kinh? Và sau đó, họ không thể kết nối điều này với một lời phát biểu khác của Giê-su sao? Rằng “Ta sẽ luôn ở với các con.” Rằng “Ta sẽ sai một Đấng An ủi khác đến ở cùng các con.” Và liệu họ có thể không với tới trong trái tim mình cho giáo lý thần bí trực tiếp này từ chính Giê-su sao? Một vài cái gọi là nhà thần bí Cơ đốc đã làm như vậy, nhưng rất ít. Và đương nhiên, trong thời đại ngày nay, có nhiều người hơn sẵn lòng làm điều này, bao gồm cả các con.

Nhưng giáo lý nội tâm đó là gì? Chà, đây chắc chắn là một cách để định nghĩa nó. Giáo lý nội tâm là cái vượt quá giáo lý công truyền. Nhưng giáo lý công truyền là gì? Chà, các con thấy gì ở hầu hết những người Cơ đốc, những người không sẵn lòng vươn tới giáo lý thần bí? Họ nhìn vào giáo lý công truyền, họ nhìn vào các thánh kinh, họ muốn hiểu theo nghĩa đen. Họ muốn diễn giải theo nghĩa đen, hoặc ít nhất là theo giáo điều, dù là Chính thống giáo Đông phương hay giáo hội Công giáo. Nhưng làm sao có thể có một sự diễn giải theo nghĩa đen? Hoặc là một cái gì đó là nghĩa đen hoặc nó là một sự diễn giải. Và không có sự diễn giải nào mà không phải là một sự diễn giải.

Tôi muốn nói gì với điều này? Chà, nếu các con cởi mở với những giáo lý thần bí của Ki-tô, hãy cân nhắc điều này. Mọi thứ trong thánh kinh, mọi thứ mà Giê-su đã dạy cho đám đông, đều là một biểu tượng. Nó không có ý nghĩa được hiểu theo nghĩa đen. Tất cả đều là một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc hơn khi các con nhìn vượt ra khỏi hình tướng bên ngoài. Đây là cốt tủy của thần bí học. Các con nhìn vượt ra khỏi hình tướng bên ngoài và các con trực nhận được một ý nghĩa sâu sắc hơn mà các con không thể nhận được bằng tâm vỏ ngoài, tâm lý trí, tâm phân tích. Điều tôi muốn nói là khi các con nhìn vào câu chuyện Giê-su giáng sinh, được nuôi dạy, có một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đương nhiên, có nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc hơn, nhưng có một điều tôi muốn các con chú ý.

Các con thấy đấy, các con có thể đọc thánh kinh và các con có thể nói: “Có một cô gái trẻ tên là Mary. Cô ấy đang sống cuộc đời của mình, nghĩ rằng cuộc đời mình đang đi theo một con đường nhất định. Và một ngày nọ, một thiên thần hiện ra với cô ấy và nói với cô ấy rằng cô ấy sẽ sinh ra đứa trẻ Ki-tô.” Nhiều người đọc câu chuyện và nghĩ: “Ồ, chắc hẳn phải có một thiên thần có thể nhìn thấy được bằng mắt thường – một thiên thần có thể nhìn thấy, nghe thấy được – đã hiện ra với Mary.” Nhưng đó chỉ là cách trình bày mang tính biểu tượng. Đó là một trải nghiệm nội tâm, trực giác, thần bí mà tôi đã có. Tôi không cần một sự xuất hiện vật lý, bởi vì tôi sẵn lòng đi theo trực giác của mình, như hầu hết các con. Đó là sự khác biệt giữa một nhà thần bí và một người chưa vươn tới cấp độ thần bí. Những người chưa đạt được điều đó, họ muốn một cái gì đó thu hút tâm vỏ ngoài, tâm phân tích, tâm lý trí. Để họ có thể hiểu. Để họ có thể nắm bắt. Để họ có thể bao bọc tâm trí mình xung quanh. Và đặt vào một cái hộp tư duy nhỏ xinh, nơi họ cảm thấy họ có nó trong tầm kiểm soát, để nó không làm phiền họ. Và chắc chắn, nó không yêu cầu họ phải sống cuộc đời khác đi, phải từ bỏ cuộc đời mình và đột nhiên đi theo một hướng khác.

Các con thấy đấy, đối với những người chưa đạt đến cấp độ thần bí, cuộc sống là về kiểm soát, tâm linh là về kiểm soát. Nhưng khi các con đạt đến cấp độ thần bí đó, các con từ bỏ kiểm soát. Các con từ bỏ cảm giác kiểm soát của tâm vỏ ngoài. Các con sẵn lòng lắng nghe tiếng nói nhỏ bé tĩnh lặng thần bí bên trong và đi theo nó. Và đó không phải là lý do tại sao tất cả các con ở đây sao? Chắc chắn, đó là lý do tại sao sứ giả ở đây, vì anh ấy không cần một sự xuất hiện vật lý, có thể nhìn thấy được để thay đổi cuộc đời mình theo một hướng hoàn toàn khác, thực ra là nhiều lần. Các con thấy đấy, khi các con nhìn vào câu chuyện giáng sinh của Ki-tô, các con có thể thấy một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn. Và nó đơn giản là thế này. Ki-tô có thể được sinh ra trong mọi con người. Nhưng để Ki-tô lớn lên và trưởng thành, nó phải được nuôi dưỡng bởi yếu tố mẹ, ngọn lửa mẹ.

Điều đó có ý nghĩa gì đối với các con, một cách cá nhân? Nó có nghĩa là các con phải bắt đầu bằng cách nhìn nhận, chấp nhận rằng Ki-tô có thể được sinh ra trong các con. Nhưng cũng cần nhớ rằng, Ki-tô sẽ không được sinh ra như một người lớn, mà như một em bé, một đứa trẻ cần được nuôi dưỡng. Các con thấy đấy, rất nhiều người, thậm chí rất nhiều người tìm thấy các giáo lý tâm linh, thậm chí cả giáo lý chân sư thăng thiên, họ đến từ mong muốn kiểm soát của tâm vỏ ngoài. Và khi họ nghe về quả vị Ki-tô, họ nghĩ rằng điều này nên xảy ra ngay lập tức. Rằng phải có một mánh khóe thần kỳ nào đó, một công thức bí mật nào đó, một hòn đá triết gia nào đó, nhờ đó họ có thể búng ngón tay và bây giờ họ là Ki-tô, trong sự viên mãn của Ki-tô.

Nhưng các con thấy đấy, đây không phải là cách nó bắt đầu đối với bất kỳ ai trong chúng ta. Nó bắt đầu bằng việc một em bé được sinh ra trong chúng ta. Và ban đầu, nó phải được bảo vệ. Nó phải được nuôi dưỡng. Nó phải được hướng dẫn, vì nó chưa sẵn sàng đối mặt với thế gian và sự chống đối Ki-tô đến từ thế gian. Hình ảnh tôi đang tìm cách ban cho các con ở đây là quả vị Ki-tô không phải là một sự thị hiện tức thì. Chưa bao giờ có trong lịch sử nhân loại bất kỳ ai từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo đã chuyển từ một cấp độ tâm thức bình thường sang trạng thái tâm thức cao nhất có thể trên trái đất.

Các con có thể nhìn lại tất cả các truyền thống tâm linh và các con có thể thấy rằng tất cả chúng đều nói về cùng một điều, ít nhất là những cái có giá trị, chỉ sử dụng những từ ngữ khác nhau. Họ có thể nói về Niết bàn, giác ngộ. Họ có thể nói về các trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng về bản chất họ đang nói về cùng một điều. Một trạng thái tâm thức cao hơn mà chúng tôi trong ngữ cảnh này gọi là quả vị Ki-tô. Và nó phải bắt đầu bằng việc được sinh ra như một em bé, dần dần lớn lên, trưởng thành. Cho đến khi nó sẵn sàng được biểu đạt trong thế gian. Và đó là hình ảnh tôi tìm cách ban cho các con ở đây.

Bây giờ, một số con đã đi trên đường tu một thời gian dài. Một số con đã có Ki-tô được sinh ra trong mình cách đây một thời gian và nó đã lớn đến một kích thước nhất định. Nhưng dù vậy, vẫn có giá trị khi quán chiếu điều này, rằng sự giáng sinh của Ki-tô trong các con bắt đầu bằng sự giáng sinh của Ki-tô trẻ thơ trong các con và nó dần dần lớn lên và trưởng thành. Có lẽ tất cả các con đều có thể hưởng lợi từ việc nhìn lại đường tu của mình từ khi các con lần đầu tiên tìm thấy các giáo lý, nghe về khái niệm này. Và xem: “Liệu tôi có lẽ đã không nuôi dưỡng Ki-tô trong mình một cách đầy đủ? Liệu tôi có lẽ đã không bảo vệ nó khỏi những điều phàm tục của thế gian? Liệu tôi có lẽ có thể nuôi dưỡng nó, hướng dẫn nó? Và liệu tôi có lẽ có thể cho nó một chút thời gian để lớn lên?”

Đôi khi các con có thể nghe thấy khi chúng tôi nói về việc biểu đạt quả vị Ki-tô của các con và các con có thể quyết định bằng tâm vỏ ngoài rằng các con sẽ làm điều này. Nhưng tôi chỉ nói, có lẽ hãy lùi lại một bước, tự hỏi mình: “Liệu đứa trẻ Ki-tô trong tôi đã sẵn sàng đối mặt với thế gian chưa?” Liệu nó đã trưởng thành đến mức mà Giô-sép và tôi đã đưa Giê-su đến đền thờ như một biểu tượng cho việc đứa trẻ Ki-tô đã sẵn sàng đối mặt với thế gian chưa? Hay có lẽ có một chút nuôi dưỡng các con cần làm trước khi các con sẵn sàng hoàn toàn? Hãy nhìn vào chính mình. Các con có trong tâm trí mình ý tưởng rằng Ki-tô nên đột nhiên bùng nổ trong sự viên mãn của nó và từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo, các con nên chuyển từ một con người sang là Ki-tô trong sự viên mãn của quả vị Ki-tô không? Nếu các con thấy rằng mình có, chúng tôi không nói điều này để đổ lỗi cho các con, mà để làm cho các con nhận biết rằng đây là một hình ảnh rất cũ mà các con tìm thấy trong nhiều truyền thống tâm linh nói về các trạng thái tâm thức cao hơn – sự thị hiện tức thì của một trạng thái tâm thức cao hơn. Nhưng như tôi đã nói, điều này là không thực tế.

Nó thực sự là một hình ảnh được cấy ghép vào tâm thức tập thể bởi những sa nhân, những người, như chúng tôi đã giải thích nhiều lần, làm mọi thứ có thể để ngăn cản mọi người thể hiện quả vị Ki-tô. Nếu các con đang theo đuổi cái nồi vàng ở cuối cầu vồng của sự xuất hiện tức thì của một trạng thái tâm thức cao hơn, các con sẽ mãi mãi theo đuổi nó. Tại sao? Bởi vì hình ảnh đó là gì? Hình ảnh đó là: “Tôi không phải là Ki-tô bây giờ, nhưng tôi có thể đột nhiên trở thành Ki-tô. Tôi chỉ không biết làm thế nào. Nhưng một ngày nào đó điều đó sẽ xảy ra, nếu tôi tiếp tục làm điều này hoặc nếu tôi tiếp tục làm điều kia.” Nhưng con yêu dấu của tôi, điều đó sẽ không bao giờ xảy ra theo cách đó.

Nó sẽ xảy ra theo cách dần dần bằng việc các con nuôi dưỡng Ki-tô trẻ thơ, cho phép nó có thời gian để trưởng thành cho đến khi nó sẵn sàng xuất hiện trước thế gian và biểu đạt chính nó thông qua các con. Đó là cách duy nhất nó đã từng xảy ra, cách duy nhất nó sẽ từng xảy ra. Tại sao? Bởi vì khi các con chứng kiến đứa trẻ Ki-tô lớn lên trong các con, các con giảm khoảng cách giữa các con và Ki-tô. Các con lớn lên cùng với nó. Bây giờ, tôi biết rằng tâm vỏ ngoài của các con có thể có câu hỏi: “Nhưng vậy thì, Ki-tô là gì? Chẳng phải đó là tâm thức cao siêu, toàn hảo, biết mọi thứ sao?” Nhưng các con thấy đấy, chúng tôi không nói về Ki-tô ở trạng thái cao nhất của nó ở đây. Chúng tôi đang nói về việc biểu đạt quả vị Ki-tô trong đời sống thường nhật.

Các con không nắm bắt được giá trị biểu tượng của câu chuyện Giê-su giáng sinh và lớn lên cho đến khi ngài sẵn sàng bắt đầu sứ vụ của mình sao? Đương nhiên, có nhiều người Cơ đốc muốn nghĩ rằng Giê-su đã toàn hảo ngay từ khi sinh ra. Nhưng điều đó thực sự không được ủng hộ ngay cả bởi các thánh kinh công truyền và chắc chắn không phải bởi sự hiểu biết nội tại. Giê-su đã biểu hiện một con đường dần dần. Không có nhiều điều trong thánh kinh về điều đó, tôi thừa nhận. Nhưng dù sao, ngài đã biểu hiện một con đường dần dần, ngay cả trong ba năm cuối cùng của sứ vụ của mình.

Tại sao, khi các con lấy câu chuyện này – lại là ẩn dụ, biểu tượng của đám cưới ở Ca-na – tại sao cần thiết rằng tôi, với tư cách là hình tượng mẹ, phải bước vào và bảo Giê-su hãy theo đúng chương trình và biến nước thành rượu và đừng than vãn nữa? Các con thấy đấy, Ki-tô cần sự nuôi dưỡng của người mẹ. Tại sao? Bởi vì người mẹ tiếp xúc với cõi mẹ, cõi vật chất, như nó hiện đang còn xa mới hoàn hảo. Các con có thể nói rằng Ki-tô, tâm Ki-tô, trong khía cạnh hoàn vũ của nó không nhận biết được những gì đang xảy ra trên một hành tinh như trái đất. Nhưng để Ki-tô được biểu đạt trên trái đất theo cách mà nó thực sự giúp đỡ những người bị mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô, Ki-tô cần học cách điều chỉnh biểu đạt của mình với thực tế thực tiễn của cuộc sống trên trái đất. Và ai tốt hơn để dạy đứa trẻ Ki-tô điều này hơn người mẹ đang tiếp xúc nhiều hơn với cõi vật lý như nó đang ở trạng thái hiện tại, rất không hoàn hảo trên trái đất.

Đó là vai trò của tôi khi tôi hướng dẫn Giê-su trong quá trình ngài lớn lên. Để giúp ngài nhận ra rằng mặc dù ngài có một viễn quan nhất định, ngài có một sự nhiệt tình nhất định, nhưng có một thực tế thực tiễn trên trái đất. Và nếu ngài muốn thành công trong sứ vụ của mình, ngài cần phải biết điều đó, để cảm nhận được điều đó. Để trải nghiệm độ dày đặc của cõi vật chất và điều chỉnh biểu đạt của quả vị Ki-tô với nó. Các con có thể nói rằng Giê-su có khả năng đã trở thành một đạo sư tạo ra một ashram ở một nơi nào đó xa xôi trên núi. Và thu hút các đệ tử đến với ngài, ngồi dưới chân ngài, hấp thụ sự phóng xạ của ngài, lắng nghe những lời nói hoa mỹ của ngài mà không ai có thể hiểu được. Nhưng điều đó sẽ làm sứ vụ của ngài thất bại vào đầu thời đại Song ngư. Giê-su cần phải có ba năm đó nơi ngài đi trên những con đường bụi bặm, nóng bỏng của Palestine, gặp gỡ mọi người, tương tác với họ và ban truyền một giáo lý ít nhất cũng phần nào được điều chỉnh cho phù hợp với trạng thái tâm thức của họ. Mặc dù trong nhiều trường hợp, sự nhiệt tình của ngài vẫn lấn át ngài và ngài đã ban truyền những lời nói vượt xa những gì mà mọi người đã sẵn sàng vào thời điểm đó. Và điều mà hầu hết mọi người sẵn sàng ngày nay.

Các con thấy đấy, ở đây, chúng tôi không nói về việc các con là Ki-tô theo một cách cao siêu nào đó, nơi các con có thể ban truyền một minh triết vĩnh hằng vô hạn mà không ai sẵn sàng đón nhận. Chúng tôi đang nói về việc là Ki-tô trong đời sống thường nhật. Vậy thì, các con tốt hơn hết là phải hiểu rõ đời sống thường nhật, phải không? Và sau đó, các con tốt hơn hết là điều chỉnh biểu đạt quả vị Ki-tô của các con cho phù hợp với thực tế của đời sống thường nhật. Tâm thức mà mọi người đang ở khi họ tham gia vào cái mà hiện nay là đời sống thường nhật trên hành tinh tăm tối này. Các con lại thấy câu chuyện về chén nước lạnh nhân danh Ki-tô. Chẳng ích gì khi ban cho một người đang chết vì khát những lời minh triết hoa mỹ, trong khi điều anh ta thực sự cần là một chén nước lạnh.

Giê-su có thể đã ban truyền một giáo lý sâu sắc hơn nhiều so với những gì ngài đã làm, nhưng ngài nhận ra rất nhanh rằng hầu hết mọi người không sẵn sàng đón nhận. Bây giờ, quay trở lại điều tôi bắt đầu. “Khi họ ở riêng với nhau, Giê-su giải thích mọi điều cho các môn đồ của ngài.” Chà, “mọi điều” là một sự phóng đại nhỏ. Nhưng dù sao, khi họ ở riêng với nhau – không chỉ 12 môn đồ, mà cả nhóm nội tâm xung quanh Giê-su – đôi khi ngài đã, các con có thể nói, truyền đạt một thông điệp cao hơn, một thông điệp từ các Chân sư Thăng thiên. Nhưng ngay cả các môn đồ của ngài cũng không sẵn sàng đón nhận điều đó và hầu hết họ không thể thấu suốt được. Ngay cả ở đó, Giê-su cũng nhận ra rằng với thực tế của thời đại, chà, có một giới hạn cho những gì có thể được biểu đạt.

Đó là lý do tại sao chúng tôi, những người có thể làm việc thông qua một sứ giả được bảo trợ trong cõi vật lý – chúng tôi biết ơn cơ hội này để ban truyền một giáo lý cao hơn mà không thể được ban truyền 2.000 năm trước. Hoặc 2.500 năm trước khi Phật đang trong hiện thân vật lý. Bởi vì ngày nay tâm thức cao hơn và nhiều giáo lý hơn có thể được ban truyền. Tuy nhiên, các con có thể nhìn vào tất cả các giáo lý mà chúng tôi đã ban truyền trong thế kỷ qua và vẫn thấy rằng có rất nhiều điều khác có thể được ban truyền. Như chúng tôi đã nói trước đây, tổng thể các giáo lý có thể được ban truyền trong bầu cõi chưa thăng thiên này có thể được so sánh với đại dương và những gì chúng tôi đã ban truyền cho đến nay chỉ là một muỗng. Đó là một muỗng lớn. Nhưng dù sao, so với đại dương, chà, có rất nhiều điều hơn nữa.

Tôi không có ý định ban truyền một bài giảng dài, vì có rất nhiều chân sư khác muốn phát biểu tại hội nghị này. Và chúng tôi sẽ ban truyền những góc nhìn khác nhau, những khía cạnh khác nhau. Do đó, tôi biết ơn cơ hội này để khai mạc hội nghị này và tôi khuyên các con hãy quán chiếu hình ảnh Ki-tô được sinh ra trong các con.

Nếu các con mới tiếp cận các giáo lý, có thể Ki-tô trẻ thơ đang được sinh ra ngay bây giờ. Nếu các con đã ở trong các giáo lý một thời gian, nó có thể đã xảy ra cách đây một thời gian. Nhưng dù sao, đứa trẻ đó đang ở đâu trong sự phát triển của nó? Liệu nó có lẽ cần một chút nuôi dưỡng? Liệu nó có lẽ cần một chút lời khuyên, lời khuyên từ người mẹ từ các con? Một chút tư vấn? Một chút định hướng? Liệu nó có lẽ cần một chút hạn chế, để nó không bùng nổ với sự nhiệt tình mà, dùng một cách nói hiện đại, “thổi bay” mọi người, mà thay vào đó là nhạy cảm với nơi mọi người đang ở?

Nó thực sự không phải là vấn đề để Ki-tô đạt được một kết quả tối hậu nào đó. Đây là một lời dối trá khác được những sa nhân cấy ghép vào tâm thức tập thể. Vì không có kết quả tối hậu nào trên một hành tinh như trái đất hay trong một bầu cõi chưa thăng thiên hay trong một bầu cõi thăng thiên lên đến tận Đấng Sáng tạo. Và ngay cả tâm thức Đấng Sáng tạo cũng không phải là một kết quả tối hậu, vì luôn có sự tự vượt thăng. Ki-tô là gì? Nó là tiến trình tự vượt thăng. Với điều này, tôi niêm các con trong tình yêu của trái tim mẹ tôi và tôi cảm ơn các con vì cơ hội này được ở đây với các con.

15 | Trôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 27/4/2005.

Các con hãy cho phép thày cố giải thích thêm một lần nữa về cốt lõi của ngã hữu diệt hay cái mà nhiều người gọi là tự ngã con người. Điểm quan trọng nhất mà con có thể hiểu về ngã hữu diệt là nó đang tham gia vào một cuộc tìm cầu bất khả thi. Cuộc tìm cầu bất khả thi vì ngã hữu diệt sinh ra từ nhị nguyên. Ngã hữu diệt có một xung đột nội tại, một mâu thuẫn nội tại không bao giờ –  và thày quả thực muốn nói là không bao giờ – có thể giải quyết được. Ngã hữu diệt được sinh ra khi cái TA Biết quyết định nó không muốn lấy quyết định nữa. Vấn đề thực của quyết định này là cái Ta Biết chối bỏ bản sắc thật của nó, bản chất thật của nó. Cái Ta Biết chối bỏ nó là người đồng-sáng tạo với Thượng đế và do đó nó chối bỏ sự thật là bởi chính bản chất của nó, nó có giá trị và được chấp nhận dưới mắt Thượng đế. Cái Ta Biết đã chấp nhận lời dối nhị nguyên là con tách biệt khỏi Thượng đế và con không xứng đáng trở về với Thượng đế vì con đã phạm một lỗi lầm nào đó. Trên thực tế, con đã chỉ tạm bợ xa rời niệm tinh khôi khi con chấp nhận một ý niệm bản sắc thấp nhưng con luôn luôn có thể trở về viễn kiến thanh khiết đó.

15.1. Ngã hữu diệt không bao giờ trọn vẹn

Khi con chấp nhận cảm giác bất xứng này, cái Ta Biết rút lui về một cái lồng nhỏ. Cái Ta Biết không bao giờ có thể hoàn toàn ngừng tánh biết của nó. Nó có thể rút lui không lấy quyết định, nhưng nó không thể ngừng có trải nghiệm ý thức. Cái Ta Biết có thể ngừng lấy quyết định, nhưng nó không thể ngừng trải nghiệm hậu quả của các quyết định hay của việc không lấy quyết định của nó. Vì tự nhận biết đến trước ý chí, cái Ta Biết không thể chọn ngừng ý thức tuy nó có thể cố gắng tự làm tê dại để hầu như không có ý thức. Cái Ta Biết không bao giờ mất đi khao khát được trọn vẹn, khao khát trở về vương quốc Thượng đế, để nhập trở lại vào Dòng sông sự Sống và trải nghiệm đời sống dồi dào. Đây là một cơ chế an toàn không bao giờ bị khóa hoàn toàn. Dù cái Ta Biết có làm gì chăng nữa, nó sẽ luôn luôn có khao khát nội tâm được trọn vẹn, được là cái gì hơn nữa.

Khi ngã hữu diệt được sinh ra, thì nó tìm cách lấp khoảng trống được tạo ra vì cái Ta Biết không còn trải nghiệm trực tiếp Hiện diện TA LÀ của nó. Ngã hữu diệt luôn luôn tìm cách trở thành một thay thế xứng đáng cho Hiện diện TA LÀ, thay thế cho bản sắc thật vẫn được cất giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Cuộc tìm cầu trọn vẹn của con chỉ được thỏa mãn khi con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, sự hợp nhất mở cửa cho dòng chảy ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy qua con người phàm của con. Hợp nhất này chỉ đạt được khi con chấp nhận và nhận ra con xứng đáng đối mặt Thượng đế, xứng đáng là một với Thượng đế. Cái Ta Biết giản dị đã quên mất nó xứng đáng và nó có thể trở về cái biết đó khi nó nhận ra chân lý miên viễn là bởi vì con được sinh tạo như một nối dài của Thượng đế, con tự bản chất xứng đáng là một với Thượng đế. Thực tế là con chưa bao giờ tách biệt khỏi Thượng đế, con chưa bao giờ mất đi sự xứng đáng.

Ngược lại, ngã hữu diệt không được sinh tạo bởi Thượng đế và do đó nó chưa bao giờ và sẽ không bao giờ xứng đáng dưới con mắt Thượng đế. Cái Ta Biết có sự xứng đáng nội tại vì nó có niệm tinh khôi trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Đây không phải là vấn đề làm gì trong cõi vật chất để được xứng đáng; vấn đề đơn giản là chấp nhận mình xứng đáng. Ngã hữu diệt không có sự xứng đáng nội tại này và vì vậy nó không thể làm bất cứ gì để được xứng đáng. Tâm Ki-tô hoàn vũ không chứa đựng niệm tinh khôi của ngã hữu diệt và do đó ngã này không có bất cứ gì, không có thực tại gì để nó quay trở về. Ngã hữu diệt lúc nào cũng tìm cách xây đắp một cảm giác xứng đáng giả, một hình ảnh mình xứng đáng, mà nó tu bổ cho tới điểm nó tin rằng nó được chấp nhận dưới mắt của Thượng đế vì nó hội đủ  tất cả những điều kiện bên ngoài đó. Nó nghĩ rằng khi nó làm những việc vỏ ngoài cho Thượng đế, thì Thượng đế phải cho phép nó vào vương quốc của ngài.

Ngã hữu diệt sinh ra từ ảo tưởng tách biệt và do đó nó dùng tâm thức tách biệt để tìm cách tạo ra ảo tưởng hợp nhất với Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, cái sinh ra từ tách biệt không bao giờ có thể trở về với hợp nhất. Ngã hữu diệt cố dựng lên một hình ảnh, một con bê vàng xứng đáng dưới mắt Thượng đế và nó dùng các thứ của thế gian để xây dựng hình ảnh này. Nó đang cố gắng nói rằng nếu nó thêm vào đủ các “thứ” do tâm thức nhị nguyên tạo ra, nó sẽ xứng đáng, nó có thể xây dựng một cái đài cao vươn tới thiên đàng. Dù con thêm vào bao nhiêu số không chăng nữa, chúng không thể cộng lại thành số một, cái một với Thượng đế.

Đây là chìa khóa chính yếu để giải thoát con khỏi tù ngục của ngã hữu diệt. Cái Ta Biết có thể trọn vẹn khi chấp nhận nó là một với Thượng đế trong khi ngã hữu diệt không bao giờ có thể làm điều đó. Nó tìm cách làm hài lòng vị thượng đế xa cách, một thần tượng do chính nó tạo ra. Cái Ta Biết chỉ đơn giản cần ngừng nhảy múa chung quang con bê vàng đó và leo ngọn núi của Thượng đế, ngọn núi của sự tự thăng vượt.

15.2. Ngã hữu diệt luôn luôn cảm thấy bị đe dọa

Tâm thái cơ bản của ngã hữu diệt là nó lúc nào cũng cảm thấy bị đe dọa. Nó cảm thấy bị đe dọa vì nó tìm cách nắm chặt một ảo tưởng, ảo tưởng nó xứng đáng và có thẩm quyền, và ảo tưởng này cho nó cảm giác an toàn. Ngã hữu diệt cảm thấy là chừng nào nó có thể thuyết phục cái Ta Biết tin vào ảo tưởng này, thì nó sẽ kiểm soát được cái Ta Biết và nó sẽ sống còn. Ngã hữu diệt biết là nếu con tách mình ra khỏi ảo tưởng đó, con sẽ không cho nó năng lượng nữa và như thế nó sẽ chết. Đối với ngã hữu diệt, duy trì ảo tưởng này quả thực là vấn đề sống chết. Không may cho ngã hữu diệt, và may mắn cho con, tất cả mọi chuyện trong thế giới vật chất này lúc nào cũng đang tìm cách kéo xập ảo tưởng đó, cảm giác an toàn giả đó. Để hiểu được thế khó xử cơ bản của ngã hữu diệt, con hãy xem xét các điều sau:

  • Đấng Sáng tạo luôn luôn thăng vượt chính ngài. Thượng đế là Dòng sông sự Sống lúc nào cũng đang ở trong tiến trình trở nên hơn nữa.
  • Tâm thức nhị nguyên tách biệt khỏi Thượng đế và không là một thành phần của Dòng sông sự Sống.
  • Tâm thức nhị nguyên và ngã tách biệt không thể hiểu là Thượng đế liên tục thăng vượt chính ngài. Nó không thể trải nghiệm trực tiếp Bản thể của Thượng đế. Nó chỉ biết được Thượng đế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về Thượng đế.
  • Ngã hữu diệt tin rằng Thượng đế toàn hảo và nó diễn giải toàn hảo là cái gì không thể và không cần thay đổi. Nó tin là Thượng đế đứng yên và nó tìm cách tạo ra một hình ảnh không thay đổi về Thượng đế. Hình ảnh này không thể tránh trở thành một hình tượng khô chết sẽ giam hãm con trong một tầm nhìn giới hạn về Thượng đế.
  • Thượng đế đã cho con quyền tự quyết nên con có quyền mang vào một hình tượng khô chết về Thượng đế. Hình tượng không thay đổi này sẽ tự động kéo con ra khỏi Dòng sông sự Sống, và khi con còn nắm giữ hình tượng này thì con sẽ không thể thừa kế vương quốc của đấng Cha. Con không thể có đời sống dồi dào.
  • Vì Thượng đế yêu con vô điều kiện, ngài không muốn con mãi mãi đứng ra ngoài sự dồi dào của ngài. Ngài đã thiết kế vũ trụ vật chất để nó luôn luôn tìm cách phá vỡ ảo tưởng tách biệt với Thượng đế của con. Mọi khía cạnh của vũ trụ vật chất được thiết kế để thách thức ảo tưởng nhị nguyên do ngã hữu diệt tạo ra.
  • Sự thách thức chủ yếu thế giới quan nhị nguyên đến từ chính tâm thức nhị nguyên. Trạng thái tâm thức này dựa trên hai đối cực tương đối tìm cách hủy bỏ lẫn nhau. Nếu ngã hữu diệt của con đi quá xa về phía một cực tương đối, thì thế giới quan của nó không thể tránh bị thách thức bởi đối cực kia.

Một lần nữa, có một khác biệt vi tế mà trí năng không nắm được nhưng trái tim có thể hiểu được. Khi cái Ta Biết xem nó là một với Dòng sông sự Sống thì con biết một cách chắc chắn tuyệt đối là Thượng đế là thực tại tối hậu đằng sau mọi hình tướng bề ngoài. Con biết Ánh sáng Mẹ có thể khoác vào bất kỳ hình tướng nào nhưng chỉ những hình tướng biểu hiện niệm tinh khôi mới thực một cách tối hậu. Những hình tướng bất toàn chỉ hiện hữu tạm bợ và chúng không có uy lực thật trên con. Chúng dựa trên một ảo tưởng, và nếu con không chấp nhận tính chất thực của ảo tưởng đó thì nó không thể ảnh hưởng con. Ông hoàng thế gian sẽ tới và không tìm thấy gì trong con, vì con biết ông hoàng thế gian không có thật.

Khi con ở trong thực tại của Thượng đế, con biết không có đối cực, con biết không bao giờ có cái gì có thể chống lại thực tại của Thượng đế. Chỉ Thượng đế có thực tại tối hậu và trong Thượng đế không có phân rẽ, không có mâu thuẫn. Khi con dự phần vào tâm thức nhị nguyên, tức là cái biết có tốt và xấu, thì con đánh mất trải nghiệm trực tiếp về Bản thể Thượng đế, về thực tại Thượng đế. Lúc ấy con đi vào một thế giới giống như căn nhà đầy kính, nơi đó mọi thứ đều được quy định bởi hai đối cực tương đối như tốt và xấu. Ngã hữu diệt của con sinh ra từ sự tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống và trong chính bản chất của nó, nó tin một cách tối hậu là tốt và xấu tương đối là một thực tại. Nó tin là cả hai đều thật nhưng một cái có thể tiêu hủy cái kia.

Hậu quả không thể tránh là khi con tin tốt tương đối là thực, con cũng sẽ tin là xấu tương đối là thật. Nếu con tạo ra hình tượng khô chết về Thượng đế, con không thể tránh tạo ra một hình tượng khô chết của cái đối nghịch với thượng đế tương đối của con, tức là ác quỷ tương đối. Trong thế giới nhị nguyên, không gì có thể hiện hữu mà không có cái đối nghịch. Ngày nào con tin là hình ảnh tương đối của con về Thượng đế là thật, con cũng sẽ tin hình ảnh về ác quỷ là thật. Có thể nói ác quỷ cũng “thật” như cái tốt tương đối, nhưng khi con bước ra ngoài tâm thức nhị nguyên, con thấy chỉ có Thượng đế là thật và tất cả những gì kém hơn cái tốt tuyệt đối của Thượng đế đều không thật. Nó không có hiện hữu khách quan mà chỉ hiện hữu trong tâm những sinh thể có tự nhận biết bị giam hãm trong tâm thức nhị nguyên. Nó chỉ có uy lực trên con  khi con cho nó uy lực, nếu con cho nó “tính thực tại” trong thế giới quan của con.

Con hãy xem xét hậu quả của điều này. Khi con bước vào thế giới nhị nguyên, con tự động thấy mọi điều con tin bị đe dọa. Điều này không thể tránh vì mọi thứ đều có đối nghịch. Con không thể quy định một ý tưởng, một hệ thống tin tưởng mà không bị cái đối nghịch chống lại ngay lập tức. Nếu con quy định cái gì đó là tốt, ngay tức khắc có cái đối nghịch mà con xem là xấu ác. Bởi vì con tin cả hai đối nghịch tương đối đều thật, con nghĩ là thế giới quan của con có thể sẽ bị chống đối và phá hủy. Con tin là ác quỷ có thật và có khả năng đe dọa con và do đó con sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi bất cứ gì chống lại thế giới quan của con. Đây là lý do tại sao ngã hữu diệt lúc nào cũng cảm thấy bị đe dọa và tại sao nhiều tín đồ tôn giáo cảm thấy bị ác quỷ đe dọa.

Con yêu dấu, tim thày nặng trĩu khi thấy quá nhiều người sợ ác quỷ, sợ xấu ác. Con hãy xét xem con người đối diện với mối đe dọa này khác nhau như thế nào. Nhiều tín đồ Cơ đốc sợ ác quỷ đến độ họ không dám xét đến những ý tưởng vượt quá sự diễn giải Kinh Thánh theo nghĩa đen. Thậm chí họ không dám đọc bài trong khóa học này vì sợ nó đến từ ác quỷ. Nhiều người theo phong trào Thời đại Mới cởi mở với ý tưởng mới nhưng họ giải quyết mối đe dọa của xấu ác bằng cách phớt lờ nó, từ chối ngay cả việc xem xét nó. Cả hai loại người này bị giam hãm trong khuôn nếp trốn chạy điều gì có vẻ là mối đe dọa cho cảm giác an toàn của họ. Cả hai đều sợ xấu ác và nỗi sợ ngăn cản họ nhìn nó kỹ hơn. Nếu họ sẵn sàng khắc phục nỗi sợ và chịu nhìn xấu ác kỹ hơn, họ sẽ nhận ra là xấu ác chỉ hiện hữu trong cõi của nhị nguyên. Cách tối hậu khắc phục xấu ác là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã hữu diệt. Khi con rửa sạch bốn thể phàm của con khỏi những niềm tin nhị nguyên, ông hoàng thế gian không tìm thấy gì trong con và do đó con không cần sợ bất cứ gì trên thế gian này.

Giê-su, Phật và các lãnh đạo tâm linh khác không sợ ác quỷ vì họ đã thể nhập điều thày vừa nói. Họ đã sáng ngộ sự thực là không có gì chống lại Thượng đế, không có gì chống lại sự thật Ki-tô, Phật tánh. Tâm phản-Ki-tô nghĩ nó chống lại sự thật Ki-tô, nhưng nó giản dị ở bên ngoài và mất nối kết với thực tại Ki-tô. Phản Ki-tô bị giam hãm trong chính thế giới của nó, một thế giới không tránh bị thống trị bởi hai đối cực tương đối. Phản Ki-tô không đối nghịch với Ki-tô, nhưng đối nghịch với chính phiên bản tương đối của nó về sự thật Ki-tô. Xấu ác không đối nghịch với cái tốt tuyệt đối của Thượng đế. Xấu ác là một lực tương đối đối nghịch với tốt tương đối. Thực tại của Thượng đế và chân lý của Ki-tô vượt quá tất cả những đối cực tương đối. Một sinh thể Ki-tô không bao giờ bị lôi kéo vào cuộc chiến nhị nguyên liên tục giữa hai đối cực tương đối. Một sinh thể Ki-tô không bao giờ về phe nào trong cuộc đấu đá quyền lực của con người và đó là lý do tại sao ác quỷ không thể cám dỗ Giê-su. Một sinh thể Ki-tô trung thành với viễn kiến một, viễn kiến của mắt đơn nhất của tâm Ki-tô. Vị ấy tin rằng vương quốc Thượng đế sẽ không thị hiện bằng cách để cái tốt tương đối thay thế hay triệt tiêu cái xấu tương đối. Vương quốc Thượng đế chỉ thị hiện khi đủ số người tới hạn vươn lên trên toàn bộ đấu tranh nhị nguyên.

15.3. Ngã hữu diệt tạo các mối đe dọa nó

Cách duy nhất để con giải thoát mình khỏi ngã hữu diệt là con vượt thăng tư duy nhị nguyên của nó. Để làm được điều nay, con cần nhận ra là ngã hữu diệt sẽ không bao giờ thấy hay nhìn nhận là hình tượng khô chết của nó, thế giới quan cơ bản của nó, là một ảo tưởng. Nếu hệ thống niềm tin của nó bị chứng minh là sai trật, thì ngã hữu diệt tin rằng nó sẽ chết và đây là sự thật. Cốt lõi của ngã hữu diệt, phương thức hoạt động của nó là thế giới quan nhị nguyên và hệ tư tưởng cơ bản của nó không bao giờ có thể bị chứng minh là sai. Con không bao giờ có thể thuyết phục ngã hữu diệt là nó đang sống theo một lời dối, con không bao giờ có thể làm cho nó thấy thấu suốt tâm thức nhị nguyên đã sinh ra nó. Ngã hữu diệt sẽ mãi mãi tìm cách chứng minh các tin tưởng nhị nguyên của nó không thể sai bằng cách bảo vệ chúng khỏi các tin tưởng nhị nguyên đối nghịch, nhưng nỗ lực này của nó bất khả thi.

Vấn đề là ngã hữu diệt không có tính thực tại. Cái Ta Biết có một thực tại vượt quá ý niệm bản sắc của nó, vượt quá nội dung quả cầu cái ta. Cái Ta Biết có thể hiện hữu độc lập với bất kỳ ý tưởng nào được quy định trên thế gian này. Ngã hữu diệt không có thực tại độc lập. Đơn giản là nó không thể hiện hữu độc lập với các niềm tin nhị nguyên đã sinh ra nó. Nếu các niềm tin nhị nguyên này được chứng minh là sai, ngã hữu diệt sẽ không hiện hữu nữa. Con đừng chờ đợi ngã hữu diệt tình nguyện buông bỏ nỗ lực duy trì sự sống của nó. Điểm mấu chốt là cái Ta Biết đã tạo ra ngã hữu diệt và cái Ta Biết cần phải “khai tử” nó bằng cách tách ra khỏi nó và cho phép nó chết.

Chiến lược cơ bản của ngã hữu diệt là nó tìm cách đưa nó vào vị trí thay thế niệm tinh khôi của Bản thể con, niệm tinh khôi được cất giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Niệm tinh khôi này được trù hoạch để là đá nam châm giúp con sử dụng quyền tự quyết của con trong cõi vật chất. Nó là tảng đá của Ki-tô cho con nền tảng vững chắc để lấy quyết định thẳng hàng với các quy luật Thượng đế. Ngã hữu diệt tìm cách dùng tâm thức phản Ki-tô để đưa nó vào vị trí có thẩm quyền tối hậu, như là người đại diện cho Thượng đế, như là đấng Con trai duy nhất sinh ra từ Cha, như là Ki-tô. Nó cố gắng đưa nó vào vị trí thay thế cho sự thật Ki-tô và nó trở thành kẻ mạo danh Ki-tô nhưng lại tha hóa sự thật Ki-tô qua tâm nhị nguyên. Nó lấy sự thật Ki-tô và biến sự thật này thành tương đối, qua đó nó biến sự thật Ki-tô thành tâm thức chết thay vì tâm thức của sự sống.

Ngã hữu diệt đã tự đặt nó vào vị trí một thẩm quyền giả và nó xác nhận nó biết giỏi hơn ai hết cách điều hành cuộc đời con. Con phải cho phép ngã hữu diệt điều hành cuộc đời con. Nếu con làm vậy, con sẽ bảo đảm được cứu rỗi; nếu con không làm vậy, con sẽ bảo đảm xuống địa ngục. Vị thế thẩm quyền mà ngã hữu diệt tuyên cáo chỉ là nhà xây trên cát. Do đó, nó chỉ có thể giữ vững vị thế thẩm quyền đó bằng cách dùng sợ hãi, nỗi sợ làm con sợ không dám nhìn kỹ hơn lời tuyên cáo nó có thẩm quyền. Nếu con nhìn kỹ và xin sự hướng dẫn của cái ta Ki-tô, thì con sẽ nhìn thấu suốt lời tuyên cáo đó của ngã hữu diệt.

Thay vì thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa, ngã hữu diệt cố gắng nắm giữ hình ảnh nhị nguyên, hình tượng khô chết mà nó đã xây dựng. Hình tượng khô chết bị đe dọa từ trong bản chất vì nó tách ra khỏi Dòng sông sự Sống. Không gì đứng yên có thể tồn tại; nó sẽ liên tục bị đe dọa bởi dòng sông tuôn chảy của công trình sáng tạo của Thượng đế. Các mối đe dọa thực tế được hình thành như thế nào? Tâm thức nhị nguyên dựa trên việc tạo ra hai cực đoan tương đối, hai đối cực. Con có thể gọi chúng là tốt và xấu, đen và trắng hoặc bất cứ gì con muốn. Bất kể tên gì, các đối cực này đối nghịch nhau nhưng cả hai đều ở bên ngoài chân lý Ki-tô. Ngày nào con còn kẹt trong nhị nguyên, con sẽ không thoát khỏi mâu thuẫn và xung đột có sẵn trong khung tư duy này.

Ngã hữu diệt mong muốn tạo ra ảo tưởng tối hậu về trọn vẹn, về an toàn, và nó làm chuyện này bằng cách quy định một hệ thống niềm tin không thể sai trật. Trải dòng lịch sử, nhiều nền văn minh đã quy định một hệ thống niềm tin tôn giáo hay chính trị và tuyên bố nó là hệ thống tối hậu, có nghĩa là nó dựa trên một chân lý không thể sai trật hay tuyệt đối. Bất kỳ ý tưởng nào quy định trong cõi nhị nguyên đều có cái ngược lại cho nên một hệ thống niềm tin “tối hậu” sẽ bị đe dọa bởi ý tưởng ngược lại vì đó là bản chất của nhị nguyên. Những người tin theo hệ thống tin tưởng đó sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi những người không là “tín đồ chân chính”. Điều này tạo ra nhu cầu cải đạo người khác hay ép uổng họ phải chấp nhận những niềm tin của mình. Đi tới cùng cực thì con thấy niềm tin của con được xác chứng bởi một thẩm quyền tối hậu như Thượng đế hay các lực tự nhiên, và con có quyền giết tất cả những người không chịu chấp nhận hệ thống niềm tin chân chính duy nhất của mình. Lẽ dĩ nhiên, người khác muốn sống còn nên họ sẽ tìm cách phá hủy hệ thống niềm tin tuyệt dối của con, có thể bằng cách thay thế nó bằng chính tôn giáo không thể sai trật của họ. Nếu ngã hữu diệt đi quá xa tới một cực đoan nhị nguyên để xây dựng hay bảo vệ hình tượng khô chết của nó, nó sẽ tự động sinh ra một phản ứng ngược lại tìm cách  phá hủy hình tượng giả này. Tất cả những gì ngã hữu diệt làm đều tạo ra một lực đe dọa ảo tưởng của nó, biến cuộc đời của ngã hữu diệt thành một sự đấu tranh liên lục để làm điều không thể làm được.

Ngã hữu diệt không bao giờ thấy sự đấu tranh này do chính nó gây ra vì nó không bao giờ thấy được quá tâm thức nhị nguyên. Ngã hữu diệt hoàn toàn tin chắc hình tượng khô chết của nó là đúng và các lực ngoài kia đang tìm cách tiêu hủy hệ thống niềm tin chân chính của nó. Bởi vì hình tượng của nó đúng tuyệt đối, mọi thứ khác phải giả và những lực tin vào hình tượng giả đang tìm cách tiêu hủy ngã hữu diệt và hình tượng chân chính của nó. Vũ trụ là một tấm gương nên nếu con phóng chiếu niềm tin là con bị đe dọa, tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại những hoàn cảnh quả thực đe dọa niềm tin của con. Mục đích là giúp con vượt thăng những niềm tin hiện hành của con bằng cách vươn lên hiểu biết cao hơn.

Nếu con gửi ra ngoài một xung lực dựa trên nhị nguyên, tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại những hoàn cảnh trải bày nhị nguyên và như vậy cuộc đời con không thể tránh trở thành một chuỗi vật lộn. Thông điệp là con cần thăng vượt nhị nguyên và vươn lên tâm thức Ki-tô để vũ trụ có thể phản chiếu lại cho con đời sống dồi dào. Ngã hữu diệt không thể nào hiểu khái niệm này và do đó nó đơn giản sẽ cố chấp và làm mọi điều có thể làm được để bảo vệ hình tượng khô chết của nó. Ngã hữu diệt càng trải nghiệm phản ứng đe dọa từ tấm gương vũ trụ gửi ra, thì nó càng nghĩ cần bảo vệ hình tượng của nó.

Lịch sử cho thấy nhiều trường hợp hai nhóm người xung đột hay thậm chí gây chiến tranh với nhau dựa trên hai hệ thống niềm tin tuyệt đối. Mỗi nhóm tuyên bố là họ có hệ thống niềm tin tuyệt đối và thẩm quyền tuyệt đối để triệt tiêu mọi sự chống đối niềm tin của họ. Trong nhiều trường hợp, mỗi nhóm đều tin rằng sự sống còn của toàn thể thế giới dựa trên sự sống còn của hệ thống niềm tin của họ. Trên thực tế, mỗi nhóm chỉ bảo vệ một hệ thống niềm tin tương đối, nhị nguyên, và điều này được chứng mình rõ ràng bởi sự kiện cả hai đều sẵn sàng sử dụng bạo lực. Khi con tách rời con đường tình thương thì con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống, và do đó con đơn giản không thể đại diện cho thực tại của Thượng đế hay chân lý của Ki-tô. Khi con kháng cự xấu ác, con đã bước vào cõi nhị nguyên và như vậy con đã trở thành một thành phần của xấu ác. Giờ đây con là một phần của vấn đề thay vì là một phần của đáp án.

Tấm gương vũ trụ được thiết kế để phản chiếu lại những gì những người đồng sáng tạo gửi ra với hy vọng là họ sẽ vươn lên trên mọi hình ảnh không toàn hảo khi thấy một thị hiện không toàn hảo. Một lần nữa, thông điệp giản dị nhưng ngã hữu diệt không bao giờ hiểu được: “Nếu tôi không thích cái được gửi trả về thì tôi phải thay đổi cái tôi gửi ra.” Hay như Giê-su đã nói 2000 năm trước: “Hãy làm với người khác điều gì con muốn họ làm với con.”

Tấm gương vũ trụ được thiết kế để giúp con khắc phục bất kỳ ảo tưởng nhị nguyên nào con đang bị mắc kẹt trong đó. Khi con giới hạn tâm mình vào một hệ thống niềm tin nhị nguyên, con không thể tránh sợ những gì chống lại niềm tin của mình. Khi con gửi sợ hãi vào tấm gương vũ trụ, con sẽ thu hút đúng điều con sợ. Điều này tạo cơ hội cho con đối mặt nỗi sợ của mình và vượt lên trên nỗi sợ. Nếu con để cho ngã hữu diệt làm chủ cuộc đời con, con sẽ chỉ tìm cách tiêu hủy những gì đe dọa niềm tin của con. Điều này giam con trong cuộc tranh đấu không dứt để bảo vệ một ảo tưởng bị đe dọa bởi chính bản chất nhị nguyên của nó. Ngã hữu diệt đơn giản không nhận ra nó đang bị đe dọa bởi chính những hình ảnh nó gửi vào tấm gương vũ trụ. Nó không thể thấy được mối đe dọa đến từ chính nó. Nó không bao giờ thoát khỏi chu kỳ cứ phải bảo vệ mình chống lại những đe dọa do chính mình tạo ra và nếu con cho phép ngã hữu diệt làm chủ cuộc đời con, cuộc đời con sẽ là một cuộc đấu tranh triền miên. Con đường thoát duy nhất là cái Ta Biết tách ra khỏi ảo tưởng nhị nguyên của ngã hữu diệt và từ chối không tham gia vào cuộc đấu tranh không bao giờ dứt đó.

15.4. Giành lại quyền làm chủ đời mình

Ngã hữu diệt tự bản chất tạo ra hoàn cảnh đe dọa thế giới quan của nó. Khi tấm gương vũ trụ phản chiếu lại hình ảnh trong tâm nó, ngã hữu diệt bắt buộc phải giải quyết hoàn cảnh đó. Ngã hữu diệt giải quyết như thế nào mối đe dọa hệ thống niềm tin của nó? Thượng đế hy vọng rằng khi ngài thiết kế vũ trụ này thì khi con người nhận được những phản ứng khó chịu từ tấm gương vũ trụ, họ sẽ nhận ra họ cần thay đồi những gì họ gửi ra ngoài. Qua đó họ có thể vượt lên trên các niềm tin nhị nguyên của họ và trở về đời sống dồi dào. Hệ thống nàykhông hiệu quả khi cái Ta Biết từ chối lấy quyết định và tìm cách trốn chạy các hoàn cảnh khó khăn và cho phép ngã hữu diệt quyết định phản ứng của nó. Ngã hữu diệt hoàn toàn tập trung vào chuyện làm cho ảo tưởng của nó có vẻ thật và do đó ngã hữu diệt không bao giờ nghĩ là biết đâu chừng nó cần xét lại hệ thống niềm tin của nó. Thay vào đó, ngã hữu diệt tập trung vào việc né tránh mối đe dọa, né tránh phản ứng khó chịu từ vũ trụ. Để né tránh, nó đi vào phản ứng mà các nhà tâm lý gọi là phản ứng chạy hay đánh.

Phản ứng đầu tiên của ngã hữu diệt là chạy xa mối đe dọa, né nó, làm lơ, phủ nhận hay giải thích là mối đe dọa không quan trọng, không quá tệ bằng suy luận nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng có thể tìm ra luận cứ để bênh vực điều nó muốn tin. Ngã hữu diệt có thể  tránh né phần lớn các mối đe dọa bằng một luận cứ nào đó. Trong cõi vật lý, con không phải lúc nào cũng né tránh được một mối đe dọa, phủ nhận hay trốn chạy một hoàn cảnh vật lý. Khi ngã hữu diệt không thể chạy trốn mối đe dọa thì nó đi vào phản ứng đánh nhau và tìm cách tiêu hủy mối đe dọa. Trong nhiều trường hợp, điều đó có nghĩa là nó tìm cách tiêu hủy những người đại diện mối đe dọa đó. Có nghĩa là ngã hữu diệt sẽ hoặc tiêu hủy thân vật lý của họ, tức là giết những người đó, hoặc triệt tiêu họ bằng phương tiện tâm lý như ép uổng họ phải tuân phục hay khóa miệng họ bằng bạo lực vật lý hay tâm lý.

Trong nhiều trường hợp, ngã hữu diệt có thể né tránh mối đe dọa bằng phản ứng chạy hay đánh. Khi làm thế, ngã hữu diệt không thể tránh gửi ra ngoài một xung lực khác. Khi xung lực này được tấm gương vũ trụ trả về, nó sẽ khoác vào hình dạng một mối đe dọa trầm trọng hơn cho ảo tưởng của ngã hữu diệt. Đó là lý do vì sao cuộc đời con trở thành một cuộc vật lộn không ngừng và chính ngã hữu diệt mang trách nhiệm gia tốc cuộc vật lộn này. Ngã hữu diệt gửi ra ngoài một hành động tạo ra phản ứng từ tấm gương vũ trụ và hành động càng mạnh bao nhiêu thì phản ứng cũng mạnh bấy nhiêu. Điều này có thể gia tốc tới điểm toàn bộ cuộc đời của con giống như một thiếu hụt lớn lao và lúc nào con cũng đang chạy đây đó để dập tắt các ngọn lửa hay giải quyết hết khủng hoảng này đến khủng hoảng nọ. Cái Ta Biết không thể tránh trải nghiệm ít nhất một phần sự vật lộn đó. Con giản dị phải quyết định để cho tình trạng này kéo dài bao lâu và khi nào thì con lấy lại trách nhiệm cuộc đời mình và cai quản quả cầu cái ta của con.

Có những người mà cuộc đời bị hoàn toàn tiêu hao trong cuộc tìm cầu bất khả thi của ngã hữu diệt. Nếu con là một trong những người đó, có lẽ con không có nhận biết hay mong muốn theo học khóa này. Có lẽ con cũng không muốn bỏ thì giờ và sức lực đọc những cuốn sách dài này. Nhưng ngã hữu diệt sẽ không bao giờ buông bỏ cuộc tìm cầu bất khả thi của nó. Nó sẽ không bao giờ có khả năng ngưng phản ứng chạy hay đánh. Nó sẽ không bao giờ có khả năng ngưng nỗ lực chứng minh hình ảnh của nó về thế giới là đúng.

Những người có một mức độ nhận biết tâm linh nào đó đã tách được họ ra khỏi ngã hữu diệt một phần nào. Họ đã vượt lên trên những trò chơi dễ thấy nhất của ngã hữu diệt. Tỷ dụ, họ sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện giết tín đồ của một tôn giáo khác. Tuy thế còn nhiều trò chơi khác vi tế hơn của ngã hữu diệt. Con đường tâm linh là một tiến trình trong đó cái Ta Biết phải liên tục với lên tầm nhìn sáng rõ hơn của sự thật Ki-tô. Chỉ khi làm vậy con mới có thể nhìn thấu suốt và thăng vượt những tin tưởng nhị nguyên mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian dùng để giam hãm con đằng sau tấm màn ảo tưởng. Dù con nghĩ mình cao cấp tới đâu chăng nữa, thái độ khôn ngoan là luôn nhớ rằng ngày nào con còn ở trong vũ trụ vật chất này, thì con cần nhìn vô gương và xét xem con có cần gỡ đi một cái xà trong chính mắt con chăng.

Ngã hữu diệt tinh tế và cách duy nhất để thoát khỏi nó là thăng vượt nó, một sự thăng vượt thì không bao giờ ngừng. Nếu con không liên tục thăng vượt chính mình, ngã hữu diệt sẽ tìm ra cách thích ứng thế giới quan của nó với các niềm tin và kiến thức hiện hành của con. Nó sẽ dùng những niềm tin này, dùng ngay cả một tôn giáo đặc thù hay một hệ thống niềm tin tâm linh để xây đắp một hình ảnh là con không cần vươn lên cao hơn, con không cần thăng vượt tầng mức hiện nay của con. Đây chính là điều khiến nhiều người tâm linh đi vào ngõ cụt, ngăn cản họ tiến bộ thêm dù rằng họ rất gần điểm đột phá và biểu hiện tâm thức Ki-tô.

Cách duy nhất để thực sự trốn thoát cỗ máy chạy của ngã hữu diệt là tách cái Ta Biết hoàn toàn khỏi ngã này. Để thực hiện điều này, con cần chấp nhận là con xứng đáng đối mặt Thượng đế, con xứng đáng trở về vương quốc Thượng đế, là cảm nhận nội tại con là một với Thượng đế. Con xứng đáng là một với đấng Sáng tạo ra con và phụng sự như người đồng-sáng tạo trong cõi này. Ngã hữu diệt có một lỗ hổng đen ngay trong cốt lõi của nó. Con không bao giờ lấp đầy được một lỗ hổng đen. Ngã hữu diệt tìm cách dùng những thứ của thế gian để lấp đầy lỗ hổng đen của nó. Nó đi con đường có vẻ đúng với người nhân phàm. Nó cố tạo hình ảnh là nếu con thuộc vào tôn giáo chân chính duy nhất, nếu con tin vào giáo lý chân chính duy nhất, nếu con theo đạo sư chân chính duy nhất và nếu con có hành động vỏ ngoài này hay kia thì con sẽ xứng đáng dưới mắt Thượng đế. Đây là mối nguy hiểm vi tế có khả năng thuyết phục nhiều người theo tôn giáo hay tâm linh, đặc biệt là khi họ đã đi trên đường tu một số năm.

Nhiều người đã tìm cầu tâm linh từ nhiều thập niên và khi nhìn lại cuộc đời, họ cảm thấy họ đã học hỏi rất nhiều, họ đã hiểu rất nhiều, họ đã làm rất nhiều những điều vỏ ngoài. Họ thấy quả thực họ đã tiến lên rất cao hơn nhiều so với trước đây mười năm, hai mươi năm hay nhiều hơn nữa. Ngã hữu diệt rỉ vào tai họ: “Bạn đã làm đủ rồi, bạn đã leo cao đủ trên ngọn núi. Bạn có thể ngừng ở đây và hưởng quang cảnh, bạn không cần đi tiếp quãng đường tới đỉnh.” Đây là một lời cám dỗ rất vi tế và đáng tiếc thay nó đã khiến nhiều người tìm đạo chân thành ngưng bước ngay trước khi họ sẵn sàng đột phá và biểu hiện tâm thức Ki-tô. Con phải chân thành nỗ lực nhìn xuyên thấu lời cám dỗ này và vượt lên trên nó.

Chìa khóa để vượt lên trên con bê vàng nghĩ rằng thành quả vỏ ngoài khiến con xứng đáng dưới mắt Thượng đế là nhận ra con đã xứng đáng chỉ vì sự kiện Thượng đế đã tạo sinh ra con. Cái Ta Biết xứng đáng từ khi được sinh tạo và cốt lõi bản thể của con không phải là một lỗ hổng đen mà là mặt trời của Hiện diện TA LÀ. Con hiện nay có thể có cảm giác không xứng đáng hay nghi ngờ sự xứng đáng của mình. Cảm giác này là bóng tối do sự thiếu vắng ánh sáng của Hiện diện TA LÀ. Khi con để cho ánh sáng đó tỏa rạng, nó sẽ thay thế bóng tối và con sẽ biết là con xứng đáng. Cuộc đời của con sẽ thay đổi, khiến cuộc tìm cầu lấp lỗ hổng đen của tự ngã hữu diệt chuyển đổi thành đời sống dồi dào, khiến thiếu hụt chuyển thành thặng dư. Khi con cảm thấy ánh sáng vô hạn của Thượng đế chảy xuyên qua bản thể của con, con sẽ tự nhiên tập trung vào việc cho người khác thay vì lấy từ người khác.

15.5. Hai cạm bẫy trên đường tu

Vì bản chất của tâm nhị nguyên, lúc nào cũng có một sự chia đôi khiến các thày không dễ với tới nhiều người trên trái đất. Tâm thức nhị nguyên tạo nên một thách đố đặc biệt cho người thày tâm linh. Con hãy xem xét nỗi khó khăn mà thày đối diện. Thày muốn con nhận ra con là ai và con biết, với cái biết nội tại, là cái Ta Biết hoàn toàn xứng đáng dưới mắt Thượng đế. Để giúp con khắc phục ảo tưởng con không xứng đáng, thày phải trình bày cho con sự thật con là ai. Thày phải mô tả tiềm năng cao nhất của con để con biết đỉnh của ngọn núi Thượng đế như thế nào. Nếu con không biết con đi đâu, làm sao con tránh ngưng bước trước khi tới nơi?

Ngã hữu diệt có ít nhất hai cách để ngăn chặn con chấp nhận lời dạy của thày, đó là hai đối cực nhị nguyên. Thày phải cho con mục tiêu cao nhất, tuy ở mức tâm thức hiện thời của con mục tiêu này có vẻ quá xa trên con, có vẻ vượt quá tầm với của con. Nếu con có cảm nhận bất xứng hay con nghi ngờ khả năng mình có thể vươn lên cao hơn, ngã hữu diệt sẽ tìm cách dùng giáo lý của thày để làm con nản chí không thành tâm nỗ lực nữa. Nó sẽ cố làm cho con tập trung vào những lỗi lầm con đã phạm và dùng chúng để nói con không xứng đáng đeo đuổi con đường tâm linh, con không thực sự là người tâm linh. Cố gắng làm gì khi mục tiêu quá xa tầm với của con? Cốt lõi con đường tâm linh là tự thăng vượt, vậy làm sao con có thể không xứng đáng thăng vượt chính mình? Dù con ở thấp đến đâu trên cầu thang xoắn ốc, con lúc nào cũng xứng đáng bước lên cao hơn.

Khía cạnh khác của tâm thức nhị nguyên là cảm nhận ngạo mạn, cảm nhận là vì điều kiện bên ngoài thế này hay thế khác, con giỏi hơn người khác và không cần vươn lên cao hơn. Ngã hữu diệt sẽ dùng giáo lý của thày để củng cố lòng ngạo mạn nghĩ rằng vì con đã tu tập rất nhiều trong quá khứ và vì con đã hiểu rất nhiều, con không cần bận tâm khắc phục những ảo tưởng còn lại của ngã hữu diệt. Nếu con vẫn còn hiện thân trên trái đất, hiển nhiên là có gì đó con chưa thăng vượt, bước nào đó con chưa đi. Ngày nào con còn ở trong thế gian này, con luôn luôn cần sẵn sàng đi bước kế tiếp. Cốt lõi con đường tâm linh là tự thăng vượt, vậy làm sao con có thể đạt tới điểm con không thể thăng vượt nữa? Con có thể đạt tới điểm nơi đó con không sẵn sàng đi bước kế tiếp, nhưng lúc đó con đã đặt mình ra ngoài Dòng sông sự Sống. Con không còn là người tâm linh thực sự nữa, dù ngã hữu diệt đã xây đắp ảo tưởng con là một linh hồn cao cấp vì tất cả những gì con đã làm trong quá khứ. Những gì con đã làm trong quá khứ là giúp gì được con nếu nó ngăn cản con đi bước kế tiếp.

Không có điều gì thày nói mà ngã hữu diệt không thể dùng để củng cố ảo tưởng nhị nguyên của nó và ảnh hưởng của ảo tưởng đó trên con. Nếu con cho phép ngã hữu diệt dùng giáo lý của thày để củng cố những ảo tưởng của nó, con sẽ chỉ càng bị giam hãm thêm trong các ảo tưởng này. Lẽ tất nhiên thày không muốn thấy chuyện này xảy ra. Đó là lý do tại sao thày cần con, tức là cái Ta Biết, bước lùi lại và dùng những giáo lý trong khóa học này để vươn lên trên suy luận của ngã hữu diệt. Thày cần con với lên sự thật cao hơn, viễn kiến của mắt đơn nhất, của tâm Ki-tô.

Tâm thức phản-Ki-tô quy định hai đối cực, và thày đã nói tới trung đạo. Thày không nói là để thoát khỏi các đối cực, con phải đi vào điểm giữa hai cực vì nó chỉ là sự thỏa hiệp giữa hai đối cực. Một sự thỏa hiệp giữa hai đối cực vẫn ở trong cõi của nhị nguyên. Nếu một đối cực là trắng và đối cực kia là đen, điểm ở giữa sẽ là xám. Nếu con pha trộn đen và trắng tương đối, con không tiến gần hơn điểm thấy sự thật của Ki-tô, con chỉ thấy màu xám. Con hãy tưởng tượng thời trước khi các nhà nhiếp ảnh chỉ có phim đen trắng. Tất cả những gì hiện ra trên tấm hình đen trắng đều hoàn toàn chính xác, ngoại trừ sự kiện nó không có màu sắc. Bông hoa được mô tả từng chi tiết, ngoại trừ sự kiện thiên nhiên không có hoa màu xám. Nếu con dùng quá nhiều ánh sáng thì hình hiện ra toàn màu trắng. Nếu con dùng quá ít ánh sáng, thì tấm hình sẽ hiện ra toàn màu đen. Nếu con dùng độ ánh sáng khoảng ở giữa thì tấm hình sẽ có một sự phân bố các vùng sáng và tối chính xác và giống đời thật nhưng nó vẫn không có màu sắc. Thày cần con vươn lên trên cái đen, trắng và xám của tâm thức nhị nguyên. Thày cần con để vào máy ảnh của tâm một cuộn phim màu để con thấy được màu sắc thật của tâm Ki-tô.

Thày biết điều này có vẻ như vượt quá khả năng của con, hay con có thể có cảm tưởng con đã có rồi sự thật Ki-tô từ một giáo lý vỏ ngoài. Thày kêu gọi con tránh bị giam hãm trong một trong hai đối cực đó. Con đừng nản chí và đừng phớt lờ nhu cầu đi tìm một hiểu biết cao hơn. Thày kêu gọi con bắt đầu ở mức con đang ở, bất kể con nghĩ con đang ở đâu, và đi những bước nhỏ để mở rộng hiểu biết của con. Thày yêu cầu con giữ trong tâm ý tưởng là để đạt tới mục tiêu tối hậu, con phai tiếp tực đi những bước nhỏ, con phải tiếp tục thăng vượt mức nhận biết hiện nay của con, ngày nào con còn ở trong cõi vật chất và ngay cả khi con đã đi quá cõi vật chất.

Có hai phản ứng có thể ngưng sự tiến bộ của con. Một phản ứng là niềm tin con không xứng đáng vì con có qua nhiều khiếm khuyết và hiện nay con ở quá thấp dưới mức lý tưởng. Nếu con tin điều này, thì con sẽ không cố gắng thoát khỏi tâm thức nhị nguyên. Phản ứng kia là con đã xứng đáng rồi vì con đã làm quá nhiều việc vỏ ngoài. Nếu con tin điều này, con sẽ nghĩ con không cần làm gì thêm nữa để tránh thoát tâm tức nhị nguyên vì con đã được cứu rồi rồi. Cả hai phản ứng đều sai.

Trên thực tế, con thoát khỏi cảm nhận bất xứng dễ hơn vì con nhận ra con đang thiếu gì đó. Ngày nào con còn sẵn sàng nỗ lực thì con sẽ vươn lên cao hơn. Thách đố khó khăn nhất cho người thày tâm linh là với tới những người nghĩ họ xứng đáng vì họ đã rơi vào bẫy của ảo tưởng của ngã hữu diệt cho rằng các hành động vỏ ngoài khiến họ xứng đáng. Những người này hầu như các thày không thể tới họ, như Giê-su khi xưa không thể với tới các thày thông giáo và Pha-ri-si. Điều trớ trêu là nhiều người trong số họ đã quả thực đạt được một trình độ tâm linh cao nhưng họ đã bị lừa để ngưng tăng trưởng ngay trước khi họ có thể đột phá để tới tâm thức Ki-tô. Đây là một cạm bẫy mà thày muốn thấy tất cả các học viên của khóa này tránh được.

15.6. Con đã có sẵn những gì con cần

Như một chặng giữa trên con đường chấp nhận con thực sự xứng đáng, thày yêu cầu con suy ngẫm điều thày đã nói về việc ngã hữu diệt lao mình vào cuộc tìm cầu bất khả thi để lấp lỗ hổng đen và nó làm thế bằng cách dùng những “thứ” của thế gian này. Chìa khóa để đạt đời sống dồi dào là con ngưng suy nghĩ là con cần bất cứ gì từ thế gian này, bất cứ gì ở ngoài cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, để có thể thị hiện đời sống dồi dào, để lấy lại sự trọn vẹn của con.

Con mất cảm giác trọn vẹn vì con tách mình ra khỏi Thượng đế và qua đó con bị giam hãm trong tâm thức nhị nguyên. Con không thể làm được gì với tâm thức nhị nguyên để khiến con xứng đáng, để giúp con lấy lại cảm giác xứng đáng. Con chưa bao giờ mất đi sự xứng đáng; con chỉ đơn giản tin vào ảo tưởng con đã mất nó. Bản mẫu của bản sắc thật của con được lưu giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ và không bao giờ bị mất hay bị tiêu hủy bởi bất cứ gì xảy ra trên vũ trụ vật chất. Tâm thức nhị nguyên không bao giờ đụng tới bản mẫu này được.

Khi con chụp một tấm hình đen trắng của hoàng hôn, con không thấy được màu sắc tươi đẹp trên tấm hình, nhưng sự kiện này không lấy đi màu sắc của hoàng hôn thật. Sự kiện con đã thay thế bản sắc của con, cảm giác xứng đáng của con, bằng một tấm hình đen trắng không triệt tiêu bản sắc con thật sự là ai. Con không cần làm gì để được xứng đáng. Con không cần phải làm gì trên thế gian này để giành lại sự xứng đáng của con. Con cần tới điểm nhận ra con chưa bao giờ mất đi sự xứng đáng, và để giành lại sự xứng đáng, con chỉ đơn giản chấp nhận là con xứng đáng. Con phải chấp nhận là con, cái Ta Biết, đã luôn luôn và sẽ luôn luôn xứng đáng dưới mắt Thượng đế. Con xứng đáng đối mặt Thượng đế, xứng đáng là một với Thượng đế, xứng đáng là một nối dài của Thượng đế trong cõi này. Cái Ta Biết có khả năng đồng hóa nó với, đồng hóa nó là, bất cứ gì nó nghĩ và tin, bất cứ gì nó chấp nhận là thực tại. Nếu con đồng hóa với một người xứng đáng thì con là một người xứng đáng.

Chìa khóa thật để thị hiện dồi dào là ngưng nghĩ rằng con cần bất cứ gì trong thế gian này để được dồi dào. Con được thiết kế là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Như Giê-su đã nói: “Cha ta làm việc cho tới nay và ta làm việc” (John 5:17). Câu nói này mô tả tinh túy của quan hệ của con với Thượng đế. Con có mặt ở đây để đem ánh sáng Thượng đế vào thế gian này và để áp chồng viễn kiến Ki-tô lên Ánh sáng Mẹ. Con có mặt ở đây để là Thượng đế đang hành động, để là Thượng đế đang thị hiện. Thượng đế đã thiết kế để con làm như việc này và Thượng đế đã thiết kế để con có bên trong con tất cả mọi thứ mà con cần để hoàn thành công việc này. Quả thực đấng Cha hoàn hỷ cho con vương quốc của ngài, nghĩa là Thượng đế muốn vương quốc của ngài được thị hiện trên trái đất. Con cần phát triển sự chấp nhận vững chắc là Thượng đế sẽ cho con tất cả những gì con cần để thị hiện đời sống dồi dào cho con và góp phần vào việc thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Thực tế là Thượng đế có thể và sẽ cho con tất cả những gì con cần để thị hiện đời sống dồi dào và hoàn thành sứ vụ của con. Con được thiết kế với khả năng hiểu thấu suốt viễn kiến của Ki-tô và khả năng để cho ánh sáng Thượng đế chảy qua bốn thể phàm của con. Chìa khóa để thị hiện đời sống dồi dào là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã hữu diệt và niềm tin của ngã hữu diệt là nó cần điều gì của thế gian này để xây đắp cảm giác trọn vẹn, xứng đáng, an toàn. Trọn vẹn chỉ tìm thấy được khi con là con người mà con thật sự là. Khi con biết con là ai, con sẽ tin và sẽ biết là Thượng đế sẽ cho con tất cả những gì con cần.

Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian lúc nào cũng tìm cách ngăn cản con hoàn thành sứ vụ tâm linh của con. Chúng lúc nào cũng tìm cách ngăn cản vương quốc Thượng đế được thị hiện như một thực tại trên hành tinh này. Vũ khí cơ bản của chúng là niềm tin cho rằng con cần điều gì đó trong thế gian này để là cái mà con là, để hoàn thành sứ vụ của con. Điều con cần để thị hiện đời sống dồi dào là ánh sáng của Thượng đế và viễn quan của Ki-tô, và cả hai thứ này Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô của con có thể và sẽ cho con, chúng đã có sẵn trong quả cầu cái ta của con.

Yếu tố thứ ba mà con cần là cái Ta Biết phải có uy lực ý chí để đem ánh sáng và viễn quan xuống qua bốn thể phàm để ánh sáng có thể trở thành một thực tại thị hiện trong cõi vật chất. Điều duy nhất Thượng đế không thể cho con là uy lực ý chí này. Thượng đế cung cấp ánh sáng và tâm Ki-tô hòan vũ cung cấp viễn kiến. Điều con phải cung cấp là uy lực ý chí và đó chính là lý do tại sao ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian đang làm mọi thứ trong khả năng của chúng để làm suy yếu ý chí của con.

Vị Thượng đế cho con mọi điều con cần không phải là Thượng đế bên ngoài, sinh thể xa xăm trên trời. Nhiều tín đồ tôn giáo tới điểm nhận ra nhu cầu hướng tới Thượng đế để có tất cả những gì họ cần. Nhưng họ vẫn hướng tới Thượng đế bên ngoài, và đây là một cuộc tìm cầu bất khả thi. Chìa khóa thật là nhận ra vị Thượng đế có thể và sẽ cho con tất cả mọi điều con cần là Thượng đế bên trong. Thượng đế không làm mọi chuyện cho con; Thượng đế làm mọi chuyện xuyên qua con. Nếu con thụ động chờ Thượng đế làm cho con thì làm sao và khi nào con mới nhận lãnh vai trò đã được trù liệu cho con là người đồng sáng tạo với Thượng đế?

15.7. Tin tưởng Thượng đế cho con những gì con đang cần

Điều này đòi hỏi con nhìn đời khác đi. Trong thế giới hiện đại, tất nhiên con cần kiếm tiền để sống. Nhiều người tin rằng để được dồi dào, họ cần có việc làm và như vậy họ lệ thuộc vào một người chủ để kiếm sống. Nếu con bược lùi lại và xem xét quan niệm này thì con có thể xây dựng một tầm nhìn cao hơn. Con có thể tới chỗ hiểu biết và chấp nhận con không làm việc cho một công ty, tổ chức hay chính phủ. Con thực sự làm việc cho Thượng đế. Ngay lúc này, Thượng đế chu toàn những nhu cầu vật chất của con xuyên qua một người chủ đặc thù nhưng người chủ của con chỉ là một trung gian. Nếu con không còn làm việc cho người chủ đặc thù đó thì chắc chắn Thượng đế hoàn toàn có khả năng tìm ra một cách khác để con thị hiện những nhu cầu vật chất mà con cần. Lẽ tất nhiên con cần làm phần việc của con đề tìm ra hay thị hiện sinh kế đúng đắn.

Nếu con cho phép mình tin rằng sinh kế của con tùy thuộc vào một người chủ, tùy thuộc vào bất cứ gì trên thế gian này, cảm nhận dồi dào của con sẽ luôn luôn mong manh. Con có thể mất việc qua nhiều cách. Nếu con nghĩ sự dồi dào của con lệ thuộc vào chuyện tìm ra việc, thì khi mất việc cảm nhận dồi dào cũng mất theo. Nếu con chấp nhận con thật sự làm việc cho Thượng đế, con nhận ra rằng nguồn gốc dồi dào của con vượt quá thế gian này và do đó nó không bao giờ bị mất. Nếu Thượng đế không cho con dồi dào qua một người chủ đặc thù, thì chắc chắn tài xoay xở vô biên của Thượng đế sẽ tìm ra những cách khác để cho con điều con cần. Con có thể tin tưởng Thượng đế trong mọi chuyện nhưng niềm tin này không thể trở thành một sự lệ thuộc bệnh hoạn khiến con nghĩ rằng Thượng đế sẽ làm hết mọi việc hộ con. Có một sự khác biệt cơ bản giữa lệ thuộc bệnh hoạn và đồng-sáng tạo.

Muốn xây đắp cảm nhận Thượng đế sẽ cung cấp tất cả những nhu cầu của con đòi hỏi con sẵn sàng tin tưởng, tuy con không hiểu biết trọn vẹn hoàn cảnh của con và chưa có bằng chứng cụ thể chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Tỷ dụ, con cần tin rằng nếu ngay bây giờ con không có nguồn cung cấp dồi dào, thì có một lý do đằng sau. Nguyên nhân có thể là nghiệp quá khứ của con, hay con cần học một bài học, hay có một khía cạnh nào đó trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con không thể để sự thiếu hụt dồi dào tiêu hủy đức tin của con rằng Thượng đế sẽ cho con tất cả những gì con cần. Để phát triển đức tin này, con cần nhận ra rằng Thượng đế sẽ không cho con tất cả những gì ngã hữu diệt của con nghĩ nó cần.

Thượng đế sẽ không chu toàn những ham muốn giả không bao giờ có thể thoản mãn. Ngã tách biệt tìm cách xây dựng cảm giác an toàn bằng cách sử dụng những thứ của thế gian, và do đó nó không bao giờ nghĩ nó có đủ những thứ vật chất hay tiền. Sự thực là con luôn luôn được cung cấp đầy đủ những gì con cần để thăng vượt những giới hạn hiện thời và bước lên bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc.

Con cần thoát khỏi ảo tưởng cho rằng con cần một lượng tiền bạc nào đó để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con. Ngay lúc này, điều con cần làm để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con là bước lên bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc. Con có đúng những gì con cần để bước lên bước kế tiếp đó, con có đúng những gì con cần để thăng vượt cảm giác giới hạn hiện thời của con. Không có dối dào tiền bạc có thể đúng là điều con đang cần để khắc phục một niềm tin nhị nguyên đặc thù nào đó. Con cần tin tưởng rằng nếu con không có một điều gì đó, thì nguyên do lớn rộng hơn là con không cần nó. Con không cần nó để đi lên bước kế tiếp trên con đường tâm linh. Con có thể ngưng lo lắng về những gì con đang không có và tập trung toàn bộ chú ý vào việc có hiểu biết cao hơn sẽ cho con khả năng tận dụng những gì con đang có. Khi con chứng minh con trung tín với số ít những điều con đang có thì chắc chắn Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều điều khác.

15.8. Ở trong vương quốc ngay bây giờ ở đây

Có sự khác biết căn bản giữa làm. Ngã hữu diệt của con bị cuốn hút trong cuộc tìm cầu làm một số điều để được vào thiên đàng. Nó nghĩ con ở đây để làm điều gì đó cho Thượng đế, và nếu con làm đủ và làm điều đúng, thì Thượng đế sẽ phải chấp nhận ngã hữu diệt. Nếu cái Ta Biết tin ảo tưởng này, thì con sẽ bị cuốn hút trong cuộc tìm cầu làm một số điều để trở về thiên đàng. Không có gì con có thể làm để đưa con lên thiên đàng. Chỉ có một cách duy nhất để thừa kế vương quốc Thượng đế và nó đơn giản là con con người mà con là. Cái Ta Biết cần tới điểm chấp nhận bản sắc thật của nó là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Khi con hoàn toàn chấp nhận bản sắc này, con sẽ trong thiên đàng. Con không làm để đi vào thiên đàng, đơn giản là con đang trong thiên đàng ngay nơi con đang ở, ngay giây phút hiện tại này. Con đã khắc phục ảo tưởng con tách biệt khỏi Thượng đế và do đó con đứng bên ngoài vương quốc Thượng đế. Mọi thứ được sinh tạo từ Bản thể đấng Sáng tạo và Thượng đế ở bên trong mọi thứ đã được tạo ra. Con đang trong vương quốc Thượng đế ngay bây giờ, con chỉ đơn giản cần khắc phục ảo tưởng con tách biệt khỏi vương quốc này. Chỉ khi nào con khắc phục ảo tưởng đó, con mới ở trong vương quốc Thượng đế.

Con hãy xét một trong những vấn đề mà trạng thái tâm thức nhị nguyên đặt ra cho một người thày tâm linh. Thày đã cho con khái niệm về một con đường hay một cầu thang xoắn ốc. Để trở về thiên đàng, con đi từng bước một lên cầu thang xoắn ốc đó. Hình ảnh này không có gì sai và ở một giai đoạn nào đó của con đường tâm linh của con, nó quả thật là một hình ảnh rất hữu dụng và rất ích lợi. Nhưng sẽ có một điểm khi hình ảnh một con đường không còn hữu dụng nữa. Nó có thể trở thành một ngã bí vì cốt lõi của hình ảnh bước trên con đường hàm ý có xa cách. Con đang “ở đây” và con đi tới nơi nào khác, và để tới “đó” con phải tiếp tục mỗi lúc bước đi một bước. Khái niệm con đường hàm ý con chưa tới, con đang trên đường. Chừng nào con còn phải đi lên một bước nữa, con chưa tới mức đến tối hậu.

Sẽ có lúc con tới đỉnh của cầu thang xoắn ốc, và ở điểm này con phải buông bỏ ý tưởng con còn phải đi một quãng nữa. Con phải ngưng tin là con còn nhiều bước phải đi. Con phải ngưng tập trung vào việc đi bước kế tiếp. Sẽ tới điểm con phải đi bước cuối cùng, là nhận ra và chấp nhận không còn bước nào nữa và con đã tới. Ở một mức của con đường tu, tâm thức con tách biệt khỏi vương quốc Thượng đế. Tách biệt này được xây dựng trên một số ảo tưởng nhị nguyên mà con đã cho phép đi vào quả cầu cái ta của con. Cái Ta Biết bị cuốn hút trong các ảo tưởng, đồng hóa với các ảo tưởng này nên nó không thể ngay tức khắc tách nó ra khỏi tất cả những ảo tưởng đó. Nếu làm thế, nó sẽ mất mọi cảm nhận liên tục, mọi cảm nhận nó là ai. Con vứt bỏ từng ảo tưởng một và con dần dần giành lại bản sắc thật của con là sinh thể tâm linh tự do trang bản thể của con.

Sẽ tới điểm con cần vứt đi ảo tưởng cuối cùng, ảo tưởng đã khiến con thoạt tiên tách biệt khỏi Thượng đế. Con cần chấp nhận là bây giờ con đang ở trong vương quốc Thượng đế, con không còn trên đường đi tới một nơi xa xôi mà con thực sự đã tới. Nếu tâm con vẫn còn tập trung vào hình ảnh con đường, con có thể nghĩ con phải tiếp tục đi từng bước kế tiếp. Con duy trì cảm giác khoảng cách. Con nghĩ thực sự có một khoảng cách con  ần vượt qua thay vì nhận ra vấn đề thật là cảm giác khoảng cách. Cảm giác khoảng cách này là một ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm của con. Con đã luôn luôn ở trong vương quốc Thượng đế mà không nhận ra mình đang ở đó.

Bước cuối cùng trên cầu thang xoắn ốc là con bước ra khỏi cầu thang và chấp nhận là lúc nào con cũng đang ở trong vương quốc Thượng đế vì không có chỗ nào khác. Vương quốc Thượng đế thực sự ở nơi con đang ở. Để tới vương quốc Thượng đế, con phải đi trên một con đường. Nhưng con không đến vương quốc Thượng đế cho tới khi con rời bỏ con đường và chấp nhận con đangở trong vương quốc, ngay bây giờ, ngay ở đây.

Ở trong vương quốc Thượng đế không có nghĩa là sự tự thăng vượt chấm dứt. Vương quốc Thượng đế là Dòng sông sự Sống luôn luôn trong tiến trình trở nên hơn nữa. Một lần nữa, đây là một sự phân biện vi tế mà ngã hữu diệt không thể hiểu thấu. Mục tiêu của bước đi trên con đường tâm linh không phải là tới một điểm tối hậu, nơi mọi tiến bộ ngưng lại. Vấn đề mà con đối mặt là con đã đi xuống tâm thức nhị nguyên, có nghĩa là con đã tách mình ra khỏi Dòng sông sự Sống. Sự tăng triển của con đã ngừng hay chậm lại nhưng Dòng sông sự Sống thì vẫn tiếp tục đi tới vì dòng sông không bao giờ ngừng tiến bộ. Mục đích của con đường tâm linh là dẫn qua các bước đưa con trở về Dòng sông sự Sống. Con bây giờ tìm cách trở về điểm trong dòng sông nơi đáng lẽ con ở đó nếu con không rơi vào tâm thức nhị nguyên. Khi con tới bước cuối cùng của con đường tâm linh, con trầm mình trong Dòng sông sự sống. Khi đó con chảy theo và ở trong Dòng sông sự Sống thay vì con ở đằng sau và cố gắng bắt kịp. Dòng sông sự Sống không phải là con đường vì không có những bước rõ ràng, nó chỉ là dòng chảy trơn tru không bao giờ ngưng nghỉ của Bản thể Thượng đế trong đó mọi sự sống là một tổng thể không phân chia.

15.9. Con phải là mặt trời luôn tỏa sáng

Khi con còn đang đi trên con đường, con cần làm một số điều để vươn lên cao hơn, để phơi bày các ảo tưởng nhị nguyên. Sẽ tới một điểm con cần ngưng làm, con cần ngưng nghĩ rằng con cần điều gì đó bên ngoài con, con cần làm gì đó trong thế gian này. Con phải tập trung vào bên trong và tập trung để đón nhận những gì Thượng đế cho con vô điều kiện. Chìa khóa để nhận những gì Thượng đế cho con vô điều kiện là gì? Bước đầu tiên để nhận là con bắt đầu cho. Có thể có những người bị giam hãm quá sâu trong nhị nguyên và tách biệt nên họ không có khả năng cho chính họ. Khi con đạt tới một mức nào đó trên con đường tâm linh, con không thể tiến thêm nữa nếu con không bắt đầu cho. Đây chính xác là nơi nhiều người tìm cầu tâm linh bị kẹt. Cho ra với động cơ vỏ ngoài, động cơ nhị nguyên của ngã hữu diệt, không đủ. Ngã hữu diệt rất có khả năng cho nhưng nó chỉ cho để lấy về cái gì cho nó. Nó làm thế từ viễn kiến giới hạn của thế giới quan nhị nguyên của nó. Để có thể thực sự cho, con cần tách cái Ta Biết ra khỏi viễn quan này để con có thể cho từ viễn quan lớn rộng của tâm Ki-tô luôn hướng đến nhu cầu nâng cao mọi sự sống.

Khi con cho trong tâm thái đó, con cho mà không có chút vị kỷ, có nghĩa là con cho để nâng cao tổng thể thay vì chỉ làm lợi cho một thành phần, là chính con. Con cho mà không chờ đợi một phần thưởng đặc thù, thậm chí con không mong chờ bất cứ sự đền trả nào. Cách cho này sẽ nhân các ta-lăng (khả năng) của con lên và tấm gương vũ trụ sẽ tất nhiên phản chiếu trả về con đời sống dồi dào hơn. Cho chân chính nghĩa là hành động cho tách khỏi mọi quan tâm được đền đáp. Con cho vì con biết con là mặt trời, là ngọn lửa, của ánh sáng Thượng đế và bản chất của con là cho, là tỏa rạng ánh sáng. Con không cho để nhận lại điều gì. Con cho vì bản chất của con là chia sẻ con người mà con là. Trong sự cho trong sáng có sẵn phần thưởng của nó. Trong hành động cho, con cảm nhận phần thưởng được mãn nguyện bên trong. Đây là cảm giác trọn vẹn bên trong, khi con biết con có dư đủ để cho, và đây chính thực là đời sống dồi dào.

Con nhận vô điều kiện từ Thượng đế vì Thượng đế không chờ đợi con trả về bất cứ gì. Cho vô điều kiện có nghĩa là cho mà không mong chờ đáp trả. Chìa khóa để thoát khỏi cảm giác thiếu hụt đang ngăn cản con cho vô điều kiện là con nhận ra con có mặt ở đây để đem lại vương quốc Thượng đế bằng cách khuếch đại mọi thứ và qua đó các điều bất toàn chung quanh con chuyển hóa và trở nên hơn nữa. Thày đã đề cập tới phản ứng chạy hay đánh của ngã hữu diệt. Thày có nói ngã hữu diệt có thể trở nên rất vi tế ở các giai đoạn cao của con đường tu. Nhiều người tìm cầu tâm linh, nhiều người đã chân thành đi trên con đường tâm linh nhiều thập niên, vẫn còn kẹt trong một phiên bản rất vi tế của phản ứng chạy hay đánh. Họ tìm cách trốn chạy những gì có vẻ đe dọa cảm giác an toàn của họ, bất cứ gì đòi hỏi họ phải thăng vượt chính họ. Nếu không trốn chạy được, họ tìm cách ngăn cản không cho nó quấy rầy họ. Những người này không tìm cách giết người khác nhưng họ tìm cách ngăn cản người khác lay chuyển thế giới quan của họ. Khi con bị kẹt trong phản ứng chạy hay đánh này, con sẽ không thể tránh khóa dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua con.

Khi ai đó hay điều gì đó đe dọa cảm giác quân bằng của con, cảm giác con đang làm chủ tình hình, cảm giác an toàn của con, con tìm cách trốn chạy hay đánh nó. Điều này tự động khóa dòng chảy của ánh sáng và tình thương Thượng đế chảy qua bản thể con. Khi đó, con chấp nhận lời dối trá mà ông hoàng thế gian nói rằng điều kiện bất toàn này không thể thay đổi được bằng ánh sáng và tình thương của Thượng đế. Con từ chối không cho phép ánh sáng và tình thương chảy qua bản thể con và khuếch đại điều kiện đó, chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Khi từ chối không cho ánh sáng và tình thương tuôn chảy qua con, con khóa dòng chảy của sự sống và qua đó tước đi chính cảm nhận hạnh phúc và cảm nhận dồi dào của con. Cùng chuyện này xảy ra khi con tìm cách đánh nhau với một mối đe dọa. Một lần nữa con khóa dòng chảy của ánh sáng Thượng đế, con từ chối không chuyển hóa điều kiện bất toàn để nó trở nên cái gì cao hơn. Con tìm cách ngưng người khác làm phiền con thay vì con giữ niệm tinh khôi là người kia sẽ thoát khỏi các tin tưởng nhị nguyên đã khiến họ làm những gì họ đang làm.

Dồi dào ngược lại với thiếu hụt. Khi con ở trong trạng thái dồi dào, con có nhiều hơn những gì con cần cho chính mình. Phản ứng tự nhiên là con tặng sự dồi dào của con cho người khác. Đó là vì sao Thượng đế cho chính ngài cho con. Nếu con từ chối cho, con sẽ khóa lại cảm nhận dồi dào và như vậy con rút mình ra khỏi Dòng sông sự sống. Con sẽ phóng chiếu một hình ảnh thiếu thốn vào tấm gương vũ trụ và con thử đoán xem, tấm gương không thể tránh phản chiếu gì về lại con?

Có những người trên trái đất bị giam hãm trong những phiên bản thấp hơn của phản ứng chạy hay đánh này và con thấy điều này trải bày trong những cuộc chiến tranh và tranh chấp xảy ra khắp nơi trên hành tinh này. Hầu hết người tâm linh đã vươn lên trên trò chơi tự ngã hiển nhiên này và sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện giết người khác để trả thù. Nhưng họ vẫn bị giam trong một phiên bản vi tế hơn khiến họ cho phép những bất tòan trên trái đất và những lỗi lầm của người khác khóa dòng ánh sáng và tình thương Thượng đế chảy qua bản thể họ. Nếu con muốn có đời sống dồi dào thì con phải vươn lên trên khuynh hướng để cho bất cứ gì trên thế gian này khiến con khóa dòng chảy của ánh sáng qua bản thể con. Con phải là mặt trời lúc nào cũng tỏa sáng. Con phải nhìn mọi hình tướng bất toàn như cái gì thực đã bị giam hãm trong một khuôn đúc bất toàn, trong một hình tượng khô chết. Hoặc là cái ta ý thức của người khác bị giam hãm trong tâm thức nhị nguyên hoặc là Ánh sáng Mẹ bị giam hãm trong một hình tướng bất toàn. Mục tiêu của con là giải thoát những người này và Ánh sáng Mẹ thoát khỏi mọi bất toàn. Con chỉ có một cách duy nhất để làm điều này, đó là giúp họ vượt thăng bất toàn hiện hành của họ và trở nên hơn nữa, qua đó họ tiến gần niệm tinh khôi hơn.

15.10. Ban phước lành cho mọi sự và mọi người

Con phải chọn lựa. Con có thể bị giam hãm trong phản ứng chạy hay đánh này suốt đời còn lại. Hay con có thể cố gắng rất chân thành và kiên quyết vươn lên trên phản ứng này. Tất cả những gì thày trao cho con trong khóa học này là một chìa khóa, là một bước, giúp con vươn lên trò chơi vô tận của ngã hữu diệt. Khi con áp dụng những dụng cụ này, con sẽ thực sự vươn lên cao hơn nhưng thày sẽ cho con thêm một dụng cụ nữa có thể là một bước chặng giữa rất hiệu quả để neo trụ con vào con đường dẫn tới dồi dào.

Dụng cụ này dựa trên sự việc con nhận ra rằng con ở đây để chuyển hóa mọi sự để chúng trải bày một hình ảnh toàn hảo hơn. Con không ở đây để trốn chạy các bất toàn hay để tiêu trừ bất kỳ hình tướng bất toàn nào.

Con ở đây để chuyển hóa bất toàn thành sự toàn hảo của vương quốc Thượng đế. Dụng cụ cơ yếu mà con có thể sử dụng ngay bây giờ là con tập trong mọi tình huống mà con gặp, con tìm cách ban phước lành cho mọi người trong cuộc và con tìm cách ban phước lành cho hoàn cảnh bên ngoài. Dù tình huống khó khăn thế nào, dù người khác làm gì với con hay không làm gì cho con, con luôn luôn tìm cách ban phước lành cho họ để họ có thể biết rõ hơn và do đó có thể hành động tốt hơn.

Con hãy cảnh giác khuynh hướng của ngã hữu diệt muốn giam hãm con trong phản ứng chạy hay đánh. Khi con cảm thấy cám dỗ này từ ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian, con hãy đi vào trái tim và tập trung cho phép tình thương vô điều kiện của Thượng đế chảy vào hoàn cảnh. Con hãy hình dung niệm tinh khôi là tình huống có thể chuyển hóa ra sao. Sau đó, con cố ý ban phước lành cho mọi sự và mọi người, con không mong muốn trả thù hay trừng phạt nhưng chỉ có mong muốn trong sáng thấy mọi sự tới gần hơn viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô. Con có thể chế ra những lời khẳng định và hình dung nếu con muốn, nhưng đây là vài đề nghị:

Tôi ban phước lành cho hoàn cảnh này với tình thương vô điều kiện của Thượng đế sẽ hoàn nguyên tất cả trở về niệm tinh khôi, bây giờ và mãi mãi.

Tôi ban phước lành cho Ánh sáng Mẹ đằng sau những hình tướng bên ngoài này và tôi thấy ánh sáng trải bày viễn kiến toàn hảo của Ki-tô, bây giờ và mãi mãi.

Lời khẳng định khi con có xung đột với người khác:

TA LÀ và ta ban phước lành cho quý vị với tình thương vô điều kiện của Thượng đế và ta cầm giữ niệm tinh khôi cho quý vị.

TA LÀ CÁI TA LÀ và ta cai quản ở đây, bây giờ và mãi mãi!

TA LÀ Dòng sông sự Sống tràn ngập hoàn cảnh này với tình thương vô điều kiện.

TA LÀ Ki-tô đang hành động trong hoàn cảnh này

Hình dung: Con hình dung hình ảnh con ưa thích nhất của thày, Giê-su hay một thày tâm linh khác tỏa rạng ở trên hoàn cảnh.

Hình dung: Con hình dung một người hay một hoàn cảnh bao trùm bởi những lưỡi lửa hằng sống, một ngọn lửa tâm linh:

  • Lửa xanh lam có chức năng bảo vệ và đem mọi sự thẳng hàng trở lại với ý chí Thượng đế.
  • Lửa vàng kim tỏa ra minh triết của tâm Ki-tô.
  • Lửa hồng tỏa ra tình thương vô điều kiện của Thượng đế.
  • Lửa trắng có chức năng thanh tẩy.
  • Lửa xanh lục bảo tỏa ra niệm tinh khôi và chữa lành mọi bất quân bình.
  • Lửa đỏ tía và vàng kim tỏa ra bình an của Thượng đế.
  • Lửa tím chuyển hóa mọi năng lượng bất toàn và giải phóng Ánh sáng Mẹ được tự do biểu hiện một hình ảnh toàn hảo hơn.

Hình dung: Con hãy nhìn quá hoàn cảnh bên ngoài, người hay sự biểu hiện. Con hình dung là đằng sau hình tướng vỏ ngoài là vô tận những chấm long lanh ánh sáng trắng rực rỡ. Giống như có những hạt ánh sáng vô cùng nhỏ của ánh sáng trắng đang rung động, đang lấp lánh và tỏa chiếu. Hãy hình dung là những hình tướng vỏ ngoài đang tan vào đại dương của những hạt màu trắng lấp lánh của Ánh sáng Mẹ tinh khiết. Sau đó con hãy thấy các hạt này tạo nên một hình ảnh linh thiêng. Hình ảnh đó có thể là thày, Giê-su hay bất kỳ một thày tâm linh nào hay ngay cả một cảnh hoàng hôn đẹp. Sau đó con thấy hình ảnh thiêng liêng áp chồng lên hoàn cảnh bên ngoài và chuyển hóa nó thành niệm tinh khôi. Nếu con không nắm bắt được viễn kiến cao hơn của hoàn cảnh, thì con hãy cho phép hình ảnh thiêng liêng thay thế điều kiện bất toàn và chấp nhận là bản thể cao của con sẽ hình dung kết quả toàn hảo của tình huống. Con hãy dùng bài hình dung này cho tất cả điều kiện bất toàn, kể cả bệnh tật. Tỷ dụ, con có thể hình dung bộ phận hay phần nào của thân thể bị bệnh tan vào Ánh sáng Mẹ thanh khiết và được thay thế bởi một viễn kiến toàn hảo hơn. Con cũng có thể kết hợp bài hình dung này với một trong các lời khẳng định.

Con hãy chọn lời khẳng định hay bài hình dung nào có ý nghĩa sâu xa đối với con. Bất cứ khi nào con gặp một hoàn cảnh bất toàn, con hãy dùng lời khẳng định (nói trong đầu hay nói ra lời) hay bài hình dung để tránh bị giam hãm trong phản ứng nhị nguyên, đặc biệt là phản ứng cho rằng hoàn cảnh không thể thay đổi được nữa. Nếu con chỉ lấy ra một điều duy nhất từ khóa học này, thì điều quan trọng nhất con có thể lấy là điều sau:

  • Ban phước lành cho mọi sự và mọi người mà con gặp.
  • Ban phước lành cho mọi hoàn cảnh, ban phước lành cho mọi điều kiện, ban phước lành cho tất cả mọi người và đừng quên ban phước lành cho chính mình.
  • Không bao giờ chấp nhận bất cứ giới hạn nào là thường trực hay không thể thay đổi.
  • Luôn luôn nhìn quá điều kiện bên ngoài và với lên viễn kiến cao hơn của tâm Ki-tô.
  • Bất cứ con đang ở đâu, luôn luôn đi bước kế tiếp.
  • Bất cứ con đang biết gì, luôn luôn với lên hiểu biết cao hơn.

Thày đã nhiều lần nói với con rằng vũ trụ là một tấm gương. Nếu con ban phước lành cho mọi người và mọi sự con gặp, ngay cả khi tâm vỏ ngoài của con nghĩ họ không xứng đáng, thì tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu gì lại con? Nó có thể làm gì khác ngoài ban phước lành cho con? Những gì con làm với người khác, vũ trụ chắc chắn sẽ làm với con.

Con đừng bao giờ quên rằng Thượng đế không phải là một Thượng đế giận dữ. Ngài không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Ngài muốn giải phóng họ thoát khỏi mọi bất toàn. Thượng đế biết ngài đã sinh tạo những người đồng-sáng tạo toàn hảo và do đó không có người đồng-sáng tạo xấu. Mọi lầm lỗi và bất toàn khởi lên từ tâm thức nhị nguyên cho nên đáp án duy nhất là nâng cao mọi thứ lên trên nhị nguyên. Một trong những vấn đề phổ biến nhất trên trái đất là khi ai đó làm điều gì với con, thì con phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Con tạo nên một hình ảnh tiêu cực về người đó và con nghĩ hình ảnh này thường trực và không thể sai trật. Con nghĩ người này “xấu” và do đó xứng đáng bị phạt bằng cách ở lại trong một trạng thái giới hạn và bất toàn. Con suy luận là người kia không xứng đáng nhận tình thương của Thượng đế xuyên qua con và con khóa dòng ánh sáng chảy qua bản thể con. Thượng đế muốn tất cả những con trai và con gái của ngài thoát khỏi tâm thức nhị nguyên, trở nên hơn nữa và do đó về nhà nơi vương quốc của ngài. Thượng đế không muốn cầm giữ bất kỳ ai trong một trạng thái giới hạn.

Khi con cầm giữ bất kỳ hình ảnh giới hạn nào, hình tượng khô chết nào, hay khi con tìm cách trừng phạt người khác, thì con tách mình ra khỏi lực cơ bản của vũ trụ, ra khỏi Dòng sông sự Sống. Nếu con không tìm cách giúp người khác trở nên hơn nữa, làm sao con có thể trở nên hơn nữa? Nếu con gửi vào tấm gương vũ trụ mong muốn tiếp tục giam người khác trong giới hạn, thì tấm gương phải phản chiếu điều gì trả lại con? Làm sao con có thể thực sự tự do khi con chưa có ý muốn chân thành giải thoát người khác được tự do? Cái Ta Biết có ý muốn này nhưng ngã hữu diệt thì không. Con hãy luôn luôn ban phước lành cho tất cả mọi người và mọi sự. Con hãy trau dồi ý muốn trong sáng thấy mọi bất toàn vươn lên trên giới hạn hiện hành của chúng. Nếu con làm thế, làm sao vũ trụ không phản ánh lại cho con những điều kiện sẽ nâng con lên trên mọi giới hạn?

15.11. Hãy đổ đầy tâm con với hình ảnh thanh khiết của tâm Ki-tô

Thày không nói là con phải khóa khả năng sáng tạo của con. Vấn đề chính mà con đối diện là con thực đã khóa các khả năng này vì con không còn muốn lấy quyết định nữa. Con không bao giờ có thể ngưng đồng-sáng tạo cho nên khi con từ bỏ uy lực lấy quyết định của con, con vẫn tiếp tục đồng-sáng tạo. Khác biệt là giờ đây con đồng-sáng tạo qua các hình ảnh nhị nguyên do ngã hữu diệt tạo ra. Thày không nói là con cần tiêu diệt các hình ảnh này để con không còn hình ảnh nào trong tâm. Vì các hình ảnh nhị nguyên đã tạo ra những hậu quả bất toàn, con có thể nghĩ sẽ an toàn hơn nếu không có hình ảnh nào trong tâm, nhưng thái độ này đơn giản không xây dựng. Ngày nào con còn ở trong thân vật lý trên trái đất, tâm con, có nghĩa là cả bốn thể phàm của con, không bao giờ có thể thực sự trống rỗng và con sẽ luôn luôn đồng-sáng tạo. Thay vì tìm cách trút bỏ tất cả mọi hình ảnh ra khỏi tâm, phương cách xây dựng hơn là con trút bỏ mọi hình ảnh nhị nguyên và lấp đầy tâm với hình ảnh của tâm Ki-tô. Chỉ những hình ảnh nhị nguyên mới tạo ra hậu quả bất toàn. Nếu con đồng-sáng tạo qua những hình ảnh toàn hảo của tâm Ki-tô, con sẽ thực sự có đời sống dồi dào được phản chiếu trả lại con từ tấm gương vũ trụ.

Con có mặt ở đây để thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất này. Vương quốc này hiện nay chưa hiển thị. Cách thị hiện vương quốc là con hình dung một hình ảnh chưa được thị hiện trong cõi vật chất. Khi con đem hình ảnh này xuống qua bốn thể phàm, con áp chồng hình ảnh lên Ánh sáng Mẹ và khiến ánh sáng trải bày hình ảnh. Đây là tiến trình cơ bản của sáng tạo, và Thương đế hoàn toàn không mong muốn thấy con khóa khả năng sáng tạo của con. Thượng đế muốn con dùng chúng để đồng-sáng tạo dựa trên viễn kiến chân chính của tâm Ki-tô thay vì để tự ngã sáng tạo qua viễn kiến nhị nguyên của ngã hữu diệt. Con hãy tìm cách nâng cao viễn kiến của con để con có thể tập trung vào những hình ảnh thanh khiết của tâm Ki-tô. Điều này chắc chắn sẽ xảy ra khi con thanh tẩy bốn thể phàm của con. Nếu con chịu dùng các dụng cụ mà thày cho con trong khóa học này, con sẽ dần dần tiến tới mục tiêu này.

Cuộc đời con có thể coi như một trò chơi không dứt, một cuộc thi đua không dứt hay thậm chí một cuộc chiến không dứt giữa cái Ta Biết một bên và ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian ở bên kia. Kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài không ngừng tìm cách giam hãm con trong ảo tưởng là vì đang có bất toàn này hay bất toàn nọ, trong chính tâm thức của con hay trong thế giới vật chất, con phải khóa dòng chảy của ánh sáng và tình thương Thượng đế qua bản thể con. Chúng tìm cách khiến con chấp nhận những điều kiện để khóa dòng chảy ánh sáng có thể chuyển hóa mọi bất toàn. Đó là một trong những lý do khiến Giê-su dạy mọi người đừng phán xét (Matthew 7:1). Khi con phán xét với tâm vỏ ngoài, với tâm phân tích, con quy định điều kiện. Thái độ của con là nếu người khác hay hoàn cảnh không đạt những điều kiện của con, những chờ đợi của con, thì con sẽ không cho họ tình thương. Con đừng tham gia vào cuộc chiến lâu đời giữa các thượng đế giả của tâm thức nhị nguyên. Con đừng cho phép mình bị lôi kéo để thấy ngã hữu diệt, người khác hay ông hoàng thế gian là kẻ thù. Đừng chống lại xấu ác (Matthew 5:9), chỉ giản dị thăng vượt nó và tất cả những trò chơi nhị nguyên của nó.

Đã từ rất lâu, con người trên trái đất bị lập trình để tin là có một cuộc chiến cuồng đại giữa tốt và xấu. Con tìm thấy chủ đề này trong nhiều tôn giáo cổ nhưng các tôn giáo này được đưa ra khi tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay. Con cũng thấy đề tài này trong truyện thần thoại và ngay cả trong kỹ nghệ giải trí hiện đại. Đây là một chủ đề phổ thông trong sách và phim ảnh nói tới một nhóm “kẻ xấu” bắt đầu khủng bố người dân vô tội. Lúc đầu, người hùng cố gắng tránh không đương đầu với kẻ xấu nhưng cuối cùng tình hình trở nên quá tồi tệ nên người hùng không thể nhắm mắt làm ngơ các lực xấu ác. Lúc đó người hùng dùng bạo lực để tiêu diệt bọn ác và khắc phục xấu ác.

Đây là một hình ảnh có khả năng thuyết phục và đã được lập trình vào tâm con người từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Dù câu chuyện thoạt nghe có vẻ đúng, thày có thể bảo đảm với con là hình ảnh này phát sinh từ tâm thức phản Ki-tô. Ông hoàng thế gian biết tâm thức nhị nguyên dựa trên hai cực đoan và y khôn khéo dùng chúng để kiểm soát con người. Mưu kế này rất đơn giản và rất hiệu quả. Ông hoàng thế gian cố gắng khiến mọi người tin rằng quả thực có một trận chiến giữa thiện và ác trên hành tinh này, rằng các lực ác thật sự chống lại Thượng đế và chung có quyền lực thật sự. Mục tiêu của ông hoàng thế gian là khiến mọi người tham gia cuộc chiến chống lại điều mà họ coi là xấu ác. Như thế, họ sẽ phản ứng lại hoàn cảnh với cảm xúc tiêu cực và họ tạo ra một lượng năng lượng tha hóa vĩ đại sẽ nuôi béo các lực bóng tối.

Nhiều người tâm linh đã bị lôi kéo vào trận chiến này và cuộc đời của họ bị nuốt trọn vào cuộc đấu tranh quả thực không nâng cao tâm thức tập thể và chẳng đem vương quốc Thượng đế đến gần thị hiển vật lý. Đây là lực chính đằng sau mọi xung đột tôn giáo và những xung đột này đã tạo nên những điều tàn bạo không tưởng tượng nổi. Nếu con nhận vai trò là người đồng-sáng tạo của Thượng đế, là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ, thì con cần tránh xa cuộc chiến muôn thuở và không giờ bao dứt giữa các lực tốt tương đối và xấu tương đối. Để tránh rơi vào cạm bẫy này, con cần thể nhập hoàn toàn ý nghĩa thâm sâu đằng sau câu nói của Giê-su: “Con đã từng nghe câu Một mắt trả một mắt và một răng trả một răng, nhưng ta nói với các con, con đừng kháng cự xấu ác, nhưng dù có ai tát má bên phải của con, thì con hãy chìa má bên kia cho người ấy” (Matthew 5:38-39).  Điều Giê-su dạy con người qua lời dạy có vẻ đơn giản này chính là phương cách bước ra ngoài tâm thức nhị nguyên, phương cách duy nhất bước ra ngoài tâm thức nhị nguyên.

Toàn bộ âm mưu của ông hoàng thế gian là lôi kéo con vào xung đột giữa hai đối cực tương đối để con phản ứng lại cuộc sống với cảm xúc tiêu cực và qua đó con buộc mình chặt hơn vào tranh đấu nhị nguyên. Cách duy nhất để tránh không bị lôi kéo vào vòng xoáy đi xuống này, lỗ đen này, là con đáp ứng mọi hoàn cảnh với tình thương thiêng liêng. Con không bao giờ cho phép bất cứ gì khiến con khóa lại dòng chảy của thình thương vô điều kiện chảy qua bản thể con. Con tìm cách ban phước lành cho mọi chuyện để nó được gia tốc vượt quá tình trạng bất toàn hiện hành của nó. Con tìm cách ban phước lành cho người khác để họ thăng vượt tâm thức nhị nguyên đã khiến họ xâm phạm người khác.

Xấu ác không có thực tại tối hậu. Nó không đối lập Thượng đế. Quả thực không có trận chiến giữa Thương đế và ác quỷ vì Thượng đế không nhìn nhận bất cứ đối lập nào, mắt ngài quá thanh khiết để nhìn thấy sự ác (Habakkuk 1:13) vì ngài chỉ thấy niệm tinh khôi. Trận chiến giữa tốt và xấu chỉ có thể tồn tại trong cõi nhị nguyên và nó chỉ có thể tồn tại khi con người còn tiếp tục kẹt trong tâm thức nhị nguyên và do đó tiếp tục ném củi vào lửa. Giải pháp tối hậu cho hành tinh là có đủ số lượng tới hạn người tách mình ra khỏi tâm thức nhị nguyên bằng cách tách cái ta ý thức của họ ra khỏi ngã hữu diệt. Khi một số lượng tới hạn người biểu lộ tâm thức Ki-tô thì con sẽ thấy tâm thức tập thể xoay chuyển. Lúc ấy sẽ có nhiều người hơn nắm bắt được chân lý mà thày giảng cho con ở đây, chân lý mà hiện nay vượt quá mức hiểu của hầu hết con người.

Để có một đóng góp cá nhân vào sự chuyển hóa hành tinh này, con hãy bắt đầu bằng cách có thái độ con có mặt ở đây để ban phước lành và khuếch trương mọi sự. Con không ở đây để bảo tồn mọi sự như chúng đang là hay để củng cố các bất toàn. Con không cho ánh sáng của con một cách thiếu phân biện. Con ở đây để nâng cao mọi sự để chúng thăng vượt các bất toàn. Con làm việc này bằng cách để cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vô điều kiện và qua đó ánh sáng có thể làm công việc của nó theo một viễn kiến cao hơn, viễn kiến này có thể còn cao hơn những gì tâm vỏ ngoài của con có thể nắm bắt. Con không cần phán xét bằng tâm vỏ ngoài ánh sáng và tình thương phải làm gì. Con cần để cho ánh sáng tuôn chảy và làm công việc của nó. Trong một số trường hợp nó sẽ hỗ trợ người khác, trong một số trường hợp khác nó sẽ thách thức ảo tưởng của họ. Trong mỗi trường hợp, tình thương Thượng đế, ánh sáng Thượng đế sẽ khuếch trương hoàn cảnh và nâng nó lên cao hơn theo viễn kiến của Ki-tô. Viễn kiến này sẽ luôn luôn rất khác viễn kiến nhị nguyên mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian muốn con chấp nhận. Đó là lý do vì sao con cần độc lập với những lực của thế gian này và để cho ánh sáng của con tỏa rạng bất kể người khác làm gì để ngăn cản con. Con không có mặt ở đây để thích nghi theo lề thói thế gian; con có mặt ở đâu để thay đổi lề thói thế gian bằng cách cư xử như con thật sự là. Như thi sĩ đã nói: “Hãy thật là chính mình…”

Chìa khóa thực của hạnh phúc, chìa khóa thực của bình an nội tâm là con khắc phục khuynh hướng phán xét mọi chuyện theo một tiêu chuẩn nhị nguyên. Con phải thoát ra khỏi cái bẫy lúc nào cũng tìm cách ép uổng vũ trụ thuận theo một số chờ mong nhị nguyên, những chờ mong không bao giờ thỏa mãn được vì chúng không thẳng hàng với sự thật của tâm Ki-tô. Nếu con muốn bình an nội tâm, nếu con muốn hạnh phúc thật sự, thì con hãy cho phép các chờ mong nhị nguyên của con chết đi từng cái một. Nói cho cùng, con có nhớ đã ký một hợp đồng trước khi xuống đầu thai, một hợp đồng bảo đảm điều gì đó cho con trong thế giới này chăng? Không có hợp đồng đó, dù ngã hữu diệt tin có hợp đồng đó. Hợp đồng của con với Thượng đế là ngài cho con quyền tự quyết và con chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm về những hậu quả của những chọn lựa của con. Nếu con không thích những hậu quả đang được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con hiện nay, thì con chỉ cần thay đổi những gì con gửi ra ngoài. Để làm điều này, con cần buông bỏ những mong chờ nhị nguyên khiến con gửi ra ngoài những hình ảnh bất toàn. Con chỉ đơn giản buông bỏ chúng và với lên viễn kiến cao hơn của tâm Ki-tô. Khi làm thế, con sẽ khắc phục cảm nhận con có thể bị đe dọa bởi bất điều gì trên thế gian này. Con sẽ khắc phục cảm giác vật lộn.

Khi con biết con thực sự là ai và thấy mục đích lớn hơn tại sao con tới vũ trụ vật chất này, thì con sẽ thấy những chờ mong và ham muốn nhỏ mọn và vị kỷ của ngã hữu diệt vô nghĩa đến độ con tự nhiên để chúng rơi vào ngọn lựa tiêu hủy tất cả của tình thương Thượng đế. Con sẽ thực sự nói cùng với Paul: “Khi là trẻ nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, tôi hiểu như trẻ nhỏ, tôi nghĩ như trẻ nhỏ: nhưng khi tôi trở thành người trưởng thành, tôi dẹp đi những thứ trẻ con” (1Corinthians 13:11). Nếu con có thể theo học khóa học dài này thì con không còn là trẻ thơ, nói theo nghĩa tâm linh. Đã tới lúc con bỏ những mong chờ và tin tưởng trẻ con của ngã hữu diệt và với lên viễn kiến cao hơn vì sao con ở trên hành tinh trái đất  trong thời đại mấu chốt này. Đã tới lúc con dẹp đi những tin tưởng nhị nguyên và sự ích kỷ phát sinh từ ngã hữu diệt. Đã tới lúc con nhìn quá chính mình và nhận ra con có mặt ở đây như một thành phần của một nhóm lớn sinh thể tâm linh đã tình nguyện đầu thai vào thời điểm này để giúp đem vương quốc Thượng đế tới trái đất. Con ở đây để hoàn thành một mục đích lớn hơn bất kỳ ham muốn nào của ngã hữu diệt.

Con sẽ chỉ tìm được mãn nguyện tối hậu, cảm nhận dồi dào tối hậu, khi con trầm mình vào Dòng sông sự Sống và cảm thấy con đang hoàn thành lý do tại sao con hiện hữu. Sẽ có điểm trên con dường tâm linh khi tới lúc con phải lấy một quyết định hệ trọng và đứng ra nhận lãnh một cách tiếp cận cuộc đời hoàn toàn khác, một cách tiếp cận không đặt trụ điểm vào cái ngã nhỏ bé mà vào cái Ta lớn hơn mà con thực sự là. Nếu con đã đọc tất cả những gì thày đã nói cho tới điểm này, thì đã tới lúc con lấy quyết định đó. Đã tới lúc con chấp nhận con không là một người nhân phàm, đã tới lúc con bắt đầu sống như sinh thể tâm linh mà con thực sự là.

Làm sao con làm được điều này? Tối hậu, con chỉ có thể làm được điều này một cách duy nhất, đó là con lao mình vô điều kiện vào Dòng sông sự Sống và cho phép dòng sông tuôn chảy qua con và đem con tới chỗ con cần tới, bất kể những mong chờ nhị nguyên, vị kỷ của ngã hữu diệt nói con phải đi đâu. Đây quả thực là thách đố tối hậu và thày không dễ buông bỏ tất cả những mong chờ cuộc đời của con phải trải bày thế nào.

Ngay cả Giê-su cũng bị khó khăn, và bằng chứng là sự trăn trở mà thày trải qua trong vườn Gethsemane một ngày trước phiên tòa xét xử. Thày chảy mồ hôi máu vì thày đang chiến đấu chống lại toàn bộ lực phản ý chí của tâm thức tập thể của nhân loại không muốn thấy Giê-su hoàn tất sứ vụ của thày và chứng minh con đường quả vị Ki-tô cho tất cả mọi người. Điều khiến thày dễ bị lực phản ý chí tập thể ảnh hưởng là lực phản ý chí của chính ngã hữu diệt của thày vẫn còn ảnh hưởng được thày phần nào. Sau khi đã vật lộn với lực này một giờ đồng hồ, cuối cùng thày nhận ra cách thoát duy nhất là thày hoàn toàn quy hàng vô điều kiện và đó là lúc thày nói: “Dù sao chăng nữa, không phải như con muốn, mà như ngài muốn” (Matthew 26:39). Chính sự quy hàng ý chí cao vô điều kiện này của thày đã hooàn toàn giải phóng Giê-su khỏi lực phản ý chí ở tầng cấp cá nhân và hành tinh. Con cũng có thể tới điểm quy hàng này khi con nhận ra ý chí cao hơn mà con cần quy hàng không phải là ý chí của một sinh thể bên ngoài. Đó là ý chí của chính Bản thể cao hơn của con, ý chí mà cái Ta Biết của con đã dùng khi nó thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con. Điều con cần buông bỏ không phải là ý chí của con mà là ý chí nhị nguyên, khùng điên vị tự ngã của ngã hữu diệt và ý chí này quả thực ngoại lai với ý chí của chính con.

Chỉ khi nào con hoàn toàn quy hàng ý chí cao hơn của con, thì con mới có thể buông bỏ tất cả những hình tượng khô chết của ngã hữu diệt. Một lần nữa, một hình tượng khô chết là một hình ảnh đứng yên, không chảy cùng với Dòng sông sự Sống. Con hãy nhận biết một sự khác biệt rất vi tế ở đây. Ngã hữu diệt có thể có một hình ảnh đúng về Thượng đế, thế giới và chính con. Nhiều tín đồ tôn giáo tuân theo các giáo lý không sai theo nghĩa kỹ thuật, tức là các giáo lý này không phát sinh từ tâm thức phản Ki-tô. Một khi con tin giáo lý không thể sai trật và vì nó không thể sai trật nên không bao giờ thay đổi, không bao giờ có thể thay thế bằng một hiểu biết cao hơn, thì con đã biến một giáo lý tâm linh thực thành một hình tượng khô chết. Con hãy tưởng tượng con chưa bao giờ thấy một dòng sông và có người cho con xem một tấm ảnh của một dòng nước chảy xiết dữ dội. Con sẽ nghĩ dòng sông được làm bằng nước đá không bao giờ di chuyển. Nhưng thực tế là dòng sông luôn luôn chảy cho nên một tấm ảnh không bao giờ cho con một hình ảnh đúng của dòng sông. Tấm hình mô tả đúng hình ảnh dòng sông ngay đúng lúc tấm hình được chụp. Nhưng dòng sông bây giờ đã chuyển biến và hình ảnh đã thay đổi. Để hoàn toàn biết dòng sông ra sao, con cần trải nghiệm sự chuyển động không ngừng của nó. Chỉ khi nào con nhận ra dòng sông không bao giờ đứng yên, thì con mới có thể thực sự nhận ra bản chất của dòng sông.

Một giáo lý tâm linh có thể được trao truyền và đưa ra một hiểu biết đúng về Thượng đế vào thời điểm giáo lý được trao truyền. Chỉ khi nào con trải nghiệm Dòng sông sự Sống tự thăng vượt, thì con mới có thể nhận ra trọn vẹn bản chất của Thượng đế. Con chỉ có thể trải nghiệm Dòng sông sự Sống đó khi con hoàn toàn trầm mình trong đó, tuôn chảy theo nó và do đó trải nghiệm đời sống dồi dào sẽ mãi mãi trở nên hơn nữa trong vũ khúc hoàn vũ diễm lệ và vui tươi mà ngã hữu diệt không bao giờ hiểu nổi. Con hãy bỏ lại đằng sau sa mạc của ngã hữu diệt và dám lao mình vào Dòng nước Hằng sống của Dòng sông sự Sống. Con hãy dám để ngã hữu diệt chết đi để cái ta thật của con có thể tái sinh như bản sắc thật của con là một thành phần không thể tách rời của công trình sáng tạo diễm lệ tuyệt vời của Thượng đế. Con hãy theo thày và chúng ta tiến về hướng chân trời vô tận của sự tự nhận biết của Thượng đế, thực sự có thể trở thành sự tự nhận biết của con. Thượng đế là Tất cả và ở trong tất cả. Con hãy dám hơn là ngã hữu diệt và con cũng có thể là Tất cả và ở trong tất cả. Con hãy dám để ánh sáng của con tỏa rạng trước mọi người để họ thấy việc làm tốt của con và vinh danh đấng Cha của con, cũng là đấng Cha của họ, ở trong mọi sự sống.

13 | Cho là chìa khóa của Nhận

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 26/4/2005.

Trái tim yêu dấu của mẹ, chúng ta đã đi một hành trình dài. Khóa học này quả thật đã là một chuyến đi dài qua nhiều đề tài và thày chắc chắn là hầu hết những đề tài này vượt quá xa những gì các thày bên ngoài nói với con, dù họ thuộc một tôn giáo hay một môi trường thế tục. Thày biết ơn con đã chịu khó lắng nghe thày suốt hành trình dài này. Giờ đây chúng ta tới điểm rất may mắn là nơi có thể nói tới chìa khóa cơ yếu để thị hiện dồi dào trong cuộc sống của con.

13.1. Con làm gì với ánh sáng?

Điều thày đã nói tới trong suốt khóa này là nhu cầu lấy lại bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh có mặt ở đây với một mục đích cao hơn, đó là thị hiện vương quốc Thượng đế bằng cách dùng viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô và ánh sáng của Thượng đế. Con có thể hướng ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy qua viễn kiến – qua cuộn phim – của tâm Ki-tô trong bốn thể phàm của con, qua đó con áp chồng một hình ảnh toàn hảo lên Ánh sáng Mẫu-Vật là chất tạo nên toàn bộ vũ trụ. Để lấy lại vị thế này, để nhân lên cá thể thiêng liêng của con và cai quản trái đất, trước tiên con phải với lên và tái thiết lập dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua bản thể của con, xuyên qua bốn thể phàm của con. Con cần lấy lại viễn kiến của Ki-tô như là viễn kiến cao nhất cho dòng sống của con, cho tiềm năng của con, cho sứ vụ thiêng liêng của con. Sau đó con cần đem viễn kiến này xuống bốn thể phàm cho tới khi nó tới tầng của tâm vật lý, tâm ý thức. Tuy thế, đơn giản đem viễn kiến và ánh sáng xuống tới cõi vật lý chưa đủ. Chìa khóa thật để thị hiện đời sống dồi dào là con làm gì với ánh sáng và viễn kiến đó.

Nhiều người tâm linh rất chân thành trong nỗ lực tâm linh của họ. Một số đã cố gắng trong mấy thập kỷ để học hỏi, thiền định hay thực tập tâm linh và quả thật họ có tiến bộ. Họ đã nâng tâm thức của họ vượt rất xa trạng thái tâm thức khi họ khởi sự. Nếu con nhìn họ một cách trung thực, thì con sẽ khám phá hai khuynh hướng:

  • Một số có viễn kiến rất mạnh về điều gì cần xảy ra để cải thiện hành tinh trái đất và biến nó thành một môi trường tốt hơn cho tất cả. Họ rất giỏi nắm bắt viễn kiến này, họ giỏi giải thích nó nhưng thường khi viễn kiến ở lại trong đầu họ và không dễ dàng chuyển thành hành động.
  • Một số đã thiết lập được dòng chảy của ánh sáng Thượng đế ở cấp độ nào đó. Họ có thể rất hùng mạnh, có nhiều uy lực hoặc họ có thể đầy thương yêu và có thể lấp đầy một căn phòng với năng lượng tích cực. Những người như thế giỏi bắt tay vào hành động nhưng đôi khi họ thiếu viễn kiến rộng lớn và chú tâm vào đám cây thay vì thấy khu rừng. Không phải lúc nào họ cũng có viễn kiến cần làm gì với năng lượng và bầu nhiệt huyết của họ, cho nên họ có những hành động thiếu cân bằng không mang lại kết quả mong muốn. Những người này thường nghĩ điều thích nghi là chỉ cần thương yêu tất cả mọi người và chấp nhận mọi chuyện đều tốt.

Có nhiều người trên trái đất ngày nay đạt được một mức độ tâm linh nào đó. Họ tới điểm có tiềm năng làm được nhiều điều tốt và có ảnh hưởng ở mức độ hành tinh. Nhưng họ vẫn chưa bước qua lằn ranh thiết yếu cần phải bước qua trước khi họ có thể đem sự thành tựu từ cõi tiềm năng vào cõi thực tế.

Nhiều người tâm linh gần đột phá tới điểm có thể ảnh hưởng lớn lao và tích cực trên hành tinh này, một ảnh hưởng sẽ nâng cao tâm thức tập thể và đẩy mạnh xã hội tiến lên thời hoàng kim. Họ chưa có ảnh hưởng quyết định vì họ chưa thị hiện đời sống dồi dào trong chính đời sống họ, và ở tầng mức xã hội họ cũng chưa nâng cao phẩm chất cuộc sống cho tất cả. Thày không hề có ý định hạ thấp nỗ lực thành tâm của bất cứ ai. Thày chỉ muốn nói là có một tiềm năng vĩ đại đang chực xuyên phá nhưng vẫn chưa được kéo vào cõi vật lý. Vậy cái gì thiếu, chìa khóa nào chưa có mặt mà con người chưa khám phá hay chưa thể nhập? Để trao cho con chìa khóa này một cách giản dị nhất, thày xin con chiêm nghiệm hình số 8. Quả thực đây là biểu tượng cho điều cần xảy ra để con thiết lập được đời sống dồi dào thật sự.

13.2. Hoàn tất dòng chảy số tám

Khi con nhìn hình số tám, con có thể bắt đầu ở đỉnh tượng trưng cho chính đấng Sáng tạo. Con có thể hình dung ánh sáng tuôn chảy từ đấng Sáng tạo xuống các tầng của cõi tâm linh tượng trưng bởi phần trên của hình số tám. Sau đó ánh sáng đi tới điểm eo kết nối của hình số tám và điểm kết nối này tượng trưng cho thể bản sắc của con, điểm cao nhất của thể bản sắc của con. Đây là điểm gặp gỡ giữa tâm linh và vật chất, giữa Bản thể cao của con là nơi ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuyên qua, và con người phàm của con, bốn thể phàm của con, qua đó con hành động trong thế gian này. Trong các chương vừa qua, thày đã dạy con cách đem dòng chảy của ánh sáng Thượng đế từ điểm nối kết xuống tận đáy của hình số tám là tâm ý thức của con, tâm vỏ ngoài của con và thân vật lý của con. Để thực sự hiển thị sự dồi dào Thượng đế trong đời sống của con, con phải đi hết vòng tròn, hoàn tất dòng chảy hình số tám. Con không thể để ánh sáng tích tụ lại ở đây và không làm gì cả, con cũng không thể dùng ánh sáng cho mục đích vị kỷ. Làm thế là chôn vùi khả năng của con dưới đất.

Câu hỏi thật sự là con làm gì với ánh sáng sau khi đem nó xuống. Con có chọn lựa giữa con đường có vẻ đúng với người thế tục và con đường thật của đời sống vĩnh cửu. Con đường có vẻ đúng với người thế tục là suy luận rằng, vì mình đã bỏ công sức đem ánh sáng xuống, mình có quyền dùng nó cho quyền lợi riêng của mình. Quả thực con thấy nhiều người có thành tựu tâm linh nhưng họ dùng nó cho lợi ích riêng hay thú vui riêng của họ. Một số không bao giờ ngừng tìm cầu việc nâng cao tâm thức, có khi tìm cái gọi là quyền năng siêu thường hay trải nghiệm tột đỉnh, nhưng họ chỉ làm thế để cá nhân họ hưởng. Con hãy nhìn cuộc đời Giê-su và cuộc đời Phật. Nếu hai vị này đã chọn con đường thụ hưởng cá nhân, họ đã ở lại trong rừng hay nơi hoang vắng và dụng công để nâng cao tâm thức. Thay vào đó, họ tới bước ngoặt và trở về thế gian, dành trọn cuộc đời còn lại để giúp đỡ người khác.

Thày có nói tới hai loại người đã không thị hiện điều gì, và quả thực lý do là họ không chịu làm một cái gì với ánh sáng của họ, một cái gì vượt quá cá nhân họ. Thày không nhất thiết nói là những người này ích kỷ hay tôn sùng tự ngã theo nghĩa thấp nhất của từ ngữ. Thày muốn nói là có một số người tâm linh trên hành tinh này đã trở nên tập trung vào chính họ, gần như hoàn toàn chìm đắm trong chính họ và việc tìm cầu tăng triển tâm linh, bất kể họ định nghĩa tăng triển tâm linh là gì. Những người này không tôn sùng tự ngã theo nghĩa họ làm bất cứ gì họ muốn mà không đếm xỉa tới ảnh hưởng trên người khác. Nhiều người thật sự sống đúng theo các nguyên tắc tâm linh và không hại người khác hay môi sinh. Ta có thể tìm thấy những người này trong các cộng đồng Thời đại Mới hay tôn giáo truyền thống kể cả các giáo phái Cơ đốc. Nhìn từ góc độ vỏ ngoài, những người này sống một cuộc sống thiện lành, họ không vi phạm bất kỳ quy luật Thượng đế nào, ít nhất là những quy luật vỏ ngoài mô tả trong nhiều tôn giáo hay triết lý tâm linh. Họ không thực sự tiến lên một bực và xét xem họ có thể làm gì với thành đạt tâm linh của họ để đem vương quốc Thượng đế đến trái đất, tìm ra vị trí của họ trong công trình sáng tạo rộng lớn và vượt thời gian của Thượng đế. Vì họ không vượt lên trên chính họ, họ không hoàn tất được vòng tròn để cho ánh sáng tuôn chảy trở về Thượng đế.

Đây là điều Giê-su mô tả trong ẩn dụ về việc nhân ta-lăng. Chỉ khi con dùng khả năng mình để làm việc tốt thì con mới nhân chúng lên. Chỉ khi những khả năng của con, hay đúng hơn là ánh sáng, được nhân lên thì con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám để Thượng đế có thể nhân lên ở Trên Cao những gì con đã nhân lên ở dưới này. Thậm chí, sẽ có nhiều ánh sáng hơn nữa chảy xuống hình số tám tới tâm ý thức của con. Chìa khóa thị hiện đời sống dồi dào trên một căn bản lâu dài là hoàn tất vòng tròn bằng cách cho ra vô điều kiện những gì con đã nhận được vô điều kiện.

13.3. Mọi sự sống là một

Đây là điểm tuyệt đối cơ yếu. Nhiều người tâm linh không hoàn toàn hiểu điểm này. Nhiều người gần hiểu, nhưng họ không có hiểu biết đầy đủ, đúng đắn và trọn vẹn. Nếu con không hoàn toàn nắm bắt điểm này, nỗ lực của thày giúp con thị hiện đời sống dồi dào thật sẽ chẳng đi tới đâu. Một số người đã đem tiến bộ tâm linh của họ chuyển thành vòng xoáy đi xuống mà không biết họ đã đi lầm đường, con đường trông có vẻ đúng đối với người thế tục. Họ đã dùng ánh sáng của họ cho mục đích vị kỷ thay vì vươn lên viễn kiến lớn rộng hơn thấy rằng vì mọi sự sống đều đến từ cùng một nguồn, nên họ là một với mọi sự sống. Những gì họ làm với người khác, họ thực sự làm với mình. Sự thật thô bạo là những người này thường nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện, nhưng họ lại đang đi theo con đường chắc chắn đưa họ tới cái chết tâm linh, cái lỗ đen của sự trở nên càng ngày càng đặt trọng tâm vào cái ta của mình thay vì đặt trọng tâm vào Thượng đế.

Mọi sự sống là một. Khi con bắt đầu hành trình tâm linh, con bị giam trong tâm thức nhị nguyên và không thấy sự thật này. Con quá ư tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt để nhìn thấy bức tranh lớn hơn, để có được bất kỳ ý niệm là một với tất cả. Con phải bắt đầu nơi con đang là và tìm cách nâng cao tâm thức của mình. Vì tâm thức tập thể trên hành tinh này ở mức quá thấp, nên mọi người tầm đạo cần tách mình khỏi tâm thức đại chúng. Con cần tập trung vào chính mình, vào sự tăng triển của chính mình để thoát khỏi lực kéo xuống của tâm thức đại chúng. Tập trung vào chính mình và sự tăng triển của mình là việc làm có giá trị nhưng điểm cốt yếu là nó chỉ có giá trị trong một thời gian. Con phải tập trung vào chính mình để lấy lại sự nối kết nội tâm và nối kết trực tiếp với Bản thể cao hơn của con. Một khi con nối kết được, con phải bước lên mức kế tiếp và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo và mọi người khác cũng thế.

Khi con đạt được một mức hợp nhất nào đó với Thượng đế, con cần phát triển ý niệm hợp nhất với mọi sự sống. Con không còn đơn giản tìm cách nâng cao tâm thức của chính mình, con cũng tìm cách nâng cao tâm thức của người khác và ngay cả tâm thức tập thể. Chỉ khi con tặng ánh sáng của mình để giúp người khác, con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám là điều Giê-su mô tả khi thày nói: “Cha ta làm việc cho tới nay và ta cũng làm việc” (John 5:17). Giờ đây con dùng thành đạt của mình, ánh sáng của mình để làm việc cho kế hoạch lớn hơn của Thượng đế là nâng tâm thức mọi người lên tới tâm thức Ki-tô. Nếu con không chuyển tiếp từ cái nhìn đặt mình là trọng tâm sang cái nhìn đặt Thượng đế là trọng tâm, thì con sẽ dùng ánh sáng của mình để củng cố sự ích kỷ của ngã hữu diệt. Sự thật phũ phàng là nhiều người tâm linh chân thành quả thực đã đi theo con đường ích kỷ này. Họ nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện nhưng sự công chính của họ không đạt mục tiêu. Thay vì nhân lên ánh sáng và thành đạt tâm linh của họ bằng cách giúp người khác, thì họ biến ánh sáng đó thành bóng tối chỉ củng cố thêm ngã hữu diệt của họ.

Đây là điều Giê-su nói tới khi đưa ra nhận xét thường bị hiểu sai hay bỏ qua: “Ánh sáng của thân thể là con mắt: cho nên nếu mắt con đơn nhất, toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Nhưng nếu mắt con xấu ác, toàn thân con sẽ tràn ngập bóng tối. Cho nên nếu ánh sáng trong con là bóng tối thì bóng tối ấy lớn lao biết bao!” (Matthew 6:22-23). Nếu mắt con đơn nhất, con thấy cái một của mọi sự sống. Nếu mắt con xấu ác nghĩa là phân rẽ, con nhìn mọi chuyện qua tâm thức tách biệt và do đó con thấy lợi ích của riêng mình đi ngược lại hay cao hơn lợi ích của tổng thể. Khi con tăng trưởng tâm linh, con sẽ tới một ngã rẽ. Nếu con không bắt đầu dùng các thành đạt của mình để nâng cao tổng thể, thì con sẽ không tránh được sự tha hóa ánh sáng và thành đạt của mình, biến chúng thành cái tăm tối của tâm phản Ki-tô là tâm chối bỏ nó là một với đấng Sáng tạo và với mọi sự sống.

13.4. Tình thương vượt lên trên sợ hãi và ích kỷ

Hãy để thày nói tới động lực đằng sau hành động con người và thậm chí cách họ tiếp cận tâm linh. Nhiều tín đồ tôn giáo trên hành tinh này tin rằng họ phải thờ phượng Thượng đế để được cứu rỗi và là con chiên ngoan đạo. Một số còn tin rằng họ phải thờ phượng Giê-su. Nhiều người tin rằng để được cứu rỗi, để được chấp nhận vào vương quốc Thượng đế, thì họ phải làm điều gì đó cho Thượng đế, họ phải làm điều gì đó để hài lòng Thượng đế. Họ phải tuân theo quy luật của sinh thể bên ngoài ở trên trời đó, đã quy định luật lệ nghiêm khắc mà mọi người phải tuân theo không khoan nhượng.

Nếu Thượng đế đã tạo ra toàn bộ vũ trụ này, thì có thể chăng Thượng đế cần điều gì đó từ một con người sống trên hành tinh nhỏ bé này? Con thử nghĩ xem con có thể tặng Thượng đế điều gì mà Thượng đế cần, mà Thượng đế chưa có rồi? Tại sao Thượng đế cần sự thờ phượng của bất kỳ ai khi Thượng đế là Tất cả và do đó trọn vẹn trong chính ngài? Thượng đế đầy đủ đến độ ngài lúc nào cũng cho từ bản thể của ngài, giống như mặt trời lúc nào cũng tỏa ánh sáng của nó. Những người nghĩ họ cần làm điều gì hay tặng cái gì cho vị Thượng đế bên ngoài đang cư xử giống như những người nghĩ họ cần làm một ngọn đèn pha vĩ đại và chiếu nó vào mặt trời để cho mặt trời ánh sáng. Trước tiên con không thể chế tạo một đèn pha lớn đủ để ảnh hưởng được mặt trời. Thứ nhì, tại sao con cần cho mặt trời ánh sáng khi mặt trời hiện hữu để cho trái đất ánh sáng? Những người này suy nghĩ thiếu lô-gíc và quả thật đang kẹt trong tâm thức muốn mua sự cứu rỗi của họ.

Thượng đế, dưới dạng đấng Sáng tạo, không cần gì cả từ con. Thượng đế không muốn con thờ phượng ngài. Giê-su không muốn con thờ phượng thày và đó chính là lý do vì sao thày nói: “Tại sao ngươi gọi ta là lành? Chỉ có một đấng lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Thượng đế không cần con vào một nhà thờ hay một ngôi đền và thờ phượng ngài, đốt hương hay dâng vật tế. Thượng đế không cần con xây dựng thánh đường tráng lệ và gọi đấy là nhà của Thượng đế. Thượng đế không cần bất kể các thứ đó. Thượng đế muốn con làm gì với ánh sáng ngài đã cho con?

Chúng ta hãy nhìn những người tâm linh hay tôn giáo đã tiến lên cao hơn. Họ nhận ra rằng mục đích của tôn giáo không phải là thờ phượng một Thượng đế xa xăm không cần thờ phượng. Mục đích của tôn giáo là đưa niềm tin tâm linh vào thực hành bằng cách giúp người khác. Tỷ dụ, có nhiều người Cơ đốc chân thành và sùng đạo đã có thành đạt cao trong lãnh vực này và cống hiến cuộc đời mình để giúp đỡ người khác nhân danh Giê-su. Cũng có nhiều người thuộc các tôn giáo khác hay trong cộng đồng tâm linh Thời đại Mới cũng đang tìm cách nâng cao hành tinh qua việc thỉnh cầu năng lượng tích cực qua nhiều dạng nghi thức khác nhau. Một số trong các người đó quả thực có trái tim thành thật trong sáng. Một số khác vẫn chưa thăng vượt khuynh hướng tập trung vào việc làm điều gì đó cho vị Thượng đế xa xăm trên trời. Nhiều người vẫn còn làm việc giúp đỡ người khác vì họ nghĩ công việc này khiến Thượng đế hài lòng. Họ làm vì họ cảm thấy phải làm; họ làm trong tinh thần trách vụ hay bổn phận, hay vì họ cảm thấy việc làm của họ sẽ bắt buộc Thượng đế phải cứu rỗi họ. Một số còn phụng sự với niềm kiêu hãnh vi tế muốn tỏ cho Thượng đế thấy họ đã làm rất nhiều hơn so với người khác. Những người này chỉ cho để được hưởng lại điều gì đó, họ không cho vì yêu thích cho, vì tình thương trong sáng muốn thấy sự sống tuôn chảy.

Thày có nói sợ hãi là một động lực kém. Thày có nói con cần uy lực ý chí để đột phá lực chống trả sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Nếu uy lực ý chí của con dựa trên sợ hãi, nó sẽ không mạnh đủ để đột phá sự chống đối do tâm thức đại chúng và ông hoàng thế gian tạo ra. Nhiều người đã khắc phục sợ hãi và không thật sự hành động vì sợ hãi. Nhưng họ vẫn còn ý niệm trách vụ và bổn phận và ý niệm này không thật sự vị tha. Nó không dựa trên điều duy nhất có thể khắc phục mọi chống đối. Điều duy nhất đó là sức mạnh tình thương.

Nếu con muốn đột phá lực chống đối sự thị hiện đời sống dồi dào, thì con cần uy lực ý chí hoàn toàn dựa trên tình thương. Tình thương là lực mạnh mẽ nhất trong vũ trụ. Để vượt lên trên sợ hãi và vị kỷ, con cần hiểu tình thương là gì và đây là một vấn đề cho nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh. Nhiều người đã có tiến bộ tâm linh lớn nhưng nhiều người trong số này đã tới mức đứng yên không tiến lên nữa. Trong một thời gian, họ tăng triển và tiến bộ nhiều nhưng rồi họ tới điểm bắt đầu cảm thấy mình đã hiểu đủ, đã biết đủ, đã làm đủ rồi. Nhiều người cảm thấy họ đã tìm thấy chân lý tối hậu, tổ chức tối hậu, giáo lý hay đạo sư tối hậu. Họ chỉ cần ở lại với giáo lý, tổ chức đó, tiếp tục theo đạo sư đó và một ngày kia họ sẽ được cứu rỗi. Đây là một phiên bản vi tế của ước mơ cứu rỗi máy móc, và ý niệm này vẫn đặt trọng tâm vào chính họ. Động lực đằng sau mọi sự sống là tự thăng vượt, động lực trở nên hơn cái gì con đang là ngay bây giờ. Nếu con nghĩ con đã biết đủ, làm đủ, thì con không thể tránh đặt mình ra ngoài Dòng sông sự Sống và như vậy con không thể hoàn tất dòng chảy hình số tám.

Sẽ có lúc con tới bước ngoặt trên con đường tâm linh. Khi tới điểm này, con không thể và sẽ không tiến bộ tiếp cho tới khi con với lên cái gì vượt quá chính mình. Con sẽ không tiến bộ thêm cho tới khi con bắt đầu cho ra những gì con có và những gì con đã học. Thay vì tập trung vào sự tăng triển tâm linh của chính mình, con phải nhìn quá sự tăng triển của chính mình và nhìn vào toàn thể hành tinh. Con phải bắt đầu xét xem làm sao con dùng được những gì con đã học hỏi, những gì con đã khám phá, những gì con đã thấm nhập để nâng cao tâm thức người khác.

Nếu con không cho những gì con đã học, thì con sẽ không tăng triển thêm quá một điểm nào đó. Con sẽ không thể tránh đình trệ nhưng không có sự đình trệ. Hoặc con tăng triển qua tự thăng vượt hoặc con sụp đổ qua sự chìm đắm trong cái ta là trọng lực kéo xuống được mô tả trong quy luật thứ nhì của nhiệt động học. Nhiều người trên trái đất cảm thấy họ rất tâm linh, cảm thấy họ đang làm đúng, nhưng họ không đang tăng triển. Họ đạt tới mức cảm thấy họ ngay chính vì họ thuộc về tổ chức này hay tổ chức nọ. Họ nhìn lại cuộc đời mình và họ thấy họ đã làm bao nhiêu việc cho một tổ chức đặc thù hay để nâng cao tâm thức hành tinh. Dù họ đã làm nhiều, nhưng họ đã cho phép sự tăng triển của họ ngừng lại. Họ không thực sự xét xem làm sao họ có thể thăng vượt tổ chức vỏ ngoài hay giáo lý vỏ ngoài. Trước hết, họ không xét xem họ có thể thăng vượt chính mình như thế nào, thăng vượt thái độ và cách họ tiếp cận cuộc sống. Họ hài lòng với hiểu biết họ có và họ không tìm hiểu biết cao hơn có thể dẫn họ lên mức kế tiếp. Họ không hiểu là ngày nào còn hiện thân trên trái đất thì luôn luôn có một mức kế tiếp. Con chỉ thăng lên vĩnh viễn khỏi trái đất khi con sẵn sàng lúc nào cũng vươn lên mức kế tiếp.

Những người này bị kẹt trong sự ngay chính mà Giê-su tố cáo khi thày nói trừ khi sự ngay chính của con trội hơn sự ngay chính của thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không thể vào thiên đàng (Matthew 5:20). Điều này đặt ra một tình huống rất khó xử cho các thày là những thày tâm linh vì nó thường khiến các thày mất những người có thành đạt tâm linh cao nhất. Tình huống khó xử này giản dị. Nhiều người đón nhận giáo lý trong khóa học này là những người đã mở tâm đón nhận con đường tâm linh và đã có những tiến bộ đáng kể trên đường tu. Vấn đề là nhiều người trong số đó thỏa mãn với tiến bộ của họ. Họ có thể đọc khóa học này vì tò mò và họ sẽ lấy một số ý mà họ cảm thấy là hay vì các ý này xác nhận những gì họ đã tin. Nhiều người sẽ cảm thấy khó dùng khóa học này để nhìn vào trong gương và thấy là họ chưa thăng vượt một mức hiểu biết hay thành tựu nào đó. Nhiều người cũng không muốn nhìn nhận sự kiện là mặc dù họ đã tiến bộ tâm linh nhiều, họ vẫn chưa tiến tới bước tối hậu để thiết lập đời sống dồi dào. Bước tối hậu đó là cho vô điều kiện những gì con đã nhận, dùng nó để giúp người khác bằng cách tạo cảm hứng cho họ tiến lên cao hơn.

13.5. Tình thương thiêng liêng là Dòng sông sự Sống

Tại sao nhiều người đứng ở bước ngoặt nơi họ có tất cả kiến thức và hiểu biết họ cần nhưng vì lý do nào đó họ không thể đem chúng vào hành động và thực sự thị hiện đời sống dồi dào tâm linh cho chính họ và người khác? Lý do là rất nhiều người không hiểu bản chất thật của tình thương. Lý do là họ lớn lên trong một xã hội dựa trên một tầm nhìn hoàn toàn méo mó về tình thương, tầm nhìn nhị nguyên về tình thương, tầm nhìn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tình thương thế tục không dính dáng gì tới tình thương thiêng liêng. Không phải là tình thương thế tục ngược lại tình thương thiêng liêng. Đơn giản là tình thương thế tục không nối kết với tình thương thiêng liêng. Tình thương thiêng liêng là lực thúc đẩy sáng tạo của Thượng đế và nó là lực tự thăng vượt, lực trở nên hơn nữa. Ngược lại, tình thương thế tục tìm cách sở hữu, tìm cách làm chủ, tìm cách giữ mọi sự đứng yên bằng cách ngừng dòng chảy của sự sống. Khi con sở hữu một vật gì, con muốn giữ nó. Điều này tất nhiên dấy lên nỗi sợ mất mát và để tránh mất mát, con nghĩ con phải kiểm soát hoàn cảnh bằng cách không cho nó thay đổi.

Cốt lõi là con bị kẹt trong một dạng điên rồ tìm cách ngăn cản một điều gì trở nên hơn nữa bằng cách giữ nó trong một trạng thái giới hạn. Con nghĩ những gì con đang có là tất cả những gì con có thể có cho nên con thà giữ trạng thái giới hạn thay vì cho phép nó trở nên hơn nữa. Trên căn bản con đang nói với Thượng đế đang muốn cho con dồi dào vô hạn: “Thượng đế, hãy để tôi yên, tôi muốn giữ những gì tôi có; tôi không muốn trở nên hơn nữa.” Nhiều quan hệ nhân gian nhìn bề ngoài có vẻ thương yêu nhưng thật sự dựa trên ý muốn sỡ hữu người khác hay kiểm soát điều mình có được từ người kia. Dưới bề mặt có vẻ là quan hệ thương yêu là ý muốn kiểm soát một điều gì để giữ nó y như cũ, để con có thể tiếp tục sở hữu nó.

Khi con thấy bản chất phù du của mọi sự trên trái đất, thì phải chăng điều hiển nhiên là tối hậu con không thể sở hữu bất cứ gì, phải không con? Có điều gì mà con có thể giữ được? Con hãy nghĩ tới câu nói dân gian là con không thể đem gì theo con, nghĩa là bất cứ sở hữu vật chất nào, khi con chết. Có một thứ mà con có thể đem theo con, đó là những thành đạt tâm linh con đã thể nhập. Thành đạt tâm linh đó đòi hỏi con hiểu bản chất của tình thương, và bản chất đó là một dòng chảy liên tục, chính là Dòng sông sự Sống, không bao giờ đứng yên.

Dòng sông sự Sống không bao giờ tìm cách làm chủ hay sở hữu bất cứ gì; nó lúc nào cũng cho, cũng chảy, nó thay đổi, vượt thăng chính nó và trở nên hơn nữa. Nó không tìm cách sở hữu bất cứ gì vì nó thấy nó là một với tất cả mọi sự tốt lành và toàn hảo. Nó biết rằng chỉ khi trở nên hơn nữa, khi là một với Dòng sông sự Sống, thì con mới thực sự sở hữu bất cứ gì. Chỉ khi con không tìm cách sở hữu và kiểm soát một thứ, thì con mới cho phép cái Tất cả trở nên hơn nữa. Chỉ khi con cho chính mình, con mới nhân lên các khả năng của con và trở nên hơn nữa. Chỉ khi con tự thăng vượt con mới có sở hữu thật vì chỉ khi con tự thăng vượt con mới ở trong Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông này con mới có dồi dào, sự dồi dào thực sự luôn luôn tăng trưởng và trở nên hơn nữa. Đó là lý do tại sao con phải nâng cao hiểu biết về tình thương để nhận chân rằng tình thương thật, tình thương thiêng liêng không bao giờ đứng yên và không bao giờ tìm cách làm chủ, sở hữu hay kiểm soát bất cứ gì. Tình thương thật luôn luôn cho chính nó và chính là trong sự cho chính nó đó mà nó trở nên hơn nữa.

Đây là chìa khóa chủ yếu để thị hiện dồi dào và đây là chân lý mà hầu hết người đi tìm tâm linh không hiểu trọn vẹn, không thể nhập trọn vẹn và không trọn vẹn đem vào hành động. Để duy trì dòng chảy hình số tám, con phải cho ra dưới này những gì con nhận được từ Trên. Đấng Sáng tạo muốn con cho ra không điều kiện những gì con nhận không điều kiện nhưng ngài không muốn con cho ngài vì ngài không cần nó. Nếu đấng Sáng tạo cần gì từ con, thì tại sao ngài lại liên tục cho con ánh sáng? Thượng đế không muốn con cho lại Thượng đế bằng cách thờ phượng một sinh thể xa cách trên trời, bằng cách phục vụ người khác để làm vừa lòng sinh thể xa xăm đó hay bằng cách chú tâm nâng cao chính tâm thức mình để gây ấn tượng với vị Thượng đế xa xăm đó.

Điều Thượng đế cần con làm là nhìn chung quanh mình và xem xét những điều kiện con hiện thấy trên trái đất. Thượng đế cần con có một lượng định thực tế và nói: “Với tất cả những gì tôi biết về Thượng đế như một Sinh thể hoàn toàn tự túc lúc nào cũng cho chính mình, tôi cần nhận ra tình thương của Thượng đế vô điều kiện và vô biên. Thượng đế không có mong muốn nào khác ngoài chuyện thấy vương quốc của ngài thị hiện vật lý trên hành tinh trái đất.” Đấng Cha quả thật hoan hỷ muốn cho mọi người vương quốc của ngài. Ngài không muốn thấy họ chết và lên thiên đàng mới nhận được vương quốc, nhưng ngài muốn cho mọi người vương quốc ngay ở đây trên trái đất.

Điều kiện hiện hành trên trái đất khác xa vương quốc Thượng đế. Thực tại hiện hành khác xa viễn kiến cao nhất của tâm Ki-tô đến độ gần như không thể mô tả được. Lý do vì sao điều kiện hiện hành khác xa viễn kiến Thượng đế chính là vì con người đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ để tự ngã tạo ra đời sống khổ đau thay vì họ đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế. Cần gì để thay đổi tình trạng này? Cần những người có viễn kiến cao hơn, như chính con, làm hết mọi điều trong khả năng của họ để quảng bá viễn kiến đó và thức tỉnh người khác.

Thượng đế muốn con nhân lên những gì con nhận được từ ngài bằng cách cho nó cho người khác. Đó là lý do tại sao Giê-su nói: “Hễ các con làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các con đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40). Ở các tầng thấp hơn của tâm thức Ki-tô, con nhận ra con là một với Thượng đế nhưng con không ngừng ở đó. Con cần thăng vượt lên tầng cao hơn và nhận ra con là một với Thượng đế vì Bản thể Thượng đế nằm trong mọi sự đã được sinh tạo. Đấng Sáng tạo sinh tạo mọi sự từ chính Bản thể ngài. Khi con cho chính mình cho người khác hay cho Trái đất Mẹ, con thật sự đang cho Thượng đế. Duy có điều con không cho vị Thượng đế mà con coi như một sinh thể trên trời. Con đang cho vị Thượng đế thật, nội tại hiện hữu bên trong mọi sự.

Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Thày không nói là không có Thượng đế trên cõi cao, vì quả thực có một Sinh thể mà tâm thức đang tập trung như là đấng Sáng tạo của hệ thống các thế giới này. Một phần của Bản thể đấng Sáng tạo được cài bên trong mọi sự từng được sinh tạo. Có một khía cạnh phi cá nhân của Thượng đế, đấng Sáng tạo trên cõi cao, và có một khía cạnh cá nhân của Thượng đế là Thượng đế hiện hữu trong tất cả. Có Thượng đế là cái Tất cả và Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế là cái Tất cả muốn con cho ánh sáng và tình thương một cách vô điều kiện cho Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế ở trong tất cả đang tạm thời lẩn trốn đằng sau lớp hóa trang của hình tướng vật lý bất toàn. Đấng Sáng tạo muốn con giải thoát Thượng đế này, giải thoát Ánh sáng Mẹ, để trải bày cái toàn hảo mà đấng Sáng tạo đã hình dung. Qua đó, Thượng đế ở trong tất cả sẽ hợp nhất với Thượng đế là cái Tất cả. Sẽ không còn ảo tưởng tách biệt giả tạo do tâm thức phản Ki-tô tạo ra.

13.6. Phát triển nhận biết hoàn vũ

Con yêu dấu, điều sẽ có tác dụng quyết định trên hành tinh này là những người tâm linh tiến bộ hơn khắc phục khuynh hướng tập trung vào chính mình và thay vào đó phát triển một sự nhận biết không những toàn cầu mà toàn vũ. Con ở đây để là một sứ thần cho ánh sáng Thượng đế, sứ thần cho viễn kiến Ki-tô. Con ở đây để là người đồng-sáng tạo và đem vương quốc Thượng đế tới trái đất. Chỉ khi con nhận ra lý do tại sao Bản thể cao của con chọn xuống đây, con mới có thể trải nghiệm và thị hiện đời sống dồi dào. Chìa khóa để thiết lập dòng chảy số tám của đời sống dồi dào là cho ra những gì con có, cho ra những gì con đã nhận, cho ra những gì con thể nhập, cho ra con người mà con đã trở thành. Con phải để cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ tỏa rạng xuyên qua bốn thể phàm của con và cho nó rọi sáng người công chính và người bất chính. Điều này đòi hỏi con phải khắc phục lời dối trá cơ bản liên quan tới tình thương do ông hoàng thế gian lan truyền.

Lời dối trá quỷ quyệt nhất do ông hoàng thế gian, do tâm rắn, lan truyền là con phải cho tình thương với điều kiện. Lời dối trá này tìm cách khiến con tin rằng có một số tình huống trên trái đất cho phép con đóng dòng chảy của tình thương vô điều kiện của Thượng đế tuôn chảy qua bản thể con và làm như thế là cần thiết, không thể tránh và đúng lý. Khi con nhìn vào nhân loại ngày nay, con sẽ thấy là gần như hầu hết con người trên hành tinh này bị kẹt trong thái độ là để họ có thể cho tình thương cho một người, thì người ấy phải hội đủ một số điều kiện, như thể họ phải xứng đáng nhận được tình thương. Đây là một lời dối trá quỷ quyệt vì tình thương thật đến từ Thượng đế và Thượng đế cho tình thương một cách vô điều kiện. Ngài cho phép ánh sáng của ngài tỏa sáng trên người ác cũng như người lành và ngài cho phép tình thương của ngài mưa xuống người công chính và người bất chính (Matthew 5:45). Con là ai mà đặt điều kiện khi cho người khác?

Lời dối trá này không chỉ ngăn cản sự thị hiện vương quốc Thượng đế ở tầng mức lớn rộng mà nó còn ngăn cản sự thị hiện đời sống dồi dào cho tất cả mọi người đang bị kẹt trong cách tiếp cận đời sống đó. Mặt trời nhận được niềm vui qua sự tỏa chiếu ánh sáng của nó. Nếu mặt trời đặt điều kiện khiến nó khóa ánh sáng của nó lại, nó sẽ gây tổn thương cho chính nó qua việc tắt đi nguồn vui của nó. Khi con cho phép bất cứ điều kiện nào trong tâm con hay ngoài con ngưng dòng chảy của ánh sáng Thượng đế, tình thương Thượng đế, tuôn chảy xuyên qua con, thì con khóa lại chính nguồn vui của chính con, chính nguồn cội của đời sống dồi dào, vì đời sống dồi dào chính thật là một trạng thái tâm thức.

Rất nhiều người cảm thấy họ chỉ có thể cho tình thương cho người khác nếu người đó hội đủ những điều kiện mà họ đã cho phép đi vào bản thể của họ. Tất cả những điều kiện này, và thày cố ý khẳng đỉnh một điều tuyệt đối ở đây, đều do ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian tạo ra. Bất kỳ điều kiện nào khiến con đóng lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con phát xuất trực tiếp từ tâm phản Ki-tô và nuôi béo các lực của bóng tối. Không có gì phải bàn cãi về điều này; quy luật này hoàn toàn không có ngoại lệ. Một lần nữa, chúng ta có một sự phân biệt vi tế có thể làm nhiều người rối rắm cho tới khi họ vươn tới cái hiểu cao hơn của tâm Ki-tô.

Thày không nói là con phải đi ra ngoài và cho hết của cải của con một cách không phân biện hay cho đồng đều tất cả mọi người con gặp. Có sự khác biệt cơ bản giữa cho ra điều kiện và cho ra có khác biệt, có phân biện. Để hiểu khác biệt này, con cần xem bản chất của tình thương là một lực không bao giờ cho phép bất cứ gì đứng yên trong một trạng thái giới hạn. Tình thương Thượng đế luôn luôn muốn mọi sự trở nên hơn những gì nó là bây giờ, thăng vượt tình trạng hiện thời của nó. Thày không nói là con phải đối xử với mọi người với cùng tình thương và lòng trắc ẩn. Thày không nói là con phải hiền dịu và nói nhỏ nhẹ với tất cả mọi người con gặp. Điều thày muốn nói là con cần để cho tình thương Thượng đế chảy qua bản thể con trong tất cả mọi tình huống mà con gặp. Con cần cho tình thương làm việc một cách tự do mà không ngăn nó lại, không áp đặt điều kiện là tình thương Thượng đế có thể làm hay không thể làm điều gì xuyên qua con. Ánh sáng Thượng đế muốn làm gì qua con? Nó muốn thay đổi mọi người nó gặp bằng cách giúp người ấy thức tỉnh và thấy nhu cầu vươn lên cao hơn, tự thăng vượt, trở nên hơn nữa.

Nếu con muốn một thí dụ thì con hãy tìm hiểu đời của Giê-su với một nhận biết mới vượt quá hình ảnh giả do nhiều giáo hội Cơ đốc dựng nên. Giê-su được mô tả như một vị thày tâm linh dễ dãi, hiền từ và thương yêu tất cả mọi người và khi thày nói “hiền từ và thương yêu” thày nói theo nghĩa thế tục. Nhiều người đã khoác vào trạng thái tâm thức tin rằng tình thương luôn luôn nhẹ nhàng và dịu dàng. Nếu con là người thương yêu, con luôn luôn nói nhẹ nhàng với người khác, khiến họ cảm thấy dễ chịu dù họ đang ở trong tình huống xấu hay trạng thái tâm giới hạn. Đây là hiểu sai lầm về bản chất của tình thương và nó tha hóa thành sự cảm thông nhân gian, nó có thể giúp người khác cảm thấy thoải mái nhưng không giúp họ vượt thăng trạng thái đau khổ và giới hạn hiện hành của họ.

Giê-su không phải là loại thày tâm linh như thế. Không phải lúc nào Giê-su cũng nói nhỏ nhẹ hay dịu dàng, nhưng thường rất cương cường và rất thẳng thắn. Con nhìn xem Giê-su chất vấn các thày thông giáo và người Pha-ri-si và đuổi những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. Con nhìn xem Giê-su tra vấn các đệ tử bao nhiêu lần và nói họ không có hiểu biết và có ít đức tin. Giê-su có tình thương thiêng liêng thật và do đó, trong mỗi tình huống, mỗi người mà thày gặp, thày muốn mọi sự trở nên hơn nữa. Giê-su không muốn tình huống hay con người vẫn ở y trạng thái cũ sau khi gặp thày. Thày muốn giúp hay tạo cảm hứng cho họ, thậm chí chất vấn và thúc đẩy họ tự thăng vượt, vươn lên cao hơn, trở nên hơn nữa. Đây là tình thương thật. Con không cho phép bất cứ gì y như cũ, con không cho phép tình trạng khốn khổ và vật lộn hiện hành trên hành tinh trái đất tiếp tục như cũ. Chỉ giản dị đi khắp nơi và tỏ lòng thương cảm với mọi người không phải là tình thương. Tình thương là làm gì cần làm để giúp họ thăng vượt tình trạng tâm thức hiện hành của họ vì tình trạng tâm thức này là nguyên nhân thật của những vật lộn trong cuộc đời họ.

Để giúp những người đang kẹt trong ích kỷ và vị kỷ thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của họ, thì con có thể cần phải rất cương cường và rất thẳng thắn. Điều có thể hoàn toàn cần thiết là con chất vấn và phơi bày những niềm tin nhị nguyên mà họ dính mắc. Có thể con cần làm rúng động niềm tin họ biết hết mọi chuyện hay chất vấn bất cứ cớ nào họ dùng để không thay đổi chính họ. Một số người sẽ cho rằng làm vậy thiếu từ bi nhưng từ một tầm nhìn rộng hơn, làm vậy không thiếu từ bi mà chính là lòng từ bi tối hậu. Con không từ bi khi để người khác ở lại trong tình trạng tâm thức bảo đảm họ bị tấm gương vũ trụ tiếp tục trả lại hoàn cảnh khốn khổ và vật lộn. Lòng từ bi là làm bất cứ gì cần thiết để lay chuyển họ bước ra khỏi trạng thái tâm thức đó và lãnh trách nhiệm cuộc đời họ, để họ có thể phóng chiếu điều gì vào tấm gương vũ trụ sẽ được trả lại như điều kiện sống dồi dào. Đây là lòng từ bi tâm linh thật sự và nó là món hàng hiếm hoi trên trái đất. Con có thể làm cho nó phổ biến hơn nếu con chịu nâng cao hiểu biết của con về bản chất của tình thương.

13.7. Nâng điều kiện hiện hành theo viễn kiến Ki-tô

Chìa khóa chủ yếu để thị hiện đời sống dồi dào cho mình là con nhìn mình là người đồng-sáng tạo với Thượng đế đang có mặt ở đây để giúp trái đất tới gần hơn việc thị hiện vương quốc Thượng đế. Con không ở đây để giản dị chấp nhận hoàn cảnh như chúng đang là hay để giúp con người cảm thấy thoải mái với những giới hạn hiện hành của họ. Con ở đây để giúp họ tiến lên cao hơn, để giúp mọi sự sống tiến lên cao hơn.

Con cần làm gì để thật sự hoàn thành vai trò này? Con cần xoay chuyển nhận biết để khắc phục một ảo tưởng khác trong những ảo tưởng quỷ quyệt do ông hoàng thế gian tạo ra. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng những giới hạn và bất toàn hiện hành mà con thấy trên trái đất có thật theo nghĩa tối hậu. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng tình trạng bất toàn và vật lộn hiện hành không thể tránh được vì Thượng đế không có ở đây trên trái đất, và do đó vương quốc Thượng đế không thể thị hiện trên trái đất. Đây là ảo tưởng tối hậu mà ông hoàng thế gian đưa ra và y đã khôn khéo dùng tình trạng hiện hành của vũ trụ vật chất để xây dựng ảo tưởng này.

Vũ trụ vật chất là bầu cõi sau cùng của công trình sáng tạo của Thượng đế. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, bầu cõi này chỉ vừa đủ ánh sáng để khác với cái rỗng không. Các sinh thể tự nhận biết từ một bầu cõi cao hơn đi xuống bầu cõi mới để đem xuống ánh sáng Thượng đế và áp chồng viễn kiến tâm Ki-tô lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Mục đích là khiến bầu cõi sau cùng trải bày viễn kiến Ki-tô. Ngày nào bầu cõi mới chưa được lấp đầy bằng một khối lượng ánh sáng tới hạn, thì không thể tránh là có vẻ như Thượng đế không có mặt nơi bầu cõi đó. Cảm tưởng này do ánh sáng Thượng đế không hiện hữu ở cường độ mạnh đủ để các giác quan thô của thân thể vật lý thấy Thượng đế có mặt. Hiện nay vẫn chưa đủ ánh sáng trong vũ trụ vật chất để giác quan vật lý thấy ánh sáng đằng sau các biểu hiện. Mắt của con không thể thấy là vật chất quả thực được làm ra từ Ánh sáng Mẹ đã khoác vào một hình tướng tạm thời. Ở điểm này của dòng tiến hóa của trái đất, chuyện bình thường là giác quan vật lý của con người không nhìn thấy ánh sáng Thượng đế đằng sau các biểu hiện bên ngoài. Cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng thấy ánh sáng Thượng đế. Để thấy được, con phải đứng ngoài màn ảo tưởng do ông hoàng thế gian tạo ra.

Tấm màn ảo tưởng này dựa trên niềm tin là những gì con thấy qua giác quan là thật và những gì con không thấy, tức là ánh sáng Thượng đế, không hiện hữu. Đây là ảo tưởng mà ông hoàng thế gian tạo ra với mục đích kiểm soát thế giới và ngăn cản các người đồng-sáng tạo của Thượng đế hoàn thành sứ vụ của họ. Các người đồng-sáng tạo này có mặt ở đây để đem ánh sáng Thượng đế. Trước tiên ông hoàng thế gian làm cho những sinh thể tự nhận biết này quên mất bản sắc thật của họ và đồng hóa với thân vật lý. Sau đó, y cố gắng dùng những giới hạn của thân vật lý để giữ mọi người kẹt trong ảo tưởng đó. Y muốn con tin vào ảo tưởng là Thượng đế không có mặt ở đây và các bất toàn hiện hành là thật, không thể tránh và thường trực. Y muốn con tin vào điều này để con không để ánh sáng mình tỏa rạng và qua đó, con thấy đổi các điều kiện hiện hành, nâng chúng lên cao theo viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô. Đây là âm mưu của ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt. Làm sao con khắc phục được ảo tưởng lớn của các thời đại này, ảo tưởng đã giam bẫy 99 phần trăm con người trên trái đất? Làm sao con giải thoát mình khỏi bẫy đó? Con chỉ làm được bằng cách thanh tẩy bốn thể phàm của con. Khi làm vậy, con có thể nắm bắt viễn kiến cao hơn mà Thượng đế giữ cho hành tinh này, mà chúng ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Niệm tinh khôi là ý nghĩa thật của thụ thai tinh khôi.

13.8. Giữ niệm tinh khôi

Ta là người sinh ra Giê-su qua cách mà các giáo hội Cơ đốc chính thống gọi là thụ thai tinh khôi (Luke 1:35). Điều này không có nghĩa là Giê-su được thụ thai một cách không tự nhiên hay siêu nhiên. Điều này có nghĩa là sau khi ta được thiên thần tới gặp và ta chấp nhận thay đổi lớn lao là cho ra đời một em bé, ta được trao niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi, về Giê-su và sứ vụ của thày. Ta được trao viễn kiến nội tâm Giê-su là ai như một sinh thể tâm linh. Ta được trao viễn kiến tại sao Giê-su tới trái đất và mục đích của thày là gì trong kiếp sống đó. Suốt cuộc đời Giê-su, bổn phận của ta mà cũng là thử thách của ta, đôi khi cũng là khó khăn của ta, là giữ đúng niệm tinh khôi này. Có những giai đoạn Giê-su là một đứa trẻ khó dạy, một thiếu niên khó dạy và đôi khi thậm chí một người lớn khó tính. Bất kể Giê-su làm gì hay dù bất kể chuyện gì xảy ra, thử thách của ta là trung thành với viễn kiến tinh khôi là Giê-su sẽ biểu hiện quả vị Ki-tô trọn vẹn và hoàn thành sứ vụ của thày.

Sứ vụ của Giê-su có thể được trải bày qua nhiều diễn tiến khác nhau trong hoàn cảnh bên ngoài. Quả thật, tiềm năng cao nhất của sứ vụ của Giê-su là nhiều người dân và thậm chí một số nhà lãnh đạo Do thái giáo đón nhận thày như đấng Cứu tinh mà đạo Do Thái chờ mong. Hiển nhiên điều này đã không xảy ra, và chúng ta cũng có thể nói điều đã xảy ra gần với tiềm năng thấp nhất, nếu nhìn theo sự việc bên ngoài. Với tầm nhìn cao hơn, thì sứ vụ của Giê-su là một thành công mỹ mãn vì thày đạt được quả vị Ki-tô trọn vẹn và qua đó chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô. Cốt lõi của con đường này là con không ngồi yên và chờ điều kiện lý tưởng xảy ra trên trái đất trước khi con cho phép ánh sáng của con tỏa rạng và cho ra tình thương Thượng đế. Ngược lại, con chấp nhận bất kỳ điều kiện nào con đối mặt, dù chúng khó khăn bao nhiêu, và con để cho ánh sáng và tình thương Thượng đế nâng các điều kiện này lên cao hơn. Bất kể các điều kiện bên ngoài như thế nào và có vẻ bất toàn như thế nào, theo tầm nhìn cao hơn thì sứ vụ của Giê-su đã thành công. Cũng vậy, sứ vụ của con có thể thành công dù hoàn cảnh bên ngoài của con không đạt được tiêu chuẩn thế tục. Chìa khóa là con phải sẵn sàng thăng vượt những giới hạn của con.

Vai trò của ta và thử thách của ta là nhìn quá các hoàn cảnh bên ngoài và luôn luôn thấy Giê-su chiến thắng, nghĩa là thày sẽ đạt được sự phục sinh của thày. Ngay cả khi ta chứng kiến thày bị xét xử, khi ta thấy thày nhọc nhằn vác cây thập tự qua những phố đông người của thành phố Jerusalem, ngay cả khi ta thấy thày bị treo trên cây thập tự, thử thách của ta là nhìn quá những hoàn cảnh bên ngoài rất căng thẳng và rất bất toàn này. Ta phải giữ đúng viễn quan của niệm tinh khôi và kiên định giữ viễn quan Giê-su sẽ vươn lên trên mọi giới hạn nhân phàm và đạt được tự do vĩnh cửu trong sự phục sinh.

Đây là thử thách mà con đối mặt trong đời sống cá nhân của con và đây là thử thách các con đối mặt ở mức hành tinh trong thời đại này. Thử thách chính của cuộc sống trên trái đất là không bao giờ để cho bất kỳ hoàn cảnh nào lừa gạt con để con khóa dòng chảy của ánh sáng và tình thương Thượng đế xuyên qua bốn thể phàm của con. Con phải giữ vững viễn kiến cao nhất của con, không bao giờ chấp nhận các bất toàn là thật, trường tồn hay không thể vượt qua. Con phải nhận ra là đằng sau mọi điều kiện bên ngoài là Ánh sáng Mẫu-Vật thanh khiết và Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng trải bày bất kỳ viễn quan nào được phóng chiếu lên nó xuyên qua tâm có tự nhận biết. Ánh sáng vật chất có thể trải bày dễ dàng sự toàn hảo của Thượng đế cũng như nó có thể trải bày những bất toàn hiện hành thấy được trên trái đất.

Điều quan trọng là con người phải thức tỉnh nhận ra sự liên hệ giữa tâm thức của họ và những gì xảy ra trên hành tinh vật lý dưới dạng thiên tai và xung đột giữa con người. Trừ khi con người tự nguyện thức tỉnh để thấy sự thật này, con sẽ chứng kiến nhiều dạng tai ương và biến động trên hành tinh này do tấm gương vũ trụ gửi trả nhân loại những gì nhân loại phóng chiếu ra ngoài. Điều này không xảy ra để trừng phạt, nó xảy ra với hy vọng một ngày kia con người sẽ tỉnh thức nhờ thấy được hậu quả của hành động của họ. Hy vọng họ sẽ bắt đầu suy ngẫm liệu có một nguyên nhân tiềm ẩn và liệu họ cần thay đổi chính họ để tránh các tai ương bên ngoài này. Hy vọng lớn của thày là con người sẽ thức tỉnh qua sự hướng dẫn tâm linh thay vì qua Trường đời Cay đắng.

Thẩm định thực tế là sẽ có nhiều tai ương trước khi có một sự tỉnh thức rộng lớn. Thày phải tiên tri với con là rất có thể sẽ có nhiều thiên tai trước khi sự tỉnh thức đạt mức tới hạn. Điều thày cần nơi những người tỉnh thức tâm linh nhất trên hành tinh này là họ kiên định tuân thủ nhiệm vụ giữ niệm tinh khôi cho nhân loại và hành tinh trái đất. Thày cần những người nhìn vượt quá điều kiện bên ngoài, bất kể những điều kiện này có vẻ khốc liệt tới đâu, và giữ đúng niệm tinh khôi là trái đất đang không ngừng tiến gần hơn sự hiển thị vương quốc Thượng đế.

Khi con nhìn một phụ nữ đang sinh nở, thấy cô ấy trải qua nhiều cơn đau dồn dập đợt này đến đợt kia, con có thể quá lo lắng bấn loạn và quên rằng cô ấy chỉ đang trải qua những cơn đau tạm thời để cho ra đời một hài nhi mới xinh đẹp. Thày cần những người chịu nhìn vào Mẹ Trái đất và thấy là dù mẹ đang trải qua nhiều cơn đau và tai ương, chúng chỉ đơn giản là những cơn đau đẻ dọn đường cho một thời đại mới tốt đẹp hơn, một thời đại hoàng kim. Thày không nói là Thượng đế muốn những tai ương này; thày chỉ đơn giản nói là nhân loại có vẻ không sẵn sàng tỉnh thức nếu chưa cảm thấy trái đất rung chuyển dưới chân họ.

13.9.  Luôn luôn đáp trả bằng tình thương

Để có thể giữ đúng niệm tinh khôi, con phải sẵn sàng nhìn quá những bất toàn bên ngoài. Muốn nhất quán làm được điều này cần phải biết một chân lý rất quan trọng. Nhiều người tâm linh có cảm hứng từ hình ảnh không thể lấy bóng tối ra khỏi một căn phòng. Con hãy tưởng tượng có một căn phòng hoàn toàn chìm trong bóng tối. Con không thể mang bóng tối ra ngoài để vứt nó đi. Bóng tối không có thể chất và ta không thể loại bỏ hay tiêu diệt cái không có thể chất. Tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô không có thực tại. Nó thật sự không có thực chất, nó không là gì cả mà chỉ là sự vắng mặt của ánh sáng, vắng mặt của sự thật Ki-tô. Hiện nay hành tinh trái đất thiếu vắng ánh sáng trong khi ánh sáng có mặt trong toàn vũ trụ vật chất. Đáng lý đây chỉ là một hoàn cảnh tạm thời sẽ được mau chóng khắc phục khi càng ngày càng nhiều người cho phép ánh sáng Thượng đế tỏa rạng xuyên qua bản thể họ. Chuyện đã xảy ra trên trái đất là ông hoàng thế gian đã thành công trong việc khiến hầu hết con người tin vào lời dối trá là sự thiếu vắng ánh sáng là tình trạng thường trực hay không tránh được. Đó là chứng cớ giả hiệu là Thượng đế không có mặt ở đây, Thượng đế không muốn có mặt ở đây và Thượng đế không quan tâm tới con người. Thậm chí có người còn tin rằng tình trạng thiếu ánh sáng chứng tỏ Thượng đế không hiện hữu.

Suốt dòng lịch sử nhiều người đã bị vướng kẹt trong cuộc chiến chống lại xấu ác. Họ bị mắc kẹt trong niềm tin là để loại bỏ xấu ác, họ phải tiêu diệt nó và những biểu hiện của nó trên trái đất. Trong hầu hết trường hợp, họ nhận diện một nhóm người nào đó là nguyên nhân của xấu ác và như vậy họ rơi vào tròng của lời dối trá khác của quỷ là nếu họ giết hết những người thuộc về chủng tộc đó, quốc gia đó hay tôn giáo đó, họ sẽ loại bỏ được xấu ác khỏi hành tinh. Đây là lời dối trá nói rằng làm ác để đem lại thiện là điều chính đáng. Đây quả thực là một lời dối trá của quỷ bởi vì, như thày đã nói, con không thể loại bỏ cái gì không có thực chất. Nếu con hành động xấu ác để loại bỏ xấu ác, con chỉ tăng thêm bóng tối, tăng thêm năng lượng tha hóa, và như vậy con nuôi béo các lực xấu ác.

Con hãy để thày cho con một sự phân biệt vi tế khác. Bản chất của bóng tối là không có thực chất. Tâm thức nhị nguyên không có thực chất hay thực tại và nó chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi các sinh thể tự nhận biết còn cho phép nó tồn tại trong tâm họ, trong quả cầu cái ta của họ. Trên hành tinh trái đất, con có một hiện tượng tăng cường uy lực của bóng tối và hiện tượng này là những năng lượng tha hóa mà nhân loại đã tạo ra qua các thời đại. Đây là một chất liệu tạm bợ mà những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô có thể dùng để gia tăng tầm kiểm soát trên con người. Trước đây thày gọi nó là năng lượng tâm lý bị tha hóa. Bóng tối, nghĩa là cái không thật của tâm thức phản Ki-tô, không có thực chất, không có thực tại và quả thực tự nó không làm gì được cả. Một khi các sinh thể tự nhận biết bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, thì họ có thể dùng năng lượng tâm lý bị tha hóa để có uy lực trên người khác.

Vì năng lượng tha hóa này có thể chất, ta có thể loại bỏ năng lượng tha hóa và qua đó giảm sức mạnh các lực bóng tối. Con không thể khắc phục năng lượng tha hóa bằng cách gỡ bỏ hay tiêu diệt nó. Một khi năng lượng đã được đem vào cõi vật chất, con không thể làm cho nó biến mất, con không thể chuyển nó thành hư vô. Cách duy nhất khắc phục năng lượng tha hóa là chuyển hóa nó trở lại trạng thái thuần khiết bằng cách thấm đẫm nó với ánh sáng có tần số cao để nâng cao độ rung của nó lên, và áp chồng viễn kiến thuần khiết của tâm Ki-tô để phú cho nó một hình tướng toàn hảo hơn.

Nếu con cho phép mình bị lôi kéo vào một xung đột với người khác và nghĩ con phải giết người khác nhân danh Thượng đế, thì con chỉ tha hóa thêm năng lượng và qua đó thêm vào tổng số năng lượng tha hóa mà các lực bóng tối sử dụng. Con không thể đánh nhau với bóng tối bằng cảm xúc tiêu cực hay hành động vi phạm luật tình thương của Thượng đế. Con chỉ gia tăng thêm bóng tối, qua đó con bị bao trùm nhiều hơn trong bóng tối và gia tăng lực bóng tối của toàn hành tinh. Năng lượng tha hóa tối hậu không có thật. Nó không thể hiện hữu mãi mãi vì lực co lại của Mẹ rốt cuộc sẽ làm cho mọi cấu trúc làm bằng năng lượng tha hóa tự tiêu hủy. Những điều kiện bất toàn làm bằng năng lượng tha hóa cũng không thực. Con không thể loại bỏ các điều kiện bất toàn khỏi trái đất. Con không thể đơn giản chụp lấy chúng và ném chúng vào một lỗ đen để làm chúng biến mất. Chìa khóa thật để gỡ bỏ bóng tối khỏi trái đất là thấm đẫm nó với ánh sáng, thấm đẫm nó với tình thương, để bóng tối thăng vượt tình trạng giới hạn hiện hành và trở nên hơn nữa.

Nhiều người nhìn vào những bất toàn trên trái đất và bị xao động. Họ nổi giận và cảm thấy họ phải làm gì đó để thay đổi tình trạng, để đánh nhau với bóng tối. Khi con còn bị thúc đẩy bởi sợ hãi hay giận dữ, thì bất cứ gì con làm cũng chỉ tha hóa thêm năng lượng và do đó tăng cường lực của bóng tối. Khi con ở trong trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi, giận dữ, thù hận, kiêu mạn hay cảm xúc tiêu cực khác, con cho phép một số điều kiện ngưng dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con.

Điều này thật hiển nhiên khi nhìn một người đang nổi giận. Người ấy có biểu hiện tình thương nào chăng? Lẽ dĩ nhiên là không! Người ấy nói rằng vì ai đó đã làm điều gì sai nên nổi giận là chính đáng và do đó người ấy không đáp trả hoàn cảnh với tình thương. Những người ấy đang nói là nếu ai đó làm điều gì sai trái với họ, họ phải khóa lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua họ và phản ứng với cảm xúc tiêu cực thay vì phản ứng với tình thương.  Chẳng phải là Giê-su bảo con thương yêu kẻ thù của con và chìa má bên kia? Trong tất cả những giáo lý của Giê-su, thày đã tìm cách đưa ra một thông điệp giản dị. Thông điệp cốt lõi mà Giê-su đưa ra là: “Dù chuyện gì xảy ra chăng nữa, dù người khác làm gì chăng nữa với con, dù cuộc đời ném vào mặt con hoàn cảnh gì chăng nữa, con hãy luôn luôn đáp trả bằng tình thương!” Tình thương mà con dùng để đáp trả là tình thương thiêng liêng không chấp nhận bất kỳ bất toàn nào là thật tối hậu hay vĩnh viễn. Con cho phép tình thương Thượng đế chảy xuyên qua bản thể của con và thấm đẫm các điều kiện bất toàn qua đó các điều kiện này sẽ thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa.

Hầu hết mọi người bị mắc kẹt trong một mô thức phản ứng. Ai đó làm hại họ và họ nổi giận với người đó. Giờ đây họ đi vào tâm thái bị chi phối bởi phản ứng chạy hay đánh. Trước tiên họ cố gắng chạy xa người kia, chạy trốn vấn đề. Nếu không làm được, họ tìm cách trả thù hay họ muốn người kia bị trừng phạt. Điều họ làm khi đi vào trạng thái tâm thức này là họ buông bỏ niệm tinh khôi. Họ chấp nhận một hình ảnh bất toàn, một viễn kiến bất toàn về người kia. Họ chấp nhận viễn kiến này là thường trực và họ nói người kia là người xấu. Làm vậy chỉ thêm vào gánh nặng của người kia và thêm vào kho năng lượng tha hóa đang bao phủ hành tinh như một đám mây đen. Qua năng lượng họ tha hóa do viễn kiến bất toàn và cảm xúc tiêu cực của họ, họ củng cố hình ảnh bất toàn về người kia khiến người kia càng khó thoát khỏi hình ảnh bất toàn đó. Đây chính là lý do tại sao rất nhiều xung đột giữa con người đã chuyển thành những vòng xoáy tiêu cực tự củng cố mà không ai có đủ uy lực để ngưng lại. Lý do tại sao con người không có uy lực để ngưng những vòng xoáy đó là vì họ không sẵn sàng dùng chìa khóa mà Giê-su cho họ, là ngưng củng cố vòng xoáy đi xuống bằng cách chìa má bên kia (Matthew 5:39). Chỉ khi một người quyết định tha thứ thay vì tìm cách trả thù (Matthew 18:22) thì vòng xoáy bạo lực, chống trả bằng bạo lực, và chống trả bằng bạo lực sự chống trả bằng bạo lực mới phá tan được.

Không một sinh thể tự nhận biết nào được Thượng đế sinh tạo là một sinh thể tự bản chất xấu hay xấu ác. Tất cả được sinh tạo trong niệm tinh khôi và có tiềm năng quay trở về thực tại cao hơn này. Tất cả những người vi phạm quy luật tình thương đã làm thế vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con muốn trừng phạt hay tiêu diệt một người như thế, thì con thật sự rơi vào bẫy của cùng trạng thái tâm thức đã khiến người đó làm bất cứ điều gì đó với con. Thay vào đó con phải giữ niệm tinh khôi về người đó và chính con. Con phải làm mọi chuyện có thể làm để giữ mình không phản ứng lại hoàn cảnh một cách nhị nguyên. Con phải giữ viễn kiến là người kia sẽ vượt thăng tin tưởng bất toàn của vị ấy và một lần nữa khám phá ra bản sắc thật là một sinh thể tâm linh được tự do của Thượng đế.

Nhiều người đã gánh chịu những sự tàn bạo lớn lao từ tay người khác. Thày biết rất khó kéo mình ra khỏi những cảm xúc tiêu cực nảy sinh từ những trải nghiệm như thế. Cách duy nhất để con giải thoát mình khỏi những sự cố tiêu cực như thế là nâng mình lên trên tâm thức nhị nguyên muốn lấy mắt trả mắt, lấy răng trả răng. Chỉ khi nào con tập trung tất cả chú ý của mình để nâng cao cả mình và người khác, thì con mới thật sự có thể giải thóat mình và thị hiện đời sống dồi dào hơn.

Giê-su tới trái đất 2,000 năm trước để giúp nhân loại vươn lên trên tâm thức muốn lấy mắt trả mắt. Nếu giáo lý của thày đã được mọi người thể nhập, thì vương quốc Thượng đế đã được thị hiện trên trái đất. Bây giờ vẫn chưa muộn, nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra trừ khi những người có nhận biết tâm linh cao nhất hết lòng nỗ lực giải thoát họ khỏi tâm thức nhị nguyên.

13.10. Vượt thăng ngã hữu diệt

Điều thày cần con làm là thay đổi một cách cơ bản cách con nhìn đời và tiếp cận đời. Thày cần con xem ưu tiên lớn nhất trong đời con là giữ đúng niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi. Thày rất biết là ở điểm này có thể con chưa có viễn kiến tối hậu được lưu trữ trong Hiện diện TA LÀ của con và trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Vì con đang theo khóa học này, nên con có một viễn kiến cao hơn, tâm linh hơn rất nhiều so với đại đa số con người trên hành tinh này. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có, và bất kỳ chuyện gì xảy ra ở bên ngoài, trong cuộc sống cá nhân của con hay ở tầm mức hành tinh, thày cần con luôn luôn tập trung chú ý vào viễn kiến cao nhất có thể có. Thày cần con không bao giờ đi xuống thấp hơn viễn kiến này và chấp nhận rằng bất toàn tối hậu có thật hay không thể thay đổi. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có trong khi liên tục tìm cách đạt một viễn kiến cao và rõ hơn bằng cách đi vào bên trong. Con làm vậy bằng cách xin cái Ta Ki-tô và các thày tâm linh của con hướng dẫn con tới viễn kiến cao hơn. Thày cần con liên tục vượt thăng chính mình và liên tục hình dung người khác, hoàn cảnh bên ngoài và toàn thể hành tinh đang thăng vượt và trở nên hơn nữa.

Làm sao con loại bóng tối khỏi trái đất? Con loại bỏ bằng cách yêu nó với tình thương thiêng liêng qua đó bóng tối trở nên hơn nữa, vượt thăng chính nó, chuyển hóa thành ánh sáng Thượng đế và viễn kiến Ki-tô. Thày không nói là con thực sự yêu bóng tối nhưng con yêu Ánh sáng Mẹ đang bị kẹt trong một khuôn đúc không toàn hảo. Con yêu ánh sáng với một lực mạnh tới độ con giải phóng nó khỏi hình tướng bất toàn và biến nó trở về Ánh sáng Mẹ tinh khiết. Thày không nói ở đây tới ánh sáng giả, thậm chí có thể cho Satan dáng vẻ bề ngoài của một thiên thần ánh sáng (2Corinthians 11:14). Thày không nói tới sự giả dối của các thày thông giáo và người Pha-ri-si nghĩ họ thánh thiện hơn người khác vì những điều kiện bên ngoài. Thày nói tới ánh sáng chân chính thấy quá mọi điều kiện vật chất và quá toàn bộ ảo tưởng nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên tạo dựng hai đối cực tốt tương đối và xấu tương đối. Có nhiều điều kiện trên trái đất có vẻ tốt nhưng chúng chỉ tốt tương đối. Chúng không phải là cái tốt không chia cắt của tâm Ki-tô. Thày cần con mài sắc phân biện của con để con thấy quá những vẻ bề ngoài của cả tốt tương đối và xấu tương đối, thậm chí nhìn quá lời dối trá của xấu ác tuyệt đối. Thày cần con giữ đúng niệm tinh khôi và liên tục cố gắng đạt một viễn kiến cao hơn bằng cách khoác vào tâm Ki-tô.

Một quy tắc chung cho hành xử bên ngoài của con là con theo lời khuyên của Giê-su hãy thương yêu mọi sự với tình thương thiêng liêng. Khi con gặp bất kỳ tình huống nào, thì con hãy tự đặt câu hỏi: “Phản ứng của tôi trước hoàn cảnh này có dựa trên viễn kiến cao nhất của tình thương mà tôi hiện có hay không?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có đang tìm cách làm cho hoàn cảnh này tốt hơn, giúp nó trở nên hơn nữa, hay tôi đã rơi vào tròng xác nhận trạng thái bất toàn hiện hành không thay đổi được?” Nếu con muốn một quy tắc để đối phó với người khác và ngoại cảnh, thày có thể cho con một hướng dẫn rất giản dị: con hãy ban phước lành cho tất cả mọi sự. Con hãy ban phước lành cho mọi sự bằng cách cho phép chính lực của sự sống, tức là tình thương vô điều kiện của Thượng đế – mà nhiều người Cơ đốc gọi là Thánh Linh – tuôn chảy qua bản thể con. Ban phước lành cho điều gì có nghĩa là con tìm cách làm cho nó tốt hơn, chuyển hóa nó, giúp nó trở nên hơn nữa, gia tốc nó và giúp nó thăng vượt sự bất toàn hiện hành của nó. Con hãy ban phước lành cho mọi người và mọi sự theo khả năng tốt nhất của viễn kiến hiện hành của con. Sau đó con hãy luôn luôn ban phước lành cho chính mình để con có thể nâng cao viễn kiến của con.

Con hãy để thày gom lại những gì chúng ta vừa thảo luận với điều thày đã đề cập trước đây. Nguyên lý cốt lõi ở đây là con không tìm cách tiêu diệt cái xấu nhưng con biến hóa nó thành cái tốt hơn. Trước đây thày có giảng cặn kẽ nhu cầu để cho ý niệm ngã hữu diệt của con chết đi. Thày biết hai lời dạy này có vẻ mâu thuẫn, vậy con hãy để thày giúp con vượt lên trên cái nhìn nhị nguyên phóng chiếu mâu thuẫn nơi không có mâu thuẫn. Thày vừa nói tới hai dạng bóng tối, bóng tối có thể chất và bóng tối không có thể chất. Nếu chúng ta muốn thực sự đầy đủ thì chúng ta có thể nói có ba dạng bóng tối:

  • Có bóng tối nguyên thủy hiện hữu trong cái trống không. Nó không xấu ác và không đối nghịch ánh sáng của đấng Sáng tạo. Nó đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng của đấng Sáng tạo và sẽ sẵn sàng để được thay thế bằng ánh sáng. Con không cần quan ngại bóng tối này vì nó không tích cực chống lại sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.
  • Có bóng tối mà thày gọi là tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô. Bóng tối này không thụ động vì nó sinh ra từ một hành động ý chí hay đúng hơn một hành động phản ý chí, nổi loạn chống lại ý chí của đấng Sáng tạo. Bóng tối này tối hậu không thật và không có thực chất, thày muốn nói là nó không có hiện hữu vật chất. Nó chỉ hiện hữu trong tâm những sinh thể tự nhận biết và chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi những sinh thể này chọn thấy nó là thật. Đây là loại bóng tối chống lại sự tăng trưởng của con từ bên trong tâm con và thậm chí qua trung gian người khác. Nó tìm cách làm chủ và kiểm soát tâm con qua các ảo tưởng và lời dối trá nhị nguyên.
  • Dạng bóng tối đó đã tạo nên ngã hữu diệt của con và nó đã tạo ra một hình ảnh giả về thế giới, một hình tượng khô chết, một thần tượng. Hình ảnh giả này đã sản sinh ngã hữu diệt của con, ý niệm bản sắc con là một sinh thể hữu diệt, giới hạn và bất toàn. Nếu con tích cực đánh nhau với dạng bóng tối này và tìm cách phá hủy nó hay triệt tiêu nó, thì con sẽ không tránh bị bao trùm nhiều hơn bởi tâm thức nhị nguyên. Con sẽ tha hóa năng lượng, tạo nghiệp và phóng chiếu hình ảnh bất toàn vào tấm gương vũ trụ. Con không bao giờ có thể thật sự phá hủy hay triệt tiêu dạng bóng tối này và đó là lý do tại sao Giê-su bảo con đừng chống cự lại xấu ác (Matthew 5:39).
  • Cách duy nhất để khắc phục dạng bóng tối này là thăng vượt nó, vươn lên trên nó, từ chối không chấp nhận nó thật, qua đó con chỉ giản dị bỏ nó lại đằng sau. Đó là lý do tại sao con phải cho phép ý niệm bản sắc hữu diệt của con chết đi. Khi ngã hữu diệt này chết, tâm thức phản Ki-tô, ông hoàng thế gian, sẽ không tìm thấy gì trong con (John 14:30) qua đó y có thể kiểm soát, ép uổng hay cám dỗ con có phản ứng nhị nguyên trước những điều kiện bất toàn. Để có thể làm được điều này một cách đầy đủ, con cần nhận ra nhiều điều kiện nhị nguyên là tha hóa của sự thật Ki-tô. Để có thể cho phép ý niệm bản sắc nhị nguyên hoàn toàn chết đi, con cần nhìn quá nó và nắm bắt bản sắc thật của con. Con không thể hiện hữu trong hư không cho nên con phải nhìn thấy bản sắc thật của con trước khi buông bỏ bản sắc hữu diệt. Chúng ta có thể nói con khắc phục dạng xấu ác dựa trên một lời dối trá này bằng cách thay thế nó với sự thật Ki-tô. Con có thể để cho ý niệm cái ta hữu diệt chết đi và tái sinh trong bản sắc tâm linh thật của con. Dạng bóng tối này giống như một cuộn phim với hình ảnh bất toàn hiện hữu trong tâm những sinh thể có tự nhận biết. Cách duy nhất để khắc phục nó là thay thế nó bằng một cuộn phim khác dựa trên viễn kiến Ki-tô, niệm tinh khôi.
  • Dạng bóng tối thứ ba là cái mà thày gọi là năng lượng tha hóa và nó được tạo ra khi lấy Ánh sáng Mẹ tinh khiết và hạ độ rung của ánh sáng bằng cách áp chồng một hình ảnh và cảm xúc nhị nguyên lên trên ánh sáng. Bóng tối này có thực chất vật chất vì nó được làm từ Ánh sáng Mẹ. Chúng ta có thể nói tâm thức nhị nguyên chỉ hiện hữu trong tâm những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết và do đó nó không có cái mà các nhà khoa học gọi là một sự hiện hữu khách quan, một sự hiện hữu độc lập với tâm. Ánh sáng Mẹ được đấng Sáng tạo sinh tạo và một khi được hạ thấp độ rung nó có một sự hiện hữu khách quan, nghĩa là nó có thể hiện hữu độc lập với tâm của những người đồng-sáng tạo.
  • Ánh sáng Mẹ bị tha hóa không thể thanh tẩy bằng cách làm ngơ. Nó không giản dị chết đi khi con thăng vượt những ảo tưởng phản Ki-tô. Nó chỉ được trong lọc khi con thay thế những hình tướng bất toàn của nó với viễn kiến toàn hảo, viễn kiến không nhị nguyên của tâm Ki-tô. Đây là điều thày gọi là thuật giả kim tâm linh và các bài thỉnh của thày được thiết kế để giúp con cầu thỉnh năng lượng có tần số cao sẽ nâng độ rung của năng lượng tha hóa. Các bài thỉnh này cũng được thiết kế để giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đang ngăn cản con cho ngã hữu diệt chết đi. Các bài thỉnh này có hai chức năng là giúp con khắc phục hai dạng bóng tối ngăn cản con là dưới này tất cả những gì con đã là Trên Kia. Để khắc phục dạng bóng tối này, con phải chuyển hóa nó thành dạng cao hơn.

Con hãy để thày áp dụng các lời giảng trên đây vào lòng ích kỷ. Ta có thể nói vấn đề duy nhất trên trái đất là lòng ích kỷ, tức là các người đồng-sáng tạo với Thượng đế đã quên mất bản sắc thật của họ và đã tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt, từ đó họ hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng. Làm sao con thoát khỏi lòng ích kỷ? Con thoát ra bằng cách chuyển biến các năng lượng tha hóa lôi kéo con vào những khuôn nếp suy nghĩ, cảm xúc và hành động vị kỷ. Con thoát ra bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã có sự chú trọng rất eo hẹp. Khi con biến hóa các năng lượng tha hóa, con có thể mở rộng viễn kiến về cái ta của con.

Thật sự là có một dạng ích kỷ thiêng liêng, tuy gọi nó là quyết tâm thì đúng hơn. Dạng thiêng liêng tương đương với ích kỷ là lòng quyết tâm không khoan nhượng không cho phép bất cứ gì ngăn cản con thực thi sứ vụ thiêng liêng của con. Đây là một đặc tính rất cần thiết và thiếu nó thì không thể có tiến bộ trên trái đất vì lực phản ý chí của tâm thức nhị nguyên sẽ khống chế mọi nỗ lực thay đổi, kéo tất cả mọi người xuống mẫu số chung thấp nhất.

Chìa khóa thật để khắc phục lòng ích kỷ là nới rộng ý niệm cái ta, thăng vượt ý niệm cái ta của con. Con bắt đầu bằng giành lại sự nối kết cá nhân, nội tại với cái ta cao của con. Con thấy con hơn thân thể, hơn ngã hữu diệt, thậm chí hơn bốn thể phàm. Sau đó con lên một tầng nữa và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo. Từ đó, con đi tới tầng cuối và thấy là mọi người mọi sự đều được tạo ra từ Sinh thể đấng Sáng tạo. Ý niệm cái ta tối hậu của con bao gồm tất cả mọi người và mọi sự. Khi con đã thiết lập ý niệm cái ta đúng này, con hoàn toàn khắc phục dạng ích kỷ nhân phàm, nhị nguyên. Con không triệt tiêu hay phá hủy nó, con chuyển hóa nó thành dạng thiêng liêng tương đương. Để làm được điều này, con phải buông bỏ ý niệm cái ta dựa trên ích kỷ nhân phàm, con phải sẵn sàng cho cái ta này chết đi.

13.11. Là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ

Mọi thứ trong vũ trụ vật chất được làm từ Ánh sáng Mẹ. Ánh sáng Mẹ tự nó không thể khoác lên hình tướng nhưng cần một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó. Tất cả con người trên trái đất đang liên tục tác động lên Ánh sáng Mẹ qua khả năng sáng tạo mà Thượng đế phú cho họ, là quyền tự quyết và trí tưởng tượng. Với quyền năng của trí tưởng tượng, họ hình dung những hình ảnh bất toàn, nhị nguyên. Với quyền tự quyết, họ chọn chấp nhận những hình ảnh này là thật và không tránh được. Với quyền năng của viễn kiến, họ áp đặt các hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao hiện nay hành tinh trái đất có quá nhiều điều kiện bất toàn hầu như không hiểu nổi. Để thay đổi tình trạng đấu tranh và đau khổ hiện hành cần có một nhóm người đứng ra đảm nhận vai trò bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Những người này nhận ra mọi sự đều được làm từ Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi điều kiện bất toàn trên hành tinh này được tạo ra vì hình ảnh nhị nguyên được phóng chiếu lên màn hình của Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi sự chỉ thay đổi khi một lượng người tới hạn dùng khả năng sáng tạo của họ để áp chồng một hình ảnh cao hơn, dựa trên Ki-tô, lên Ánh sáng Mẹ, qua đó biến hóa một hành tinh bất toàn thành vương quốc Thượng đế. Đây quả thực là uy lực của thuật hóa kim tâm linh chân chính.

Có thể con đã nghe tới các nhà hóa kim và sự thất bại của họ trong nỗ lực hóa chì thành vàng. Có thể người ta da cho con một cái nhìn khinh miệt về những nhà hóa kim này và đúng vậy nhiều nhà hóa kim người bịp bợm. Tuy nhiên, đằng sau phong trào thường được biết đến là thuật hóa kim là một hiểu biết sâu xa hơn về thực tại đời sống. Một số người đã hiểu rằng có một thuật hóa kim tâm linh không tìm cách biến kim loại thường thành vàng nhưng tìm cách biến “kim loại thường” của tâm thức nhân phàm, tâm thức nhị nguyên thành chất vàng tâm linh của tâm thức Ki-tô. Con không tìm cách loại bỏ cái gì bất toàn, đen tối hay xấu ác. Con tìm cách biến hóa nó thành cái gì hơn nữa, gần viễn kiến Ki-tô hơn. Con lấy cái thấp hơn và biến hóa nó thành cái cao hơn. Thay vì tìm cách tiêu hủy cái thấp hơn, con tìm cách làm cho nó tốt hơn, giúp nó tự thăng vượt và trải bày viễn kiến toàn hảo của Ki-tô. Điều này đặc biệt quan trọng khi đối xử với người khác. Một người chỉ hành xử xấu ác vì họ bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Đằng sau dáng vẻ bề ngoài là cái ta ý thức của người đó được tạo ra trong niệm tinh khôi và khao khát được tự do để biểu hiện viễn kiến đó. Con không yêu dáng vẻ bề ngoài, cái ngã hữu diệt, nhưng con cũng không tìm cách tiêu diệt nó. Con nhìn xuyên thấu nó và tìm cách giải phóng cái ta ý thức để nó được là cái nó thật là.

Có một sự khác biệt cơ yếu giữa tìm cách tiêu diệt một bất toàn và tìm cách biến đổi bất toàn đó thành toàn hảo. Nếu con thấy sự khác biệt thì con thực là một trong những người tiên phong trong những sinh thể tâm linh tới trái đất để thị hiện vương quốc Thượng đế. Con ở trong vị trí độc đáo để nắm lấy vai trò chính đáng là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ.

Ánh sáng Mẹ có sự thông minh, có nhận biết. Ánh sáng Mẹ biết rất rõ nó đang không biểu hiện sự toàn hảo của Thượng đế. Ánh sáng Mẹ có thể thấy viễn kiến cao nhất, tiềm năng cao nhất của hành tinh trái đất và không yêu thích gì hơn là biểu hiện tiềm năng đó dưới dạng những điều kiện vật lý toàn hảo. Ánh sáng Mẹ đã nguyện nhận lãnh vai trò cho phép các người đồng-sáng tạo của Thượng đế, là những sinh thể có tự nhận biết mà Thượng đế đã sinh tạo, làm bất cứ gì họ muốn với Ánh sáng Mẹ. Trong thương yêu, Ánh sáng Mẹ đã nguyện sẽ biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào mà các sinh thể tự nhận biết phóng chiếu lên nó, qua đó những người đồng-sáng tạo có cơ hội học từ chính những chọn lựa của họ, học bằng cách thấy những hậu quả của chọn lựa của họ trải bày trong vật chất. Đây quả thực là một hành động thương yêu vô điều kiện vì Ánh sáng Mẹ biết tiềm năng cao nhất của trái đất nhưng vẫn cho phép con người tạo ra những điều kiện bất toàn rất xa tiềm năng cao nhất. Nếu đây không phải là tình thương vô điều kiện thì thày không biết tình thương ấy là gì. Ánh sáng Mẹ không yêu thích gì hơn được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn hiện hành và thay vào đó nhận sự phóng chiếu của những hình ảnh toàn hảo của tâm Ki-tô. Ánh sáng Mẹ muốn biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Ánh sáng Mẹ muốn tuân theo ý chí của đấng Cha và viễn kiến của đấng Con.

Toàn thể vũ trụ vật chất được tạo ra từ hai yếu tố cơ bản là lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ. Lực lan ra của Cha là tình thương vô điều kiện của Thượng đế muốn mọi sự tự thăng vượt. Lực co lại khiến một hình tướng có thể hiện hữu trong thời gian và không gian. Lực co lại cũng có động cơ của tình thương vô điều kiện, đó là lý do vì sao nó không cho phép một sinh thể tự nhận biết bị giam cầm mãi mãi trong một ý niệm cái ta bất toàn. Để một tạo vật được tồn tại, lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ phải được cân bằng qua viễn kiến của đấng Con, là tâm Ki-tô Hoàn vũ và tâm Ki-tô cá nhân của các người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Nếu hành tinh trái đất thị hiện được vương quốc Thượng đế, thì điều này chỉ xảy ra khi viễn kiến toàn hảo được giữ trong tâm Ki-tô được áp chồng lên Ánh sáng Mẹ. Viễn kiến này chỉ được áp chồng lên khi một số tới hạn người đang hiện thân tỉnh thức nhận ra bản sắc thật của họ và vai trò thật của họ. Nó chỉ xảy ra khi những người này quyết định là những sinh thể Ki-tô trên trái đất, biểu đạt tâm thức Ki-tô và qua tâm thức Ki-tô này phóng chiếu những hình ảnh toàn hảo của vương quốc Thượng đế lên Ánh sáng Mẹ, những hình ảnh sẽ tạo nên hành tinh trái đất.

Đây là ý nghĩa thật của người Con của Thượng đế, người con duy nhất sinh ra từ Cha. Đó là lý do tại sao Giê-su nói nếu con tin thày, đến độ sẵn sàng đi theo bước chân thày và thị hiện tâm thức Ki-tô, thì con có thể làm những công việc thày đã làm (John 14:12). Con cũng có thể trở thành người con trai hay con gái của Thượng đế, hoàn thành vai trò chính đáng của con trên hành tinh này. Khi một số tới hạn con người bắt đầu bảo hộ Ánh sáng Mẹ, hành tinh này sẽ thật sự thị hiện thời hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng mà hầu hết con người không thể tưởng tượng được trong trạng thái tâm thức hiện nay của họ. Họ sẽ tức khắc chối bỏ như một huyễn tưởng hoàn toàn, một xã hội không tưởng không thể xảy ra. Xã hội đó có thể xảy ra, nhưng nó chỉ có thể xảy ra khi con người bắt đầu chấp nhận nó, khi họ thấy được viễn kiến và chấp nhận viễn kiến đó là một tiềm năng rất thực. Thậm chí con còn phải thăng vượt điểm chấp nhận nó là một tiềm năng và bắt đầu dùng uy lực ý chí, tưởng tượng và viễn kiến của con để xác nhận nó là một thực tại.

Thày cần tất cả những người bảo hộ Ánh sáng Mẹ dùng uy lực viễn kiến của họ để cho phép con mắt họ đơn nhất, để họ không cho phép viễn kiến của họ bị kéo vào bất kỳ hình ảnh nhị nguyên nào do ông hoàng thế gian tạo ra. Con hoàn toàn tập trung mắt con vào viễn kiến Ki-tô, và con cần thấy viễn kiến này được áp chồng lên tất cả điều kiện bên ngoài. Thày cần con thấy điều kiện bên ngoài là tạm bợ và không thật và sau đó thấy chúng được thay thế bằng viễn kiến Ki-tô.

Thày không nói là con cần làm ngơ các bất toàn. Thày đã bỏ nhiều sức để giải thích nhu cầu ngừng chạy trốn trách nhiệm của mình. Thày cần con nhìn nhận những bất toàn hiện hành và thày cần con hiểu chúng phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Con không bao giờ cho phép mình thấy chúng là thật, trường tồn hay không thể thay đổi. Con thấy chúng là tạm bợ, là những ảo giác không thực được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẹ và sau đó con nhìn quá chúng. Con thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết là thực tại bên dưới mọi biểu hiện bên ngoài, và sau đó con thấy thực tại tối hậu là Ánh sáng Mẹ có tiềm năng biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó giống như màn ảnh chiếu phim sẽ phản ánh bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó qua cuộn phim. Con hình dung là Ánh sáng Mẹ có thể nhanh chóng, đúng hơn là ngay tức khắc, ngưng  biểu hiện một viễn kiến bất toàn và bắt đầu biểu hiện một viễn kiến toàn hảo hơn. Sau đó con có thể dùng uy lực viễn kiến của con để hình dung điều kiện bất toàn biến đổi như thế nào và trở nên toàn hảo hơn.

Có một sự khác biệt cơ yếu giữa chạy trốn bất toàn và qua đó cho phép chúng tiếp tục hiện hữu, và nhìn nhận có bất toàn nhưng xem chúng là tạm bợ và không thực rồi qua đó phóng chiếu một hình ảnh thực lên Ánh sáng Mẹ. Đây là sự khác biệt giữa những người nghĩ họ tâm linh, nhưng chưa đem tâm linh vào cõi vật chất và những người thực sự tâm linh và nhìn nhận họ có mặt ở đây để cai quản trái đất bằng cách thấy Thượng đế đằng sau mọi sự và thấy viễn kiến toàn hảo của Thượng đế biểu hiện trong mọi sự. Thách đố của thày với con là:

  • Luôn luôn giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con hiện thấy được.
  • Liên tục nỗ lực mở rộng tầm nhìn của con để con có thể nắm bắt một viễn kiến cao hơn ngày mai so với hôm nay.
  • Không bao giờ cho phép mình bị kẹt trong một thái độ hay hệ thống niềm tin khiến con nghĩ mình có viễn kiến cao nhất hay chân lý tâm linh hay hiểu biết cao nhất.
  • Luôn luôn tiếp tục vượt thăng chính mình và vượt thăng viễn kiến của mình về vương quốc Thượng đế.

Khi nào thì con ngưng tìm cách thăng vượt chính mình và viễn kiến của mình? Giản dị lắm, đó là khi con thấy Thượng đế trong mọi sự, khi con thấy Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi biểu hiện bên ngoài, dù chúng bất toàn đến đâu chăng nữa, và khi con thấy vương quốc Thượng đế biểu hiện trong mỗi hoàn cảnh mà con gặp. Con sẽ không bao giờ ngưng thăng vượt chính mình vì Thượng đế liên tục thăng vượt chính ngài, đấng Sáng tạo của con lúc nào cũng đang thăng vượt chính ngài và trở nên hơn nữa. Khi con ở trong Dòng sông sự Sống, thì con đang liên tục thăng vượt viễn kiến của con. Đây đúng là đời sống dồi dào thực, nghĩa là con luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa. Dồi dào không phải là một trạng thái đứng yên sở hữu một số tiền hay của cải vật chất. Dồi dào là một trạng thái sống động, năng động, luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa.

Ôi con yêu dấu, đây là đời sống dồi dào và đấng Cha hoan hỷ cho con đời sống dồi dào. Thày cũng hoan hỷ cho con những giáo lý này trong đó quả thực có những chìa khóa con cần để thị hiện đời sống dồi dào nếu con sẵn sàng thể nhập lời dạy của thày và áp dụng chúng trong mọi khía cạnh đời sống của con. Thày đã cho con những gì con cần, giờ đây thách đố là áp dụng chúng, trở thành chúng. Con sẽ lấy chìa khóa chăng, con sẽ để nó vào ổ khóa chăng, con sẽ quay chìa khóa cho tới khi con nghe tiếng “tách” nghĩa là chân lý đã  khớp vào tâm con chăng? Con sẽ cho phép bóng đèn bật lên trong tâm con chăng để cuối cùng con thấy là cánh cửa nhà tù của ngã hữu diệt của con chưa bao giờ bị khóa. Con có thể xô cánh cửa đó mở toang và bước ra khỏi nhà tù và bước vào ánh sáng mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con.

Khi con bước ra khỏi nhà tù đó, thày sẽ có đó để đón tiếp con. Cái Ta Ki-tô của con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày tâm linh của riêng con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày sẽ ôm con trong vòng tay và sẽ chia sẻ một giây phút, một khoảnh khắc hoàn vũ, hợp nhất với con. Trong sự hợp nhất giữa chúng ta này, chúng ta là một với mọi sự sống và là một với đấng Sáng tạo của chúng ta. Trong hợp nhất này chúng ta sẽ khám phá một sự dồi dào vượt quá bất cứ gì có thể tìm thấy trên trái đất, bất cứ gì mà tâm thức nhị nguyên có thể tưởng tượng hay mô tả bằng từ ngữ. Chúng ta sẽ biết sự dồi dào thật sự chỉ được biết qua tâm Ki-tô. Thày ngưng ở đây và tặng con câu: “Khi con thấy mọi sự sống là một, con sẽ được chiến thắng của con.”

11 | Tìm ra tự do cảm xúc

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 25/4/2005.

11.1. Cảm xúc tạo động lượng và định hướng

Trái tim yêu dấu của Mẹ, bây giờ chúng ta đã sẵn sàng nói về thể cảm xúc, và thày có thể nói với con là thể cảm xúc là vũ khí lớn nhất mà ông hoàng thế gian dùng để ngăn cản con biểu hiện tâm thức Ki-tô, và qua tâm thức này biểu hiện đời sống dồi dào. Cảm xúc là một lực rất mạnh vì không có cảm xúc thì con không thể phú cho tư tưởng động lượng và hướng đi, do đó tư tưởng không thể chuyển thành hành động vật lý hay biểu hiện vật lý. Bởi vì cảm xúc dễ lay chuyển, giống như đại dương dễ bị khuấy động bởi cơn gió mạnh, ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể dễ dàng chuyển hướng cảm xúc của con để chúng đi chệch hướng một chút. Nhiều người thấy viễn quan cao về cuộc đời họ và chân thành muốn thay đổi cuộc đời họ, nhưng họ giản dị không thể đem viễn quan đó vào thể hiện vật lý; họ không thể biến nó thành hiện thực. Những người đó có đôi phần thanh khiết trong thể bản sắc và tư tưởng nên họ thấy được viễn quan cao về đời họ. Họ có thể thấy là cuộc đời của họ đáng lẽ phải khá hơn tình trạng hiện tại của nó. Nhưng vì họ chưa thanh tẩy thể cảm xúc, chưa cai quản cảm xúc, nên cảm xúc của họ sẽ thường bóp méo và phá hoại những nỗ lực của họ.

Con hãy tưởng tượng tư tưởng giống như một mũi tên. Con đặt mũi tên vào cung, con kéo dây cung và con buông tên. Đây là chuyện xảy ra trong thể tư tưởng. Con nắm lấy một ý tưởng, con khiến nó trở thành cụ thể hơn và con buông nó bay về thể cảm xúc. Bây giờ con hãy tưởng tượng là khi mũi tên đang bay thì có cơn gió mạnh thổi. Mũi tên có thể nhắm đúng về hướng đích, nhưng ngọn gió có thể dễ dàng thổi nó bay lệch hướng và nó không trúng đích. Đây là chuyện xảy ra cho rất nhiều người tâm linh nắm bắt được viễn quan cao trong thể tư tưởng và cố gắng thay đổi đời họ với tất cả thiện ý. Nhưng vì họ chưa cai quản thể cảm xúc nên ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể dễ dàng khiến mũi tên tư tưởng chệch hướng một chút để nó luôn luôn không tới trúng đích. Hay cũng có thể có ngọn gió ngược thổi mạnh – dưới hình thức một rối loạn cảm xúc – khiến mũi tên không tới được đích. Thể cảm xúc của con người bị lôi kéo về nhiều hướng bởi ham muốn mâu thuẫn. Các cố gắng thiết tha nhất mất hết hơi sức trước khi đến được cõi vật lý. Cai quản thể cảm xúc quả thật là phần cốt yếu trong nỗ lực biểu hiện đời sống dồi dào.

Khi thày nói “cai quản” thì thày nói cái Ta Biết phải lấy quyết định cai quản thể cảm xúc, như một bậc cha mẹ tốt phải cai quản em bé khi nó chưa có khả năng tự quyết định đúng đắn. Thể cảm xúc có thể ví như một em bé. Giống như một em bé, thể cảm xúc dễ bị kích động và không cân nhắc hậu quả dài hạn. Em bé làm chuyện nó muốn làm và có vẻ hấp dẫn với nó vào lúc đó. Cảm xúc của con không có khả năng cân nhắc cái gì tốt nhất cho con trong dài hạn và cái gì đúng theo tiêu chuẩn cao hơn, tỷ dụ như luật Thượng đế hay sứ vụ thiêng liêng của con. Châm ngôn của thể cảm xúc là: “Nếu cảm thấy thích, thì làm ngay.” Nếu cái Ta Biết không bước ra nhận lãnh vai trò người trưởng thành thương yêu nhưng kiên định có thể hướng dẫn em bé của cảm xúc, thì em bé sẽ rất có thể đả thương chính mình và tạo ra hậu quả dài hạn không tốt.

Làm sao con cai quản cảm xúc? Thày đã cho con chìa khóa chủ, đó là với lên ý chí cao hơn đã thoạt tiên mang con tới vũ trụ vật chất. Khi con có ý chí đó, con cho phép nó thấm xuống tư tưởng của con. Khi tất cả tư tưởng của con thẳng hàng với ý chí đó, con cần để cho uy lực của ý chí lan xuống thể cảm xúc và con đảm bảo là tất cả cảm xúc của con thẳng hàng với ý chí cao và viễn quan cao gắn liền với sứ vụ thiêng liêng của con. Con cần xem mình như một người có mục đích cao thay vì một người phất phơ bị các ngọn sóng trong thể cảm xúc xô đẩy về hướng này hướng khác. Con cần có quyết tâm vững chắc giản dị không cho phép cảm xúc không thẳng hàng với sứ vụ thiêng liêng và làm việc chống lại mục đích vì sao con xuống trái đất. Con cần tới điểm quyết tâm quyết định cảm xúc nào được khởi lên trong thể cảm xúc. Con không thể cho phép bất cứ lực nào, kể cả ngã tách biệt, người khác, định chế xã hội, truyền thông hay ông hoàng thế gian, kiểm soát cảm xúc nào khởi lên trong đại dương cảm xúc của con.

11.2. Khuôn nếp chờ đợi tiêu cực

Bởi vì cảm xúc dễ thay đổi, ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian đã từ lâu nhận ra là sử dụng cảm xúc là một trong những cách tốt nhất để kiểm soát hành động của con. Nếu con có thể điều khiển cảm xúc của người khác, con có thể điều khiển hành động của họ vì hành động phát xuất từ cảm xúc. Nếu con có thể tạo đủ hỗn loạn trong thể cảm xúc của người khác, con có thể ngăn cản các ý tưởng cao của họ xuống tới cõi vật lý và tâm ý thức của họ. Kiểm soát cảm xúc bắt đầu nơi thể bản sắc với niềm tin con là một sinh thể hữu diệt tối hậu không thể kiểm soát định mệnh của mình và không có khả năng làm bất cứ chuyện gì vượt quá một lằn ranh giới. Nếu con tin lời nói dối này thì con sẽ nhìn mình như một nạn nhân của cuộc đời. Con nghĩ con đã bị đẩy vào một hoàn cảnh trong đó con bị ép buộc phải phản ứng lại một số biến cố mà con không tạo ra và do đó không thể ảnh hưởng. Con lúc nào cũng cảm thấy con đang bị tấn công và xô đẩy về những hướng con không muốn bởi các “ná bắn và mũi tên của nghịch cảnh quái ác” như câu của Shakespeare.

Thái độ này đặt con vào một tư duy phản ứng tiêu cực. Con ở trong nếp hành xử phản ứng lại cuộc đời thay vì cai quản cuộc đời. Lẽ tất nhiên đây chính là tâm thái mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian muốn đặt con vào. Họ lúc đó có thể kiểm soát con bằng cách ném vào con ý tưởng và hoàn cảnh mà con cảm thấy bắt buộc phải phản ứng.

Lẽ tất nhiên, ngoài việc kiểm soát thể bản sắc cũng có một số mô thức tư tưởng mà ngã hữu diệt đã lập trình vào tâm con. Hay đúng hơn, chúng là một phần của ngã hữu diệt và do đó đã đi vào quả cầu cái ta của con, và từ đó ảnh hưởng cách con suy nghĩ. Vấn đề là thể tư tưởng của con có thể chứa đựng một hình ảnh là cuột đời phải như thế nào. Dựa trên hình ảnh đó, con đã xây đắp một số chờ đợi cuộc đời phải như thế nào; chuyện gì phải hay không được xảy ra cho con. Chuyện xảy ra trong thể cảm xúc của con là ngã hữu diệt đã xây dựng trên các hình tư tưởng và chờ đợi đó trong thể tư tưởng. Nó đã tạo dựng một niềm tin rất vi tế cho rằng nếu những chờ đợi đó không xảy ra, thì chuyện cần thiết, không thể tránh và hoàn toàn chính đáng là con phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Ngã hữu diệt đã thiết kế một máy điện toán trong tiềm thức của con, và khi một nút trên màn ảnh tâm ý thức của con được nhấn, thì nó sẽ tự động phát ra một cảm xúc đặc thù, một phản ứng đặc thù.

Tỷ dụ, nhiều người chờ đợi cuộc đời phải dễ dàng và không cần cố gắng. Nhiều người chờ đợi cuộc đời phải cho họ một số đồ vật vật chất và thú vui thân xác. Nếu họ không có được thì họ cảm thấy bị tước đi cái gì đó. Cảm giác này khiến một số cảm xúc khởi lên, thông thường gồm nỗi giận Thượng đế, giận cha mẹ, giận xã hội hay giận một số người đặc thù mà họ nghĩ đang ngăn cản họ có những thứ mà họ nghĩ họ có quyền hưởng. Ngã hữu diệt rất dễ dùng nỗi giận này để biện minh cho một số hành động mà người đó biết là sai trái và không giúp họ được lợi ích dài hạn. Một khi họ bị lôi kéo vào vũng xoáy giận dữ đó thì họ có thể biện minh cho việc chối bỏ các niềm tin đạo đức sâu xa hay quan tâm về hậu quả dài hạn. Khi cơn giận dâng trào, nhiều người có hành động  mà bình thường họ tránh và rất hối hận sau đó. Tuy họ có thể hối hận đã có hành động đó, họ có thể bị khuynh loát để có hành động tương tự khi có cơn giận khác nổi lên, khi họ bị kích động bởi một hoàn cảnh không đáp ứng chờ đợi của họ.

Nhiều người ở trong trạng thái tham lam hay ghen tỵ người khác, cảm thấy họ đáng lẽ phải có những gì người khác có, hay phải có nhiều hơn người khác. Họ có thể sống cả cuộc đời với lòng ghen tỵ người khác, và điều này có thể đẩy họ vào hành động mà họ biết là sai trái. Đây quả thật là một lý do khiến con người trộm cắp những thứ mà họ nghĩ đáng lẽ họ phải có, nhưng lại không chịu làm việc để có. Một cảm xúc thông thường khác là kiêu mạn khiến một số người sống cả cuộc đời luôn luôn tìm cách chứng tỏ mình hơn người khác, mình lúc nào cũng đúng, mình biết nhiều hơn tất cả ai khác. Những người này quả thật bị mắc kẹt trong một số khuôn nếp cảm xúc mà họ không thể điều khiển, và những khuôn nếp này tước đi nơi họ cảm nhận hạnh phúc, mãn nguyện, an bình nội tâm. Chúng tước đi nơi họ đời sống dồi dào.

11.3. Chọn lựa phản ứng trước hoàn cảnh

Đa số con người trên hành tinh này không khác chi người máy rô bốt trong lãnh vực phản ứng tình cảm. Họ có một số nút trong tiềm thức của họ, và khi có ai nhấn nút, thì nó tự động phát ra một cảm xúc đặc thù khiến người đó không tự chủ được tư tưởng, cảm xúc và hành động. Vì con đã theo khóa học cho tới điểm này, lẽ tất nhiên con không bị hoàn toàn mắc kẹt trong một khuôn nếp cảm xúc không xây dựng. Nếu con sẵn lòng xem xét chính mình, con sẽ có thể thấy là con có một số nút trong thể cảm xúc. Khi có ai nhấn nút đó thì con dễ nhảy vọt vào một khuôn nếp tư tưởng và cảm xúc nào đó. Thày không nói vậy để con cảm thấy xấu hổ, vì quả thực hầu như không ai có thể lớn lên ở bất cứ đâu trên hành tinh này mà không bị các lập trình cảm xúc phóng chiếu vào tâm mình. Thày giản dị nói lên điều này để, nếu con muốn cai quản thể cảm xúc của con thì con cần nhận ra những phản ứng lập trình để con có thể vượt lên trên chúng. Làm cách nào con vượt lên trên chúng? Bằng cách con nhận biết chúng và sau đó lấy quyết định có ý thức không tham gia vào phản ứng người máy trước những thách đố của cuộc sống.

Những người đang cư xử như người máy rô bốt sẽ nói với con là họ không quyết định bay vào một cơn giận hay mặc cảm tội lỗi hay bất cứ cảm xúc nào khác. Họ nói có phần đúng vì trong quá khứ xa xôi họ đã cho ngã hữu diệt quyền điều khiển tâm họ. Những người đó không lấy quyết định có ý thức đi vào một cảm xúc nào đó. Bất cứ ai đều có thể giành lại khả năng lấy quyết định có ý thức cách họ đáp ứng lại cuộc sống. Làm sao con có thể điều khiển cuộc đời mình nếu con không điều khiển phản ứng của con trước những tình huống bên ngoài?

Con hãy nhìn một cách thiết thực hành tinh trái đất. Con thấy một tình trạng dễ biến động vì toàn thể hành tinh mang gánh nặng năng lượng tha hóa. Ngay cả thiên nhiên cũng bị mất cân bằng, như ta thấy qua số lượng thiên tai gia tăng. Trong khi đó, con có nhiều người đã bị lập trình để phản ứng với tình cảm tiêu cực, do đó ta có thể tiên đoán sẽ có nhiều xung đột giữa con người. Có nhiều vị đạo sư dạy dồi dào nói rằng con không thể biểu hiện cuộc sống dồi dào nếu con không tiếp cận mọi hoàn cảnh với tâm thái tích cực.

Những đạo sư này nói đúng, nhưng ta phải thêm vào là tâm thái tích cực sẽ không ảnh hưởng hành động của con nếu con không dùng ý chí cao và uy lực của tư tưởng để cai quản thể cảm xúc. Nếu tâm thái tích cực chỉ ở lại tầng tư tưởng và không đi xuống tầng cảm xúc, thì làm sao nó có thể giúp con tìm ra cách đáp ứng tốt nhất trước những hoàn cảnh không phù hợp với những gì con chờ đợi?  Những người thành công nhất không phải là những người làm chủ được tình huống bên ngoài của họ, mà là những người có thể làm chủ tình huống nội tâm và do đó có thể đáp ứng lại mọi hoàn cảnh một cách xây dựng nhất. Những người không có khả năng tự chế đó sẽ thường phản ứng lại hoàn cảnh bất ngờ một cách khiến hoàn cảnh tệ hơn, và qua đó tạo ra hay củng cố vòng xoáy đi xuống. Con chắc có nghe câu châm ngôn cổ nói rằng chinh phục chính mình hơn chinh phục một thành phố, và câu này nói đến việc làm chủ phản ứng cảm xúc của mình trước cuộc sống.

Nếu con làm chủ chính mình, nếu con cai quản bốn thể phàm, thì con có thể chọn phản ứng trước mọi hoàn cảnh. Con có thể chọn phản ứng có hậu quả dài hạn tốt nhất cho con, có nghĩa là nó hài hòa với luật của Thượng đế và sứ vụ thiêng liêng của con. Con có thể chọn chìa má bên kia thay vì phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Nếu con không có khả năng chọn phản ứng một cách ý thức trước mọi hoàn cảnh, thì con biết là có ai khác đang làm chủ. Ai khác đó là ngã tách biệt và ông hoàng thế gian đang tìm cách ngăn cản con biểu hiện đời sống dồi dào và thực thi sứ vụ thiêng liêng của con.

Cách làm chủ phản ứng là gia tăng nhận biết của con về những tiến trình trong tâm. Để giải thích điều này, thày sẽ bắt đầu ở tầng thấp nhất là tầng hành động vật lý. Nhiều người có hành động mà sau đó họ hối tiếc, và khi họ nhìn lại sự cố họ sẽ nói: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác”. Nếu con không có chọn lựa nào khác, thì con thực sự không có chọn lựa gì cả, phải không con? Nếu con chỉ có một chọn lựa, chỉ có một cách đáp ứng lại một hoàn cảnh, thì con thực sự không có chọn lựa. Ý tưởng con không có chọn lựa hay không có chọn lựa khác luôn luôn là một ảo tưởng. Nó dựa trên sự kiện con đã cho phép ngã hữu diệt dụ con vào một hoàn cảnh có vẻ như chỉ có một đáp ứng. Con đã bị ngã hữu diệt, và rất có thể ông hoàng thế gian qua ngã hữu diệt, hoàn toàn kiểm soát. Có vẻ như con chỉ có một cách đáp ứng lại hoàn cảnh. Có vẻ như con không thể chọn một phản ứng khác phản ứng đã được lập trình trong thể cảm xúc của con.

Thày có nói về nhu cầu nhận lãnh trách nhiệm về hoàn cảnh sống của mình, và nhu cầu ngưng chạy trốn lấy quyết định. Khi con người cho phép bị khuynh loát vào tình thế nghĩ mình không có chọn lựa, thì họ đã từ chối lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ và họ bị mắc kẹt vào khuôn nếp chạy trốn không lấy quyết định. Sự kiện phũ phàng là con lúc nào cũng có hơn một chọn lựa, con lúc nào cũng có hơn một cách đáp ứng lại một hoàn cảnh. Lời nói dối của những kẻ đang muốn kiểm soát con là trong một số tình huống con phải phản ứng bằng bạo hành hay sức mạnh. Đây là một lời nói dối xảo quyệt.

Hầu hết mọi tôn giáo trên hành tinh này, trong hình thức trong sạch, tìm cách giúp con tránh bị mắc kẹt trong lời nói dối đó. Giê-su đã làm việc này bằng cách dạy con người dùng Quy luật Vàng như khuôn mẫu cư xử. Đó cũng là lý do Giê-su dạy con người chìa má bên kia thay vì kháng cự cái xấu ác, thay vì dùng vũ lực đáp trả vũ lực (Matthew 5:39).

Con hãy nhìn thế giới và xem có bao nhiêu xung đột giữa các nhóm người. Một số xung đột này đã kéo dài mấy ngàn năm, và không ai biết vì sao chúng bắt đầu. Câu hỏi thật là vì sao không có ai ngưng vòng xoáy bạo hành, và lý do là vì họ chưa phá vỡ khuôn đúc suy nghĩ cho rằng nếu ai bạo hành với mình, thì việc mình đáp trả bằng bạo hành là điều chính đáng. Vòng xoáy bạo hành sẽ không bao giờ ngưng cho tới khi có người quyết định chìa má bên kia và không đáp trả bằng bạo hành bất kể những gì đã làm tới họ. Để phá vỡ khuôn đúc bạo hành, con cần đi vào thể cảm xúc và phá vỡ lập trình nói rằng nếu người khác làm gì đến mình, thì mình chỉ có thể đáp trả bằng giận dữ. Con phải cai quản chính mình để thay vì phản ứng với cảm xúc tiêu cực, con có thể phản ứng lại hoàn cảnh bằng tình thương. Chỉ lúc đó con mới vươn lên trên vòng xoáy bạo hành, và được tự do theo đuổi đời sống tâm linh dồi dào thay vì lãng phí cuộc đời trong xung đột điên rồ không bao giờ dứt.

11.4. Ngưng cảm xúc lập trình

Làm sao con chọn cách sống bất bạo động, làm sao con từ bỏ khuôn nếp phản ứng lại cuộc đời với cảm xúc tiêu cực? Làm sao có thể đáp ứng lại cuộc đời với tình thương? Bước đầu tiên là nhận ra sự kiện đơn giản là trước khi con có một hành động, thì có một khoảng cách, một giây phút nghỉ, giữa tư tưởng cảm xúc và hành động. Chính trong khoảnh khắc đó cái Ta Biết có cơ hội ngưng một hành động tự hủy diệt. Khoảnh khắc đó vượt quá thời gian và lúc nào cũng có một khắc rất ngắn trong đó con có cơ hội ngưng hành động hay cho phép nó diễn ra. Con có cơ hội chọn một hành xử khác tốt hơn – một đáp trả bất bạo động dựa trên tình thương – trước tình huống. Khi huấn luyện tâm ý thức để nó nhận biết rõ hơn những gì xảy ra trong bốn thể phàm, thì con có thể giành lại khả năng ngưng một hành động trước khi nó vượt qua lằn ranh xuống cõi vật lý và dẫn tới hậu quả không thể tránh.

Trước khi con hành động, thì có ai đó phải lấy quyết định chuyển tư tưởng cảm xúc của con thành hành động vật lý. Con có thể cho phép ngã hữu diệt lấy quyết định đó, và nó sẽ luôn luôn tuân theo lập trình của nó, có nghĩa là hành động của con sẽ tạo hậu quả dài hạn không vui. Chọn lựa duy nhất khác là cái ta Biết nhận lãnh vai trò đích thật của nó và giành lại quyền lấy quyết định. Chỉ khi con làm vậy thì con mới ngưng được hành động không thẳng hàng với người mà con là và đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của con.  

Có thể con đã nghe lời khuyên rằng trước khi có hành động trong một tình huống sôi bỏng, thì con phải đếm tới mười. Tuy lời khuyên này hữu dụng, nhưng con thật ra không cần đếm tới mười. Điều con cần làm là trụ vào nơi tim và tự hỏi hành động này có thực sự biểu lộ con người bên trong của con, bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh bất tử. Con hãy xem xét hành động và tự hỏi: “Đây có phải là người mà tôi là chăng? Sinh thể tâm linh mà tôi thực sự là có phản ứng như vậy chăng?” Nếu con có nhận biết rõ ràng trong thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc, thì con sẽ có thể tức khắc ngưng mọi hành động không thẳng hàng với con người mà con là và không phù hợp với sứ vụ thiêng liêng của con.

Tất cả mọi người đều có khi gặp hoàn cảnh bất ngờ và hỗn loạn đòi hỏi họ phải lấy quyết định mau chóng. Ông hoàng thế gian không thích gì hơn là ép buộc con vào hoàn cảnh khiến con có cảm tưởng con không có nhiều chọn lựa, và con cần phải quyết định ngay lúc này. Chỉ khi con bị dồn vào thế phải lấy quyết định mà không cân nhắc tầm nhìn dài hạn thì y mới thật sự kiểm soát được con. Cách con tránh vòng kiểm soát này là thiết lập một trung tâm điểm vững chắc, một điểm tham chiếu không thể lay chuyển, khi con lấy mọi quyết định. Đây tối hậu là tảng đá của tâm thức Ki-tô. Một mục tiêu ngắn hạn hơn là xem xét phản ứng của mình có thật sự bất bạo động chăng. Chỉ có phản ứng bất bạo động mới cho phép con nhận dồi dào Thượng đế xuống cuộc đời con. Vì làm sao con có thể nhận cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con còn nghĩ con có thể đáp trả lại cuộc sống bằng bạo lực? Sinh thể tâm linh mà con thực sự là sẽ phản ứng lại mọi hoàn cảnh với tình thương. Nếu con thấy mình đang phản ứng lại một hoàn cảnh với tâm thái không đầy tình thương, thì con biết là con không đáp ứng với tiềm năng cao nhất của con. Chỉ có ngã hữu diệt mới phản ứng với tâm thái không có tình thương, và đây là một cách tốt để phơi bày sự kiện ngã hữu diệt đang làm chủ phản ứng của con.

Điều khiến đa số con người có hành động bạo hành là cảm xúc bạo hành. Khi con đã cho phép một cảm xúc bung ra và khuấy động thể cảm xúc vào trạng thái điên loạn, thì con khó cản nó đưa tới hành động. Điều này có thể làm được, nhưng phải chăng cách tốt hơn là ngăn cản cảm xúc tiêu cực khởi lên? Để làm được chuyện này, con cần tiến thêm một bước nữa, và nới rộng nhận biết tới sự kiện cảm xúc khởi lên từ tư tưởng. Cách duy nhất giúp con thực sự tránh cảm xúc tiêu cực khởi lên là giải quyết những tư tưởng khởi động nó. Tư tưởng ở tầng cao hơn và lỏng hơn. Chúng dễ thay đổi hơn, nhưng tâm ý thức khó nhìn thấy chúng hơn. Tư tưởng đưa tới cảm xúc tiêu cực là những chờ mong bất toàn và những ham muốn giả mà con có trong thể tư tưởng và thể cảm xúc cao.

Thế nào là chờ đợi bất toàn? Đây là chờ đợi không thẳng hàng với thực tại của cuộc sống. Thày có nêu ra trước đây câu của Albert Einstein rằng nếu con làm cùng hành động và chờ đợi kết quả khác, thì con là người điên. Đa số con người có những chờ đợi được lập trình vào thể tư tưởng của họ, và chúng khiến họ tin rằng nếu họ tiếp tục làm cùng hành động thì một ngày nào đó vũ trụ sẽ phản chiếu lại, như một phép lạ, một hoàn cảnh bên ngoài khác. Thày biết rất rõ là ngã hữu diệt không thể thấy sự vô lý của lối suy luận này, không thể thấy chờ đợi như vậy hoàn toàn xa rời thực tại. Cái Ta Biết có khả năng thấy điều này và qua đó phủ nhận ngã hữu diệt. Con có thể tách mình ra khỏi tính chất không thật của ngã hữu diệt và hoàn toàn thể nhập thực tại vũ trụ là tấm gương sẽ phản chiếu lại con bất kể gì con phóng ra. Khi con hiểu điều này thì con thấy là con không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài nếu con không thay đổi chính mình.

11.5. Ham muốn giả và mong muốn thật

Có một tầng sâu hơn mà ta cần xem xét ở đây. Nhiều chờ đợi của con không có vẻ xa rời thực tại của cuộc sống. Chúng có vẻ là những lời tiên tri tự ứng nghiệm. Tỷ dụ, nếu con chờ đợi cuộc đời là một sự vật lộn và con phải đấu tranh để được mọi chuyện con cần, thì vũ trụ sẽ phản chiếu lại con những hoàn cảnh bắt con phải đấu tranh. Những tình huống này tối hậu không thật vì chúng không thẳng hàng với viễn quan mà Thượng đế có về con. Chờ đợi của con khoác vào thực tại tạm thời, nhưng chúng chỉ có vẻ thật khi con còn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên.

Con có hai loại chờ đợi không thiết thực. Có những chờ đợi không bao giờ có thể thành tựu, và có những chờ đợi trở thành tiên tri tự ứng nghiệm. Tỷ dụ, nhiều người chờ đợi họ có kết quả khác nếu họ tiếp tục làm cùng hành động, họ có thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài mà không thay đổi chính họ. Đây là một chờ đợi hoàn toàn không thiết thực vì vũ trụ sẽ luôn luôn phản chiếu lại những gì con phóng ra. Một số người chờ đợi người khác sẽ lấy những gì họ có, và chờ đợi này sẽ trở thành một tiên tri tự ứng nghiệm. Những người đó sẽ thu hút những người muốn lấy của họ thay vì lấy từ nguồn cung cấp dồi dào vô tận ở trong chính họ.

Chờ mong nhị nguyên mà con có trong thể tư tưởng sẽ tạo nên ham muốn giả trong thể cảm xúc của con. Thế nào là ham muốn giả? Ham muốn giả có hai đặc tính:

  • Thứ nhất là nó dựa trên ý niệm thiếu thốn; nó dựa trên cảm nhận con thiếu thốn cái gì đáng lẽ con phải có. Con nghĩ đáng lẽ con phải có một số chuyện trong cuộc đời, con mong muốn có chúng, và khi con không có chúng thì con cảm thấy thiếu thốn, bị thiếu thốn. Đây là nguyên nhân của cảm xúc tiêu cực, như giận dữ, ghen tỵ hay tham lam.
  • Đặc tính kia của ham muốn giả là nó không bao giờ đạt được ý nguyện, nó không bao giờ thỏa mãn được. Ham muốn giả quả thực giống như hố không đáy, như một lỗ đen trong thể cảm xúc không thể nào lấp được. Nếu con đã nghe nói đến các lỗ đen trong vũ trụ, thì con biết chúng là những nơi mà trọng lực cao đến độ mọi thứ đều bị hút vào đó và không có gì có thể thoát ra. Đây là một hình ảnh tượng hình hay về ham muốn giả vì con cứ tiếp tục đổ năng lượng vào đó mà không bao giờ lấp được lỗ đen.

Nhiều người bị mắc kẹt trong tìm cầu không bao giờ dứt có nhiều tiền hơn, nhiều quyền lực hơn, nhiều tình dục hơn, nhiều thức ăn hơn, nhiều thú vui hơn. Họ có được bao nhiêu chăng nữa vẫn không cảm thấy đủ. Họ không bao giờ thỏa mãn và lúc nào cũng muốn có nhiều hơn. Ham muốn trở thành một vòng xoáy đi xuống nuốt trọn cuộc đời họ mà không cho họ lại gì cả vì họ không bao giờ đạt trạng thái thỏa mãn, hạnh phúc hay an bình nội tâm. Có nhiều người trên trái đất bị nuốt trọn bởi tìm cầu vô tận tìm cách thỏa mãn ham muốn giả không bao giờ có thể thỏa mãn. Những người hướng về tâm linh không hoàn toàn bị mắc kẹt trong khuôn nếp đó. Tuy nhiên, con cần nhìn vào cuộc đời mình và nhìn xem con có thể nhận diện một số ham muốn có những đặc tính mà thày mô tả. Nếu con nhận diện chúng, thì con cần phải thành thật với chính mình và xem xét chúng gần hơn. Nếu con không cai quản những ham muốn đó và lấy chúng ra khỏi con người mình, thì chúng sẽ luôn luôn lôi kéo cảm xúc của con và phá hoại những cố gắng tốt nhất mà con có thể làm để biểu hiện cuộc sống thực sự tâm linh.

Chìa khóa khắc phục ham muốn giả là gì? Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét ai muốn giữ con ở trong khuôn đúc muốn mãi mãi thỏa mãn ham muốn giả. Sự thật phũ phàng là các ham muốn đó do ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian tạo ra, và chúng có hai mục tiêu khi làm vậy. Một mục tiêu là giữ con mắc kẹt trong việc theo đuổi ham muốn thế tục để con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô và thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Mục tiêu thứ hai là giữ con trong vòng xoáy lúc nào cũng muốn điều mà mình không thể có, qua đó con liên tục tha hóa năng lượng, là cái mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian cần để sinh tồn. Họ nhìn con như con bò sữa mà họ sẽ vắt hết năng lượng và loại bỏ khi con không còn sản xuất nữa.

Như vậy có nghĩa chăng là con cần dùng sức mạnh để đè nén ham muốn giả để thoát vòng kiểm soát của chúng? Đây không phải là phương cách đúng; cách này chỉ giản dị đi từ cực đoan này sang cực đoan khác trong khi vẫn bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Chìa khóa thật là nhận ra ham muốn giả thực sự chỉ là sự tha hóa của một mong muốn thật. Một trong những đặc tính của mong muốn thật là nó không dựa trên thiếu thốn mà dựa trên cảm giác dồi dào. Con không cảm thấy thiếu thốn, con cảm thấy con có nhiều đến độ con mong muốn chia sẻ với người khác. Đặc tính chính khác của mong muốn thật là con không tìm cách được một cái gì; con tìm cách cho. Khi con cho thì con đạt cảm giác toại nguyện vì hành động cho mang lại phần thưởng xúc cảm của nó.

Mọi ham muốn bắt nguồn từ ý muốn tạo một cảm giác. Cảm giác này tối hậu là điều mà thày đã nói trước đây, là cảm giác trọn vẹn, cảm giác đầy đủ, được tràn đầy. Ham muốn giả bắt nguồn từ ngã hữu diệt. Ngã hữu diệt được sinh ra từ sự tách biệt với Thượng đế. Nó không bao giờ có thể cho con cảm giác trọn vẹn. Ngã hữu diệt không thể vượt qua sự tách biệt với Thượng đế, và chỉ khi con cảm thấy mình là một với Thượng đế và cảm thấy ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con người con thì con mới cảm thấy trọn vẹn. Ngã hữu diệt có nhận biết thô thiển là cái Ta Biết mong muốn được trọn vẹn. Nó tìm cách đem lại cảm giác trọn vẹn này, nhưng nó chỉ có thể dùng tâm thức nhị nguyên và các thứ của trần gian. Ngã hữu diệt thấy trọn vẹn như một trạng thái đứng yên nơi con có đầy đủ một thứ gì đó của trần gian, và khi con đã đặt mình vào vị thế không thể mất những gì con có. Đó là lý do vì sao ngã hữu diệt quy định ham muốn giả và tìm cách khiến con tin rằng nếu con có đủ tiền bạc, sở hữu vật chất, quyền lực hay thú vui, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn, con sẽ được lấp đầy. Ngã hữu diệt quả thật tin rằng nếu con có đủ những thứ của trần gian, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn. Đây hiển nhiên là một ảo tưởng vì không có gì trong trần gian có thể cho con cảm giác trọn vẹn. Con chỉ có thể trọn vẹn khi con biết mình là ai và khi con cảm thấy ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua Sinh thể của con.

Khi cái Ta Biết nhận ra cuộc tìm cầu của ngã hữu diệt không thể thực hiện được, thì con có thể tách mình ra khỏi nó. Con không thể tách mình ra khỏi ngã hữu diệt nếu con chưa có cái gì thay thế nó. Con không thể hoàn toàn khắc phục một ham muốn giả nếu con chưa kết nối lại với những mong muốn thật của con người cao của con.

11.6. Mong muốn thật là cống hiến Ngọn lửa của mình

Có một nhóm đông Sinh thể tâm linh đang phụng sự như các vị thày tâm linh của nhân loại. Trong số này có đức Phật đã, như Giê-su, xuống trái đất để đem lại một giáo lý tâm linh mới, mà ngày nay được biết như đạo Phật. Một trong những nguyên lý trọng tâm của giáo lý đức Phật coi cuộc đời là đau khổ và đau khổ do ham muốn sai tạo ra. 

Giảng dạy thâm sâu về Phật giáo vượt ra ngoài phạm vi của khóa học này. Nhiều người đã hiểu lầm khái niệm trọng tâm của Phật giáo và nghĩ rằng đức Phật dạy họ phải khắc phục ham muốn đến độ không còn ham muốn nữa. Thực ra đức Phật nói là con cần khắc phục mọi dính mắc vào bất kỳ điều gì của thế gian. Một ham muốn giả khiến con dính mắc vào một vật trần gian nào đó, khiến con nghĩ con không thể trọn vẹn nếu không có vật mà con ham muốn. Chính dính mắc này đưa tới khổ đau.

Nếu con không có ham muốn, thì làm sao con có thể tăng trưởng và trở nên hơn những gì con là hôm nay? Động lực cơ bản của sự sáng tạo là ý muốn của Thượng đế muốn hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Nếu con loại bỏ mọi ham muốn, thì con cũng loại bỏ dòng chảy của Dòng sông sự Sống xuyên qua Sinh thể con. Điều này không giúp con tăng trưởng tâm linh hơn việc cho phép mình bị hoàn toàn thu hút vào việc tìm cách thỏa mãn ham muốn giả của ngã tách biệt. Những người đem giáo lý đức Phật tới cùng cực và loại bỏ mọi ham muốn đã quên điều quan trọng nhất của giáo lý đức Phật, đó là Trung đạo. Trung đạo không có nghĩa là con loại bỏ mọi ham muốn nhưng có nghĩa con vươn lên trên các ham muốn giả đến từ ngã hữu diệt, con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên đang kéo con đi xa khỏi Trung đạo. Khi con làm vậy thì con kết nối lại với các mong muốn thật của Sinh thể cao của con, là những mong muốn đã đem con tới trái đất lúc ban đầu. Các mong muốn này liên quan tới việc cống hiến con người mình, Ngọn lửa Thượng đế của mình. Chúng liên quan đến việc biểu lộ cá tính thiêng liêng của con và đem vương quốc Thượng đế xuống cõi này.

Một số ham muốn bắt nguồn từ ước mong của dòng sống muốn trải nghiệm một số điều kiện trên trái đất. Đây là những ham muốn mà ngã hữu diệt dễ tha hóa nhất. Đây là những ham muốn có thể trở thành ham muốn trần gian hay xác thịt, liên quan đến những thú vui của thân vật lý. Khi những ham muốn này trở nên vật lý và hướng về bản thân, thì chúng trở nên hố sâu không đáy không thể nào lấp đầy. Mỗi ham muốn thấp đó tương ứng với một ham muốn cao. Điểm khác biệt là mong muốn cao có thể được thỏa mãn một cách tối hậu khi cái Ta Biết không còn mong muốn trải nghiệm điều kiện này nữa trong vũ trụ vật chất. Lúc đó con mong muốn hơn nữa, do đó con mong muốn vươn lên trên vũ trụ vật chất thay vì ở lại trong đó mãi mãi. Con chỉ giản dị không còn thỏa mãn bởi ham muốn thấp và thay thế chúng bởi một mong muốn cao. Con không cố ý và dùng sức mạnh để đè nén một ham muốn. Con tới điểm nhận ra chúng là một ham muốn giới hạn, con nhìn quá chúng để khám phá mong muốn thực, và mong muốn thực thay thế ham muốn giả một cách tự nhiên và không cố gắng.  

Một ham muốn khiến nhiều người tâm linh bối rối là ham muốn hợp nhất tình dục. Đa số con người trên trái đất tham gia vào tình dục vì một ham muốn giả xuất phát từ ngã hữu diệt. Ham muốn này không bao giờ có thể thỏa mãn. Bất kể họ có bao nhiêu tình dục thì họ vẫn không cảm thấy mãn nguyện. Đằng sau ham muốn thú vui vật lý là một ham muốn cao trải nghiệm trạng thái trọn vẹn khi hai dòng sống, với những thái cực ngược nhau, tới với nhau trong một kết hợp thực sự, tâm linh.

Mọi sự được sinh ra từ sự tương tác giữa lực lan tỏa của Cha và lực co thắt của Mẹ. Khi cả hai tới với nhau thì sự sống mới được sinh ra qua sự kết hợp và trọn vẹn của hai lực đó. Rất có thể một dòng sống có ước muốn trải nghiệm sự trọn vẹn đó trong cõi vật chất. Điều này phát xuất từ mong muốn thật muốn sự kết hợp lớn hơn, và ước muốn này có thể thỏa mãn. Con có thể tới điểm cảm thấy con đã trải nghiệm đủ hình thức kết hợp này, và bây giờ thì con ước muốn một cái gì vượt quá những gì có thể đạt được qua thân thể vật lý và các khả năng của nó. Con ước muốn một kết hợp tâm linh chỉ có thể tìm thấy bằng cách tìm ra một thái cực thực của Sinh thể của con, tức là thiết lập sự kết hợp giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ như thái cực Cha-Mẹ thật của Sinh thể của con.

11.7. Cảm giác trọn vẹn đến từ ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua con

Quả đúng là con cần lấy một chọn lựa. Con phải chọn phục vụ Thượng đế hay phục vụ ma-môn, nghĩa là con phải chọn cho phép cả cuộc đời còn lại của mình bị nuốt trọn bởi cuộc tìm cầu bất khả thi lấp đầy ham muốn giả, là các ham muốn mà Giê-su gọi là ma-môn. Hay con quyết định phục vụ các mong muốn thực của Sinh thể cao của con và tìm cách thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách biểu lộ cá thể và khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con.

Mọi ham muốn giả phát xuất từ cảm nhận thiếu thốn, và cách duy nhất để ra khỏi ham muốn giả là thăng vượt cảm nhận thiếu thốn. Làm sao con thăng vượt cảm nhận con không có đủ? Bằng cách cho phép bốn thể phàm của con được tràn đầy bởi ánh sáng Thượng đế sẽ đốt cháy mọi cảm nhận thiếu thốn và lấp đầy con với cảm nhận nuôi dưỡng tối hậu. Con phải theo tiến trình mà thày đã mô tả và bắt đầu bằng cách vươn lên thể bản sắc, kết nối lại với bản sắc thật của con. Khi con biết con là ai, tức là Sinh thể tâm linh có khả năng nhận được sự dồi dào vô biên của ánh sáng Thượng đế, thì con có thể thực sự khắc phục cảm nhận thiếu thốn xuất phát từ ý niệm hữu diệt là con tách biệt khỏi sự dồi dào của Thượng đế. Con có thể đem ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua thể bản sắc của con, vào thể tư tưởng và sau đó xuống thể cảm xúc của con. Khi con đem ánh sáng Thượng đế xuống thể cảm xúc của con thì con tạo ra cảm giác được nuôi dưỡng. Điều này gây ra cảm nhận trọn vẹn, và như thày có nói ở trên, ước muốn trọn vẹn ở đằng sau cả ham muốn giả lẫn mong muốn thật. Khi con có cảm nhận trọn vẹn thì con thăng vượt ham muốn giả vì con không còn cảm thấy thiếu thốn. Con không còn cảm thấy thiếu thốn nhưng cảm thấy được nuôi dưỡng một cách tối hậu. Con nhận ra con không cần gì bên ngoài chính mình để thỏa mãn các mong muốn thật của mình.

Bản chất của ham muốn giả là con cảm thấy không trọn vẹn và nghĩ mình cần một cái gì bên ngoài để đạt trọn vẹn. Điều này khiến con mở cửa để ngã hữu diệt, ông hoàng thế gian và người khác bước vào và kiểm soát con. Họ có thể kiểm soát con vì con nghĩ con cần cái gì bên ngoài mình để đạt được trọn vẹn, để cảm thấy được nuôi dưỡng. Khi con kết nối lại với bản sắc thật của con và mở cửa để dòng ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con, thì con nhận ra con không cần điều gì bên ngoài chính mình để được trọn vẹn. Chính dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua con người con cho con cảm giác trọn vẹn thật và tối hậu. Khi trạng thái trọn vẹn này cai quản thể cảm xúc của con, thì con không còn ham muốn nhận được điều gì từ người khác. Con có mong muốn thật sự cho người khác, chia sẻ với người khác.

Từ đó nảy sinh tình huống tuyệt đẹp khi mọi người nhận ra sự thực đằng sau một trong những lời dạy thâm sâu nhất của Giê-su: “Con đã nhận vô điều kiện, hãy cho vô điều kiện” (Matthew 10:8). Khi con hiểu thực tại của cuộc sống, tức là Thượng đế là nguồn gốc của mọi thứ tốt và toàn hảo và đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn nội tâm. Xuyên qua cảm giác được nuôi dưỡng, con sẽ khắc phục nỗi sợ cho người khác. Khi đa số con người trong một xã hội cho vô điều kiện những gì họ đã nhận vô điều kiện từ Thượng đế, thì nỗ lực tổng hợp của họ sẽ đem lại nhiều dồi dào hơn là mỗi người có thể riêng mình đem lại. Điều này được miêu tả qua câu ngạn ngữ là tổng thể nhiều hơn các thành phần cộng lại, và đây quả thật là đời sống dồi dào trên trái đất. Đời sống dồi dào trên trái đất sẽ đến khi con người bắt đầu cho vô điều kiện ở dưới này những gì họ nhận được vô điều kiện từ bên Trên.

Con hãy nhìn trái đất hiện nay và nhận thấy là hầu hết mọi khía cạnh của xã hội và hầu hết mọi tương tác giữa con người đều dựa trên ý niệm thiếu thốn, thiếu nuôi dưỡng. Điều này khiến con người kiềm giữ không chịu cho và giữ chặt những gì họ có. Điều này khiến nhiều người đặt hết chú tâm vào việc nhận thay vì cho. Nếu không ai cho, thì làm sao có người được nhận? Những người bị mắc kẹt trong ham muốn giả, ham muốn ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, không thể thấy sự thật hiển nhiên này. Đó là lý do vì sao cả một xã hội, quả thực là cả hành tinh, có thể đi xuống một vòng xoáy tiêu cực trong đó tất cả đều cảm thấy thiếu thốn, tất cả có ham muốn dựa trên thiếu thốn và tất cả tìm cách lấy thay vì cho.

Một trong những lý do chính đang ngăn cản sự biểu hiện của vương quốc Thượng đế trên trái đất là có quá nhiều người bị mắc kẹt trong ham muốn kiểm soát. Họ cảm thấy thiếu thốn và họ nghĩ người khác đang âm mưu lấy những gì họ có. Họ nghĩ họ chỉ có được dồi dào bằng cách lấy bằng vũ lực. Để lấy được cái họ muốn và tránh mất đi cái họ có, họ nghĩ họ cần phải kiểm soát người khác và hoàn cảnh vật lý của họ.

Nhiều người trong số các người quyền uy nhất thế giới bị hoàn toàn nuốt trọn bởi ham muốn kiểm soát mọi người và mọi thứ. Con có thể thấy trong lịch sử những người đã đạt được vị thế uy quyền cao, theo nghĩa uy quyền giả dựa trên khả năng kiểm soát người khác. Họ không thể tránh bánh xe thời gian xay thành bụi mọi quyền kiểm soát mà họ đạt được. Không người nào trong số đó có thể kiểm soát vận mạng của họ, và rốt cuộc những tháp Babel mà họ dựng lên qua sự kiểm soát sẽ sụp đổ và trở về với cát bụi từ đó chúng sinh ra. Những gì phát xuất từ ngã hữu diệt đến từ cát bụi của trái đất, và chúng sẽ trở về với cát bụi thay vì được tái sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô.

11.8. Trực tiếp trải nghiệm Thượng đế

Một trong những vũ khí chính của ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian là lợi dụng tính dễ thay đổi của cảm xúc để cài vào bản thể con một chút nghi ngờ. Rắn đã cám dỗ Eve trong Vườn Địa đàng bằng cách đưa vào tâm Eve một chút nghi ngờ. Tác dụng là con nghi ngờ Thượng đế. Con nghi ngờ là Thượng đế sẽ thưởng con nếu con nhân lên các khả năng của mình. Con nghi ngờ là con sẽ nhận được thêm nữa nếu con cho vô điều kiện. Con nghi ngờ bản chất của mối quan hệ giữa con và Thượng đế, là nếu con trung thành khi làm một số việc thì Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều việc. Con nghi ngờ là Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc của ngài.

Đây chính là bản chất vì sao con không nhận được sự dồi dào của Thượng đế. Nó ngăn chặn con hành xử như người đồng-sáng tạo mà con được tạo ra để là. Khi con nghi ngờ Thượng đế sẵn lòng cho con sự dồi dào hay nghi ngờ các luật của Thượng đế thật sự sẽ nhân lên những gì con cho, thì con phá hoại tiến trình qua đó sự dồi dào Thượng đế đi xuống qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Con đã khóa mình khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Thay vì ở trong Dòng sông sự Sống lúc nào cũng đem thêm dồi dào vào cõi vật chất, thì con khóa mình khỏi dòng chảy đó. Đó là lý do vì sao con trở thành một lời tiên tri tự ứng nghiệm. Chính sự nghi ngờ luật Thượng đế và sự nghi ngờ tiến trình thị hiện sẽ trải bày trong cõi vật chất. Tâm thức nghi ngờ và thiếu thốn sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con. Khi con còn ở trong ảo tưởng đó, khi con còn cho phép mình bị ngự trị bởi các nghi ngờ do ông hoàng thế gian gài vào, thì tấm gương sẽ có vẻ như xác nhận niềm tin của con là Thượng đế là một ông chủ bất công đang gặt nơi mà ông không gieo (Matthew 25:24).

Thượng đế là Thượng đế của tình thương vô điều kiện, và đó là lý do vì sao ngài đã ban cho con quyền tự quyết. Con có khả năng đứng ra ngoài Dòng sông sự Sống, là dòng chảy của sự nuôi dưỡng của Thượng đế. Thượng đế cho phép con làm chuyện này, nhưng bất cứ lúc nào Thượng đế cũng sẵn sàng đón con trở về vương quốc của ngài – nếu con sẵn lòng buông bỏ mối nghi ngờ đã khiến con rời vương quốc lúc ban đầu. Làm sao con khắc phục nghi ngờ? Chỉ có một cách duy nhất. Con phải trước tiên kết nối lại với bản sắc thật của con để con biết với cái biết tuyệt đối, nội tại, là con hơn là tên tội đồ khốn khổ, hơn con người phàm hữu diệt tách biệt khỏi Thượng đế bởi một vực sâu không thể vượt qua. Làm sao con biết được điều này? Con chỉ có thể biết bằng trải nghiệm trực tiếp.

Hai điều răn đầu nói là con không được có thần linh nào trước Thượng đế chân chính và con không được mang vào mình mọi hình tượng khô chết. Bản chất của tâm thức nhị nguyên là con thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế. Điều này có nghĩa là con không còn trải nghiệm trực tiếp Hiện diện của Thượng đế, và do đó con không trải nghiệm thực tại của Thượng đế. Đó là lý do vì sao Thượng đế trở thành một đề tài mà tâm nhị nguyên, ngã hữu diệt có thể thảo luận. Khi con trực tiếp trải nghiệm một cái gì thì đâu còn gì để nghi ngờ? Khi con không có trải nghiệm trực tiếp thì Thượng đế trở thành một khái niệm lý thuyết mà thực tại có thể được trí năng con người và tâm nhị nguyên thảo luận không bao giờ dứt. Tâm nhị nguyên không bao giờ có thể giải đáp câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế, vì làm sao một tâm phát xuất từ sự tách biệt với Thượng đế lại có thể có trải nghiệm trực tiếp Bản thể Thượng đế?

Con hãy tưởng tượng đang ngồi trong nhà và có ai nói chuyện về Nam cực và cảnh vật ở đó ra sao. Lẽ tất nhiên, con không đang ở Nam cực và không thể trải nghiệm trực tiếp tình cảnh tại đó. Con có thể dùng lời mô tả, thậm chí các hình ảnh, để xây dựng một hình tư tưởng về tình cảnh ở Nam cực ra sao. Hình tư tưởng của con có thể chính xác và có nhiều chi tiết, nhưng nó không bao giờ có thể hay sẽ là một thay thế của trải nghiệm trực tiếp. Con sẽ không bao giờ thực sự biết ở Nam cực ra sao nếu con không ở tại đó và trải nghiệm với tất cả mọi yếu tố của bản thể của con, tức là hơn các giác quan vật lý của con. Chỉ khi con thật sự ở đó thì con mới biết con cảm thấy gì khi con ở nơi đó. Bản chất của tâm thức nhị nguyên là con đã tách mình ra khỏi trải nghiệm trực tiếp của bản thể Thượng đế. Con không còn trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con như là Hiện diện của Thượng đế trong quả cầu cái ta của con. Đây là điều đưa đến ý niệm Thượng đế là một Sinh thể xa cách, một sinh thể bên ngoài trên trời.

Bây giờ thì con cảm nhận con tách biệt khỏi Thượng đế, và những người có khuynh hướng tâm linh hơn trên trái đất thì có ước muốn được biết Thượng đế, biết Thượng đế như thế nào. Một lần nữa, ta có ham muốn giả và mong muốn thật. Ham muốn giả dựa trên thiếu thốn, và nguyên do của thiếu thốn là gì? Bản chất của thiếu thốn là sợ hãi. Con nghĩ: “Tôi không có cái này, và vì tôi không có nó, một cái gì tai hại có thể xảy ra cho tôi. Nếu tôi không có được cái tôi nghĩ tôi cần thì chuyện tai hại nhất sẽ xảy ra. Tôi không biết tôi cần biết gì về Thượng đế và sự cứu rỗi, nhưng nếu tôi không có hiểu biết này, thì linh hồn tôi sẽ bị đốt cháy mãi mãi trong địa ngục.” Cảm nghĩ này đã đưa đến mọi tôn giáo dựa trên sợ hãi trên hành tinh này. Một tôn giáo dựa trên sợ hãi là một con đường có vẻ đúng cho người thế tục, nhưng nó dẫn tới cái chết.

Ham muốn giả nào tạo động lực cho các tôn giáo dựa trên sợ hãi? Ở tầng thấp, đó là ý niệm con có thể mặc cả với Thượng đế, con có thể mua vé vào thiên đàng. Nếu con làm các việc đúng thì con sẽ làm Thượng đế hài lòng và ngài sẽ cho con vào vương quốc của ngài. Thày đã giải thích ở phần trên vì sao đây là một ước mơ không thể thực hiện được, và thày sẽ không giải thích lại ở đây. Ở các tầng cao của các ham muốn dựa trên sợ hãi là ước muốn được biết Thượng đế. Đây vẫn là một ham muốn vị kỷ dựa trên nỗi sợ chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu mình không biết điều mình cần biết về Thượng đế. Nhiều tín đồ tôn giáo chân thành đã bỏ ra cả đời tìm cách thỏa mãn ước muốn biết Thượng đế và biết tất cả mọi chuyện về Thượng đế qua một tôn giáo vỏ ngoài. Khi con biết một cái gì thì hàm ý có khoảng cách giữa con và cái con đang tìm hiểu. Nếu đối tượng ở ngay đây, con có thể giản dị trải nghiệm mà không “biết” nó.  

Khi con tìm cách biết một cái gì mà con nghĩ con không thể trải nghiệm trực tiếp, thì con đang xây dựng một hình tư tưởng về nó. Nếu hình tư tưởng đó bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng, thì nó sẽ là một hình ảnh giả, một hình tượng khô chết. Nếu con tìm cách biết một Thượng đế xa cách, thì động lực của con là tầm nhìn nhị nguyên và điều này sẽ ngăn cản con trải nghiệm trực tiếp Thượng đế. Con có thể xây dựng một hình tư tưởng là con biết tất cả những gì có thể biết về Thượng đế – như các người Pha-ri-si năm xưa đã làm – nhưng cái biết vỏ ngoài của con về Thượng đế ngăn con có được trải nghiệm nội tại, trực tiếp của Hiện diện của Thượng đế. Hiểu biết vỏ ngoài của con quả thật có thể ngăn con bước vào vương quốc Thượng đế bên trong con, và đó là lý do vì sao Thượng đế dạy con đừng tạo bất cứ hình tượng khô chết nào.

Khái niệm hiểu biết và ước muốn hiểu Thượng đế xa cách có thể trở nên một cạm bẫy có thể củng cố cảm nhận xa cách khỏi Thượng đế. Thày không nói tìm cách hiểu Thượng đế là sai, vì ở một tầng nào đó của con đường tâm linh, con cần mở rộng hiểu biết về Thượng đế. Nhưng ước muốn biết Thượng đế có thể dễ dàng trở thành một ngõ cụt có thể chặn đứng tiến bộ của con. Đa số người tâm linh không nhận ra điều này, và do đó rất nhiều tín đồ tôn giáo bị mắc kẹt trong cạm bẫy vi tế của kiêu mạn tâm linh. Họ cảm thấy họ biết quá nhiều về Thượng đế, về tôn giáo của họ, và họ đã làm tất cả những hành động vỏ ngoài mà tôn giáo của họ ấn định, nên họ cảm thấy họ cao hơn những người khác và Thượng đế giản dị phải chấp nhận họ vào vương quốc của ngài. Như Giê-su có nói, vương quốc Thượng đế ở trong con, do đó con sẽ không bước vào vương quốc Thượng đế bằng cách giản dị biết về Thượng đế và một giáo điều tôn giáo. Không có hiểu biết vỏ ngoài nào, dù nhiều tới đâu chăng nữa, có thể đưa con vào vương quốc Thượng đế. Con không thể vào vương quốc Thượng đế bằng hiểu biết, con chỉ có thể vào bằng cách ở đó. Cảm nhận ở đó chỉ có thể đạt được bằng cách vượt quá hiểu biết về Thượng đế xa cách và thực sự trải nghiệm Thượng đế như cái Tất cả và ở trong tất cả – kể cả trong con.

Chìa khóa là biết sẽ có một điểm trên con đường tu khi điều tuyệt đối cốt yếu là con chuyển hóa ham muốn dựa trên sợ hãi muốn biết một thượng đế xa cách thành ham muốn dựa trên tình thương muốn là một với Thượng đế bên trong. Nếu con không làm việc này, thì con sẽ bị mắc kẹt vào con đường mà người trần thế thấy có vẻ đúng, và đây chính là điều xảy ra cho các thày thông giáo và các Pha-ri-si không nhận ra Ki-tô nơi Giê-su.  Như Giê-su có nói: “Nếu sự công chính của con không hơn sự công chính của các thày thông giáo và Pha-ri-si, thì con sẽ không thể nào bước vào vương quốc thiên đàng” (Mathew 5:20). Phải chăng chuyện hiển nhiên là để bước vào vương quốc Thượng đế, con cần khắc phục cảm nhận đứng bên ngoài vương quốc? Cách duy nhất để biết Thượng đế là Thượng đế.

Thày không nói câu này với ý định phỉ báng Thượng đế, với ý niệm cuồng điên, tự đại cho rằng mình hơn bất cứ ai khác và có thể làm bất cứ gì mình muốn. Thày nói câu này với ý nghĩa thật là con nhận ra con là một cá nhân hóa của Thượng đế và cái Ta Biết phát xuất từ Sinh thể lớn hơn, Hiện diện, của Thượng đế. Cái Ta Biết có khả năng trải nghiệm Bản thể của Thượng đế, Hiện diện của Thượng đế. Cái Ta Biết có thể trải nghiệm Bản thể Thượng đế bằng cách tự đồng hóa với Bản thể Thượng đế. Đây không phải là cái biết lý thuyết dựa trên một hình tư tưởng về Thượng đế. Đây là một trải nghiệm trực tiếp Bản thể Thượng đế. Trải nghiệm này vượt quá ngôn từ và hình ảnh có thể được quy định trong thế giới hình tướng. Đó là lý do vì sao không tôn giáo vỏ ngoài nào có thể mô tả trải nghiệm này và đó là lý do vì sao không tôn giáo nào có thể cung cấp một mô tả hay hình ảnh chính xác về Thượng đế. Hình thái cao của tôn giáo không tìm cách giúp con người biết Thượng đế. Hình thái thật của tôn giáo, tôn giáo nội tâm phổ quát, tìm cách giúp con người trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế. Khi con trải nghiệm Hiện diện đó thì con biết con là ai. Con biết, bằng trải nghiệm trực tiếp, là con là một nối dài của Thượng đế vì con đã trải nghiệm sự kết nối trực tiếp giữa dòng sống của con và Thượng đế.

Con hãy trở lại hình ảnh của thày về Nam cực. Con có thể nhắm mắt và nghĩ rất mạnh về Nam cực. Thực là con có thể tạo cho mình cảm tưởng là mình đang trên Nam Cực. Nhưng làm vậy có đem con tới Nam cực chăng? Làm vậy có thể cho con ảo tưởng là con đang ở Nam cực, nhưng nếu con chưa tới đó, thì đó vẫn chỉ là một hình ảnh. Bất kể con có bao nhiêu hiểu biết về Thượng đế, con vẫn bị mắc kẹt trong hình tư tưởng mô tả Thượng đế như một Sinh thể xa cách. Chỉ khi con thăng vượt hình tư tưởng và trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế, qua đó con trải nghiệm con là một nối dài của Bản thể Thượng đế, thì con mới có cái biết nội tại thật mình là ai. Khi con có cái biết đó, nó sẽ thấm xuống thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc của con. Điều này sẽ khai trừ nghi ngờ khỏi con người con vì con lúc đó biết – bằng trải nghiệm trực tiếp – và con không còn có hình tư tưởng mà ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể khuynh loát với tất cả sự vi tế và tinh xảo của tâm nhị nguyên. Đây là cách duy nhất để hoàn toàn khắc phục nghi ngờ. Đây là cách duy nhất để tối hậu làm chủ bốn thể phàm để ý niệm bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và hành động của con trở nên một biểu hiện của con người mà con là và một biểu hiện của mong muốn thật đã đem dòng sống của con xuống vũ trụ vật chất và qua đó tạo ra bốn thể phàm của con.

Con yêu dấu, con thực sự là ai? Con được thiết kế để là một nối dài của Bản thể Thượng đế. Con đuợc thiết kế là người biến hóa ánh sáng Thượng đế, hạ độ rung của nó và mang nó vào cõi vật chất. Con được thiết kế để là một mặt trời tâm linh tỏa rạng ánh sáng của Ngọn lửa Thượng đế đặc trưng của con và qua đó biểu hiện những đặc tính đó qua bất cứ những gì con gặp trong vũ trụ vật chất. Đó là lý do vì sao Thượng đế bảo con nhân lên các khả năng của mình, nhân lên cá thể của mình, nhân lên ánh sáng của mình và cai quản trái đất. Con không đến đây để làm khán giả thụ động trong màn kịch của cuộc sống. Con không ở đây để ngồi ngoài rìa và nhìn những người bị ông hoàng thế gian kiểm soát và chiếm hữu chơi trò chơi điên cuồng không bao giờ dứt mưu tìm quyền lực và kiểm soát. Con không ở đây để nhìn trái đất này tụt xuống vòng xoáy hướng hạ sẽ rốt cuộc dẫn đến sự diệt vong của nhân loại và thậm chí có thể hủy hoại hành tinh. Con ở đây để thấm đẫm mọi sự con gặp với ánh sáng tâm linh. Con ở đây để tâm linh hóa mọi khía cạnh của cuộc đời con. Con ở đây để ban phước lành cho mọi sự mà con gặp và qua đó nâng chúng lên tiềm năng cao nhất của chúng. Con ở đây để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật khỏi những hình ảnh bất toàn đã được áp chồng lên nó bởi các ngã hữu diệt của con người trên trái đất và ông hoàng thế gian. Con ở đây để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật để nó trải bày sự toàn hảo của Thượng đế để đời sống dồi dào được thể hiện trên trái đất.

Làm sao con hoàn thành tiềm năng cao nhất của con? Bằng cách là con người mà con là, bằng cách vượt qua khoảng cách giữa con người mà con nghĩ con là và con người mà con thực sự là. Con hãy xem xét trở lại sự khác biệt giữa có một hình ảnh của Thượng đế và trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế. Thượng đế không đứng im một chỗ, Thượng đế là Dòng sông sự Sống đang luôn luôn thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa. Nếu con giữ chặt một hình tư tưởng về Thượng đế, và nếu con không chịu vượt quá hình ảnh đó, thì con đã tạo ra một hình tượng khô chết, một hình ảnh không thay đổi. Con chỉ có thể biết Thượng đế bằng cách ở trong Dòng sông sự Sống, bằng cách xuôi chảy theo dòng nước không bao giờ ngưng chảy của sự dồi dào của Thượng đế. Để xuôi chảy theo dòng chảy của sự sống đó, con phải khắc phục các ham muốn giả muốn con ngưng kim đồng hồ, giữ chặt những gì con nghĩ con sở hữu. Con phải sẵn sàng mất đi ý niệm giới hạn về cuộc sống để ở trong sự sống bất diệt là dòng chảy vĩnh cửu của sự trở nên hơn nữa.

11.9. Biết ơn như bước chặng giữa

Chìa khóa chủ để cai quản thể cảm xúc là lấy thái độ coi mọi hoàn cảnh mà con gặp như một cơ hội để biểu lộ ánh sáng của Bản thể thật của con, ánh sáng của Ngọn lửa Thượng đế của con, qua đó con phóng đại mọi hoàn cảnh mà con gặp. Con ở đây để thấm đẫm mọi hoàn cảnh mà con gặp với ánh sáng để dù hoàn cảnh có vẻ bất toàn và đen tối tới đâu, nó vẫn được nâng lên một tầng cao hơn bởi sự có mặt của con. Chìa khóa để ánh sáng đó tuôn chảy là gì? Tối hậu, chìa khóa là giành lại bản sắc thật của con như thày có giảng ở trên. Thày biết đây có vẻ là một mục đích xa vời trong tình trạng hiện nay của con, nên thày sẽ cho con một chìa khóa là một bước chặng giữa có thể có hiệu quả tuyệt diệu trong việc mở cửa cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con người con. Chìa khóa này có thể tóm gọn bằng hai chữ, và hai chữ này là “biết ơn”.

Khi con cảm thấy biết ơn Thượng đế đã sinh tạo ra con và đã cho con cơ hội xuống vũ trụ vật chất như một nối dài của chính ngài, con có thể khóa chặt mình vào con đường dẫn con vượt lên trên mọi nghi ngờ. Thày biết là thày đã đặt cho con một mục đích cao khi thày nói con cần đạt được trải nghiệm nội tại con là một nối dài của Thượng đế. Con có thể chưa hoàn toàn sẵn sàng để có trải nghiệm này, và nếu con bắt đầu bằng chiêm nghiệm và nuôi dưỡng một “thái độ biết ơn” thì con sẽ bước đi một bước quan trọng về hướng đạt được cái biết nội tại sẽ tiêu trừ mọi nghi ngờ.

Biết ơn là một cảm giác mà con có thể nuôi dưỡng ngay cả khi con vẫn còn đôi chút ý niệm thiếu thốn và nghi ngờ. Thày có nói về những người cảm thấy như họ không có chọn lựa nào khác. Họ không có chọn lựa nào khác vì họ bị mù quáng bởi lập trình của ngã hữu diệt. Con cần phải tách cái Ta Biết khỏi lập trình đó. Khi con làm vậy thì con nhận ra là con lúc nào cũng có hơn một chọn lựa khi phản ứng trước một hoàn cảnh. Bất kể hoàn cảnh nào con gặp, bất kể nó có vẻ khó khăn đến đâu, con lúc nào cũng có một cái gì mà con có thể biết ơn. Nếu con sẵn sàng nuôi dưỡng một cách có ý thức thói quen lúc nào cũng tìm một lý do để biết ơn, thì con sẽ bước một bước rất quan trọng về hướng thu hút nhiều dồi dào hơn.

Biết ơn là gì? Biết ơn là khía cạnh thấp hơn của cái biết nội tại mà thày đã đề cập tới trong bài này. Biết ơn là lòng sẵn sàng tin tưởng là khi con cho vô điều kiện thì con sẽ nhận được nhiều hơn, cho dù ngay bây giờ con không có chứng cớ vỏ ngoài nào là chuyện này sẽ xảy ra. Biết ơn là biết Thượng đế không bỏ rơi con, Thượng đế ở đây với con và Thượng đế đã cho con những gì con cần để thăng vượt hoàn cảnh hiện tại và bước lên bực kế tiếp của cầu thang xoáy ốc. Con có thể không có tất cả những gì con muốn, nhưng con có những gì con cần để đi bước kế tiếp, và vì thế con có lý do để biết ơn. Biết ơn là cảm giác con có những gì con cần để bước lên cao hơn, và khi con tận dụng những gì con có thì Thượng đế chắc chắn sẽ cho con nhiều hơn. Đây là điều mà Giê-su hứa trong câu chuyện ẩn dụ về các tiền ta-lăng, cũng là khả năng, và đây là một lời hứa chân chính.

Vì vũ trụ là tấm gương nên những người chôn tài năng xuống đất quả thực đang nói: “Thượng đế, con thiếu thốn dồi dào của ngài và do đó con không có lý do gì để biết ơn. Nếu ngài muốn con ngưng cảm thấy không biết ơn, thì ngài hãy cho con sự dồi dào và khi đó con sẽ tự động cảm thấy biết ơn.” Cách hành xử này sẽ không bao giờ thành công và nó là kết quả của một lập trình của ông hoàng thế gian. Nó dựa trên ảo tưởng cho rằng cảm giác là kết quả của điều kiện bên ngoài. Như thày đã cố giảng bằng nhiều cách, cảm xúc do tư tưởng điều khiển, và tư tưởng do ý niệm bản ngã điều khiển. Khi con nhận trách nhiệm về cuộc đời mình, con nhận ra là con chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình và con không thể dùng điều kiện bên ngoài như cái cớ để cho phép mình có cảm xúc bất toàn. Mọi sự được thể hiện sau khi tuôn chảy qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Cõi cảm xúc ở trên cõi vật lý, có nghĩa là cảm xúc phải có trước biểu hiện vật lý. Nếu con đợi Thượng đế cho con dồi dào trước khi con cảm thấy biết ơn, thì con sẽ không bao giờ có thể đem sự dồi dào đó vào cõi vật lý. Con giống như người chờ đợi hình của mình trong gương cười trước khi mình cười. Chính cảm giác biết ơn – dựa trên cái biết nội tại là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc – là cỗ xe đem dồi dào vào cõi vật chất. Chỉ khi nào con cảm thấy biết ơn những gì con đang có thì Thượng đế mới có thể cho con hơn nữa.

Chờ đợi Thượng đế cho con dồi dào trước khi con cảm thấy biết ơn là chờ đợi Thượng đế vi phạm luật tự quyết của chính ngài. Thượng đế đã cho tất cả mọi người quyền tự quyết, và lý do một số người cảm thấy thiếu thốn và không biết ơn là vì họ đã sử dụng quyền tự quyết để cho đi quyền tự quyết, cho phép ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian làm chủ cuộc đời của họ. Chính vì họ đã cho đi quyền làm chủ cuộc đời mà họ bị khuynh loát để cảm thấy thiếu thốn. Bây giờ thì họ nói với Thượng đế là họ muốn Thượng đế giải quyết cảm giác thiếu thốn của họ, và họ chính yếu nói là họ muốn Thượng đế làm chủ quyền tự quyết của họ thay ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Đây là áp đặt một hình ảnh giả lên Thượng đế, một hình ảnh dựa trên tâm thức nhị nguyên, hình ảnh một Thượng đế muốn kiểm soát họ và Thượng đế giống như ông hoàng thế gian. Thày coi hình ảnh nhị nguyên đó về Thượng đế là sự thóa mạ Thượng đế theo đúng nghĩa của nó.

Có nhiều người theo tôn giáo hay tâm linh chân thành muốn làm điều đúng, như tôn giáo vỏ ngoài của họ đã dạy. Điều những người đó thực sự nói là họ muốn Thượng đế làm chủ quyền tự quyết của họ, họ muốn Thượng đế lấy lại món quà mà ngài đã cho họ. Họ đã hiểu lầm hoàn toàn lý do vì sao Thượng đế đã ban cho họ quyền tự quyết lúc ban đầu. Thượng đế không muốn tạo con như một người máy rô bốt, Thượng đế không muốn kiểm soát con. Thượng đế muốn con tăng triển bằng cách tự con chọn lựa, và do đó Thượng đế sẽ không bao giờ kiểm soát quyền tự quyết của con. Thượng đế sẽ không bao giờ tước đi quyền tự quyết của con. Nếu con muốn cải thiện hoàn cảnh của mình, con phải giành lại quyền chọn lựa. Con phải ngưng chạy trốn không chịu chọn lựa, thậm chí con không dùng một tôn giáo vỏ ngoài để biện minh cho việc con không cai quản bốn thể phàm của mình. Con phải nhận lãnh trách nhiệm và chấp nhận sự kiện hoàn cảnh bên ngoài của con sẽ chỉ cải thiện khi con dùng ý chí cao và viễn quan của sứ vụ thiêng liêng để tạo ra cảm xúc tích cực sẽ trở thành cỗ xe đem sự dồi dào của Thượng đế tuôn chảy xuống cõi vật chất.

Cách để bắt đầu tiến trình đó là biết ơn mình đang sống, mình có tự nhận biết, mình có cơ hội chọn lựa. Thay vì cảm thấy con phải lấy các chọn lựa đó một mình, thì con có thể nhận ra Thượng đế đã gửi cho con một đấng an ủi. Con có cái ta Ki-tô là vị thày nội tâm của con. Con có các sinh thể tâm linh trên cõi cao đang phụng sự như các vị thày của riêng con. Các vị này lúc nào cũng sẵn sàng hướng dẫn để con lấy chọn lựa tốt hơn, nhưng họ sẽ không chọn lựa thay con. Con phải sẵn sàng tự giúp mình. Con phải sẵn sàng khắc phục cảm giác thiếu thốn, cảm giác sợ hãi, cảm giác thiếu hụt, cảm giác bất công, cảm giác không biết ơn. Con phải sẵn sàng dùng uy lực ý chí để tìm ra một điều mà con có thể biết ơn. Sau đó con xây dựng trên điều đó bằng cách xin các vị thày tâm linh cho con hướng dẫn nội tâm để con có thể lấy quyết định tốt hơn, và điều này sẽ cho con nhiều thứ để biết ơn hơn.  

Như các nhà tiên tri cổ xưa có nói: “Con hãy chọn ngay hôm nay con phục vụ ai” (Joshua 24:15). Hãy chọn phục vụ sự sống hay cái chết. “Hãy chọn sự sống!” (Deuteronomy 30:19). Con hãy chọn tự mình chọn lựa. Các thày, là các thày tâm linh của con, thương yêu con vô điều kiện, và các thày sẽ làm tất cả mọi chuyện có thể làm để giúp con lấy quyết định tốt nhất. Nhưng các thày không thểkhông muốn chọn lựa thay con, và các thày cũng không thể tạo ra một cảm giác trong thể cảm xúc của con. Con là người phải cầm tay lái và cai quản đứa con ngỗ nghịch là các cảm xúc của con. Nếu con thanh tẩy trước các thể bản sắc và tư tưởng, thì con sẽ có sức mạnh ý chí và viễn quan cần thiết để chế ngự con thú dữ, đâm chết con rồng của cảm xúc không chế ngự.

Tới đây thì chúng ta tới điểm có thể đi bước cuối cùng và thảo luận chuyện gì cần xảy ra ở tầng tâm vật lý, tâm ý thức, ở tầng hành động. Suốt mấy ngàn năm, những người tâm linh có khuynh hướng rút lui khỏi trần thế, tách mình ra khỏi sinh hoạt thế gian. Đã đến lúc vượt lên trên lề lối này. Đã đến lúc chúng ta nhận ra người tâm linh không ở đây để rút lui khỏi trần thế mà là để cai quản thế gian và tâm linh hóa tất cả mọi chuyện.

4 | Vật chất gia tốc – Chuyển dời quang phổ tâm thức trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Elohim Astrea qua trung gian Kim Michaels, ngày 5 tháng 1 năm 2025. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân Khóa học qua Mạng Đầu năm 2025 – Hãy gia tốc chính mình và hành tinh với các Chân sư của Tia thứ Tư.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Elohim Astrea. Lẽ tất nhiên các thày hoàn toàn hợp nhất với các Đại thiên thần trong sự phát động một chu kỳ mới này, sự truyền rải ánh sáng Ki-tô. Nhưng sự rải truyền này có nghĩa gì ở tầng cấp Elohim?

4.1. Tác dụng của ánh sáng Ki-tô trên vật chất

Các con có thể nói một cách giản lược là công việc của các Đại thiên thần là hạ độ rung của ánh sáng từ cõi tâm linh xuống bốn tầng của cõi vật chất. Công việc của các Elohim là sử dụng ánh sáng để tạo ra những cấu trúc trong bốn tầng cõi vật chất. Do đó, các Đại thiên thần rải truyền ánh sáng vào trường năng lượng cá nhân của những người hòa điệu với ánh sáng. Các Đại thiên thần cũng rải truyền ánh sáng vào tâm thức tập thể. Còn các Elohim thì sử dụng ánh sáng đó và rải truyền và khuếch đại nó xuống cõi vật chất. Điều này không chỉ có nghĩa là hành tinh, mà chính vật chất.

Điều này chính xác có nghĩa gì? À, nó có nghĩa là trong khoảng từ 5 đến 12 năm tới, việc rải truyền ánh sáng sẽ có nhiều tác dụng trên cõi vật chất. Lẽ dĩ nhiên việc này có nhiều tầng, nhưng chắc chắn là có tầng của thiên nhiên mà ta có thể định nghĩa như là các sinh vật.

4.2. Sinh vật

Sự rải truyền ánh sáng sẽ ảnh hưởng đến tất cả các sinh vật trên trái đất. Bệnh tật sẽ gia tăng. Đây không phải vì mọi chuyện đang trở nên tệ hơn nhưng vì ánh sáng sẽ xả sạch những bợn nhơ và bất quân bình. Do đó, đây là một giai đoạn tạm thời. Nhưng con sẽ thấy điều này xảy ra với con người và với cầm thú. Con sẽ thấy nhiều hành vi thất thường của cầm thú, con sẽ thấy con người có nhiều hành vi thất thường hơn. Con sẽ thấy có một số loài cầm thú sẽ suy giảm rất nhiều hay bị tuyệt chủng, vì chúng không thích nghi được với ánh sáng.

Như các thày đã gợi ý trước đây, những loài cầm thú mà con thấy hiện nay trên trái đất không do Thượng đế tạo lúc ban đầu. Nhiều loài cầm thú là sản phẩm của tâm thức tập thể bất quân bình của nhân loại. Có thể nói chúng là một biểu hiện của tâm thức tập thể nhân loại. Các thày có nói là tất cả các loài thú có chất độc không do các Elohim tạo ra. Tất cả các ký sinh trùng cũng không do các Elohim tạo ra. Trông có vẻ như mọi chuyện đang tệ hơn, tỷ dụ như số ký sinh trùng gia tăng, nhưng đây cũng sẽ là một hiện tượng tạm thời sẽ lên một cao điểm rồi hạ giảm.

4.3. Hiện tượng thời tiết

Con cũng sẽ thấy trong thiên nhiên thêm nhiều hiện tượng thời tiết thất thường. Con đã thấy điều này đang xảy ra, nhưng con sẽ thấy nhiều thêm nữa, và nguyên do không phải là sự hâm nóng toàn cầu như các khoa học gia và các nhà tuyên truyền thuyết này khẳng định. Nguyên do giản dị là vì ánh sáng gia tăng. Nhưng một lần nữa, đây là một cơ chế tạm thời.

Nếu con đã từng làm công việc tảy rửa thân thể vật lý, thì con biết là khi con làm công việc tảy rửa thì có thể có một số triệu chứng nghiêm trọng trong một thời gian ngắn cho tới khi việc tảy rửa đạt tới một khối lượng tới hạn, một mức độ tới hạn. Sẽ có tảy rửa xảy ra trong thiên nhiên, trong các hệ thống thiên nhiên, kể cả các hiện tượng thời tiết. Sẽ có những khu vực trở nên khô cằn hơn, nóng hơn, hay lạnh hơn,

Như các khoa học gia luôn luôn muốn làm, con có thể truy tìm một nguyên do duy nhất của những xáo trộn, nhưng không có nguyên do duy nhất nào ngoài sự gia tăng ánh sáng. Ánh sáng có tác dụng khác nhau tùy theo các bất quân bình trong từng lãnh vực cá biệt. Thày đang đi ra ngoài đề một chút, nhưng con có thể thấy đây là một vấn đề của nền khoa học ngày nay, tức là khoa học luôn luôn cố tìm một lý thuyết giải thích tất cả mọi chuyện.

Khoa học nghĩ rằng có một nguyên do tối hậu và duy nhất, tỷ dụ như hâm nóng toàn cầu, chất CO2 được nhả ra, hay bất kể gì khác mà họ tìm kiếm. Không phải lúc nào cũng có một nguyên do duy nhất, ngoài việc rải truyền ánh sáng như thày đã nói, nhưng hậu quả khác nhau. Hậu quả khác nhau tùy lãnh vực, tùy theo các bất quân bình trong các lãnh vực đó. Sau đó, lẽ tất nhiên chúng ta có thể đi quá lãnh vực các sinh vật. Chúng ta có thể đi quá thời tiết trên mặt địa cầu. Chúng ta có thể nhìn vào chính hành tinh.

4.4. Hành tinh

Khi ánh sáng gia tăng thì chuyện gì nhất định sẽ xảy ra? Ấy, thân thể của trái đất mẹ sẽ có những triệu chứng tảy rửa. Sẽ cò nhiều động đất hơn. Trầm trọng đến mức nào tùy thuộc con người ở mỗi khu vực đặc thù đáp ứng ra sao với ánh sáng Ki-tô. Dân chúng càng chấp nhận ánh sáng Ki-tô, càng sẵn sàng thăng vượt chính họ, thì động đất sẽ càng bớt trầm trọng. Họ càng kháng cự ánh sáng Ki-tô, càng từ chối không chịu thăng vượt chính họ, thì động đất sẽ càng trầm trọng hơn. Lẽ tất nhiên động đất sẽ đưa tới sóng thần. Núi lửa cũng sẽ phun nhiều hơn. Một lần nữa, các hiện tượng này trầm trọng nhiều hay ít sẽ tùy thuộc con người chịu thăng vượt chính họ đến mức độ nào.

4.5. Vật chất gia tốc

Nhưng chúng ta thậm chí còn có thể đi xa hơn nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra cho chính vật chất? Khi ánh sáng gia tăng thì vật chất sẽ bắt đầu rung động ở một tần số cao hơn. Các thày đã nhiều lần giải thích là trái đất được tạo ra như một hành tinh tự nhiên bởi các thày, các Elohim. Các thày quy định một hành tinh trong đó vật chất có độ dày đặc thấp hơn hiện nay. Thày không nói là trái đất sẽ trở lại trạng thái hành tinh tự nhiên trong vòng 12 năm sắp tới. Thày chỉ nói là khi ánh sáng gia tăng thì độ rung của trái đất được nâng lên, và do đó gia tốc độ rung của chính vật chất.

Kết quả là con người sẽ dễ tách rời, dễ không đồng hóa, tâm với thân thể hơn. Con người sẽ dễ dàng hơn trải qua tiến trình nhận ra mình không phải là thân thể mà mọi người tâm linh đã trải qua. Con không phải là thân thể vật lý. Con là một tâm hồn hay dòng sống khoác vào thân thể. Con người sẽ dễ dàng hơn thấy mình là một sinh thể tâm linh, thậm chí chấp nhận thuyết tái sinh.

Con người sẽ dễ chấp nhận hơn rằng: “Các vấn đề tâm lý của tôi không thể nào chỉ là kết quả của những gì xảy ra trong tuổi thơ ấu của tôi trong kiếp sống này. Chúng nhất định phải có nguyên do sâu xa hơn đi trở về các kiếp sống trước, và chỉ cần đọc sơ sách sử cũng đủ chứng tỏ là mọi người rất có thể đã gánh chịu nhiều chấn thương, kể cả chiến tranh, tra tấn và xung đột.” Nhận thức này sẽ đưa đến một chuyển đổi tâm thức.

Nhận thức có tái sinh sẽ gia tốc sự chuyển đổi tâm thức hiện đã và đang xảy ra qua đó càng ngày càng nhiều người chấp nhận họ là sinh thể tâm linh, rằng chúng ta chỉ bị giới hạn bởi tâm lý của chính mình, và do đó cuộc đời mình phải chú tâm vào điểm: “Nếu tôi muốn được tự do và an bình với chính mình và an bình với việc sống trên trái đất, thì tôi phải giải quyết tâm lý của tôi.”

Lẽ tất nhiên nhiều người đã bắt đầu nhận ra điều này. Rất nhiều người hơn nữa sẽ tới điểm nhận ra điều này trong vòng 12 năm tới. Và đây là một sự chuyển đổi mà các thày chờ đợi. Các thày chờ đợi một chuyển đổi qua đó càng ngày càng nhiều người thức tỉnh và nhận ra là, bất kể hoàn cảnh bên ngoài là gì, họ không bất lực vì lúc nào họ cũng có thể tiến hành công việc giải quyết tâm lý của họ.

4.6. Phương cách chữa lành mới

Tiến trình giải quyết tâm lý không tùy thuộc điều kiện bên ngoài, do đó nhân loại sẽ để ý hơn đến các quan niệm tự giúp mình, giải quyết tâm lý, và ngay cả tâm linh. Một nhận xét phụ là các con, những người tiên phong trong các người tâm linh, rất có thể thấy cơ hội thương nghiệp với các khuynh hướng này, qua đó con có thể phối hợp việc sinh kế và giúp đỡ người khác. Qua đó, con gia tốc sự tăng trưởng của mình, gia tốc sự tăng trưởng của người khác, và cân bằng nghiệp quả với người khác. Thày không có lới khuyên cho riêng từng người trong các con, thày chỉ muốn nói là nếu con cưỡi ngọn sóng thì con có thể trải nghiệm tăng trưởng lớn lao.

Lẽ tất nhiên, khi con gia tốc độ rung của vật chất vật lý thì kết quả là những người chấp nhận sự gia tốc này ở các tầng bản sắc, tư tưởng và tình cảm cũng sẽ gia tăng độ rung của thân thể vật lý của họ. Sau một giai đoạn tảy rửa ban đầu thì thân thể của con sẽ lành mạnh hơn. Và điều này sẽ xảy ra cho nhiều người trên khắp thế giới.

Sẽ có một số bệnh tật sẽ gia tăng trong một thời gian, và sau đó giảm thiểu. Nhiều người hơn sẽ nhìn nhận rằng không thể dùng phương pháp vật lý máy móc để chữa lành bệnh tật thể chất. Con người cần một phương pháp toàn diện hơn, nhìn con người như một tổng thể và nhận ra rằng cách tốt nhất để chữa lành thân thể vật lý là làm việc với tâm lý. Lẽ tự nhiên nhiều người đã nhận ra điều này, nhưng điều thày muốn nói là quan niệm này sẽ đi vào chính mạch hơn, được nhìn nhận rộng rãi hơn. Do đó, sẽ có nhu cầu hợp tác giữa các người cung cấp dịch vụ y tế vật lý và tâm lý.  

Và sau cùng thì một phương pháp hoàn toàn mới sẽ lộ diện trong đó những người cung cấp dịch vụ ý tế sẽ được huấn luyện về cả hai mặt vật lý và tâm lý của chữa lành. Một lần nữa, lẽ tất nhiên một số người đã bắt đầu làm việc này, nhưng khuynh hướng sẽ tăng triển. Một lần nữa, đây là một cơ hội cho những ai muốn dấn thân vào lãnh vực này. Một lần nữa, thày không muốn khuyên mỗi người trong các con nên làm gì, thày chỉ muốn chỉ ra cơ hội.

4.7. Đột phá trong lãnh vực khoa học

Sau đó, lẽ tất nhiên, sự gia tăng độ rung trong vật chất sẽ đưa tới nhiều khám phá đột phá trong lãnh vực khoa học, qua đó khoa học sẽ bắt đầu nhìn ra nhiều dạng công nghệ mới. Các thày đã nêu lên sự kiện là hiện nay nền công nghệ có hình thức mà các thày gọi là dựa trên sức mạnh. Thày Saint Germain có nói là một  nền công nghệ mới sẽ xuất hiện, không dựa trên sức mạnh, và sự kiện này sẽ gia tốc trong 12 năm tới. Chính xác những đột phá nào xuất hiện sẽ tùy thuộc vào cách con người đáp ứng ánh sáng Ki-tô và sẵn sàng gia tốc chính mình.

4.8. Đón nhận năng lượng

Nhưng điều chắc chắn là có khả năng một công nghệ mới xuất hiện trong ngành sản xuất năng lượng, hay đúng hơn là đón nhận năng lượng, mà không dựa trên sức mạnh. Tuy nhiên, như các thày có nói trước đây, việc này cũng đòi hỏi có thay đổi trong xã hội, vì lẽ tự nhiên không thể cho phép một thành phần thượng lưu quyền lực nhỏ giành độc quyền loại công nghệ này như họ đã chiếm độc quyền công nghệ dựa trên sức mạnh. Lẽ dĩ nhiên họ không dễ chiếm độc quyền một nền công nghệ không dựa trên sức mạnh, nhưng họ có thể đình hoãn hay ngăn chặn nó.

Một lần nữa, nếu một số lượng người tới hạn đáp ứng thì giới thượng lưu quyền lực sẽ không thể chiếm độc quyền hay ngăn chặn nền công nghệ mới này. Do đó, sẽ có những nguồn năng lượng mới được khám phá, hoặc con người sẽ khám phá cách khai thác mới các nguồn năng lượng đã có sẵn.

Điều này không có nghĩa là trong 12 năm tới sẽ nhất thiết có năng lượng hoàn toàn miễn phí. Sẽ vẫn có nhu cầu khai thác năng lượng gọi là năng lượng bền vững như điện lực từ mặt trời, điện lực từ gió. Sẽ có nhu cầu nghiên cứu về hội nhập hạt nhân hay các lãnh vực khác, nhưng các khoa này chỉ có tính cách tạm thời. Và sẽ có một giai đoạn, có lẽ sau chu kỳ 12 năm, trong đó năng lượng sẽ trở nên hoàn toàn miễn phí và sẵn có ở khắp mọi nơi. Sẽ không có nhu cầu phân phối năng lượng.

Quan niệm có một hệ thống phân phối năng lượng từ một nhà máy điện lực trung ương sẽ dần dần biến đi. Giới thượng lưu quyền lực sẽ chống trả khuynh hướng này, vì họ muốn tiếp tục thu họach những lợi nhuận vĩ đại phi lý từ hệ thống năng lượng. Nhưng nếu đủ lượng người đáp ứng ánh sáng Ki-tô thì họ sẽ không thể ngăn chặn công nghệ mới.

4.9. Thấy vật chất là rung động

Sau đó, lẽ tất nhiên, khi độ rung của vật chất được nâng lên thì con người sẽ khám phá, thực ra chúng ta phải nói là nhận ra, điều mà thuyết tương đối và khoa vật lý lượng tử đã công bố, đó là vật chất là rung động. Khi đi xuống những tầng sâu hơn của vật chất, thì ta bước qua một lằn ranh nơi không còn hạt phân tử nữa mà chỉ còn sóng năng lượng.

Điều này lẽ tất nhiên mang nhiều ý nghĩa. Một ví dụ là giờ đây có thể  thấy được là thân thể có thể được chữa lành bằng rung động. Đây là điều  mà các con đã phần nào làm khi các con đọc chú đọc thỉnh. Nhưng lẽ tự nhiên các khoa học gia sẽ tìm một cách máy móc hơn để thực hiện việc này. Đã có một số khoa học gia đã khám phá một số điều, nhưng trong tương lai quan niệm này sẽ đi vào chính mạch hơn và các khoa học gia sẽ chế tạo dụng cụ, dụng cụ máy móc và vật lý, để phát ra làn sóng cao có khả năng chữa lành các tế bào, giải thoát chúng khỏi ung thư, độc tố hay nhiều bệnh khác.

Nhưng cũng sẽ có nhận biết càng ngày càng tăng là các nhà giả kim thời xưa không hoàn toàn điên rồ khi họ toan tính biến kim khí thô sơ thành vàng. Duy có điều là việc này không thể thực hiện bằng phương tiện hóa học, và chỉ có thể thực hiện bằng rung động.

Một lần nữa, thầy không muốn nói ở đây là trong 12 năm tới nhân loại sẽ có khả năng biến đất thành vàng và mang ra lát đường. Tuy nhiên, sẽ có sự nhìn nhận rằng vật chất mềm dẻo hơn những gì con người nghĩ trước đó. Do đó, việc dùng rung động để biến một dạng vật chất sang một dạng khác là điều quả thực khả thi.

Thày không nói là con người có thể biến chì thành vàng, vì đây là một bước nhảy lớn không dễ thực hiện trong 12 năm tới. Nhưng nếu ít nhất con người nhận ra là có thể phát sóng vào một hạt phân tử và biến nó thành một hạt phân tử khác, thì đây đã là một tiến bộ đáng kể trong chu kỳ 12 năm tới. Và lẽ tất nhiên, việc các Elohim rải truyền ánh sáng sẽ khiến khám phá này dễ xảy ra hơn, dễ chấp nhận và thực hiện hơn. Nhưng một lần nữa, cách con người đáp ứng ánh sáng Ki-tô sẽ ảnh hưởng việc này.

4.10. Các khoa học gia

Khi thày nói đến con người, thày không chỉ muốn nói các người tâm linh, thày cũng bao gồm các khoa học gia. Vì các khoa học gia sẽ chỉ khám phá ra công nghệ này nếu họ nâng cao tâm thức họ lên trên hệ thuyết duy vật. Lẽ đương nhiên đã có một số khoa học gia bắt đầu làm việc này rồi, nhưng khuynh hướng cần trở nên chính mạch hơn. Và các khoa học gia sẽ dễ làm việc này hơn khi ánh sáng được rải truyền. Nhưng điều này không nhất thiết xảy ra, vì lẽ tất nhiên luật tự quyết ngự trị tuyệt đối trên trái đất.

Các con có thể cầm giữ viễn quan về việc này, các con có thể thỉnh gọi việc này, các con có thể tìm các khoa học gia đã nói về việc này, nói về quan niệm tâm thức là sắc thái căn bản của vũ trụ, vì đây là điều cần được nhận ra. Con người cần nhận ra là công nghệ dựa trên sức mạnh trong bản chất có tính chất máy móc. Nói cách khác, một khi con đã sáng chế ra máy chạy hơi nước, thì tâm thức của người đút than vào lò không quan trọng. Máy sẽ tiếp tục đốt than, tạo ra hơi nước và làm công việc của nó.

Nhưng điều con cần nhận ra là máy chạy hơi nước là một bước tiến khó lớn lao của nhân loại so với xe ngựa kéo. và bước tiến này chỉ có thể xảy ra vì một số khoa học gia đã nâng cao tâm thức của họ. Để nhân loại có thể tiến từ công nghệ dựa trên sức mạnh lên công nghệ không dựa trên sức mạnh thì một số lượng tới hạn các khoa học gia phải nâng cao tâm thức của họ, nhận biết của họ, ngõ hầu có thể chấp nhận tâm thức là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Vì công nghệ không dựa trên sức mạnh chỉ có thể được khám phá và đem vào hiện thực bởi các khoa học gia đã nhận ra vai trò của tâm thức trong sự sinh tạo thế giới vật chất.

Như thày có nói, một số khoa học gia đã bắt đầu nhận ra việc này. Con có thể nghiên cứu công việc của họ, con có thể thỉnh gọi để họ được giải thoát, có đủ uy lực. Để họ được gia tốc, thấy cách thực hiện được công nghệ mới vì lẽ tự nhiên, có nhiều khoa học gia sẽ chỉ được thuyết phục khi có ai chế tạo được loại công nghệ có kết quả trông thấy được.

Việc này hoàn toàn có thể xảy ra trong 12 năm tới vì sự gia tốc xảy ra trên hành tinh. Nhưng nó cần một bước tiến lớn hơn bước tiến từ xe ngựa lên đầu máy hơi nước, hay bước  tiến từ phản ứng hóa học lên phân tách nguyên tử.

4.11. Tâm thức là sắc thái căn bản của vũ trụ

Có nhu cầu rất lớn có một số khoa học gia sẵn sàng bước lui lại, trước tiên là rũ bỏ hệ thuyết duy vật, và sau đó bắt đầu xem xét: nếu tâm thức là sắc thái căn bản của vũ trụ, thì điều này có nghĩa gì? Làm sao chúng ta có thể đem tâm mình hòa nhịp với tâm lớn hơn tất phải có nếu tâm thức là sắc thái căn bản?

Các con thấy điều thày muốn nói ở đây. Hệ thuyết duy vật cho rằng tâm thức của con, mọi chuyện xảy ra trong tâm con, là kết quả của những tiến trình vật chất và vật lý xảy ra trong bộ óc vật lý. Nó là một hiện tượng đến sau các tiến trình vật lý. Toàn bộ vũ trụ bắt đầu không có tâm thức. Một tiến trình tiến hóa máy móc, vô thức đã đem đến sự xuất hiện của trái đất và con người, và tâm thức chỉ xuất hiện khi bộ óc con người đạt tới một mức độ tinh vi cần thiết.

Nhưng nếu tâm thức được coi là sắc thái căn bản, thì điều này có nghĩa gì? Đây là câu hỏi mà một số khoa học gia đã bắt đầu đặt ra. Nhiều khoa học gia hơn khác cần đặt câu hỏi này. Nhiều người không phải là khoa học gia cần đặt câu hỏi này, để dần dần một động lượng được xây đắp trong tâm thức tập thể dẫn tới sự bãi bỏ hệ thuyết duy vật. Và khi có một số lượng tới hạn thì sẽ có các khoa học gia có thể hòa điệu tâm họ với thày Saint Germain và các chân sư khác và sử dụng kiến thức khoa học của họ, hiểu biết khoa học thực dụng và công nghệ, để chế tạo công nghệ không dựa trên sức mạnh.

4.12. Năng lượng miễn phí

Con đã biết là công nghệ này đã có mặt. Điện lực từ gió, điện lực từ mặt trời, điện lực thủy điện có thể coi là công nghệ không dựa trên sức mạnh theo nghĩa con người không dùng sức mạnh, không dùng năng lượng do con người tạo ra để khiến, để ép gió thổi, mực nước dâng lên sau đập, hay mặt trời chiếu sáng. Lẽ tự nhiên, nếu tâm thức là một sắc thái căn bản của thiên nhiên, thì các khoa học gia sẽ bắt đầu nhận ra – chắc chắn là họ có thể bắt đầu nhận ra, và đó là lý do thày nói bài này vào tâm thức tập thể – là tâm thức chính thật là nguồn tạo ra năng lượng khiến vũ trụ sinh động.

Nhưng năng lượng này đến từ một cõi cao hơn, mà chúng ta gọi là cõi tâm linh, và độ rung của năng lượng này được thuyên giảm qua trung gian của tâm thức, trước tiên xuống tầng bản sắc, sau đó tới tầng tư tưởng, sau đó tới tầng tình cảm và sau cùng tới tầng vật lý. Và khi con nhận ra điều này, con nhận ra là con có thể dựa vào dòng năng lượng này và chế tạo công nghệ đem năng lượng từ ba cõi cao vào cõi vật lý là nơi năng lượng có thể làm công việc vật lý, kể cả dưới dạng điện năng nhưng không chỉ giới hạn vào điện năng.

Quả thực có tiềm năng, có lẽ không trong 12 năm tới, con người nhận ra có những dạng năng lượng căn bản hơn điện năng nhưng có khả năng làm công việc cơ khí mạnh mẽ hơn điện năng. Ta có thể nói điều này sơ đẳng đối với các thày, các Elohim, nhưng nó đòi hỏi một bước nhảy vĩ đại trên mặt tâm thức và công nghệ để thành hiện thực.

Các con là những người tâm linh có thể cầm giữ viễn quan, thỉnh gọi, để các người có khả năng kỹ thuật chuyên môn làm được bước nhảy vọt này. Vì lẽ tự nhiên khi con bắt đầu có năng lượng không do giới thượng lưu quyền lực nắm độc quyền, không được tạo ra để kiếm lời, thì sẽ có hệ quả không thể tưởng tượng trong xã hội.

Các con hãy tưởng tượng, và các có thể thấy việc này thay vì tưởng tượng, là khi giá dầu hỏa xuống thấp thì nền kinh tế khởi sắc. Khi giá dầu hỏa lên cao thì nền kinh tế trì trệ. Bây giờ con tưởng tượng năng lượng – dùng để bật đèn, sưởi ấm, chuyên chở, công nghiệp – miễn phí. Con sẽ thấy nền kinh tế tăng trưởng đến chừng nào? Một sự  tăng trưởng mà đa số con người không thể tưởng tượng nổi.

Con hãy lấy thí dụ một quốc gia như Ấn Độ, là một nước đang bắt đầu có một nền kinh tế tốt đẹp hơn. Nhiều người Ấn Độ đã bắt đầu thoát nạn nghèo đói, nhưng vẫn còn nhiều làng mạc chưa có điện. Con hãy tưởng tượng là tất cả các làng mạc đó, tất cả các nơi hẻo lánh trên địa cầu, có điện lực ở ngay địa phương họ ở và miễn phí. Sẽ có bao nhiêu cơ hội mới nảy sinh? Con hãy tưởng tượng con người sẽ làm được gì với công ngfhệ đó.

Con hãy tưởng tượng là việc chuyên chở vật dụng từ nơi này sang nơi nọ có thể không hoàn toàn miễn phí, nhưng ít nhất là không có giá dầu xăng cần dùng trong tầu thủy, xe lửa và xe cộ. Con hãy tưởng tượng giao thương thế giới sẽ ra sao khi giá chuyên chở hạ xuống như vậy. Con hãy tưởng tượng có những người sống tại các vùng hẻo lánh hiện nay chỉ có thể dùng nông nghiệp để sinh nhai, mà nông nghiệp thì gặp khó khăn vì khí hậu thay đổi, con hãy tưởng tượng nếu họ thiết lập cơ sở sản xuất vì họ có năng lượng miễn phí, có thể chuyên chở hàng hóa với giá rẻ tới các thành thị nơi có thị trường.

Bổng nhiên, một thành phần khổng lồ của nhân loại có thể thoát nạn nghèo đói. Họ không cần phải dời về thành thị để có việc làm trong những hãng xưởng lớn. Bỗng nhiên, mọi chuyện sẽ dễ dàng phân tản về địa phương và con có thể tránh việc con người tập trung về các thành thị lớn với những vấn đề cung ứng phức tạp liên hệ.

4.13. Những người sợ thay đổi

Việc rải truyền ánh sáng sẽ có nhiều, nhiều hệ quả tích cực. Nhưng như các thày có nói, một số người sẽ coi đây là một mối đe dọa, và mọi chuyện sẽ tùy thuộc cán cân giữa những người coi đây là một cơ hội và sẵn sàng gia tốc họ để tận dụng cơ hội, và những người coi đây là một mối đe dọa vì họ sợ mất những gì họ đang có.

Một sắc thái của hành tinh phi tự nhiên là trên đó đa số con người sống trong hoàn cảnh rất giới hạn. Tuy thế, nhiều người rất dính mắc vào những gì họ đang có, sợ mất những gì họ đang có, sợ thay đổi sẽ chỉ đem đến tình trạng tệ hơn.

Thày có nói đến các làng mạc hẻo lánh, ở Ấn Độ, Trung Đông, Nam Mỹ, Siberia hay đâu khác. Tại những nơi đó có những người sống như tổ tiên họ sống cách đây mấy trăm năm, và họ không thật sự muốn thay đổi. À, họ có thể muốn có một điện thoại thông minh, nhưng ngoài ra họ không muốn thay đổi nếp sống cơ bản của họ.

Khía cạnh khác mà người tâm linh cần chú ý, để có thể thỉnh gọi, là trên một hành tinh phi tự nhiên con người bị đàn áp. Thày Saint Gernain có nói, con người bị kẹt cứng, bị đau khổ, họ biết hoàn cảnh sống của họ bị giới hạn, nhưng liệu họ có muốn gia tốc mình ra khỏi hoàn cảnh chăng?

4.14. Cảm thấy bị đàn áp

Điều con người cần hiểu, và điều này sẽ dễ hơn với ánh sáng được rải truyền, là trên trái đất hiện nay đa số con người sống trong điều kiện vật lý giới hạn, nhưng họ cũng sống trong điều kiện tâm lý rất giới hạn. Họ bị đàn áp về mặt tâm lý, thậm chí có thể nói về mặt tâm linh.

Cơ chế kỳ lạ liên quan đến việc này là ai ai cũng có ý niệm là mọi chuyện phải như thế nào và không được như thế nào. Với nhiều người đây không nhất thiết là một tiến trình suy nghĩ có ý thức, mà là một tiến trình đa phần vô ý thức. Ta có thể gọi đây là một cảm nhận trực giác hay bản năng, nhưng trực giác có lẽ là một từ không chỉnh với nhiều người ở tầng tâm thức thấp. Tuy  thế, con hãy nhìn những người đang sống trong một chế độ độc tài như một thí dụ.

Con hãy lấy nước Nga như một thí dụ hiển nhiên. Các thày có nói là dân tộc Nga đã bị các lãnh đạo tàn chuyên chế đàn áp trong rất nhiều thế hệ, trong suốt mấy ngàn năm. Nhưng con nhìn người dân Nga bình thường, họ quả thực cảm nhận có việc gì không phải, hoàn cảnh không lý tưởng, mọi chuyện có thể khá hơn. Có thể họ không suy nghĩ rõ ràng như vậy, nhưng họ cảm thấy bị áp chế, họ cảm thấy nặng nề, họ cảm thấy bị đè xuống.

Nhưng sa nhân đã thành công trong việc gài một cơ chế vào tâm họ khiến họ không chịu nhìn nhận cảm giác của họ và đặt một câu hỏi giản dị: “Tại sao? Tại sao tôi bị đàn áp? Tôi có cần bị đàn áp hay không? Đây có phải là cách duy nhất để sống hay không?”

Người dân Nga có những lý do vì sao họ không đặt những câu hỏi đó. Những người khác trên thế giới đang bị đàn áp có những lý do khác, hay cũng có thể cùng lý do với người Nga, nhưng liên quan đến những điều kiện bên ngoài khác. Những người bị đạo Hồi đàn áp, chẳng hạn, họ nhìn sự việc như một vấn đề tôn giáo, trong khi người dân Nga coi đây như là một vấn đề liên quan đến cá nhân họ.

4.15. “Tại sao chúng tôi bị đàn áp?”

Con thấy chăng, khắp nơi trên thế giới con có những nhóm người bị đàn áp nặng nề. Họ có cảm nhận đang bị đàn áp, họ cảm thấy bị đàn áp. Và điều sẽ xảy ra trong 12 năm tới là mức độ ánh sáng gia tăng sẽ buộc những người đó, và thày dùng chữ buộc một cách cố ý, phải đối mặt điều mà họ không chịu đối mặt. Một mặt, ánh sáng sẽ giúp các người đó dễ hỏi câu hỏi: “Tại sao chúng tôi bị đàn áp? Chuyện này có cần thiết chăng? Chúng tôi có thể được giải thoát khỏi đàn áp chăng?”

Nhưng ánh sáng cũng sẽ buộc họ phải đối mặt câu hỏi, vì có cơ chế là con người càng bị đàn áp thì họ càng tạo thêm nhiều lớp vỏ phủ nhận khiến họ không trả lời câu hỏi “tại sao?” và xem xét làm sao họ có thể được giải thoát.

4.16. Chúng tôi muốn loại lãnh đạo nào?

Một lần nữa, lẽ tất nhiên điều này liên quan đến việc nhận ra là chính giới thượng lưu quyền lưc đang đàn áp con người khắp nơi trên thế giới, không phải chỉ là giới thượng lưu quyền lực đang hiện thân trong cõi vật lý, mà còn là sa nhân trong các cõi tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Con người cần quyết định: Chúng tôi có muốn những sinh thể này trên trái đất hay chăng, hay chúng tôi muốn trái đất được giải thoát khỏi họ? Trong ngắn hạn, con người cần quyết định: Chúng tôi có muốn loại người này lãnh đạo xã hội hay chúng tôi muốn được giải thoát khỏi họ?

Nhưng con thấy chăng, muốn làm chuyện này thì con người phải đối mặt với câu hỏi: Nếu chúng tôi không có một nhà lãnh đạo độc tài, thì ai sẽ lấy quyết định? Chúng tôi có chịu đứng ra lãnh trách nhiệm, như những người dân trong các nước dân chủ đã làm, tham dự vào những quyết định trong xã hội, sẵn sàng tạo cho mình kiến thức, sẵn sàng nhìn vào chính mình, xem xét liệu mình có đủ hiểu biết, liệu mình có đủ nhận biết, để lấy quyết định sáng suốt? Hay người dân không chịu nâng tâm thức của họ, không chịu gia tốc tâm thức của họ?

4.17. Cơ hội hay đe dọa?

Như các thày có nói, một số người sẽ coi 12 năm tới như một cơ hội, trong khi một số khác sẽ coi đây là một đe dọa. Một số sẽ coi đây là một cơ hội lớn lao để tăng trưởng và sáng tạo. trong khi một số khác sẽ coi đây là một đe dọa vì một số cấu trúc và tổ chức hiện hành sẽ sụp đổ. Kết quả thực sự sẽ là một phân chia theo tâm thức, như Giê-su có nói khi xưa về phân chia giữa cừu và dê, và một số sẽ nâng tâm thức, và một số sẽ hạ tâm thức.

Kết quả là trái đất sẽ gia tốc, tâm thức tập thể sẽ gia tốc lên một tầng cao hơn, nếu có đủ số người đón nhận thay đổi. Và điều này có nghĩa là, như các thày có nói trước đây, toàn bộ tầng mức của 144 tầng tâm thức sẽ dời chuyển lên trên. Chuyện này sẽ xảy ra trong 12 năm tới, nếu đủ số người đón nhận cơ hội.

4.18. Gia tốc hàng loạt hay diệt chủng hàng loạt?

Nhưng việc 144 tầng tâm thức dời chuyển sẽ có hậu quả gì? Thứ nhất, một số sa nhân ở các tầng tâm thức thấp nhất sẽ không được phép đầu thai. Nhưng cũng sẽ có một số người bám víu vào cái cũ, cũng sẽ không thể tiếp tục đầu thai. Hậu quả là điều mà thày Saint Germain đã khiêu khích các con khi thày nói là sẽ có hoặc gia tốc hàng loạt hoặc diệt chủng hàng loạt. Thày Saint Germain cố ý nói khiêu khích như vậy, vì thày muốn các con là người tâm linh, hãy nhìn vào phản ứng của mình khi nghe lời tuyên bố đó.

Nếu con có một phản ứng cảm xúc mạnh, thì nó từ đâu tới? À, con đã có giáo lý về các ngã tiềm thức. Một phản ứng cảm xúc mạnh có thể từ đâu tới nếu không từ một ngã tiềm thức? Các thày không chê trách con. Các thày hiểu là nhiều người trong các con vẫn còn những ngã tiềm thức đó vì con đã trải nghiệm trong một kiếp trước biến cố diệt chủng hàng loạt, có thể do chiến tranh hay nguyên do khác.

Nhưng điều thày Saint Germain cố ý làm là khiêu khích con để cho con cơ hội nhìn ra các ngã đó và dùng giáo lý của các thày  để khắc phục chúng. Chúng là ngã. Và nếu con muốn tận dụng cơ hội do 12 năm sắp tới đem lại, thì con phải bỏ chúng lại đằng sau. Con cần sẵn sàng nói: “Chuyện gì cần xảy ra cứ xảy ra”. Con chỉ cần giản dị đi vào các ngã đó và đuổi chúng đi, và sẵn sàng nhìn vào trái đất mà không có ý tưởng là diệt chủng hàng loạt không được xảy ra.

4.19. Hãy nhìn vào phản ứng của mình

Một số người trong các con có một phản ứng hoàn toàn bất quân bình khi nghe các từ diệt chủng hàng loạt vì con nghĩ đến những tai ương khủng khiếp. Tỷ dụ như khi toàn thể giống khủng long bị xóa khỏi mặt đất hay khi một nền văn minh sụp đổ. Một lần njữa, phản ứng của con hiểu được, vì như các thày có nói, đã có các nền văn ming sụp đổ trong một biến cố khốc liệt. Một số trong các con chắc đã có đọc về lục địa Atlantis và biến cố Atlantis bị chìm dưới hồng thủy.

Nhưng con cần nhận ra ở đây là một biến cố diệt chủng hàng loạt sẽ không ở mức độ đó, quy mô đó. Con đang thổi phồng trong tâm thức mình, coi nó ghê gớm hơn nó thực sự là. Con đã từng trải nghiệm trong cuộc đời con nhiều biến cố diệt chủng hàng loạt. Bao nhiêu người đã chết trên toàn thế giới do đại dịch corona? Đó chẳng là một biến cố diệt chủng hàng loạt hay sao? Nó có làm xáo trộn hoàn toàn sự sống trên trái đất? Không. Khủng hoảng thuốc phiện hay fentanyl tại Hoa Kỳ thì sao? Đó chẳng là một biến cố diệt chủng hàng loạt hay sao?

Còn chiến tranh tại Ukraine thì sao? Đó chẳng là một biến cố diệt chủng hàng loạt hay sao? Cho dù người dân Nga nói chung không nhận ra là có bao nhiêu người Nga bị thiệt mạng. Con hãy nhìn điều mà Israel đang làm ở Gaza trong năm qua. Đó chẳng là một biến cố diệt chủng hàng loạt hay sao? Còn Thế chiến Thứ hai thì sao? Đây rõ ràng là một biến cố diệt chủng hàng loạt. Nhưng thế giới vẫn sống sót và tiếp tục tiến tới.

Thày không tiên đoán là trong 12 năm tới sẽ có một biến cố có tầm cỡ như Thế chiến Thứ hai, dù rằng lẽ tất nhiên có nhiều tà lực mong muốn chuyện này xảy ra. Nhưng nếu đủ số người đáp ứng sự gia tăng ánh sáng. thì biến cố tầm cỡ đó sẽ được thăng vượt. Con sẽ gia tốc hành tinh quá biến cố đó.

Con cần nhận ra ở đây là như một người tâm linh, con cần khắc phục các nỗi sợ tương tự nếu con muốn cưỡi ngọn sóng. Vị sứ giả này đã mô tả là ông bị xáo trộn bởi chiến tranh tại Ukraine vì ông có thể thấy những hậu quả tai hại cho cả hai nước Nga và Ukraine. Và ông có mong muốn tránh không muốn con người phải gánh chịu trải nghiệm đó. Nhưng ông đã làm việc với tâm của ông và nhận ra là cảm giác bất an đến từ một ngã tiềm thức, thậm chí một số thái độ mà ông đem theo mình khi ông tới trái đất, là ông không muốn con người trên trai đất phải chịu đau khổ.

4.20. Trường đời Cay đắng trên trái đất

Tất cả các con cần xem xét thái độ của mình với trái đất, quan điểm của con vế trái đất, tại sao con đến đây, con đã phản ứng lại điều kiện trên trái đất như thế nào khi bị chấn thương nhập đời và chứng kiến một số biến cố khác. Con có thể tới điểm con an bình và nói, bất cứ gì cần xảy ra cứ xảy ra. Nếu con người chỉ học hỏi qua trường đời cay đắng thì con cần chấp nhận là sự đắng cay càng ngày càng phải khốc liệt hơn để con người rốt cuộc thức tỉnh và nói không thể tiếp tục như thế này nữa, Trường đời Cay đắng chính là như  vậy.

Can khởi sự ở tầng tâm thức 48, con đi vào tách biệt, con tạo ra mê cung, con càng ngày càng đi sâu vào mê cung, phản ứng qua ý niệm cái ta của mình với điều kiện trên trái đất, các điều kiện do người khác tạo ra với tâm tách biệt và ngã tách biệt của họ.

Con người phản ứng lẫn nhau và càng ngày càng đi sâu thêm vào tách biệt. Họ khộng chịu lắng nghe bất cứ ai. Có bao nhiêu người trên trái đất chịu lắng nghe các chân sư thăng thiên? Không ai với tới họ được. Họ sẽ chỉ thay đổi khi họ đi sâu vào mê cung đến độ họ bị áp chế quá mức bởi chính tâm lý của họ và tới điểm suy sụp khi họ nói: “Tôi không thể tiếp tục như thế này nữa. Có cách sống nào khác chăng?” Khi người đệ tử sẵn sàng thì người thày xuất hiện, bất kể vị thày nào mà người đó có thể nhận ra. Rất thường khi, lẽ tất nhiên, không phải là chân sư thăng thiên. Các thày không thể hiện ra trực tiếp với người ở các tầng tâm thức thấp nhất, cho dù họ quay đầu và xin trợ giúp, nhưng các thày có thể gửi họ một cái gì có thể giúp họ bước lên nấc thang kế tiếp.

4.21. Toàn bộ dải 144 tầng tâm thức chuyển dời lên cao hơn

Con cần nhận ra ở đây, như vị sứ giả này đã phải vật lộn với ý tưởng này trong một thời gian trước khi chấp nhận, là nếu nhân loại có thể biểu hiện thời hoàng kim của Saint Germain trong một khoảng thời gian vừa phải, thì cần phải có xáo trộn. Con cần phải khuấy nồi lên. Con cần khuấy động một số thứ. Nếu không thì tiến trình sẽ trải nhiều thế hệ, có thể nhiều thế kỷ, chắc chắn là nhiều thập niên.

Các thày, các Đại thiên thần, các Elohim, các Thượng sư, và chắc chắn Saint Germain đã quyết định gia tăng ánh sáng, để vừa cho con người cơ hội gia tốc vừa cho họ cơ hội tự phán xử và giảm tốc họ ra khỏi hiện thân vật lý. Vì sự kiện giản dị là, để trái đất tiến vào thời đại hoàng kim thì tâm thức tập thể phải nâng lên. Và quả thật các thày có nói từ lâu rồi là các con là những người tâm linh, khi các con nâng tâm thức mình thì con nâng tâm thức tập thể lên. Và quả thức con có thể nâng tâm thức tập thể lên.

Nhưng những người chống cự thay đổi thì sao? Con đang nâng tâm thức tập thể bằng cách kéo dãn tâm tập thể, không bằng cách nâng tầng thấp nhất. Nhưng đến một lúc thì con cần dời chuyển toàn bộ dải 144 tầng tâm thức lên cao. Con cần nâng tầng thấp nhất lên. Và những người không chịu gia tốc tâm thức họ khi chuyện này xảy ra, thì họ sẽ không thể tiếp tục ở trên trái đất. Có nhu cầu cho những sinh thể khác đang sẵng sàng nâng mình lên được cơ hội đầu thai.

4.22. Con hãy làm việc giải quyết tâm lý của mình

Nếu con muốn cưỡi ngọn sóng trong 12 năm tới, nếu con muốn an bình với việc sống hiện thân trên trái đất, thì con cần nhìn vào các ngã tiềm thức mà con đang có. Một lần nữa, việc con có các ngã tiềm thức này do những trải nghiệm mà con có trong các kiếp trước, là điều rất dễ hiểu. Nhưng các thày đã trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ đã được mấy năm rồi. Con đã có thì giờ để làm việc giải quyết nó. Nếu con vẫn thấy mình có một phản ứng xúc cảm mãnh liệt trước câu nói của thày Saint Germain, thì lý do là con chưa giải quyết nó. Con hãy dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Vì con không thực sự tin rằng, phải không con, là khi các thày rải truyền ánh sáng, thì ánh sáng chỉ tác động trên người khác, chỉ tác động trên những người ở các tầng tâm thức thấp.

Vì nếu con tin như vậy, thì con phải xoay chuyển và nhận ra rằng khi các thày rải truyền ánh sáng, nó sẽ tác động nhiều nhất trên các người ở các tầng tâm thức cao nhất. Đó là vì các người đó có khả năng hòa điệu với ánh sáng. Nhưng điều này cũng có nghĩa là ánh sáng sẽ xả sạch những gì chưa được giải quyết trong tâm tiềm thức của con.

Lẽ tất nhiên, đây là một cơ hội để con tăng triển và đem sự tăng trưởng của mình lên một tầng cao hơn. Tự ngã của con và các ngã tiềm thức của con có sẽ coi đây là một đe dọa chăng? À, lẽ tất nhiên là như vậy rồi. Con có sẽ coi đó là một đe dọa chăng? À, điều này tùy thuộc con tự đồng hóa mình với các ngã tiềm thức tới mức độ nào, hay con sẵn sàng xoay chuyển, như nhiều người trong các con có thể làm tức khắc, và nói: “Ồ, tôi nghĩ tôi có phản ứng lại câu nói của thày Saint Germain. Nhưng lẽ dĩ nhiên đó chỉ là ngã tiềm thức phản ứng. Và tôi đã khắc phục được nhiều ngã tiềm thức rồi. Chắc chắn là tôi cũng sẽ khắc phục được ngã này. Nó chỉ là một ngã. Nó không có thật. Nó dựa trên một ảo tưởng. Tôi sẽ dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để làm việc với tâm lý của tôi và đuổi ngã này đi, để tôi có thể coi 12 năm tới như một cơ hội lớn lao giúp tôi tăng trưởng. Và tôi có thể nhìn vào tương lai với thái độ tích cực, chấp nhận rằng xáo trộn là điều cần thiết để đem lại tăng trưởng.”

Giống như khi con thấy một phụ nữa sinh đẻ, bị đau đớn để đứa bé được ra đời, thì đây cũng là điều mà trái đất sắp trải qua, thai nghén trước khi một thời đại tươi sáng hơn được sinh ra.

4.23. Góp phần vào việc gia tốc trái đất

Lẽ tất nhiên, những điều trên không xảy ra trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng như các con đã từng nghe các thày nói cả ngàn lần, trái đất không phải là một hành tinh tự nhiên. Do đó sẽ có tương phản. Và khi tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trở nên rõ rệt hơn vì ánh sáng gia tăng, thì trái đất sẽ rung chuyển, và mọi sự sẽ bị đảo lộn.

Tới đây thì thày hy vọng đã cho các con một viễn quan tích cực và một lượng định thiết thực, thực tiễn về những gì con cần làm để đón nhận viễn quan tích cực và cưỡi ngọn sóng trong 12 năm sắp tới. Đây quả thực là một cơ hội độc nhất. Con có thể nhìn lại lịch sử, và thấy trái đất chưa từng có một cơ hội như vậy trong suốt thời gian được gọi là lịch sử được ghi chép. Do đó, con có thể hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của con và nói: “Đây có thực là lý do chính vì sao tôi muốn đầu thai trong thời kỳ này chăng?”  

Lẽ dĩ nhiên, khi con định ra Sứ vụ Thiêng liêng, con không thể biết là sự gia tốc này sẽ xảy ra, vì như các thày đã nói, chỉ vài năm trước đây không thể nói là điều này sẽ nhất thiết xảy ra. Tuy nhiên, có thể chăng là con đã nghĩ chuyện này có tiềm năng xảy ra? Do đó, con muốn hiện thân trên trái đất, vì nếu nó xảy ra thì con muốn dự phần vào đó. Các thày hy vọng là nhiều người trong các con có thể xoay chuyển và thấy đây là một điểm quyết định trong lịch sử trái đất, một cơ hội quyết định để con gia tốc chính mình và góp phần vào việc gia tốc trái đất.

Sự thực là thày Saint Germain biết là chỉ có một cách duy nhất để đem lại thời đại hoàng kim trên trái đất. Không thể làm được qua biện pháp tiệm tiến của tiến hóa và thay đổi dần dần. Chỉ làm được qua biện pháp cách mạng dựa trên gia tốc. Và với tư cách Elohim của Tia thứ Tư, THÀY LÀ gia tốc. Nếu con chưa thể neo trụ vào đó thì con hãy đọc bài chú của thày, đọc bài thỉnh của thày, xin thày giúp con trải nghiệm ngọn lửa gia tốc mà thày cầm giữ cho trái đất.

4.24. Ngọn lửa Gia tốc

Làm sao trái đất trở thành một hành tinh vật lý? Có một điểm khi ba vị Elohim của ba tia đầu đã thể hiện một môi trường. Nhưng cũng cần có điểm eo là nơi môi trường cần được gia tốc để có thể biểu hiện hơn trong vật lý. Và đây là vai trò của Tia thứ Tư. Sau đó ba vị Elohim của ba tia trên có thể tiếp quản và khiến môi trường này càng trở nên cụ thể hơn nữa.

Nhưng lẽ tất nhiên, tất cả bảy vị Elohim đều góp phần vào mọi bước trên tiến trình. Do đó con có thể nói là mỗi khi một ý tưởng được biểu đạt, bất cứ khi nào một thay đổi xảy ra, thì ngọn lửa gia tốc có góp phần. Và thày cống hiến con ngọn lửa gia tốc, vì nó không bao giờ cạn kiệt.

Con không thể dập tắt ngọn lửa gia tốc. Con không thể làm nó hao mòn. Nó không phải là một số lượng hữu hạn. Gia tốc không có giới hạn. Sẽ không bao giờ có điểm có cái gì không thể gia tốc, hay nói đúng hơn có tự nhận biết không thể gia tốc. Ngay cả một vũ trụ vật lý cũng sẽ không bao giờ tới điểm nó không thể gia tốc. Có thể tới điểm nó gia tốc vào trạng thái thăng thiên. Nhưng ngay cả trong trạng thái thăng thiên, sẽ vẫn còn gia tốc cho tới khi con đạt tới tâm thức đấng Sáng tạo.

Nhưng khi con, như một cá nhân, đạt tới tâm thức đấng Sáng tạo, thì làm sao con làm việc này? Bằng cách tự gia tốc chính mình. À, con từ đâu tới? Con là một nối dài của sinh thể đấng Sáng tạo. Khi con gia tốc chính mình, đấng Sáng tạo gia tốc chính ngài. Khi con đạt tới tâm thức đấng Sáng tạo, thì đấng Sáng tạo đã lên cao hơn nữa. Và do đó, có gia tốc liên tục trong cái Tất cả, gia tốc liên tục, không giống như những gì xảy ra trong thế giới hình tướng, nhưng vẫn là gia tốc.

Tại sao vậy? Ấy, thế giới hình tướng từ đâu tới? Từ cái Tất cả. Khi một thế giới hình tướng được tạo ra và gia tốc, thì có gia tốc trong cái Tất cả. Mọi sự là gia tốc. Mọi sự đều đang gia tốc.

Thày biết là thày đang vẽ ra hình ảnh là Tia thứ Tư rất quan trọng. Nhưng lẽ dĩ nhiên thày biết nó không quan trọng hơn các tia khác. Tuy thế, vì thày là Elohim của Tia thứ Tư, thày có quyền thuyết giảng về các đức tính của Tia thứ Tư. Và do đó, đối với thày, gia tốc là trải nghiệm vui tươi nhất mà con có thể có.

Và do đo, thày niêm con trong niềm vui của Ngọn lửa Gia tốc.

2 | Hãy mừng đón chu kỳ 12 năm tới – Gia tốc và biểu hiện quả vị Ki-tô của mình

Chân sư Thăng thiên Đại thiên thần Gabriel qua trung gian Kim Michaels, ngày 4 tháng 1 năm 2025. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân Khóa học qua Mạng Đầu năm 2025 – Hãy gia tốc chính mình và hành tinh với các Chân sư của Tia thứ Tư.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Đại thiên thần Gabriel. Hành tinh này như thế nào dưới tầm nhìn của một đại thiên thần? Từ góc nhìn của con, con có thể nghĩ là hành tinh đang đen tối, mọi chuyện dường như đang tệ hơn, đang đen tối hơn. Hết tranh chấp này đến tranh chấp khác nổi lên khắp thế giới, toàn cầu đang nóng lên, mối đe dọa này, mối đe dọa khác. Nhưng hành tinh không như vậy dưới tầm nhìn của thày. Vì thày nhìn sự việc hoàn toàn khác. Thày chỉ nhìn một điều duy nhất thôi, đó là sự dâng lên của ánh sáng Ki-tô nơi các người đang hiện thân trên trái đất.

2.1. Tuyên cáo Ki-tô đản sinh trên trái đất

Như các con biết, thày được gọi là Thiên thần Tuyên cáo. Ngày hôm nay, thày quả thực tới đây để tuyên cáo là đầu năm 2025 này đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử cận đại của trái đất vì ánh sáng Ki-tô đã được gia tăng tới một số lượng tới hạn, do đó thày có thể tuyên cáo sự đản sinh của Ki-tô trên trái đất.

Trước khi các con cảm thấy quá hứng khởi bởi tin này, thì chúng ta cần nhìn lại hoàn cảnh gần 2000 năm trước đây, khi thày hiện ra cho cô Mary và tuyên cáo là cô đã được Thượng đế chọn lựa và có tiềm năng cho ra đời một hài nhi Ki-tô. Điều mà đa số các con chưa thực sự nhận ra là sự việc này lúc đó không phải là chuyện đã thành. Cô có quyền tự quyết. Cô có thể phản đối, và cô đã bắt đầu phản đối. Cô có quyền từ chối không sinh ra một hài nhi đặc biệt như thế vì đây là một  trách nhiệm lớn hơn những gì cô muốn nhận lãnh. Lúc nào quyền tự quyết cũng có mặt. Khi thày tuyên cáo Ki-tô đản sinh trên trái đất thì không có nghĩa là sự việc này sẽ quả thực xảy ra ở mức độ cao nhất. Nhưng điều thày tuyên cáo hôm nay là trái đất đã tới điểm khi số 10,000 người đang hiện thân có tiềm năng biểu hiện hoàn toàn quả vị Ki-tô trong kiếp sống này cần phải chấp nhận là Ki-tô có thể và đang được đản sinh nơi họ. Và thêm vài triệu người có tiềm năng biểu hiện một mức quả vị Ki-tô cao trong kiếp sống này cũng cần chấp nhận Ki-tô có thể và được đản sinh trong họ. Và nếu một số lượng tới hạn các người đó làm việc này thì sẽ có một tác dụng lớn lao trên tương lai hành tinh và sự biểu hiện Thời đại Hoàng kim của Saint Germain.

2.2. Khai mở một chu kỳ 12 năm

Điều thày tuyên cáo hôm nay là một chu kỳ 12 năm được khai mở bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2025 và chấm dứt ngày 31 tháng 12 năm 2036. Chu kỳ 12 năm này xảy ra không phải do một định luật không thể tránh, cũng không phải đơn thuần vì mức tăng triển của các người tâm linh trên trái đất, mà vì các thày, các đại thiên thần, đã quyết định trợ giúp trái đất như vậy. Không có gì bắt buộc các thày làm việc này, nhưng các thày thấy việc này có khả năng đưa trái đất vào một bước ngoặt lớn. Do đó, 12 năm tới sẽ là một chu kỳ trong đó càng ngày càng thêm nhiều người được cơ hội đản sinh Ki-tô trong họ. Cũng có nghĩa là các thày, các đại thiên thần và dĩ nhiên nhiều vị chân sư thăng thiên khác cùng làm việc với các thày, sẽ rải xuống những năng lượng đặc thù giúp con người đản sinh Ki-tô trong họ, để cho Ki-tô đản sinh trong họ, khắc phục sự phản đối không cho Ki-tô được đản sinh trong họ, và qua đó nói như Mẹ Mary: “Tôi sẽ nhận việc này theo đúng ý muốn của Cha.” Không phải là ý muốn của một Thượng đế bên ngoài mà là Hiện diện TA LÀ của chính họ.

2.3. Một cơ hội và một thách đố lớn lao lạ thường cho trái đất

Đúng ra là con không tuân theo ý muốn của “Cha” mà là ý muốn của “chúng ta”. Đây là ý muốn mà con đã ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình trước khi đầu thai, nếu con là một trong những người mà thày đề cập. Lẽ tất nhiên, không có gì ép buộc con nhưng sự thực là có hai chuyện sẽ xảy ra. Đối với mấy triệu người có tiềm năng, đây là một cơ hội tăng trưởng lạ thường. Nhưng đây cũng là một thách đố lạ thường cho trái đất, cho những cư dân nguyên thủy của trái đất trong đó có nhiều người không chịu đản sinh Ki-tô nơi họ mà chỉ muốn giản dị tiếp tục sống cuộc đời như bình thường hay chỉ muốn cải thiện đôi chút nhưng không cải thiện cách mạng.

Chu kỳ sắp tới cũng là một thách đố lạ thường cho các sa nhân trên hành tinh, vì trong 12 năm sắp tới họ sẽ phải đối mặt với phán xử Ki-tô đang gia tốc, và dĩ nhiên điều này bắt đầu ngay bây giờ. Không phải là phán xử Ki-tô sẽ sa xuống nếu họ không đáp ứng trong vòng một khoảng thời gian nào đó, mà phán xử Ki-tô đã bắt đầu sa xuống. Nhiều sa nhân đang đầu thai và trong các cõi tình cảm, tư tưởng và bản sắc sẽ phải đối mặt phán xử Ki-tô, và phán xử Ki-tô sẽ gia tăng trong các năm tới.

Do đó, con sẽ thấy một số diễn biến lạ thường xảy ra, như việc một số người mà con nghĩ sẽ còn sống mãi mãi hay ít ra là lâu dài sẽ bỗng nhiên không tại thế nữa, hay một số cấu trúc, tổ chức, quốc gia, tư tưởng, ý thức hệ mà con nghĩ sẽ tồn tại mãi mãi đột nhiên vỡ ra từng mảnh, tan rã, sụp đổ. Con đừng chờ đợi là chu kỳ sắp tới là một thời kỳ không có thách đố.  

Nhưng đây cũng là một cơ hội lạ thường để trái đất gia tốc và biểu hiện thời đại hoàng kim nhanh hơn rất nhiều so với trường hợp không có chu kỳ. Nếu các thày không tạo cơ hội này, thì có thể cần 50 năm để trái đất đạt một khúc quanh tới hạn, khi một số lượng tới hạn con người có thể thấy và chấp nhận sự biểu hiện của thời đại hoàng kim. Bây giờ thì có xác suất cao là một số lượng tới hạn con người sẽ nhận ra điều này trước cuối năm 2036.

2.4. Con hãy buông bỏ các mong chờ

Và đây quả thật là thí dụ thời gian được thu ngắn cho những ai được chọn lựa. Nếu con muốn tận dụng chu kỳ sắp tới thì con cần xem xét mình với con mắt quán xét, con chờ đợi hành tinh này là gì, đang như thế nào, phải như thế nào, tương lai phải như thế nào, tăng triển phải như thế nào, và con có thể cần nhận ra là con cần buông bỏ ước mong có một chuyển tiếp suôn sẻ sang thời hoàng kim.

Lẽ tất nhiên, con đã thấy qua đại dịch vừa qua là thế giới có nhiều biến động hơn là đa số con người chờ đợi, nhưng xáo trộn sẽ chỉ gia tăng thêm trong 12 năm sắp tới. Thày không tiên đoán sẽ có những diễn biến khốc liệt, nhưng thày tiên đoán có một số biến động và chuyển biến đột ngột, bất ngờ, ngoài sự chờ đợi của mọi người, và là thách đố cực lớn cho mọi người. Nhưng, như thày đã nói, kết quả là sự gia tốc đưa trái đất vào thời hoàng kim sớm hơn rất nhiều.

2.5. Gia tốc vào vòng xoáy hướng thượng tích cực

Các con, là những người tâm linh, các con hãy lắng nghe những gì thày sắp nói. Các thày cần các con gia tốc chính mình vào vòng xoáy hướng thượng tích cực, và các thày cần con biết rất, rất rõ trong tâm là con sẽ không cho phép mình bị lôi kéo theo các vòng xoáy hướng hạ mà con người sẽ tạo ra khi tinh thần bi quan gia tăng trong đại chúng.

Con cần vững tâm, nhắm vào mục đích mà không bận tâm vì các điều kiện nhất thời. Con cần tránh bị lôi kéo vào tinh thần tiêu cực, như rất nhiều người đã bị lôi kéo vào tinh thần tiêu cực trong cơn đại dịch, vì chiến tranh tại Ukraine, vì chiến tranh tại Trung đông, vì thách đố này, thách đố nọ. Con cần thấy rất rõ là con sẽ không cho phép mình bị lôi kéo và bỏ viễn quan. Nếu con nghĩ công việc sinh Giê-su và nuôi nấng Giê-su cho đến tuổi 12 của Mary là một công việc dễ, thì con hãy nghĩ lại. Cô đã gặp nhiều thách đố, nhiều hơn những gì cô đã giải thích và cần giải thích, nhưng con cần biết là giai đoạn 12 năm đầu sau khi thày tuyên cáo là một giai đoạn rất khó khăn. Và sau đó con hãy xem xét hoàn cảnh Mary và Joseph đưa cậu thiếu niên Giê-su đến đền thờ Solomon và giới thiệu em. Ấy, giai đoạn này kể từ lúc thày tuyên cáo hơn 12 năm một chút, nhưng đúng 12 năm sau khi Giê-su ra đời. Con để ý khoảng thời gian 12 năm tương tự từ nay tới năm 2036.

2.6. Phán xét Ki-tô sẽ gia tốc

Sau đó, nếu một số lượng tới hạn con người đáp ứng cơ hội mà các thày tạo ra thì thời hoàng kim sẽ biểu hiện rõ ràng đến độ một số lượng tới hạn con người sẽ khắc phục tinh thần tiêu cực và chấp nhận là trái đất thật sự đã chuyển mình đi về một tương lai tươi đẹp hơn. Phần lớn tùy thuộc vào việc con người có chấp nhận Ki-tô đản sinh trong họ, sẵn sàng thách thức tự ngã của mình, các ngã tiềm thức, cách họ nhìn cuộc đời. Nhưng ngoài ra thì phán xét Ki-tô cũng gia tốc, vì khi con người cho phép Ki-tô đản sinh trong họ thì lẽ tất nhiên các thày sẽ đáp ứng bằng cách rải truyền thêm ánh sáng Ki-tô. Và khi ánh sáng Ki-tô đi vào hệ thống năng lượng, bốn thể phàm của trái đất thì nó sẽ đem lại phán xét Ki-tô. Con có thể nhìn sự việc này bằng nhiều cách, nhưng con cũng có thể giản dị hình dung mình đang ở trong một hầm tối, trong đó con người có thể lẩn trốn trong bóng tối, và con tăng ánh sáng trong hầm, và lẽ dĩ nhiên khi ánh sáng gia tăng thì không ai có thể lẩn trốn nữa, và đây chính thực là điều sẽ xảy ra trên trái đất.

Tất cả những ai không chịu vượt thăng chính họ sẽ không thể lẩn trốn nữa. Tất cả những ai đang cố ý làm hại người khác sẽ không thể lẩn trốn nữa. Tất cả những ai đang tìm cách lừa dối và khuynh đảo người khác sẽ không thể lẩn trốn nữa. Và lẽ dĩ nhiên sa nhân sẽ không thể lẩn trốn nữa.

2.7. Hãy chọn sự sống hay cái chết!

Con có nghĩ việc người sứ giả này quyết định có một số chương trình video trên Youtube để nói về giới thượng lưu quyền lực và sa nhân là một điều ngẫu nhiên chăng? Lẽ dĩ nhiên là không. Các thày đã điều khiển việc này để phổ biến một số tài liệu mà con người có thể tìm thấy trong các năm sắp tới và qua đó hiểu một cách sâu sắc hơn là có một nhóm sinh thể trên trái đất trông giống như con người nhưng không phải là con người mà cũng không phải là sinh thể tâm linh. Họ là một nhóm sinh thể dồn mọi nỗ lực vào việc kiểm soát và tiêu hủy, sẵn sàng tiêu hủy tất cả những ai mà họ không thể kiểm soát. Và đã đến lúc con người trên trái đất đứng lên và quyết định: “Chúng tôi không muốn những người này lãnh đạo chúng tôi nữa! Chúng tôi muốn Ki-tô lãnh đạo chúng tôi!” Và Ki-tô tìm thấy nơi đâu? Trong chính họ.

Thay vì tìm Ki-tô bên ngoài, như tín đồ Thiên chúa giáo đã làm trong 17 thế kỷ vừa qua do những tha hóa của giáo hội Công giáo, con người sẽ bắt đầu tìm Ki-tô bên trong họ và nhận ra đã đến lúc con người đứng lên lấy trách nhiệm và tham gia vào xã hội, tham gia vào việc lãnh đạo xã hội. Nhưng họ cần làm việc này với phân biện Ki-tô, chứ không dựa trên các thuyết cho rằng có âm mưu mờ ám và đủ loại tin tưởng ngờ nghệch khác, và do đó con sẽ thấy là con có thể có hai cách nhìn tình hình.

Con có thể coi đây là cơ hội lớn nhất để tự thăng vượt, tự gia tốc mà trái đất đã có trong lịch sử cận đại, hay con có thể coi đây là một mối đe dọa. Đây là một mối đe dọa nếu con muốn duy trì tình trạng hiện tại, con muốn cảm thấy cuộc đời đang nằm trong vòng kiểm soát của mình. Chắc chắn sa nhân sẽ coi đây là một mối đe dọa, và họ đã bắt đầu rồi. Ngay lúc này, họ đang cảm thấy là có điều gì đang sắp xảy ra, họ không biết rõ là gì, nhưng khi thày trao truyền các lời này thì sa nhân trên các cõi bản sắc và tư tưởng đang lắng nghe, họ nhận ra chuyện gì đang xảy ra và họ nhận ra thật chính xác, rõ hơn đa số con người, tầm quan trọng của nó, và do đó họ biết họ không thể ngăn chặn nó.

2.8. Trên sao dưới vậy

Lẽ tất nhiên họ không thể ngăn chặn một đại thiên thần rải truyền ánh sáng, nhưng họ nghĩ họ có thể ngăn chặn nhiều người thể nhập ánh sáng, cho phép Ki-tô đản sinh trong họ, và đây là điều mà họ đã bắt đầu mưu toan thực hiện, giống như họ đã mưu toan từ khi Giê-su ra đời. Quả thực là họ đã làm từ trước khi Giê-su ra đời, vì họ đã mưu toan giết tất cả các trẻ em phái nam, tất cả các trẻ em Ki-tô, trước khi các em khôn lớn và trở thành mối đe dọa cho họ. Đây là điều họ sẽ mưu toan làm tới tất cả những người có tiềm năng, và đây là lý do thày nói điều cực kỳ quan trọng là con quyết định: “Tôi sẽ không cho phép mình bị lôi kéo vào vòng xoáy tiêu cực, bất kể chuyện gì xảy ra trên thế giới. Tôi sẽ chú tâm vào thực tại Ki-tô bên trong tôi, thực tại Ki-tô của các chân sư thăng thiên, để tôi có thể trên sao dưới vậy.” Đây là châm ngôn của Ki-tô đang hiện thân, mà các thày cũng gọi là Ki-tô Hằng sống: “Trên sao dưới vậy”. Và đây là điều cực kỳ quan trọng mà con cần ghi nhớ trong 12 năm sắp tới. Như thày đã nói, con có thể mừng đón cơ hội và nếu con sẵn sàng gia tốc chính mình, như thày Serapis đã giải thích thật tuyệt vời, thì con sẽ không thấy giai đoạn 12 năm tới như một gánh nặng mà là một cơ hội huy hoàng.

2.9. Cưỡi làn sóng sắp tới của ánh sáng Ki-tô

Thày muốn cho con một hình ảnh biểu tượng. Thày biết là đa số các con chưa từng lướt sóng trên đại dương, nhưng chắc chắn là con đã thấy hình ảnh trên truyền hình, và con có thể tưởng tượng con đang đứng trên một tấm ván nhỏ được cấu tạo bởi các giáo lý và sự thể nhập giáo lý của con. Có một làn sóng khổng lồ đang ập tới, không có gì có thể cản nó và nó đang đi thẳng về hướng con. Con phải làm gì? À, con cần gia tốc chính mình để con có thể đạt tốc độ cần thiết để cưỡi ngọn sóng, và nếu con không gia tốc chính mình thì ngọn sóng sẽ ập lên trên con, quật ngã con, nhào con lên xuống và mọi chuyện sẽ rất hỗn độn cho tới khi con có thể ngoi đầu lên hít thở. Nhưng nếu con gia tốc thì con có thể cưỡi ngọn sóng, và con có thể tiếp tục cưỡi sóng cho tới khi nó hết sức, và chắc chắn sẽ có lúc nó hết sức, và cuộc cưỡi sóng của con sẽ rất thú vị. Con cũng biết là dù con đang cưỡi phía đầu ngọn sóng, thì ngọn sóng cũng ập xuống phía sau con và làm xáo trộn đại dương. Những cấu trúc trên trái đất cũng sẽ bị xáo trộn, nhưng nếu con vẫn còn cưỡi sóng thì con đâu phải quan tâm những gì xảy ra phía sau con. Đó là lý do thày nói: “Đừng nhìn sau lưng, hãy nhìn trước mặt.”

Con sẽ cần làm việc giải quyết tâm lý mình trong suốt 12 năm sắp tới. Con cần sẵn sàng nhìn vào chính mình và thấy những phản ứng khi có hỗn loạn xảy ra trên trái đất, khi có chuyện bất ngờ xảy ra, khi có gì tan vỡ khi con nghĩ nó sẽ tồn tại mãi mãi. Đó có thể là một quốc gia, thị trường chứng khoán, nền kinh tế, các cơ chế trong xã hội, các tư tưởng, hệ thống niềm tin, tôn giáo. hay bất kể gì khác sụp đổ. Con cần nhìn vào phản ứng của mình và nhận ra: “Nếu tôi có phản ứng khi chuyện này xảy ra, thì tôi chắc chắn phải có một ngã tách biệt đã xây dựng cảm giác an toàn trên một cấu trúc trên trái đất. Nhưng Ki-tô không xây dựng cảm giác an toàn trên bất kể cấu trúc nào trên trái đất vì chúng đều là căn nhà xây trên cát. Ki-tô xây nhà trên đá cứng, và khi cơn bão tới, mưa xuống thì căn nhà vẫn đứng vững, vì con xây dựng ý niệm bản sắc của mình trên Hiện diện TA LÀ, chứ không phải trên nhân cách bên ngoài hay bất cứ điều kiện nào trên trái đất.

Người ta có câu rác rưởi của một người là kho tàng của người khác. Cũng vậy mối đe dọa của một người là một cơ hội cho người khác. Chu kỳ sắp tới là một cơ hội vĩ đại để gia tốc. Sẽ có người nghĩ đây là một giai đoạn giảm tốc, vì những tháp Babel, những nhà xây bằng lá bài mà con người đã xây dựng, bị kéo xập, nhưng tuy vậy đây vẫn là một giai đoạn gia tốc cho những ai có khả năng hòa điệu với nó và sẵn sàng gia tốc mình.

2.10. Giải quyết tâm lý để cưỡi làn sóng ánh sáng Ki-tô trong niềm vui

Ki-tô đản sinh trong con nghĩa là gì? Ấy, nó có nghĩa là có ánh sáng chiếu vào hầm tăm tối của tiềm thức của con và nó sẽ phơi bày những gì chưa giải quyết, tất cả các ngã tiềm thức mà con có, đã được sinh ra khi con phản ứng lại các trải nghiệm trên trái đất. Các thày đã trao truyền giáo lý tận tường về các avatar, chấn thương nhập đời, làm sao giải quyết các ngã tiềm thức. Con hãy dùng các giáo lý đó để cưỡi ngọn sóng, vì ánh sáng Ki-tô sẽ phơi bày các ngã tiềm thức, các dính mắc của con cũng như là cách con xây dựng ý niệm bản sắc, cảm giác an toàn dựa trên các thứ vỏ ngoài trên trái đất. Nếu con có thể xoay chuyển tâm thức, và thày không nói là con phải làm ngay hôm nay, nhưng con cần làm càng sớm càng tốt để có thể cưỡi ngọn sóng, và khi đó giai đoạn 12 năm sắp tới sẽ là một cơ hội to lớn, một niềm vui to lớn. Trong khi đó, thì với nhiều người, đa số con người trên trái đất, thì đó là một giai đoạn chấn  động, bất an.

2.11. Nhu cầu quân bằng của tâm Ki-tô

Một lần nữa, con cần tìm ra sự quân bằng vì quân bằng thực sự chính là đặc tính của Ki-tô. Ki-tô chính là quân bằng. Các thày biết rõ là có nhiều người tìm ra giáo lý của các thày, như vị sứ giả này đã làm khi ông còn trẻ và như nhiều người trong các con đã làm, và họ trở nên rất sốt sắng muốn áp dụng giáo lý, họ trở nên lạc quan quá đáng, nghĩ rằng họ tu cao hơn những gì họ thực sự là. Thày không khuyên các con làm như vậy. Thày khuyên các con theo một con đường quân bằng, trong đó con nhận ra con chưa hoàn toàn là Ki-tô ngay lúc này nhưng con đang xây dựng tâm Ki-tô trong vòng 12 năm sắp tới. Con không chối bỏ tâm Ki-tô trong con, nhưng con cũng không nghĩ con đã đạt quả vị Ki-tô hoàn toàn. Con tìm ra một điểm quân bằng. Có thể nói Ki-tô là sự quân bằng giữa hai đối cực nhị nguyên có mặt trong mọi hoàn cảnh, do đó các thày không khuyên lạc quan vô giới hạn cho rằng tất cả mọi chuyện đều tuyệt vời và chối bỏ mọi vấn đề. Các thày cũng không khuyên trầm cảm và chú tâm vào các vấn đề. Các thày chủ trương Trung đạo của Đức Phật, chỉ có thể đạt được xuyên qua tâm Ki-tô, phân biện Ki-tô.

Con đừng nghĩ con đã có phân biện Ki-tô, mà hãy sẵn sàng làm việc để mài sắc nó. Lẽ dĩ nhiên con đã có một phần phân biện Ki-tô, nhưng các thày thường xuyên thấy một số đệ tử, trong đợt truyền giáo này hay những đợt tuyền giáo trước, và một số người chưa từng nghe tới chân sư thăng thiên, nghĩ rằng họ đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu cho họ khả năng phân biện đâu là thực đâu là giả. Thày không khuyên con có thái độ này, con hãy sẵn sàng xem xét tâm mình, hóa giải các ngã tiềm thức, cố gắng vươn lên phân biện Ki-tô ngày càng cao hơn trong 12 năm tới.

Con có một cơ hội độc đáo đi vòng quanh mặt đồng hồ trong vòng 12 năm sắp tới, và mỗi đường trên mặt đồng hồ có ý nghĩa riêng biệt, các thày sẽ trao truyền thêm giáo lý về đề tài này. Con nhận ra chăng là điều thày muốn nói giản dị là: con đừng phản ứng lại điều thày nói ở đây với tâm vỏ ngoài. Con hãy xem những điều thày nói như một cơ hội để con đi vào nội tâm và xem xét tâm lý của mình. Con hãy đừng có những lời tuyên bố khoa trương trong tâm hay với người khác rằng con đã đạt được tầng nào đó của quả vị Ki-tô. Nếu con có nhu cầu tuyên bố trình độ Ki-tô của mình thì có nghĩa là con chưa đạt được nó, giản dị như vậy đó.

Có điểm quân bằng giữa chối bỏ Ki-tô trong mình và chối bỏ Ki-tô bằng cách để tự ngã quy định thế nào là Ki-tô và quy định là con đã đạt được quả vị Ki-tô rồi. Con hãy cố nhắm vào điểm quân bằng, nó riêng cho mỗi người, nhưng tất cả các con đều có thể đạt được điểm quân bằng đó. Con hãy nhìn xem liệu con có khuynh hướng bị lôi kéo về một cực đoan, cho dù đề tài là đại dịch, cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ, chiến tranh tại Ukraine hay chiến tranh Trung Đông. Con hãy nhìn xem liệu con có khuynh hướng bị thu hút bởi các thuyết âm mưu hay các tầm nhìn tiêu cực, hay thậm chí nghĩ rằng một quan điểm là sự thực tuyệt đối, một cách nhìn sự việc là sự thực tuyệt đối. Con hãy sẵn sàng với lên tầm nhìn Ki-tô, con đang có một cơ hội đặc biệt để làm chuyện này. Nếu con không làm vậy thì Ki-tô sẽ không đản sanh trong con trong thời gian 12 năm sắp tới. Con sẽ quả thực xây dựng trên ngã tách biệt mà con đã tạo ra để tiến đến gần tầng tâm thức 96. Con sẽ tâm linh hóa ngã tách biệt đó và qua đó, thay vì đi theo con đường của Ki-tô thì con bắt đầu đi con đường của phản-Ki-tô, con đường tả đạo. Đây là một nguy cơ mà thày muốn cảnh báo con. Thày không nói nguy cơ này có xác suất cao, nhưng nó là một nguy cơ.

2.12. Con hãy để ánh sáng của con chiếu rọi và để nó làm công việc của nó

Khi thày nói đến việc Ki-tô đản sinh thì thày muốn nói đến những người trong nhiều lãnh vực của xã hội. Thày không muốn nói tới những người đã biết đến giáo lý của chân sư thăng thiên hay nhóm truyền giáo đặc thù này. Con, như là một thành viên của nhóm truyền giáo này, con có cơ hội cao hơn đa số người khác để cưỡi ngọn sóng vì các thày đã nói cho con biết, nhưng con đừng nghĩ là tất cả mọi người khác đều phải nhìn nhận người sứ giả này, giáo lý này, hay chính con. Con hãy giản dị theo đuổi quả vị Ki-tô của con, chia sẻ nó khi con cảm thấy động tâm muốn chia sẻ nhưng con đừng chờ đợi kết quả đặc thù nào. Con hãy chia sẻ ánh sáng, để ánh sáng chiếu rọi, để ánh sáng làm công việc của nó. Con hãy đừng trở nên nhà truyền giáo.  

Con gia tăng ánh sáng, và khi con gia tăng ánh sáng thì con người sẽ thấy những gì đang lẩn trốn trong bóng tối, những gì vượt quá bóng tối. Họ sẽ thấy những gì đang ở trong ánh sáng và những gì đang ở trong bóng tối. Con hãy để cho họ thấy, để họ lấy quyết định của họ. Ki-tô không có ý định vì Ki-tô không cần có ý định. Tại sao vậy? Vì Ki-tô chỉ giản dị chiếu ánh sáng. Nếu con người chọn chấp nhận ánh sáng thì họ sẽ tăng triển. Nếu họ chọn chối bỏ ánh sáng thì họ sẽ nhận lãnh phán xử Ki-tô, và cả hai trường hợp đều giúp thế giới tiến tới.  

2.13. Con hãy dám biểu lộ quả vị Ki-tô của mình!

Con hãy đừng dính mắc vào cách người khác phản ứng, nhưng con cũng cần nhận biết rõ, như các thày có nói trước đây, là quả vị Ki-tô mà không biểu lộ thì không phải là quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô mà không biểu lộ trong việc giúp đỡ người khác thì không phải là quả vị Ki-tô. Con hãy nhìn vào thế giới, con hãy nhìn những cơ hội biểu lộ quả vị Ki-tô ở mức mà con đạt được ngay bây giờ. Đây là công việc nhân lên tiền ta-lăng, con khởi sự với những gì con đang có, con biểu lộ nó với mục đích, với ý định giúp đỡ người khác, và sau đó con nhìn phản ứng của họ, con nhìn phản ứng của chính mình, con dùng quan sát này để khắc phục các ngã tách biệt, và sau đó con biểu lộ quả vị Ki-tô ở một mức độ cao hơn. Đây là cách con tăng triển. Nếu con không dám biểu lộ bất cứ gì, thì làm sao con có một phản ứng? Và như vậy, làm sao con tăng triển?

Thay vào đó, con càng ngày càng tin chắc là mình đã đạt được một trạng thái cao cấp. Con ngồi trong tháp ngà, giống như nhiều người tôn giáo, nhiều người tâm linh khắp thế giới đang làm. Giống như nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước. Họ ngồi yên cảm thấy mình thánh thiện hơn người khác vì họ đã nhận được giáo lý cao nhất, và do đó họ tinh thông hơn tất cả mọi người khác. Thái độ này sẽ không giúp con cưỡi ngọn sóng. Con sẽ bị ngọn sóng bao phủ. Con hãy dám biểu lộ quả vị Ki-tô của mình, con hãy tìm ra cách để làm việc này và sẵn sàng nhìn vào phản ứng của mình. Con sẽ đạt kết quả tốt hơn nếu con biểu lộ cái gì đó, cho dù nó khó ưa và gây xáo trộn, và sau đó dùng trải nghiệm đó để tăng triển và khắc phục điều gì đó trong tâm lý của mình, thay vì ngồi yên, không dám để Ki-tô đản sinh nơi mình. 

Mẹ Mary có thể quyết định ngồi yên chờ đợi, không thật sự dám để Ki-tô hài nhi được đản sinh, được sinh tạo trong bụng cô. Nếu cô không lấy quyết định: “Tôi sẽ nhận việc này đúng theo ý muốn của Cha” thì cô có thể vẫn còn ngồi chờ 2000 năm sau. Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con là gì? Ý chí của chính con, của cái Ta Biết, mà con đã quyết định trước khi con đầu thai và ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, là gì? Điều chắc chắn là nếu con đã tìm ra giáo lý này, thì trong Sứ vụ Thiêng liêng của con sẽ có lúc con quyết định để Ki-tô đản sinh trong con và con quyết định dám biểu lộ quả vị Ki-tô đó. Chắc chắn là điều đó có trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lúc nào thì đến lúc? Ấy, thày tuyên cáo cho con là lúc ấy là ngay bây giờ! Nếu trước đây con chưa hòa điệu vào đó thì ngay bây giờ là lúc con hòa điệu! Con hãy nhìn xem Sứ vụ Thiêng liêng của con có gì, làm sao biểu lộ nó và dám làm.

Thày thở ra ánh sáng của Tia thứ Tư.

Thày thở nó ra vào trái đất.

Thày thở nó ra vào cõi bản sắc.

Thày thở nó ra vào cõi tư tưởng.

Thày thở nó ra vào cõi tình cảm và thày thở nó ra vào cõi vật lý.

Do đó mọi chuyện đã xong.

Thày đã hoàn thành những gì thày muốn hoàn thành qua cuộc rải truyền ánh sáng này và thày sẽ để quyền tự quyết của những người đang hiện thân quyết định sẽ phản ứng ra sao. Tới đây thì thày cảm ơn các con đã là dụng cụ vật lý để lan tỏa ánh sáng vào tâm thức tập thể và thày niêm các con trong niềm vui mà THÀY LÀ. Có thể các con không liên kết một đại thiên thần với niềm vui, nhưng các thày đều tràn đầy niềm vui. Tại sao các thày lại có thể không tràn đầy niềm vui? Không có gì trên trái đất có thể đe dọa các thày, vậy có gì đánh cắp được niềm vui của các thày?

25 | Tự do quyết định cách con biểu hiện quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain, và thầy rất vui, nếu con có thể dùng chữ vui cho một chân sư thăng thiên lúc nào cũng ở trong tâm thái trung hòa, có mặt ở đây với các con. Thày muốn có vài nhận xét về tình hình Hàn Quốc, thày không muốn nói tình hình vật lý nhưng hoàn cảnh được thể hiện bởi sự việc có rất nhiều các con đã đến với giáo lý này, đã làm rất nhiều công việc như dịch thuật, đọc thỉnh, tham gia canh thức, lập nhóm, học giáo lý.

25.1. Công việc tuyệt vời của các đệ tử Chân sư Thăng thiên tại Hàn Quốc

Các con có thể nhìn vào cõi vật lý và nói: “Kết quả của nỗ lực của chúng tôi là gì, chúng tôi đã đem lại khác biệt gì nơi cõi vật lý?” Thày không mấy quan tâm đến kết quả vật lý vì cõi vật lý lúc nào cũng sẽ phản ánh những gì xảy ra trên ba cõi cao. Chỉ là vấn đề thời gian để các thay đổi trên ba cõi cao đột phá xuống tầng vật lý. Qua các công việc mà các con đã hoàn thành tại đây ở Hàn Quốc, các con quả thực đã tạo ra một xoay chuyển địa chấn nơi các thể xúc cảm, tư tưởng và bản sắc của tâm thức tập thể.

Các con đã đặc biệt tạo ra thay đổi ở các tầng bản sắc và tư tưởng. Thể cảm xúc lúc nào cũng náo loạn vì quá nhiều người có một số nỗi sợ, nghi ngờ, ác cảm và giận dữ khó có thể an tịnh. Tuy nhiên, thay đổi thực lúc nào cũng bắt đầu ở các tầng bản sắc và tư tưởng, và điều mà các con đã đem lại là tải xuống một số ý tưởng từ thày vào thể bản sắc và tư tưởng, không những của tâm thức tập thể, mà còn của nhiều người dân Hàn Quốc sẵn sàng tiếp nhận các ý tưởng đó. (Thày bao gồm những người sống ở Bắc Hàn, vì Bắc Hàn cũng thuộc Hàn Quốc). Các người đó hoàn toàn không biết gì về chân sư thăng thiên và không cần biết đến chân sư thăng thiên, nhưng họ ở trong vị thế có thể hiện thực một số ý tưởng đó, và do đó trong những năm tới các con sẽ thấy thay đổi ngay cả nơi tầng vật lý.

Khi nào chuyện đó xảy ra, chúng xảy ra chính xác như thế nào, là điều không thể tiên đoán vì như các thày có giảng, có những nhân duyên liên khởi với nhiều yếu tố rất phức tạp liên quan đến con người ở cả miền Bắc và miền Nam Hàn Quốc. Ta có thể nói, điểm quan trọng là khi có đủ túc số người đứng thẳng hàng với một ý tưởng, thì ý tưởng đó có thể đột phá xuống cõi vật lý. Khi nào chuyện đó xảy ra lẽ tất nhiên tùy thuộc luật tự quyết. Điều ta có thể nói là các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã làm phần công việc của mình. Các con đã làm nhiều hơn là phần việc của mình. Các con đã làm công việc tuyệt vời và thày thành thật hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện với công việc đã hoàn thành, và đón tiếp công việc tới mà các con muốn làm, các con sẵn lòng làm, với lòng hân hoan, mãn nguyện, an bình và thành tựu.

25.2. Phương pháp đường thẳng cần thiết khi tiếp cận đường tu

Tia thứ Bảy, Tia của Tự do, con phải làm gì để hòa điệu với Tia thứ Bảy? Lẽ đương nhiên, con cần tự do nhưng tự do khỏi cái gì? Như các Thượng sư khác đã giảng, tự do khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng phóng chiếu gì liên quan đến tự do? Nó nhìn vào các điều kiện đương thời và nói: “Tôi không thể tự do vì tôi đang bị đàn áp bởi nhà độc tài này. Tôi không thể tự do vì tôi không có đủ tiền. Tôi không thể tự do vì tôi không có cái này cái kia.” Sau đó tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một lối đi đường thẳng, một tiến trình đường thẳng, nói rằng: “Tôi không có tự do vì tôi thiếu cái này hay tôi dư cái kia. Do đó, tôi cần phóng chiếu một kế hoạch từng bước dẫn tôi tới điểm tôi có những gì tôi cần để được tự do.” Con bắt đầu đi về hướng đó, con bắt đầu nỗ lực về hướng đó, con dùng tâm đường thẳng để đặt kỷ luật cho chính con và các hành động, cảm xúc và tư tưởng của con, và con nỗ lực, nỗ lực, nỗ lực.

Các thày có nói là trên con đường tâm linh con tiến từ tầng 48 lên tầng 96 bằng cách tự nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể. Con cần sử dụng phương pháp đường thẳng: “Tôi cần làm gì? Tôi cần đọc bao nhiêu bài chú? Tôi cần đọc các bài thỉnh nào? Tôi cần học hỏi những gì? Tôi cần làm gì? Tôi cần loại trị liệu nào?” Con cần tất cả những chuyện đó, và con có thể lên kế hoạch. Trên căn bản, con có thể lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước. Đây là điều hoàn toàn phải phép. Như thày Nada có nói, con dùng tâm đường thẳng để đối phó với những thực tại thực tiễn trong bát cung vật lý, trong đó có tâm thức tập thể. Con có thể định ra một lối đi, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm khi họ khám phá giáo lý chân sư thăng thiên (trong đợt truyền giáo này hay một đợt truyền giáo khác), và nói: “Tôi cần học hỏi, tôi cần tham gia các sinh hoạt này, tôi cần đọc bao nhiêu bài chú mỗi ngày.” Họ đã làm chuyện này một cách kiên định trong một thời gian, có người trong một thời gian dài. 

Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng. Điều nhiều đệ tử đã làm là họ lập ra kế hoạch với những việc họ sẽ làm, và nói: “Tôi cần tiếp tục làm theo kế hoạch này cho tới khi tôi được tự do” hoặc họ nói: “Tôi cần làm theo kế họach này cho đến hết đời.” Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do. Con làm gì khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng? Con đang, nói một cách thẳng thắn, giam mình vào nhà tù. Con đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm, và đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm cho tới khi tôi được tự do.” Con thấy chăng, con đang giam mình vào một cấu trúc: “Đây là những chuyện tôi phải làm.” Phải chăng con đã tạo trong tâm mình một loại nhà tù? 

25.3. Xoay chuyển cần thiết ở tầng 96

Con có thể nói là khi con bị tâm thức tập thể thống trị, thì con đang ở trong một loại nhà tù vì con có ít khả năng lấy chọn lựa cá nhân. Sau đó con tìm ra một giáo lý tâm linh (và nhiều người tâm linh không tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên mà một giáo lý khác cũng đã làm vậy) và con lập một kế hoạch và con nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm” để đạt bất kể mục tiêu nào đã được định ra bởi giáo lý tâm linh, có thể là giác ngộ, thức tỉnh, thăng thiên, hay bất cứ gì khác.

Như các thày có giảng, giữa tầng 48 và 96 điều thích đáng là con lập kế hoạch dùng giáo lý và dụng cụ tâm linh để nâng con lên khỏi tâm thức tập thể, tiêu trừ các ngã và theo con đường tự điều ngự. Đây là điều con cần làm để nâng mình ra khỏi nhà tù của tâm thức tập thể. Để làm việc này, con cần chú tâm, nhưng hậu quả là con đặt tâm mình vào một cấu trúc và đây lại là một nhà tù cho tâm.

Đây không phải là một vấn đề nếu con vẫn nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng như thày Nada đã giảng một cách rất hùng hồn, nó sẽ trở thành một vấn đề khi con dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu quá những thực tại thực tiễn của thế giới vật chất, kể cả bốn tầng của cõi vật chất. Điều mà rất rất nhiều người tâm linh (kể cả đệ tử chân sư thăng thiên) đã làm là họ dấn thân vào con đường tâm linh và họ dùng giáo lý để phóng chiếu kế hoạch cần theo đuổi dựa trên hiểu biết mà họ có khi bắt đầu con đường tâm linh: “Đây là điều tôi cần tiếp tục làm, nó sẽ dẫn tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn hay tâm thức Ki-tô (bất kể con gọi là gì)”.

Như các thày đã giảng, ở tầng 96 con đối diện một khai ngộ, một khai ngộ then chốt và khai ngộ này có thể được mô tả bằng nhiều cách như các thày đã làm. Một cách để mô tả là nói con phải nhận ra là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con thấy chăng, con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Các thày đã nhiều lần cố giảng điều gì? Con hãy xem lại giáo lý của các thày. Con hãy xem lại và học hỏi những điều mà các thày đã nói về quả vị Ki-tô, trở ngược mãi tận năm 2002. Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Thách thức thứ nhì của Ki-tô là gì? Đó là sau khi con đã nhận ra Ki-tô, thì con không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra. Con không thể tiến vào quả vị Ki-tô bằng tâm đường thẳng, tâm đường thẳng sẽ không thể dẫn con tới đó. Bất kể hình ảnh nào con đã phóng chiếu lên chính mình và con đường tu dựa trên tâm đường thẳng ở dưới tầng 96, chúng không thể dẫn con đến các tầng quả vị Ki-tô – áp dụng chúng không hiệu quả. Thày không nói ở đây là con cần ngưng đọc chú hay học hỏi giáo lý. Con cần một xoay chuyển tâm thức vi tế hơn nhiều.

25.4. Trạng thái lắng nghe trong hồng ân

Điều lợi ích cho nhiều người trong các con là con lấy một quyết định và nói: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách hay nhất mà tôi có thể làm để đi vào trạng thái tâm trung hòa. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói: “Trừ phi con trở thành giống như trẻ thơ, thì con không có minh triết để vào được vương quốc.” Đây là điều mà các Phật tử ám chỉ khi nói đến “sơ tâm”. Con hãy thỉnh thoảng tìm cách đi vào trạng thái lắng nghe – lắng nghe trong hồng ân.

Nếu con cảm thấy mình hòa điệu đặc biệt với một vị chân sư nào đó, thì con hãy xin vị chân sư đó neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con hãy chỉ giữ tâm trung hòa. Con hãy đừng xin giải đáp, đừng xin hướng dẫn, đừng xin đáp số cho những vấn đề hay hoàn cảnh đặc thù mà con đang phải đối diện. Các chuyện này con có thể làm lúc khác. Con hãy chỉ xin vị chân sư giúp con giữ tâm trung hòa và lắng nghe vì khi con tiến lên trên tầng 96 (và quả thực cũng vậy khi con tới gần tầng 96) thì con cần cảm nhận hướng kế tiếp mà con cần theo là gì, giai đoạn kế tiếp của con đường tâm linh của con là gì. Điều này sẽ khác cho mỗi người trong các con, do đó không có câu trả lời mẫu.

25.5. Cố gắng sống đúng theo hình ảnh đệ tử gương mẫu

Một lần nữa đây là lý do vì sao tâm đường thẳng tạo nhiều vấn đề vì điều mà ta thấy trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử lấy giáo lý của các thày và tạo ra một hình tư tưởng thế nào là một đệ tử gương mẫu. Từ đó một nền văn hóa tổ chức đuợc tạo ra với một hình tư tưởng – thế nào là đệ tử gương mẫu – và hình ảnh này rất khó noi theo. Quả thật đây giống như điều các thày đã nói về sa nhân phóng chiếu hình ảnh toàn hảo nhưng không ai có thể thực sự xác định nó là gì, do đó không thể noi theo được. Hình ảnh người đệ tử gương mẫu cũng vậy. Con có thể quy định một số yêu cầu vỏ ngoài, nhưng không có gì được quy định rõ ràng, do đó rất khó noi theo. Sống theo đúng hình ảnh đó cần một lượng thời gian và tận tụy vĩ đại vì những yêu cầu vỏ ngoài rất, rất phức tạp. Con phải đọc tất cả các bài chú này. Con phải sống một cách nào đó, ăn một cách nào đó, đi đứng một cách nào đó, nói một cách nào đó, nghĩ một cách nào đó, cảm nhận một cách nào đó và kết quả là sống theo đó rất mệt và rất khó.

Những người cố gắng sống theo đúng mẫu đó phải cố gắng quá nhiều để chu toàn hình ảnh đó nên họ bị căng thẳng tâm thần. Họ đặt họ vào tình trạng thường trực bị căng thẳng tâm thần gần như tới điểm suy sụp thần kinh. Họ giống như một sợi dây thun bị kéo dãn đến mức tối đa và gần tới điểm bị đứt. Khi con người đi vào trạng thái tâm đó thì họ có khuynh hướng rất phán xét người khác. Quả thật là họ phán xét chính họ vì họ lúc nào cũng phán xét: “Tôi có sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu hay tôi đang không làm tròn điểm gì?” Họ cũng có khuynh hướng rất phán xét người khác và đó là lý do vì sao các tổ chức đó đã tạo ra trạng thái tâm thức rất phán xét thể hiện qua việc các thành viên luôn luôn phán xét lẫn nhau.

Thày có thể bảo đảm với con là đã có người tiếp cận một trong những tổ chức chân sư thăng thiên đó và cảm nhận nền văn hóa phán xét, và họ nói: “Không thích hợp cho tôi!” Nhiều người này có tâm thức cao hơn những người trong tổ chức, và đây là điều những người trong tổ chức không thể tin là có thật. Họ nghĩ họ đang ở trong trạng thái tâm thức cao nhất vì họ đang cố gắng sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu. Khi họ thấy có người đến rồi bỏ đi, thì họ nói: “Những người này không có căn cơ đệ tử”, nhưng những người đó thực sự có căn cơ đệ tử. Họ thật sự ở tầng cao hơn những người trong tổ chức. Họ ở cao hơn tầng văn hóa phán xét. 

25.6. Các ngã nhị nguyên rất vi tế trên tầng 96

Thày chỉ muốn nói là các thày không muốn con lặp lại khuôn nếp này. Các thày muốn các đệ tử trong đợt truyền giáo này vượt thăng những khuôn nếp đó để con có thể tới điểm đạt được tự do. Đạt được tự do nghĩa là gì? Từ tầng 48 đến tầng 96, đó là đạt được tự do khỏi tâm thức tập thể, tự do khỏi các ngã nhị nguyên. Thày tin con nhận ra là con cần một hiểu biết sâu sắc về các ngã đó. Các thày có giảng là khi con đi xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 thì con đi vào tách biệt và con sử dụng tâm thức nhị nguyên để tạo ra các ngã đó, do đó chúng là các ngã nhị nguyên. Sau đó, con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thứ 48 và đi về hướng tầng 96. Vì độ dày đặc của hành tinh, con vẫn còn mang theo mình một số các ngã nhị nguyên mà con chưa khắc phục. Nói cách khác, không phải là khi con tới tầng 48 là con đã khắc phục tất cả các ngã được tạo ra trong nhị nguyên.

Con cần suy ngẫm điều này vì có lẽ các thày đã quá dùng lý đường thẳng trong những lời giải thích trước của các thày. Con hãy nhìn như thế này. Có tất cả là 144 tầng tâm thức mà con người có thể có trên trái đất. Nếu con bắt đầu từ trên cùng (là nơi con bắt đầu với Hiện diện TA LÀ) và đi về hướng tầng 144, thì để xuống tầng 144 con cần mang vào một ảo tưởng. Đây không phải là một ảo tưởng nhị nguyên. Nó chỉ là một ảo tưởng liên quan đến bát cung vật lý trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất. Con cần gì để giúp con cảm thấy con có thể đầu thai, thậm chí có thể hòa nhập vào một thân thể vật lý? Con mang vào một ảo tưởng ở tầng 144, con mang vào ảo tưởng kế tiếp, con đi xuống tầng 143, và con tiếp tục làm vậy cho tới tầng 96.

Đây là những ảo tưởng trên căn bản, ở tầng này, giúp con hòa nhập vào thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc để con có thể bắt đầu tạo những ngã trong các thể đó để giúp con trải nghiệm trong bát cung vật lý. Sau đó, ở tầng 96 con tạo ra thêm các ngã liên quan đến việc hòa nhập với thể cảm xúc nhưng cũng với thể vật lý. Khi con đầu thai lần đầu ở tầng 48, bản thể của con, cái ta ý thức của con hòa nhập với thân thể vật lý. Con có những cấu trúc trong tâm bản sắc, tâm tư tưởng, tâm cảm xúc và ngay cả tâm kết nối với thân thể cho phép con sinh hoạt và hành động trên trái đất.

Những ngã này không phải là ngã nhị nguyên. Sau đó, con đi xuống dưới tầng 48, xuống tầng 47, con mang vào thêm một ảo tưởng nữa, tạo thêm một ngã nữa và con tiếp tục như vậy cho tới tầng thấp nhất. Điều thày muốn nói là ở mỗi tầng trong số 144 tầng, có một ngã đặc thù cho phép con ở tầng tâm thức đó. Tuy nhiên, có rất nhiều hơn 144 loại ngã mà con người đã tạo ra trên trái đất. Bởi vì khi con ở một tầng tâm thức nào đó, có một ảo tưởng đặc thù lôi kéo con xuống tầng đó, và một ngã đặc thù giữ con ở tầng đó. Con vẫn có thể tạo ngã khác theo chiều ngang ở tầng đó. Điểm này có tầm quan trọng khi con đi xuống dưới tầng tâm thức 48, đi vào nhị nguyên, thì có một số rất lớn các ngã nhị nguyên mà con người đã tạo ra trong suốt dòng lịch sử và một số các ngã này đã trở nên ngã tập thể ở trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của tập thể. 

Có rất nhiều hơn 144 ngã đã được tạo ra trên trái đất, và con không thể tránh mang vào một số các ngã đó, hay đúng hơn là con tạo ra phiên bản riêng của con của các ngã đó. Điều thày muốn nói là khi con tới tầng 48 và bắt đầu con đường tâm linh thì không có nghĩa là con đã khắc phục tất cả các ngã nhị nguyên. Con vẫn còn mang theo một số với con và thậm chí con còn có thể mang theo một số các ngã nhị nguyên vi tế hơn ở trên tầng 96. Lẽ tất nhiên, các ngã này không thể gọi là hung hãn muốn hại người khác nhưng chúng vẫn là ngã liên quan đến ảo tưởng nhị nguyên, một cái nhìn nhị nguyên về thế giới.

Thày Nada đã nói là các người Bà la Môn Ấn giáo đã làm gì? Nhiều người trong họ đã sử dụng tâm thức nhị nguyên để phóng chiếu vào cõi tâm linh. Thày Lanto đã giảng một cách rất hùng hồn sự hình thành của khái niệm Vô ngã. Có khái niệm Brahman, có khái niệm hư vô, nhưng cả hai là khái niệm nhị nguyên. Con có thể mang theo những loại ngã này trên tầng 96 vì con người rất khó giải quyết chúng. Quả thật con có thể thấy có các vị thày tâm linh trong thế gian đã lên trên tầng 96 nhưng họ vẫn còn mang theo một số các ngã nhị nguyên đó vì họ chưa giải quyết ảo tưởng. Họ chưa nhìn xuyên thấu ảo tưởng.

25.7. Thách thức thứ nhì của Ki-tô ở mỗi tầng của đường tâm linh

Điều thày muốn nói là có một điểm khi con tới gần tầng 96 và vượt lên trên, thì con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144. Thày biết là con có thể có quan niệm là con chỉ tiếp tục sự tăng triển mà con đã trải qua từ tầng 48 đến tầng 96. Vì ở tầng 96, thách thức tựu chung là gì? Là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 97. Ở tầng này thách thức là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 98, vân vân. Con thấy chăng, tiến trình này không thể thực hiện với tâm đường thẳng. Thậm chí con cũng có thể nói tiến trình từ tầng 48 lên tầng 96 cũng không thể thực hiện bằng tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không giúp con nhìn xuyên thấu các ảo tưởng.

Thực sự là chỉ có tâm Ki-tô mới giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng. Đặc biệt là ở trên tầng 96, con cần bước lui lại và thực sự nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và thực sự nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện ở mỗi tầng thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng tâm thức Ki-tô để thăng vượt tầng hiện tại của con, hay con sẽ tìm cách kéo tâm Ki-tô để nó tuân theo ảo tưởng, thế giới quan mà con có ở tầng đó? Ở tầng 96 và trên nữa con cần luôn luôn nhận biết thách thức này vì con có thể trên lý thuyết ngừng ở tầng 143 và không đi lên cao hơn vì con nghĩ Ki-tô đã xác chứng thế giới quan của con ở tầng đó. Như các thày đã nói nhiều lần, không có chân lý tối hậu, thế giới quan tối hậu trên trái đất và con chỉ nâng mình lên, con chỉ thăng thiên, bằng cách vượt thăng thế giới quan mà con đang hiện có.

25.8. Nguy cơ bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào

Một lần nữa, một số đệ tử từ những đợt truyền giáo trước sẽ kịch liệt phản đối điều thày vừa nói ở trên. Họ sẽ nói đây là một giáo lý hoàn toàn sai, nó đi ngược lại tất cả những gì đã được dạy trong các đợt truyền giáo trước, nhưng thực sự là nó không đi ngược lại những điều đã được nói trước kia, nó chỉ vượt lên trên những điều đó. Con yêu dấu, nếu tiết lộ tuần tự không đi quá những gì đã được trao truyền trước kia, thì làm sao nó lại là một tiến bộ? Con hãy để ý tưởng này bắt rễ trong tâm con vì nó là chìa khóa để tiếp cận các khai ngộ rất vi tế bên trên tầng 96.

Có một chuyện khó xử, một loại phân đôi, sẽ luôn luôn có mặt trên một hành tinh như trái đất vì độ dày đặc của vật chất và tâm thức tập thể. Có thể nói là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì con đạt những tầng tâm thức cao hơn, chắc chắn là như vậy. Nhưng – và đây là một cái “nhưng” quan trọng – điều này không có nghĩa là các khai ngộ trở nên dễ dàng hơn. Khuynh hướng mà nhiều người có khi họ lên tới những tầng tâm thức cao (và ở đây thày không chỉ nói đến đệ tử chân sư thăng thiên mà các người tâm linh nói chung) là họ nhìn con đường mà họ đã đi qua, họ nhìn đoạn đường dài mà họ đã trải qua và nói: “Tôi đã có tiến bộ vĩ đại so sánh với điểm tôi khởi đầu 30, 40 năm hay không biết bao nhiêu năm trước đây.” Các người đó cũng có khuynh hướng nhìn người khác và nói: “Tôi rõ ràng ở tầng tâm thức cao hơn những người này, tôi biết về con đường tâm linh nhiều hơn họ rất nhiều, tôi đã khắc phục nhiều ảo tưởng và dính mắc.” 

Thày không hề nói là điều này sai. Có nhiều người đã đạt những tầng tâm thức cao so với người trung bình trên trái đất. Có nhiều người suốt chiều dài lịch sử đã đạt được một tầng nào đó và tự coi mình là đạo sư hay thày tâm linh. Có nhiều người hiện nay đã thực sự đạt được một tầng tâm thức cao, cao hơn tầng 96, cao hơn quần chúng. Họ đã tự coi họ là thày tâm linh và họ từ tầng tâm thức cao của họ nhìn xuống và thấy rõ: “Tôi ở một tầng cao hơn.” Điều họ có khi không nhận ra là khi con nhìn xuống những khai ngộ mà người khác đang trải qua thì con rất dễ thấy những ảo tưởng mà họ vẫn còn đang bám víu, do đó con nghĩ con đã đạt được khả năng nhìn xuyên thấu mọi ảo tưởng.   

25.9. Lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp

Con còn có thể nghĩ con đã giác ngộ hay con đã thức tỉnh hay con không còn tự ngã hay đã đạt trạng thái vô ngã hay bất kỳ nhãn hiệu nào mà con người gán cho trạng thái đó. Điều mà nhiều người không nhận ra là con chưa tới tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất, vì nếu như vậy thì con đã thăng thiên. Khi con nhìn lên những khai ngộ mà con chưa vượt qua, những ảo tưởng mà con chưa thấy, thì mặc dù con đã có nhiều thành đạt con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng kế tiếp.

Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp. Ảo tưởng mà con chưa thấy ở tầng 143 cũng khó như ảo tưởng ở tầng 48. Tại sao vậy? Vì đó là ảo tưởng đã mang con xuống tầng đó và nó khó thấy ở tầng 143 y như ở các tầng thấp hơn. Con đã tạo ra động lượng, con đã mở rộng nhận biết, con đã nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở các tầng thấp, nhưng ở tầng tâm thức hiện tại của con, con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng hiện thời của con. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng. Cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

25.10. Con không thể bảo đảm thành công cho tới khi con thăng thiên

Con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Đó là lý do vì sao con có thể bị mắc kẹt ở bất cứ tầng nào, và nhiều người suốt dòng thời gian đã rơi vào cạm bẫy này. Có nhiều người đã coi mình là đạo sư, đã được tôn sùng như đạo sư, đã được tôn vinh “vị đạo sư này chắc chắn đã giác ngộ”. Vị đạo sư có thể đã đạt được một tầng tâm thức cao, tỷ dụ như tầng 140 (là một tầng rất cao so với người trung bình), do đó ta có thể hiểu tại sao con người nhìn vào vị đạo sư đó và nói: “Ồ, vị ấy chắc chắn là đã giác ngộ, chắc chắn là vị ấy hiểu biết nhiều hơn rất nhiều.” Quả thực là vị ấy hiểu biết hơn, và vị ấy có thể có khả năng giúp đỡ con người, nhưng vị ấy có quả thực đã giác ngộ khi vị ấy ngưng ở tầng 140 và không nhìn nhận là có điều mà vị ấy chưa nhìn ra, có ảo tưởng mà vị ấy chưa thấy?

Phải chăng có nguy cơ là vị đạo sư sẽ, dù vị ấy có thể không nhận ra một cách có ý thức, truyền cho các đệ tử quan niệm đây là tầng cao nhất mà họ cần đạt tới và sau đó thì con bảo đảm thành công? Con sẽ không bảo đảm thành công khi con ở tầng 140. Con không thể thăng thiên từ tầng 140, và quả thực cũng không từ tầng 143. Nếu một đạo sư ngưng ở một tầng nào đó, thì chuyện gì xảy ra? Vị ấy trở thành một đạo sư giả. Tất cả những gì vị ấy nói vẫn có thể có đôi phần chân lý, và vị ấy vẫn có thể chỉ ra một con đường tu dẫn con người lên cao hơn. Nhưng vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy nói là không có gì cao hơn tầng đó. Hoặc vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy dạy rằng mục đích của con đường tu là đạt trạng thái vô ngã thay vì trạng thái cái ta luôn luôn tự thăng vượt.

25.11. Tâm Ki-tô hình quả cầu, không đường thẳng

Đây là một số nhận xét mà thày muốn phát biểu để mang chúng ra công chúng như một phần của giáo lý mà các thày liên tục trao truyền. Liên quan đến chủ đề của hội nghị này, chủ đề hòa điệu, kết nối với các vị thày tâm linh, thì đâu là cách tốt nhất để kết nối với Tia thứ Bảy? Ta có thể nói là giáo lý mà thày vừa trao truyền có thể giúp con kết nối vì nó giúp con nhận ra là để kết nối thực sự thì con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra. 

Như thày có nói, có một giai đoạn trong đó con phải theo đường thẳng. Trên tầng 96 hay ở tầng 96, con cần nhận ra là con đường tu theo hình quả cầu hơn. Thay vì bước theo tiến trình đường thẳng thì trên tầng 96 con quả thực có thể nhảy vọt. Con có thể đang ở tầng 97 và bỗng nhiên con nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 108. Sau đó con nhảy vọt lên tầng 120, và nhảy ngược về tầng 98, và sau đó lên tầng 104. Nói cách khác, các ảo tưởng lúc đó không hoàn toàn theo đường thẳng. Con không cần nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở tầng 97, sau đó tới tầng 98, và sau đó tới tầng 99. Con có nhiều khả năng nhảy vọt từ tầng này sang tầng khác. 

Lẽ tất nhiên đây lại là một điểm vi tế vì con có thể nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 120 và do đó tôi đã ở trên ảo tưởng ở tầng 97.” Nếu con bỏ qua ảo tưởng ở tầng 97 thì, ấy, con không sẵn sàng thăng thiên. Tuy nhiên, điều con cần làm với tâm ý thức là nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng.

Thày biết đây là một điều cần hiểu một cách vi tế vì các thày có nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô ở mỗi tầng tâm thức để khi con ở tầng thấp nhất con vẫn có khả năng nhìn xuyên thấu ảo tưởng ở tầng đó. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tại sao vậy? Bởi vì tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

25.12. Giải thoát khỏi và tự do để

Con có thể nói là khi các thày trao truyền quan niệm 144 tầng tâm thức thì có nguy cơ tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về tâm thức Ki-tô và việc cái Ta Biết bước ra ngoài ảo tưởng hiện tại. Khi con sẵn lòng làm việc này, khi con khóa chặt vào tiến trình này, thì con sẽ vượt lên trên tâm đường thẳng. Điều mà các thày cũng có thể nói là giữa tầng 48 và 96, con nỗ lực để giải thoát mình khỏi. Rốt cuộc đây là giải thoát khỏi tâm thức tập thể, nhưng cũng là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Sự chuyển vọt mà con cần làm ở tầng 96 là thay vì tìm cách giải thoát khỏi, con đi tìm tự do để.

Tự do để gì? Tự do khỏi rất dễ hiểu. Con có một giới hạn mà con muốn vượt thoát. Con có thể nói: “À, tôi đang ở trong một nhà tù, nhưng bây giờ tôi có chìa khóa và tôi sẽ bước ra ngoài khung cửa, giờ đây tôi sẽ thoát khỏi nhà tù.” Con để ý là nhiều người ở trong tù lâu năm, khi được trả tự do thì họ đứng đó và nói: “Bây giờ tôi làm gì?” Họ không biết phải làm gì với cuộc đời của họ khi họ được tự do khỏi nhà tù, và đây là một khai ngộ khó mà con đối diện ở trên tầng 96. Con đã thoát khỏi tâm thức tập thể. Con đã giải thoát khỏi nhiều ảo tưởng trong tâm mình: “Tôi bây giờ làm gì đây? Tôi phải làm gì đây với tầng tâm thức hiện tại của tôi?”

25.13. “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”

Đây là điểm con cần bước lên cao hơn và nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Bởi vì nhiều người đã dùng tâm đường thẳng để tạo hình ảnh là khi con đạt tâm thức Ki-tô, thì Hiện diện TA LÀ của con hay các chân sư thăng thiên sẽ cho con biết con phải làm gì. Trên căn bản, các người đó nghĩ là con từ bỏ quyền tự quyết, con trở thành một con rối, thậm chí một số người còn lấy giáo lý của Giê-su và nói: “Tự tôi không làm được việc gì, chính là đức Cha trong tôi đang làm việc.” Họ nghĩ: “Khi tôi đạt tới tầng này, tôi có thể thở phào nhẹ nhõm và nói công việc đã làm xong, giờ đây Hiện diện TA LÀ có thể lấy quyền điều khiển, tôi không cần suy nghĩ nữa, tôi không cần lấy quyết định nữa, tôi sẽ chỉ để Hiện diện làm mọi chuyện.” Sống Ki-tô không có nghĩa như vậy, vì Giê-su đã nói gì: “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”.

Với cương vị Ki-tô, con nhận ra một điều mà con không thể nhận ra với tâm đường thẳng. Với tâm đường thẳng con nghĩ: “Tôi là một sinh thể tách biệt, tôi có một số quyền năng, tôi có một số khả năng, tôi có thể làm một số chuyện.” Con quả thật có thể. Ngay cả trong tâm thức nhị nguyên con vẫn có thể làm một số chuyện. Mọi chuyện đều có một giá phải trả, mọi chuyện đều tạo nghiệp, nhưng con có thể làm một số chuyện. Thậm chí có những người cảm thấy là chỉ khi họ đi vào nhị nguyên thì họ mới có trọn vẹn quyền tự quyết vì lúc đó họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không bị gò bó bởi nghiệp quả phi lý và hậu quả và phải quan tâm đến người khác và chìa má bên kia và những chuyện tương tự.

Có người nghĩ rằng khi con đạt tâm thức Ki-tô thì Thượng đế hay các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ nói con biết con phải làm gì. Các thày đã nói gì? Con được sinh tạo như một người đồng-sáng tạo và như một người đồng-sáng tạo con không nghĩ con là một sinh thể tách biệt có những khả năng tách biệt. Con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, do đó đấng cha, Hiện diện TA LÀ, đang làm bằng cách cho con năng lượng. Hiện diện TA LÀ cũng có thể cho con chỉ thị vì nó mong muốn trải nghiệm một số chuyện trên trái đất.

Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con muốn làm gì trên trái đất? Con muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào? Con muốn có trải nghiệm gì trên trái đất? Đây có thể là một thách thức rối rắm cho nhiều người, nhất là khi họ rất chuyên cần theo một con đường đầy kỷ luật: “Vậy bây giờ tôi làm gì?”

25.14. Nhìn quá hình ảnh của con về con đường tu

Nhiều người trong các người đó đã từ chối suy ngẫm câu hỏi này và đi vào tâm thái: “Tôi sẽ chỉ cần tiếp tục đọc thỉnh Ánh sáng Tím ba tiếng mỗi ngày cho đến hết đời và sau đó tôi sẽ được bảo đảm thăng thiên.” Họ làm như vậy (như một số đệ tử các đợt truyền giáo trước đã làm) và khi họ rời xác thân vật lý họ vui mừng nghĩ: “Tôi sẵn sàng thăng thiên.” Lúc đó có chân sư thăng thiên xuất hiện với nhiệm vụ cho họ biết: “Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Con phải trở lại và vượt qua các khai ngộ mà con chưa vượt qua.” Một số đệ tử cảm thấy tức giận và nghĩ: “Các chân sư thăng thiên đã lừa tôi.” Chuyện này đã xảy ra.

Điều con cần làm ở đây, nếu con muốn kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do là đi vào tâm thái sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Để thấy nó, con cần sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?” Con cần sẵn lòng lấy một quyết định, nhưng con không thể lấy một quyết định tự do khi con chưa giải thoát mình khỏi cách con nhìn đường tu ở các tầng thấp, do đó con cần thời gian.

25.15. Dụng cụ của Saint Germain

Như thày đã nói, con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi xuống, và thư thả. Con có thể tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Nhiều người trong các con sẽ khám phá là cả cuộc đời mình con có một ý niệm mình phải làm gì. Với nhiều người trong các con, tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên có nghĩa là con đã chuyển nó thành một phiên bản mới của những gì con phải làm. “Tôi là một đệ tử chân sư thăng thiên. Tôi phải đọc bằng này bài chú bài thỉnh mỗi ngày. Tôi phải học hỏi giáo lý. Tôi phải làm điều này điều kia.”

Điều này không có nghĩa là con phải ngưng đọc chú đọc thỉnh, nhưng con cần tự hỏi chính mình: “Nếu không có gì phải làm, nếu không có ràng buộc nào về những chuyện tôi phải làm, thì tôi muốn làm gì?” Với nhiều người trong các con, điều này có nghĩa là con có thể trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, vì đây là những trải nghiệm mà con muốn có trên trái đất và con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

25.16. Trải nghiệm hoàn tất chu kỳ

Có những người đã theo con đường tu rất thẳng để đạt một tầng tâm thức cao. Họ có một hình ảnh thế nào là một người tâm linh và sau đó họ tới điểm có cái gì đổ vỡ. Họ không thể duy trì hình ảnh đó. Họ cảm thấy như họ đã mất nền móng và họ lao mình vào một số sinh hoạt mà họ đã nghĩ họ sẽ không bao giờ làm vì những sinh hoạt đó không có tính chất tâm linh. Với nhiều người, đây là một thay đổi chấn thương, một xoay chuyển chấn thương trong đó họ lên án họ vì đã làm như vậy, vì đó là sinh hoạt không tâm linh. Nhiều người đã vật vã với tình trạng này trong nhiều năm.

Thậm chí một số người đã rời bỏ hẳn con đường tâm linh vì họ không thể quân bằng hai sinh hoạt. Các thày đã thấy cựu đệ tử chân sư thăng thiên rất chuyên cần trong 30 năm hay hơn nữa và sau đó, tỷ dụ như khi một đợt truyền giáo chấm dứt và không còn tiết lộ tuần tự qua tổ chức đó nữa, thì họ rơi vào trạng thái trầm cảm, rối loạn, không biết phải làm gì, và rời bỏ con đường tâm linh. Con có thể xoay chuyển thái độ của con trước chuyện này và nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.  

Có một số chuyện mà Thánh kinh không ghi lại, vì Thánh kinh chỉ chú trọng vào giai đoạn ba năm cuối của đời Giê-su, nhưng khi Giê-su ở tuổi từ 12 đến 30 thì thày trải qua một giai đoạn có một số trải nghiệm mà thày cần có để chán ngán chúng. Một số những trải nghiệm này được mô tả trong quyển Các kiếp sống của tôi, nhưng quyển sách này không nói đến tất cả, vì như Thánh kinh có nói, nếu tất cả những gì Giê-su nói và làm đều được ghi lại, thì cả thế giới cũng không chứa được những quyển sách cần được viết ra.

Con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng, như con thường thấy ở dưới tầng 96. Nếu con có thể xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu theo hướng đó, thì con nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con. Thày biết đây luôn luôn là một điều vi tế vì tự ngã sẽ có thể dùng nó để biện minh mọi chuyện, nhưng thày không muốn nói đến chuyện biện minh, và ở tầng này con có thể thấy sự khác biệt giữa một biện minh của tự ngã và đơn giản là nhu cầu có một trải nghiệm để hoàn tất trải nghiệm, hoàn tất chu kỳ.

25.17. Con chỉ thấy một ảo tưởng khi biểu lộ nó

Một lần nữa thày đã trao truyền nhiều hơn những gì đa số các con có thể tiếp nhận trong một bài giảng, nhưng các thày không truyền giáo lý cho riêng một người, do đó thày hy vọng là mỗi người trong các con đã tìm thấy trong bài giảng này một điểm gì có âm vang với con mà con có thể trụ vào và sử dụng để tăng triển khả năng kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do. Các thày đã nói là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất. Khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô. Điều này không có nghĩa là con bắt đầu hành hạ hay khuynh loát người khác, lẽ dĩ nhiên đây không phải là quả vị Ki-tô, nhưng con tự do hơn trong cách con muốn biểu lộ chính mình.

Con không trở nên một con rối, con có tự do, con tự do là, và con tự do khỏi tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.” Toàn bộ tâm thức này phai nhạt đi, ngay cả khi người khác nói vậy về con, nó phai nhạt đi và con chỉ tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Trên căn bản, khi con đạt những tầng tâm thức cao, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thí dụ ở tầng tâm thức 120, thì con biểu lộ chính mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại. Chỉ khi con biểu lộ chúng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp. Con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao. Có thể nói đây cũng là cách con tăng trưởng ở các tầng thấp, nhưng con chỉ không ý thức điều này.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, nhưng điều thày thực sự muốn trao không phải là ngôn từ. Thày muốn trao cho các con Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày. Thày mong rằng vượt quá lời nói, con cảm nhận được Hiện diện đó, vì thày, Saint Germain, thương yêu tất cả các con, mỗi người trong các con và tất cả các con. Thày thương yêu các con.

Con có tình thương sâu xa nhất của thày, lòng tri ơn sâu xa nhất của thày vì các con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này. Có thể có người sẽ nói: “Ồ, vị Chân sư Saint Germain này lạc quan một cách vô vọng khi ông nghĩ ông có thể đem lại thời hoàng kim trên trái đất.” Con yêu dấu, các con đang chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực. Vì vậy thày tri ân và thương yêu các con.

29 | Thăng vượt cách giao tiếp bằng lời với cái ta cao

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Padmasambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Padmasambhava. Ý định của thày là bài đóng góp này sẽ không dài dòng, nhưng thày muốn trình bày đôi chút về ngôn từ. Bởi vì nếu con nhìn lại lịch sử các giáo lý tâm linh đã được trao truyền trên hành tinh này, con có thể tự hỏi: “Đâu là cản trở lớn nhất, đâu là chướng ngại lớn nhất cho sự thăng tiến tâm linh của rất nhiều người tâm linh chân thành đã tìm thấy con đường tâm linh suốt các thời đại?” Và quả vậy, trở ngại lớn nhất đó là ngôn từ. Bây giờ con cũng có thể tự hỏi: “Vậy đâu là tài nguyên lớn nhất cho các vị thày tâm linh của nhân loại? Đâu là cơ hội lớn nhất cho sự thăng tiến của người tâm linh?” Và trả lời cũng là ngôn từ. Lý do đơn giản cho sự kiện này tất nhiên là trên một hành tinh như địa cầu, với sự dày đặc của vật chất lẫn của tâm thức đại chúng, việc thần giao cách cảm thật không thực tế trên quy mô rộng lớn. Và do đó giáo lý tâm linh phải được chuyển tải qua ngôn từ.

29.1. Ngôn từ: cơ hội lẫn trở ngại cho sự tăng triển tâm linh

Một mặt, việc dùng ngôn từ để trao truyền giáo lý quả là một cơ hội vì đây là một sự giao tiếp từ cõi tâm linh dưới dạng ngôn từ. Nhưng mặt khác, ngôn từ cũng là trở ngại lớn nhất cho sự tăng triển tâm linh. Tại sao như vậy? Ấy, là vì con người có xu hướng trở nên dính mắc với một cách diễn đạt bằng lời đặc thù, và họ muốn lời này truyền đạt hay quy định một chân lý tối hậu nào đó. Lý do là vì tâm đường thẳng – cái tâm thuần trí, phân tích, lý luận hợp lý – có khả năng làm nhiều trò phù phép với ngôn từ. Có thể con đã được xem các nhà ảo thuật trình diễn nhiều trò lạ, nhưng trí năng con người cũng có thể làm nhiều trò ảo thuật với ngôn từ. Nó có thể diễn giải theo cách của nó. Nó có thể chẻ nhỏ thật chi li và suy diễn bất tận. Và điều này, tất nhiên, con đã thấy các nhà Bà la môn đạo Ấn làm như vậy và đức Phật đã tìm cách vô hiệu hóa việc làm đó. Nhưng chẳng bao lâu sau khi Phật không còn hiện thân thì chính những nhà trí thức của đạo Phật lại bắt đầu làm y như vậy. Khi Giê-su bước chân trên trái đất, các thày thông giáo và người Pha-ri-si cũng làm như vậy, và ngay sau khi Giáo hội Công giáo được thành lập – và cả trước đó nữa – thì các nhà thần học cũng bắt đầu làm chuyện tương tự với lời dạy của Giê-su.

Và hiển nhiên trong thời hiện đại, các nhà khoa học, các nhà duy vật cũng làm đúng chuyện này với các khám phá hay giảng dạy của khoa học. Rồi nhiều người tâm linh khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh dù là mới hay cũ, thì họ cũng làm y chang như vậy. Họ tranh luận bất tận về ý nghĩa của ngôn từ, họ diễn giải bất tận để cố làm thế nào đạt tới một cách diễn giải tối hậu nào đó.

29.2. Đi tìm giáo lý cao nhất trong quá khứ

Một sự kiện, một xu hướng mà con có thể nhận thấy trong lãnh vực tâm linh là có rất nhiều người tâm linh nhìn ngược về phía sau. Họ đi tìm một lời dạy đã được truyền giảng một thời gian trước đây. Có thể đó là lời dạy cổ xưa nhất mà con người biết đến hiện nay – kinh Veda – hay đó có thể là lời dạy của Phật, có thể là Kinh Cựu ước, là lời dạy của Giê-su, là những cách diễn giải sau này hay kinh điển của Phật giáo hay kinh Koran. Đó có thể là những lời dạy mới hơn, thậm chí là lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong những đợt truyền pháp trước. Nhưng con thấy xu hướng người ta cứ nhìn ngược dòng thời gian, như thể họ cho rằng vào thuở khi các bậc hiền giả Veda còn hiện thân, đó là một thời trong sáng hơn, thuần khiết hơn, cho nên lời tiết lộ của các bậc này cũng là lời tiết lộ cao nhất có thể được trao truyền. Hay họ cho rằng thời của Mohammed mới là một thời đặc biệt làm sao, và đó là lý do kinh Koran phải là lời tiết lộ tối thượng có thể được đưa ra.

Liệu những người này chẳng bao giờ mở báo ra đọc hay sao, chẳng bao giờ xem truyền hình, đọc sách hay lên mạng? Chẳng lẽ họ không nhận ra là mức sống con người đã có tiến bộ so với mười ngàn năm về trước? Họ chẳng tự hỏi vì nguyên do gì sự tiến bộ này đã xảy ra? Họ chẳng nhìn ra là tiến bộ đã đạt được là do tâm thức tập thể ngày nay cao hơn thời các hiền giả Veda, hay thời Mohammed, hay thời Giê-su hay thời của Phật? Vậy có hợp lý lắm không khi cho rằng mười ngàn năm về trước, người ta có thể đưa ra một lời tiết lộ cao hơn bây giờ? Làm sao đó là tiết lộ cao nhất được khi tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay? Điều này có hợp lý không?

29.3. Càng ngày càng ít khoảng rộng cho việc diễn giải

Đấy, đối với một số người thì chuyện đó hợp lý, hay họ chỉ đơn giản từ chối không chịu suy nghĩ. Nhưng vì lý do gì người ta không chịu chấp nhận bất kỳ lời tiết lộ nào đến sau? Tại sao họ cứ bám vào cái cũ? Là vì lời tiết lộ ở những thời trước được trao truyền cho một mức tâm thức thấp hơn, có nghĩa là gì? Có nghĩa là lời tiết lộ có thể được đưa ra vào thời điểm đó không chính xác bằng những lời có thể được đưa ra ngày hôm nay. Không chính xác nghĩa là gì, lời diễn đạt giáo lý không chính xác bằng hôm nay, có nghĩa là gì? Có nghĩa là có nhiều khoảng rộng để người ta diễn giải. Và càng có nhiều khoảng rộng để diễn giải thì tâm đường thẳng càng dễ giở trò phù phép của nó, và những ai mắc bẫy tâm đường thẳng – chẳng hạn các nhà Bà la môn hay các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước – càng có thể sử dụng trí năng cao trội của họ để tự ban cho mình một địa vị đặc quyền. Và một khi họ đạt được địa vị này thì họ không muốn buông nó ra, và đó là tại sao họ cố bám lấy những lời dạy cũ mà họ có thể diễn giải một cách bất tận.

Ngay cả các lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong thế kỷ vừa qua cũng cho thấy một chiều hướng tiến triển rõ ràng. Con thử quay lại các đợt truyền pháp trước, đọc lại lời dạy, thì con sẽ thấy những lời dạy này không chính xác, không trực tiếp như lời dạy hôm nay. Một số các con đã bày tỏ: “Nhưng các lời dạy cũ dùng từ ngữ cao siêu hơn nhiều,” trong khi lời dạy ngày nay rất giản dị, dùng từ vựng rất hạn hẹp. Thày đồng ý như vậy, tuy nhiên ngôn từ cao siêu cho phép người ta rộng đường suy diễn hơn.

Điều các thày muốn làm trong khuôn khổ việc tiết lộ tuần tự, như một phần của tiến trình tiết lộ tuần tự, như khía cạnh Omega của tiết lộ tuần tự, là làm cho lời giảng thật bình dị để càng ngày càng có nhiều người nắm bắt được, nhưng cũng để cho ngay cả những người ở một mức tâm thức cao hơn không còn gì nghi ngờ về những điều được bày tỏ, không còn nhiều khoảng rộng để diễn giải, không còn nhiều nhu cầu để suy diễn.

29.4. Sự suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện thời

Tất nhiên, một lời dạy được trao truyền bằng lời nói luôn luôn sẽ bị suy diễn vì con người sẽ suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện tại của họ. Thày có thể đưa ra một lời dạy cho một tầng tâm thức nào đó nhưng sẽ vẫn có những người ở các tầng từ 48 đến 96, hay ngay cả những người ở các tầng bên dưới có thể diễn giải dựa theo tầng của họ, dựa theo thế giới quan và phin lọc nhận thức ở tầng đó. Điều này không thể tránh được, nhưng ít ra các thày làm những gì mình có thể làm từ cõi thăng thiên hầu giúp cho giáo lý càng khó tranh cãi, càng chính xác càng tốt.

Tất nhiên thày không bảo là những lời dạy các thày đang ban truyền là giáo lý tối thượng, không thể nào chính xác hơn được trong tương lai khi tâm thức tập thể vươn lên cao hơn nữa. Nhưng dẫu vậy, con hiểu điều thày muốn nói chứ. Thày đoan chắc là việc quay lại cái cũ không thực sự hiệu quả, đặc biệt khi chúng ta đang ở một thời kỳ chuyển tiếp giữa hai thời đại, giữa hai chu kỳ tâm linh đang chuyển từ thời Song ngư sang thời Bảo bình, vì các lời dạy trong thời Song ngư được đưa ra cho mức tâm thức của chu kỳ đó và giờ đây thì các thày đang giảng dạy cho thời Bảo bình.

29.5. Vượt quá ngôn từ

Tất nhiên, lời dạy thày trao cho con ở đây không chỉ là một lời dạy chung chung, vì nó cũng liên quan đến khái niệm nối kết với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Maitreya vừa trao truyền một lời dạy thật chính xác, và thày đây chỉ muốn đóng góp thêm từ nhãn quan của thày. Maitreya có giải thích là tới một điểm nào đó con cần phải thách thức những hình ảnh con có về Hiện diện TA LÀ của con, những hình ảnh mà con đã hình thành ở một tầng thấp hơn. Con cần ngừng phóng chiếu những hình ảnh này, vì nếu không thì Hiện diện TA LÀ sẽ phải rút lui khỏi con và ngừng trả lời các câu hỏi của con hay hướng dẫn con.

Đấy, trong khuôn khổ tiến trình này, con thử nhìn xem rất nhiều người khi họ nghe nói lần đầu về Hiện diện TA LÀ, họ thường làm điều họ vẫn quen làm dựa trên bất kỳ truyền thống tôn giáo hay tâm linh nào mà họ đã theo. Họ thỉnh gọi Hiện diện TA LÀ, họ cầu nguyện Hiện diện TA LÀ, họ đặt câu hỏi cho Hiện diện TA LÀ, nhưng làm thế nào con thỉnh gọi, cầu nguyện hay đặt câu hỏi đây? Bằng lời nói, chẳng phải vậy sao?

Có thể là ở một tầng nào đó trên đường tu tâm linh, con có thể nhận được sự hướng dẫn bằng lời nói hay câu trả lời từ Hiện diện TA LÀ của con – không phải là một giọng nói ầm ầm từ trên trời vọng xuống mà là lời nói đến với con từ bên trong tâm con. Nhưng khi con đến tầng cao hơn nơi con cần bước lên để bắt đầu trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, thì khi đó con cần nhìn nhận là con không thể đạt được hợp nhất bằng cách tiếp tục giao tiếp với Hiện diện TA LÀ qua ngôn từ, bằng cách nói chuyện với Hiện diện TA LÀ, đặt câu hỏi hay thỉnh gọi. Bởi vì tại sao con lại cần giao tiếp bằng lời chứ? Chỉ khi con nói chuyện với một sinh thể bên ngoài tâm con, một sinh thể tách biệt với con. Đương nhiên đó là cách con nói chuyện với người khác – các thày hiểu rõ là con đã quen làm vậy rồi và một lần nữa các thày không chê trách gì con. Việc con cũng làm vậy với Hiện diện TA LÀ trong một thời gian là chuyện hoàn toàn tự nhiên. Nhưng sẽ tới một điểm sự giao tiếp bằng ngôn từ trở thành một trở ngại sẽ ngăn con đạt đến sự Hợp nhất rộng lớn hơn với Hiện diện mà các thày đã giải thích.

Đến một điểm con đơn giản cần lấy quyết định ý thức là con sẽ ngừng tiếp cận Hiện diện TA LÀ của con qua từ ngữ. Con ngừng chờ đợi hay hy vọng là con sẽ nhận được một hồi đáp bằng từ ngữ. Bởi vì đến một điểm con vẫn có thể nhận được xung lực hồi đáp từ Hiện diện nhưng xung lực này sẽ không mang hình dạng lời nói, nó sẽ giống hơn một cảm giác hay một hình ảnh. Và cuối cùng như Maitreya đã mô tả, ngay cả cách đó cũng phai nhạt đi, và tới một điểm con không còn tìm cách nhận được một điều gì từ Hiện diện hay giao tiếp với Hiện diện của con, bởi vì như Maitreya đã tả chân thật hùng hồn, sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô tan biến mất.

Con không còn hướng bất cứ gì về Hiện diện của con nữa, con không còn chờ đợi nhận được gì nữa từ Hiện diện. Con chỉ là một với đại dương của Hiện diện và tâm con chảy theo Hiện diện, khi lên khi xuống. Và con không phân tích, con không lý giải, con không suy diễn, con không cố cắt nghĩa hay đặt chuyện này chuyện nọ vào một khuôn khổ vũ trụ hay một tầm quan trọng vũ trụ. Con chỉ – con là Hiện diện và Hiện diện cũng chính là con. Đâu còn nhu cầu giao tiếp bằng lời nữa?

29.6. Đề nghị của Padmasambhava

Nếu con cảm thấy cần sự trợ giúp để thực hiện việc trên thì thày cống hiến cho con sự giúp đỡ của thày. Con chỉ đơn giản đọc câu thần chú của thày*. Con đọc lớn 9 lần, xong con nhắm mắt lại, tập trung vào bên trong và không đọc thần chú. Con chỉ đơn giản để cho thần chú đến với con.

Có thể con sẽ thắc mắc: “Nhưng thần chú chẳng phải là từ ngữ hay sao?” Là gì chứ – từ ngữ? Đó là âm thanh con ạ, nó không mang ý nghĩa nào mà tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy. Tất nhiên con có thể lên mạng internet truy tìm cách diễn giải câu chú, nhưng nếu con tìm thêm chút xíu, con sẽ tìm thấy 17 cách diễn giải khác nhau. Cách nào mới là cách đúng? Thôi con hãy quên đi chuyện tìm ý nghĩa câu thần chú mà hãy đơn giản nhìn nó như là âm thanh. Âm thanh này làm gì chứ? Nó làm yên tâm con, tâm vỏ ngoài của con, để con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày cùng Hiện diện của con. Đó là điều thày có thể làm cho con trong bối cảnh này, và thày sẽ giúp những ai đọc câu chú này nếu con cảm thấy con cần đến nó.

Thày không bảo là việc này nên thay thế việc con hòa điệu với một vị Thượng sư hay một chân sư đặc biệt mà con cảm thấy gần gũi. Đây chỉ là thêm một dụng cụ mà các thày đã quyết định cho con.

Với lời này, thày đã cho con những gì là niềm vui mà cũng là trách vụ của thày trao cho con tại buổi họp mặt thật tuyệt vời này mà các con đã tổ chức và tham gia. Tất cả các thày mong con có thể nhìn thấy tác động mà một đại hội như thế này tạo ra trong tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của mọi người. Chỉ tiếc là các thày không thể truyền đạt điều này bằng tư tưởng nên con phải tin lời thày thôi.      

Và như vậy, thày niêm con trong tình yêu của tim thày.

* Câu thần chú của Padmasambhava: OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM

23 | Vượt quá hình tư tưởng để trực tiếp trải nghiệm Hiện diện

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Con có thể thấy điều trớ trêu là các thày nói về tâm đường thẳng, vậy mà các thày, các Thượng sư, lại nối tiếp nhau xuất hiện một cách đường thẳng.

Tuy nhiên, như các thày có nói, lẽ tất nhiên có một tiến trình đường thẳng đi từ đấng Sáng tạo xuyên qua các tầng của sự sáng tạo, các bầu cõi trước, cho tới bầu cõi này. Con không thể nói là mọi chuyện theo một tiến trình đều nhất thiết giống như những gì thày nói về tâm đường thẳng. Đó là vì tâm đường thẳng là một hiện tượng đặc thù có mặt nơi một bầu cõi chưa thăng thiên. Như các thày có nói, tâm đường thẳng không thực sự là một vấn đề khi ta thấy nó như nó là, tức là một dụng cụ để lo liệu các khía cạnh thực tiễn của đời sống.

23.1. Một tiến trình đường thẳng trong đời sống thực tiễn

Con biết rõ là trong cuộc đời của mình con có một thời biểu nào đó, một số bổn phận nào đó. Có thể là con phải đi học, có thể là con phải dẫn con đến trường, có thể là con phải đi làm, vì vậy con cần ở một số nơi vào một số lúc. Do đó, con cần một tiến trình đường thẳng, một thời biểu đường thẳng trong cuộc sống thường nhật để mọi chuyện vận hành suôn sẻ.

Đây là một chuyện rất thực tiễn. Tỷ dụ, con biết là nếu con muốn xây một căn nhà thì con cần thiết lập một tiến trình đường thẳng. Con mua mảnh đất, con nhờ người vẽ sơ đồ, con tổ chức các người thợ cần thiết để hoàn thành công việc, và mọi chuyện cần diễn ra theo một tiến trình đường thẳng, một thời khóa biểu đường thẳng. Trong xã hội cũng vậy, khi có việc cần làm, khi cần hoàn thành một công trình xây dựng lớn, hay chỉ để đời sống thường nhật vận hành trong xã hội, xe buýt phải chạy đúng giờ, xe lửa chạy phải đúng giờ và những việc tương tự, thì tâm đường thẳng là một dụng cụ rất hữu dụng.

23.2. Dùng tâm đường thẳng để lý luận về cõi tâm linh

Vấn đề khởi lên khi con người bắt đầu dùng tâm đường thẳng để giải quyết những đề tài ngoài đời sống thực tiễn trong bát cung vật lý. Đây là một vấn đề đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử. Như các thày có giảng, vào thời đức Phật, các vị Bà la môn Ấn giáo dùng tâm đường thẳng để lý luận về các đề tài không dính dáng gì đến đời sống thường nhật thực tiễn, tỷ dụ liên quan đến sự vận hành của vũ trụ, kể cả cõi tâm linh như thế nào.

Đức Phật thấy các cố gắng này đã tạo ra đủ loại ngộ nhận, vì điều mà tâm đường thẳng làm là nó nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất. Nó tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng, một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng mà nó phát hiện trong thế giới vật lý, sau đó nó muốn kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh. Do đó, nó dùng những điều kiện trong thế giới vật chất và lý luận ngược trở lại về sự vận hành của thế giới tâm linh.

Con có nắm bắt vì sao phương pháp này nguy hiểm? Các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Các thày có giảng là có một loại tiến trình đường thẳng từ đấng Sáng tạo tới tầng cao nhất của thế giới tạo vật, là bầu cõi thứ nhất. Đấng Sáng tạo đề ra một khuôn đúc. Các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất sinh hoạt trong khuôn khổ khuôn đúc đó. Họ tạo ra bầu cõi thứ hai, và sau đó cũng như vậy với bầu cõi thứ ba, vân vân. Tất cả những gì được tạo ra ban đầu trong bầu cõi của con là một biểu hiện của các tầng lớp bên trên.

Do đó, con có thể nói là có một tiến trình, nhưng trước nhất, tiến trình này đi từ tầng cao nhất tới những tầng càng ngày càng có hình tướng biểu hiện hơn. Đó không phải là một chuỗi nhân-quả đường thẳng. Đó không phải là kết quả của các định luật máy móc. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo không hoàn toàn đường thẳng. Điều thày muốn nói là con không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn. Con không thể hiểu được khi con còn đầu thai trên trái đất. Do đó, tìm cách lý luận dựa trên những gì con thấy trên trái đất để suy diễn ra cõi tâm linh là một tìm cầu vô bổ.

23.3. Phóng chiếu những điều kiện không trong sạch của trái đất lên cõi tâm linh

Sau đó lại có một tầng khó khăn khác. Các thày có giảng là lúc ban đầu bảy vị Elohim tạo ra trái đất. Các vị này tất nhiên là các sinh thể thăng thiên. Lẽ tất nhiên họ là một với toàn thể đại đoàn chưởng giáo dẫn đến tận đấng Sáng tạo. Họ tạo ra trái đất trong khuôn khổ khung sườn của những bầu cõi trước. Tuy nhiên, những gì các Elohim tạo ra không phải là những điều kiện con thấy trên trái đất ngày nay. Con có thể nói là nếu con thấy được những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra, thì con có thể thấy một số nguyên tắc, điều mà các khoa học gia gọi là luật thiên nhiên, tuy các luật này có tính chất tâm linh hơn là thiên nhiên. Con có thể nói: “Nếu ta hiểu những luật này, ta có thể suy luận lý do vì sao các sinh thể đó đã định là các luật đó như vậy. Do đó, chúng ta có thể suy luận để tìm ra ý tưởng của các sinh thể đó, tâm thức của họ. Ta có thể nhìn các điều kiện nguyên thủy của trái đất và dùng tâm đường thẳng để suy luận các đặc tính của tầng các Elohim.”  

Con có thể đạt kết quả với tâm đường thẳng, nhưng con không thể đi quá tầng các Elohim với tâm đường thẳng, vì tiến trình từ bầu cõi thứ sáu lên bầu cõi thứ năm không theo đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đi quá xa trở ngược lên cõi tâm linh. Thêm nữa, các thày cũng đã giảng là những điều kiện con thấy trên trái đất hiện nay không phải là những gì các Elohim tạo ra lúc ban đầu. Lý do là, như các thày đã giảng nhiều lần, nhân loại đã đi vào tâm thức tách biệt và đã bắt đầu sử dụng tâm thức nhị nguyên, và điều này đã đưa đến nhiều biến đổi sâu đậm trên trái đất. Độ dày đặc của vật chất, sự thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, và toàn thể tâm thức tập thể đã bị hạ xuống một tầng thấp hơn rất nhiều so với khi địa cầu được tạo ra lúc ban đầu.

Điều kiện hiện nay của trái đất không tự nhiên, không là một nối dài trong sáng của những gì các Elohim tạo ra. Các thày Bà la môn Ấn giáo đã làm gì? Họ nhìn các điều kiện hiện hành trên trái đất, họ cố tìm ra những mô thức, những gì xảy ra đều đặn, và sau đó họ dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu: các điều xảy ra đều đặn, các mô thức mà ta thấy trong cõi vật lý, có thể được phóng rộng lên trên tới cõi bên trên cõi vật lý. Chúng có thể cho ta biết về các thần linh, vì sao các thần linh lại là như họ là, và vì sao họ lại tạo thế giới như họ đã tạo ra.

Con có thấy chăng là phương pháp này sẽ không bao giờ cho con một hình ảnh chính xác về cõi tâm linh? Con lấy những điều kiện không thuần túy tâm linh và phóng chiếu chúng lên cái có tính chất tâm linh. Lẽ tất nhiên, không phải chỉ có các vị Bà la môn Ấn giáo đã làm việc này. Như các thày đã giảng, trong truyền thống Thiên chúa-Do thái giáo, vị Thượng đế giận dữ ở trên trời là một hình ảnh phóng chiếu bởi con người dựa trên tâm lý sa ngã và tâm thức nhị nguyên. Con thấy suốt dòng lịch sử, ở khắp nơi trên thế giới, con người đã lấy những điều kiện mà họ quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh, cõi thiên đường, hay bất cứ tên gì mà họ gọi. 

23.4. Cố gắng phù phiếm thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả

Trên căn bản, tại sao họ lại làm vậy? Đó là vì họ bị xáo trộn bởi những điều kiện hiện tại trên trái đất. Họ đang đau khổ, như Phật có giảng, vì khi con đi vào tâm thức nhị nguyên thì cuộc đời là đau khổ. Con bị xô đẩy từ bên này sang bên kia trong Biển Luân hồi. Con người muốn thoát khổ đau, và họ trực giác cảm nhận là phải có một lý do cho sự đau khổ của họ. Đây là một trực giác chân chính. Sự đau khổ của con có lý do.  

Sau đó họ quan sát là dường như trong bát cung vật lý một số chuyện, một số hậu quả có nguyên do. Đôi khi đó là một nguyên do sâu kín. Nếu con cầm một hòn đá trong tay và buông tay ra, thì hòn đá sẽ rơi xuống đất. Phải có một nguyên do sâu kín khiến hòn đá rơi xuống đất. Đây là một quan sát căn bản mà con người đã làm từ rất lâu. Họ cảm nhận bằng trực giác là phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau của họ, của các điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó họ tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại từ những điều kiện hiện hành trên trái đất để tìm ra nguyên do của các điều kiện này, nguyên do khổ đau của họ. Họ trực nhận là nếu họ khám phá ra nguyên do, và thay đổi nguyên do, thì họ cũng có thể thay đổi hậu quả.

Một lần nữa, đây là một trực giác chân chính. Nếu con có thể thay đổi nguyên do thì con có thể thay đổi hậu quả. Sự thật là thay đổi nguyên do là cách hữu hiệu duy nhất để thay đổi hậu quả. Lẽ tất nhiên, con người cũng đã tìm cách thay đổi nguyên do ở tầng hậu quả. Họ đã tìm cách thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả. Con thấy đây là điều mà khoa học đã làm từ mấy thế kỷ bằng cách nhìn vào bát cung vật lý và tìm cách hiểu điều kiện vật lý dựa trên nguyên do vật lý.

Có hai phương pháp mà con người áp dụng khi dùng tâm đường thẳng. Hay ta cũng có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con nhìn vào điều kiện hiện hành, con coi chúng là hậu quả, và con tìm cách dùng tâm đường thẳng để suy luận trở ngược cho tới khi con tìm ra nguyên do của hậu quả, và sau đó con tìm cách thay đổi nguyên do. Điều mà khoa học cố làm là tìm ra nguyên do trong thế giới vật lý, vật chất, và dùng hiểu biết này để thay đổi các điều kiện vật lý. Điều mà các tôn giáo đã làm từ nhiều ngàn năm là đi xa hơn các nguyên do vật lý và tìm các nguyên do phi vật lý. Do đó, họ tìm một thần linh có trách nhiệm về địa hạt mà họ đang bị đau khổ, và sau đó tìm cách cầu xin thần linh này để thần linh thay đổi điều kiện đang gây đau khổ cho họ.

23.5. Suy luận trí năng là ngõ cụt

Ta có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh thì vấn đề thực sự được tìm thấy nơi truyền thống tôn giáo. Họ không những muốn tìm một nguyên do của khổ đau hiện tại của mình, nhưng họ còn muốn tạo những hình ảnh tinh vi mô tả cõi tâm linh. Đây là điều khiến các vị Bà la môn Ấn giáo đi vào nhiều ngõ cụt khi họ dùng lý luận trí năng, đường thẳng, phân tích để phóng chiếu rằng: Thượng đế như thế này, các điều kiện như thế kia, đây là nguyên do tâm linh thật đằng sau hậu quả này, vân vân. Điều xảy ra vào thời đó là họ phân chia thành rất nhiều chi nhánh và giáo phái, họ có quá nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người đều tất nhiên khẳng định họ có hiểu biết tối hậu. 

Điều con thấy là hiện tượng rất ư phức tạp với rất nhiều người khẳng định họ có chân lý tối hậu, nhưng không có ai trong đó có chân lý tối hậu vì họ đều lý luận bằng tâm đường thẳng dựa trên những quan sát điều kiện hiện tại. Con có thể tiếp nối hiện tượng này tới thời nay và nói rằng một số những người đã đầu thai là người Bà la môn Ấn giáo mấy ngàn năm trước nay lại đầu thai là khoa học gia duy vật, họ trên căn bản lý luận giống như xưa, chỉ khác là nay họ quyết định rằng: “Chúng tôi không đi ra ngoài thế giới vật lý, chúng tôi tìm những nguyên do càng ngày càng sâu thẳm trong thế giới vật chất của các hiện tượng vật chất.” Họ vẫn phân chia thành nhiều trường phái, nhiều nhóm, họ có rất nhiều lý thuyết về sự phức tạp này hay phức tạp khác, như các thuyết đa vũ trụ, lỗ đen, năng lượng tối, vật chất tối, hay các đề tài phức tạp khác.

Những chuyện này ngăn con người làm việc gì? Chúng ngăn con người đạt tâm bình an. Con thấy gì ngày hôm nay, con thấy gì thời đức Phật? Con có thấy chăng các xung đột giữa con người, và các xung đột này dựa trên gì? Chúng dựa trên lý luận trí năng trên các điểm vi tế. Một nhóm Bà la môn diễn giải kinh Vệ đà theo lối này, một nhóm Bà la môn khác diễn giải cùng kinh đó theo cách khác. Mỗi nhóm đều tin chắc họ đúng, mỗi nhóm cảm thấy nhất định phải thuyết phục nhóm khác hay con người là các nhóm khác sai, và như vậy luôn luôn có đấu đá không ngừng.

23.6. Một triết lý mới chú trọng vào nâng cao tâm thức

Phật khi xưa đã thấy chuyện đó. Phật thấy các người đó làm chuyện phù phiếm vì họ sử dụng tâm đường thẳng. Các con nhớ là khoảng cùng thời với Phật có một triết gia Hy Lạp tên Plato có đưa ra câu truyện ẩn dụ về hang động. Câu truyện kể là có một nhóm người bị xiềng trong một hang động và không nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng bên ngoài có ánh sáng chiếu vào hang và có người đi lại giữa ánh sáng và hang động nên bóng họ chiếu lên thành hang. Nhóm người bên trong hang động chỉ thấy những bóng đó, họ quan sát các bóng và tìm cách lý luận ngược để tìm ra chuyện gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng họ chỉ thấy các bóng. Đức Phật nhận ra đây là điều các Bà la môn Ấn giáo thấy, chỉ là các bóng, và làm sao bóng của một vật lại có thể cho con biết mọi chuyện về vật đó?

Tỷ dụ, làm sao bóng của một vật có thể cho con biết vật đó màu gì? Bóng là một phóng chiếu lên một mặt hai chiều kích, làm sao nó có thể cho con biết hình dáng ba chiều kích của vật? Con thấy đấy những giới hạn. Đức Phật thấy các giới hạn đó, và đó là lý do vì sao thày nói: “Chúng ta hãy sáng tạo một triết lý mới, một phong trào mới, không tìm cách lý luận ngược để tìm ra điều kiện trên cõi tâm linh như thế nào. Chúng ta hãy chú tâm vào công việc thiết thực là nâng cao tâm thức, giúp con người khắc phục khổ đau, và khi họ đã nâng tâm thức đủ thì họ có thể nắm bắt một số chân lý vượt lên trên thế giới vật lý.”

Vì sao thày lại trao các con bài giảng dài dòng này? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu là Tia của Bình an, và điều tước đi bình an chính là lý luận với tâm đường thẳng, dùng tâm đường thẳng (là một dụng cụ thực tiễn dùng trong đời sống thường nhật trong thế giới vật chất) và tìm cách mở rộng nó ra ngoài thế giới vật chất để suy diễn điều gì vượt lên trên thế giới vật chất. Khi con còn làm điều này thì con không thể có bình an, và con cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Nếu con muốn thực sự hiểu giáo lý của Phật thì con cần nhận ra một điều giản dị, nhưng đối với tâm đường thẳng thì điều này không giản dị. Giáo lý của Phật không – KHÔNG – nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi. Đây là một điều mà đại đa số những người hiện nay tự coi là Phật tử sẽ phản đối hung hãn, hay ít ra là phản đối kịch liệt. Họ sẽ nói vì Phật là bậc giác ngộ nên điều Phật dạy là chân lý cao trội, thậm chí là chân lý tuyệt đối – nhưng điều này đơn giản không phải là sự thực.

Phật không muốn đưa ra một chân lý tối hậu vì thày thấy đây là điều các vị Bà la môn muốn làm. Vì sao các vị Bà la môn lại muốn làm vậy? Như các thày đã giảng, tâm đường thẳng muốn làm gì? Nó muốn xếp mọi chuyện vào một đường thẳng, một tiến trình, rồi nói: phải có một điểm kết tối hậu của đường đó, phải có một tầng cao nhất. Nếu ta có thể đặt chân lý lên một đường thẳng, thì sẽ có nhiều tầng của chân lý, nhiều tầng hiểu biết, và ta có thể càng ngày càng hiểu hơn về thế giới, như khoa học đã làm từ lâu nay. Nếu ta tiếp tục sự tăng trưởng hiểu biết đó thì sẽ phải đến một chân lý tối hậu. Như thày Hilarion có nói, chân lý tối hậu sẽ chỉ đến khi con tới tầng đấng Sáng tạo, và có một khoảng cách rất xa giữa tầng của trái đất và tầng của đấng Sáng tạo.

23.7. Đường lối thực tiễn của các chân sư thăng thiên

Đức Phật nhận ra điều trên nên thày chỉ chú tâm vào những gì có khả năng nâng con lên, nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy nhìn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ thời Phật tới ngày nay. Khoa học đã chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại, và khoa học cũng đặt căn bản trên tâm đường thẳng. Khoa học cho rằng ta phải bắt đầu bằng những quan sát nơi thế giới vĩ mô, sau đó khám phá các tầng vi tế, sâu thẳm hơn cho tới khi ta tới tầng tối hậu là hạt Thượng đế, hay bất cứ gì họ gọi nó.

Tại sao điều này lại quan trọng cho người tâm linh? Đó là vì con đã lớn lên trong xã hội hiện đại, con không thể tránh bị ảnh hưởng bởi tư duy đó. Con nay ở đây, con đã lớn lên với tư duy đó và sau đó con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Lúc đó con nói: “À, rốt cuộc tôi đã tìm thấy một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây là một giáo lý đến từ cõi thăng thiên, đến từ các chân sư thăng thiên là những người bên trên thế gian này. Giáo lý này phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”  

Các thày đã nhiều lần giải thích từ nhiều góc độ khác nhau là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Các thày đang làm gì ngày hôm nay? Các thày đang làm y như Phật cách đây 2500 năm, tức là nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?” Các thày không tìm cách trao cho các con chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước sẽ kịch liệt phản đối câu nói trên, nhưng vì sao họ phản đối? Đó là vì họ bị kẹt trong tâm đường thẳng: Phải có một chân lý tối hậu, và nếu ta không thể tìm thấy nó nơi các tôn giáo trên thế giới hay nơi khoa học duy vật, thì chắc hẳn ta phải tìm được nó nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày không nói là giáo lý của các thày sai, là ảo tưởng hay sự lừa gạt, nhưng chúng thích nghi với tầng tâm thức, không những của các đệ tử chân sư thăng thiên, mà thậm chí của tâm thức tập thể. Không thể có cách nào khác trên một hành tinh như trái đất.

Chuyện đã xảy ra trong các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử đã sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên. Đây là điều tâm đường thẳng vẫn làm. Nó nhìn vào điều kiện trên trái đất, tạo ra hình tư tưởng dựa trên các điều kiện này, tỷ dụ như những nguyên do của điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó, nó mở rộng hình ảnh đó ra và phóng chiếu hình ảnh đó lên cõi tâm linh.

23.8. Phóng chiếu hình tư tưởng lên các chân sư thăng thiên

Khi các đệ tử tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, thì việc đầu tiên họ làm là sử dụng những hình tư tưởng mà họ thu thập khi họ lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác mà họ đã học. Sau đó, họ lấy giáo lý chân sư thăng thiên và dùng nó để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Tại sao điều này lại dính dáng đến chủ đề của khóa nhập thất này, là kết nối với các vị thày tâm linh? Ấy, con yêu dấu, thày là một chân sư thăng thiên. Làm sao con kết nối với thày? Con có nghĩ là con có thể kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất, trong tâm con? Bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng. Thày nhìn nhận là trong các đợt truyền giáo trước, các đệ tử không dễ nắm bắt điều này vì một số giáo lý chưa được trao truyền. Họ không có được các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong đợt truyền giáo này về các ngã tách biệt, các ngã này tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã. Làm sao cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã? Chỉ bằng cách duy nhất là nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là con phải nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là thế đó: một hình tư tưởng.

Lẽ tất nhiên con có thể nói là trong khuôn khổ Luật Tự quyết, không có gì sai trái khi con người tạo hình tư tưởng của các chân sư thăng thiên vì điều này cho họ một trải nghiệm. Con có thể nhìn các đệ tử của các đợt truyền giáo trước và con có thể thấy là nhiều người có những hình tư tưởng rất cầu kỳ về các chân sư thăng thiên và họ phải tương tác thế nào với các chân sư thăng thiên. Thậm chí nhiều người trong số các đệ tử đó còn cảm thấy là họ đã kết nối với các chân sư thăng thiên, họ đã có trải nghiệm các chân sư thăng thiên. Giờ đây thì thày không nói là các đệ tử từ các đợt truyền giáo trước đó đã có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên. Có những đệ tử nghĩ họ có một trải nghiệm thực sự nhưng họ đã kết nối với những sinh thể trong cõi tư tưởng vì họ quá dính mắc vào các hình tư tưởng của họ. 

Những đệ tử có trải nghiệm thực sự là những đệ tử không quá dính mắc với hình tư tưởng của họ. Bởi vì con làm gì khi con phóng chiếu một hình tư tưởng? Con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con vì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.” Như các thày khác đã nói, nếu thày làm vậy thì kết quả là gì? Kết quả là thày xác chứng hình tư tưởng của con, và con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.” Làm sao kết quả này có thể giúp con tăng trưởng tâm linh? Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Câu hỏi luôn luôn là: nếu con muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, thì con muốn kết nối với vị chân sư hay với một hình tư tưởng của vị chân sư? Con có sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của vị chân sư thăng thiên? Đó chính là câu hỏi. Các thày không muốn trốn tránh con, nhưng nhiều đệ tử đang tìm cách trốn tránh các thày. Nếu con muốn trốn tránh các thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên các thày, thì các thày phải để con làm chuyện này. Các thày phải cho phép con có trải nghiệm đó, thậm chí các thày còn phải cho phép con kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo hình ảnh của con. Họ sẽ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con. Thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.  

Nếu nói một cách rất thẳng thắn, thì trên căn bản nếu con không trải nghiệm, nếu con chưa bao giờ trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con. Một lần nữa, các thày không chê trách con vì con có quyền tự quyết, các thày hiểu là con sống trên một hành tinh rất khó khăn, các thày hiểu là con có nhiều tiền kiếp đã tạo ra biết bao ngã trong bốn tầng của tâm con. Các thày không chê trách con. Các thày chỉ nói là nếu con thực sự muốn kết nối với các thày, thì con phải sẵn sàng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

23.9. Hình tư tưởng về El Morya như một người áp dụng kỷ luật nghiêm khắc

Chuyện gì xảy ra khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này có tác dụng gì? Nó cho phép con có một quan điểm nào đó, một trải nghiệm nào đó, và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư. Để cho con một thí dụ, trong một đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, các đệ tử đã tạo ra một hình ảnh rất đặc biệt về El Morya, bây giờ là Chân sư MORE. Đó là một lý do khiến thày quyết định đổi tên, vì các đệ tử đó vẫn còn hình ảnh này về thày, hình ảnh một vị thày nóng nảy chiếu ánh sáng xanh, một vị thày áp dụng kỷ luật rất nghiêm khắc sẵn sàng thách thức đệ tử và phơi bày tự ngã của họ không chút thương hại. Họ đã tạo khái niệm là những đệ tử chân chính của El Morya có những đặc tính đó và có quyền đi khắp nơi và chiếu áng sáng xanh vào người khác bằng cách thách thức họ, nói cho họ biết những điểm sai trái của họ. Có nhiều người trong tổ chức đó hãnh diện là đã chiếu ánh sáng xanh vào những người họ cho là kém họ.

Những đệ tử đó đã làm gì? Con có thể nói là tự ngã của họ muốn có trải nghiệm cao trội hơn người khác, có quyền kỷ luật người khác và nói họ phải làm gì. Họ dùng hình tư tưởng mà họ đã tạo ra về El Morya như một cái cớ để biện minh cho cách cư xử của họ, cách cư xử dựa trên tự ngã, dù họ sẽ kịch liệt phản đối là cư xử của họ không dựa trên tự ngã – nhưng nó quả thật như vậy.

Một lần nữa, những đệ tử đó có quyền tự quyết và họ có quyền lấy một giáo lý chân sư thăng thiên, tạo hình tư tưởng về El Morya, và xác chứng trải nghiệm mà họ muốn có cho tới một ngày hy vọng họ chán chê trải nghiệm đó. Một số đệ tử đã chán chê và không còn cư xử như vậy nữa, nhưng một số chưa chán. Điều thày muốn nói là tuy một số các đệ tử đó tưởng họ có trải nghiệm thực sự về El Morya, nhưng không phải vậy. Tại sao El Morya lại xác chứng hình ảnh đó về thày khi thày thấy rõ là làm vậy sẽ chỉ giam cầm các đệ tử đó và ngăn họ thực sự kết nối với thày?

Thày chỉ giản dị muốn nói là trong đợt truyền giáo này con đã nhận được giáo lý thâm sâu hơn về các ngã, các ngã tiềm thức và tách biệt, hình tư tưởng, phin lọc nhận thức. Do đó, con có thể theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với các thày là chân sư thăng thiên. Kết nối với các thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với các thày như trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Điều này có nghĩa là thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Nếu đây là điều con muốn, thì con có các dụng cụ để hoàn thành.

23.10. Một dụng cụ thực tiễn từ Nada

Thày trao cho con một dụng cụ thực tiễn sẽ giúp con trên Tia thứ Sáu. Thày bắt đầu bài giảng này bằng cách nói về tâm đường thẳng muốn phóng chiếu hình ảnh một chân lý tuyệt đối và vì sao như vậy lại lấy đi an bình nội tâm của con. Điều con có thể làm là dùng giáo lý của các thày để nhận ra mục đích thực của con đường tâm linh không phải là biết chân lý tuyệt đối mà là nâng tâm thức từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp. Như các thày có giảng, con sẽ tới một điểm bắt đầu đi vào những tầng của quả vị Ki-tô cá nhân. Ta có thể nói quả vị Ki-tô cá nhân chính là chìa khóa của an bình, đó là lý do vì sao Giê-su đã được gọi là Hoàng tử An bình vì Giê-su đại diện Tâm thức Ki-tô cho nhân loại. Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô liên hệ ra sao với an bình?

Chính qua tâm Ki-tô mà con kết nối và trải nghiệm có thực tại vượt quá thế giới vật chất. Chỉ khi nào con trực tiếp trải nghiệm điều này thì con mới làm được điều mà đức Phật dạy con người: khắc phục những dính mắc vào thế gian. Khi con trải nghiệm Tâm thức Ki-tô thì con khắc phục dính mắc. Dính mắc của con trụ ở đâu? Chúng trụ nơi các ngã tách biệt, đúng vậy, nhưng cũng trụ nơi tâm đường thẳng và các hình tư tưởng do tâm đường thẳng phóng chiếu. Con muốn thế giới phải như thế nào đó. Con muốn cuộc đời mình phải như thế nào đó.

Nếu con xem xét hiểu biết cơ bản về đau khổ, thì cái gì tạo đau khổ? Đó là do con thiết lập trong tâm, trong tâm đường thẳng, hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào đó. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của mình chính là căn bản của khổ đau, nguyên do của khổ đau. Khi con bắt đầu trải nghiệm tâm Ki-tô thì con nhận ra có cái gì vượt quá hình tư tưởng của mình, con trải nghiệm có cái gì vượt lên trên. Nhưng sau đó con giáp mặt thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của mình, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc? Hay con sẽ làm giống như Peter khi xưa và tìm cách kéo trải nghiệm Ki-tô vào hình tư tưởng của mình để con có thể tưởng rằng Ki-tô đã chứng thực những hình tư tưởng này? Đây là điều nhiều đệ tử đã làm trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, như thí dụ về El Morya mà thày có đề cập. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể làm như vậy ngay cả trong đợt truyền giáo này – nếu con không áp dụng giáo lý. Nhưng con cũng có dụng cụ giúp con tránh làm như vậy.

Làm sao con đạt được an bình nội tâm hơn? Bằng cách lúc nào cũng với lên tâm Ki-tô, dùng tâm Ki-tô như khung tham chiếu để nhìn vào cuộc đời mình, nhìn vào những điều kiện mà con gặp phải trong đời. Các thày hiểu là một số các con gặp những điều kiện rất khó khăn. Các thày không muốn các con nghĩ là các thày không hiểu điều này. Tuy nhiên, lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc, khắc phục hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Thày biết đây là một khái niệm mà những người đang sống với các điều kiện khó khăn khó nắm bắt. Các người đang không sống với điều kiện khó khăn thì dễ nắm bắt hơn. Thày hiểu điều này, nhưng đây vẫn là chân lý muôn thuở. Điều kiện, điều kiện vật lý, không tạo khổ đau, khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng. Đây là lời hứa của Ki-tô, là Ki-tô có thể cho con tầm nhìn khác, và điều này sẽ cho con an bình nội tâm.

23.11. Hãy để Dòng sông sự Sống đưa con đi tới

Nếu con muốn có một hình ảnh thì con hãy hình dung mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, như một chiếc xuồng, và con đang chèo theo dòng nước. Khi con đang ngồi trong chiếc thuyền nhỏ và ra sức chèo, thì có thể con chú tâm vào việc mình đang làm. Con muốn đi tới một điểm đến. Có thể có những tảng đá trong dòng sông, dòng sông có thể uốn khúc, con cần điều khiển, lèo lái con thuyền, có chỗ con cần chèo nhanh hơn để vượt qua khúc quanh hay tránh thác ghềnh. Con luôn luôn tập trung vào động tác chèo thuyền để thuyền đi về phía trước. Nếu con đang trên một dòng sông an toàn, không có tảng đá hay thác ghềnh, thì con có thể hành xử khác. Con có thể buông chèo, ngồi thoải mái trong xuồng, và chỉ để xuồng trôi theo dòng nước, chỉ để dòng nước đưa xuồng đi. Hành trình có thể lâu hơn, hay không lâu hơn, nhưng con sẽ tới điểm đến.    

Con có thể tới điểm trong tâm con, con như đang ngồi trong chiếc xuồng, thư giãn, nhìn hai bên bờ lướt nhẹ vì dòng nước đang đẩy xuồng đi về hạ nguồn. Đây là trạng thái không dính mắc. Con đang ngồi trong xuồng, con đang di chuyển về hạ nguồn, và dòng nước, Dòng sông sự Sống, đang kéo con đi. Tại sao con cần chèo và vật lộn mãi? Tại sao con cần dính mắc vào những gì xảy ra trên bờ sông? Có thể có một con gấu đang đứng trên bờ gầm gừ với con, có thể có người đang la hét con. Con biết là nếu con ngồi đó không dính mắc, thì dòng nước sẽ mang con đến hạ lưu bất kể những gì xảy ra hai bên bờ sông. Con hãy chỉ hòa điệu với Dòng sông sự Sống, và để dòng nước kéo con đi tới. Tại sao con lại phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng? Tại sao con cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện? Tại sao con cần diễn giải mọi chuyện? Tại sao mọi chuyện cần phải có một ý nghĩa tối hậu, một ý nghĩa hoàn vũ, một ý nghĩa tâm linh nào đó? Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Con hãy xem xét vì sao con người tin chiêm tinh. Có chuyện gì đó xảy ra cho họ, họ đi gặp một chiêm tinh gia, họ muốn biết cấu hình chiêm tinh nào trên bầu trời đã gây ra điều kiện mà họ đang gặp phải. Các điều kiện trên trời không biểu hiện tất cả mọi chuyện trên trái đất. Điều tạo ra mọi chuyện trên trái đất là sự điên rồ của con người và sự tương tác giữa con người, là điều mà Phật đã gọi là các nhân duyên liên khởi. Không có một nguyên do hoàn vũ cho rất nhiều hoàn cảnh mà con đối mặt trong đời. Con hãy giản dị vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con hãy chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, dẫn con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc. 

Khi con dính mắc thì con làm gì? Con nắm một cành cây trên bờ sông và con vật vã cố sức ghìm xuồng ở một vị trí. Dòng nước đang kéo xuồng về phía hạ lưu. Con cần càng lúc càng thêm nỗ lực kềm giữ cho tới khi con không chịu nổi hay cành cây bị gãy. Con hãy chỉ buông tay … buông tay … buông tay. Thày biết nói dễ hơn làm, nhưng cái gì đang kềm giữ vậy? Đó là con hay là một ngã tách biệt? Con hãy nhìn vào ngã, con có dụng cụ – con hãy buông bỏ đi. Con sẽ không bao giờ đạt được an bình trên trái đất bằng tâm đường thẳng, bằng những hình tư tưởng mà tâm đó phóng chiếu phải xảy ra hay không được xảy ra.

Vì sao con nghĩ Giê-su lại để cho mình bị đóng đinh trên thập tự? Giê-su là một người đã đạt được một tầng tâm thức Ki-tô rất cao. Tại sao Giê-su lại cho phép mình bị đóng đinh? Con có nghĩ Giê-su muốn bị đóng đinh chăng? Không đâu, nhưng Giê-su thấy là các nhân duyên liên khởi của hoàn cảnh đó đang tuôn chảy và Giê-su cho phép chúng xảy ra. Giê-su buông bỏ ý niệm chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khai ngộ cuối cùng của Giê-su là gì? Giê-su bị treo trên thập tự và nghĩ rằng Thượng đế sẽ gửi thiên thần tới cứu, nhưng sau đó thày nhận ra là chuyện đó sẽ không xảy ra và thày buông bỏ ý muốn đó, buông bỏ hồn ma cuối cùng đó, hình tư tưởng cuối cùng về điều phải xảy ra và không được xảy ra trên trái đất.   

Nhiều người trong các con là avatar. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ và ngã gốc. Nhiều người trong các con tới địa cầu với một hình tư tưởng về lý do con xuống đây, con tới đây để làm gì, con tới đây để hoàn thành việc gì, thay đổi tích cực mà con nghĩ con có thể đem tới hành tinh này. Con tới đây, con chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng con phản ứng ra sao? Con đã phản ứng bằng cách tạo hình tư tưởng dựa trên tâm đường thẳng. Con lấy hoàn cảnh đã xảy ra cho con, chấn thương nhập đời đó, bất kể nó là gì, và con phân tích, con tìm nguyên do. Tại sao chuyện này lại xảy ra, tại sao những người đó đã làm vậy với tôi, tôi đã làm gì để xứng đáng bị hoàn cảnh đó? Con tạo ra hình tư tưởng và con tạo ra hình tư tưởng về những gì phải và không được xảy ra trên trái đất, và về những gì phải và không được xảy ra cho con trong phần thời gian còn lại của con trên trái đất.   

23.12. “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”

Đằng sau tất cả các hình tư tưởng đó thì con làm gì? Hầu hết các avatar đã làm gì sau khi đến trái đất? Họ đã lấy một quyết định. Con đã lấy quyết định và quyết định này đã tạo ra một ngã tách biệt, và quyết định này là: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Con hãy nghĩ về câu này: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất, phải không con? Bởi vì con không thực sự muốn được an bình. Con đã quyết định là hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và những câu chuyện kể là đức Phật an bình, thày đã đạt được an bình và con không thực sự muốn công nhận điều này, bởi vì nếu con công nhận là đức Phật có thể đạt được trạng thái an bình, thì tại sao con lại không đạt được trạng thái an bình? Con thấy chăng, con không thể đạt được trạng thái an bình nếu con không làm điều mà Phật đã làm: nhìn vào ngã mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời khiến thày quyết định “Tôi không thể an bình trên trái đất”. Tất cả các avatar đều đã làm như vậy.

Con yêu dấu, nếu con thực sự muốn an bình, nếu con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình, thì con hãy nhìn vào ngã đó. Có quả thực là con không thể an bình trên một hành tinh như trái đất chăng? Thày đồng ý với con là khó có thể an bình trên một hành tinh như trái đất vì những điều kiện ở đây quá khác những gì con đã quen thuộc trên một hành tinh tự nhiên. Có thực sự khó an bình hơn trên trái đất chăng? Hay chỉ vì tâm cảm thấy khó hơn?

23.13. Không dính mắc vào mọi điều kiện bên ngoài

Vì sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì trên hành tinh tự nhiên con không có những hình tư tưởng về những gì phải hay không được xảy ra cho con – con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. Đúng thật là trên một hành tinh tự nhiên con không tìm thấy những điều kiện như trên trái đất, tỷ dụ như sa nhân sẵn sàng giết hay tra tấn con. Tuy nhiên, tại sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì con không dính mắc. Điều mà đức Phật đã chứng minh là con cũng có thể không dính mắc trên trái đất, vì sự không dính mắc đến từ một trạng thái tâm, không phải từ điều kiện bên ngoài. Không dính mắc có nghĩa là không dính mắc vào điều kiện bên ngoài, bất kể các điều kiện này là gì.  Con có thể an bình trên trái đất nếu con không dính mắc các điều kiện bên ngoài trên trái đất. Các thày đã trao cho các con dụng cụ để đạt được trạng thái này bằng cách xem xét các ngã đang dính mắc, luôn luôn phóng chiếu: điều này phải xảy ra, điều kia không được xảy ra.

Con có thể giữ chặt trong tâm hình ảnh này chăng? Con đang ngồi trong chiếc xuồng, hay phải chăng đó chính là con thuyền Bát nhã? Con nhìn hai bên bờ sông, nhưng nếu con chỉ thư giãn thì con biết là dòng sông sẽ dẫn con đi qua bất cứ gì xảy ra hai bên bờ. Vậy tại sao dính mắc, tại sao kềm giữ? Con hãy chỉ nhìn mọi chuyện mà không có hình tư tưởng chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy chỉ nhìn một cách trung hòa. Con hãy nhìn sự việc như chuyện gì đang xảy ra, đang trải bày trên trái đất, vì một số người cần một trải nghiệm nào đó. Con không cần trải nghiệm mà các người kia đang cần. Do đó, con không cần dính mắc vào những gì họ đang làm. Con hãy để họ làm chuyện của họ, nhưng không dính mắc vào chuyện đó. Con đừng tham dự vào bi kịch của họ và trở nên một phần của bi kịch, dù họ đang tìm cách kéo con nhập cuộc bằng cách ảnh hưởng con.

Con hãy chỉ giản dị buông bỏ. Con hãy buông bỏ ý tưởng họ phải làm gì hay không được làm gì. Con hãy chỉ chú tâm vào việc không kháng cự dòng chảy đang mang con về hạ nguồn Dòng sông sự Sống. Con có thể nhìn bất cứ điểm nào hai bên bờ và cảm thấy chiếc thuyền đang di chuyển và con nói: “Chuyện này rồi cũng sẽ qua đi.” Thày biết là làm vậy có khi không giúp con khuây khỏa, vì có vẻ như con sẽ phải trải nghiệm một điều kiện cho tới cuối đời, nhưng không phải là chỉ khi con qua đời thì điều kiện kia mới sẽ qua đi. Nó có thể qua đi bất cứ lúc nào, nếu con có thể buông bỏ dính mắc trong tâm đang khiến con đau khổ vì điều kiện đó. Một lần nữa, một số người cảm thấy những lời này nghe khó khăn quá, nhưng đó vẫn là sự thực. Đau khổ là một điều kiện của tâm. Liều thuốc tối hậu chữa đau khổ là an bình nội tâm. Đau khổ do dính mắc tạo ra. An bình chỉ có thể đạt được bằng không dính mắc. 

23.14. Dụng cụ đặc biệt mà Nada trao truyền

Một dụng cụ cuối mà thày muốn trao cho con như sau. Con đã có khái niệm: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.” Thày, Nada, có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý. Mỗi người trong các con sẽ tiếp thu nó một cách hơi khác. Thày trao cho con đặc miễn là nếu con hòa điệu với âm điệu đó, âm thanh đó, âm thanh an bình đó, thì thày sẽ củng cố sự hình dung của con. Âm thanh an bình là một rung động và các con đều đã thấy hình ảnh một số âm thanh có thể làm cho nước rung động hay tạo mô thức trên mặt cát. Mọi chuyện đều là năng lượng, mọi chuyện đều là mô thức. Biển Luân hồi chỉ là năng lượng hỗn loạn. Con có thể sử dụng âm thanh an bình trong tâm con hay ngay cả trong một số hoàn cảnh bên ngoài, nhưng mục đích chính yếu của nó là dùng trong tâm.

Một lần nữa, con đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi tư thế thoải mái, khép mắt và hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con hình dung là âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Sau đó, con lên thể tư tưởng và một lần nữa, âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn luôn luôn bị tâm vượn kéo đi khắp hướng mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh. Sau đó con đi lên thể bản sắc và cùng chuyện lại xảy ra. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Sau đó, con từ thể bản sắc đi xuống thể vật lý, và con hình dung là thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, các phần thân thể có vấn đề, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh. Con có thể ngồi bao lâu cũng được trong sự yên tĩnh của đại dương này.

Con có thể lặp lại bài tập này nếu con thấy có gì xao động, và con có thể thiền quán về điều này. Ban đầu thì con không nên thiền lâu quá, nhưng dần dần thì con có thể duy trì trạng thái thiền này lâu hơn. Dần dần con cũng có thể cảm nhận Hiện diện của thày bao bọc con khi con thiền quán. Đây là món quà mà thày trao cho con để giúp các con nào cảm thấy gần gũi Tia thứ Sáu hòa điệu với Hiện diện của thày.

Tới đây thì thày niêm con trong niềm vui của sự An bình của thày, vì thày đã có niềm vui lớn chia xẻ với các con Hiện diện của thày trong khoảng thời gian này.

31 | Sự trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6//2023, nhân Hội nghị 2023 ở Seoul, Hàn quốc – Nối kết với cái Ta Cao và vị thày tâm linh.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Và như truyền thống trong thời gian qua, thật là một đặc ân và niềm vui cho thày được trao bài truyền đọc sẽ niêm hội nghị này, một hội nghị đã đánh dấu một chiến thắng to lớn từ nhãn quan của các thày là chân sư thăng thiên, vì nó đã tạo được một xung lực đi vào tâm thức tập thể sẽ khởi động những thay đổi sâu xa, giúp cho nhiều người kết nối chặt chẽ hơn với các chân sư thăng thiên cùng cái Ta Cao của họ. Tất nhiên, các thày cũng thấy được là nhiều người trong các con đã sẵn lòng tham gia, sẵn lòng xem xét bản thân mình, dùng các lời dạy để vươn lên cao hơn. Các thày hy vọng là các con đã cảm thấy đáng công sức cùng thời giờ bỏ ra, và các con cũng cảm thấy mãn nguyện như các thày.

Thày muốn nhân cơ hội này trao cho con một số lời dạy về một khái niệm có vẻ không liên quan đến đề tài của hội nghị này là làm thế nào nối kết với cái Ta Cao cùng các vị thày tâm linh của con, nhưng để xem, chúng ta sẽ thấy nó có liên quan hay không. Có một khái niệm đã được biết đến từ thời của Phật, là Śūnyatā hay sự trống không (emptiness). Từ này thực sự có nghĩa là gì? Một lần nữa, các nhà trí thức của đạo Phật hay truyền thống Phật giáo đã nhìn vào từ này, đã nghĩ ra nhiều cách diễn giải khác nhau và không đồng ý được với nhau cách diễn giải đúng đắn là gì. Và ở đây, thày không đang cố cho con cách diễn giải “đúng đắn” vì không có một cách diễn giải đúng đắn duy nhất nào. Luôn luôn sẽ có nhiều trình độ tâm thức khác nhau và vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về bất kỳ giáo lý tâm linh nào.

31.1. Trải nghiệm thực tại đằng sau lời dạy

Nhưng thày sẽ nói là có một sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ giáo lý. Và điều con thấy trong mọi truyền thống tâm linh được thế giới biết đến là khi truyền thống này phát triển và thu hút ngày càng nhiều người theo, thì sẽ nẩy sinh một lớp người tự xưng mình là những người diễn giải giáo lý. Xong có một nhóm người ít ỏi hơn cố gắng trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau chữ nghĩa. Và sau đó có số đông quần chúng đi theo giáo lý, và họ cũng đi theo cách diễn giải do lớp tu sĩ kia đưa ra vì họ hy vọng nó sẽ đem lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới hiện tại hay thế giới kế tiếp. Con có thể nhìn thấy mô hình này ở khắp mọi nơi. Con có thể thấy nó suốt chiều dài lịch sử, con có thể thấy nó ngày nay cả với các lời dạy tâm linh hiện đại, và thậm chí cũng có xu hướng này trong giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con thực sự mong muốn sử dụng một giáo lý tâm linh, hiển nhiên con cần vượt xa hơn việc diễn giải các ngôn từ và tìm kiếm không chỉ cái hiểu, không chỉ đơn giản cái nắm bắt, mà con cần trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ.

Chúng ta có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Hầu hết mọi người ngồi đó nhìn vào màn hình chiếu phim. Họ chỉ đang trải nghiệm phim trên màn hình. Xong có những người cố tìm hiểu xem phim đến từ đâu, và có thể họ sẽ lên tận phòng chiếu, nhìn tận mắt dải phim trong máy chiếu. Nhưng hình ảnh trên dải phim có thật là thực tại sâu xa đằng sau bộ phim? Hay thực tại sâu xa hơn là ánh sáng trắng tinh trong máy chiếu? Hay thực tại sâu xa hơn nữa là dụng ý của nhà đạo diễn bộ phim, hay của nhà biên kịch, hay của các diễn viên?

31.2. Dùng giáo lý để thăng vượt mức tâm thức hiện tại

Một lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi tâm linh hay cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và nếu con muốn tận dụng lời dạy, con cần sử dụng lời dạy vỏ ngoài như một công cụ mà thôi, một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà lời dạy đã xuất phát từ tâm vị này. Đây là cách cao nhất để sử dụng một lời dạy tâm linh. Khi con nắm bắt được điều này, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng cao nhất. Thậm chí còn có thể nói là con đã không dùng đến giáo lý, bởi vì đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh chứ? Là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con. Và khi con cứ tìm cách hiểu và diễn giải với mức tâm thức hiện tại thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Con có thể dùng giáo lý tâm linh để khiến con tưởng là bởi vì con đã có một cách diễn giải trí thức, cao cấp và tinh xảo như thế này, thì con đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Nhưng con không đạt được một tầng tâm thức cao hơn qua sự diễn giải và hiểu biết thuần trí năng. Con chỉ đạt được bằng cách dời chuyển tâm thức của con. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt. Vì tâm đường thẳng chỉ có thể định ra một chuỗi sự kiện dẫn từ điểm này đến điểm kế tiếp, chứ nó không thể tưởng tượng, không thể thấu suốt được là có một tầng thực tại hoàn toàn khác mà con không thể đặt lên một loại thang điểm đường thẳng như vậy.

31.3. Trung đạo

Đó cũng là tại sao nhiều người đã không hiểu được khái niệm Trung đạo. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của Trung đạo và những cặp đối cực, mà ngày nay chúng ta gọi là tâm thức nhị nguyên luôn có hai cực đoan. Bên này có đối cực này, bên kia có đối cực ngược lại, và có những người cho rằng Trung đạo nằm đâu đó ở giữa.

Nhiều người đã trí thức hóa các lời dạy được ban truyền qua thày cách đây 2500 năm, và họ cứ nghĩ là việc bước chân trên đường tu, con đường Trung đạo, có nghĩa là tìm được thế quân bằng. Và họ đã cố tìm một thế quân bằng nào đó giữa hai thế đối cực do họ quy định, cho dù quy định này là gì. Nhưng Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng trên một thang điểm đường thẳng giữa hai đối cực, mà Trung đạo là sự thăng vượt chính thang điểm nhị nguyên đó, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, và điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thăng vượt tâm đường thẳng.

31.4. Khái niệm trống không

Trở về với khái niệm trống không. Tâm đường thẳng sẽ lập tức đặt câu hỏi, trống không cái gì? Trống không so sánh với cái gì? Phải có cái gì để có thể so sánh chứ. Điều này cũng phần nào chính đáng, theo nghĩa là một giáo lý tâm linh luôn luôn được trao truyền trong một bối cảnh. Khi thày xuất hiện trong hiện thân vật lý 2500 năm trước đây, thày đã xuất hiện trong một xã hội đặc thù, một nền văn hóa đặc thù là văn hóa Bà la môn Ấn giáo.

Những người Bà la môn đạo Ấn đã đưa ra đủ loại cách diễn giải, đủ loại môn phái, đủ loại tư tưởng khác nhau, cho nên họ đã có đủ loại khái niệm. Giáo lý mà thày đưa ra cách đây 2500 năm được thích ứng với nền văn hóa này – một phần nó dùng lại một số khái niệm, nhưng nó cũng thách thức một số khái niệm khác đã trở nên phổ thông trong truyền thống Ấn giáo. Con không thể thực sự hiểu được khái niệm trống không nếu con không nhìn vào bối cảnh nơi nó được đưa ra. Và khái niệm vô cùng nổi trội trong đạo Ấn là khái niệm về Atman, hay Ngã, là Ngã tối thượng. Và đã có nguyên một nền văn hóa được xây dựng chung quanh khái niệm này mà ít người thời nay hiểu được thật sự.

Để cho con một tóm lược ngắn gọn về cách họ nhìn Atman, có thể nói đó là ý tưởng cho rằng ở cõi trên cao chỉ có một Ngã độc nhất này, Atman, và đó là một Ngã trường tồn bất biến. Nó không bao giờ có thể thay đổi. Có nghĩa là cho dù con có nghĩ ra bất kỳ khái niệm nào – không nhất thiết từ tầng cấp con người mà cả bất cứ những gì có thể xuất phát từ cõi tâm linh – thì trong Atman đó, trong Ngã đó, có một sự quy định mà chúng ta có thể gọi là một hình ảnh, một khuôn đúc (matrix). Thậm chí điều này có thể so sánh với khái niệm của Plato về các hình thể lý tưởng (ideal forms) ở cõi cao.

Nói cách khác, khái niệm này cho rằng ở cõi cao có một khuôn đúc toàn hảo đã được quy định cho tất cả mọi thứ có thể thị hiện trong thế gian cùng mọi sự có thể xảy ra trong thế giới. Và điều này làm nẩy sinh ý tưởng là từ Atman duy nhất đó, mọi Ngã khác đều được quy định, và mỗi Ngã này thì quy định một biểu hiện đặc trưng. Cho nên đối với trái đất, có một cái Ngã ở cõi cao sẽ quy định khuôn đúc toàn hảo bất biến cho trái đất. Cho mỗi con người, có một cái Ngã ở cõi cao quy định linh hồn này là như thế nào, và mặc dù mọi chuyện trên trái đất có thể trải bày ra để trái đất lẫn con người có thể xa rời Ngã trường tồn đó, nhưng kết cuộc thì mọi thứ cũng sẽ đều quay trở về Ngã đó. Và đây chính là khái niệm mà thày đã bác bỏ.

Khi thày nói đến sự trống không, thày nói là nó trống rỗng theo nghĩa nó không có ngã, nghĩa là nó không được định trước bởi một cái Ngã nào đó ở một cõi cao mà nó phải quay trở về. Thày Lanto cũng đã trao cho con một bài giảng vô cùng sâu sắc về đề tài này, nhưng thày muốn trình bày thêm vì nhiều người theo đạo Phật ngày nay đã sử dụng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không, hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết. Ở đó không có gì hết. Một lần nữa, đây là một điều mà tâm đường thẳng rất ưa làm.

31.5. Ngã bất biến hay ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt?

Tâm đường thẳng nhìn vào thế gian này thấy mọi thứ đều mang hình tướng, rồi nó nghe nói về khái niệm trống không, xong nó nghe nói là chính đức Phật đã dạy khái niệm này, mà Phật thì là một sinh thể cao cả đã giác ngộ, nhất định các khái niệm mà Phật dạy phải được nể trọng. Thế là tâm đường thẳng nói: “Bây giờ tôi muốn hiểu khái niệm này một cách tối hậu. Thế gian này có hình tướng, vậy trống không phải có nghĩa là vô hình tướng, không có gì ở đó cả.” Và một số người đã diễn giải theo nghĩa là chỉ có Brahman mà thôi, chỉ có sự nhận biết vô biên như một số người thời nay gọi như vậy, và đây là sự trống không. Cho nên, hoặc là có hình tướng như trong thế gian, hoặc là có sự trống không, và họ nghĩ hình tướng đi ra từ trống không, hay nói cách khác, có cái gì đó đi ra từ cái không-có-gì. Nhưng tất nhiên, chuyện không phải là như vậy.

Thày đã không nói trống không nghĩa là không có gì ở đó. Điều thày nói là không có một cái Ngã trường cửu bất biến (permanent) nào ở đó. Thày nói là thế giới không sinh ra từ trống không, và mục đích của thế giới không phải là quay trở về trống không sau một chu kỳ đầu thai dài đằng đẵng. Điều thày đã nói – và điều thày đã có ý nói – là không có một cái ngã trường cửu bất biến nào, nhưng có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt. Và cái ta luôn luôn thay đổi này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

31.6. Chúng ta có thể hiểu được gì về cõi tâm linh?

Đó không phải là điều thày đã dạy cách đây 2500 năm vì thày đã quyết định trao truyền một giáo lý tập trung vào các khía cạnh thực tiễn chứ không vào các khía cạnh vũ trụ học, cho nên chủ đích của thày là nâng cao cho tâm thức con người vượt lên trên tâm đường thẳng, vì thày thấy rõ qua những người Bà la môn là tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ học. Làm thế nào cuối cùng con sẽ hiểu được cõi tâm linh vận hành ra sao? À, tất nhiên, bằng cách thăng thiên lên cõi tâm linh, vì lúc đó con sẽ kinh nghiệm được cõi tâm linh, con sẽ có thể theo đuổi việc tìm hiểu mọi khiá cạnh, mọi cõi giới của thế giới tâm linh, con có thể đi đây đi đó, đi lên càng ngày càng cao hơn và thám hiểm mọi thứ có thể được thám hiểm.

Con cũng có thể nói: “Nhưng ích lợi gì mà cố hiểu những chuyện đó khi con còn đang đầu thai?” Và đây chính là điều thày đã suy luận 2500 năm về trước khi tâm thức tập thể còn khá thấp. Nhưng thật ra ngày nay có chút ích lợi, vì nhiều người có thể lợi lạc nếu họ nắm được một vài khía cạnh của cõi tâm linh cùng cách vận hành của cõi tâm linh. Chắc chắn con sẽ lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi đó có những sinh thể tâm linh – các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Nhưng con cũng lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Cho nên ngày nay có nhiều ích lợi hơn, nhiều giá trị hơn trong việc tìm hiểu cõi tâm linh, và đây là lý do các thày đang truyền giảng vào ngày hôm nay. Và tất nhiên, con sẽ thấy là ngày nay người ta cũng có cùng xu hướng y như 2500 năm về trước, khi có rất, rất nhiều người tìm cầu hiểu biết cao hơn nhưng lại dùng các loại giáo lý được diễn tả bằng ngôn từ để đạt được hiểu biết đó, xong họ phóng chiếu ra, họ diễn giải ra. Và tất nhiên, thời nay cũng có nhiều giáo lý được “truyền kênh” (channeled), thường thường từ cõi lý trí, cho nên chúng thường hấp dẫn tâm đường thẳng, tâm phân tích, tâm thuần trí năng.

Có những giáo lý tự xưng là vô cùng cao cấp, cao hơn cả giáo lý của chân sư thăng thiên, và có những người tin rằng sách này hay sách nọ là lời dạy tâm linh tối thượng – và chuyện này, tất nhiên, hoàn toàn phải lẽ thôi. Con người cần đến một số trải nghiệm trước khi họ có thể nâng cao khả năng phân biện của mình để thấy được sự khác biệt về rung động giữa một lời dạy đến từ cõi lý trí và một lời dạy đến từ cõi thăng thiên. Đây không phải là một điều tâm đường thẳng thấu suốt được. Nó chỉ biết nhìn vào chữ nghĩa, diễn giải chữ nghĩa, rồi suy ra một diễn giải nào đó để bảo rằng lời dạy này cao siêu hơn lời dạy kia.

31.7. Sự trống không của nhận biết thuần khiết

Trở về với “trống không”, đâu là giá trị thực sự của khái niệm này? À, trước tiên hết, khía cạnh alpha là không hề có một ngã trường cửu bất biến nào. Con là một cái ngã, một cái ta. Trong giáo lý ngày nay, các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, tức là sự nhận biết thuần khiết. Nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không. Trống không ý niệm bản sắc, trống không những ý tưởng, trống không những cảm xúc ngụ trong – hay được sản xuất bởi – các thể hay các tâm bản sắc, lý trí, cảm xúc. Con có thể nói là đối với hầu hết mọi người, sự chú ý của họ tập trung vào cảm xúc, ý tưởng hay ý niệm bản sắc của họ. Họ tập trung vào nội dung của tâm thức – nếu có thể nói như vậy – cho nên sẽ có thể ích lợi nếu họ quán chiếu về mặt kia của đồng tiền, về khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì họ tập trung vào chính tâm thức. Và tâm thức thì trống không, hay có thể trống rỗng mọi nội dung. Và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không. Chỉ có nhận biết mà không có nội dung nào trong bình chứa của tâm thức.

31.8. Những tầng hiểu khác nhau về trống không

Tất nhiên con có thể đem nó lên một tầng cao hơn và thấy rằng khi con bước chân trên đường tu, vươn cao hơn tầng 48 và đến gần với tầng 96, thì con đang khắc phục các ngã tiềm thức, trong số này có nhiều ngã dựa trên tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là ở các tầng tâm thức thấp nhất được phép hiện diện trên trái đất, con người bị bao trùm, bị mù quáng, bị đồng hóa với tâm vị kỷ, tâm tách biệt. Khi con vươn đến tầng 96 và vượt cao hơn bốn thể phàm của con, bình chứa phàm ngã của con trở nên trống rỗng cái tâm vị kỷ đó. Cho nên đây là một hình thức khác của trống không, một tầng cấp khác của trống không, nhưng tất nhiên không có nghĩa là trong tâm con không có gì.

Con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con vẫn hành động, con hồi đáp lại thế giới, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Con thấy là trống không có thể hiểu ở những cấp độ khác nhau. Không chỉ có một cách hiểu, một cách nắm bắt duy nhất. Nhưng tất nhiên con có thể đưa khái niệm này xa hơn nữa vì con có thể nói là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết, có vẻ như con bước vào hình thức tối thượng của trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ, và không còn ngôn từ nào có thể mô tả tiến trình này trọn vẹn. Nhưng dẫu sao, con có thể nói là cái Ta Biết bây giờ đã trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân. Nhưng tất nhiên, điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà giờ đây có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Như các chân sư khác có giải thích, con có khả năng lại gần một điểm trong quả vị Ki-tô nơi con ngày càng trở thành một, càng hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Nhưng cái Ta Biết không thể hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ cho đến khi con thăng thiên.

31.9. Khái niệm trống rỗng (void) và vô ngã

Để nắm bắt trọn vẹn sự trống không, con cũng cần nắm bắt là khái niệm này có thể bị tha hóa, lạm dụng như thế nào. Và đây là điều đã xảy ra trong một số hình thức xưa hơn của đạo Phật cũng như trong các giáo lý tâm linh hiện đại, thậm chí cả một số truyền thống khác như Advaita Vedanta cùng một số đạo sư hiện đại. Họ nắm lấy khái niệm trống không đó phối hợp với lời dạy của thày rằng nó không có Ngã, rồi họ đã diễn giải theo nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, là sự trống không tối hậu. Nhưng tất nhiên đây là một cách diễn giải sai lạc.

Như Lanto vừa giải thích, quả thực một sinh thể đang đầu thai trên địa cầu có thể trải nghiệm một trạng thái có vẻ trống rỗng mọi hình tướng, trống rỗng mọi biểu hiện, trống rỗng mọi ý niệm bản ngã. Nhưng đó không phải là vì có một trạng thái trống không tối hậu nào đó được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế. Các thày đã có dạy rằng ở thuở ban đầu có Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo quyết định sáng tạo. Trước hết ngài vẽ một lằn ranh chung quanh chính ngài trong cõi Tất Cả. Ngài rút mọi thứ bên trong lằn ranh đó và tạo ra khoảng trống (void).

Tất nhiên, khoảng trống này có thể được quan niệm như là trạng thái trống không tối hậu. Nhưng con là người đồng sáng tạo, con không thể trải nghiệm khoảng trống đó. Có thể nói là ngay cả Đấng Sáng tạo cũng không trải nghiệm khoảng trống. Tại sao? Trải nghiệm là gì chứ? Trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm? Trong khoảng trống không có hình tướng. Vậy làm sao con trải nghiệm được khoảng trống? Khi người ta trải nghiệm điều mà họ tuyên bố là thực tại cao nhất, là nhận biết thuần khiết, là trạng thái nhận biết tối hậu, thì cái đó là gì chứ? Họ đã trải nghiệm gì chứ? Họ đã không trải nghiệm một sự trống rỗng. Họ trải nghiệm một trạng thái đã được các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Như Lanto giải thích, sa nhân đã lấy một cách tiếp cận là tìm cách nâng ngã tách biệt lên một địa vị tối thượng, và một cách tiếp cận khác là việc phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Và như vậy chúng đã tạo ra trong tâm thức tập thể một con quái vật, một khuôn đúc, một cái ngã có vẻ như trống rỗng. Nhưng như Lanto có giảng, nếu con bảo: “Tôi không có ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm vô ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm sự trống không”, thì ở đó vẫn có một cái “tôi”, cho nên không có trạng thái vô ngã.

Vậy thì “vô ngã” là gì? Đó là sự phóng chiếu của một hình ảnh. Cũng giống như vậy, đã có một sự phóng chiếu của một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Nhưng cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm. Cho nên đó không phải là trống không.

Khi người ta có một trải nghiệm – và thày không bác bỏ là họ có một trải nghiệm, thày chỉ bác bỏ đó là một trải nghiệm tối hậu của sự trống không – nhưng khi người ta có một trải nghiệm rồi trở về mức nhận biết bình thường của mình, và họ bắt đầu sử dụng ngôn từ để bày tỏ trải nghiệm này, thì họ chỉ đang xây đắp cho tâm ảnh đó, củng cố thêm và có lẽ diễn giải tâm ảnh đó, thế là giờ đây họ sử dụng nó để phóng chiếu ra là họ đã có một trải nghiệm tối hậu. Và điều này có nghĩa gì? À, nếu có ai đó tự cho mình là một vị thày tâm linh và giảng dạy về một trải nghiệm trống không hay “vô ngã” tối hậu, thì các môn đồ của vị đạo sư này sẽ làm gì? Họ sẽ phóng chiếu ra là nhất định vị ấy phải chứng được tâm thức tối thượng vì vị ấy đã có trải nghiệm tối hậu về trống không. Nhưng làm sao trống không có thể là trạng thái tâm thức tối thượng được? Làm sao trống không có thể là thực tại tối hậu được?

31.10. Trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Tại sao con hiện hữu? Tại sao thế gian hiện hữu? Tại sao lại có một thế giới có khả năng cung cấp trải nghiệm cho con? Tại sao, như nhiều nhà khoa học hiện đại đang hỏi, lại có một cái gì đó thay vì không-có-gì? À, bởi vì luôn luôn đã có một cái gì. Chưa bao giờ mà không có gì hết. Nếu chưa bao giờ có gì thì bây giờ cũng sẽ không có gì, và nếu vậy thì cũng không có con đang ngồi đây mà đặt câu hỏi. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Có một mục đích, có một đường hướng trong sự sáng tạo đó, và đường hướng này là tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn. Và con không tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ hốt hoảng khi nghe những ý tưởng này. Nhưng trong trực giác, con có thể nắm bắt mục đích của sự sống là sự tăng triển tâm thức. Và ở đây trên trái đất, con có khả năng tăng triển để trở thành một chân sư thăng thiên, tức là cao hơn rất nhiều những gì con người đang có trên trái đất. Nhưng một chân sư thăng thiên có thể tăng triển để đạt tới tâm thức của Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo thì có thể tăng triển đến những tầm mức cao hơn nữa. Nhưng này con, khi con bàn đến các tầm mức vượt khỏi tâm thức Đấng Sáng tạo thì ngôn từ thật vô nghĩa. Con không thể thấu suốt được khi con chưa thăng thiên. Ngay cả khi con thăng thiên rồi, con cũng không thể thấu suốt mà con chỉ có thể hé thấy.

Cho nên sự trống không rỗng tuếch mọi ý nghĩa. Đó là một khái niệm vô nghĩa. Nó không có chỗ đứng trong một giáo lý tâm linh chân truyền. Những ai giảng dạy nó, tuyên bố nó là một trạng thái tối hậu nào đó, không phải là thày tâm linh đích thực. Họ không thẳng hàng với các chân sư thăng thiên. Đơn giản là họ đã gạt qua bên cõi thăng thiên, gạt qua bên cõi tâm linh, gạt qua bên tất cả các sinh thể ở giữa con người trên địa cầu và Đấng Sáng tạo. Thậm chí họ gạt cả Đấng Sáng tạo qua bên nếu họ dạy rằng sự nhận biết vô biên, hay nhận biết thuần khiết, hay Brahman, là một loại khái niệm không có bất kỳ hình tướng nào. Và do đó họ không giảng dạy một giáo lý chính đáng.

31.11. Động lực tích cực đến từ ý muốn tự thăng vượt

Họ không giảng dạy một giáo lý có thể cho con một lẽ sống hay một mục đích, và đó là tại sao nhiều người như vậy không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, giống như nhiều tín đồ Ấn giáo vào thời của Phật cũng không tìm được ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Bởi vì Ấn giáo giảng dạy về những chu kỳ vũ trụ gần như bất tận kéo dài hàng tỷ năm trời, cho nên tác động trên quần chúng vào thời đó cũng như thời nay cho họ cảm tưởng là họ đã đi ra từ cái không-có-gì, xong họ sống qua một số kiếp đầu thai gần như vô lượng nơi họ phải chịu khổ đau trong mỗi kiếp, để cuối cùng phần thưởng cho tất cả sự phấn đấu, tất cả công sức, tất cả khổ đau đó là họ quay trở về cái không-có-gì và biến mất – thật sự, một loại phần thưởng khiến người ta muốn cố gắng hết sức để đạt tới cái không-có-gì, không phải vậy sao?

Điều này cũng phần nào tương tự như nhiều người đạo Cơ đốc mang động lực chủ yếu muốn lên thiên đàng chỉ vì họ muốn tránh không rơi xuống địa ngục. Con thử nhìn xem có bao nhiêu người Cơ đốc giáo có tầm hiểu nào đó về thiên đàng, về những gì họ có thể làm ở thiên đàng, nhưng họ lại hiểu rõ địa ngục là gì cho nên đây là cái họ muốn né tránh. Chúng ta có thể gọi đó là một loại động lực tiêu cực. Và quan niệm về cái không-có-gì, quan niệm về một chu kỳ đầu thai bất tận sẽ dẫn con trở về cái không-có-gì, cùng lắm cũng chỉ là một động lực tiêu cực hay không là động lực gì hết.

Những gì các thày trao cho con ngày nay – các thày hy vọng như vậy – là một động lực khích lệ hơn, qua đó con được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con, và con vươn đến những tầng cấp cao hơn và cao hơn nữa nơi con tìm được ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc biểu đạt bản thân như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác. Thậm chí chúng ta có thể nói là ngay cả trong số các sa nhân đã rơi vào nhị nguyên, thì một số dường như cũng có một động lực. Giấc mơ của chúng là hoàn thiện ngã tách biệt để chứng tỏ là Thượng đế sai lầm và chúng sẽ được phép bước vào cõi tâm linh và trở thành bất tử, hay được giao phó việc cai trị bầu cõi chưa thăng thiên này. Con có thể nói là chúng có động lực, nhưng không phải loại động lực mà con có khi con neo mình vào việc đồng sáng tạo và tự thăng vượt. Bởi vì việc xây đắp cho ngã tách biệt ngày càng tinh xảo hơn không phải là tự thăng vượt. Đây là điểm mà nhiều người không nắm bắt, tâm đường thẳng không nắm bắt, và chắc chắn sa nhân cũng không nắm bắt.

Có một cách để minh họa sự thể này là bảo rằng con có thể quyết định, một nhóm người có thể quyết định xây cất một toà nhà vô cùng tinh xảo, và giống như trong truyền thuyết Tháp Babel, họ quyết định là tòa nhà này sẽ vươn lên cao vút, cao đến tận trời. Họ vẽ đồ án, họ thu thập vật liệu và họ bắt đầu xây tháp, họ xây cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa. Họ bỏ ra công sức khổng lồ cho cái tháp này, nhưng chuyện gì cuối cùng sẽ xảy ra? À, có một lực gọi là trọng lực, và sẽ đến một điểm khi bất kỳ cấu trúc nào trên trái đất sẽ đạt tới độ cao tối đa trước khi nó sụp đổ dưới sức nặng của chính nó. Cho dù con có xây nền móng vững chắc đến đâu bên dưới, nhưng khi con ngày càng chồng thêm sức nặng bên trên thì sẽ tới một điểm nền móng không thể chịu nổi trọng lượng ở trên được nữa, và tháp bắt đầu vỡ vụn. Thình lình toàn bộ cấu trúc bắt đầu rung chuyển, lắc lư bên này sang bên kia rồi tất cả đổ ập xuống.

Đây là điều sa nhân đang cố làm. Chúng cố dùng vũ lực để xông lên thiên đàng bằng cách xây dựng một tháp Babel từ vật liệu của ngã tách biệt. Tự thăng vượt là gì chứ? Là làm hoàn toàn khác. Để minh họa một cách thô thiển, con hãy mường tượng là con quyết định chế tạo một chiếc hỏa tiễn có khả năng đưa con lên thiên đàng thay vì xây một toà nhà cao đến chín tầng mây. Việc này, khoa học đã chứng minh là khả dĩ. Nhưng tất nhiên, một cách minh họa tinh tế hơn nữa là bảo rằng con sẽ thăng vượt toàn bộ tầng tâm thức nhị nguyên, là tầng tâm thức không những tùy thuộc vào trọng lực mà cả định luật thứ nhì của nhiệt động học. Con không cần sử dụng sức mạnh để đi lên thiên đàng, mà con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Bởi vì nói cho cùng, thiên đàng là gì? Thiên đàng có phải là một địa điểm vật lý ở cao trên mặt đất mấy kilomét như người ta vẫn nghĩ vào thời Trung cổ bên Âu châu? Hay là như các thày đã giảng, đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác? Cho nên thật ra cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã. Và tại sao đây là cách duy nhất? Bởi vì có một cái Ta ở cõi tâm linh, và con đã đi ra từ cái Ta này, đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con, đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là. Bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên. Bây giờ một số các con có thể phản bác với tâm đường thẳng: “Nhưng Gautama, chẳng phải là hồi nãy thày bảo là trên cõi cao không có Ngã hay sao?” Ủa, thày đã nói vậy sao?

31.12. Cái Ta không ngừng tự thăng vượt

Các nhà Bà la môn bảo là có một Đại ngã, một ngã trường cửu bất biến ở cõi cao. Còn thày thì nói là không có Ngã trường cửu bất biến. Thày không nói là không có Ngã. Có một cái Ngã, và đó chính là cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó, nói cho cùng là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo. Rồi sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra những phần nối dài của mình – những sinh thể đồng sáng tạo mới – xuống tận đến dưới này là các chân sư thăng thiên đang làm việc với bầu cõi chưa thăng thiên của con và cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết. Và cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên lúc đó sẽ là gì?

Là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên, và đây chính là chức năng, mục đích của cái Ta Biết, là tiến trình thăng thiên. Và khi con hoàn tất tiến trình thăng thiên này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình dẫn con trở về đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo. Những gì con làm sau đó tùy vào những chọn lựa mà con sẽ lấy ở mức đó, và nói thật ở mức hiện tại của con, con không cần lo lắng về chuyện này. Điều con cần quan tâm là làm thế nào hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Và một khi con thăng thiên thì con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

31.13. Kết nối với chân sư thăng thiên qua giáo lý

Cho nên một lần nữa, các thày đã trao cho con nhiều hơn những gì hầu hết các con có thể tiếp nhận trong một buổi – chén của con đã đầy và đang tràn ra ngoài. Nhưng các thày không chỉ cố cho con một điều gì con có thể nắm bắt ở mức nhận biết hiện tại của con. Các thày cũng cố cho con một điều gì mà con có thể đọc lại và nghiên cứu hết lần này sau lần nọ, để khi con nắm lấy một điểm giáo lý đánh động tâm con ở mức hiện thời của con và con thể nhập nó, thì con vươn lên mức kế tiếp, rồi con có thể học lại giáo lý một lần nữa, tìm ra một điểm mới mà con đã bỏ sót lần đầu nhưng bây giờ mới hấp dẫn con, con lại thể nhập và vươn lên mức cao hơn. Và đây chính là cách con tiến bộ trên đường tu.

Những ai cho rằng mình chỉ cần đọc hay nghe bài truyền đọc một lần mà thấu suốt được mọi điều có thể lãnh hội, thì họ đã bỏ lỡ sự kiện là một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh vì nếu con cởi mở, lời dạy tâm linh sẽ làm gì? Nếu con quay trở lại 20 năm nữa và đọc lại bài truyền đọc mà con vừa nghe hay vừa đọc hôm nay, thì con có tiềm năng làm gì? Con có thể nói: “Ồ, tôi đã hiểu bài này cặn kẽ bằng tâm trí thức, vỏ ngoài của tôi rồi.” Nhưng mục đích thực sự của lời dạy là gì chứ? Là kết nối con với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy đó.

Trong 20 năm nữa thày vẫn sẽ còn đây. Trong 20 năm nữa thày sẽ đã tự thăng vượt cũng như thày tin là con cũng sẽ tự thăng vượt. Và điều này có nghĩa là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày có thể cho con những điều không nằm trong lời dạy thành văn mà vượt khỏi lời dạy thành văn. Và thật sự điều này sẽ tùy con có sẵn lòng đến chừng nào để kết nối và nhận được gì từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có lẽ con đã vươn tới mức con với thày có thể hòa nhập theo một cách vượt khỏi ngôn từ. Nhưng giáo lý vỏ ngoài vẫn có thể giúp con hòa điệu tâm con với tâm thày để hai tâm gặp gỡ, và thày cam đoan với con sự gặp gỡ này không phải là trống không, mặc dù nó có thể trống rỗng cái tâm của tự ngã, trống rỗng tâm đường thẳng cùng tất cả những khái niệm và tư tưởng kia đang bay phất phơ quanh địa cầu. Cho nên có thể con sẽ không có khả năng diễn tả sự hòa điệu này bằng lời, nhưng thày cam đoan với con đó không phải là trống không. Bởi vì như thày đã cố giải thích, trống không là một khái niệm rỗng tuếch.      

Với lời này, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, khoá tu này, buổi gặp gỡ này, và một lần nữa thày bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các thày đã tham dự. Và kỳ thực ngoài các thày đã ban bài truyền đọc, còn có nhiều chân sư thăng thiên khác cũng đã tham gia. Cho nên tất cả các thày đều hy vọng là mặc dù vị chân sư gần gũi nhất với con đã không giảng dạy, hội nghị này vẫn đã giúp con hòa điệu với vị thày gần nhất với tim con. Vì nói cho cùng, tất cả các thày đều là một, cho nên con có thể dùng bài truyền đọc của bất kỳ chân sư nào để hoà điệu với bất kỳ chân sư nào khác.

Và như vậy, một lời cảm tạ thật lớn của các thày cho các con đã hiện diện ở đây trong cõi vật lý và đã sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của các thày.

27 | Là hay không là Hiện diện

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023 nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Maitreya. Chắc các con đang nghĩ: “Các thày đã dạy chúng ta rất nhiều về cách làm thế nào nối kết với các vị thày tâm linh của chúng ta, nhưng không nhiều lắm về cách nối kết với cái ta cao hay với Hiện diện TA LÀ của chúng ta.” Thật ra các thày cũng đã nói cho các con rất nhiều điều liên quan đến việc kết nối với Hiện diện TA LÀ của con đó, bởi vì tất cả những gì giúp con nối kết với vị thày tâm linh tất nhiên cũng giúp con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng bây giờ thày muốn trao thêm cho con một vài ý tưởng về đề tài này.

27.1. Hình ảnh Hiện diện TA LÀ ở những giai đoạn khác nhau của đường tu

Như các Thượng sư đã giải thích rất kỹ lưỡng, trên đường tu có một số giai đoạn. Sẽ chẳng ích lợi gì cho các thày đến với một người ở tầng tâm thức 48 và trao cho họ lời dạy mà thày sắp sửa trao cho con trong bài truyền đọc này. Bởi vì khi con ở tầng 48, con không thể nắm bắt lời dạy này. Tất nhiên con có thể đã nghe về Hiện diện TA LÀ của con và đã nghe nhiều lời giảng về Hiện diện TA LÀ, và những lời dạy liên quan đến Hiện diện TA LÀ đi ngược trở về các phong trào trước vẫn còn hiệu lực và có giá trị – như tập The I AM Discourses (Thuyết giảng về TA LÀ) thời I AM Movement (Phong trào TA LÀ).

Nhưng ở tầng 48 cũng như giữa tầng 48 và 96, con sẽ có xu hướng cảm thấy mình tách rời với Hiện diện TA LÀ, và giữa con và Hiện diện TA LÀ của con có một khoảng cách hay một hố sâu. Tất nhiên đây không thực là một khoảng cách. Thày biết là các thày đã nói Hiện diện TA LÀ của con cư ngụ nơi các tầng thấp của cõi tâm linh. Con có thể nói là có một khoảng cách trong độ rung giữa cõi tâm linh và cái Ta Biết vốn chú tâm vào những cõi dày đặc hơn của bát cung vật lý nơi đây. Tất nhiên là có khoảng cách. Và đó là tại sao con sẽ, ở những giai đoạn sơ khởi trên đường tu, trải nghiệm cảm nhận khoảng cách này.

Nhưng như các thày đã cố giải thích, thực sự con không chia cách khỏi cõi tâm linh theo nghĩa là cõi tâm linh thâm nhập vào cõi vật lý. Hiện diện TA LÀ của con bao quanh con, nó ở trong con, nó ở với con cho dù con ở đâu. Nhưng hiển nhiên con không thể trải nghiệm điều này ở các tầng thấp hơn. Và đó là lý do tại sao trong các đợt truyền pháp trước, các thày đã trao cho con cái biểu đồ về Hiện diện TA LÀ cho thấy con là nhân vật nằm bên dưới, và ở một khoảng cách bên trên thì có Hiện diện TA LÀ của con với các vòng tròn đủ màu bao quanh, và các vòng này tượng trưng cho căn thể của con.

Việc sử dụng hình ảnh này là một việc hữu lý trong một thời gian. Trong giai đoạn đó, cũng sẽ hữu lý nếu con thỉnh gọi Hiện diện TA LÀ, con cầu nguyện Hiện diện TA LÀ, con xin Hiện diện TA LÀ giúp đỡ con, hướng dẫn con, chỉ đường cho con. Nhưng tất nhiên sẽ tới một điểm khi điều này không là một việc con cần làm nữa, vì giờ đây con cần xoay chuyển và nhận ra là con sẽ không thực sự nối kết được với Hiện diện TA LÀ bằng cách phóng chiếu ra hình ảnh đó – là hình ảnh đã được bao nhiêu tôn giáo truyền tải, coi Hiện diện TA LÀ giống như một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn của con.

Trước hết, Hiện diện TA LÀ của con không phải là một thượng đế, bởi vì cho dù các đệ tử trong những đợt truyền pháp trước có nghĩ gì đi nữa thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể thăng thiên. Nó sẽ trở thành một sinh thể thăng thiên khi con, cái Ta Biết, thăng lên nhập lại với Hiện diện. Con cần nhận chân ở đây sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và một chân sư thăng thiên. Chân sư thăng thiên đã thăng thiên. Còn Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa là một chân sư thăng thiên mặc dù nó cư ngụ nơi những tầng thấp của cõi tâm linh.

27.2. Buông bỏ hình ảnh cũ về Hiện diện TA LÀ

Bây giờ ở các tầng cao hơn trên đường tu, chắc chắn ở tầng 96 nhưng ngay cả trước đó, con có thể bắt đầu suy nghiệm về sự kiện đó. Con cần bỏ đi cái biểu đồ cho thấy Hiện diện TA LÀ nằm bên trên chính con. Con có thể quán chiếu hình ảnh Hiện diện TA LÀ bao quanh con, con hình dung điều này trong tâm con, nhưng thật ra đây là một chuyển đổi vi tế hơn. Đây là con xoay chuyển tâm con qua đó con bắt đầu thách thức hình ảnh về một khoảng cách giữa con và Hiện diện. Con bắt đầu thách thức bất cứ hình ảnh nào con đã hình thành trong tâm khi con bước trên đường tu, bất cứ hình ảnh nào mà con đã hình thành dựa trên các lời dạy của các thày ban ra về Hiện diện TA LÀ. Vì đâu là điều các thày đã cố giải thích cho con thật tường tận? Đó là cho dù con đã tìm thấy con đường tâm linh ở tầng nào đi nữa – lấy ví dụ ở tầng 48 – thì con nhìn đường tu tâm linh qua tâm thức mà con đang có ở tầng 48.

Điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên là họ tìm thấy một lời dạy của chân sư – trong nhiều trường hợp khi họ ở cao hơn tầng 48 – nhưng cho dù họ ở tầng tâm thức nào đi nữa thì khi họ tìm thấy giáo lý, họ tiếp cận giáo lý xuyên qua mức tâm thức đó, thế giới quan đó, phin lọc nhận thức đó mà họ đang có. Không thể tránh được sự kiện con phóng chiếu ra một tâm ảnh vốn là sự pha trộn giữa giáo lý và phin lọc nhận thức của con vào lúc con tìm thấy giáo lý. Con hình thành tâm ảnh này trong tâm con, và rất có thể nó sẽ giúp con nâng cao thế giới quan, nâng cao tâm ảnh của con, nhưng con vẫn đang phóng chiếu một hình ảnh nào đó lên giáo lý. Đây là một điều tự nhiên, không thể tránh được, và các thày hoàn toàn không trách móc gì con đã làm vậy.

Thày chỉ đơn giản trình bày là khi con bước lên các tầng cao hơn của đường tu, con cần nhận biết điều này. Và con cần sẵn lòng nhìn lại đường tu của mình và nói: “Có thể nào khi tôi tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên bao nhiêu năm về trước, tôi đã hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ dựa trên tầng tâm thức của tôi lúc đó, và do đó tâm ảnh này không chính xác, không thích hợp, không có khả năng giúp tôi nối kết với Hiện diện?” Và nếu con xem xét một cách trung hòa, con sẽ thấy câu trả lời luôn luôn là “có”. Bởi vì như thày vừa nói: “Con đâu làm gì khác được?”

27.3. Lời dạy xuất hiện khi đệ tử cần đến lời dạy

Tiếc thay điều con nhận thấy, đặc biệt trong các đợt truyền pháp trước, là người ta đã đưa ra tiền đề – một tiền đề được khuyến khích bởi nét văn hóa của đợt truyền pháp, và như các thày có giảng, đây là những đợt truyền pháp của Thời Song ngư – rằng bởi vì họ đã có thể tìm thấy giáo lý cao siêu của chân sư thăng thiên cho nên nhất định họ cũng phải có một mức tâm thức rất cao siêu. Có thể là con có mức tâm thức cao hơn một người trung bình, nhưng dẫu vậy con vẫn ở một tầng tâm thức nào đó. Nhiều người đã tìm thấy giáo lý của chân sư ở tầng 48, trong khi một số đã tìm thấy ở tầng cao hơn, và một số khác ở tầng cao hơn hẳn.  

Nhưng đa số, tuyệt đại đa số những ai đã tìm thấy giáo lý của chân sư đều tìm thấy ở dưới tầng 96, thậm chí dưới hơn rất nhiều. Tại sao như vậy? Bời vì hiển nhiên, giáo lý được thiết kế để giúp con người leo từ tầng 48 lên tầng 96, kể cả các giáo lý của những đợt truyền pháp trước. Liệu sẽ ích gì cho con nếu con tìm được một giáo lý cao hơn trong khi con cần giáo lý ở những mức thấp hơn? Điều xây dựng là con cần khiêm tốn một chút và nhận ra là khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày sẽ xuất hiện. Có nghĩa là vị thày sẽ xuất hiện, hay giáo lý sẽ xuất hiện khi nào đệ tử cần đến giáo lý. Liệu sẽ ích gì nếu vị thày cứ chờ xuất hiện cho đến khi đệ tử không còn cần đến giáo lý nữa? Con thấy đó, một lượng định thực tế sẽ cho thấy là khi con tìm thấy giáo lý, đó là vì con cần đến nó, và điều này có nghĩa là con không ở tầng tâm thức cao nhất.

Nhưng tiếc thay trong các đợt truyền pháp trước, nhiều người đã giả định theo một cách khác. Họ nghĩ: “Tôi phải ở một mức tâm thức cao lắm thì tôi mới có thể tìm ra giáo lý cao siêu này.” Họ đã tạo ra một nét văn hóa trong tổ chức, một lối tư duy nơi nhiều cá nhân đệ tử, bảo rằng: “Cách tôi nhìn giáo lý khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất có thể.” Và điều này có nghĩa là như các Thượng sư đã giải thích, nhiều người cho rằng: “Cách tôi nhìn các chân sư thăng thiên khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất mà người ta có thể nhìn chân sư thăng thiên.” Nhưng họ cũng nghĩ: “Cách tôi nhìn Hiện diện TA LÀ của tôi khi tôi mới tìm thấy giáo lý là cách cao nhất mà tôi có thể nhìn Hiện diện TA LÀ của tôi.”

27.4. Dính mắc với hình ảnh cũ về giáo lý

Điều này có nghĩa là họ tìm thấy giáo lý ở một trạng thái tâm thức thấp hơn, họ sử dụng giáo lý để hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ của họ – Hiện diện TA LÀ là gì, thế nào là nối kết với Hiện diện TA LÀ, Hiện diện TA LÀ sẽ làm gì cho họ. Và họ cứ tưởng tâm ảnh này là chính xác, là cao nhất có thể, cho nên họ tiếp tục phóng chiếu nó ra. Nhiều đệ tử đã trở nên vô cùng dính mắc với tâm ảnh của họ. Bởi vì điều đáng tiếc xảy ra – khi con cho rằng con ở một mức rất cao lúc con tìm thấy giáo lý – là nếu con phải thừa nhận hình ảnh của con về Hiện diện TA LÀ là không thích đáng thì con sẽ bắt đầu nghi ngờ sự cao siêu của con khi tìm thấy giáo lý. Và điều này sẽ là một cú giáng cho tự ngã, cho nên tự ngã sẽ không muốn thừa nhận như vậy. Tiếc thay đây là một cơ chế mà các thày đã chứng kiến nơi nhiều đệ tử.

Đây chính là một trong những lý do tại sao nhiều đệ tử đã không thể chuyển tiếp từ phong trào I AM Movement sang Summit Lighthouse, tại sao nhiều đệ tử đã không thể chuyển tiếp từ Summit Lighthouse để chấp nhận sứ giả này. Đó không phải là lý do duy nhất vì nhiều đệ tử không cứ là cần chuyển tiếp. Nhưng điểm thày muốn nói là nhiều đệ tử đã nắm lấy một lời dạy đặc thù, đã hình thành một tâm ảnh rồi trở nên dính mắc với việc duy trì ảo tưởng cho rằng tâm ảnh này đúng đắn. Và vì vậy họ không sẵn lòng chất vấn nó.

Sẽ đến một điểm khi họ gần hơn với tầng 96, thì tâm ảnh được hình thành ở các tầng thấp hơn về Hiện diện TA LÀ sẽ không thoả đáng nữa, vì giờ đây họ cần bước lên một trình độ quan hệ cao hơn với Hiện diện của họ. Khi họ từ chối xét lại điều này thì đây là một cách phản ứng đáng tiếc. Cách phản ứng này có thể thực sự chặn nghẽn đường tu của họ. Có những người đã bước chân trên đường tu mấy chục năm nhưng không thực sự thăng tiến trong một thời gian dài. Hay họ không thăng tiến nhiều như họ đã có thể nếu họ sẵn lòng thay đổi tâm ảnh của họ về chân sư lẫn về Hiện diện TA LÀ.

27.5. Tìm hiểu Hiện diện TA LÀ từ xa

Tất nhiên đó là một sai lầm mà các thày không muốn thấy con rơi vào trong đợt truyền pháp này với những lời dạy cao hơn hẳn mà con đang có. Các lời dạy này cao hơn vì con có khái niệm về cái Ta Biết cùng các ngã tách biệt. Đây là một khái niệm cách mạng so với các lời dạy trước đây vì lý do đơn giản là khi con nắm bắt được nó, khi con trải nghiệm được nó, khi con trải nghiệm cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài một cái ngã tiềm thức, thì con có một dụng cụ, con có một quy trình có thể dẫn con lên tận tầng 144. Nhưng nó cũng có thể giúp con phát triển một mối quan hệ khác với Hiện diện TA LÀ không dựa trên một tâm ảnh.

Như các Thượng sư đã giảng thật kỹ lưỡng, con đang làm gì khi con hình thành tâm ảnh này với tâm đường thẳng rồi phóng chiếu nó ra? À, con đang nhìn từ xa. Con nhìn thấy: “Tôi đang ở đây. Tôi là chủ thể. Hiện diện TA LÀ của tôi đang ở trên kia. Đó là một đối tượng mà tôi đang tìm hiểu, đang tiếp cận, đang cầu nguyện.” Nhưng chừng nào con còn thấy mình như một chủ thể và Hiện diện TA LÀ như một khách thể thì con đang làm gì? Con đang xác nhận có một khoảng cách giữa con và Hiện diện TA LÀ. Nhưng làm thế nào con vượt qua khoảng cách này? Làm thế nào nối kết được đây? Làm thế nào trở thành một với Hiện diện TA LÀ nếu con cứ phóng chiếu ra một khoảng cách?

27.6. Trải nghiệm sự Hợp nhất với Hiện diện TA LÀ

Một số đệ tử đã chui vào cái tâm thái gần như ám ảnh cưỡng chế khi họ nghĩ: “Nếu như tôi thỉnh gọi đủ lửa tím để chuyển hóa nghiệp của mình thì tôi sẽ hợp nhất với Hiện diện của tôi. Mỗi ngày tôi đã đọc chú lửa tím 3 giờ đồng hồ nhưng tôi vẫn chưa nhập một được với Hiện diện. Có lẽ nếu tôi đọc chú lửa tím 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày, tôi sẽ nhập một với Hiện diện chăng? Và nếu chuyện này vẫn chưa đem lại kết quả thì tôi có thể đọc thêm bao nhiêu nữa mỗi ngày?”Con nghĩ là để đạt mục tiêu, con phải cố đẩy tới. Và nếu con không đạt được mục tiêu thì con phải đẩy tới mạnh hơn, hay con phải cứ tiếp tục đẩy tới theo cùng cách đó lâu hơn. Nhưng làm sao con có thể đạt được mục tiêu nếu con cứ đẩy nó về phía trước hay đẩy nó ra xa hơn? Sẽ tới lúc con phải bước lui lại và ngừng đẩy.

Và con cần nhận ra cách vận hành thật đơn giản mà các thày đã giảng giải qua các lời dạy về những cái ngã tiềm thức. Điều ngăn cản con đạt được sự Hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con là những cái ngã tiềm thức mà con mang. Khi con vượt qua chúng, càng ngày cái Ta Biết sẽ càng dễ rút ra khỏi tâm vỏ ngoài – là tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc. Cái Ta Biết sẽ dễ dàng hơn bước ra khỏi những cái ngã còn sót lại. Có nghĩa là khi con đến gần hơn với tầng 96, điều tự nhiên là con sẽ trải nghiệm được Hiện diện TA LÀ của con không từ một khoảng cách, mà nó bao quanh con. Có thể nói là con trải nghiệm con là một phần của Hiện diện, con ở bên trong Hiện diện.

Thay vì xem Hiện diện như nằm ở trên cao, con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện ở quanh con, và giống như hình ảnh các Thượng sư đã trao cho con về một ngọn sóng dâng lên từ đại dương, con chỉ là một ngọn sóng dâng lên từ đại dương của Hiện diện TA LÀ của con. Khi con chú tâm, khi sự chú tâm của con được tập trung nơi đỉnh sóng thì thật khó thấy được như vậy. Nhưng khi con cho phép con trầm mình ngày càng sâu hơn vào ngọn sóng, con sẽ có thể cảm nhận được chính đại dương. Và con có thể xuôi theo sự chuyển động đó của đại dương. Và đó là khi con bắt đầu trải nghiệm ngày càng nhiều hơn, không phải một sự nối kết với Hiện diện TA LÀ, mà sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con.

27.7. “Tôi chính là Hiện diện”

Tại sao các thày lại nói đến sự nối kết với một chân sư thăng thiên nhưng sự hợp nhất với Hiện diện? À, là vì con không phải là vị chân sư đó, nhưng con chính là Hiện diện TA LÀ. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Đúng, về mặt kỹ thuật con có thể nói Hiện diện TA LÀ của con được tạo ra từ Hiện diện TA LÀ của các chân sư thăng thiên, nhưng dẫu vậy từ góc nhìn của con, không phải là một ngày kia con sẽ hoàn toàn hợp nhất được với một chân sư thăng thiên. Con có thể có một cảm nhận hợp nhất nhưng con vẫn nhận ra chân sư MORE hay Saint Germain là những sinh thể cá biệt. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con thì không phải là một sinh thể cá biệt mặc dù nó có vẻ như vậy ở các tầng thấp hơn của đường tu. Đó là ảo tưởng mà con cần bắt đầu thách thức khi con vươn lên cao hơn.

Con cần thách thức ảo tưởng Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tách rời khỏi con. Như thày vừa nói, con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Con là một ngọn sóng trên đại dương của Hiện diện. Cho nên nói thế này sẽ ích lợi hơn: Con nối kết với một chân sư thăng thiên, con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Hay đúng hơn, con khắc phục ảo tưởng cho rằng con tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, rằng con là một cái gì khác hơn Hiện diện TA LÀ… cho đến khi con ngộ ra: “Tôi chính là Hiện diện.” Và tất nhiên tất cả mọi điều các chân sư khác đã trao cho con về việc nối kết với các vị thày tâm linh của con cũng đều áp dụng cho Hiện diện TA LÀ. Con càng chuyển đổi tâm thức, càng vượt qua tâm đường thẳng, càng khắc phục nhiều ngã tách biệt, thì con sẽ càng dễ cảm nhận được sự hợp nhất này với Hiện diện TA LÀ.

Nhưng thày cũng muốn cho con một dụng cụ tuy có vẻ thật đơn giản – một số người sẽ gọi là đơn sơ – nhưng nó lại có tiềm năng tạo ra một tác động sâu xa. Con cũng biết người ta thường bảo là diễn viên kia có một sự hiện diện tuyệt vời trên sân khấu? Hay một người kia có một sự hiện diện nào đó? À, Hiện diện TA LÀ của con là một sự hiện diện. Phải, nó có cá thể của nó nhưng nó là một sự hiện diện. Con đã quen nhìn Hiện diện TA LÀ như một sự hiện diện ở trên cao tách biệt khỏi con, hay thậm chí con còn có thể nói: “Tôi là Hiện diện TA LÀ.”

Nhưng dụng cụ thày muốn cho con là con xoay đi một chút, con giản dị dành ra một chút thời gian, con vào một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại. Sau đó con quán câu chú này: “Tôi là Hiện diện.” Không phải “Hiện diện TA LÀ,” mà “Tôi là Hiện diện.” Con thấy đó, sự khác biệt có vẻ như một thuật chơi chữ nhưng nó nhiều hơn như vậy. Thay vì nghĩ đến Hiện diện của con như Hiện diện TA LÀ, con dùng câu chú: Tôi là Hiện diện, Tôi là Hiện diện, Tôi là Hiện diện.” Và khi con thiền quán câu này, đây có thể là một cách rất hiệu quả để con thực sự đi vào trải nghiệm sự Hiện diện.

27.8. Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên

Và thật sự con sẽ không bắt đầu nối kết hay cảm thấy hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con cho đến khi cái Ta Biết đã có trải nghiệm bước ra ngoài nhân cách vỏ ngoài và trải nghiệm sự Hiện diện, trải nghiệm chính con như là Hiện diện. Nhưng tất nhiên, đây mới chỉ là thử thách đầu tiên của Ki-tô liên quan đến Hiện diện TA LÀ. Thử thách thứ nhì của Ki-tô là giờ đây khi cái Ta Biết trở về trạng thái tâm bình thường của nó, con phải rất cẩn thận không bị rớt thử thách thứ nhì này của Ki-tô mà bắt đầu phóng chiếu các tâm ảnh của con lên trên trải nghiệm sự Hiện diện. Con lại bắt đầu phóng chiếu các tâm ảnh của con áp lên Hiện diện.

Đặc biệt một khi con đã bắt đầu trải nghiệm hợp nhất với Hiện diện, con phải thận trọng không phóng chiếu lên Hiện diện hình ảnh mà con có thể có về một thần linh toại nguyện mọi mong ước hay về các chân sư thăng thiên. Như thày vừa nói, Hiện diện TA LÀ của con chưa phải là một sinh thể thăng thiên. Con không thể chờ đợi Hiện diện TA LÀ của con biết mọi chuyện. Đây là một sự phỏng đoán mà con tìm thấy trong các đợt truyền pháp trước khi người ta nghĩ rằng Hiện diện TA LÀ giống như một vị thần linh, giống như một chân sư thăng thiên, hiểu biết tất cả, có những khả năng siêu nhân siêu phàm, và có thể ban cho con đủ loại ân huệ, bảo vệ con khỏi nghiệp chướng và làm cho con đủ điều. Nhưng thật không phải vậy.

Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên. Tất nhiên nó không ở trong nhị nguyên, nó không ở cả trong những cõi thấp kém của bát cung vật lý. Nó có nhãn quan rộng lớn hơn con, nhưng con cần nhìn nhận là nó vẫn còn một số mong muốn về những điều nó muốn trải nghiệm trên trái đất, là những mong muốn đã khiến nó gửi con xuống – con, cái Ta Biết, như một phần nối dài của Hiện diện. Và Hiện diện TA LÀ không có một cái hiểu trọn vẹn về tất cả mọi thứ một chân sư thăng thiên có thể hiểu được. Mặc dù nó ngụ ở các tầng thấp của cõi tâm linh, nó vẫn chưa là một sinh thể thăng thiên. Nó không có được tầm nhìn của một sinh thể thăng thiên. Hiện diện TA LÀ vẫn tập trung vào chính nó như nó đang thấy chính nó. Đó là tại sao con không thể xem Hiện diện TA LÀ của con như một sinh thể có khả năng trả lời mọi câu hỏi của con.

Có những người nghĩ rằng họ có thể hỏi Hiện diện TA LÀ của họ về bất cứ vấn đề vũ trụ nào. Nhưng thật không phải như vậy. Con thật không muốn nhìn Hiện diện TA LÀ của con như một sinh thể sẽ làm gì đó cho con. Chính vì con vẫn duy trì hình ảnh Hiện diện TA LÀ sẽ bảo vệ con hay làm gì cho con, sẽ giải đáp câu hỏi của con hay bảo con phải làm gì, chính vì vậy mà con vẫn củng cố cho cảm nhận khoảng cách. Và như các chân sư khác đã có đề cập, có một bí ẩn, có một mâu thuẫn khó xử, gần như có một giai đoạn tâm thần phân liệt (schizophrenic) trên đường tu tâm linh khi con phải cân bằng những thứ có vẻ như không thể đi đôi với nhau.

27.9. Bước lên sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện

Và thật sự khi con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, con cũng bước vào một giai đoạn hơi phân liệt một chút. Vì con vẫn có cuộc sống bình thường hàng ngày, con vẫn đảm đương những trách nhiệm trong thế gian, tuy nhiên con lại bắt đầu trải nghiệm Hiện diện vốn có một tầm nhìn khác hơn về cuộc sống trong thế gian. Có thể con sẽ khó cân bằng được cả hai. Điều có thể khó đặc biệt là cưỡng lại sự cám dỗ muốn sử dụng Hiện diện TA LÀ để nó giúp con thoát ra khỏi một tình thế khó khăn, hay để nó bảo con cần làm gì trong một số hoàn cảnh cụ thể. Nhiều người đã xin Hiện diện TA LÀ khuyến cáo cho họ.

Nhưng con thấy đó, khi con bắt đầu bước vào giai đoạn này, Hiện diện TA LÀ cũng ở trong một vị thế tế nhị do nó muốn cái Ta Biết tăng triển cho đến khi nhập lại với nó. Và điều này có nghĩa là nếu con yêu cầu Hiện diện TA LÀ khuyên nhủ con hay hướng dẫn con, và nếu nó trả lời thì điều này sẽ xác nhận hình ảnh rằng con tách biệt với nó, rằng Hiện diện nằm ở tuốt trên kia, rằng Hiện diện giống như một ông thần trong chai có khả năng ban cho con mọi điều mong ước. Con thấy không, nếu con cho phép mình duy trì tâm ảnh tách biệt này thì đến một giai đoạn Hiện diện TA LÀ của con sẽ phải rút lui khỏi con – nếu có thể gọi như vậy – và không trả lời các câu hỏi của con, không trao cho con một khung tham chiếu. Và đã có những người cảm nhận được điều này, họ cảm thấy như thể họ bị cắt ra khỏi một sự nối kết mà họ đã có trước đó. Đây có thể là sự nối kết với một chân sư thăng thiên, nhưng trong nhiều trường hợp đây là sự nối kết với Hiện diện. Và nguyên nhân là vì họ đã không bước lên cao hơn.

Con đã không buông bỏ tâm ảnh kia dựa trên cảm nhận khoảng cách. Và vì vậy, Hiện diện TA LÀ buộc phải rút lui cho đến khi con giải quyết nó trong tâm, con khắc phục cảm giác xa cách và bắt đầu thách thức nó. Khi đó Hiện diện của con sẽ lại có thể tương tác với con. Nhưng điều con cần đạt đến, điều thày đang tìm cách giúp con đạt đến, là con đạt tới điểm không yêu cầu Hiện diện TA LÀ của con trả lời những câu hỏi đặc thù, hay hướng dẫn con phải làm gì hay không được làm gì trong một số tình huống. Con tiến về hướng một điểm nơi con có khả năng – như thày vừa chỉ ra trong câu chú hồi nãy – nhận chân rằng “Tôi là Hiện diện” ngay đây trong thế gian. Không phải “Tôi là Hiện diện TA LÀ” mà “Tôi là sự Hiện diện” vì Hiện diện đang ở ngay đây với con. Hiện diện có thể được biểu đạt xuyên qua con người phàm của con. Và đây mới thực là ý nghĩa của việc con ở trong giai đoạn này của quả vị Ki-tô cá nhân.

Thày cũng biết là các thày đã giải thích rằng chính tâm Ki-tô tự biểu đạt xuyên qua con, và điều này chính xác. Đúng là con cần đến tâm Ki-tô, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không tách rời với tâm Ki-tô. Điều các thày đã từng nói, và Saint Germain cũng từng giải thích, là khi con bước lên những tầng này của quả vị Ki-tô, con không biến thành một con múa rối. Con không biến thành một con rối trên một sợi dây, bởi vì con phải quyết định là con sẽ biểu đạt quả vị Ki-tô của mình như thế nào. Tuy nhiên cái Ta Biết không phải quyết định một mình hay trong tư cách một sinh thể tách biệt. Khi con đạt đến sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện như thế này thì ai là người quyết định chứ? Có phải là cái Ta Biết hay là Hiện diện? Như Giê-su đã diễn tả, “Cha ta làm việc cho đến giờ và ta cũng làm việc.”

27.10. Khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện

Có thể đến một điểm con bắt đầu cảm thấy: “Đâu là sự khác biệt giữa Hiện diện và cái Ta Biết? Đâu là sự khác biệt giữa Hiện diện và chính tôi?” Ngay cả việc đặt câu hỏi như vậy cũng ngụ ý một khoảng cách. Nhưng có thể đến một điểm con vượt xa hơn câu hỏi đó và chỉ vỏn vẹn trải nghiệm: “Thật không có nghĩa lý gì mà đặt câu hỏi vì không còn sự khác biệt nào nữa.” Con bắt đầu ngộ ra cái Ta Biết chính là Hiện diện. Con là Hiện diện trong bát cung vật lý, trong cõi cảm xúc, trong cõi lý trí, trong cõi bản sắc.

Con là Hiện diện. Nhưng như các thày đã có nói một thời gian trước đây, con là khía cạnh “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” của Hiện diện, đối chiếu với khía cạnh “TA LÀ CÁI TA LÀ” của Hiện diện.

“Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là omega, khía cạnh nữ hay khía cạnh biểu đạt của Hiện diện. Và có “TA LÀ CÁI TA LÀ” nằm ở cõi tâm linh và sẽ tiếp tục ở cõi tâm linh hầu nó không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ gì xảy ra trong bầu cõi chưa thăng thiên. Nhưng “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là khía cạnh đã quyết định biểu đạt chính nó trong bầu cõi chưa thăng thiên. Con có thể nói là tâm Ki-tô cho con một năng lượng và một động lượng đang chuyển động. Nhưng chính khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện chỉ đạo cho chuyển động này hướng vào những hoàn cảnh cụ thể, hiển thị thành những biểu hiện cụ thể hay có những trải nghiệm cụ thể.

Đến một điểm những phân biệt như vậy sẽ tan biến mất. Đâu là sự khác biệt giữa tâm Ki-tô, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết? Ở các tầng thấp hơn, đúng là sự phân biệt còn có ý nghĩa vì nó có thể giúp cho cái Ta Biết xoay chuyển nhận biết. Nhưng đến một điểm sự phân biệt sẽ tan biến đối với cái Ta Biết. Con không quan tâm chuyện đó nữa. Đến một điểm con không quan tâm là con đang ở tầng nào trong số 144 tầng tâm thức. Liệu con đang ở tầng 97 hay 108 hay 128? Con không còn quan tâm nữa vì con biết con vẫn tiếp tục tìm kiếm bất kỳ ảo tưởng nào con cần nhìn thấy. Gần như mọi lúc, con tập trung vào việc biểu đạt chính mình trong thế gian này, vào những gì con muốn thể hiện trong cuộc sống. Thật không quan trọng con đang ở tầng nào. Thật không quan trọng việc phân biệt giữa các tầng, hay phân biệt giữa tâm Ki-tô, tâm Ki-tô hoàn vũ, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Tất cả đều hòa quyện với nhau.

27.11. Sự hợp nhất của cái Ta Biết với Hiện diện

Đến một điểm con sẽ có thể nhận ra là khi con nhìn vào tâm và những gì xảy ra trong tâm, con trải nghiệm cảm thể của con an bình hơn rất nhiều, vì con đã khắc phục tất cả những dính mắc đó với hoàn cảnh vỏ ngoài. Nói chung, cảm xúc của con rất an hòa. Nhưng vẫn có thể có những trải nghiệm hay những tình huống khi cảm xúc của con bị khuấy động. Nhưng con cũng trải nghiệm là chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, chúng lại chìm xuống, vì con không nhân chúng lên, con không góp mặt với chúng. Có một sự kiện đang diễn ra trong cảm thể và sự kiện này không liên hệ gì đến con.    

Con có thể nhìn vào trí thể và nhận thấy tâm lý trí của con cũng đã trở nên tĩnh lặng hơn nhiều, nhưng tâm khỉ thì vẫn là tâm khỉ. Khỉ đã học thói thì khỉ chỉ biết làm theo. Luôn luôn sẽ có những ý nghĩ khởi lên – đơn giản chúng khởi lên từ tâm. Nói cách khác, con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức tâm thức cao hơn khi cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể yên tĩnh hơn rất nhiều. Không còn nhiều ngã tách biệt hay năng lượng tồn đọng nữa, nhưng con vẫn đang hiện thân trên một hành tinh có vật chất dày đặc. Tâm thức tập thể luôn hỗn loạn và con không hoàn toàn cách ly khỏi tâm thức đại chúng. Con đang bơi trong Biển Luân hồi, hay ít nhất con đang ngồi trong chiếc thuyền Bát nhã trên mặt Biển Luân hồi. Sẽ có một chút động sóng. Sẽ có cảm xúc, sẽ có ý tưởng, có thể thỉnh thoảng có cả chút ý niệm bản sắc, nhưng con không dính mắc với nó.

Điều con bắt đầu nhận ra ở điểm này là: “Cái gì đang cảm thấy những cảm xúc tích cực này, đang có những ý tưởng tích cực này, đang khoác vào ý niệm bản sắc tích cực này, đang làm những hành động tích cực này?” Cái đó là cái Ta Biết hay là Hiện diện? À, thật sự đó là cả hai. Đó là sự hợp nhất của cả hai. Đây là điểm con có thể nhận ra: “Hiện diện của tôi làm việc cho tới giờ và tôi cũng làm việc.” Và sự phân biệt giữa cả hai trở nên vô nghĩa. Và thật sự một điều con có thể nhận thấy là rất nhiều ý tưởng của con đến từ Hiện diện. Đó là Hiện diện đang suy nghĩ xuyên qua con. Ý niệm bản sắc của con đến từ Hiện diện. Ý tưởng của con trong trí thể đến từ Hiện diện. Cảm xúc của con đến từ Hiện diện. Và do đó hành động của con cũng tuôn chảy từ Hiện diện. Đây là trạng thái con muốn đạt được.

Thày không đang bảo là con có thể đến đó bằng cách lần theo một chuỗi đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đưa con đến đó. Thày chỉ đơn giản trao cho con hình ảnh là sẽ tới điểm sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô trở nên vô nghĩa. Con không quan tâm đến nó. Nhưng để đến được điểm đó, con phải làm việc một cách ý thức với chính bản thân con để xem xét những tâm ảnh mà con có, sẵn sàng lần lượt thách thức chúng rồi khắc phục chúng. Con phải nhận ra là chúng đã phục vụ cho con, chúng đã đưa con đến một điểm nào đó trên đường tu, nhưng bây giờ đã đến lúc con buông chúng ra.

Các thày đã cho con hình ảnh chiếc hỏa tiễn mang theo một tầng máy đẩy khổng lồ bên dưới nhằm phóng hỏa tiễn lên một độ cao nhất định. Thế rồi để hoả tiễn có thể bay lên tiếp, tầng máy này cần được bỏ lại, rơi xuống mặt đất. Đây cũng là điều xảy ra trên đường tu tâm linh. Con đã xây dựng một cái ngã tâm linh giữa các tầng 48 và 96 và ngã này đã đưa con đến đó, nhưng sau tầng 96 con cần lần hồi bỏ nó lại cho nó rụng xuống để con không còn những sự phân biệt như vậy. Có thể nói là thực sự con không bao giờ nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Hoặc con có thể là Hiện diện, hoặc con không là Hiện diện. Là hay không là.

Trên đây là những khái niệm mà thày muốn trao cho con liên quan đến Hiện diện TA LÀ cùng mối quan hệ giữa cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là đến một điểm sẽ không còn một mối quan hệ nữa, vì quan hệ ngụ ý là có hai sinh thể trong mối quan hệ đang liên hệ với nhau. Nhưng khi không có phân biệt nào thì thật không thể nói là có quan hệ. Đây là tiềm năng mà con có với Hiện diện. Con luôn luôn sẽ có một mối quan hệ với các chân sư thăng thiên hay với người khác. Nhưng với Hiện diện, con có khả năng thăng vượt quan hệ. Con chỉ đơn giản là Hiện diện. Con là Hiện diện.

Với lời này thày cảm ơn con đã cống hiến hiện diện của con trong đại hội này ở cõi vật lý, và hiển nhiên nó nhiều hơn là một sự kiện vật lý vì nó chạm đến các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, lên tận đến các cõi thăng thiên. Đây là sự hiệp thông của các vị thánh, là dòng chảy hình số 8 giữa trên và dưới. Và để bảo đảm các con không tạo ra thêm một hình ảnh ở đây, có một điểm trên đường tu khi con có thể xem xét câu này: “Trên sao, dưới vậy,” và nói: “Ở trên như thế nào trong Hiện diện TA LÀ thì ở dưới cũng như vậy trong cái Ta Biết.” Nhưng như thày vừa giảng, sẽ đến một điểm khi Hiện diện TA LÀ không ở trên và cái Ta Biết không ở dưới. Con đã hoà nhập. Cái Ta Biết ngộ ra nó là Hiện diện. Và tất nhiên đây là nơi con muốn trụ.

Thày hy vọng đã cho con một số dụng cụ cùng ý tưởng có thể giúp con đạt đến nơi đó. Thày khen ngợi và cảm ơn các con đã sẵn lòng tương tác với các thày, và điều này đã gửi những ngọn sóng chấn động, nếu có thể gọi như vậy, vào tâm thức tập thể. Điều này sẽ khiến cho nhiều người khác ngoài các con ra có thể dễ dàng hơn nối kết với thày tâm linh của họ để bắt đầu tiến trình hợp nhất với cái ta cao của họ. Chắc chắn con đã nhận thấy là các thày dùng một số từ đặc thù, “Hiện diện TA LÀ” và “chân sư thăng thiên”, nhưng luôn luôn đã từng có “thày tâm linh” và “cái ta cao”. Và nhiều người từ đủ mọi truyền thống tâm linh, hay ngay cả không có truyền thống tâm linh nào, cũng đã tìm ra cách nối kết.

Các thày đang cho con một lời dạy và một dụng cụ đặc thù, nhưng ngay cả những ai không tìm thấy dụng cụ này tất nhiên vẫn có thể nối kết. Và công việc các con đã hoàn thành qua đại hội này sẽ giúp cho mọi người dễ nối kết hơn. Hiển nhiên đây là điều các thày muốn thấy. Các thày không quan tâm đến chuyện người ta công nhận mình hay không, mà các thày quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của hành tinh, nâng cao tâm thức của những cá nhân có tiềm năng làm người đi tiên phong cho Thời Hoàng kim của Saint Germain hay hội đủ tư cách để thăng thiên. Một lần nữa, thày cảm ơn nỗ lực của các con, và thày niêm con trong Hiện diện vui mừng của thày. Maitreya TA LÀ.

9| Khắc phục cảm giác xa cách giữa con và cái ta cao của con

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng. Thật là một niềm vui cho thày được trình bày về thể bản sắc. Điều gì nơi thể bản sắc ngăn chặn sự hòa điệu của con với các chân sư thăng thiên và với cái ta cao của con? À, chúng ta có thể đặt một câu hỏi khác. Điều gì nơi thể bản sắc của con không ngăn chặn sự hòa điệu với các thày? Bởi vì thật sự, hòa điệu với cõi tâm linh có nghĩa gì? Có nghĩa, là một với cõi tâm linh. Và làm sao con có thể là một với cõi tâm linh nếu con tự đồng hóa mình là một sinh thể vật chất? Và tất nhiên đây chính là điều xảy ra trên trái đất ngày nay khi chín tầng thấp nhất của cõi bản sắc đầy rẫy những hình ảnh nhân tạo đó về thế nào là một con người. Và khi thày nói “nhân tạo” thì tất nhiên thày cũng muốn nói “bị ảnh hưởng bởi sa nhân”, và trong số đó có những sa nhân cư ngụ nơi các tầng thấp nhất của cõi bản sắc, kể cả Chúa tể Bóng tối mà các thày đã có đề cập trước đây.

9.1. Khía cạnh Alpha và Omega của bản sắc

Tình trạng trên trái đất thật rất khó khăn và các thày hiểu rõ nó khó khăn đến chừng nào. Các thày không chờ đợi là các con với tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên sẽ chuyển đổi ý niệm bản sắc của mình ngay tức khắc. Các thày chỉ đơn giản muốn con nhận ra là đối với cá nhân con khi con lui lại nhìn vào bản thân mình và xem xét điều gì đang ngăn chặn sự kết nối của con với các thày, thì chắc chắn con cần xét xem con tự nhận diện mình như thế nào. Và điều này hiển nhiên có hai khía cạnh, Alpha và Omega. Omega là nền văn hóa đặc thù nơi con đã lớn lên, rất có thể là quốc gia của con, nhưng cũng là tôn giáo, chủng tộc, những yếu tố địa phương ở khu vực và văn hóa nơi con đã lớn lên. Đây là một điều cần xét đến.

Ngoài ra cũng cần xét đến khía cạnh Alpha là cách tổng quát con người tự nhận diện mình là gì trong tâm thức tập thể của nhân loại nói chung. Tất nhiên, bản sắc chung này làm nền tảng cho sự hình thành các bản sắc địa phương mà con thấy. Và mặc dù con sẽ tìm thấy một số khác biệt trong các bản sắc địa phương đó, những khác biệt này vẫn nằm gọn trong phạm vi tổng quát của cái bản sắc chung được áp đặt lên nhân loại và đã được nhân loại đồng sáng tạo trong một thời gian rất dài.

9.2. Tác dụng tự tăng cường khi vật chất trở nên dày đặc hơn

Trước tiên chúng ta hãy xét đến ý niệm bản sắc chung này. Điều mà hầu hết mọi người, thậm chí hầu hết mọi người tâm linh trên trái đất, không nắm bắt được là trái đất đã thay đổi đến chừng nào so với trạng thái nguyên thủy khi được các Elohim sinh tạo. Đối với con người và ngay cả đối với những người tâm linh, thật khó lòng nào nắm bắt được mức độ to lớn của những thay đổi đã xảy ra. Qua các lời dạy, các thày đã cho con một cái nhìn hé thoáng về điều này, và một điểm các thày có giải thích là vật chất tự thân nó đã trở nên dày đặc hơn. Qua sự dày đặc hóa của vật chất, ý thày muốn nói là giác quan vật lý của con người đã mất đi khả năng nhìn thấy vật chất thực sự là năng lượng. Trong trạng thái nguyên thủy, vật chất trên trái đất rung động ở một mức cao hơn, có nghĩa là với thị giác chẳng hạn, mắt vật lý của con người thuở đó có khả năng nhìn thấy vật chất phần nào trong suốt.

Con thử đi vào rừng mà xem, đặc biệt vào lúc sang xuân khi lá cây còn non xanh. Con đứng dưới một tàng cây và ngước nhìn lên mặt trời, nhìn ánh nắng chiếu xuyên qua lá và lá cây hiện ra gần như trong suốt. Màu lá nhạt hơn vì ánh sáng mặt trời như thể chiếu xuyên qua lá. Đấy, con thử tưởng tượng toàn bộ vật chất đều giống như vậy, và mắt vật lý của con có thể nhìn thấy không chỉ một mặt trời vật lý mà một nguồn năng lượng cao hơn đang chiếu xuyên qua mọi vật chất. Vào thuở đó, con người thật khó lòng tự xem mình là tách biệt khỏi một cõi cao hơn, vì qua giác quan vật lý họ có thể phát hiện một cái gì đó vượt khỏi vật chất. Có một ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật chất.

Nhưng với tâm thức tập thể trở nên dày đặc hơn thì chính vật chất cũng dày đặc hơn, qua đó độ rung của tất cả vật chất trên hành tinh bị kéo thấp xuống. Điều này có nghĩa là con mắt vật lý, chẳng hạn, khó lòng nào thấy được ánh sáng chiếu xuyên qua vật chất. Ánh sáng vẫn chiếu xuyên qua vật chất nhưng giác quan vật lý khó thấy nó hơn. Một khi sự thể này xảy ra, có một tác động tự tăng cường khởi sự, vì giờ đây con người dễ chấp nhận ý tưởng cho rằng cõi vật lý tách riêng khỏi cõi tâm linh, rằng có một khoảng cách, có một hàng rào.

Và điều này có nghĩa là con người bắt đầu phóng chiếu với tâm mình rằng vật chất là một chất tách biệt khỏi tánh linh, gây ra hậu quả là giác quan vật lý trở nên mờ đục, hòa điệu nhiều hơn với vật chất thay vì hòa điệu với ánh sáng chiếu xuyên qua vật chất. Và một khi giác quan mờ đục hơn, con người cũng tin chắc hơn rằng tánh linh với vật chất là tách biệt, và điều này khiến cho giác quan càng đờ đẫn thêm nữa. Đây là một chuỗi tác động đã tự tăng cường suốt một thời gian rất dài, và quá trình này chỉ thực sự lật ngược với sự hiện thân của Phật cách đây 2500 năm và Giê-su cách đây 2000 năm khi càng ngày càng có nhiều người bắt được sóng của cõi tâm linh. Và nhờ vậy đã có một sự chuyển động trong tâm thức đại chúng, qua đó con người có khả năng chất vấn ảo tưởng cơ bản nhất trên trái đất mà chúng ta có thể nói là sự tách biệt giữa vật chất và tánh linh.

9.3. Ảo tưởng cơ bản trên trái đất: sự tách biệt của vật chất và tánh linh

Thật vậy, ảo tưởng này làm nền tảng cho ý niệm bản sắc mà hầu hết mọi người đều có, rằng mình là con người, rằng hoặc mình là một xác thân vật lý hoặc là một sản phẩm của xác thân vật lý, rằng mình sống trên một hành tinh vật lý, rằng mình cùng với hành tinh đều tách biệt khỏi tánh linh. Tất nhiên con sẽ thấy một số người phủ nhận sự hiện hữu của một thế giới tâm linh, họ đã xoay sở để dựng lên một ý niệm bản sắc cho rằng họ chỉ là những con thú tiến hóa, họ chỉ là những sinh thể vật lý, và tâm họ tách biệt khỏi bất cứ gì vượt quá bộ não – tâm họ là sản phẩm của bộ não. Nhưng này con, làm sao họ có thể lý luận rằng một bộ não không có tâm thức mà lại sản xuất được tâm thức? Vì tất nhiên điều này không dựa trên lô-gíc đích thực, mà như các thày đã có giải thích, nó khởi lên do tâm con người có khả năng chứng thực cũng như bác bỏ bất kỳ quan điểm nào. Có sự phủ nhận hợp lý (plausible deniability) và có sự hợp lý hợp lý (plausible plausibility). Bất cứ điều gì con muốn tin thì con đều có thể loại bỏ mọi chứng cớ trái ngược hầu ra vẻ như tin tưởng của con là chính đáng. Và tất nhiên đây là điều những người theo chủ nghĩa duy vật đã làm, nhưng họ đã bỏ sót một sự thật lô-gíc đơn giản: Chỉ do họ có tâm thức mà họ mới có khả năng phủ nhận là họ có tâm thức! Tâm thức không thể được sản xuất bởi một vật chất vô thức.

Dẫu sao thì hiển nhiên, có nhiều người trên địa cầu tin rằng có một cõi tâm linh nào đó, một loại thiên giới nào đó, có một loại sinh thể nơi cõi đó ở mức cao hơn con người. Nhưng họ vẫn tự nhận diện mình là con người, có thể là người có tội hay bất toàn theo một nghĩa nào đó, có thể họ tự nhận diện mình là những sinh thể bị giam hãm trong một xác thân vật lý và xác thân vật lý này là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của họ.   

Con thấy biết bao những loại bản sắc như vậy khắp nơi, nhưng khi con đi ra sau lưng chúng, khi con bước lui lại, thì con thấy bản sắc cơ bản vẫn là như sau: “Chúng tôi không phải là sinh thể tâm linh, chúng tôi là con người, có lẽ thậm chí là những con thú tiến hóa.” Nhưng cũng có một ý niệm bản sắc như thế này khi con thấy một số người bảo: “Phải, chúng tôi là sinh thể tâm linh, nhưng chúng tôi bị giam hãm trong cõi vật lý cùng xác thân vật lý này, cho nên chúng tôi bị tách rời khỏi tánh linh.” Và điều này dẫn đến niềm tin là có một khoảng cách to lớn, trong nhiều trường hợp một khoảng cách vật lý giữa trái đất và thiên đàng.  

9.4. Những sinh thể trong cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc

Con thấy đó, cách đây không lâu lắm, nhiều người ở các nước phương Tây vẫn tin rằng trái đất là một cái đĩa phẳng có mái vòm bên trên, và bên ngoài mái vòm bao phủ trái đất là thiên đàng. Có một khoảng cách vật lý giữa mặt đất bằng phẳng và thiên giới. Và con thấy nhiều phiên bản của niềm tin này cho rằng có một khoảng cách như vậy. Và tất nhiên đây lại là một bí ẩn trong số các bí ẩn, vì đúng là có một khoảng cách rung động giữa cõi vật lý và cõi tâm linh, và xen vào giữa là các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc. Như các thày đã giải thích, trong ba cõi này có những sinh thể sinh sống, mà một số tự nhận mình là sinh thể tâm linh, là thày tâm linh, thậm chí là thần linh dù nam hay nữ, hay còn mạo nhận là chân sư thăng thiên bằng cách sử dụng danh tính của các thày. Có những người nghĩ là họ cần dùng tâm để với ra ngoài tâm, hầu bắt liên lạc với một sinh thể nào đó ở một cõi cao hơn, và một số quả đã có thể liên lạc với những sinh thể như vậy, tin rằng đó là sinh thể tâm linh chân chính. Con thấy đó, có những sinh thể, đặc biệt ở cõi lý trí và cõi bản sắc thấp, không phải là những sinh thể có thể gọi là xấu ác. Họ không nhất thiết có ý định xấu ác muốn tiêu diệt loài người hay biến loài người thành nô lệ, nhưng họ cần đến năng lượng từ con người. Họ không ở mức các chân sư thăng thiên vì các chân sư không cần và cũng không muốn bất cứ gì từ con người.

9.5. Cái Ta Biết so với những ngã tách biệt

Điều con thấy là toàn bộ ý tưởng, toàn bộ ý niệm bản sắc cho rằng “Chúng ta những con người trên trái đất tách biệt khỏi tánh linh bởi một khoảng cách” – đây chính là điều ngăn chặn con nối kết với các chân sư thăng thiên và cái ta cao của con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là ý tưởng cho rằng con phải nối kết – nếu con hiểu nối kết theo nghĩa sự nối kết trên một khoảng cách rất xa – cũng có thể ngăn chặn con. Nếu con thấy một sự chia cách, nếu con thấy một hố sâu, một vực cao giữa con và cõi tâm linh, thì cái đó có thể ngăn chặn con. Ngay cả quan niệm rằng con ở trên bờ này của Biển Luân hồi và con phải băng qua bờ kia cũng có thể ngăn chặn con. Điều thày muốn nói ở đây là bất kỳ hình ảnh nào mà các thày có thể cho con từ cõi thăng thiên cũng có thể bị tâm sử dụng để ngăn chặn nối kết. Và do đó, điều hay hơn, điều xây dựng hơn, ít ra đối với các con là đệ tử trực tiếp của các thày, là con nhìn xem vấn đề không cứ là chuyện nối kết mà là ngộ ra rằng khoảng cách không có, tách biệt không có.

Ngày nay con sống trong thế giới hiện đại mà nhiều người gọi là một thế giới nối kết. Mạng internet đã nối kết con người ở khắp mọi nơi. Nhưng khi con nối kết trên internet với ai đó ở một nước khác, con biết có một sự xa cách vật lý. Con thường gán ý này lên các thày và con nghĩ: “Ừ, các chân sư ở trên kia nơi cõi tâm linh có rung động cao hơn. Tôi cần nâng cao tâm thức của tôi, tôi cần tạo một sự nối kết với các thày ở xa tuốt trên kia vượt khỏi tầm với bình thường của tôi.” Nhưng các thày đã cho con gì chứ? Con ngẫm xem những lời dạy mà các thày đã cho con. Con hãy ngẫm lời dạy rằng nhân cách vỏ ngoài của con, cảm xúc, ý nghĩ và ngay cả ý niệm bản sắc của con đều được cấu tạo bởi tất cả những cái ngã riêng rẽ kia trong tiềm thức – mà rất nhiều là ngã tách biệt. Và những ngã tách biệt này được tạo ra để phản ứng lại, để đáp trả lại các điều kiện có mặt trong cõi vật lý. Đây là những cái ngã hướng ra ngoài. Chúng liên quan đến một thế giới mà rõ ràng con đang trải nghiệm ở bên ngoài cơ thể vật lý của con, thậm chí bên ngoài cả tâm con. Những ngã đó được tạo ra để nhìn ra ngoài. Chúng được tạo ra dựa trên cảm nhận con là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới vật lý. Cơ thể con là một đơn vị tách biệt sống trong một thế giới vật lý. Thày không đang bảo những ngã này là xấu ác hay tiêu cực, chắc chắn nếu con đã vươn lên cao hơn tầng tâm thức 48. Ngã không xấu ác hay tiêu cực, nhưng vấn đề là chúng không tự nhận biết. Chúng chỉ có thể làm những gì chúng đã được thiết kế để làm, là nhìn ra ngoài.

Cho nên con đứng ở đây, con nhận ra là phải có cái gì nhiều hơn thế giới vật chất. Con tìm thấy giáo lý tâm linh nói đến chân sư thăng thiên ở một tầng cõi cao hơn. Liệu con có thể làm gì khác hơn là tiếp cận đường tu tâm linh dựa trên tất cả những cái ngã con mang? Nhưng con có thấy chăng cái kết quả không thể tránh được? Con đang tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua những cái ngã được tạo ra để phản ứng lại thế giới vật chất. Con không thể tránh phóng chiếu hình ảnh từ các ngã đó lên đường tu tâm linh, lên cõi tâm linh cùng các thày tâm linh. Một lần nữa, các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Con đâu làm gì khác được ở khởi đầu khi con mới tìm thấy đường tu? Các thày đã nhìn thấy hàng triệu và hàng triệu người suốt bốn, hay năm, hay sáu thập niên vừa qua khi sự quan tâm về tâm linh đã gia tăng khắp thế giới. Các thày đã nhìn thấy hàng triệu người tìm thấy đường tu tâm linh dưới một hình thức nào đó, rồi đã phóng chiếu lên đường tu này những hình ảnh từ những cái ngã mà họ mang trong bốn thể phàm. Điều này không thể tránh khỏi.

Nhưng các thày đã cố trao cho con, các đệ tử trực tiếp và đặc biệt qua đợt truyền pháp này, một nhận thức cao hơn – một nhận thức cao hơn cho phép con nhận ra rằng con không là cơ thể vật lý của con, con không là tâm cảm xúc của con, con không là tâm lý trí của con, con không là ngay cả tâm bản sắc của con. Con là nhiều hơn tất cả những tâm đó. Con là nhiều hơn tất cả những ngã đó, vì khi con bước vào cốt lõi bản thể con, có cái các thày đã gọi là cái Ta Biết, mà các thày cũng mô tả bằng từ “nhận biết thuần khiết”. Từ này là để chuyên chở ý nghĩa rằng cái ta, cái ta ý thức, cái Ta Biết không phải là ngã vỏ ngoài. Nó là nhiều hơn ngã vỏ ngoài. Nó là cốt tủy của bản sắc đã bước vào hiện thân. Cái Ta Biết đã tạo ra ngã vỏ ngoài nhưng không biến thành ngã vỏ ngoài. Con thấy là con không thể nối kết với các chân sư thăng thiên qua những ngã vỏ ngoài đó, ngay cả những cái ngã con mang trong thể bản sắc của con. Và ngay cả nếu con tạo dựng một ngã mới xem mình là một sinh thể tâm linh thì con cũng không thể nối kết với các thày xuyên qua ngã này. Đây là điều các thày đã có thể quan sát qua các đợt truyền pháp trước của giáo lý chân sư thăng thiên.

9.6. Ngã tâm linh giữa tầng 48 và 96

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã trao truyền một lời dạy cao hơn, rằng giữa tầng tâm thức 48 nơi con thực sự neo chặt vào con đường tâm linh và tầng 96, con vươn lên cao hơn tâm thức tập thể bằng cách gầy dựng một ngã mới trong thể bản sắc, và tất nhiên những cái ngã trong thể lý trí và cảm xúc, nhưng con xây dựng một ý niệm bản ngã mới, một ý niệm bản sắc mới trong thể bản sắc xem mình là một người tâm linh. Một lần nữa, điều này hoàn toàn không thể tránh được. Con không thể làm gì khác trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Con cần tự kéo mình lên khỏi tâm thức tập thể và con làm vậy bằng cách xây dựng một cái ngã nói rằng: “Tôi không phải là cái này, tôi không đồng hóa với cái này, tôi sẽ không tham gia vào hoạt động này, tôi sẽ không tham gia vào hoạt động này vì nó không tâm linh. Tôi sẽ tập trung vào cái kia và cái nọ vì đó là tâm linh.” Cho nên con tạo dựng một cỗ xe, con chế tạo chiếc hỏa tiễn sẽ nâng con rời khỏi mặt đất, đưa con lên không gian cho tới khi con nhập vào vòng quỹ đạo cao hơn ở tầng 96.

Nhưng ngã này mà con xây dựng vẫn là một cái ngã đang phần nào phản ứng lại thế giới nơi con sống. Có thể con đã tạo ngã này dựa trên một giáo lý tâm linh nhưng đây vẫn là sự phản ứng đối với tâm thức tập thể: “Tôi không dự phần vào tâm thức tập thể vì tôi là người tâm linh. Cho nên tôi khác với tâm thức tập thể ở điểm này hay điểm nọ, ở cách này hay cách nọ, và tôi không làm chuyện này hay chuyện nọ, tôi không tin những gì người ta tin và thay vào đó tôi tin điều này.” Nhưng con vẫn đang xây dựng ngã tâm linh này trong sự phản ứng đối với các điều kiện trên trái đất. Một lần nữa, đây là chuyện hoàn toàn tự nhiên, con đâu làm gì khác được? Dẫu vậy, ngã này cũng là một cái ngã hướng ngoại. Điều này có thể khó hiểu vì nhiều người sẽ nói: “Nhưng con đã thiền tập suốt 30 năm trời và chú tâm vào bên trong.” Nhưng nếu con đã xây dựng một cái ngã là một thiền gia, đây vẫn là một ngã phản ứng các điều kiện trên trái đất. Chẳng hạn, nhiều người rút về một tu viện và thiền quán hàng giờ mỗi ngày đã xây dựng một ý niệm bản sắc vi tế nói rằng: “Tôi là một người tâm linh, tôi tâm linh hơn những người kia ở bên ngoài vì tôi tuân thủ những điều kiện này mà giáo lý tâm linh của tôi quy định.”

9.7. Cái Ta Biết: một cái ta thay đổi liên tục

Con thấy đó, con vẫn đang phóng chiếu một hình ảnh ra thế giới, phóng chiếu một hình ảnh lên chính con về người tâm linh là như thế nào. Và như các thày đã giảng, điều này rất hữu ích cho con trên hành trình từ tầng 48 lên 96. Nhưng cao hơn 96, con cần bắt đầu ngẫm xem điều này có còn hữu ích cho con nữa không. Đó là lúc con cần thực sự bắt đầu suy nghiệm lời dạy về cái Ta Biết vì những lời dạy này được ban ra với dụng ý giúp con tránh khỏi cạm bẫy mà hầu hết người tâm linh đều vướng phải suốt các thời đại – cụ thể là họ xây dựng ý niệm bản sắc tâm linh đó, họ từ chối buông bỏ nó, tiếp tục tìm cách tinh luyện nó và khiến nó trở nên tinh xảo hơn. Và khi làm vậy, họ nghĩ: “Khi cuối cùng tôi tạo được cái ngã tâm linh này, đủ tinh xảo căn cứ theo giáo lý của tôi, thì ngã này sẽ đưa tôi lên thiên đàng.” Nhưng Phật đã dạy gì cách đây 2500 năm? Phật đã đi ngược lại các nhà Bà la môn trong truyền thống Ấn giáo vốn tuyên bố tự ngàn xưa rằng mỗi con người là một cái ngã bất tử, là Atman, một cái ta bất tử không bao giờ thay đổi. Phật nói rằng dựa trên toàn bộ quá trình quán chiếu của mình, thày đã không bao giờ phát hiện trong chính mình một cái ta bất di bất dịch. Thay vào đó, thày dạy về một cái ta không ngừng thay đổi, một cái ta thay đổi liên tục.    

Xong con có thể quay sang thời Giê-su, khi thày dạy rằng chỉ có con người, hay đúng hơn chỉ có cái ta đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng lên trở lại thiên đàng. Làm thế nào con dung hòa được cả hai lời dạy đây? À, cái ta đi xuống từ thiên đàng, nếu có thể nói như vậy, là cái Ta Biết. Nhưng cái Ta Biết không phải là một cái ta bất di bất dịch, vì cái Ta Biết không ngừng chuyển đổi tùy theo nó đặt chú ý vào đâu. Cái Ta Biết nhìn chính nó như thế nào? Đối với hầu hết mọi người, cái Ta Biết tự nhìn nó xuyên qua tất cả những cái ngã trong các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc, thậm chí cả cơ thể vật lý.

Như vậy cái Ta Biết trải nghiệm chính nó và trải nghiệm thế gian xuyên qua tất cả những ngã đó, và nó không ngừng chuyển từ cái này sang cái khác. Khi một tình huống khởi lên, con người phản ứng ra sao? À, cái Ta Biết dời chuyển vào một số những cái ngã tiềm thức đó và nó hồi đáp lại tình huống xuyên qua đó. Khi tình huống thay đổi, cái Ta Biết chuyển sang những ngã khác và giờ đây nó phản ứng dựa theo những ngã này, và cứ như vậy. Cho nên khi con dấn thân vào đường tu tâm linh từ tầng 48 đến 96, con không chỉ làm giống như hầu hết mọi người là phản ứng bằng cách chuyển vào đủ loại ngã theo chiều ngang, nhưng con bắt đầu vươn lên theo chiều dọc, con bước lên chiếc cầu thang vòng xoắn ốc bằng cách tạo dựng những cái ngã ngày càng cao hơn. Cho nên con dời chuyển theo hướng đi lên, nhưng con vẫn dời chuyển.

Con có thể nói là cái Ta Biết luôn luôn là nhận biết thuần khiết. Nhưng liệu nó có thường xuyên nhận biết chính nó là nhận biết thuần khiết hay không? Cái Ta Biết không được tạo ra như một cái ta vĩnh hằng, một cái ta không thay đổi, bất di bất dịch. Cái Ta Biết được tạo ra để là một cái ta liên tục thay đổi.

Vậy thì khi con lên cao hơn tầng tâm thức 96, cái Ta Biết bắt đầu ngộ ra: “Tôi KHÔNG phải là những ngã vỏ ngoài kia, tôi là nhiều hơn những ngã vỏ ngoài.” Đây là điều tâm thức Ki-tô chỉ ra cho con thấy. Và đó là khi con bắt đầu nắm bắt được vấn đề không phải là tinh lọc cái ngã tâm linh con đã xây dựng, mà là tháo gỡ nó, thoát ra khỏi sự đồng hóa với nó, để cho các ngã riêng biệt đó chết đi từng cái một, cho đến khi con có thể lại đứng đây như sự nhận biết thuần khiết đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ.

9.8. Không có chia cách giữa con và Hiện diện TA LÀ của con

Vậy bài thuyết giảng dài dòng này dẫn đến đâu, nó liên quan thế nào với chủ đề kết nối? À, nó liên quan đến sự kiện cái Ta Biết không thể kết nối với các chân sư thăng thiên hay với Hiện diện TA LÀ – bởi vì cái Ta Biết không hề chia cách khỏi các chân sư thăng thiên và Hiện diện TA LÀ. Thoạt tiên điều này có thể khó nắm bắt. Cho nên tạm thời, chúng ta sẽ nói là khi cái Ta Biết chú tâm vào cõi vật lý, hay ít ra vào bầu cõi chưa thăng thiên, nó vẫn ở một độ rung động nào đó và các chân sư thăng thiên thì ở một độ rung cao hơn, cho nên con sẽ thấy sự cần thiết phải nối kết với các thày. Nhưng liên quan đến Hiện diện TA LÀ, con cần nhìn nhận ở đây là đúng vậy, Hiện diện TA LÀ của con ngụ ở cõi tâm linh, còn con thì tập trung vào bầu cõi chưa thăng thiên. Dẫu vậy, con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, giống như một ngọn sóng là sự nối dài của đại dương. Con không thể thực sự chia cách, con không bao giờ có thể chia cách khỏi Hiện diện TA LÀ của con.

Và như vậy, đây là điểm khi cái Ta Biết cần khởi sự xoay chuyển, nghĩa là thay vì nhìn thấy một khoảng cách và nhu cầu nối kết xuyên qua khoảng cách đó, con khắc phục ảo tưởng khoảng cách. Có thể con sẽ hỏi: “Còn sự khác biệt trong độ rung thì sao?” Nhưng liệu sự khác biệt trong độ rung có hàm ý một khoảng cách hay không? Đối với các ngã tách biệt thì quả là có một khoảng cách – vì chúng không thể kinh nghiệm cái một, chúng đã không được sinh tạo trên nền tảng cái một. Còn cái Ta Biết vỏn vẹn là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ, và chỉ có một chuyện nó cần ngộ ra: “Tôi không hề chia cách khỏi đại dương, tôi là một phần của đại dương.”

Bây giờ con hãy tưởng tượng một ngọn sóng. Có một đại dương mênh mông, có nhiều ngọn sóng, nhiều ngọn sóng rất cao. Và ở đây có một ngọn sóng nhận biết được chính nó. Và từ trên đỉnh của chính nó, nó nhìn quanh. Nó thấy tất cả những ngọn sóng kia, những cái đỉnh của tất cả những ngọn sóng kia, và nó chỉ chú tâm vào những cái đỉnh này. Nó cố liên tục chú tâm vào đỉnh sóng để nó luôn luôn nhìn thấy đỉnh của nó lẫn đỉnh của các con sóng khác, cho nên nó thấy: “Tôi khác tất cả những sóng kia.”

9.9. Sự xoay chuyển ở trên tầng 96

Nhưng cái Ta Biết kinh nghiệm điều gì khi con vươn lên cao hơn tầng 96? Con bắt đầu nhận ra: “Tôi là một ngọn sóng, nhưng tôi là sóng trên đại dương, và đại dương thì chuyển động. Và như một con sóng, thay vì chỉ chú tâm vào bề nổi của đỉnh sóng, tôi cảm nhận được sự chuyển động sâu xa bên dưới, tôi có thể dự phần vào sự chuyển động sâu xa này.” Thế là bỗng chốc, ngọn sóng nhận biết được đại dương cùng sự chuyển động của đại dương. Và thay vì cố cưỡng lại động tác của đại dương, sóng bắt đầu xuôi chảy với nó. Đây là điều cái Ta Biết của con có khả năng ngộ được, là nó không cưỡng lại sự chuyển động của tánh linh, nó nhận ra Hiện diện TA LÀ chính là đại dương: “Tôi là một con sóng trên đại dương này, nhưng tôi có thể chuyển động cùng với đại dương, chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ.” Và hơn thế, con có thể nhận ra là các chân sư thăng thiên cũng chính là đại dương, và con có thể chuyển động cùng với các thày khi con chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ. Nói cho cùng, đây là cách con kết nối.

Thật ra con không kết nối mà con khắc phục cảm nhận khoảng cách. Và tất nhiên lúc đầu, có thể con sẽ chỉ khắc phục được khoảng cách trong một giây phút ngắn ngủi. Nhưng tất cả các con đều có thể có trải nghiệm này như các thày mô tả, là cái Ta Biết bước ra ngoài các ngã tách biệt và tự trải nghiệm nó như sự nhận biết thuần khiết, nó tự trải nghiệm như là một phần của đại dương, chuyển động với đại dương của Hiện diện TA LÀ, chuyển động với đại dương của các chân sư thăng thiên. Con chuyển động đồng nhịp với đại dương thay vì chống cự lại, thay vì cố làm điều mà chúng ta có thể gọi là “lướt sóng” – lại thêm một hình ảnh nữa! Con thử hình dung một người đứng trên chiếc ván, lướt một ngọn sóng, nhưng bây giờ con tưởng tượng người đó thốt lên: “Tôi đã chán chê chuyện lướt sóng rồi. Tôi cho phép mình chìm vào làn sóng, cảm nhận sự chuyển động của đại dương và xuôi chảy với chuyển động của đại dương.”

9.10. Giai đoạn phân liệt của đường tu tâm linh

Hiển nhiên, tự ngã của con sẽ la lớn: “Nhưng nếu bạn xuôi theo đại dương thì bạn sẽ là ai đây? Bạn sẽ không còn là tôi, bạn sẽ không là một cái tôi tách biệt. Tôi sẽ làm gì đây nếu bạn nhập làm một với đại dương, số phận của tôi sẽ ra sao?” Phải công nhận đây là giai đoạn khó khăn nhất trên đường tu tâm linh, qua đó con vẫn quen sống trong các ngã tách biệt, xem mình là một sinh thể tách biệt trong thế gian, nhưng giờ đây con lại bắt đầu cảm nhận được một sự chuyển động nào đó của đại dương của cái ta. Và làm thế nào con sẽ hoà giải cái hố khác biệt đó giữa việc con ở trong một cơ thể vật lý – có thể là con có gia đình, có việc làm, có sự nghiệp, có nhiều trách nhiệm trong thế gian – và đồng thời bên dưới những thứ này, con bắt đầu cảm thấy cử động của đại dương?

Các thày là chân sư thăng thiên hiểu hoàn toàn việc kinh qua giai đoạn này khó khăn đến chừng nào trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Đây gần như là một chuyện tâm thần phân liệt (schizophrenia) vì bản sắc của con bị lôi kéo về những hướng khác nhau. Và con yêu dấu – xin con thật chú ý ở đây – đó là tại sao các thày giảng dạy một con đường tu, một con đường tuần tự, qua đó con tuần tự lột bỏ các ngã tách biệt hầu con không bị sốc, là cú sốc mà một số người đã trải qua khi bỗng nhiên họ cảm thấy điều họ gọi là “cái chết của tự ngã”, hay một trạng thái “vô ngã”,  tức là họ đột nhiên cảm thấy như thể mình không còn ý niệm bản sắc nữa, mình không biết mình là ai nữa và mình trải qua một cơn khủng hoảng bản sắc. Đây không phải là điều các thày giảng dạy trong tư cách chân sư thăng thiên. Các thày giảng dạy một con đường tuần tự.

Có những người phóng chiếu ra là khi con đạt đến tầng 96 thì con giác ngộ – con đã kinh qua một cuộc thức tỉnh tâm linh, con đã giác ngộ tâm linh, và bây giờ con chứng được một trình độ tối thượng nào đó. Nhưng đây chính là điều thường phóng chiếu họ vào cuộc khủng hoảng bản sắc đó, vì làm sao họ sẽ hòa giải được cái hố khác biệt kia? Tất nhiên là họ vẫn còn ngã tách biệt, cho nên rất có thể họ sẽ ngừng lại ở tầng 96, có nghĩa là họ sẽ bắt đầu tuột xuống trở lại, sau một thời gian.

9.11. Kỳ vọng một sự đột phá ấn tượng

Cho nên lý do các thày đã nói với con ở trên tầng 96 còn nhiều bước nữa chính là để con có thể tiếp tục bước chân trên một con đường tuần tự sẽ không đẩy con lao xuống một cuộc khủng hoảng bản sắc, không biết mình là ai nữa và tại sao mình ở đây. Và như vậy, hầu hết các con đã khởi sự bước đi trên con đường này. Điều quan trọng, cực kỳ quan trọng, là con xoay chuyển trong tâm và chấp nhận đây là một đường tu tuần tự, đây phải là một đường tu tuần tự. Có một xu hướng – có lẽ thịnh hành ở phương Tây hơn là ở phương Đông, nhưng vẫn có mặt tại phương Đông – là khi đệ tử tâm linh tìm thấy con đường tâm linh thì họ bước vào tư duy mong muốn một cuộc thay đổi ấn tượng, một sự đột phá ấn tượng, một thành quả ấn tượng qua đó họ đột nhiên thay đổi và giờ đây họ đạt tới một trạng thái cao siêu. Dù họ gọi đó là thức tỉnh hay giác ngộ hay cái chết của tự ngã – hay bất kỳ tên gọi nào hợp thời ở ngoài kia – thì đó cũng là một kỳ vọng, hay một tư duy có khả năng ngăn chặn hoàn toàn sự kết nối đích thực với các chân sư thăng thiên.    

Nhiều người đã dùng tham vọng này để nối kết với những sinh thể ở cõi lý trí hay cả ở cõi bản sắc thấp, và họ nghĩ các sinh thể này phần nào tâm linh. Nhưng đây là một ngõ cụt, một con đường không lối thoát. Một số người khác đã đuổi theo một sự đột phá, mong mỏi rằng nó sẽ xảy đến, và nếu nó không xảy đến với đạo sư này thì họ sẽ tìm kiếm một đạo sư khác. Nếu nó không xảy đến với giáo lý này thì họ tìm kiếm một giáo lý khác. Bởi vì họ đinh ninh rằng một ngày nào đó họ sẽ tìm thấy cái sáng ngộ tuyệt đỉnh kia. Một ngày nào đó họ sẽ gặp được vị đạo sư kia sẽ gõ lên con mắt thứ ba của họ và họ sẽ giác ngộ. Một ngày nào đó họ sẽ đọc được một câu gì đó trong sách và mọi chuyện sẽ vỡ ra, thế là họ giác ngộ.

9.12. Con đường tuần tự ở trên tầng 96

Nhưng đó không phải là con đường các thày giảng dạy. Các thày dạy một con đường tuần tự có nhiều bước giữa các tầng tâm thức 96 và 144, và con bước đi từng bước một để không bao giờ bị lạc lối. Con không bao giờ đánh mất cảm nhận tại sao mình ở đây trong thế gian. Con không bao giờ đánh mất khả năng chu toàn các trách nhiệm của mình. Nhưng mặt khác, con không bao giờ đánh mất hướng đi của mình là đạt tới điểm mình không còn những cái ngã kia phản ứng lại thế gian. Và đó là lúc con trở thành một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ cùng các chân sư thăng thiên hành động xuyên qua con, trong khi con vẫn không đánh mất cảm nhận mình là ai và mình đang đứng ở đâu trên đường tu. Đây là tại sao con có khả năng tuần tự xoay chuyển ý niệm bản sắc của con.

Vậy thày đang nói gì chứ? Thày đang nói là nhiều người mang kỳ vọng là họ có thể đi từ một cảm giác ít nối kết với chân sư thăng thiên rồi đột ngột có được một sự nối kết trọn vẹn. Nhiều người mong mỏi sự đột phá này. Một số còn phóng chiếu ra là sứ giả này có sự nối kết hoàn toàn rộng mở với các thày. Nhưng đây là một kỳ vọng thiếu thực tế. Tiến trình xảy ra tuần tự. Đúng là sứ giả này có sự nối kết với các thày, nhưng phần lớn thời gian ông lo làm một công việc gì đó và ông chú tâm vào công việc này. Thật ông không cần nối kết nhiều lắm với các chân sư để rà đọc lại một bài truyền giảng, là công vịêc ông bỏ ra nhiều thì giờ thực hiện. Ông không cần nối kết nhiều lắm với các chân sư để đi chợ, hay đổ rác, hay dọn dẹp nhà cửa, hay bất kỳ hoạt động nào ông làm trong đời sống thường nhật.

Cho nên việc nối kết với các chân sư thăng thiên không phải là một trải nghiệm thần sầu quỷ khốc nào đó. Phần lớn thời gian khi con làm lụng công việc hàng ngày, con không cần nối kết với các thày, ít ra là con không nhận biết một cách ý thức. Cái Ta Biết chỉ chú tâm vào hoạt động vỏ ngoài, thậm chí chú tâm xuyên qua những cái ngã kia mà con còn sót lại, tùy theo con ở mức nào trên đường tu. Và điều này hoàn toàn tự nhiên thôi, thật trong đó chẳng có gì phản tâm linh. Nhiều người tâm linh có một cái nhìn hoàn toàn thiếu thực tế về thế nào là giác ngộ hay thức tỉnh hay thế nào là một trình độ tâm thức cao.

9.13. Hãy tìm đúng một khái niệm hấp dẫn con

Thày cũng biết thày đã cho con quá nhiều điều để suy ngẫm. Nhưng thày mong con nhận ra là khi các thày trao một bài truyền đọc, các thày không chỉ nhắm vào một người mà nguyên một loạt người khác nhau. Cho nên các thày phải trao một số lời dạy cho những người ở các tầng tâm thức thấp hơn, một số cho các tầng cao hơn, và một số cho những người ở giữa. Đó là tại sao các thày thường đưa ra nhiều khái niệm có vẻ choáng ngợp. Nhưng con không cần tập trung vào tất cả mọi thứ. Con chỉ cần tìm ra đúng một khái niệm nào đó hấp dẫn đối với con, đánh động con ở mức tâm thức hiện thời của con. Xong con chú tâm vào đó, con học tập, con thể nhập, con suy nghiệm, con yêu cầu các thày giúp con nắm bắt và con thực sự thể nhập, và điều này sẽ giúp con bước lên bước kế tiếp. Và rồi có thể lại có một khái niệm khác con có thể tập trung vào. Cho nên con không cần cảm thấy choáng ngợp khi con gặp một bài truyền giảng chứa đựng quá nhiều ý tưởng khiến con nghĩ con bị quá tải. Con chỉ cần tìm đúng một ý tưởng thu hút con và con chú tâm vào đó. Con không quan tâm đến phần còn lại, vì con luôn luôn có thể trở lại sau đó, đọc lại bài truyền đọc, nghe lại bài truyền đọc và tìm ra cái ý tưởng kế tiếp mà con sẵn sàng tiếp nhận.

Vậy để tóm lược bài giảng này, tới một điểm con sẽ thấy lợi ích xem xét điều này: “Đâu là bản sắc tôi có khi lớn lên? Bản sắc này là gì trong nền văn hóa của tôi cho dù ở Hàn quốc hay một nơi nào khác? Người ta tự nhận diện như thế nào, và làm người có nghĩa là gì trong môi trường đó?” Xong con bắt đầu chất vấn bản sắc đó. Con dùng giáo lý tâm linh để hỏi: “Đây có thực là cách duy nhất để làm người hay chăng?” Và con có thể bắt liên lạc với những người đã lớn lên trong một nền văn hóa khác, nhìn ra là con có thể là một loại người khác so với những gì con đã được dạy dỗ, và lần hồi con bắt đầu chất vấn sự thể này. Xong từ từ con nỗ lực phơi bày ý niệm bản sắc chung của mọi con người và con tuần tự chất vấn cái đó. “Liệu tôi có thực sự xa cách tánh linh, tôi có thực sự tách biệt? Có cần thiết tôi phải xem mình là một sinh thể tách biệt, hay tôi có thể tuần tự chuyển đổi bản sắc của tôi?”

Sau đó khi con sử dụng giáo lý và thực hành đọc chú đọc thỉnh, con dần dần chuyển đổi bản sắc của con. Nhiều người trong các con sẽ nhận ra là mình đã đi trên đường tu được nhiều năm và phần lớn thời gian này có vẻ như con không tiến nhiều lắm. Nhưng thỉnh thoảng, có thể đột nhiên con có dịp nhìn ngược lại mình từng ở mức nào mười năm về trước, hay chỉ một năm về trước, và con bỗng nhận ra là con đã có tiến bộ. Bây giờ con không nhìn cuộc đời giống như trước nữa, con không phản ứng lại các tình huống theo cùng một cách nữa. Và đó là lúc con có thể nhận ra là mặc dù đây là một con đường tuần tự, vẫn có vẻ như con đường này đã đưa con lên cao hơn trước rất nhiều. Và đó cũng là lúc con có thể từ bỏ giấc mơ muốn nếm một cuộc xoay chuyển ấn tượng, một sự đột phá ấn tượng nơi con bỗng chốc giác ngộ.

9.14. Ảo tưởng về sự đốn ngộ tối hậu

Các thày biết là trên thế giới có những người tuyên bố là họ đã trải qua một sự giác ngộ tự phát đột ngột. Nhưng đây không phải là đường tu các thày giảng dạy và thày đã giải thích tại sao. Đối với những ai có thể đã có một sự giác ngộ ấn tượng nào đó trong kiếp này, thì điều này chỉ có thể xảy ra vì trong những kiếp trước họ đã bước theo một con đường tuần tự. Có thể họ không ý thức, thậm chí họ còn có thể phủ nhận. Họ có thể phủ nhận là một người có thể bước theo một con đường tuần tự dẫn đến giác ngộ. Như một số đạo sư tâm linh quả quyết, giác ngộ luôn luôn phải tự phát vì con không thể ép buộc nó xảy ra. Đấy, con yêu dấu, con không thể ép buộc nó xảy ra. Nhưng thày đã giảng điều gì trong bài này? Con không thể nối kết hay thức tỉnh xuyên qua những ngã tách biệt phản ứng lại thế gian, nhưng con có thể tuần tự buông bỏ chúng. Và con buông bỏ càng nhiều ngã tách biệt thì cái Ta Biết sẽ càng dễ ngộ ra nó là ai. Nói cho cùng thì đó chính là giác ngộ. Có gì khác nữa đâu?

Nhưng đối với một số người, trải nghiệm ấn tượng là một điều có thể xảy ra, qua đó họ cảm thấy như thể ý niệm bản sắc của họ tan biến mất và họ nghĩ họ đã giác ngộ, nhưng họ có thể vẫn chỉ ở tầng tâm thức 96 thôi. Và như vậy còn sót lại bao nhiêu ngã tách biệt nữa trước khi họ đạt đến tầng 144? Và nếu giờ đây họ tuyên bố là mình đã giác ngộ, nếu họ bước ra ngoài và bắt đầu giảng dạy, rồi họ thu hút đông đảo những người đi theo trầm trồ: “Ồ đúng vậy, vị này đã giác ngộ,” thì liệu họ sẽ bao giờ xem xét những cái ngã còn lại hay không, hay họ sẽ bác bỏ là mình vẫn còn những điểm cần giải quyết? Và nếu họ bác bỏ thì làm thế nào họ sẽ giải quyết được đây? Làm thế nào họ đạt đến mức sẵn sàng thăng thiên?

Trên thế giới ngày nay có những đạo sư tâm linh với rất nhiều người đi theo, và ai ai cũng nghĩ là họ đã giác ngộ. Nhưng họ còn khá xa tầng 144. Và nếu họ không lần hồi tiến lên gần hơn – do họ nghĩ họ không còn gì cần giải quyết trong tâm lý nữa – thì họ sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên sau kiếp này. Tình trạng này đã xảy ra cho nhiều đạo sư suốt các thời đại, đặc biệt trong truyền thống Ấn Độ nơi nhiều vị đã thiết lập đạo tràng. Họ thu nhận nhiều tín đồ và ai nấy đều phóng chiếu là vị đạo sư này đã chứng đạt trạng thái tối hậu. Nhưng các thày đang cố giúp con nhìn ra điều gì? Rằng chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì không có trạng thái tâm thức tối hậu. Cho nên nghĩ rằng mình đã chứng đạt một trạng thái tối hậu nào đó là một ảo tưởng, một ảo tưởng thật nguy hiểm. Bởi vì nếu con không chịu nhìn vào bản thân con thì làm thế nào con sẽ buông bỏ và khắc phục được những cái ngã còn sót lại đang ngăn chặn con thăng thiên? Đây là một cạm bẫy mà các thày mong con là đệ tử trực tiếp sẽ không rơi vào.

Và với lời này, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong lượt này. Thày cảm ơn con đã chú ý. Thày cảm ơn các con đã tổ chức và tham dự khóa nhập thất này, đại hội này. Bởi vì tất nhiên, đại hội này đã cho phép các thày sử dụng luân xa các con để truyền rải vào tâm thức tập thể những xung lực thật mãnh liệt. Có nghĩa là không chỉ các con được hưởng lợi mà hàng triệu người khác cũng được lợi lạc khi xung lực tỏa rộng vào tâm thức tập thể giống như những vòng tròn trên mặt nước. Và do đó nhiều người sẽ đột nhiên nhìn ra một điều gì đó mà trong một thời gian dài họ đã khó lòng nhìn thấy. Họ sẽ nhìn ra mục đích thực của con đường tâm linh. Và họ sẽ tìm ra con đường tâm linh dưới hình thức này hay hình thức khác hấp dẫn nhất đối với họ, và con đường này sẽ đưa họ lên cao hơn.   

Đây là một công việc đáng kể mà các con đã và đang làm khi các con đến với nhau trong đại hội này. Và con hãy nhận sự biết ơn của các thày. Bây giờ thày sẽ đơn giản niêm con trong Ngọn lửa của Chỉ đạo Thiêng liêng mà TA LÀ trên trái đất.

15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

17| Hãy mở tâm để trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư thăng thiên Paul người Venice. Con có thể nghĩ rằng kết nối với các thày tâm linh là một việc khó khăn. Đối với nhiều người quả thật đấy là một điều khó làm, do đó các thày là các Thượng sư đã quyết định là nhiều người sẽ thấy dễ kết nối hơn với vị thày tâm linh qua một trong bảy tia và đặc tính Thiêng liêng của các tia.

Lẽ tự nhiên, Giê-su biết rõ là bài giảng của thày nhắm vào những người ở một tầng tâm thức nào đó, vì đa số không thể chuyển đổi và chấp nhận Ki-tô bên trong họ. Nhiều người sẽ thấy dễ hơn nếu họ tập trung vào một trong bảy tia và các đặc tính của tia này. Do đó, khi họ suy ngẫm, hòa điệu vào đặc tính của tia, đọc các bài chú và thỉnh của tia đó, có thể dùng cuốn sách của tia trong bộ Khóa học Tự điều ngự, thì họ sẽ dễ hòa điệu hơn, trước tiên là với đặc tính của tia và từ đó nhận ra là những đặc tính này được thể hiện và đại diện bởi một vị thày đặc thù, một vị chân sư đặc thù, là một trong các vị Thượng sư.

Nhằm mục đích này, các thày đã quyết định trao truyền một số bài giảng, lẽ tất nhiên không có mục đích thay thế các bài trong Khóa học Tự điều ngự hay các bài khác mà các thày đã giảng về một số tia đặc trưng. Các bài này được thảo ra đặc biệt để giúp các con hòa điệu với một tia sáng và đặc tính của nó. Lẽ dĩ nhiên, thày là chân sư đại diện cho đặc tính của Tia thứ Ba, thường được gọi và được xem là đặc tính của tình thương.

17.1. Tình thương Thiêng liêng khác tình thương nhân gian

Như thày Giê-su đã nói, nhìn theo một khía cạnh nào đó, thày Giê-su là vị chân sư dễ kết nối nhất, nhưng nhìn theo một khía cạnh khác, thày Giê-su là vị chân sư khó kết nối nhất vì những hình ảnh được phóng chiếu bởi Cơ đốc giáo. Giống như vậy, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính của Thượng đế dễ kết nối nhất vì có ai trên trái đất mà không có ít nhất khái niệm về tình thương? Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính khó kết nối nhất vì hầu hết con người có thể có khái niệm về tình thương, nhưng đó không phải là tình thương Thiêng liêng. Họ có khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng.

Lẽ tất nhiên, nếu con bị bao trùm trong hình ảnh của tình thương dựa trên tình thương nhân gian, thì làm sao con hòa điệu và kết nối được với tình thương Thiêng liêng? Điều này không thể làm được. Một lần nữa, nếu quả thực con muốn hòa điệu với tình thương, trước hết con phải xem xét con đã bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, mà thậm chí ta có thể gọi là phản-tình thương, khi con lớn lên trong kiếp này hay có thể ngay cả từ những kiếp trước.

Nhiều người có hình ảnh về tình thương mà đáng lẽ phải gọi là làm chủ hay sở hữu thay vì là thương yêu. Họ nghĩ rằng thương yêu một người là một bổn phận cho nên khi con nói con thương ai đó, thì người kia phải có bổn phận với con. Nếu con có một quan hệ thương yêu với một người, cho dù đó là người phối ngẫu, hay cha mẹ hay con cái, thì con có bổn phận với người đó.

Con thấy là biết bao nhiêu người ở trong một quan hệ được gọi là thương yêu nhưng thực sự họ bị giam trong một loại trò chơi quyền lực trong đó cả hai bên tìm cách làm cho bên kia cảm thấy có bổn phận với mình. Chính họ cũng cảm thấy mình có bổn phận, cho nên họ tìm cách khiến người kia cảm thấy có bổn phận cho mình điều gì đó hay làm điều gì đó đáp ứng nhu cầu của mình. Tình thương này, lẽ tất nhiên, không phải là tình thương Thiêng liêng, vì tình thương Thiêng liêng không tìm cách làm chủ, không tìm cách sở hữu.

Tại sao con cần làm chủ một cái gì nếu con không cảm thấy thiếu thốn? Mọi mong muốn làm chủ phát xuất từ ảo tưởng thiếu thốn, và lẽ tất nhiên tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn. Do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới cái được sáng tạo và đi vào cái được sáng tạo. Thày là đại diện cho tình thương Thiêng liêng nên làm sao thày có thể cảm thấy thiếu thốn? Thày cảm nhận dòng chảy liên tục của tình thương xuyên qua thày, biểu lộ tới mọi người và thày trải nghiệm dòng chảy này vô tận. Nó không bao giờ cạn kiệt.

Dù thày có cho con người trên trái đất bao nhiêu tình thương chăng nữa, thày vẫn không bao giờ cạn kiệt vì thày càng cho nhiều hơn thì thày càng nhận thêm nhiều hơn. Đó là tình thương. Lẽ tất nhiên, khi thày cho tình thương thì thày cho một cách tự do. Thày cho trong trạng thái tâm trung hòa mà các thày đã đề cập, thày không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương, thày không chờ đợi mọi người phải đáp ứng thế nào, họ phải làm gì hay không được làm gì với tình thương đó. Thày không có những ý muốn đó cho nên khi thày nhận được tình thương từ cao trong tự do, thày cũng cho tình thương trong tự do cho tất cả mọi người ở dưới. Thày không tạo ra trong tâm cấu trúc muốn làm chủ, muốn sở hữu, muốn kiểm soát cách người nhận làm gì với món quà của thày. Thày không thực sự cho một món quà, thày chỉ cho phép tình thương chảy xuyên qua thày.

17.2. Con có mở tâm đón nhận tình thương chăng?

Con có thể quán sát điều này. Con có thể quán sát xem con muốn tình thương nhân gian hay tình thương Thiêng liêng. Nếu con muốn tình thương Thiêng liêng thì việc đầu tiên con cần nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả ai muốn nhận nó. Đối với riêng cá nhân con, vấn đề không phải là tình thương Thiêng liêng có được trao cho con không? Câu hỏi duy nhất là con có nhận nó hay không nhận nó? Tình thương Thiêng liêng luôn được trao tặng – đây là một sự thật nhất định. Nhưng nhận tình thương không là một điều nhất định vì hầu hết, ngay cả những người tâm linh, từ chối tình thương vì nhiều lý do.

Việc đầu tiên luôn luôn là nhìn vào các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Một trong những ngã tiềm thức thông thường nhất là ngã nói rằng con không xứng đáng được thương yêu, con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng. Có những ngã khác phóng chiếu rằng: “Ồ, tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt.” Vì nó rất đặc biệt, nên tôi cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu. Nó chẳng đặc biệt mà cũng chẳng không đặc biệt. Không thể gán nhãn hiệu cho nó.

17.3. Tình thương vượt lên trên điều kiện

Một từ mà các thày thường dùng với tình thương Thiêng liêng là “vô điều kiện”. Đây chỉ là một từ khác mà tâm có thể bóp méo và phân tích và nói: Điều này nghĩa là gì? Các sa nhân sẽ luôn luôn phản đối: “Không có cái gọi là tình thương vô điều kiện, ngay cả tình thương của Thượng đế cũng có điều kiện, vì chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức trên hành tinh này và các bầu cõi trước để tạo ra Thượng đế giả, vị Thượng đế giận dữ có điều kiện ở trên trời? Chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để phóng chiếu đấy là vị Thượng đế duy nhất, vị Thượng đế thật duy nhất?” Đây là điều sa nhân sẽ luôn luôn khẳng định và do đó họ sẽ khẳng định là Thượng đế giận dữ có điều kiện ấy, tình thương của ông chỉ có thể có điều kiện và chỉ những ai hội đủ một số điều kiện nào đó (do sa nhân quy định) mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế.

Tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay có thể được quy định bởi các sa nhân trong tư duy nhị nguyên. Bởi chưng, bất kỳ điều gì, bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định, đều là một điều kiện tương đối trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng. Đây là bí ẩn, thách đố cho các con chiêm nghiệm: sự khác biệt giữa tình thương nhân gian có điều kiện và tình thương Thiêng liêng, vượt lên trên các điều kiện.

Vì ảnh hưởng của người khác, con đã quá quen với khái niệm cho rằng để nhận được tình thương từ người khác, thì con phải hội đủ một số điều kiện. Đa số các con đã nhận được hình ảnh này từ cha mẹ, tuy không nhất thiết là họ phóng chiếu một cách ý thức hình ảnh này lên con. Họ chỉ giản dị có hình ảnh về tình thương có điều kiện này từ cha mẹ họ phóng chiếu và họ làm được gì khác ngoài việc truyền lại hình ảnh đó cho con? Họ không biết là có một cách thương yêu khác.

17.4. Thượng đế có điều kiện của tôn giáo có tổ chức

Con tìm được một tình thương khác với tình thương có điều kiện ở đâu trên thế giới? Chắc chắn con không tìm thấy nó nơi các tôn giáo coi mình phát xuất từ Abraham hay đa số các tôn giáo khác. Tôn giáo là gì? Tất cả những tôn giáo lớn, có tổ chức, được chính thức hóa, hệ thống hóa đều là dụng cụ của sa nhân để kiểm soát dân chúng. Làm sao một tôn giáo như thế có thể dạy về tình thương vô điều kiện hay cho tình thương này cho con người?

Con chỉ có thể có một tổ chức lớn có quyền lực trên con người nếu những người này nghĩ rằng giới lãnh đạo tổ chức rất đặc biệt và ở tầng mức cao hơn họ. Do đó, mọi người phải tuân theo một số điều kiện thì mới được các nhà lãnh đạo chấp nhận. Hình ảnh này được phóng chiếu tiếp tục lên tới vị Thượng đế giận dữ ở trên trời cho nên nhiều người ngày nay tin rằng tình thương của Thượng đế có điều kiện. Điều này tất nhiên là sự ngạo mạn, sự kiêu căng tâm linh của sa nhân tin rằng họ có thể quy định một Thượng đế và phóng chiếu hình ảnh đó. Sau đó, thậm chí họ còn ngạo mạn tin rằng Thượng đế tuân theo hình ảnh của họ, hình ảnh khô chết, hình ảnh có điều kiện. Rất ít người chịu suy nghĩ về hình ảnh vị Thượng đế có điều kiện và suy ngẫm xem nó thật sự có lý không. Nếu Thượng đế vượt quá thế gian, nếu Thượng đế đã sinh tạo thế gian, thì tại sao Thượng đế phải tuân thủ một hình ảnh được tạo ra trong thế gian?

17.5. Thượng đế vượt lên trên các hình ảnh nhân gian

Một hình ảnh có hình tướng. Con sống trong thế giới hình tướng. Con người nhìn các hình tướng thấy được trên trái đất, họ nhìn thấy các hình tướng của chính tâm lý của họ, tâm lý nhị nguyên, tâm tách biệt và họ dùng những hình tướng này để tạo dựng những hình ảnh và sau đó phóng chiếu những hình ảnh này ra ngoài. Họ phóng chiếu hình ảnh lên Thượng đế, nhưng nếu Thượng đế vượt lên trên hình tướng thì làm sao Thượng đế lại có thể tuân theo hay bị gò bó trong bất kỳ hình ảnh nào được tạo ra trong thế giới hình tướng?

Nếu Thượng đế là nguồn gốc của hình tướng thì há chẳng hợp lý sao là Thượng đế vượt quá hình tướng? Chúng ta không hoàn toàn chính xác khi nói Thượng đế vô hình tướng vì đấng Sáng tạo có cá tính, nhưng chắc chắn cá tính này vượt lên trên mọi hình tướng tìm thấy trong thế giới hình tướng. Làm sao hợp lý được khi con người trên hành tinh này, một hành tinh rõ ràng là lạc hậu, lại có thể tạo ra một hình ảnh về Thượng đế và Thượng đế sẽ tuân theo hình ảnh này? Lẽ tự nhiên, sa nhân sẽ nói đây không phải là một hình ảnh về Thượng đế vì Thượng đế chính là như vậy. Một lần nữa, con hãy nhìn vào hầu hết các thượng đế do các tôn giáo trên thế gian miêu tả và sẽ thấy vị Thượng đế này có hình tướng, Thượng đế này có điều kiện và tình thương của Thượng đế đó có điều kiện.

Khoa học cho con biết là mọi sự đều được tạo ra từ năng lượng. Năng lượng đã khoác vào hình tướng của những vật mà con thấy trong thế giới vật chất, mà con thấy được bằng giác quan hay bằng tâm. Các vật này đều có một hình tướng khác biệt phân biệt vật này với vật kia, nhưng năng lượng đã tạo mọi hình tướng từ đâu đến? Nó đến từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Có lý chăng khi cho rằng năng lượng tạo hình tướng cũng có cùng hình tướng?

Chẳng phải có lý hơn là năng lượng vượt lên trên hình tướng? Nó hơn bất kỳ hình tướng nào mà con có thể thấy trong thế giới này. Do đó, một trong những năng lượng được dùng để tạo ra thế giới hình tướng là tình thương, tình thương Thiêng liêng, nhưng tình thương này vượt lên trên mọi hình tướng trong thế giới này. Ánh sáng trắng trong máy chiếu phim vượt lên trên những màu sắc trên màn ảnh. Ánh sáng này khoác vào màu sắc khi nó đi xuyên qua cuộn phim, nhưng ánh sáng trắng vượt lên trên những hình ảnh trên cuộn phim.

17.6. Con không nhận được tình thương qua ngã phản ứng

Nếu con muốn kết nối với tình thương Thiêng liêng, con phải bắt đầu bằng cách nhận ra là nó không tuân theo những điều kiện do con người quy định. Con phải sẵn sàng nhận chân rằng chuyện không thể tránh được là trong kiếp này và các kiếp trước, con đã tạo ra những ngã phản ứng lại những hình ảnh về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Một cái ngã không thể hiểu thấu khái niệm tình thương vô điều kiện. Nó không thể xử lý khái niệm này. Con không thể trải nghiệm tình thương Thiêng liêng xuyên qua một ngã như thế. Đó là lý do tại sao con cần phơi bày ngã, thấy ảo tưởng, buông bỏ nó. Lẽ tất nhiên đây là mục đích chính của giáo lý của các thày, đặc biệt là cuốn sách do thày trao truyền trong khóa học tự điều ngự. Con có thể tiến triển trong công việc này bằng cách làm một bài thiền tập có vẻ giản dị, thậm chí có vẻ thô sơ vì nó không cần lý luận trí năng phức tạp nào.

17.7. Bài thiền tập về Tình thương

Bài thiền tập mà thày đề nghị giản dị như sau. Con ngồi trong tư thế thoải mái trong một căn phòng yên tịnh, con khép mắt lại và con nhắc nhẹ nhàng trong tâm câu thần chú:

Tình thương là, Tình thương là.

Con sẽ nhận thấy là trong con có thể khởi lên một phản ứng với câu đó. Có một cái tâm, một cái ngã muốn nói: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích. Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.”

Nếu con chịu xem xét phản ứng này, thì nó có thể giúp con phơi bày một số những ngã tiềm thức đó. Vì lúc đó con có thể nói, à tâm của tôi nói tình thương phải là gì? Con hãy cho phép tâm con nói hết câu tình thương là và cho phép tâm con gán cho tình thương những đặc tính. Giờ đây con đã đưa tâm con vào tình trạng khó xử, vì khi tâm nói tình thương là thế này, thế nọ, thì con đã phơi bày một trong những ngã tiềm thức đang cầm giữ một hình ảnh do con người tạo ra về Thượng đế, về tình thương.

Lúc đó con có thể làm việc với ngã này cho tới khi con thấy nó và con có thể buông bỏ nó. Nếu tâm làm những gì nó được lập trình để làm, nếu nó nói hết câu, thì nó phơi bày ngã ra. Điều khôn ngoan nhất tâm có thể làm là lặng thinh nhưng tâm có thể lặng thinh chăng? Thường thì không đâu. Con thấy đây là một bài tập rất, rất giản dị, một bài thiền tập rất, rất giản dị, nhưng nó có thể vô cùng hữu hiệu. Nếu con muốn, con có thể dùng bài tập này để trải qua một giai đoạn trong đó con làm việc với những ngã đang cầm giữ những hình ảnh về tình thương có điều kiện, một điều kiện nào đó. Con có thể tới điểm mà con chỉ ngồi và lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Con không cần thêm phần cuối vào câu nói. Con không cần gán đặc tính lên tình thương. Con có thể cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Đây là lúc con có thể kết nối và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức. Con không thể hiểu nó, không thể nắm bắt nó với tâm. Khi con bắt đầu trải nghiệm nó, thì con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt nó, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài.

Tâm có thể khiến con chia trí và không tập trung vào tình thương Thiêng liêng nhưng nó không thể gạt tình thương Thiêng liêng ra ngoài vì các ngã tách biệt, các ngã tiềm thức chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt. Phin lọc nhận thức của con, như các thày đã gọi nó, chỉ có thể lọc ra những gì có đặc tính, chỉ có thể ngăn chận cái gì có đặc tính. Cái không có đặc tính mà tâm nhị nguyên có thể nắm bắt, cái đó sẽ đi xuyên qua rào cản của phin lọc nhận thức. Lúc ấy con có thể một lần nữa dùng bài thiền tập giản dị để vô hiệu hóa tâm đường thẳng muốn đặt tình thương vào một tiến trình đường thẳng, một thước đo đường thẳng với hai đối cực nhị nguyên, như tình thương chân thật. 

17.8. Chỉ có tình thương Thiêng liêng mới có thể khiến con mãn nguyện

Con hãy xem xét khái niệm đã thấm vào tâm thức tập thể: tình thương thật đối ngược với tình thương giả. Làm sao tình thương có thể thật hay giả? Tình thương có điều kiện có thể thật hay giả, nhưng tình thương Thiêng liêng làm sao có thể thật hay giả? Làm sao con có thể gán những khái niệm thật và giả lên một đặc tính thiêng liêng? Đây là điều mà tâm muốn làm, vì qua đó nó cảm thấy nó đang nắm quyền kiểm soát. Tâm cảm thấy vì nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác, có được điều nó muốn và vượt qua được cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Một khi con bước vào tách biệt, con sẽ cảm thấy thiếu thốn vì con không nhận được các đặc tính thiêng liêng là điều duy nhất có thể thực sự khiến con mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Ngã tách biệt không thể hiểu và nắm bắt điều này, nhưng cái Ta Biết lẽ dĩ nhiên hiểu được. Con có thể tới điểm con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Nếu con muốn tình thương, con có nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt. Không gì có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt, nhưng cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã đó và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được.

Con có nhận bao nhiêu tình thương nhân gian chăng nữa, nó vẫn không thể thỏa mãn con. Tình yêu nhân gian có thể khiến con xao lãng một thời gian ngắn khi con đang yêu ai đó, nhưng sớm muộn thì tuần trăng mật cũng chấm dứt. Cái Ta Biết có thể tới điểm nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

17.9. Bài thiền tập chấp nhận Tình thương

Một khi con đã làm xong bài thiền tập “Tình thương là,” thì thày đề nghị bước kế tiếp. Một lần nữa, con vào một phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và trong tâm con lặp lại câu thần chú, “Tôi chấp nhận tình thương.”

Một lần nữa, con có thể khám phá một phản ứng. Tâm có thể có nhiều phản ứng hay lý do vì sao con không thể giản dị chấp nhận tình thương. Một lần nữa, có thể có những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương, và lúc đó con có thể làm việc với các ngã này. Con có thể tới điểm có thể lặp lại câu thần chú này, “Tôi chấp nhận tình thương”, và tiếp tục lặp lại cho tới khi con trải nghiệm nó.

Tâm con vẫn sẽ tìm cách xen vào vì nó sẽ nói: “À, ông thày nói nghe có vẻ hay, ông nói về tình thương, ông nói về tình thương vô điều kiện, nhưng tình thương vô điều kiện như thế nào? Cảm giác khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện như thế nào? Nói cho tôi biết đi, bởi vì làm sao bạn có thể biết bạn đang nhận được tình thương vô điều kiện nếu bạn không thể mô tả nó, và ông ấy thì nói là tình thương này vượt quá các đặc tính, vượt quá hình tướng. Làm sao bạn có thể biết được bạn đã trải nghiệm nó?”

17.10. Tâm không thể nào trải nghiệm tình thương Thiêng liêng

Đây là điều tâm sẽ làm, đây là thủ thuật mà tâm dùng để khuynh loát con. Giải pháp cho điều có vẻ bí ẩn này rất ư giản dị. Con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Thày có thể bảo đảm với con là khi con trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Như các thày đã nói, tâm quan sát mọi vật từ một khoảng cách. Nó tạo ra một tâm ảnh và sau đó nó phóng chiếu rằng tâm ảnh chính là vật. Tâm muốn tạo ra một hình ảnh về trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nghĩa là gì, cảm thấy nó như thế nào.

Con hãy bảo tâm con mô tả cảm giác khi ăn một trái táo và con sẽ thấy là tâm bị kẹt. Con có cần ai mô tả cảm giác khi ăn một trái táo chăng? Hay con có thể giản dị vào cửa hàng thực phẩm mua một trái táo và cắn một miếng? Tại sao con cần mô tả khi con có trải nghiệm trực tiếp? Cũng thế thôi với tình thương Thiêng liêng. Tại sao con cần mô tả cảm giác như thế nào? Con hãy mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và thày có thể bảo đảm với con trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được. Con không hề nghi ngờ con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm. Tâm không thể trải nghiệm nó.

Các thày muốn ngụ ý gì khi nói về tâm, tâm đường thẳng, tâm phân tích? Nếu thày hỏi con, tâm con ở nơi nào trong thân thể con? Chắc hẳn hầu hết các con sẽ chỉ vào đầu, vào bộ óc và nói chính bộ óc là cái đang suy nghĩ. Tâm nằm trong bộ óc và đây là một hình ảnh tiện dụng.

Lẽ đương nhiên, con không thể hiểu nó theo nghĩa đen vì tâm nhiều hơn bộ não, nhiều hơn sinh hoạt của bộ não. Tâm đường thẳng, lý luận, phân tích quá ăn khớp với não bộ và các chức năng của não bộ nên, khi con xem xét thân vật lý và năng trường của con, thì nói rằng tâm nằm trong đầu, trong não bộ là chuyện hợp lý.

Con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng ở đâu? Không phải trong đầu mà nơi luân xa trái tim và nó không ở trong đầu. Tại sao con cần tâm đường thẳng suy nghĩ để trải nghiệm tình thương Thiêng liêng chứ? Con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm tình thương Thiêng liêng, giống như con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm hương vị trái táo. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì đứng đó và suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo?

Ấy, tâm sẽ phản đối: “Nhưng giả dụ tôi không thể đơn giản cắn nếm tình thương? Cắn một miếng táo thì dễ, nhưng làm thế nào để cắn một miếng tình thương Thiêng liêng? Trái táo thì có hình tướng tôi nắm bắt được. Thày nói tình thương Thiêng liêng không có hình tướng. Vậy thì làm sao tôi cắn một miếng được?” Lại thêm một lần nữa và một lần nữa, con thấy tâm làm điều duy nhất nó có thể làm, đó là nắm bắt một hình tướng: “Hãy cho tôi cái gì tôi có thể cầm giữ.”

17.11. Vô hiệu hóa tâm

Một lần nữa, cái Ta Biết có thể nhận biết tâm và cách vận hành của tâm, và có thể quyết định tìm cách vô hiệu hóa tâm, bước ra ngoài tâm và đây chính là công dụng của câu thần chú: “Tình thương là.” Ta có thể coi nó như một công án, và như mọi công án mục đích của nó là làm cho tâm bị rối loạn, mờ tối và vô hiệu hóa. Con không thể suy nghĩ để tìm ra lời giải cho một công án vì lời giải cho một công án là một trải nghiệm vượt quá tâm suy nghĩ.

Khi con đã dùng câu thần chú “Tình thương là,” và “Tôi chấp nhận tình thương,” thì một số người có thể lợi lạc nếu gán ghép tình thương Thiêng liêng với một hình tướng con người (nếu con không thể nắm bắt và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng như một đặc tính hoàn vũ). Lẽ tất nhiên, điều dễ nhất là con tập trung vào thày là Thượng sư của tia thứ ba.

17.12. Dùng bài chú như một thần chú

Con có thể đọc bài chú của thày, con có thể tìm hiểu sách của thày. Nếu con cảm thấy dễ kết nối hơn với một Đại thiên thần hay một Elohim thì con hãy làm thế, nhưng hầu hết mọi người sẽ cảm thấy dễ kết nối với vị Thượng sư hơn vì các thày gần người đang hiện thân trong cõi vật lý hơn. Các thày đang làm việc trực tiếp hơn với các con. Con cứ dùng bất cứ cách nào giúp con hòa điệu với thày. Một lần nữa, tâm sẽ nói: “Vâng, vậy hãy cho tôi một hình ảnh, cho tôi một chân dung. Chân dung của chân sư đó đâu?”

Con sẽ thấy là với các đợt truyền giáo trước có chân dung các chân sư và nhiều người dùng các chân dung này để hòa điệu với vị chân sư, ít nhất là hòa điệu phần nào. Dùng một tấm hình không nhất thiết là sai nhưng với các con trong đợt truyền giáo này, các con không cần hình ảnh vì đôi khi hình ảnh có thể ngăn chặn trải nghiệm vì con tập trung vào hình ảnh và do đó con cho tâm một cái gì đó để nắm giữ.

Thay vào đó, thày đề nghị con lấy bài chú của thày, con đọc hết bài chú và con tìm hai câu nào đặc biệt thu hút con và con dùng hai câu này như câu thần chú. Con chỉ lặp lại hai câu này trong tâm, con thiền quán về hai câu này, chiêm nghiệm chúng hay chỉ lặp lại mà không nghĩ về chúng. Khi con có ý tưởng khởi lên và con nhận biết mình đang suy nghĩ, thì con chỉ trở về với hai câu đó, bất kỳ hai câu nào mà cá nhân con đã chọn.

Thày sẽ không cho con một ví dụ vì thày không muốn bỏ bất cứ gì vào tâm con. Con đọc bài chú chậm rãi, quán chiếu nó và coi xem có hai câu nào nổi bật, rồi con dùng hai câu đó như câu thần chú để hòa điệu với thày. Thày là một vị chân sư dễ hòa điệu với vì tình thương ở khắp mọi nơi. Làm sao con tìm thấy được nơi nào không có tình thương? Thày đại diện tình thương Thiêng liêng trên địa cầu giống như Giê-su đại diện tâm Ki-tô.

Như Giê-su đã nói, con không thể tách biệt khỏi tâm Ki-tô vì làm sao con có thể tách biệt khỏi cái ở khắp nơi? Tình thương Thiêng liêng cũng vậy. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù. Đây là một hình ảnh khác mà con cần vượt qua vì các sa nhân đã phóng chiếu điều gì từ rất lâu nay? Trên trái đất có những nơi linh thiêng. Có một số nơi đặc biệt và ở đó con có thể có một ngôi đền, một ngôi đền tình thương Thiêng liêng và nếu con tới đó, con sẽ trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Đây lại là một ảo tưởng vì khi tình thương Thiêng liêng có khắp nơi, tại sao con cần tới một nơi đặc biệt? Người Cơ đốc giáo đã phóng chiếu vì Giê-su xuất hiện ở Israel, đấy phải là đất thánh, nhưng như Giê-su đã giải thích, đó là nơi con người bị mắc kẹt nhiều nhất trong tâm thức sa ngã. Con không thể quy định là một nơi nào đó trên trái đất có một sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao. Các dụng cụ này trông có vẻ giản dị nhưng chúng hiệu quả vô cùng, nếu con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm bằng cách khắc phục những ngã tách biệt luôn phóng chiếu ra ngoài

Tình thương bị tha hóa muốn kiểm soát. Tình thương Thiêng liêng không thể bị kiểm soát. Nếu con tìm cách kiểm soát nó bằng cách ép nó vào một hình tướng nào đó, nó sẽ lướt qua con, con sẽ không nhận thấy nó, con sẽ không trải nghiệm nó. Khi con có thể mở tâm ra đón nhận nó, nó sẽ tuôn chảy xuyên qua con. Không cần phải thắc mắc điều này vì đây là điều tình thương làm, đây là điều tình thương là: Một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất, để nhắc nhở thế giới vật chất, để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương và đây có thể là một câu thần chú khác mà con có thể sử dụng nếu con cảm thấy nó giúp ích con.

Trong tình thương lớn, trong lòng biết ơn lớn, thày niêm con trong Tia sáng Thứ ba của Tình thương Thiêng liêng mà THÀY LÀ cho địa cầu. TA LÀ Paul người Venice.

19 | Tự gia tốc vượt lên trên tiêu chuẩn nhị nguyên về sự tinh khiết

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Tia sáng thứ Tư có thể giúp gì cho các con để các con hòa điệu được với các thày? Sẽ không có nhiều người có thể hòa điệu được với Tia thứ Tư, nhưng lẽ tất nhiên luôn luôn có một số sẽ hiểu, sẽ nắm bắt, sẽ hòa điệu, sẽ cộng hưởng được với Tia thứ Tư.

Tia thứ Tư gần như nằm ở điểm kết nối giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng kế tiếp, do đó nó đòi hỏi các con phải bước lên cao hơn. Trước đây thày gọi nó là Tia của Gia tốc, dù rằng theo truyền thống nó được xem là Tia của Tinh khiết. Thật ra cả hai là một bởi vì con đạt được tinh khiết bằng cách nào? Chỉ bằng cách gia tốc sự rung động của cái có rung động thấp hơn, và lẽ dĩ nhiên một rung động thấp hơn là định nghĩa của bợn nhơ. Thật ra không có gì hoàn toàn ô trược theo nghĩa nhị nguyên, nhưng có rung động cao hơn và rung động thấp hơn, và những rung động thấp hơn một mức nào đó là cái mà chúng ta coi là bợn nhơ. Bởi vì dù sao chăng nữa thì tất cả đều là năng lượng, nên năng lượng thấp luôn luôn có tiềm năng gia tốc và trở nên tinh khiết, trở thành năng lượng cao chảy về phía trên. Năng lượng thấp chảy về phía dưới, năng lượng cao chảy về phía trên.

Sẽ có một số người có sự đồng cảm với Tia thứ Tư. Có thể họ thích cái gì tinh khiết, cái thường giản dị, không phức tạp, không bị quấy nhiễu bởi nhiều cách diễn giải hay nhiều khía cạnh khác nhau. Quả thật, khi con nhìn vào rung động, khi con có thể đọc sự rung động, thì diễn giải trí năng đâu còn chỗ đứng nữa? Ta có thể coi đây là một điều mà khoa học đã đem vào thế gian, rằng con có thể đo lường chính xác, được gọi là khách quan, và không cần bàn cãi gì nhiều nữa. Nhiệt độ hoặc là 20 độ hay 40 độ, nhưng con có con số chính xác và lẽ tất nhiên, rung động cũng vậy.

19.1. Dụng cụ để hòa điệu với Tia thứ Tư

Làm sao con hòa điệu với Tia thứ Tư? Lẽ tất nhiên con có thể làm bằng nhiều cách. Các bài chú và bài thỉnh trong quyển Những Khai ngộ thần bí về Ý định, sách của thày trong bộ Con đường dẫn tới Tự điều ngự, đều có thể giúp con hòa điệu, nhưng như các thày khác đã giải thích, các thày đã quyết định cho các con những dụng cụ trông có vẻ giản dị hơn.

Dụng cụ đầu tiên thày muốn trao cho con như sau: Con ngồi yên, khép mắt và rút sự chú ý vào bên trong. Có một trung tâm trong bản thể con. Con có thể thấy trung tâm đó ở bất kỳ đâu, không nhất thiết là luân xa gốc hay luân xa trái tim hay một luân xa đặc thù nào khác. Con rút sự chú ý vào trung tâm đó cho tới khi nó đi vào một điểm mà khoa học gọi là điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi. Con không hình dung điều gì sẽ xảy ra, con chỉ đơn giản cho phép nó xảy ra. Cái xảy ra giống như một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con. Đây là một bài hình dung và thiền tập rất giản dị. Con rút sự chú ý của con vào điểm dị biệt nơi trung tâm và sau đó cho phép ánh sáng nổ bùng ra ngoài.

Thày không khuyên con làm bài tập này suốt ba tiếng đồng hồ mỗi lần. Có thể con chỉ nên làm bài tập này ba lần khi con bắt đầu để không bị quá tải. Bài tập này có nhiều sức mạnh giúp con cảm nhận sự chiếu tỏa của Tia thứ Tư của Tinh khiết, là ánh sáng trắng đến độ nó trắng hơn bất cứ thứ gì con thấy trong bát cung vật lý. Nếu con có bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể, thì con có thể làm bài tập này và chú tâm vào nơi đau trong cơ thể và cho phép ánh sáng tỏa rạng ra. Con không ép ánh sáng hay đẩy ánh sáng ra, con chỉ đơn giản rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

19.2. Tâm đường thẳng muốn khiến mọi chuyện phức tạp

Một lần nữa, đây là một bài tập giản dị, nhưng sự giản dị thường là chìa khóa của thay đổi. Thay đổi, vượt thăng không phức tạp. Con không thể vượt thăng bằng cái tâm muốn khiến mọi chuyện thêm phức tạp vì như vậy nó cảm thấy cao trội hay tinh vi và cảm thấy nó đã tìm ra cách dùng sức mạnh để xông vào thiên đường. Đó là điều tâm muốn làm, không cứ là tự ngã nhưng tâm đường thẳng cũng vậy. Dù các thày nói về tâm đường thẳng, nhưng các thày không muốn tố cáo tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng có chỗ đứng của nó, có chức năng của nó. Nó có thể giúp con làm nhiều, nhiều chuyện trong thế giới vật chất.

Khoa học, như con được biết đến, phần lớn dựa trên tâm đường thẳng. Lẽ tất nhiên đó cũng là lý do vì sao khoa học ngày nay đã tạo ra những vấn đề có thể trở nên mối đe dọa lớn cho tương lai của hành tinh này, cho dù đó là chiến tranh nguyên tử hạch nhân, nạn ô nhiễm hay bất kỳ vấn đề nào khác. Tâm đường thẳng có một chức năng. Nó có một chỗ đứng, nhưng nếu cho phép nó cai quản thì nó phải tạo ra vấn đề. Nó sẽ gây vấn đề. Do đó tâm đường thẳng sẽ không dẫn con vào thiên đàng. Một khi con tìm ra con đường tâm linh và bắt đầu học một giáo lý tâm linh, thì tâm đường thẳng có thể bắt đầu tin rằng nó có thể đưa con lên thiên đàng vì tâm đường thẳng nhìn mọi chuyện theo một cách nào đó.

Có thể con đã có nghe câu ngạn ngữ tiếng Anh: nếu dụng cụ duy nhất mà con có là cái búa thì con sẽ nghĩ tất cả mọi vấn đề đều là cái đinh. Tâm đường thẳng chỉ có dụng cụ duy nhất là sự phân tích, lý luận. Cho nên nó nghĩ mọi vấn đề đều có thể giải quyết được bằng phân tích, lý luận, tìm hiểu vấn đề. Tâm đường thẳng nghĩ rằng một khi nó hiểu vấn đề, thì nó có thể giải quyết vấn đề bởi vì nếu con có hiểu biết đường thẳng thì con sẽ thấy một giải pháp đường thẳng. 

Lẽ tất nhiên, “vấn đề” tăng triển tâm linh không có giải pháp đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển tâm linh là một vấn đề. Nó nói: “Tôi đang ở đây. Đáng lẽ tôi không được ở đây. Đáng lẽ tôi phải ở trong một trạng thái tâm linh cao hơn. Thế nào cũng có một trình tự đường thẳng tới trạng thái đó, và nếu tôi hiểu ra cơ chế đưa tới trình tự đó thì lúc ấy tôi sẽ có thể vào thiên đàng.” Lẽ tất nhiên, các thày đã cho các con khái niệm về con đường tâm linh và 144 tầng tâm thức, đây là điều mà tâm đường thẳng rất thích. Các thày cũng đã nói rất nhiều lần là các con không tiến bộ được trên con đường tâm linh bằng cách hiểu. Điều quan trọng là xoay chuyển tâm thức và điều này không thể thực hiện bằng hiểu biết trí năng. Điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48. Họ đã đi vào tách biệt. Họ đã bị choáng ngợp và mù quáng bởi trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi đó có một thước đo với hai đối cực cực đoan. Khi con theo lối suy luận nhị nguyên này thì con nghĩ một đối cực là vấn đề, là điều kiện cần khắc phục, và đối cực kia là giải pháp, là điều kiện cần đạt tới. Tâm đường thẳng sẽ suy nghĩ: “Làm sao chúng ta có thể tiêu trừ vấn đề? Làm sao chúng ta có thể đem lại giải pháp?”

19.3. Tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó

Như Phật khi xưa tìm cách dạy con người khái niệm Trung đạo, giải pháp không phải là một trong hai đối cực nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, thăng vượt tầng mức tâm thức thấy có hai đối cực. Tâm đường thẳng không làm sự thăng vượt này vì chính nó đã quy định các đối cực, quy định thước đo và tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó. Nó có thể lý luận trên một số đề tài nhưng nó không thể thăng vượt chính nó. Cái Ta Biết có thể thăng vượt chính nó vì nó có tự nhận biết, trong khi tâm đường thẳng giống như một máy tính nhưng nó là một máy tính tinh vi có thông minh nhân tạo và do đó có thể thích ứng.

Tâm đường thẳng có thể học thêm và thêm nữa. Nó có thể thích nghi với một số điều kiện. Con gần như có thể coi tâm đường thẳng giống như một trong những rô-bốt mà con người đã chế tạo và có vẻ như có khả năng suy nghĩ như con người. Con có thể nói là con rô-bốt suy nghĩ giống cách hầu hết con người nghĩ vì họ nghĩ với tâm đường thẳng. Dẫu thế, một máy tính không thể vượt quá lập trình của nó, nó không thể vượt thăng lập trình của nó, và tâm đường thẳng cũng vậy. Cái Ta Biết có thể vượt thăng chính nó, vì nó không có lập trình khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết.

Điều gì giúp con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Như các thày đã nói, điều cốt yếu là tinh lọc các thứ trong bốn thể phàm của con đang lôi kéo sự chú ý của cái Ta Biết vào ngã tách biệt, vào phin lọc nhận thức, vào ý niệm bản ngã đó. Khi con đã trong lọc đúng mức, thì cái Ta Biết có thể rút ra khỏi ngã tách biệt dễ dàng hơn.

19.4. Bài tập để làm rối tâm đường thẳng

Thày cho con một bài tập khác có thể giúp con với chuyện này. Một lần nữa, con hãy ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, và bây giờ con tưởng tượng, con hình dung con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, một mặt phẳng hoàn toàn bằng phẳng, tuyệt đối bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Bây giờ con hãy rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con. Con không tỏa rạng ánh sáng mà để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài, con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng. Có thể là tập trung nơi hai mắt sẽ giúp con dễ hình dung nhất. Hai mắt con kéo về trung tâm và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Con cứ thong thả làm bài tập này. Con không cần làm nhanh. Lúc mới đầu, con có thể cảm thấy rất bị rối, mất phương hướng, thậm chí rất khó thực hiện, nhưng sau khi tập một lúc, con sẽ thấy là sự chuyển động đi vào bên trong đi ra bên ngoài khiến tâm đường thẳng bị rối và con có thể tới được điểm cảm thấy một sự yên tĩnh nào đó, một sự im lặng nào đó trong tâm. Lúc ấy, con thôi không chú tâm đi vào bên trong đi ra bên ngoài nữa. Con chỉ chú tâm vào sự yên tĩnh đó, con mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt. Con đơn giản để chú ý của con đi ra ngoài và tiếp tục ra ngoài, kéo giãn nó ra xa thật xa và xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại. Con có thể lặp lại nhiều lần. Hoặc con có thể đơn giản cho phép sự chú ý của con nghỉ ngơi khi con đã kéo nó ra xa tối đa, nếu con cảm thấy làm vậy tự nhiên hơn.

Một lần nữa, đây là một bài tập rất giản dị, hay ít nhất nó có vẻ giản dị. Tâm sẽ không thể nắm được mục tiêu của bài tập. Nó sẽ nói: “Mục đích là gì vậy? Bài tập này dẫn tới đâu? Bài tập này đem lại gì cho tôi?” Con thấy chăng, ý chính của bài tập là không có ý gì, bài tập không có mục đích, không có chỉ tiêu mà con phải đạt. Con chỉ trải qua tiến trình và cho phép nó trải bày. Khi thày nói không có mục đích gì, lẽ tất nhiên, thày muốn nói là không có mục đích mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt được.

Con sẽ thấy là ngoài thế gian có nhiều kỹ thuật thiền định luôn luôn hứa hẹn là con sẽ đạt được một thành quả nếu con tập theo đúng kỹ thuật. Thày sẽ không hứa hẹn thành quả, thày sẽ nói là nếu con cảm thấy bài tập thu hút con, thì con cứ tập. Nếu nó không thu hút con, thì con quên nó đi. Nếu con quyết định tập, thì con hãy dành chút thời giờ và xem chuyện gì xảy ra. Thay vì bắt đầu với một mục đích và tiến tới mục đích, con hãy coi mục đích của bài tập chỉ là thử nghiệm, tham gia tiến trình và xem nó trải bày ra sao. Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ phản đối: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Con thấy chăng, tâm đường thẳng không đi đâu cả. Đấy chính là ý nghĩa bài tập và cũng có thể nói là con cũng không đi đâu cả. Cũng có thể là con sẽ đi, khi an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa, khi con trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

19.5. Cốt lõi của con đường tâm linh ở các tầng cao

Có nhiều đệ tử, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, đã nghĩ rằng Tia thứ Tư rất nghiêm khắc, rằng thày là người rất trọng kỷ luật. Thật vậy không, tại sao họ lại nghĩ thế? Họ nghĩ thế vì họ chưa nhận được giáo lý về các ngã tách biệt, cho nên họ không thật sự hiểu cơ chế vận hành mà các thày đã trao truyền – rằng cốt lõi của tăng triển tâm linh là tới chỗ nhận ra các ngã tách biệt và buông bỏ chúng. Do đó, họ nghĩ họ phải ép mình vào kỷ luật, cố gắng kiểm soát tâm, áp chế tâm, đi theo một con đường tu được xác định rõ ràng. Họ nhìn con đường tâm linh khác với các con nhìn. Một lần nữa, các thày không chỉ trích, các thày không tìm lỗi, các thày chỉ giản dị cho thấy là với tiến trình tiết lộ tuần tự, các thày có thể trao truyền một hiểu biết càng ngày càng cao hơn về con đường tu.

Như các thày đã nói, từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con cần có kỷ luật, chú tâm để nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng. Khi con đã thoát đủ sức hút xuống của tâm thức đại chúng, thì con có thể lợi lạc hơn nếu con xét lại cách con nhìn con đường tu. Con hiểu là ở đây thày không bác bỏ những gì được dạy trong các đợt truyền giáo trước. Rõ ràng là con không thể tiến lên khỏi tâm thức đại chúng nếu con lười biếng, không tập trung hay thiếu miên mật. Con không thể tà tà trong việc tăng triển tâm linh vì tâm thức đại chúng sẽ liên tục kéo con xuống. Con cần có đủ chú tâm và quyết tâm để vun bồi một động lực kéo con lên khỏi trọng lực hút xuống của tâm thức đại chúng.

Một khi con đã làm được phần nào, thì con có thể áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền về cái Ta Biết và các ngã tách biệt. Con nhận ra là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức hay dồn nén các ngã tiềm thức. Việc dồn nén và ép tâm tiềm thức vào kỷ luật có thể là một việc thích đáng lúc ban đầu, vì nếu không nó sẽ lôi kéo con theo quá nhiều hướng. Nhưng một khi con vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng, thì con sẽ được lợi lạc nhiều nếu con xoay chuyển cách tu và nhận ra rằng cốt yếu của tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Con tới điểm thấy được một ngã tách biệt. Con thấy nó có tác dụng gì khi nó khiến con bị kẹt trong việc liên tục lặp lại không ngừng một khuôn nếp phản ứng. Con thấy ảo tưởng khiến con nghĩ con phải tiếp tục phản ứng như thế, đây là cách phản ứng duy nhất, thậm chí có thể đây là cách duy nhất để là một đệ tử tâm linh. Con thấy đây là một ảo tưởng. Con thấy ảo tưởng cho rằng có một vấn đề con phải giải quyết. Sau đó, con giản dị buông bỏ, con để cho ngã chết đi. Khi con để cho ngã chết đi, giả dụ ở tầng 96, thì con tức khắc lên tầng 97. Con không phải nỗ lực để lên tầng 97. Vì khi ngã đó chết, khi năng lượng được chuyển hóa, thì con sẽ lên tầng trên một cách tự nhiên. Do đó, sẽ có một điểm, và điểm này có thể xảy ra trước tầng 96, khi con xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh, khi con nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì.

19.6. Cái Ta Biết đến từ tâm thức Ki-tô

Điều quan trọng là buông bỏ và bắt đầu quán chiếu, như các thày đã nói, là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra. Tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn. Ở tầng 64, con gần cái một hơn khi con ở tầng 63. Cho nên khi con giải quyết một ngã ở tầng 63, thì cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Con hãy cẩn thận xem xét điều thày đang nói. Có lúc con cần dùng khả năng của tâm để kỷ luật chính nó. Đúng vậy, con lúc đó có dùng sức mạnh. Con dùng vũ lực để trấn áp những ngã tách biệt đang kéo con xuống, kéo con vào những thói quen cũ, những khuôn nếp phản ứng cũ. Con nói: “Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống thế gian này. Tôi muốn một cuộc sống tâm linh hơn.” Sau đó con triệt hạ những điều đang kéo con vào đời sống thế phàm và làm vậy có ích lợi trong một thời gian. Điều con đang làm là dùng tâm để trấn áp tâm, để ép tâm vào kỷ luật, áp chế tâm. Con có thể đạt đôi chút tiến bộ, nhưng con không thể đi xa hơn một mức nào đó. Con chắc chắn không thể đi quá tầng 96 bằng vũ lực.

“Con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng,” như Giê-su đã nói. Thày Giê-su cũng nói: “Kẻ hung bạo muốn cưỡng chiếm vương quốc thiên đàng bằng vũ lực, dùng vũ lực cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.” Điều này không thể làm được. Nếu con tới tầng 96 mà vẫn còn tìm cách dùng vũ lực thì con sẽ không đạt được sáng ngộ ở tầng này và do đó con sẽ bắt đầu đi xuống, đẩy mình đi xuống bằng vũ lực. Con có thể nghĩ con đang tiến triển vì con cảm thấy mình càng lúc càng giỏi hơn trong việc áp chế mình, nhưng con không đang vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Con chỉ đang bồi đắp cái ngã tâm linh mà con đã tạo ra từ tầng 48 tới tầng 96. Thậm chí con còn có thể rơi vào tâm thức sa ngã khi con nghĩ mục tiêu tối hậu là xây dựng một ngã tâm linh tinh vi nhất chưa ai làm được và sau đó chắc chắn Thượng đế phải cho phép con vào thiên đàng.

19.7. Gia tốc lên tinh khiết

Điều quan trọng con cần quán chiếu là con sẽ tới điểm con cần thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức không nhất thiết lúc nào cũng đường thẳng. Trong một số trường hợp, chúng chỉ hỗn loạn và thiếu tập trung, chuyển từ ngã này sang ngã kia. Đây là một sự xoay chuyển quan trọng khi con rời bỏ cách tiếp cận dựa trên vũ lực. Đây là lúc con có thể thực sự gia tốc, gia tốc vào tinh khiết.

Con ngẫm nghĩ lý luận rất giản dị này: Tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Làm sao con bước ra ngoài tinh khiết? Con ép mình rời tinh khiết.  Có lý chăng nếu con phải ép mình trở về tinh khiết? Không đâu, bởi vì một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Như thày đã nói, tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên. Đây là điều nhiều, nhiều người tâm linh khắp mọi nơi trải qua các thời đại không nắm bắt. Lẽ tất nhiên có một số người hiểu. Một số người nắm bắt được. Cũng đã có các giáo lý mô tả phương pháp không cố gắng, không dựa trên vũ lực. Tiếc thay, nhiều giáo lý trong số này không có khái niệm về các ngã tách biệt và khái niệm cái Ta Biết có thể đứng ra ngoài các ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Do đó, nhiều giáo lý trong số các giáo lý đó khó thực hành đối với một số người, đặc biệt là các người có tư duy Tây phương đường thẳng, vì họ gần như không thể khắc phục khuynh hướng nghĩ rằng họ phải làm chuyện này với cái tâm.

Như các Thượng sư khác đã nói, một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đuờng thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược. Thực ra trong tâm thức nhị nguyên, có một cực ô trược và một cực được quy định là tinh khiết, nhưng ngay cả cái mà con người định nghĩa là tinh khiết cũng không phải là tinh khiết Thiêng liêng.

19.8. Tiêu chuẩn nhị nguyên về tinh khiết và ô trược

Một lần nữa, như các thày đã nói, đây là vấn đề với nhiều tôn giáo. Họ nghĩ rằng một tôn giáo vỏ ngoài trên trái đất có thể, trong kinh điển giáo điều và văn hóa của họ, quy định một mục tiêu cuối cùng, có thể quy định những cư xử ô trược và những cư xử tinh khiết. Sau đó, họ nghĩ rằng khi đi theo con đường vỏ ngoài đó, con đường phần nào máy móc đó, một ngày kia họ sẽ tinh khiết.

Con sẽ không tinh khiết khi cố gắng đạt một trạng thái tinh khiết nhị nguyên tương đối. Chắc chắn nó có thể khá hơn trạng thái nhị nguyên ô trược khiến con có khuynh hướng tạo nghiệp nặng hơn. Có rất nhiều, rất nhiều người trên trái đất đã theo một tôn giáo, có thể là trong nhiều kiếp sống và đã cố gắng đạt được một trạng thái do tôn giáo đó quy định. Họ đi vào trạng thái tâm cảm thấy vì họ đã làm tất cả những điều mà giáo điều và kinh điển quy định, và vì họ đã không làm tất cả những điều không được làm, do đó họ là người tốt. Họ là tín đồ tôn giáo. Họ là người tâm linh. Họ cũng có thể cảm thấy họ là người tinh khiết và là bậc thánh. Đáng tiếc thay, các chân sư thăng thiên khó tiếp cận những người này nhất, vì họ quá dính mắc vào ý niệm họ là người tốt nên các thày rất khó chỉ cho họ thấy họ không tốt theo một sự lượng định bất nhị. Họ “tốt” đối ngược với “xấu” nhưng đấy là theo thang đo nhị nguyên.

19.9. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống

Trong những đợt truyền giáo trước, các thày đã thấy có các đệ tử bỏ ra nhiều thập niên tìm cách sống theo một lý tưởng, nhưng họ không sẵn sàng bước lên tầng mức cao hơn và nhận ra rằng có một điểm khi cả lý tưởng cũng phải buông bỏ, vì Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống. Bởi chưng Ki-tô Hằng sống là gì? Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho gì? Là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên.

Tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên của con muốn làm gì xuyên qua con, muốn đem lại gì xuyên qua con. Tâm đường thẳng muốn lượng định mọi thứ dựa trên một tiêu chuẩn mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt, có nghĩa đấy là một tiêu chuẩn thế gian có hai cực với những đặc tính có thể xác định được. Các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày? Con sẽ có lượng định vi tế như sau: “Điều này phải được biểu hiện, điều này không được biểu hiện.” Lúc ấy, các thày phải tôn trọng quyền tự quyết và bước lùi lại.

Chỉ khi nào con là cánh cửa mở thì các thày mới tuôn chảy xuyên qua con được, và cánh cửa mở có nghĩa trung hòa và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Khi con có ý định tinh khiết, khi con sẵn sàng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con, thì lúc ấy con là cánh cửa mở. Nếu con có ý định là có một số điều phải được biểu lộ và một số điều không được biểu lộ, hoặc con muốn được biết trước và con muốn lượng định dựa theo tiêu chuẩn của tâm vỏ ngoài thì con không tinh khiết, ý định của con không tinh khiết. Khi con tới những tầng cao hơn của con đường tu, con sẽ được lợi lạc khi quán chiếu chuyện này. Các thày đã nói điều này bằng nhiều cách trước đây, nhưng các thày cố gắng lặp lại, lần này đặt trọng tâm đặc biệt vào chủ đề làm sao kết nối với các thày. 

19.10. Làm sao kết nối với Serapis Bey

Làm sao con kết nối được với thày là Serapis Bey? Con phải có một ý định trung hòa, nghĩa là con có ý định kết nối với thày nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và ngay cả con phải cư xử ra sao. Con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Đây là ý định tinh khiết và khi con tới được ý định tinh khiết này bằng cách loại bỏ các ngã tách biệt, thì con thấy rằng nếu con có mối liên hệ với Tia thứ Tư, thì con sẽ kết nối được. Con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày.

Như các Thượng sư khác đã nói, không có gì mà thày giữ lại không cho con. Thày luôn luôn bên con vì như Giê-su đã nói: “Tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi.” Tia thứ Tư và tất cả các tia khác cũng thế. Lúc ban đầu có Ngôi Lời hay Logos và Ngôi Lời ở bên Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế. Nếu không có tâm thức Ki-tô hoàn vũ này, không gì được làm ra đã được làm ra. Khi sự phân biệt thành hình tướng bắt đầu, nó bắt đầu với sự phân biệt thành bảy tia sáng. Từ bảy tia sáng này tất cả mọi hình tướng được tạo thành. Cho nên như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Thày luôn luôn ở nơi con đang ở, con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Lẽ dĩ nhiên thày hy vọng và thày biết là một số các con đã trải nghiệm Hiện diện của thày trong khi nghe bài truyền đọc này. Một số các con có thể nghe lại và trải nghiệm Hiện diện của thày. Một số có thể làm các bài tập mà thày mô tả và trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt. Tới đây, thày niêm con trong sự tinh khiết mãi mãi thăng vượt của Tia thứ Tư mà THÀY LÀ.

21 | Với tới sự thật sẽ giúp con tiến lên cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Sự thật là gì? À, đây là một câu hỏi mà tâm đường thẳng ưa thích, vì nó nghĩ nó có thể định nghĩa một cách rất rõ ràng: Sự thật ngược lại với Không thực. Sự thật là một cái gì ta có thể hiểu, có thể nắm bắt, có thể đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Quả thật, tâm đường thẳng có thể làm chuyện này với tất cả mọi đức tính của Thượng đế, nhưng nó cảm thấy là nó thật sự kiểm soát được sự thật. Sa nhân đã từ rất lâu, từ lúc họ sa ngã, cảm thấy là họ kiểm soát được sự thật. Họ tin rằng họ có thể quy định sự thật. Lẽ đương nhiên, họ đã không loan báo cho mọi người, tỷ dụ như trên địa cầu, là họ đã quy định sự thật. Thay vào đó, họ loan báo là sự thật được trao truyền bởi một thẩm quyền tối hậu. Do đó, đó là sự thật, chân lý cao nhất có thể có.

21.1. Định nghĩa giản dị nhất của sự thật

Sự thật quả thực là gì? Sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là gì? Không thực là cái gì mang con ra xa cái một. Đây là định nghĩa giản dị nhất của sự thật mà ta có thể đưa ra, ít nhất là trên trái đất.

Lẽ đương nhiên, tâm đường thẳng sẽ rất bất mãn với định nghĩa này, vì làm sao từ đó có thể định nghĩa sự thật là gì? Nhất định phải có một sự thật tối hậu. Nói nó dẫn con tới gần hơn không đủ. Nhất định phải có một chân lý tối hậu, và lúc đó con ở trong cái một. Sự thực là chỉ có đấng Sáng tạo là chân lý tối hậu, như vậy có nghĩa là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của Ngài, ở bất cứ tầng nào của thế giới hình tướng, có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Lẽ đương nhiên, địa cầu ở thấp hơn tầng của đấng Sáng tạo rất nhiều, và đó là lý do vì sao các thày đã rất nhiều lần nói là không thể trao truyền một chân lý tuyệt đối trên trái đất, nhưng ta quả thật có thể nói là chân lý tuyệt đối không có ở đâu ngoại trừ nơi đấng Sáng tạo. Bất kỳ con đang ở tầng nào trên bước đường tiến tới hợp nhất với đấng Sáng tạo, nếu con chưa là một với đấng Sáng tạo, đó là vì con vẫn còn thấy một khoảng cách. Do đó có một chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Cho nên, mục đích của đường tu không bao giờ là hiểu chân lý tối hậu, nhưng là thấy chân lý sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

21.2. Các tầng thể hiện tiềm năng của cái ta

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ bất mãn vì nó sẽ nói: “Ồ, như vậy phải có nghĩa là có điều gì sai ở bất cứ tầng nào cho đến khi tới tầng đấng Sáng tạo. Ngay cả các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất đã thăng thiên từ rất lâu, đã có rất nhiều thời gian để tăng triển và vượt thăng chính họ, họ vẫn sống trong ảo tưởng.” Một lần nữa, đây lại là tâm đường thẳng, nó phải nghĩ theo kiểu tâm đường thẳng. Nó hoạt động với thang điểm nhị nguyên, và trên một thang điểm nhị nguyên có cực đoan này và cực đoan ngược lại, cả hai đều tối hậu, ta hoặc có sự thật tối hậu hoặc giả dối tối hậu. Con có thể nói là khi con chưa tới sự thật tối hậu thì con vẫn bị ảnh hưởng bởi một sự giả dối, nhưng không phải vậy. Một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết và trải nghiệm tâm Ki-tô đó, và đó là tâm của cái Một. Con biết là mọi sự là một, nhưng con cũng thấy và trải nghiệm các tầng tâm thức có cấp bậc và con tiến lên theo một tiến trình đường thẳng dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo. Đây không phải là một ảo tưởng.  

Một khi con đã thăng thiên từ trái đất thì con không còn ở trong ảo tưởng nữa vì con biết thực tại bên dưới mọi sự là cái một. Con chỉ giản dị ở một tầng nào đó trong tiến trình thể hiện cái ta, và con biết con đang trên con đường dẫn tới những tầng thể hiện cái ta cao hơn cho tới khi con đạt tới trạng thái tối hậu của thể hiện cái ta mà các thày đã gọi là tâm thức đấng Sáng tạo. Đúng ra phải nói đây là trạng thái tối hậu trong thế giới hình tướng này. Con không ở trong ảo tưởng vì con trải nghiệm cái một, và con thậm chí không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Thày Serapis Bey có nói tới sự gia tốc không ngừng, và đây là một khái niệm quan trọng mà con cần xem xét. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ gặp khó khăn khi nó xem xét sự tự thăng vượt bất tận, liên tục, gia tốc này. Nó lúc nào cũng đi tìm cái tối hậu, nhưng nó cũng sẽ hỏi tại sao nó cần tự thăng vượt nếu nó đã đạt được một tầng cao? Tại sao con cần tự thăng vượt khi con đã tới tầng 96 và đã trải nghiệm tâm Ki-tô, tại sao con cần tiếp tục tự thăng vượt?

21.3. Dòng sông sự Sống luôn luôn tự thăng vượt

Sự thực là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng, là cái mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống. Một dòng sông là gì? Nó là nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu dòng sông ngừng chảy thì nó không còn là một dòng sông nữa. Nó là một hồ nước. Không sớm thì muộn phẩm chất, độ trong sạch của nước trong hồ nước sẽ suy giảm. Nước có thể bốc hơi, nhiều chất cặn và bợn nhơ sẽ có thể xâm nhập nước hồ, và dần dần nước sẽ bắt đầu nhiễm độc. Vì sao nước không nhiễm độc khi ở trong dòng sông? Bởi vì nước di động. Các phân tử nước di dộng và phủi đi những bợn nhơ. Chúng hòa lẫn với khí oxy, cũng giúp trong lọc nước.

Con thấy là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con, như một cá nhân, không thể nói: “Tôi đã đạt một tầng nào đó. Tôi muốn vui hưởng tầng này trong một thời gian.” Con có quyền làm như vậy, nhưng nếu con ở một tầng nào đó quá lâu, thì tâm con sẽ bắt đầu trở nên cũ kỹ. Do đó con sẽ không theo kịp hướng đi lên của Dòng sông sự Sống. Con sẽ ở dưới tầng mà con có thể tới nếu con chịu thăng vượt.

Những người sáng suốt vẫn đang tiếp cận Dòng sông sự Sống thì biết rằng họ có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng họ sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước. Nhiều người trong các con là những người tâm linh đã có cảm nhận đến lúc bước vào một chu kỳ mới. Đã đến lúc cất bước và làm chuyện gì khác. Chân lý chuyển động không ngừng. Có một chân lý ở tầng 48 giúp con khắc phục ngã tách biệt, ảo tưởng ở tầng 48 và vươn lên tầng 49. Có một chân lý khác ở tầng 49, và một chân lý khác ở tầng 50, vân vân. Không phải chỉ có một chân lý. Lẽ tất nhiên, đó là điều tâm đường thẳng muốn: “Hãy cho tôi chân lý, chân lý cao nhất, chân lý tuyệt đối.” Nếu vậy thì đây nhé: Chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Hay ta cũng có thể nói là có nhiều chân lý tuyệt đối. Chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó. Lẽ tất nhiên, chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Ta không thể đặt cái dẫn con tới cái một lên một thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia.

21.4. Khái niệm nhị nguyên về sự thật tối hậu

Sự thật Hằng sống không phải là đối ngược của một sự giả dối. Chỉ những gì do tâm thức nhị nguyên quy định mới có một đối ngược. Tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói: “Nhưng phải chăng sự thật dẫn con lên tầng kế tiếp cũng tương đối với tầng đó?” Phải, nhưng không trên một thang điểm nhị nguyên. Khi con ở trên một thang điểm nhị nguyên, con có thể nói: “Đây là một sự không thực” và con có thể bắt đầu tiến về phía đối cực kia trên thang điểm. Con có thể nghĩ con đã đi một hành trình dài từ sự không thực tương đối đến sự thật tương đối, nhưng con đã không tới gần cái một hơn. Con vẫn ở trong nhị nguyên, và đó là lý do vì sao khi con nghĩ con là một người tốt đang nắm giữ chân lý thì con không đến gần cái một hơn. Ý nghĩ này chỉ tiếp tục giam con trong nhị nguyên.

Thày có thể bảo đảm với con là những người tin rằng họ có chân lý tối hậu là những người mà thày khó tiếp cận nhất. Vì sao họ lại cần đến Thượng sư của Tia thứ Năm khi họ đã có chân lý tuyệt đối rồi? Thày có thể cống hiến gì cho những người đã có chân lý tuyệt đối được quy định ở đây trên trái đất? Con có thể nói: Nhưng, thày, Hilarion, là một chân sư thăng thiên! Thày ở một tầng tâm thức cao hơn, do đó lẽ dĩ nhiên thày có thể cống hiến cái gì đó cho những người chưa thăng thiên. Nhưng những người kia không thấy vậy đâu. Con hãy nhìn sự kiện trang mạng Hỏi Giê-su Thật (https://askrealjesus.com/) đã xuất hiện trên mạng được hơn 20 năm. Con có thực sự nghĩ là các vị Hồng y của Giáo hội Công giáo chưa nghe tới hay chưa xem trang mạng này? Họ có thay đổi gì chăng dựa trên các điều được công bố trên đó? Họ có mở lòng xem xét là Chân sư Thăng thiên Giê-su có thể hiện đang hướng dẫn con người tu tập? Lẽ dĩ nhiên là không. Tại sao họ lại cần Chân sư Thăng thiên Giê-su khi họ đã có chân lý tuyệt đối trong giáo điều của họ?

Con thấy là nhiều người khác, tỷ dụ như người cộng sản, duy vật, tranh đấu môi sinh, triết gia thuộc trường phái này hay trường phái nọ, lãnh đạo tôn giáo này tôn giáo kia, họ đều không cần đến các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các đức tính thiêng liêng, vì họ muốn trải nghiệm ý niệm cao trội hơn người mà họ có khi họ tin là họ có chân lý tuyệt đối. Nếu con tin rằng con có chân lý tuyệt đối, thì có thể nào có chân lý nào cao hơn? Bất cứ ai, ngay cả các chân sư thăng thiên, có gì để cống hiến cho con? Lẽ tất nhiên, các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã thăng vượt tầng tâm thức này, nhưng con cần nhận ra là các ngã tách biệt của con, các ngã tách biệt còn sót lại, chưa thăng vượt tầng tâm thức đó. Cái Ta Biết của con đã thoát khỏi sự đồng hóa hoàn toàn với các ngã đó, nhưng con vẫn còn các ngã đang pha màu tầm nhìn của con, và khiến con tin rằng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

21.5. Mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn

Đây là điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh qua các thời đại, nhưng điều đó cũng đã xảy ra cho các đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, khi họ nghĩ là họ đã có giáo lý cao nhất hay sự tiết lộ sau cùng mà các chân sư thăng thiên ban ra, và do đó tại sao họ lại cần gì khác? Tại sao họ lại cần tiết lộ tuần tự?

Con luôn luôn cần xem chừng khuynh hướng này nơi một ngã tách biệt hay thậm chí sự hình thành một ngã tách biệt khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn là tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.” Con quả thật có. Con đã tiến bộ, con đã đạt một tầng nào đó, nhưng chưa phải là tầng tối hậu. Nếu con đã đạt tầng cao nhất có thể đạt được trên địa cầu thì con đã thăng thiên. Khi con đã đạt được tầng tối hậu có thể đạt được trên trái đất thì con sẽ không còn trên trái đất nữa. Nếu con còn ở trên trái đất thì, ấy, con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và làm sao con vươn lên tầng đó? Bằng cách với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Trong đợt truyền giáo này, con không dễ bị kẹt vào trạng thái tâm thức đó nếu con nghiên cứu và cố gắng thể nhập giáo lý. Các thày đã nói rõ về nhu cầu tiến bộ liên tục hơn là trong các đợt truyền giáo trước. Tuy nhiên, tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó lúc nào cũng làm những gì tự ngã vẫn làm: nó tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con cần mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Đó là một phần vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý tuần tự cao hơn, nhưng cá nhân con cần mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

21.6. Tặng phẩm và bài hình dung của thày Hilarion

Con nhận được khai ngộ này từ đâu? Con sẽ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ nhận nó từ các chân sư thăng thiên của con, nhưng con cần phải yêu cầu, con cần phải mở tâm ra đón nhận. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Con chắc chắn có thể yêu cầu thày, Hilarion, chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con có thể đọc bài chú Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con có thể dùng quyển sách Những Khai ngộ Thần bí về Viễn kiến để hòa điệu với thày. Con có thể tìm trong bài chú của thày hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và con sẽ thấy con nhận được hướng dẫn của thày nếu con gần Tia thứ Năm. Con có thể dùng nhiều dụng cụ, nhưng thày sẽ cho con ở đây một dụng cụ đơn giản như các Thượng sư khác đã làm.

Đây là dụng cụ giản dị đó: con đi vào một căn phòng yên tĩnh, con ngồi tư thế thoải mái, nhắm mắt lại và con hình dung con có hai con mắt. Nếu con nghĩ về chuyện này thì con biết là con có hai mắt để thấy được chiều sâu. Con có thể lượng định khoảng cách giữa con và một vật một cách chính xác hơn vì con có cái nhìn song đôi đó. Có hai mắt không phải là nhị nguyên. Các thày không bao giờ nói rằng khi con thoát khỏi nhị nguyên thì hai mắt của con sẽ bắt đầu di chuyển gần nhau hơn cho tới khi chúng hợp thành một con mắt ở giữa trán của con.

Lẽ tất nhiên, con có một mắt thứ ba, đó là luân xa mắt thứ ba, nhưng bài hình dung này dựa trên con có hai mắt, và con hình dung hai mắt di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng. Con theo đường thẳng đó nhìn về quãng xa. Nếu con có chút hiểu biết về hình học, thì con biết là phối cảnh sẽ khiến con thấy giống như hai đường thẳng sẽ càng ngày càng gần nhau hơn khi con càng đi ra quãng xa.

Con cũng có thể biết thuyết không gian-thời gian cho rằng tất cả các đường song song sẽ rốt cuộc nhập một, gặp nhau. Con chỉ cần phóng chiếu về khoảng xa, thật xa để hai đường thẳng từ hai mắt con càng ngày càng gần nhau hơn cho tới khi tới một điểm, bất kể điểm này xa tới đâu, hai đường thẳng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con tiếp tục hình dung con theo đường thẳng đó xa nhất mà con có thể hình dung. Khi con đã hình dung đường thẳng duy nhất đó thì con rút sự chú ý của con trở về trán, trở về mắt thứ ba của con. Sau đó, con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó. 

Một lần nữa, đây là một bài thực tập giản dị mà nhiều người sẽ cho là quá thô sơ, nhưng nếu con cảm thấy gần Tia thứ Năm thì con hãy thực tập bài này và sẽ thấy là kinh nghiệm không thô sơ chút nào và có thể sâu sắc hơn những gì con tưởng tượng lúc này. Sự thật rất giản dị. Chỉ có trong nhị nguyên thì sự thật mới có vẻ phức tạp bởi vì sa nhân muốn sự thật phức tạp. Họ muốn biến mọi chuyện thành phức tạp để họ có vẻ cao trội hơn người khác vì họ có thể nắm bắt, hiểu hay quy định hệ thống tư duy tinh vi, trí thức và đường thẳng đó. Họ là những người quá ư thiện xảo trong khi con người không hiểu được do đó họ phải tuân theo các lãnh đạo.

Con hãy nhìn xem cách Giáo hội Công giáo đã phóng chiếu trong suốt 17 thế kỷ là con người không thể hiểu thực tại tâm linh và phải được giảng dạy với từ ngữ thật đơn giản. Con hãy thấy là họ đã suốt bao năm đốt sách, từ chối không chịu dịch Thánh kinh để con người không thể tự mình đọc Thánh kinh mà phải trông cậy vào sự diễn giải của các linh mục Công giáo. Sa nhân lúc nào cũng nghĩ rằng con người không thể biết sự thật. Chỉ có họ mới biết được sự thật. Lẽ dĩ nhiên, một sa nhân sẽ không bao giờ biết được sự thật cho tới khi y bắt đầu với tới sự thật Ki-tô duy nhất mà y có thể hiểu ở tầng tâm thức hiện tại của mình và sau đó tiếp tục với lên sự thật kế tiếp cho tới khi y không còn là sa nhân nữa.

21.7. Sự thật như là kết quả của vun bồi hiểu biết

Như Giê-su có nói, tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi. Ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm thức Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Có một chân lý ở mỗi tầng tâm thức, nhưng đó không phải là chân lý tối hậu. Đó là chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Tiến trình này sẽ tiếp diễn từ tâm thức hiện tại của con cho tới tiềm năng cao nhất của con là tâm thức của đấng Sáng tạo.

Do đó, chân lý không thể bị gò bó vào bất cứ tầng nào, và vì vậy không ai trên cõi thăng thiên tuyên bố hay tin rằng vị ấy đã đạt được chân lý tối hậu. Các thày đều trải nghiệm chân lý là Dòng sông sự Sống đang hằng sống, tuôn chảy, mà con có thể lần theo về cội nguồn. Và cũng có chân lý cao nhất mà con có thể đạt được trong thế giới hình tướng. Lẽ đương nhiên, vượt quá nơi đó là cái mà các thày đã gọi là cái Tất cả, nhưng các thày không muốn mô tả bằng lời vì nó quá xa vời các hình tướng và khái niệm mà con có trong thế giới hình tướng này.

Một số các con sẽ được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã lớn lên với một quan niệm rất sai lệch về chân lý, đặc biệt là nếu con đã theo học bất cứ học viện cao đẳng nào, tỷ dụ như một viện đại học. Nhiều người coi những viện giáo dục cao đẳng này như các nơi vun bồi hiểu biết và minh triết, và họ nghĩ là nếu họ tích lũy hiểu biết lâu đủ thì họ sẽ đạt được chân lý. Một số còn nghĩ là họ đã đạt được chân lý rồi, ít nhất là trong một số lãnh vực của đời sống. Nhiều người trong các viện giáo dục cao đẳng tin rằng viễn quan duy vật và thuyết tiến hóa của Darwin biểu hiện chân lý tối hậu mà không có hiểu biết nào có thể vượt qua. Lẽ tất nhiên, đây là một ảo tưởng, như lịch sử đã chứng minh. Đã có nhiều giai đoạn trong lịch sử khoa học khi các khoa học gia, ít nhất là các khoa học gia duy vật, đã nghĩ rằng họ đã đạt được hiểu biết tối hậu, tỷ dụ như của các định luật vật lý học. Lúc nào cũng đã có một hiểu biết cao hơn xuất hiện và thay thế hiểu biết cũ. 

Như các thày có nói, các định luật của Newton đã không trở nên vô hiệu lực, nhưng niềm tin các định luật của Newton mô tả sự vận hành cơ bản của bộ máy hoàn vũ đã được thay thế bởi một hiểu biết cao hơn dưới dạng thuyết tương đối (relativity) và vật lý lượng tử (quantum physics). Nhiều khoa học gia đương thời biết rằng thuyết tương đối và vật lý lượng tử là hai thuyết không tương hợp. Lẽ tự nhiên, hiện trạng này không thể là hiểu biết cao nhất. Rốt cuộc sẽ có một lý thuyết về mọi thứ (theory of everything), tuy rằng nó cũng sẽ không bao giờ đầy đủ. Ít nhất sẽ tới một điểm có một lý thuyết bao trùm những yếu tố cơ bản về sự vận hành của thế giới.

Tuy nhiên, thuyết này nhất định phải bao gồm tâm thức. Lẽ tất nhiên các thày cảm thấy khích lệ là một số khoa học gia đã bắt đầu nhìn nhận chuyện này và thăm dò ý nghĩa là gì và một lý thuyết khoa học bao gồm tâm thức sẽ như thế nào, khi lý thuyết này không coi tâm thức như một hiện tượng nằm trên sự vận hành của não bộ mà là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Các khoa học gia này đã bắt đầu công nhận là vũ trụ không thể xuất hiện nếu không có một hình thức nhận thức nào đó, mà một số đã gọi là “tác nhân có nhận biết”.

Nếu con đã tiếp thu bất cứ giáo dục cao đẳng nào thì một việc xây dựng mà con có thể làm là xem xét các ngã tách biệt mà con đã có thể tạo ra khi con đáp ứng với môi trường tư duy đó. Nó phóng chiếu đến con là mục đích của nếp sống hàn lâm là tích lũy hiểu biết và dữ liệu cho tới khi đạt được một hiểu biết tối hậu nào đó.

21.8. Tổng thể hơn các thành phần cộng lại

Con cũng có thể được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã bị lập trình, nói theo nghĩa bóng, bởi nền giáo dục cao đẳng để theo phương pháp giản hóa (reductionist), đã có từ thời Aristotle. Ông này đưa ra quan điểm nếu ta nên nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo thế giới vật chất thì rốt cuộc ta sẽ tới được các thành phần cơ bản của vật chất. Khi ta hiểu được cách các thành phần này vận hành thì ta hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành. Đây là phương pháp đã hướng dẫn khoa học từ rất lâu nay, nhưng phương pháp này hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Con không thể xem xét một tổng thể, tỷ dụ như thân thể con người, và hiểu được cách nó vận hành bằng cách xem xét các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo nên nó, như các tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản. Chắc chắn là cơ thể được cấu tạo bởi hạt cơ bản, nhưng con có thực sự tin rằng – và đúng là các nhà duy vật tin điều này, nhưng có phải vậy mà tin tưởng này có giá trị? – nếu con hiểu tất cả mọi chuyện có thể hiểu về các tỷ tỷ hạt cơ bản cấu tạo thân thể vật lý, thì một ngày kia con sẽ giải thích được vì sao con thích sôcôla hơn các loại kẹo khác? Làm sao mà thông tin này có thể được ghi mã vào các hạt cơ bản? Nhưng đó là một phần của đời sống của một con người, vì theo câu ngạn ngữ nhân gian, tổng thể hơn các thành phần cộng lại. Do đó, nếu con muốn hiểu tổng thể thì con cần nhìn vào, nghiên cứu tổng thể, thay vì chỉ nghiên cứu các thành phần. Lẽ dĩ nhiên, nếu con muốn hiểu con người vận hành ra sao thì con phải nghiên cứu tâm con người. Con phải nghiên cứu tâm thức.

Khoa học gia đã quy định cái mà họ gọi là bài toán khó khi nghiên cứu tâm thức, đó là: Làm sao các thành phần không có nhận thức cấu tạo não bộ vật lý lại có thể tạo ra trải nghiệm có nhận thức? Đây chỉ là một bài toán khó khi họ tiếp cận vấn đề với tầm nhìn duy vật. Tâm thức không do các thành phần của não bộ tạo ra. Tâm thức là một cái gì độc lập với não bộ có thể tương tác với não bộ, và phần nào nhập chung vào não bộ, nhưng não bộ không tạo ra tâm thức. Chính tâm thức đem lại sinh hoạt và sự sống cho não bộ và thân thể vật lý. Con sẽ không bao giờ hiểu được con người bằng cách xem xét não bộ.

21.9. Tâm thức là gì?

Con cần xem xét tâm thức, là lẽ tất nhiên câu hỏi đặt ra là: Tâm thức là gì? Tâm thức có thể được xem là thực tại nền bên dưới mọi sự, nhưng con không thể hiểu tâm thức nếu con chỉ nhìn nó như thực tại nền. Tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng. Ở một tầng, ta có thể nói tâm thức là cái có tiềm năng mang hình tướng và duy trì hình tướng trong một khoảng thời gian, và đây là loại tâm thức đưa đến sự hiện diện của các vật vô tri giác.

Sau đó có một tầng tâm thức cao hơn biểu lộ như các hình tướng sống, các sinh thể, có sự sống, có khả năng thay đổi, thích nghi với môi trường, sinh sản. Tầng tâm thức này kích động tiến trình mà khoa học gia gọi là tiến trình tiến hóa, một tiến trình mà họ cho là vô thức. Tiến trình này không thực sự vô thức, vì làm sao một sinh vật có thể thích nghi với môi trường khi nó không có một dạng tâm thức cho nó khả năng nhận tín hiệu từ môi trường và điều chỉnh cách cư xử của nó theo tín hiệu? Thậm chí tiến trình tiến hóa cũng không là một tiến trình duy vật vô thức, ngay cả khi nó ứng dụng vào sự tiến hóa của thú vật.

Lẽ tất nhiên, sau đó là tầng tâm thức cao hơn mà ta có thể thấy nơi con người. Đây là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa một cách có ý thức và cố ý cách con đáp ứng với môi trường. Ở tầng tâm thức của thú vật, các sinh thể không đáp ứng một cách có ý thức và cố ý. Thú vật đáp ứng dựa theo những gì đã được ghi mã trong tâm thức của chủng loại, tâm thức tập thể của chủng loại. Các cá nhân hầu như bị tâm thức tập thể đó hoàn toàn sai khiến, và do đó đáp ứng theo những trải nghiệm mà chủng loại đã tích lũy trong một thời gian dài dựa trên kinh nghiệm sinh tồn. Ở mỗi cá nhân, đây là một tiến trình vô thức. Với con người, con có tiềm năng ý thức về tiến trình này, biết chính mình và quyết định là con không chỉ đáp ứng trên căn bản trải nghiệm tập thể. Con sẽ đáp ứng như một cá nhân, và con sẽ thăng vượt tập thể.

Lẽ đương nhiên, đây chính là nền tảng của con đường tâm linh, mà chủ yếu là con không chỉ giản dị làm theo tâm thức tập thể. Con không chỉ đơn giản làm theo cách hành xử mà con đã được dạy dỗ trong nền văn hóa nơi con khôn lớn. Con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường này. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống. Lẽ tất nhiên, nếu các khoa học gia chịu nghiên cứu tâm thức thì họ sẽ nhận ra, như một số đã bắt đầu nhận ra, là phải có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, vì nếu không có những tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, thì làm sao địa cầu, mặt trời, các thiên hà được tạo ra?

21.10. Tầng tâm thức thị hiện vũ trụ

Có những người khóa mình vào suy luận trí năng và nói rằng mặt trăng không có đó khi không có ai nhìn nó. Vũ trụ chỉ hiện hữu khi được quan sát. Vì họ không nhìn nhận là có thể có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, nên họ nghĩ chính sự quan sát của con người khiến vũ trụ thị hiện. Lẽ dĩ nhiên, đây là một ngõ cụt và quả thực là một lối suy nghĩ nực cười, khi ta thấy trình độ tâm thức của con người trên trái đất.

Giải đáp hợp lý duy nhất là có một tâm thức cao hơn đã hình dung các thiên hà, toàn vũ trụ. Đây chính là tầng tâm thức đã thể hiện vũ trụ, và đây cũng là tầng tâm thức đã duy trì vũ trụ từ đó tới nay. Vậy thì vũ trụ có đó chăng khi không có ai nhìn? Theo đúng lý thuyết thì không, nhưng lúc nào cũng có ai đang nhìn. Lẽ tất nhiên, ai đó không phải là một sinh thể mà là toàn thể đại đoàn các chân sư thăng thiên, lên đến tận đấng Sáng tạo.

Đấng Sáng tạo đã quy định các hàm số của sự sáng tạo và lúc nào cũng đang nhìn. Nhiều sinh thể khác đã quy định hàm số ở các tầng cấp khác, đi xuống tận nơi con đang ở trên trái đất. Như các thày là chân sư thăng thiên đã giảng, các Elohim đã tạo ra trái đất và mang nó vào biểu hiện vật lý. Các vị đó duy trì nó bằng cách nhìn nó, nhưng các vị ấy làm việc theo khung sườn của các chân sư thăng thiên ở trên họ, ở tầng thái dương hệ, tầng thiên hà, tầng vũ trụ và ở các bầu cõi cao hơn bầu cõi này.

Con là con người đang đầu thai không thể vươn tới nhận biết của bầu cõi cao nhất, của những tầng tâm thức cao nhất, nhưng con có thể cảm nhận xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn. Đây là điều cho con ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của mình, mình đang đi đâu, mình muốn tới đâu, điều mình muốn đồng-sáng tạo, những gì mình muốn trải nghiệm, cách mình vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì mình có thể làm ở tầng hiện tại.

21.11. Xem mình là một thành phần của đại đoàn chưởng giáo toàn vũ

Cốt lõi của việc kết nối với các chân sư thăng thiên là tới điểm nhận ra con là một phần của đại đoàn đó, lên đến tận đấng Sáng tạo. Có thể là con không thể hình dung tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ít ra con có thể hình dung tầng tâm thức ngay trên con, tức là các thày, các Thượng sư? Con có thể kết nối với các thày chăng? Lúc đó con sẽ kết nối với toàn thể đại đoàn chưởng giáo, và con sẽ có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Như các thày có nói: các thày hiểu là đầu thai trên trái đất vào lúc này khó khăn như thế nào. Khi con có được ý niệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo thì con có thể tránh bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, tránh đồng hóa mình với chúng, tránh bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế. Con có thể hoàn toàn xoay chuyển tầm nhìn của mình. Con khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt và đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi và thực sự không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn. Các thày là Thượng sư chỉ muốn thấy vậy nơi mỗi người và tất cả chúng con. Ở thời điểm này, đây chính là điều mà các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con đạt được, để con có thể vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó, lẽ tất nhiên, lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Con yêu dấu, đây là điều mà thày muốn trao cho các con. Nếu con cảm thấy đồng điệu với Tia thứ Năm, thì thày tin rằng bài giảng này sẽ có lợi ích cho con và giúp con kết nối với thày và các vị chân sư khác thuộc Tia thứ Năm, và qua đó tạo điều kiện để con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Tới đây thì thày niêm con trong Ngọn lửa Sự thật mà thày LÀ cho địa cầu.

13| Trải nghiệm Minh triết Thiêng liêng vượt quá tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Lanto, Thượng sư của Tia sáng thứ Hai, thường được liên kết với minh triết, nhưng minh triết thật sự là gì? Có rất nhiều người trên thế giới coi minh triết như một loại kiến thức hữu hạn, một cái gì có thể được diễn tả bằng ngôn từ, hay bằng ngôn ngữ khoa học tỷ dụ như toán học. Ta có thể nào nắm bắt minh triết bằng ngôn từ, con số, công thức hay phương trình chăng? Ta có thể nắm bắt nó bằng hình tư tưởng, khái niệm hay ý tưởng chăng? Ta có thể giam hãm nó trong bất kỳ hình tướng nào chăng? À, có và không!

13.1. Một tìm cầu minh triết tối thượng phù phiếm

Ta có thể nói không có minh triết tối thượng ngoại trừ cái một, chính là tâm thức của đấng Sáng tạo. Lẽ tất nhiên, khi nào con còn hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con khó trải nghiệm tâm thức này. Ta có thể nói là minh triết, là một trong những đức tính được dùng để sáng tạo bầu cõi chưa thăng thiên của con, quả thật có hình tướng. Bởi chưng nếu nó không có hình tướng, làm sao có thể dùng nó để sáng tạo một thế giới có hình tướng? Minh triết chắc chắn không thể bị giam hãm trong ngôn từ hay những cách biểu hiện khác được dùng trên trái đất.

Bước đầu tiên để nối kết với các chân sư thăng thiên và đức tính Minh triết Thiêng liêng là nhận ra rằng những người đi theo tâm linh, tôn giáo, chính trị và khoa học qua các thời đại vẫn cố gắng khám phá, tạo sinh hay quy định một hình thức kiến thức tối thượng, hiểu biết tối thượng, minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, các thày hiểu rằng khi con mới tìm thấy lần đầu con đường tâm linh thì con đã bị ảnh hưởng bởi sự tìm cầu muôn thuở này. Con đem nó vào con đường tâm linh và con nghĩ mục đích của một giáo lý tâm linh là đem lại cho con một hình thức minh triết tối thượng.

Đó là lý do vì sao rất nhiều người tâm linh đã bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng vị đạo sư của họ, tổ chức tâm linh của họ, giáo lý tâm linh của họ có minh triết cao nhất, hiểu biết cao nhất, sự diễn tả cao nhất về sự vận hành của thế giới và cõi tâm linh. Điều này có thể hiểu được ở một tầng nào đó của con đường tâm linh nhưng con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi tư duy này không còn tính xây dựng nữa vì nó sẽ không giúp con tăng triển.

13.2. Một con đường thực tiễn giúp nâng cao tâm thức con người

Có một thời Phật hiện thân và giảng dạy trực tiếp. Ngày nay nhiều người muốn phóng chiếu là Phật không những là một sinh thể giác ngộ nhưng là sinh thể giác ngộ tối thượng vì hoàn cảnh thày sinh ra, cuộc đời và giáo lý của thày rất ư đặc biệt. Họ muốn phóng chiếu hình ảnh là Phật không những đưa ra giáo lý cao nhất có thể có nhưng hơn thế giáo lý của Phật và chắc chắn chính Phật có thể trả lời mọi câu hỏi. Những người này chưa nghiên cứu lịch sử Phật giáo vì sự thật là Phật đã từ chối không trả lời một số câu hỏi.

Một ví dụ của những câu này là có ngã hay không có ngã. Đây là một câu hỏi mà Phật từ chối không trả lời nhưng tại sao thế? Vì mục đích của Phật không phải là cho con người một kiến thức tối thượng có thể trả lời mọi câu hỏi của họ. Mục đích của Phật là cho con người một con đường tu giản dị giúp họ từng bước một nâng cao tâm thức của họ. Nếu con nhìn lịch sử con sẽ thấy là mục đích này tương phản rất nhiều truyền thống của các giáo sĩ Vệ đà, các thày Bà la môn của Ấn giáo. Vào thời của Phật, họ ở trong một giai đoạn tách ra nhiều xu hướng, nhiều bộ phái trong Ấn giáo giữa các người Bà la môn. Giáo lý của họ có điểm hơi khác nhau nhưng vẫn nằm trong cùng một khung sườn chung và họ tốn nhiều thời gian tranh luận về hiểu biết tối thượng, giáo lý tối thượng tỷ dụ như giáo lý tối thượng về ngã là gì và ngã như thế nào?

Sau khi giác ngộ, Phật nhận ra là tất cả các tranh luận này phát xuất từ tầng mức của tâm phàm, tâm đường thẳng lý luận, phân tích. Phật nhận ra là tất cả những lập luận và mô tả tinh vi mà con người đã dựng lên này, quả thực chỉ giam con người ở một tầng tâm thức nào đó. Phật thấy rằng nếu thày tham gia cuộc tranh luận này, nếu thày nhảy vào sân khấu diễn xiếc này và bắt đầu tranh luận với các thày Bà la môn, thì Phật sẽ chẳng đạt được điều gì. Phật cũng nhận ra là có những câu hỏi mà tâm đường thẳng lý luận không thể trả lời bởi vì như các thày đã giải thích, tâm này có thể đưa ra lập luận bênh vực hay phản bác bất cứ điểm gì. Một số người có thể dùng tâm đường thẳng để tự thuyết phục là có ngã và một số người khác có thể dùng cùng tâm đường thẳng lý luận để tự tuyết phục là không có ngã. Làm sao có hội tụ khi cả hai nhóm tin tuyệt đối là lập luận của họ là lập luận tối thượng, dù cả hai lập luận đều tương đối?

Phật nhận ra là trong tư duy nhị nguyên mọi lập luận đều tương đối do đó không thể cho những người với tư duy này một lập luận chung cuộc, và đây là lý do vì sao Phật nêu lên khái niệm về các cặp. Phật đã làm gì? Phật lúc đó làm việc với một số chân sư thăng thiên để hoàn thành sứ vụ của thày, và vì vậy thay vào đó, Phật nói: “Chúng ta đừng lý luận ở tầng mức của tâm đường thẳng, phàm phu, lý luận này. Chúng ta hãy cho con người một con đường tu giản dị để họ nâng cao tâm thức của họ. Khi con người đã nâng cao tâm thức quá một mức nào đó, thì họ có thể bắt đầu có được minh triết thật sự, họ có thể bắt đầu có được câu trả lời cho những câu hỏi mà tâm đường thẳng không giải quyết được.” Con cũng có thể nói là Phật nhận ra là mục đích của việc làm của thày là nâng cao tâm thức con người, không phải là đem lại minh triết hay kinh điển cao trội nào đó có thể đứng vững mãi mãi với thời gian.

13.3. Những tranh luận trí năng không bao giờ dứt

Một số Phật tử hiện đại sẽ phản đối điều thày vừa nói. Họ sẽ nói rằng vì Phật là một sinh thể hoàn toàn giác ngộ, giáo lý của Phật phải là chân lý tối thượng. Nhưng, tại sao chính Phật giáo lại tẽ ra nhiều phương hướng? Dù họ đồng ý trên một khung sườn chung, nhưng họ có những lập luận và giáo lý phức tạp, những ý tưởng và pháp thực hành khác nhau và không đồng ý trên nhiều điểm. Nếu con nhìn một cách trung hòa, thì con thấy là sau khi Phật không còn hiện thân nữa, Phật giáo đã có cùng số phận như Ấn giáo.

Phật giáo trở nên đa dạng, có sự phân chia ra nhiều hướng và nhiều nhóm. Những người trong các nhóm đó đưa ra những lập luận trí năng và họ bắt đầu biến những điều Phật nói hay ngụ ý thành lập luận trí năng. Nếu giáo lý của Phật là giáo lý tuyệt đối cao nhất thì làm sao có thể có bất đồng và những lý giải khác nhau? Nếu ta có minh triết tối thượng, thì phải chăng bất kỳ ai đọc nó sẽ phải đạt được tầng tâm thức tối thượng? Đáng lẽ không thể có bất đồng nếu đó là minh triết cao trội và tối thượng. Nhưng vì có bất đồng, thì phải chăng ta có thể lý luận rằng ngay cả giáo lý của Phật cũng không là minh triết tối thượng, không do khiếm khuyết nơi Phật nhưng do khiếm khuyết nơi người nhận giáo lý?

13.4. Cách tiếp cận thực tiễn giáo lý tâm linh

Có đúng chăng là Phật giáo đã khẳng định rõ ràng mục đích là nâng con người lên trên trạng thái đau khổ, vượt Biển Luân hồi? Phật giáo đã nói rõ ràng là những người được trao truyền Phật giáo đang không ở trong trạng thái tâm thức tối thượng. Vậy ta có thể suy luận được chăng là Phật không thể trao truyền bất kỳ minh triết tối thượng nào, vì làm sao những người ở một trạng thái tâm thức thấp có thể nắm bắt và sử dụng minh triết cao như thế? Do đó, ta có thể tiến thêm bước nữa chăng và nhận ra là không có gì tối thượng trên trái đất, cho dù đó là giáo lý của Phật hay giáo lý của Giê-su hay giáo lý của Vệ đà hay bất kỳ giáo lý tâm linh nào khác? Bởi vì tâm đường thẳng, lý luận, phân tích có thể lấy bất kỳ giáo lý tâm linh nào và đưa ra nhiều cách diễn giải và lập luận khác nhau để chứng minh là cách diễn giải này hay hơn cách diễn giải kia. Tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu là phải có một cách diễn giải cao hơn, một cách diễn giải tối thượng.

Ta có thể nhận được chăng là những người rơi vào khuôn đúc này ở một tầng tâm thức nào đó? Một giáo lý tâm linh chân chính không có mục đích xác chứng những diễn giải của con người ở tầng tâm thức của họ, mà là nâng tâm thức của họ lên cao hơn và vượt quá tầng tâm thức đó. Đâu có khó nhận ra điều này, phải không con?

Ta có thể nói chưa bao giờ có nỗ lực đem lại giáo lý tối thượng hay giáo lý tâm linh cuối cùng cho hành tinh trái đất. Vì những người khởi xướng các giáo lý tâm linh, tức là các chân sư thăng thiên, đều ý thức rõ ràng các điều kiện trên trái đất. Các thày thấy rõ ràng những giới hạn của tâm thức tập thể và của những nhóm người khác nhau. Các thày không tìm cách làm điều bất khả thi mà làm điều gì thực tiễn có thể làm được, đó là trao truyền một giáo lý cho một nhóm người đặc thù có thể nâng họ lên cao hơn một tầng tâm thức cao hơn nơi họ có thể nắm bắt một giáo lý cao hơn và cứ như thế tiết lộ tuần tự. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ nói: “Vậy khi nào thì giáo lý tối hậu sẽ được trao truyền? Bởi vì chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu.”

13.5. Giáo lý tối thượng về mọi sự

Lẽ tất nhiên ý kiến này được sự hậu thuẫn của khoa học, đã từ nhiều thập kỷ, thậm chí nhiều thế kỷ tìm cầu lý thuyết hay nhận biết tối thượng về sự vận hành của thế giới, Lý thuyết về mọi sự (Theory of Everything). Minh triết về mọi sự, giáo lý về mọi sự ở đâu? Khi nào nó được trao truyền? Một lần nữa, sẽ không bao giờ có một giáo lý tối thượng được trao truyền trên trái đất một phần bởi vì trái đất hiện nay đang ở một tầng mức mà các thày gọi là một hành tinh không tự nhiên có nhiều giới hạn trầm trọng. Lý do khác là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên cũng không thể trao truyền một giáo lý tối thượng. Bởi vì giáo lý tối thượng là gì, giáo lý tối thượng về mọi sự là gì?  Nội dung của giáo lý tối thượng về mọi sự phải bao gồm những gì? Lẽ tự nhiên, giáo lý này phải bao gồm mọi sự. Giáo lý tối thượng về thế giới hình tướng này có thể tìm ở đâu? Trong tâm đấng Sáng tạo.

Làm sao giáo lý về mọi sự có thể truyền đạt đến bất kỳ tầng mức sáng tạo nào thấp hơn đấng Sáng tạo? À, điều này không làm được. Con chỉ có thể đạt tới tầng minh triết tối thượng bằng cách trở thành một với tâm đấng Sáng tạo. Lúc ấy con biết minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, ta có thể tiếp cận vấn đề một cách khác và nói: “Khi nào thì giáo lý tối thượng sẽ được trao truyền trên trái đất?” Ấy, giáo lý tối thượng cho một hành tinh như trái đất là gì? Đó là giáo lý chỉ dạy cách vượt thăng những tầng mức tâm thức có mặt trên trái đất. Con có thể bắt đầu ở bất kỳ tầng mức nào, vươn lên những tầng tâm thức có thể có trên trái đất cho tới khi đạt được tầng cao nhất và rồi con vượt thăng tầng mức này và đi vào một trạng thái cao hơn. Cho dù con gọi nó là Niết bàn hay giác ngộ hay trạng thái thăng thiên hay gì khác, con có thể tốt nghiệp từ Trường học Trái đất.

Có thể nói là giáo lý nào giúp con tốt nghiệp trường học trái đất là giáo lý tối thượng có thể được trao truyền, tùy theo tình trạng đặc thù, hòan cảnh đặc thù trên trái đất, chính yếu là tùy theo tầng mức của tâm thức tập thể nhưng cũng tùy theo độ dày đặc của vật chất. Nhìn theo góc độ này, chúng ta có thể nói là giáo lý tối thượng đã được trao truyền dưới nhiều dạng vì giáo lý của Phật có thể giúp con người thăng vượt các tầng mức tâm thức khả thi trên trái đất, và giáo lý của Ki-tô cũng thế, cũng như nhiều giáo lý khác có tính chất tôn giáo hay thần bí. Vấn đề không phải là nghĩ rằng có một giáo lý tối thượng sẽ đem lại kết quả một cách máy móc. Đây là một khiếm khuyết trong tư duy mà thày muốn sửa đổi, vì tâm đường thẳng sẽ nói: “À, nếu tôi có giáo lý tối thượng, thì khi tôi học hỏi giáo lý này và hiểu nó nói gì, chắc chắn tôi phải đạt được tầng tâm thức tối thượng và sẽ giác ngộ, thức tỉnh và thăng thiên.”

13.6. Hiểu giáo lý so với nâng cao tâm thức

Không thể trao truyền một giáo lý có thể đem lại sáng ngộ một cách tự động và máy móc cho bất cứ ai hiểu giáo lý. Tại sao không làm được? Bởi vì mục đích của con đường tâm linh là nâng cao tâm thức của con lên quá các tầng tâm thức có thể có trên trái đất để con có thể nhảy vọt lên tâm thức thăng thiên. Mục đích là xoay chuyển tâm thức con lên cao, không phải là xoay chuyển hiểu biết của con lên cao và điều này lẽ tất nhiên sẽ làm chấn động khiến nhiều nguời tâm linh thuộc nhiều truyền thống. Thậm chí nhiều người thuộc các thời đại trước cũng sẽ bị chấn động bởi câu nói này vì trong tâm của họ, họ nghĩ rằng hiểu biết tương đương với tầng mức nhận biết. Ắt hẳn để có thể hiểu trọn vẹn một giáo lý nào đó, bạn phải đạt tới tầng nhận biết cao nhất – nếu không làm sao bạn hiểu được giáo lý?

Có sự khác biệt giữa hiểu một giáo lý bên ngoài và thể nhập giáo lý qua đó con nâng cao tâm thức mình. Hiểu một giáo lý khác nâng cao tâm thức vì hiểu điều gì đó có nghĩa gì? Hiểu nghĩa là quan sát từ bên ngoài. Khi con lấy một giáo lý dù là kinh Phật hay kinh Ki-tô hay bất kỳ kinh nào khác, thì con lấy một giáo lý mà con xem đến từ bên ngoài tâm con. Con đánh giá nó với trí năng, tâm phân tích, tâm đường thẳng. Con tìm cách nắm bắt và hiểu nó nhưng con vẫn coi nó là cái gì bên ngoài con. Con có thể tìm cách hiểu cõi tâm linh. Con có thể tìm cách hiểu một chân sư thăng thiên như thế nào, con nghĩ rằng nếu con hiểu Thày Lanto thì con sẽ nối kết với thày, nhưng điều này không thể làm được.

13.7. Trải nghiệm so với biết từ bên ngoài

Hiểu mang ngụ ý là có khoảng cách giữa người biết và cái được biết. Làm sao con nâng cao tâm thức khi con còn thấy có khoảng cách? Làm sao con nối kết với Thày Lanto và Minh triết của Tia thứ Hai? Con không nối kết được nếu con nghĩ đây là điều con có thể nắm bắt bằng trí năng, điều con thấy bên ngoài con, một hiểu biết mà con phải đạt được. Con rốt cuộc sẽ nối kết được khi con tới điểm nhận ra là không có khoảng cách và con trải nghiệm là không có khoảng cách. Con không cố gắng hiểu thày, vì dù con hiểu thày rõ tới đâu bằng trí năng, con sẽ vẫn không nối kết được với thày. Thày đã nhiều lần đứng sát cạnh, nói theo nghĩa bóng, một học trò đang tìm cách nắm bắt Minh triết Thiêng liêng. Thày đang vỗ vai, nói theo nghĩa bóng, người học trò và nói: “Thày đang ở đây.” Nhưng người học trò mải nhìn vào kinh điển bằng trí năng để cố gắng hiểu: “Ắt hẳn thày ở ngoài kia. Thày không thể ở quá xa.”

Một số người nghĩ: “Thày càng ở xa, tôi càng cần nhiều nỗ lực để hiểu thày, thì tôi càng cao trội hơn, càng đặc biệt hơn nếu tôi có thể hiểu vị thày ở xa tít đó.” Thày vẫn còn đứng ngay đây, con chỉ cần quay đầu và nhìn. Nhưng không đâu, y đang nhìn vào cuốn sách và kinh điển, đo lường với trí năng của mình: “Cách giải thích này cao trội hơn hay là cách giải thích kia cao trội hơn? Gía chi tôi tìm thấy cách giải thích cao trội thì chắc đấy là thày Lanto.” (Người sứ giả gõ vào máy thu âm ba lần). Thày vẫn còn ngay đây. Tại sao con không ngửng đầu khỏi cuốn sách và có thể tình cờ nhìn thấy thày? Nhưng không đâu: “Tôi đang tập trung vào cuốn sách, bởi vì chắc chắn thày Lanto phải đang lẩn trốn giữa các hàng chữ trên trang giấy. Thày có thể nào ở đâu khác?” Con thấy chăng đây là trò chơi mà con người có thể chơi vô thời hạn khi họ vẫn tìm cầu cái ưu việt của trí năng thay vì tìm cầu sự giản dị của trải nghiệm.

Minh triết là gì? Nó có thể nói ra lời được chăng? Không đâu. Minh triết là một trải nghiệm. Nó là một Hiện diện. Con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện. Đó là lý do tại sao con không thể hiểu Hiện diện TA LÀ của con, con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện.

13.8. Có một cái ngã chăng?

Trở lại câu hỏi mà Phật từ khước trả lời: Có một cái ngã chăng hay không có ngã? Các thày Bà la môn tranh luận điều này không ngừng. Một số vẫn còn tranh luận ngày nay. Một số người ngày nay đã lấy những giáo lý cổ xưa này và tạo ra phiên bản hiện đại của họ. Họ vẫn còn đang tranh luận: “Có chăng một cái ngã hay một trạng thái vô ngã?  Chúng ta có nên cố gắng đạt tới ngã tối thượng là Atman, cái ngã trường tồn và bất biến? Nhưng hãy đợi một chút. Phật nói rằng  không có một ngã như thế. Vậy chúng ta phải làm ngược lại và nói như vậy có nghĩa là không có ngã nào cả. Không có ngã trường tồn mà cũng không có bất kỳ loại ngã nào khác. Chúng ta phải cố gắng đạt được vô ngã và chối bỏ là chúng ta có bất cứ ngã nào. Lúc ấy chúng ta sẽ trở về hợp nhất với nhận biết tối thượng, vô biên của Brahman.”

Giáo lý Vệ đà nói rằng có một Atman, là cái ta tối thượng, cái Ta Một, cái ta không phân chia trường tồn, bất biến. Vậy các hiền giả Rishi có hoàn toàn sai khi nói thế? Có và không. Chúng ta có thể nào soi sáng vấn đề một cách khác với giáo lý do các chân sư thăng thiên trao truyền chăng? Có và không. Các thày có thể giải thích, các thày có thể cố gắng giải thích bằng từ ngữ, nhưng con người có thể nắm bắt được chăng? Hay họ sẽ rơi vào tranh cãi không dứt và lấy bất cứ giáo lý nào mà các thày trao truyền để tạo ra những lập luận mới, những diễn giải mới, những diễn giải trí năng cầu kỳ mới?

13.9. Hai khía cạnh của tâm thức Ki-tô

Hãy để thày cố gắng trao truyền cho con một điều. Các nhà tiên tri Vệ đà có nói sai chăng về Atman? Dựa trên các khái niệm và ngôn từ mà các thày đã dùng trong các giáo lý này, thì ta có thể nói “không hẳn thế”, bởi vì các thày đã nói gì? Các thày đã nói đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi sự từ chính bản thể ngài, từ chính tâm thức ngài, từ chính bản ngã ngài. Cái đầu tiên được tạo, đấng Con đầu tiên, là tâm thức Ki-tô. Tâm thức này có mục đích đem lại sự hợp nhất giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài để tạo vật này, tức là những phần nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo, không thể mãi mãi lạc lối trong hình tướng. Con có thể nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, của tâm thức Ki-tô hoàn vũ, ngày hôm qua ngày hôm nay và mãi mãi vẫn là một, như kinh điển có nói. Có thể nói là nó không có sắc thái, không biến đổi theo thời gian, không có phân biệt, không có hình tướng. Do vậy, nó không thể biến đổi, vì nó vượt lên trên quan niệm mà con có thể có từ thế giới hình tướng.

Mặt khác, tâm thức Ki-tô hoàn vũ được sinh ra từ đâu? Từ Bản thể của đấng Sáng tạo, từ tâm thức của đấng Sáng tạo. Có đúng chăng là đấng Sáng tạo luôn luôn thăng vượt chính mình?  Có đúng chăng là đấng Sáng tạo tạo tác để ngài có thể trải nghiệm sự sáng tạo, trải nghiệm tạo vật của chính ngài từ bên trong xuyên qua các con là những nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo? Như vậy phải chăng tâm thức Ki-tô quả thật không biến đổi hay nó giản dị có hai khía cạnh? Một khía cạnh luôn luôn hợp nhất với đấng Sáng tạo và khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô luôn luôn thay đổi, thích ứng với những ảo tưởng mà con người tạo ra và cho họ con đường từ ảo tưởng quay về cái một.

Các nhà tiên tri Vệ đà có hoàn toàn nắm bắt điều này chăng? Không đâu, vì họ bị kẹt trong lý luận trí năng cho rằng nhất định phải có hai mặt của đồng tiền, hai đối nghịch. Họ lý luận rằng khi có một thế giới nơi mọi sự đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái đối nghịch không thay đổi gì cả. Phải chăng những giáo lý mà các hiền triết (Rishis) nhận được đến từ tầng tâm thức đã bị phân chia và như thế có tính chất nhị nguyên? Con thấy ở đây đặc tính của trí năng, của tâm đường thẳng. Tâm này lấy một trạng thái đặc thù, thông thường từ những gì có thể quan sát trong thế gian, và sau đó nó từ đó lý luận lên trên hay ngược lại để suy ra cõi tâm linh và nguồn gốc của sáng tạo.

Nó luôn luôn lý luận rằng bất cứ điều gì có thể quan sát thì phải có cái ngược lại. Nếu con quan sát thấy mọi điều trên thế gian đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái ngược lại không thay đổi. Sau đó, nó phóng chiếu là phải có một minh triết nào đó cao hơn. Các hiền giả (Rishis) nói là có một cái ta bất biến và trường tồn là Atman, và mọi người đều phát xuất từ Atman đó. Khi họ thức tỉnh từ ảo tưởng họ tách biệt với Atman, thì họ sẽ tan biến vào Atman, trở thành một với Atman. Mặt khác, Phật nói rằng khi quan sát nội tâm, Phật chưa bao giờ khám phá thấy một cái ta bất biến trường tồn trong mình. Vậy Phật sai hay các hiền giả (Rishis) sai?

13.10. Cái ta luôn luôn vượt thăng chính nó

Những gì Phật dạy quả thật Phật đã gần sự thật hơn, một sự thật không thể bày tỏ đầy đủ bằng ngôn từ. Bởi vì khi con truy tìm nguồn gốc của mình, thì đầu tiên hết con tìm thấy Cái Ta Biết của con vượt quá cái ta vỏ ngoài, sau đó con tới Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của các chân sư thăng thiên, là nối dài của các chân sư thăng thiên khác, nối kết trở lại tới tận đấng Sáng tạo xuyên qua các bầu cõi đã thăng thiên. Con là một phần của tạo vật của đấng Sáng tạo và trong sự sáng tạo luôn luôn có biến đổi và chuyển động. Sự sáng tạo luôn luôn thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia. Thật có chăng một cái ngã bất biến, một cái ngã cá nhân bất biến?

Các thày đã giải thích là các con được tạo ra để là những người đồng sáng tạo. Người đồng sáng tạo là gì? Đó là một sinh thể bắt đầu như một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, dần dà mở rộng ý niệm bản ngã của mình cho tới khi đạt được tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Điều này không có nghĩa là con tan biến trong đấng Sáng tạo đã tạo ra con, mà có nghĩa là con đã tự mình trở thành một đấng Sáng tạo. Con được tạo ra như một sinh thể chuyển động, tự thăng vượt và tiến trình này có thể tiếp diễn vô tận. Vậy thì Atman, cái ta bất biến, ở đâu? Nó không có đó.

13.11. Trạng thái không có cái ta vỏ ngoài

Có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, tâm Ki-tô hoàn vũ mà con có thể trải nghiệm ngay khi là một con người đang hiện thân trên trái đất. Khi con trải nghiệm tâm thức Ki-tô trên một hành tinh luôn luôn chuyển động, thì tâm thức này giống như một tảng đá không lay động so với sự chuyển động liên tục của con. Đó là lý do vì sao trước kia nó được diễn giải như vậy, như một cái ta bất di dịch. Đây là sự diễn giải nhìn từ thế giới hình tướng trên một hành tinh như trái đất. Sau đó con có thể tiếp tục và nói: “Phải chăng Phật có nói tới một trạng thái vô ngã? Vậy thì Phật ngụ ý gì?” Nhiều người Phật tử hiện đại nghĩ rằng mục đích tu theo Bát chánh đạo là đạt tới một trạng thái vô ngã bằng cách buông bỏ tất cả mọi ngã. Có những người khác trong thế giới Tây phương đã dùng tư duy đường thẳng lý luận và nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là trừ tiệt cái ngã. Ai đúng? Ai sai?

Câu trả lời tùy theo con đang nói tới ngã nào. Nếu con nói tới ngã tách biệt, cái tự ngã sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, thì quả thật Phật dạy đạt tới một trạng thái không còn tự ngã này, không còn ngã vỏ ngoài. Điều này không có nghĩa là Phật nói con không có ngã. Bởi vì khi con không còn bị kẹt trong sự đồng hóa với tự ngã, thì con khám phá con là một nối dài của cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con có một cá tính được quy định bởi cha mẹ tâm linh của con, các chân sư thăng thiên. Con được sinh ra để mở rộng cái ta đó, vượt thăng nó và trở nên hơn nữa khi cá thể này tăng triển.

Nếu con lý luận rằng mục đích của con đường tâm linh là đạt trạng thái vô ngã nơi con thật sự không hiện hữu, thì một lần nữa con lại dùng tâm đường thẳng để lý luận rằng mọi chuyện phải có hai đối cực, và điều này một lần nữa cho con thấy khuyết điểm của tâm lý luận này. Khi Cái Ta Biết tách ra khỏi ngã vỏ ngoài và cá tính vỏ ngoài, thì con khám phá cái ta cao, Hiện diện TA LÀ và cá tính của nó và con bắt đầu biểu thị cá tính đó.

13.12. Trạng thái vô ngã

Vậy tại sao có những người đã trải nghiệm hay tự nhận là đã trải nghiệm trạng thái vô ngã? Có thể có chuyện này chăng? Suốt một thời gian rất dài, kể từ khi sa nhân sa ngã ở bầu cõi Thứ tư, thì họ đã tạo ra cái mà các thày gọi là một quần thể, một ngã tập thể, một quái vật tập thể giống như trạng thái trống không, trạng thái vô ngã. Trên trái đất các sa nhân đã làm hai điều với cái ngã. Một mặt, họ tìm cách nâng cao bản ngã của họ lên một địa vị tối thượng qua đó họ nghĩ rằng Thượng đế bắt buộc phải cho họ vào thiên đường hay cho họ quyền điều hành vũ trụ vì họ quá ư tinh xảo. Mặt cực đoan kia, họ đã tạo ra trạng thái vô ngã này, với mục đích gì? Họ tìm cách lôi kéo, đặc biệt là những người tâm linh, đi vào một trong hai hướng đó. Hoặc là tìm cách làm cho ngã tinh xảo đến mức nó có thể đi vào thiên đường, hoặc chối bỏ có một cái ngã và đi vào trạng thái lấp lửng hay chốn vô định hay chốn vô ngã khi nghĩ rằng mình không có ngã.

Có những người tin rằng họ đã khắc phục ngã và ngã đã chết. Họ phóng chiếu là có những chân sư đã đạt tới trạng thái vô ngã, bất nhị. Làm sao con biết được là con đã đạt trạng thái vô ngã này? Khi con nói: “Tôi đã đạt vô ngã, tôi đã đạt bất nhị” thì cái “ngã” nào đang nói? Chẳng phải đấy là một ngã hay sao? Khi con có cái ngã nói: “Tôi là vô ngã” thì con có thật sự thoát khỏi ngã chăng? Hay là con chỉ giản dị đi vào một ảo tưởng lừa gạt mình nghĩ rằng mình đã đạt được một trạng thái tối thượng nào đó trên đường tâm linh?

13.13. Thăng vượt liên tục

Trạng thái tối thượng trên con đường tâm linh là gì, ít nhất là trên trái đất? Đó là nhận ra con là một người đồng-sáng tạo. Con đi ra từ Bản thể đấng Sáng tạo, con có thể gọi là Brahman hay nhận biết vô biên hay bất cứ gì khác mà con muốn. Con không được tạo ra để hiện thân trên một hành tinh như trái đất và trải qua nhiều ngàn kiếp đầu thai với tất cả khổ đau mà đầu thai đem lại để rồi một ngày kia con giản dị thức tỉnh và tan biến vào cái hư không mà con từ đó đi ra.

Đấy không phải là mục đích của tiến trình sáng tạo. Mục đích của sự sáng tạo là tự thăng vượt, thăng vượt vô hạn định, mãi mãi, liên tục. Đấy là minh triết cao nhất. Thày không nói là minh triết tối thượng, nhưng đó là minh triết cao nhất có thể trao truyền trên một hành tinh như trái đất. Nếu con nắm bắt được điều này và vượt thăng và tiếp tục vượt thăng, thì nó sẽ đưa con vượt quá tầng tâm thức của trái đất và con có thể trải nghiệm một dạng minh triết vô vàn cao hơn, không thể trao truyền hay trải nghiệm trên trái đất. Bởi vì chỉ khi nào con là một chân sư thăng thiên, con mới có thể thực sự trải nghiệm tầng tâm thức vượt quá trái đất.

13.14. Hiểu sai về truyền thống Vệ đà

Một trong những hiểu sai chí tử về toàn bộ hệ thống Vệ đà (dù con gọi nó là Vedanta hay Advaita Vedanta hay bất kỳ tên nào khác), và thày dùng chữ “chí tử” hiển nhiên như một khiêu khích, là họ đã không nắm bắt ý nghĩa của nhị nguyên. Một câu nói thường được trích dẫn là: “Brahman là thực tại duy nhất. Thế gian là một ảo tưởng.” Cho nên họ nghĩ, họ lý luận chỉ có Brahman là thực và do đó, con như là một cái ta, con không thực. Cái ta không thực. Cái ta là một cái ta tách biệt. Nó không thực và do đó để đạt được bất nhị, để thoát khỏi nhị nguyên mà họ coi là mục đích cao nhất, con phải khắc phục cái ta vì cái ta chỉ có thể là nhị nguyên.

Con hãy xem xét câu nói: “Chỉ Brahman mới thực, thế gian là một ảo tưởng.” Trong câu này có nhị nguyên. Nếu Brahman là thực và là điều duy nhất hiện hữu, thì thế gian từ đâu tới? Nó ắt hẳn phải tới từ Brahman. Đâu có gì khác. Làm sao thế gian có thể là một ảo tưởng nếu nó đến từ Brahman và do Brahman tạo ra? Thế gian là Brahman biểu hiện chính mình như thế gian. Làm sao khi Brahman biểu hiện chính mình như hình tướng lại tạo ra ảo tưởng, khi chỉ có Brahman là thực? Thế gian cũng là Brahman vậy ảo tưởng ở đâu?

Nói thế gian tách biệt khỏi Brahman là một ảo tưởng. Khi nói Brahman là thực và thế gian là một ảo tưởng, phải chăng con đã tách thế gian ra khỏi Brahman? Phải chăng con đã tạo ra nhị nguyên dù con khẳng định câu nói này vượt trên nhị nguyên? Con thấy sự gian xảo của tâm lý luận. Thế gian không phải là một ảo tưởng. Thế gian được tạo ra từ các sinh thể thăng thiên biết và trải nghiệm họ là những nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo – con có thể gọi là Brahman hay đấng Sáng tạo hay bất kỳ tên gọi nào khác. Chúng ta biết chúng ta từ đâu tới và chúng ta biết chúng ta được sinh tạo bởi đấng Sáng tạo, chúng ta được sinh tạo từ Bản thể của đấng Sáng tạo và do đó sự hiện hữu của chúng ta không phải là một ảo tưởng. Chúng ta có thực và thế giới có thực. Thế giới hình tướng có một thực tại dù con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nơi đây vẫn có những cấu trúc thực. Thế giới không phải chỉ là một ảo tưởng.

Giờ đây con hãy xem xét: Nếu Brahman là tất cả những gì có thực và Brahman sinh tạo thế giới, lẽ tất nhiên Brahman biết thế giới là Brahman thì làm sao có thể có ảo tưởng? Có thể nào có ảo tưởng trong tâm Brahman chăng? Điều này nghe có hợp lý chăng? Vậy thì ảo tưởng nằm ở đâu? Nó chỉ có trong tâm tách biệt khỏi nguồn cội của tâm. Nó chỉ có trong tâm nhìn Brahman từ một khoảng cách và tìm cách hiểu và phóng chiếu một hình ảnh lên Brahman. Toàn bộ truyền thống bắt nguồn từ kinh Vệ đà và các nhà tiên tri Vệ đà (Vedic seers), đều đặt nền tảng trên nhị nguyên.

13.15. Hình tướng khác biệt không phải là nhị nguyên

Các thày đã trao truyền gì cho các con? Một cái nhìn khác. Các nhà tiên tri Vệ đà sẽ nói tầm nhìn này thô thiển, đây là một mức hiểu thấp hơn. Họ sẽ nói chỉ có Brahman là thực. Mỗi khi con có sự phân chia thành một thứ gì đó khác với Brahman, thì con có nhị nguyên. Thày vừa nói gì? Nếu chỉ có Brahman là thực, mọi sự đều được sinh tạo từ Brahman ra cho nên thế gian vẫn là Brahman. Nhị nguyên ở đâu? Nhị nguyên không ở trong thế giới hình tướng. Nhị nguyên không ở trong thực tại. Nhị nguyên chỉ có ở trong tâm, tâm tách biệt, tâm thấy mình tách biệt.

Đúng vậy, mục đích của con đường tâm linh là khắc phục tâm tách biệt, nhưng con không khắc phục tâm tách biệt bằng cách đi vào trạng thái vô ngã. Con khắc phục nó bằng cách khắc phục ảo tưởng rằng con có thể là một ngã tách biệt, tách biệt khỏi tâm một. Khi con khắc phục ảo tưởng là con đồng hóa với ngã tách biệt, thì con không tan biến mất, con không đi vào vô ngã. Con khám phá Hiện diện TA LÀ của con: “À, tôi là cái này. Tôi không là cái ở dưới này, tôi là cái này! Và ô kìa, Hiện diện TA LÀ đến từ cái này, và cái này đến từ cái kia, và cái kia đến từ đấng Sáng tạo.” Con không thấy một đấng Sáng tạo không phân chia, con thấy một chuỗi cấp bậc đi lần tới đấng Sáng tạo.

13.16. Bẫy của tâm sa ngã: hoặc ngã tách biệt ưu việt hoặc vô ngã

Những tín đồ Vệ đà đã tạo ra cảm tưởng này: “Chỉ có Brahman và thế gian. Chỉ có nhận biết vô biên và thế gian. Thế gian là một ảo tưởng. Khi ta thức tỉnh khỏi ảo tưởng, ta trở về với Brahman.” Đây là lời gian dối của tư duy sa ngã. Khi con thức tỉnh khỏi ảo tưởng mình tách biệt, thì con thức tỉnh và nhận ra con tới từ thực tại nào, con là nối dài của cái gì và mục đích của con là tăng trưởng tự nhận biết. Con không trở về đấng Sáng tạo bằng cách tan biến và trở thành số không. Con trở về đấng Sáng tạo bằng cách trở thành tất cả những gì đấng Sáng tạo là, đạt được tâm thức của đấng Sáng tạo. Đó là lý do tại sao đấng Sáng tạo sinh tạo tất cả chúng ta là những sinh thể cá biệt có tự nhận biết. Nếu chúng ta muốn, tất cả chúng ta đều trên hành trình trở về nguồn cội, nhưng nguồn cội chúng ta không phải là hư không. Nguồn cội chúng ta là đấng Sáng tạo và đấng Sáng tạo muốn chúng ta đi trên hành trình trở về này một cách ý thức, đạt được những tầng nhận biết và ý niệm bản ngã càng ngày càng cao hơn, để chúng ta có thể nhận chân mọi tầng mức của tạo vật của đấng Sáng tạo và góp phần đồng-sáng tạo nó. Đây là điều đấng Sáng tạo muốn; không phải là hành trình giả dẫn tới sự ưu việt của ngã tách biệt hay vô ngã.

Các con yêu dấu, thày nhận ra, như Chân sư MORE và các thày khác đã nói, là đôi khi các thày trao cho các con nhiều hơn những gì con có thể hiểu thấu. Nếu con cứ tiếp tục thăng vượt chính mình thì con sẽ tới điểm hiểu thấu được. Vì nếu tiết lộ tuần tự chỉ cho con những gì con có thể hiểu thấu ở tầng mức hiện tại của con, thì sao nó có tín chất tuần tự được?

13.17. Nối kết với Thày Lanto

Tất cả những điều trên liên quan gì tới kết nối? Thày đã cho các con những gợi ý về Hiện diện TA LÀ của con. Thày đã cho con những gợi ý về minh triết thật sự. Làm sao con kết nối được với Thày Lanto và Hiện diện của Minh triết? Bằng cách trải nghiệm Hiện diện của thày. Thày vẫn đang đứng ngay cạnh con (âm thanh gõ trên vai con). Con hãy giản dị nhìn đi. Nhìn với tâm không thành kiến. Nhìn với sơ tâm (beginner’s mind). Nhìn với tâm trẻ thơ và con có thể tìm thấy thày. Nếu ý muốn của con là trải nghiệm Hiện diện của Minh triết thì thày đang ở ngay đây. Thày chẳng đi đâu cả. Con có đi nơi nào khác chăng? Nếu thế thày hy vọng nơi ấy gần thày hơn. Gần điểm nơi con khám phá thày lúc nào cũng đang ở ngay đây.

Tới đây thày cám ơn con đã kiên nhẫn và thày niêm con trong Hiện diện của Minh triết Thiêng liêng mà thày hy vọng đã chứng minh là minh triết này vượt lên trên trí năng và tâm đường thẳng. Lanto THÀY LÀ.

11 | Quy thuận theo ý chí cao hơn của Tâm Một

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE (HƠN NỮA). Con kết nối với thày bằng cách nào? Lẽ tất nhiên, bằng cách muốn hơn nữa. Làm sao có thể có cách nào khác? Con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA. Con có thể hỏi, “Hơn gì?”, nhưng câu hỏi này không cần đặt ra. Vì cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Thày tin rằng con có thể thấy điều này nếu con vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE, vì thày không hơn và cũng không kém. Bí quyết là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và điều gì có thể giúp con làm việc này?

11.1. Nhiều khía cạnh của Ý chí

Thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất, thường được coi là Tia của Ý chí. Và trong những đợt truyền giáo trước, họ coi thày như một vị thày rất nghiêm khắc, và con phải có ý chí mãnh liệt và có kỷ luật thì mới dám tới gần thày, nhưng ý chí có nhiều khía cạnh. Ý chí không phải lúc nào cũng là ý chí mãnh liệt và nhất quyết, vì các thày đang tìm cách giảng điều gì? Cách nối kết với các chân sư thăng thiên không qua việc nhấn và nhấn mạnh hơn, cố gắng và cố gắng nhiều hơn.

Rõ ràng là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, một ý chí bên ngoài. Có ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Có ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái điều nó muốn gặt hái, là sự an toàn – một địa vị tối hậu nơi nó có thể cảm thấy an toàn. Tự ngã nghĩ rằng nếu con đi theo con đường tu thì con sẽ đến một giai đoạn tối hậu. Và nếu con chú tâm vào ý chí và quyết tâm, thì tự ngã nghĩ rằng con cần ý chí tối hậu, quyết tâm tối hậu. Trong các đợt truyền giáo trước, một số đệ tử đã đi vào tâm thái cho rằng muốn nối kết với thày, El Morya là hình ảnh họ có về thày lúc đó (và dĩ nhiên vẫn còn đang duy trì), thì họ phải thể hiện ý chí mãnh liệt này. Họ phải là ngọn lửa xanh, tia sáng xanh và họ phải nhất quyết và rất chú tâm.

Nhiều người trong số các đệ tử đó quên đi câu chuyện mà các thày có kể, rằng thày Kuthumi và thày được trao nhiệm vụ trèo lên một đỉnh núi để lấy một thông điệp, và thày hoàn toàn chú tâm và xông thẳng lên đỉnh núi, trong khi thày Kuthumi chậm rãi nối kết với chim muông và hoa. Nhưng khi các thày đi xuống từ đỉnh núi, thì thày Kuthumi nhớ thông điệp, trong khi thày thì quên mất. Câu chuyện này cho con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Sau đó, lẽ dĩ nhiên còn có một hình thức khác của ý chí vỏ ngoài mà ta có thể gọi là phản-ý chí, là điều mà con thấy nơi nhiều người trên trái đất khi họ bị tâm thức tập thể chế ngự. Họ không biểu lộ cá tính mạnh, họ không muốn ló ra khỏi đám đông, họ muốn nhập vào đám đông, biến vào đám đông, làm những chuyện họ được bảo, tuân theo quy ước, tuân theo truyền thống xã hội.

11.2. Trung đạo của Ý chí

Con có cả phản-ý chí lẫn ý chí bất quân bình. Con thực sự có thể thấy cả hai khía cạnh này trên con đường tâm linh. Như thày có nói, có một số đệ tử rất quyết tâm trong khi có một số khác gia nhập một phong trào tâm linh và quyết định họ sẽ làm bất cứ gì được bảo, không bao giờ chất vấn, không bao giờ suy nghĩ tự lập, nhưng chỉ trôi theo nền văn hóa của tổ chức, trôi theo bất kể yêu cầu nào của tổ chức. Cả hai loại ý chí này đều bất quân bình. Thế nào là ý chí quân bình? Có phải chăng là điểm giữa hai đối cực mà thày vừa mô tả, hay là Trung đạo, khác với điểm giữa hai đối cực, nhưng là sự thăng vượt tâm thức của hai đối cực nhị nguyên?

Nhiều đệ tử đã chọn phương hướng tu là cần có kỷ luật và quyết tâm. Và thày hoàn toàn không nói phương pháp này không có giá trị. Khi con đang đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96, thì lẽ tự nhiên ý chí của con, quyết tâm của con cần mạnh hơn sức kéo xuống của tâm thức tập thể. Vì nếu không thì làm sao con có thể vươn lên trên tâm thức tập thể?

Khi con đi tới các tầng cao hơn và bắt đầu đi quá tầng 96, thì con bước vào một giai đoạn khác. Con nên xem xét là có một cách khác để tiếp cận các đức tính của bảy tia. Con có thể lấy đức tính uy lực ý chí, con có thể thấy nó diễn bày ra sao trên trái đất và con có thể thiết lập hai đối cực. Con có thể nghĩ uy lực ý chí có thể yếu hay mạnh, hoặc hướng ngoại hoặc ù lì, hoặc hung hãn hoặc thụ động.

Một cách nhìn khác là vươn lên tới nhận biết uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập khi con là một sinh thể đang đầu thai. Đây là điều nhiều đệ tử trong các đợt truyền giáo trước nghĩ. Họ nghĩ rằng đây là uy lực Ý chí Thiêng liêng của Tia thứ Nhất và tôi cần có được uy lực ý chí đó để tôi có được uy lực ý chí đó khi ở trong xác thân này. Nhưng uy lực ý chí này sẽ biểu lộ ra sao nếu con nghĩ như vậy?

11.3. Nỗ lực tới điểm gãy đổ

Con sẽ xây dựng một ngã tập trung vào uy lực ý chí và cách con nhìn uy lực ý chí xuyên qua một ngã khác. Đó là lý do vì sao con đang xây dựng một uy lực ý chí là ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Và một lần nữa con nghĩ rằng phải có một rào cản mà con phải đẩy qua vì chắc hẳn thế giới vật lý tách biệt khỏi đức tính Thiêng liêng của Uy lực Ý chí của Tia thứ Nhất. Con cần phải nỗ lực để có được nó, con cần phải nỗ lực để có được bất cứ gì trên trái đất. Con đi vào trạng thái làm, làm, làm, làm nhiều hơn và dùng nhiều nỗ lực hơn và nhiều hơn nữa.

Một số người đã nhận ra là khi họ cố làm nhiều hơn thì họ lại đạt được ít hơn. Đây là điều các thày đã giải thích trước đây. Khi con tạo ra ngã vỏ ngoài phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối. Con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, và sẽ đến lúc con không thể nỗ lực mạnh hơn nữa, con không thể chịu nổi việc cứ luôn luôn phải nỗ lực quá mạnh. Điều này đã khiến một số đệ tử rốt cuộc bị suy sụp, không còn làm được nữa. Các thày đã thấy điều này nơi các đệ tử trong các đợt truyền giáo trước, hội chứng hoàn toàn thất bại khi họ nỗ lực mạnh đến độ họ không còn nỗ lực được nữa. Lúc đó họ phải hoàn toàn rút lui khỏi đường tu, ngay cả rời bỏ con đường tu, tuy đã có lúc họ nghĩ họ đang tiến bộ rất tốt và là các đệ tử ưu tú nhất.

11.4. Cảm nhận sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng

Một cách khác là điều mà thày Quân Âm đã đề cập, là không làm nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Thay vì nghĩ con cần bơi trên ngọn sóng và bơi càng lúc càng nhanh hơn để bắt kịp Ý chí Thiêng liêng, thì con ngừng bơi, con thư giãn và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Nó dâng lên, nó hạ xuống, nó dâng lên, nó thư giãn và nó chảy về một hướng. Hướng này có thể không phải là hướng mà tâm vỏ ngoài, tự ngã, các ngã tách biệt của con muốn con đi tới. Nhưng đó là hướng sẽ cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, bất kể điều gì con đã ghi vào sứ vụ này mà tâm vỏ ngoài của con đã quên khuấy, và tâm vỏ ngoài không còn ý thức.

Con đã tạo trong tâm vỏ ngoài một mục đích dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn và con nghĩ con cần nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó không phải là hướng của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một lần nữa, nếu con dùng nỗ lực mạnh đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con thì con tạo sự chống đối bên trong chính mình, và con càng ngày càng phải cố gắng hơn. Đó là lý do một số người trải nghiệm là có cái gì gãy đổ, có cái gì chết đi, họ trải qua một đột phá, một sáng ngộ hay một sự suy sụp tinh thần, nhưng họ cảm thấy có một xoay chuyển và họ không thể tiếp tục đi theo hướng cũ. Nhưng nhận biết này không cần phải là một xoay chuyển quá to lớn khiến con cảm thấy trống vắng hay cảm thấy là không có gì trong đời mình đang suôn sẻ. Con thực sự có thể học cách giải quyết các ngã tách biệt này, nhận diện các ngã tách biệt muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh. Con có thể tới chỗ nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi, và sau đó con nỗ lực, một nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

11.5. Ý chí của Thượng đế đối với Ý chí của Hiện diện TA LÀ

Có nhiều sự ngộ nhận về Ý chí Thiêng liêng, mà có người cũng gọi là Ý chí của Thượng đế. Vị sứ giả này nhiều năm trước đây tham gia một đợt truyền giáo nói nhiều đến Ý chí Thiêng liêng, Ý chí của Thượng đế. Có sự tương phản giữa ý chí của tự ngã và Ý chí của Thượng đế, và ông trăn trở điều này trong tâm và lúc đó cảm thấy chỉ có hai chọn lựa, hoặc theo ý chí của tự ngã hoặc theo Ý chí của Thượng đế, và cả hai cách đều không có chỗ cho chính ông. Dù ông theo ý chí của tự ngã hay Ý chí của Thượng đế thì ông cũng cảm thấy đây là một ý chí bên ngoài ông. Có chỗ nào cho ý chí của chính ông chăng? Lúc đó ông không hiểu rõ vấn đề nhưng đó là điều ông cảm nhận. Rốt cuộc một ngày kia ông quy hàng và nói: “Được rồi Thượng đế, xin ngài cho tôi thấy ý chí của ngài và tôi sẽ tuân theo” thì lúc đó ông nhận được một xung lực từ bên trong nội tâm, sự thực là từ chính thày: “Nếu Thượng đế chỉ muốn con tự mình lấy quyết định thì sao?” Xung lực này khiến ông chấn động, nhưng nó tạo một phản ứng dây chuyền trong ông khiến ông nhận ra là không có Ý chí Thiêng liêng nào áp đặt bất cứ điều gì lên con người.

Không có một Thượng đế giận dữ trên thiên đàng, hay ngay cả một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng, đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì. Thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa, chính con đã chọn lựa. Vấn đề có phải chăng là lấy vào một ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích và ham muốn của con, hay là vượt lên trên tất cả mọi ý chí bên ngoài, cho dù đó là ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó? Có thể nào hòa điệu với cái mà nhiều người còn không coi là uy lực ý chí? Nó giống như đại dương dâng lên lắng xuống, sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Đây không phải là một ý chí mà con muốn chấp nhận hay chối bỏ. Đây là một ý chí mà con trầm mình vào, giống như con trầm mình vào đại dương. Con hãy tưởng tượng con đang bơi trên mặt đại dương và có những ngọn sóng lớn nhưng nhẹ, và thoạt tiên con bơi và phải vất vả mới giữ được đầu trên mặt nước, nhưng con nhận ra là con không cần thở vì con đang ở trong những thể cao của mình. Con có thể thư giãn, con có thể trầm mình vào lòng đại dương, và như vậy con không còn vùng vẫy trên mặt đại dương nữa và con chỉ nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương và con di động theo ý chí cao đó. Con không vùng vẫy, con không dùng lực, và đó là điều mà Lão Tử có nói là con không làm gì cả nhưng không có nghĩa là con thụ động. Không có nghĩa là con phải ngồi trong một hang động trong núi Himalaya và suốt ngày thiền định về Thượng đế. Con có thể có một cuộc sống tích cực, con có thể làm một số công việc, con có thể lấy quyết định nhưng con không áp đặt các quyết định của mình. Con không lấy các quyết định này với tâm vỏ ngoài. 

Con chỉ trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia, và bỗng nhiên con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Nhưng điều này nghĩa là gì?

11.6. Vật lộn với ý chí và mục tiêu vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào cuộc đời mình và thấy là con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số mục tiêu vỏ ngoài cho cuộc đời của mình chăng? Có lẽ cha mẹ con đã thúc đẩy con đi học, làm một công việc nào đó, bắt đầu một sự nghiệp sẽ dẫn con dần dần tới những chức vụ cao hơn cho tới khi con tới mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp nơi tất cả mọi sự nghiệp phải chấm dứt, đó là về nghỉ hưu.

Con làm việc trong 40 năm hay nhiều hơn để đạt được chức vụ đó, để rồi về nghỉ hưu một thời gian ngắn sau khi con đạt tới đó. Con đã trải qua cả cuộc đời tìm cầu, và khi con nghỉ hưu và không còn tìm cầu nữa thì con không biết phải làm gì với chính mình. Có rất nhiều người chết trong vòng một hoặc hai năm sau khi nghỉ làm về hưu vì họ không còn lẽ sống nữa. Con có thể thấy nhiều người đi theo con đường vạch sẵn đó suốt đời họ, và sau khi họ rốt cuộc về hưu thì họ nhìn lại cuộc đời họ và cảm thấy: “Cuộc đời này có nghĩa gì? Tôi đã đạt được gì? Những thành tựu bên ngoài mà tôi đã đạt được, cuộc đời thật sự chỉ là thế hay sao?”

11.7. Những trồi sụt trên con đường tu

Khi con là một đệ tử tâm linh thì con có thể nói: “Không, những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.” Con thấy là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Một ngọn sóng trồi lên, con có thể có một trải nghiệm tâm linh cao, cảm thấy nối kết thật sự, nhưng sau đó tới lúc phải làm việc, phải nhìn vào tâm lý của mình. Con có thể cảm thấy mình đang tụt dốc, nhưng làn sóng cứ tiếp tục đi tới xuyên qua đại dương, và nó sẽ lại trồi lên, và lần này nó trồi lên cao hơn trước. Con nhận ra là tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn. Đến cuối đời con thấy là bất kể các kết quả vật lý mà con đạt được, con đã nâng tâm thức mình lên. Các thành tựu vật lý có quan trọng chăng khi con đã nâng tâm thức?

Vì khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào chăng? Con có thể mang được gì theo con? Chỉ có trình độ tâm thức. Nếu con đã nâng tâm thức mình lên tầng 100 trong một kiếp sống, thì con sẽ bắt đầu ở mức đó trong lần đầu thai kế tiếp, hay ít ra là con có thể mau chóng đạt trở lại mức đó. Như vậy có nghĩa là việc con thăng thiên trong kiếp đó là điều thiết thực. Hoặc con có thể thăng thiên trong kiếp đầu thai này, nhưng không phải nhờ dùng nỗ lực mạnh nhưng bằng cách nối kết với dòng chảy của ý chí, của Ý chí Thiêng liêng, không chú trọng vào thành tựu đặc thù nhưng vào việc nâng cao toàn thể sự sống lên. Mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

11.8. Vũ khúc hoàn vũ của Tâm Một

Con có thể hỏi, khác biệt giữa tâm thức và rung động là gì? Tâm thức là cái gì có thể rung động và có khả năng khiến năng lượng rung động. Tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Trong cái Tâm Một đó, tâm thức có thể tự nó khiến nó rung động như năng lượng, và sau đó tâm thức có thể biểu thị chính nó như một sinh thể cá biệt có tự nhận biết, và lúc đó có thể khiến năng lượng rung động để thành hình tướng, và sinh thể thị hiện hình tướng lúc đó có thể nhận biết và trải nghiệm hình tướng. Đây là cách sự đồng-sáng tạo tiến hành, nhưng sự đồng-sáng tạo không những chỉ có mục đích nâng các sinh thể cá biệt lên các tầng tâm thức và khả năng đồng-sáng tạo cao hơn, nhưng còn có mục đích nâng lên cái mà ta có thể gọi là năng lượng hay vật chất, nâng cao độ rung động cho tới khi thấy rõ ràng là mọi hình tướng đều là tâm thức, đều xuất phát từ Tâm Một.

Đây là vũ khúc hoàn vũ, khi Tâm Một khoác vào hình tướng, khởi đầu với một ý niệm bản ngã hạn hẹp, nới rộng ý niệm bản ngã đó ra cho tới khi cái ta nhận ra nó là một phần nối dài của tâm một, nó là một đồng-sáng tạo với đấng Sáng tạo. Lúc đó, cái ta cá biệt xoay chuyển để không còn theo đuổi các mục đích như một ngã tách biệt nữa, nhưng trở thành một phần của tiến trình đồng-sáng tạo lớn lao nâng tất cả mọi sự sống lên, qua đó nâng mọi sự sống lên, nâng Tâm Một lên, và đây là điều mà tâm đường thẳng không thể hiểu.

Khi các thày nói chỉ có Tâm Một, con nghĩ (như nhiều người đã nghĩ) là điều này có nghĩa Tâm Một toàn hảo, nó không bao giờ thay đổi, nó là thực tại tối hậu, nhưng vì sao con hiện hữu như một hình tướng được biểu lộ? Đó là vì lúc nào cũng có các hình tướng được biểu lộ từ Tâm Một, và khi tâm tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng, mở rộng. Tâm đường thẳng hỏi: tiến trình này đã diễn ra từ bao lâu rồi? Từ muôn thuở là câu trả lời duy nhất. Ấy – tâm đường thẳng lại hỏi – nếu Tâm Một tăng trưởng chính nó từ muôn thuở, thì ắt hẳn nó phải tới một trạng thái tăng trưởng tối hậu. Làm sao nó có thể tăng trưởng mãi mãi? Tiến trình này khởi sự lúc nào? Có cái gì trước khi Tâm Một hiện hữu hay trước khi Tâm Một quyết định biểu lộ chính nó?” Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi, và sự tự tăng trưởng của Tâm Một không có giới hạn, không có kết thúc. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt, vì ai có thể nắm cái vô biên?

11.9. Hòa điệu với Hiện diện của các chân sư

Thày không nói là thày, như một chân sư thăng thiên, có thể nắm bắt sự tăng trưởng vô biên, vô tận nhưng thày có thể nắm bắt nó nhiều hơn mỗi ngày. Khi con nắm bắt cái hơn nữa, và tiến trình lúc nào cũng trở nên hơn nữa, thì con có lý do gì cần nắm bắt tiến trình một cách tối hậu? Vì tại sao con lại muốn đạt một mục đích nào đó, một mục đích tột cùng nào đó, khi con nhận ra là bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa? Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng – và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Con có thể trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu. Thày chỉ có thể cống hiến con Hiện diện của thày, các bài chú bài thỉnh của thày, quyển sách của thày là quyển đầu trong bộ sách về khóa học Tự Điều ngự. Lẽ tất nhiên, tất cả các thày là các Thượng sư trao truyền khóa học này không phải chỉ để giúp các con nâng tâm thức từ tầng 48 lên tới tầng 96, mà còn để các con có thể dùng mỗi quyển sách để hòa điệu với vị Thượng sư đã trao truyền quyển đó. Nếu con cảm thấy gần gũi với một vị Thượng sư, thì con hãy lấy quyển sách của vị ấy, đọc các bài truyền đọc, đọc các bài thỉnh với mục đích hòa điệu, chỉ hòa điệu với hiện diện của vị Thượng sư đó. Bất kể tầng tâm thức hiện tại của con, ngay cả khi con ở trên tầng 96, thì con sẽ thấy là sử dụng quyển sách sẽ cho con một hòa điệu lớn lao với vị Thượng sư, và qua đó với tia đó.

Con thấy chăng, tuy mục đích đặc trưng của quyển sách là giúp con người nâng tâm thức, trong trường hợp của thày bắt đầu từ tầng 48, nhưng lúc nào cũng có những mục đích khác. Nếu con nhìn quyển sách của thày và nói: “Ồ, tôi chắc hẳn đã trên trình độ từ tầng 48 đến tầng 55, do đó tôi không cần học quyển sách của Chân sư MORE nữa”, thì con không nắm được là có một tầng cao hơn. Quyển sách cống hiến một cái gì hơn các tầng căn bản. Hơn bao nhiêu? Khi con còn hiện thân trong cõi vật lý, thì lúc nào cũng có cái hơn nữa. Con có thể ở tầng 144 và con có thể sử dụng quyển sách mà vẫn gặt hái được điều gì từ đó giúp con kết nối với cái hơn nữa. Vì giống như vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn ngắm, tất cả mọi chuyện đều nằm trong mắt người nhìn ngắm, và vấn đề chỉ là cách con nhìn sự việc và cách con dùng một giáo lý hay một dụng cụ tâm linh để vượt thăng tầng tâm thức hiện tại của con.

11.10. Con không vượt quá mức này

Kẻ địch lớn nhất của tăng triển tâm linh là gì? Đó là con cho phép mình tin lời nói của các ngã tách biệt còn sót lại và của tự ngã cho rằng: “Ồ, tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học giáo lý này nữa. Quyển sách này được trao truyền cho những ai ở các tầng tâm thức thấp. Tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học quyển sách này nữa.” Con đang hiện thân trong cõi vật lý, phải không con? Quyển sách của thày, bất kể mục đích đặc trưng của nó, đã được trao truyền từ một tầng tâm thức cao hơn tâm thức hiện thân vật lý. Làm sao con có thể vượt quá nó khi con còn xác thân vật lý? Làm sao con có thể vượt quá sự trợ giúp của thày là một chân sư thăng thiên?

Con hãy giám sát chính mình để nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh. Lúc nào cũng có cái gì hơn nữa có thể kích hoạt điều gì đó trong con giúp con bỗng nhiên thấy một ảo tưởng, nếu con sẵn lòng thấy ảo tưởng, nếu con có ý chí muốn thấy ảo tưởng.

Có một tha hóa khác của ý chí khi con không sẵn lòng thấy ảo tưởng vì con nghĩ mình đã vượt quá ảo tưởng đó hay mọi ảo tưởng. Con nghĩ rằng con đã đạt tới một tầng nơi con không cần với lên cái hơn nữa, con chỉ cần đợi tới lúc thăng thiên. Nếu con đang hiện thân trong thân vật lý thì làm sao con thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa? Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp và rốt cuộc tới tầng 144 là nơi con phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp, là tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên.

11.11. Những tầng cao hơn của tâm thức thăng thiên

Đúng vậy, con yêu dấu, thày quả thực vừa nói tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên, vì con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên thì con đã đạt được một tầng tâm thức tối hậu? Con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên từ trái đất, con đã đạt tới cùng tầng tâm thức với Phật Gautama hay Đại chỉ đạo Thiêng liêng hay Alpha và Omega? Lẽ tự nhiên, khi con thăng thiên từ trái đất, con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có ở cõi thăng thiên, và sau đó con bắt đầu làm việc để nâng mình lên cao hơn bằng cách với lên cái hơn nữa. Sau đó, con dần dần, và với đa số chúng ta tiến trình này có thể cần thời gian, con dần dần đạt tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng đây là một đoạn đường dài cho tất cả chúng ta, kể cả thày. Thày đã trải nghiệm chợt thoáng nhận tâm thức của đấng Sáng tạo, và nó chắc chắn cao hơn tâm thức của thày vô lượng, tuy thày không còn ở tầng tâm thức đầu của một chân sư thăng thiên.

Lúc nào cũng có cái hơn nữa, ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có cái hơn nữa. Con có thể lấy thái độ này, là thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, tuy rằng thày đã đặt cho mình tên Chân sư MORE. Vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Con hãy tính chuyện tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó. Con hãy suy ngẫm quan niệm có thể xem là một nghịch lý: quy thuận theo ý chí. Nhiều người cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con hãy tính chuyện quy thuận theo ý chí. Vì đó là một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

11.12. Lòng tri ân của các chân sư thăng thiên đối với các đệ tử Hàn Quốc

Tới đây thì thày muốn biểu lộ lòng tri ân của thày vì các con đã hiện diện ở đây, đã tổ chức hội nghị này, đã tham dự đông đảo vào công việc này tại Hàn Quốc, phiên dịch các bài giáo lý, phổ biến các giáo lý, đọc chú đọc thỉnh, tổ chức các sinh hoạt này, tạo ra tất cả các dụng cụ tu tập mà các con đã tạo ra. Các thày biết là các con không cần được khen ngợi, vì con không cần tham vọng thế tục đó. Nhưng các thày muốn các con biết rằng, lẽ đương nhiên, các thày biết các nỗ lực lớn lao mà các con đã bỏ ra. Các thày biết ơn các con đã làm nhiều việc để mang các giáo lý này đến nhiều người hơn trong quốc gia này. Tuy có thể có lúc con cảm thấy hơi nản chí vì con có hy vọng các nỗ lực của mình gặt hái được kết quả vật lý cao hơn, nhưng thày bảo đảm với các con là trong sự vận chuyển rộng lớn hơn của đại dương là tâm thức tập thể của quốc gia này, các con đã tạo ra một sự vận chuyển mới, một sự vận chuyển đi lên. Điều quan trọng không phải là kết quả bên ngoài mà là sự nâng cao tâm thức.

Các thày đều hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện khi biết rằng các con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng cả dân tộc này lên. Thày không phải chỉ nói đến phần phía nam của dân tộc này, mà cả dân tộc, cho tới khi làn sóng đó tràn qua biên giới và cuốn đi mọi kháng cự một ngày mới. Tới đây, thày niêm phong các con trong Ngọn lửa HƠN NỮA mà thày LÀ.

7 | Thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Shiva qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Shiva. Ắt hẳn con cũng có thể khẩn cầu thày để thày giúp con khắc phục các nỗi sợ của con và con có thể niệm câu chú Om Shiva, hay chỉ chữ Shiva để giúp con đi vào bên trong và thiêu rụi các nỗi sợ đó trong cảm thể của con. Con cũng có thể kết hợp các lời kêu gọi Đại thiên thần Michael và thày vì lẽ tất nhiên các thày không bị phân rẽ bởi bất kỳ phân chia nào giữa các truyền thống Đông và Tây. Các thày là một, tuy các thày có những sắc thái khác nhau, những pha màu khác nhau của ánh sáng mà các thày đem lại. Kết hợp hai thày rất hiệu quả để tiêu trừ các nỗi sợ.

7.1. Điều nghịch lý của tâm đường thẳng

Tuy nhiên mục đích chính yếu của bài giảng này lẽ tất nhiên không phải là để giải quyết nỗi sợ mà là để tiến tới điều kế tiếp thực sự khiến con người rời xa sự kết nối và đó tất nhiên là tâm lý trí. Chắc chắn cả hai thày Quan Âm và Mẹ Mary đều đã giảng về chủ đề này, nhưng thày muốn cho các con thêm một số ý nghĩ vì trong thế giới hiện đại tâm lý trí là chướng ngại lớn nhất cho người tâm linh. Lý do chính là vì các chế độ dân chủ Tây phương đã lan truyền khắp thế giới nhiều ý tưởng rất dính chặt vào tâm đường thẳng, tâm lý trí, tâm lô gíc, tâm phân tích, đặc biệt là qua khoa học và khoa học duy vật.

Các thày quả thực muốn nói gì khi nói đến tâm đường thẳng? À nó là cái tâm muốn đặt mọi sự trên một dòng thời gian, hoặc trên một loại đường thẳng nào đó có thể chia thành nhiều phần nhỏ hơn. Nó cũng muốn đặt mọi sự trên một dòng thẳng nơi có một nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Hậu quả có thể trở thành một nguyên nhân khác dẫn đến hậu quả khác, nhưng có một sự đều đặn, một quy luật tự nhiên nào đó quy định rằng một nguyên nhân đặc trưng sẽ luôn luôn dẫn tới một hậu quả đặc trưng theo một lối đường thẳng mà không có ngoại lệ.

Để đơn cử vài thí dụ về tâm này, con hãy bắt đầu đếm. Một, hai, ba, bốn, năm và con tiếp tục đếm. Con tiếp tục được bao lâu? À, giả sử là vô thời hạn. Câu hỏi là có ai có thời giờ để làm chuyện này? Ai có thời gian vô tận? Giả sử con có thời gian vô tận, thì con có muốn dùng thời gian này để đếm và xem mình đếm được tới đâu chăng? Đấy có phải là tầm nhìn cao nhất của con về điều con làm được với thời gian vô tận? Con thấy là khi con thực sự bắt đầu suy ngẫm về vô hạn hay về con số vô tận thì tâm đường thẳng không cam nổi. Nhưng phải chăng chính tâm đường thẳng đã quy định là lúc nào con cũng có thể thêm một và do đó coi như con có thể đếm đến vô tận? Con thấy đó, tâm đường thẳng dựng lên một diễn tiến đường thẳng, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới kết quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng này thì tâm đường thẳng gần như bị chạm dây điện vì nó không thể nắm bắt điều này.

Một ví dụ khác là triết gia Hy Lạp Zeno, người đã đề ra nghịch lý cho rằng nếu muốn đi bộ từ thành phố này tới thành phố kia, thì con sẽ không bao giờ tới nơi, vì trước tiên con phải đi bộ tới điểm ở giữa. Sau đó con phải đi bộ tới điểm ở giữa của khoảng cách còn lại và con có thể tiếp tục chia vô tận khoảng cách còn lại làm hai. Con luôn luôn có thể chia bất cứ con số nào làm hai, bất cứ khoảng cách nào làm hai, cho nên con không bao giờ tới nơi được. Một lần nữa, khi con bắt đầu nghĩ tới chuyện này, con nhận ra đây là điều tâm đường thẳng làm. Nó tạo ra một diễn tiến đường thẳng dựa trên một sự đều đặn nào đó, một quy luật nào đó và coi như có thể kéo dài vô tận, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới hậu quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng đó thì tâm đường thẳng không đương được nữa.

Vì quả thực, con lấy từ đâu ý tưởng là con có thể tiếp tục đếm số vô thời hạn? À, đó là cái ý tưởng đường thẳng cho rằng con luôn luôn có thể cộng thêm một số. Nhưng nếu con tiếp tục đi xa đủ, phải chăng sẽ tới điểm con đạt tới một con số lớn vô tận? Làm sao tâm đường thẳng đương nổi điều này? Chắc chắn nó không thể đương được khái niệm vô tận. Nhưng phải chăng đấy là điều tâm đường thẳng nói, rằng con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn? Con có thể đếm vô thời hạn vậy thì tại sao tâm đường thẳng không cam nổi vô thời hạn?

Con cũng có thể nhìn vào chuyện mà các thày có giảng, là thế giới hình tướng do chỉ một đấng Sáng tạo sinh tạo ra. Nhưng đấng Sáng tạo từ đâu tới? Có gì trước khi thế giới hình tướng hiện hữu? Và sau đó tâm đường thẳng muốn hỏi, nhưng nếu thế giới này có điểm khởi đầu thì có gì trước điểm khởi đầu? Có cái gì khi thế giới chưa có, chưa được sinh tạo? Và sự sinh tạo các thế giới bắt đầu lúc nào? Có gì trước đó? Và các thày có thể nói lúc nào cũng có một thế giới hình tướng, nhưng tâm đường thẳng có đương đầu được chăng với chuyện này?

7.2. Mọi hình tướng đều được quy định bởi giới hạn

Tâm đường thẳng hầu như bị chạm dây điện khi con suy ngẫm điều này. Bởi vì dù không cam nổi cái vô tận, tâm đường thẳng muốn có điểm khởi đầu. Có thể là không có điểm kết thúc nhưng phải có một điểm khởi đầu. Con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Một, hai, ba, trừ mười, trừ chín, trừ tám. Nhưng con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Nhưng nếu không có điểm kết thúc, làm sao có điểm khởi đầu? Hãy suy ngẫm điều này.

Nếu con nói con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn, tại sao phải bắt đầu từ số một? Con thực sự bắt đầu ở đâu và khi nào thì càng đếm tới số cao hơn và cao hơn nữa, cuối cùng con sẽ tạo một vòng tròn khép kín? Quả thật như Albert Einstein đã nói, nếu con du hành trong không gian và tiếp tục đi cùng một hướng theo một đường thẳng, thì một ngày kia từ hướng đối ngược, con sẽ trở về điểm khởi đầu vì sự liên tục không gian-thời gian tạo thành một vòng khép kín. Có hợp lý chăng là không có gì vô tận trong thế giới hình tướng? Con không thể tiếp tục đếm vô thời hạn trong một diễn tiến đường thẳng vì thế giới hình tướng có giới hạn.

Thế giới hình tướng có hình tướng, và hình tướng là gì nếu không là giới hạn? Một hình vuông được quy định bởi bốn đường thẳng. Một hình tròn được quy định bởi một đường. Con quả thật có thể mãi mãi đi vòng chung quanh hình tròn, nhưng con không thể đi ra ngoài hình tròn. Có một giới hạn. Mọi hình tướng đều được quy định bởi một giới hạn. Nếu con bắt đầu ở số không và đếm đủ lâu, thì không sớm thì muộn con sẽ trở về số không. Con hãy chiêm nghiệm câu này và xem tâm đường thẳng phản ứng ra sao. Ở đây thày không muốn nói đến một chân lý tuyệt đối. Thày chỉ đang tìm cách chỉ cho con thấy những giới hạn của tâm đường thẳng. 

7.3. Luật Tự quyết không theo đường thẳng

Tâm đường thẳng làm gì khi con xem xét ý tưởng kết nối với một chân sư thăng thiên? Nó sẽ nói: “Có một khoảng cách giữa nơi tôi đang ở và nơi vị chân sư ở và tôi cần phải vượt qua khoảng cách đó.” Nhưng nó sẽ tìm cách thiết lập một diễn tiến. “Tôi phải làm gì để vượt qua khoảng cách? Tôi phải đọc chú. Tôi phải đọc thỉnh. Tôi phải bỏ ra bao nhiêu tiếng đồng hổ mỗi ngày để đọc chú và nếu tôi tiếp tục làm vậy năm này qua năm nọ, thì không sớm thì muộn, có lẽ là muộn, có lẽ là sau một thời gian dài, thì một ngày kia, như một phép lạ, vị chân sư sẽ hiện ra.” Vì tâm đường thẳng muốn tin rằng có nguyên nhân và có hậu quả, và có những quy luật quy định diễn tiến từ nguyên nhân tới hậu quả. Nếu con ngồi đây và quyết định: “Tôi muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, tôi sẽ thiết lập một chương trình hợp lý, lô-gíc, tuần tự từng bước đọc chú và đọc thỉnh”, và sau đó con quyết định là nếu con tiếp tục làm theo chương trình này, thì một lúc nào đó vị chân sư sẽ phải xuất hiện. Vì con nghĩ chắc hẳn các chân sư thăng thiên phải tuân theo một quy luật nào đó, một diễn tiến nào đó.

Và đúng vậy, con yêu dấu, các thày có tuân theo một quy luật. Nó được gọi là Luật Tự quyết, nhưng Luật Tự quyết không đi theo đường thẳng. Làm sao nó có thể như vậy? Làm sao con có tự quyết khi con phải đi theo một con đường nào đó? Làm sao con có tự quyết khi chỉ có sự tiến hành đường thẳng, và như vậy nếu con bước một bước về một hướng nào đó, thì sau đó con phải từng bước tiếp tục đi cùng hướng đó và không thể đi trệch hướng mà con đã chọn? Làm sao như vậy lại có thể là tự quyết? Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường vĩ đại và bằng phẳng, giống như Quảng trường Thế Vận hội không cách xa đây bao nhiêu. Con đứng ở giữa quảng trường. Quảng trường mở rộng và bằng phẳng về mọi hướng chung quanh con. Con dự định bước một bước. Nhưng con có vòng tròn 360 độ chung quanh con. Con có thể đi về bất cứ hướng nào. Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng là một khi con đã bước một bước về một hướng nào đó, thì con sẽ phải tiếp tục bước theo đường thẳng về hướng đó.

Con có thể nói chọn lựa đầu tiên là chọn lựa tự do, nhưng các chọn lựa sau thì không. Như vậy có thực sự là tự quyết chăng? Không đâu, đó là điều mà sa nhân muốn con tin đấy.  Đó là lý do vì sao họ đã sáng chế ra hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phán xét coi con là một tội đồ ngay từ khởi thủy, hoặc cách diễn giải hạn hẹp của luật nhân quả ở phương Đông cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời này đều đã được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Nhưng luật nhân quả không theo đường thẳng, như các thày đã giảng, vì nếu con vượt thăng tâm thức đã khiến con lấy một quyết định nào đó trong một tiền kiếp, thì khi xung lực nghiệp trở về nó sẽ không đi xuống tầng vật lý vì không có gì ở các thể cao của con củng cố nó.

Luật Tự quyết có nghĩa là bất kể con đã bước bao nhiêu bước về một hướng, nhưng con lúc nào cũng có thể đổi hướng. Làm sao lại có thể có quy tắc đường thẳng? Làm sao lại có thể có diễn tiến máy móc? Làm sao con có thể thiếp lập một chương trình trong tâm nói rằng nếu tôi trung thành theo chương trình này thì một ngày kia chân sư phải xuất hiện và kết nối với tôi? Đúng, khoa học đã khiến con nghĩ như vậy, rằng thế giới giống như một bộ máy vĩ đại. Và nếu con đi một số bước, tỷ dụ như cắm máy thu thanh vào ổ điện, bấm nút bật, rà đúng đài, thì con sẽ nghe được âm nhạc mà con muốn.

7.4. Con không thể kết nối qua tâm đường thẳng

Hoặc nếu con để thực phẩm vào lò vi ba, định nhiệt độ và thời gian, thì có lúc sẽ có tiếng kêu “đinh” và thực phẩm của con được nấu chín. Khoa học và công nghệ đã khiến biết bao người trong thế giới hiện đại tin rằng, nếu con theo đúng một thủ tục nào đó, thì phụt một cái, một chân sư thăng thiên sẽ phải xuất hiện, giống như thằng hề có lò xo bật ra từ trong hộp. Vì con đã xoa vào cây đèn của Aladdin bằng cách đọc biết bao bài chú bài thỉnh trong nhiều năm, nên chắc chắn vị chân sư phải xuất hiện giống như vị thần hiện ra từ cây đèn và nói: “Chủ nhân muốn sai khiến gì? Tôi sẽ cho ngài bất cứ gì ngài muốn. À, ngài chỉ được ba điều ước, nhưng như vậy còn hơn là không có điều nào.”

Đây là tư duy của nhiều người khi họ tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên và bắt đầu đọc chú đọc thỉnh. Một lần nữa, các thày không chê trách ai. Các thày chỉ giản dị chỉ cho con thấy đây là điều tâm đường thẳng làm, nhưng các thày là chân sư thăng thiên không đang hiện thân ở cõi vật lý. Các thày không nằm dưới luật đường thẳng. Và quả thật con cũng không nằm dưới luật đường thẳng. Lẽ tất nhiên có quy luật nguyên nhân và hậu quả, và nếu con đi về một hướng trong một thời gian dài và luôn luôn cảm thấy giận người khác, thì con sẽ chịu một số hậu quả.

Nhưng các thày đã nhiều lần nói điều gì? Nếu con lấy một chọn lựa và nó không có hậu quả, thì làm sao con biết là con đã chọn lựa? Hậu quả của chọn lựa của con không có mặt để áp đặt những chọn lựa tương lai của con. Chúng chỉ có mặt để cho con thấy là tư duy này sẽ dẫn tới hậu quả nọ. Nếu con không thích hậu quả đó, thì con thay đổi tư duy. Con thay đổi điều con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ và con gặt hái một cái gì khác.

7.5. Con không thể đồng sáng-tạo một cách đường thẳng, máy móc

Con thấy chăng, có lẽ con không thấy nhưng con có thể tới điểm thấy, là không có gì thực sự đi theo đường thẳng. Ngay cả khoa học cũng đã chứng minh điều này gần một thế kỷ trước đây. Các nhà vật lý lượng tử khám phá rằng, ở tầng cơ bản nhất của vật chất, tâm người khoa học gia không những ảnh hưởng hiện tượng quan sát, mà còn tạo ra hiện tượng quan sát. Cho nên có câu hỏi trong dân gian là nếu một cây đổ trong rừng mà không có ai ở đó, thì liệu cây đổ có tạo ra tiếng động chăng? Hoặc mặt trăng có đó chăng khi không ai nhìn? Và sự thực là nếu không ai nhìn thì mặt trăng sẽ không có đó. Nhưng, như các thày có nói, các thày là chân sư thăng thiên lúc nào cũng nhìn, các tinh linh lúc nào cũng nhìn. Và tại sao vậy? Vì mục đích duy nhất của thế giới hình tướng là để giúp con tăng triển nhận biết. Các thày duy trì một số hình tướng trong một thời gian cho đến khi con người học xong bài học. Con học bài học gì khi đầu thai trong cõi vật lý? Đó là những gì con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện. Đây là điều các khoa học gia đã khám phá một thế kỷ nay.

Không có nhiều khoa học gia chịu thực sự suy nghĩ ý nghĩa của khám phá này. Nhưng nó có nghĩa là điều mà các khoa học gia đã khám phá ở tầng lượng tử là điều mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có thể mang vào bất kể hình tướng nào, nhưng nó chỉ mang vào một hình tướng khi có một hình tư tưởng từ tâm một sinh thể có tự nhận biết phóng chiếu lên nó. Thế nào là có tự nhận biết? Điều này có nghĩa: “Tôi muốn thể hiện một cái gì mà tôi đang không hiện có. Tôi là một người đồng-sáng tạo. Tôi sẵn sàng đồng-sáng tạo.”

Con thể hiện bằng cách nào? Không theo cách đường thẳng máy móc. Con thể hiện một cách sáng tạo khi con nhận ra là con nắm giữ hình ảnh trong tâm bản sắc, tư tưởng và cảm xúc và phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng vật lý. Tiến trình này có vẻ máy móc, nhưng nó không phải vậy, vì con có thể thay đổi các hình ảnh đó bất cứ lúc nào, và không có một bộ máy vĩ đại nào với những kết quả đã được định sẵn hay có thể tiên đoán. Ngược lại, không có gì có thể tiên đoán. Chỉ có những xác suất, nhưng theo luật bất định mà cơ học lượng tử đã chứng mình cách đây một thế kỷ, không có kết quả nhất định.

7.6. Rơi vào cạm bẫy của tâm đường thẳng

Vì sao các khoa học gia lại không chấp nhận điều trên? Bởi vì đó là một trong những điều sau cùng mà sa nhân muốn con người chấp nhận. Họ khẩn thiết muốn con tin rằng một khi con đã lấy một chọn lựa thì con giới hạn khả năng lấy chọn lựa trong tương lai, và đây là một lời gian dối mà các thày đã nhiều lần phơi bày. Nhưng tâm đường thẳng thấy khó chấp nhận vì tâm đường thẳng muốn có sự đều đặn, muốn có thể đoán trước việc gì sẽ xảy ra, muốn có nguyên nhân và hậu quả, một quy luật nguyên nhân và hậu quả bất khả kháng. Đây là điều tâm đường thẳng muốn vì lúc đó nó nghĩ nó làm chủ tình hình vì nó có thể tiên đoán kết quả.

Chuyện này dính dáng gì đến chủ đề của khóa nhập thất này? Ấy, nếu con nghĩ là con có thể kết nối với một chân sư thăng thiên bằng một quá trình máy móc, thì con sẽ tạo ra một hình ảnh trong tâm con và phóng chiếu hình ảnh đó lên vị chân sư thăng thiên. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu các thày cư xử đúng theo hình ảnh đó? À, như vậy coi như các thày chứng thực là hình ảnh của con đúng. Con quả thật có thể xoa cây đèn và vị thần sẽ xuất hiện. Nhưng điều này sẽ có kết quả gì? Nó sẽ chỉ giam con vào tâm đường thẳng. Và trong tâm đường thẳng con cảm thấy con làm chủ tình hình, nhưng ở một tầm vóc rộng lớn hơn thì sa nhân cảm thấy họ đang làm chủ tình hình vì khi con còn bị giam trong tâm đường thẳng thì họ có thể kiểm soát con vì họ có thể nhìn vào sự đều đặn, và diễn tiến mà con đã tạo ra trong tâm mình. Và họ có thể dễ dàng tiên đoán bước tới của con là gì.

Con trở nên quá dễ tiên đoán khi con ở trong tâm đường thẳng. Con người nói chung trở nên quá dễ tiên đoán khi họ ở trong tâm đường thẳng, và đây dĩ nhiên là điều sa nhân muốn. Họ muốn ngưng sự sáng tạo, ngưng sự bất định bằng cách ngưng tự do chọn lựa, khi con nghĩ con không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa khởi sự chuỗi dây chuyền, nhưng khi chuỗi dây chuyền đã bắt đầu thì kết quả đã được định sẵn. Tất cả mọi giáo lý mà các thày trao truyền trong đợt truyền giáo này đều nhằm phá tan ảo tưởng này để con thấy là con không bị trói buộc bởi bất cứ gì, và bất cứ chọn lựa nào mà con đã lấy đều có thể bị một chọn lựa khác chế ngự.

7.7. Phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư

Đây là điều mà các thày mong muốn con nhận ra. Vì lúc đó con có thể chọn lựa và nói: “Cho tới nay tôi chưa cảm thấy kết nối với các chân sư thăng thiên như tôi mong muốn. Có thể chăng là vì tôi đã phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư, lên chính tôi, và lên sự kết nối, và hình ảnh này đang giam tôi vào tâm đường thẳng và do đó các Chân sư không thể xuất hiện với tôi vì như vậy tôi sẽ còn bị giam chặt hơn nữa?”

Có những người, khá nhiều người, đã tìm ra một giáo lý chân sư thăng thiên chân chính được các thày bảo trợ. Dựa trên một số giáo lý cũ mà các thày đã trao truyền trong thời Song ngư, họ đã phóng chiếu một hình ảnh về cách họ kết nối với các Chân sư. Và họ đã có một số trải nghiệm mà họ nghĩ là họ có với các chân sư thăng thiên, nhưng thật ra trong đa số trường hợp đó là với các sinh thể trong cõi tư tưởng, trong một số ít trường hợp với các sinh thể trong cõi bản sắc thấp, và trong một số trường hợp với các sinh thể trong cõi trung giới. Nhưng đại đa số các người đã tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên trong thời đại duy lý đường thẳng hiện đại này đã kết nối với các sinh thể trong cõi tư tưởng.

Nhiều hiện tượng kết nối đồng bóng mà con thấy trong thế gian là với các sinh thể trong cõi tư tưởng và con có thể học cách tức khắc nhận diện rung động của họ, hoặc đọc các câu trả lời và thấy là chúng nhằm thu hút tâm đường thẳng, tâm lý trí. Và có những người tin rằng họ đã và vẫn đang có một kết nối chân chính với các chân sư thăng thiên, nhưng đó là họ kết nối với những kẻ mạo danh trên cõi tư tưởng có khi dùng tên các thày hay có khi dùng tên khác không liên quan đến các chân sư thăng thiên. Những người thuộc phần sau ít ra còn thành thực, tuy họ đôi khi tự nhận là những sinh thể tâm linh có địa vị hay thẩm quyền.

Đây là chuyện xảy ra khi con người có mong muốn mãnh liệt kết nối, nhưng họ lại phóng chiếu một hình tư tưởng lên sự kết nối. Các thày là chân sư thăng thiên sẽ không cư xử theo hình ảnh đó, nhưng các sinh thể trong cõi tư tưởng hoàn toàn không ngần ngại cư xử theo hình ảnh của con người nếu họ có thể khiến các người đó cho họ năng lượng. Các sinh thể trong cõi tư tưởng đó cần năng lượng của con, các người đang đầu thai, vì họ không còn nhận được năng lượng từ cội nguồn nữa. 

Các thày là chân sư thăng thiên. Có năng lượng nào mà thày có thể cần từ một người đang đầu thai? Con có thể nói, như một số người đã nói, là các thày trao bài truyền đọc này cho một số người ngồi nghe, và khi họ chú tâm vào các thày thì họ cho các thày năng lượng của họ. Thật vậy sao? Con có nghĩ là thày, một chân sư thăng thiên, cần loại năng lượng chảy ra từ sự chú ý của con người? Thày có thể tiếp nhận nguồn năng lượng vô biên của đấng Sáng tạo. Tại sao thày lại cần bất cứ gì từ trái đất? Nếu con đang trực diện mặt trời, thì tại sao con lại cần mặt trăng?

7.8. Shiva, thần phá hủy ảo tưởng

Thày là Shiva. Thày đã đạt được một địa vị nào đó trong đại đoàn hoàn vũ. Thày không cần bất cứ gì từ trái đất. Thày không cần bất cứ ai quy phục thày. Thày ở đây chỉ để phụng sự những ai muốn thoát khỏi bất cứ hình thức nô lệ nào, cho dù đó là trong chính tâm mình, hay là một dính mắc vào người khác, hay vào các sinh thể trong cõi tư tưởng, cảm xúc hay bản sắc, hay vào sa nhân. Bất cứ ai yêu cầu, thày tới và cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng. Ai sẽ yêu cầu thày tới để cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng? Đó chính là công việc của thày.

Quả thực thày dùng tên được biết trong truyền thống Ấn giáo như Brahma, Vishnu và Shiva, trong đó Shiva được coi là thần phá hủy. Nhưng thày phá hủy cái gì? Làm sao thày lại có thể phá hủy cái gì thật? Chỉ có ảo tưởng mới có thể bị phá hủy, do đó thày LÀ kẻ phá hủy ảo tưởng. Nhưng những ai không muốn buông bỏ ảo tưởng thì chớ nên xin thày giúp. Lẽ tất nhiên, con có thể mặc tình xin thày giúp, vì nếu con thực sự không muốn buông bỏ ảo tưởng của mình thì thày sẽ không xâm phạm quyền tự quyết của con. Có thể nói con không mất mát gì khi con xin thày giúp, mặc dù con không muốn buông bỏ ảo tưởng, và đây là điều con là đệ tử chân sư thăng thiên nên biết.

Thày tới đây đặc biệt là để hỗ trợ con buông bỏ các ảo tưởng của tâm lý trí. Những ảo tưởng này đang tách con ra khỏi thày hay một chân sư thăng thiên khác gần tim con. Nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên thì con ít nhất có một chân sư thăng thiên rất gần tim con. Nhưng vì sao con không kết nối được với vị chân sư thăng thiên đó? Bởi vì tâm con ngăn chặn sự kết nối đó. Tâm lý trí của con ngăn chặn sự kết nối đó. Tại sao vậy? Vì con suy nghĩ. Con suy nghĩ xem sự việc phải diễn tiến ra sao: “Đâu là các cơ chế để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tôi phải làm được điều mà tâm đường thẳng thiện nghệ. Lấy một hoàn cảnh, phân nhỏ nó ra từng thành phần càng ngày càng nhỏ cho tới khi tới thành phần nhỏ nhất, và lúc đó tôi sẽ hiểu cách thế giới vận hành.”

7.9. Những giới hạn của phương pháp phân nhỏ

Đây là tiến trình đã, ít ra trong lịch sử được biết, bắt đầu với Aristotle, nhưng lẽ tất nhiên, đã bắt đầu sớm hơn rất nhiều khi sa nhân tới địa cầu. Phương pháp phân nhỏ. Bất cứ gì đều có thể phân nhỏ thành những thành phần càng ngày càng nhỏ. Nhưng con hãy nhớ lại điều thày giảng về tâm đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới nghĩ ra ý tưởng là mọi chuyện được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn, và nếu ta có thể hiểu các định luật – các định luật máy móc chi phối các thành phần nhỏ – thì ta cũng có thể hiểu cách vận hành của cái được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ. Nếu vật chất được cấu tạo bởi hạt nguyên tử và ta có thể kiểm soát hạt nguyên tử thì ta có thể kiểm soát vật chất.

Quan niệm về hạt nguyên tử được các triết gia Hy Lạp đề ra và họ nghĩ đây là thành phần nhỏ nhất cấu tạo vật chất, và nó không thể chia nhỏ thêm nữa. Hạt nguyên tử không thể phân chia. Khi các khoa học gia trong các thế kỷ gần đây khám phá ra cái mà họ nghĩ là hạt nguyên tử, thì họ dùng tên đó. Họ ban đầu tưởng nó không thể phân chia, nhưng sau đó họ khám phá là nó có thể phân chia. Nó có một lõi gồm hai loại hạt phân tử và với các hạt electron bay nhanh chung quanh. Sau đó họ khám phá là, không phải, các hạt cơ bản này không cơ bản. Có những hạt cơ bản khác nhỏ hơn. Và điều này sẽ bao giờ chấm dứt?

À, nó không bao giờ chấm dứt. Điều này cũng giống như chuyện nghịch lý của Zeno. Nếu chúng ta có một máy gia tốc cường mạnh hơn có thể gia tốc các hạt phân tử tới vận tốc ánh sáng, thì chúng ta sẽ khám phá ra hạt phân tử của Thượng đế, và lúc đó chúng ta sẽ biết vật chất vận hành ra sao. Nhưng con sẽ không bao giờ biết được làm sao vật chất mang hình tướng bằng cách tìm các phân tử càng ngày càng nhỏ hơn. Bởi vì vật chất mang hình tướng vì một hình tư tưởng từ một cõi cao phóng chiếu xuống nó. Nguyên nhân vì sao các hình tướng lại là như chúng đang là không thể tìm thấy trong cõi vật lý, cõi vật chất. Nguyên nhân được tìm thấy trong các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc và tâm linh. Bất kể cách con phân tích như thế nào thành phần của một màn ảnh chiếu phim, làm sao việc hiểu mọi chuyện liên quan đến các thành phần của màn ảnh lại có thể giúp con tiên đoán phim nào sẽ được chiếu vào lúc bảy giờ tối hôm nay? Chuyện này không được quy định ở tầng của màn ảnh.

7.10. Hãy ngưng đẩy các thày ra xa

Con là đệ tử chân sư thăng thiên không thể phân nhỏ các thày, là chân sư thăng thiên, thành các thành phần cơ khí. Nếu con làm vậy và chờ đợi các thày xuất hiện – thì ai đó có thể xuất hiện nhưng không phải các chân sư thăng thiên. Con không thể phân nhỏ chính con thành các thành phần cơ khí. Con có thể đọc chú trong nhiều năm, nhiều giờ mỗi ngày. Nhưng không có gì bảo đảm là một ngày kia con sẽ kết nối với các thày. Vì sao vậy? Vì con cần xoay chuyển tâm mình để thay vì đẩy sự kết nối ra xa như con đang làm, con ngừng gắng sức và để cho sự kết nối xảy ra.

Thày đang ở đây. Ở đây là gì? Bất cứ con đang thấy mình ở đâu, thì thày ở đó. Con không cần với ra xa để kết nối với thày. Sự thực là con không cần kết nối. Con chỉ cần xoay chuyển tâm và nhận ra là thày đang ở đây. Thày LÀ Shiva. Thày không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Thày ở bất cứ đâu con đang ở. Nhưng tâm lý trí không thể hiểu điều này, bởi vì cái gì tạo ra diễn tiến từ cái này sang cái tới? Đúng rồi, đó là quan niệm tách biệt. Bằng cách nào con đi từ một thành phố này sang thành phố khác? Con phải vượt qua khoảng cách. Con nghĩ rằng để kết nối với một chân sư thăng thiên con phải vượt qua một khoảng cách. Nhưng khoảng cách đó không có.

Thày có thể tiếp tục nói mãi về chủ đề này. Thày có thể tiếp tục trao cho con giáo lý càng ngày càng vi tế, và rất rất nhiều người đã và vẫn còn chờ đợi giáo lý kế tiếp. Chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu hay một giáo lý cao siêu hơn. Một ngày nào đó tôi sẽ tìm ra giáo lý sẽ mở cửa cho tôi. Nhưng con chỉ đang đẩy các thày ra xa, hay đúng hơn con đẩy con ra khỏi các thày, vì con không thể đẩy các thày. Đúng đấy, đây lại là một bí ẩn khác. Quả đúng là không phải ai ai cũng có thể xoay chuyển tâm ngay lúc này và nhận ra là thày ở đây. Bởi vì con đang ở một tầng tâm thức thấp trong số 144, con có quá nhiều ngã tách biệt, con có quá nhiều năng lượng tồn đọng, nên con không thể xoay chuyển tâm, vì tất cả các thứ đó níu kéo tâm con, tâm ý thức của con. Chúng kéo cái Ta Biết của con về phía các ngã tách biệt.

7.11. Một dụng cụ để thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Quả đúng là có một diễn tiến. Con bắt đầu bằng đọc chú, học giáo lý và con dần dần chuyển hóa một phần năng lượng, buông bỏ ảo tưởng và lực trì kéo trên tâm con giảm bớt. Và con càng ngày càng dễ thoát ra khỏi tâm đường thẳng, nhưng con sẽ phải làm sự vượt thoát đó. Và việc này có tính chất sáng tạo, nó không phải là kết quả máy móc của một tiến trình máy móc. Nếu con theo đuổi một giáo lý khác và sau đó con không kết nối, và con nghĩ là phải có một giáo lý cao hơn và con lại theo đuổi giáo lý đó và vẫn không kết nối, con có thể tiếp tục làm như vậy mãi mãi. 

Đâu là giải đáp cho nghịch lý của Zeno – cho rằng trước tiên con đi tới điểm giữa, sau đó tới điểm giữa của khoảng cách còn lại, do vậy con sẽ không bao giờ tới được mức đến vì con cứ phải đi một nửa khoảng còn lại? Giải đáp là gì? À, một thời gian đầu con có thể nói: “Trước tiên tôi đi đến điểm giữa, rồi sau đó tôi đi tới điểm giữa của khoảng cách còn lại bằng cách bước một số bước cho tới khi tôi tới điểm giữa đó.” Nhưng nếu con tiếp tục làm vậy thì con sẽ tới điểm con tới thật gần mức đến và con chỉ cần bước một bước để vượt qua khoảng cách còn lại. Lúc đó thì có nhu cầu đi tới điểm giữa nữa chăng? Không có nhu cầu.

Con chỉ cần thoát ra khỏi tâm đường thẳng và nói: “Tại sao tôi lại cần đi tới điểm giữa khi chỉ cần một bước là vượt qua được khoảng cách còn lại? Tại sao tôi lại phải bước nửa bước, sau đó một phần tư bước, sau đó một phần tám bước? Tại sao lại cần sự ngu ngốc này khi tôi chỉ cần bước một bước là tới đích?” Con phải tới điểm trong tâm khi con nói: “Tại sao tôi cần nghĩ là tôi phải làm chuyện gì khác để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tại sao tôi không kết nối ngay bây giờ?”

Vấn đề không phải là suy nghĩ bằng tâm đường thẳng. Vấn đề là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, do đó chúng ta sẽ làm chuyện này. Con đã tụng niệm tên thày, nhưng thày mời con hãy tụng niệm cùng với thày, và chúng ta sẽ thấy chuyện gì có thể xảy ra:

Shiva (40x)

OM Shiva (16x)

OM Shiva OM (8x)

OM Shiva OM (10x)

Shiva OM (3x)

Shiva (96x)

TA LÀ Shiva (16x)

Shiva TA LÀ, TA LÀ Shiva (16x)

TA LÀ xác thân này, Shiva TA LÀ (18x)

TA LÀ các cảm xúc này, Shiva TA LÀ (13x)

TA LÀ các tư tưởng này, Shiva TA LÀ (11x)

TA LÀ bản sắc này, Shiva TA LÀ (12x)

OM Shiva (8x)

OM Shiva (20x)

OM Shiva (38x)

Shiva OM (40x)

OM Shiva (9x)

OM (3x)

Thày LÀ Shiva và thày đã góp công vào việc khiến tâm đường thẳng bị xáo trộn, rối rắm, vô hiệu hóa. Bất cứ lúc nào con cảm thấy cần vượt quá tâm đường thẳng, thì con có thể tụng niệm những câu chú gọi tên thày bằng cách dùng một bản thu âm hay bằng cách tự con tụng niệm. Con có thể thay đổi các câu chú tùy theo cảm hứng. Con có thể chế ra vô số dạng chú Shiva để tụng niệm. Con đừng nên sợ dùng khả năng sáng tạo của mình và hãy dùng dụng cụ này để vô hiệu hóa tâm đường thẳng. Với đa số các con, tâm đường thẳng chính là trở ngại chính cho việc kết nối với cái ta cao của con và với các thày, các chân sư thăng thiên.

Quả thật là các thày ở đây vì các con, vì nếu không thì các thày đã không ở lại địa cầu, vì hành tinh là gì khác ngoài một tấn tuồng để con người trên sân khấu có một môi trường trải bày những gì họ phản-sáng tạo hay đồng-sáng tạo? Làm sao con có thể đồng-sáng tạo nếu con không kết nối được với các đấng sáng tạo ở tầng cao hơn con? Lúc đó con sẽ phải đi vào tách biệt và phản-sáng tạo cho tới khi định luật sẽ rốt cuộc phản-sáng tạo những gì con phản-sáng tạo. Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, và thày cảm ơn sự hiện diện của các con ở đây, sự hiện diện vật lý, sự hiện diện cảm xúc, sự hiện diện tư tưởng, sự hiện diện bản sắc và Hiện diện TA LÀ của các con. Thày niêm các con trong tình thương bốc cháy của Shiva mà thày LÀ.

3 | Chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong thân thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thày đại diện cho Mẹ Thiêng liêng đối với mọi người trên trái đất. Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất và cho dù danh hiệu Mẹ Mary gắn liền với truyền thống Cơ đốc giáo, thày là Mẹ Thiêng liêng cho mọi người trên trái đất. Hiện diện của thày, Bản thể của thày, là phổ quát – nó vượt khỏi đạo Cơ đốc, vượt khỏi mọi nhãn hiệu nào khác, vượt khỏi mọi hình tướng nào khác.

3.1. Khía cạnh nuôi dưỡng của Thượng đế

Vậy trách vụ Mẹ Thiêng liêng vốn làm gì trên trái đất, làm gì cho con người trên trái đất? À, nó có mục đích làm nhiều thứ, nhưng trước hết là đại diện cho khía cạnh Mẹ của Thượng đế, tức là khía cạnh nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Một khái niệm xa lạ với nhiều người không cảm thấy mình được nuôi dưỡng, đang sống trong nghèo khó, thiếu cái này, thiếu cái kia, thiếu cái nọ, và do đó không cảm thấy là cõi của mẹ, cõi vật chất, đang nuôi dưỡng. Như các thày đã giải thích, sự thiếu thốn này một phần do những kẻ hình thành tầng lớp thượng tôn quyền lực chế tạo ra – họ muốn dân chúng sống trong thiếu thốn để họ có nhiều hơn – nhưng một phần lớn cũng do chính con người chế tạo ra khi mình dần dà chấp nhận một hình ảnh về bản thân rằng mình không xứng đáng được nuôi dưỡng, không dám chờ đợi được nuôi dưỡng.

Điều thày thực sự muốn đem lại cho mọi người là gì? Là sự chấp nhận rằng họ xứng đáng nhận được sự nuôi dưỡng từ đấng Mẹ. Điều này đặc biệt có nghĩa là nuôi dưỡng cơ thể vật lý. Vì cơ thể vật lý được tạo ra bằng gì? Có phải bằng máu thịt chăng? Không đâu, cơ thể vật lý được tạo ra bằng Thân thể của Mẹ Thiêng liêng, và đó là Ánh sáng của Mẹ Thiêng liêng, là cái mà các thày đã gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Tại sao thày lại nói về cơ thể vật lý trong một khóa tu nhằm giúp con kết nối với cái Ta Cao của con cùng các vị thày tâm linh của con? À, chẳng phải là vì một trong những điều cơ bản có thể kéo con ra khỏi cảm giác kết nối bên trong chính là cơ thể vật lý – những đau đớn, những nhức nhối, những nhu cầu, những đòi hỏi của cơ thể không ngừng lôi kéo sự chú ý của con: “Cho tôi cái này, cho tôi cái kia. Tôi không có đủ cái này, tôi không có đủ cái kia.” Nó cho con một cơn đau ở chỗ này, một cảm giác là lạ ở chỗ kia, luôn luôn thu hút sự chú ý của con.

3.2. Lòng căm hận đối với Mẹ

Đối với nhiều người tâm linh suốt các thời đại, cơ thể, cơ thể vật lý đã là một thách thức to lớn, nó kéo họ ra khỏi thiền tập của họ. Từ rất lâu nhiều người tâm linh đã xem cơ thể là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của họ, là một cái gì phải được chinh phục, phải bị làm ngơ, phải bị kiểm soát, phải bị trấn áp. Nhiều người xem toàn bộ bát cung vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của mình. Và một lần nữa như hiền tỷ yêu dấu của thày, Quan Âm, đã giải thích, đây là những mâu thuẫn khó xử mà chúng ta phải đối mặt trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, các thày hoàn toàn cảm được nỗi đau khổ to lớn mà con người phải nếm trải trong cõi Mẹ.

Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thày nghe thấy mọi điều mà con người trải nghiệm, mọi tiếng than, mọi oán trách, mọi cảm giác bất công, mọi căm hận đối với Mẹ. Tất cả đều đi qua trách vụ của thày. Thày biết rất rõ tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất, mọi khổ đau, và thày hiểu được trọn vẹn tại sao các con khó lòng nào tin tưởng được cõi Mẹ. Vì làm sao con biết được chuyện gì sẽ xảy ra và bỗng chốc toàn bộ cuộc sống của con bị đảo lộn hay tàn phá, hay con mất mạng, hay con mắc phải một căn bệnh làm con đau đớn? Thày hiểu hoàn toàn. Thày trải nghiệm điều này trong tim 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, 365 ngày một năm, suốt biết bao năm trời thày đã chăm lo trách vụ này.

Thế nhưng cách tiếp cận cơ thể vật lý của người tâm linh suốt hàng ngàn năm qua không phải là cách xây dựng nhất. Cơ thể của con có phải là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con không? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi. Chỉ khi nào con tìm cách trốn thoát khỏi cơ thể trong khi mình vẫn ở trong cơ thể, con khuất phục cơ thể, kiềm chế cơ thể, xem thường cơ thể, trấn áp cơ thể, thì chỉ khi đó nó mới là kẻ thù.

3.3. Đầu thai là một cơ hội

Nhiều năm trước đây, sứ giả này đã có một trải nghiệm rời xác thân (out-of-body experience) khi ông được đưa ra khỏi thân thể trong một vùng ánh sáng, rồi ông được gửi trở về một cách vũ bão, và ông hiểu ra thông điệp: “Tôi không đang hiện thân để có những trải nghiệm tâm linh. Tôi đang hiện thân để làm gì đó trong cõi vật lý, để trải nghiệm cõi vật lý, để thay đổi cõi vật lý.” Liệu cơ thể của con, cơ thể vật lý, có là kẻ thù cho việc kết nối với cái ta cao hơn của con và các chân sư thăng thiên? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi, bởi vì cơ thể vật lý là gì chứ? Đó là một cơ hội tuyệt vời. Một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm cõi vật lý từ bên trong và trở thành một phần của tiến trình đồng sáng tạo này.

Phải, thày nghe thấy tất cả những tiếng than vãn, tất cả những lời phản đối từ tâm thức tập thể đối với câu nói trên. Thày đã nghe những lời này từ hàng trăm năm rồi. Thày biết rõ chúng cả đầu ngược lẫn đầu xuôi, nhưng thày là ai chứ? Thày có phải là kẻ chỉ ngồi nghe những lời than này một cách thụ động, hay thày là đại diện của Mẹ Thiêng liêng đang ở đây để đôi khi là một người mẹ nghiêm nghị bảo rằng: “Than vãn như vậy đủ rồi. Hãy nhìn vào cơ hội kìa, hãy xem cơ thể là một cơ hội, hãy xem việc đầu thai là một cơ hội.”

Một lần nữa, thày nghe thấy nỗi đau, thày cảm thông nỗi đau. Nhưng đau khổ trên địa cầu đã trở thành một vòng xoáy trong tâm thức tập thể cứ ngày càng tự tăng cường, và phải có ai đó đập vỡ vòng xoáy này đi. Nhiều các con đây đã thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con sẽ giúp đập vỡ vòng xoáy này đã khiến con hoặc than phiền về thân xác, hoặc tìm cách kiểm soát nó như những người tâm linh vẫn thường làm. Thày hiểu rõ tất cả các con là người tâm linh đều có phần nào một mối quan hệ đối chọi với cơ thể vật lý của mình. Chính thày cũng đã như vậy khi thày còn ở trong một cơ thể vật lý. Giê-su cũng đã như vậy. Chắc chắn thày đã có mối quan hệ ngược ngạo này khi thày đứng đó nhìn Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá.

Dẫu vậy, rất nhiều các con đã nguyện là trong kiếp đầu thai này, các con sẽ kéo tập thể này vươn lên một cách tiếp cận cao hơn đối với cơ thể vật lý. Một cách tiếp cận cao hơn xem cơ thể là một cơ hội. Một cơ hội. Khi con ở trong cơ thể, tại sao con lại chối bỏ cơ thể? Tại sao lại tìm cách lánh xa cơ thể? Cách cao hơn là nhìn thực tiễn và nói: “Vì lý do gì tôi đang hiện thân vật lý?” Và con thừa nhận là chính con đã chọn hiện thân vật lý. Có thể con không cảm thấy là mình đã chọn. Có thể con nhìn lại đời mình và bảo: “Đúng ra tôi đã không nên chọn cuộc đời này. Không ai lại đi chọn cuộc đời của tôi, một cuộc đời đầy gian khổ như tôi đã sống qua.” Nhưng chính con đã chọn, vì nếu không thì con đã không ở đây. Con đã chọn. Có thể con đã bị giới hạn trong các tùy chọn do những khuôn nếp con đã tạo ra trong tiền kiếp, nhưng các khuôn nếp này là do con tạo ra khi chọn lựa.

Và những ai trong số các con là người tâm linh, là đệ tử của chân sư thăng thiên, chắc chắn các con đã chọn đầu thai trong kiếp hiện thân này vào thời điểm này để giúp Saint Germain đem lại Thời Hoàng kim và tạo điều kiện thuận lợi cho địa cầu xoay chuyển. Con có nghĩ là trong Thời Hoàng kim của Saint Germain, con người sẽ giữ nguyên mối quan hệ mà hầu hết mọi người đang có với thân thể của họ hôm nay hay đã từng có trong thời đại Song ngư và những thời đại trước nữa? Con chẳng nghĩ là sẽ có một cuộc xoay chuyển để tiếp cận cơ thể khác hơn hay sao? Vậy chẳng lô-gíc là con đang ở đây để giúp đem lại xoay chuyển này hay sao? Nhưng làm thế nào con có thể giúp tập thể xoay chuyển trừ khi con xoay chuyển tâm mình trước tiên? Thày không đang cố tỏ ra vô cảm đối với những ai đã phải chịu đựng rất nhiều về thể xác cùng đủ loại bệnh tật ngặt nghèo. Nhưng thày đang tìm cách đánh thức con dậy để con nhìn ra các chọn lựa mà con đã lấy trước khi bước vào hiện thân, đặc biệt khi các chọn lựa này liên quan đến cơ thể vật lý.

3.4. Chấp nhận “tôi là thân thể này”

Là người tâm linh, con cũng biết con là nhiều hơn cơ thể. Một số người sẽ nói: “Tôi không phải là cơ thể.” Có một truyền thống rất lâu đời trở ngược về hàng ngàn năm trời tại Ấn Độ nói rằng: “Tôi không phải là cái này. Tôi là cái kia,” và khi nói vậy, họ chỉ về một cái gì trong thế giới thần linh. Nhiều người chối bỏ cơ thể của mình. Nhiều người cố làm ngơ hay lánh xa khỏi nó. Nhưng cách tiếp cận cao hơn mà thày mong con lưu ý là đón nhận cơ thể. Đón nhận việc mình đang hiện thân, thậm chí đến độ con nói được: “Tôi là thân thể này.”

Con hãy xem xét phản ứng của con trước câu nói đó. Liệu con có thể trụ trong tim và cảm thấy an bình khi con nói “Tôi là cơ thể này” không? Hay con có một phản ứng? À, nếu thế thì phản ứng này đến từ một tập đoàn ngã tiềm thức mà rất có thể con đã tạo ra trong những kiếp trước – đối với nhiều người là avatar thì nó có thể trở ngược về chấn thương nhập đời khi lần đầu tiên con hiện thân vật lý trên trái đất và bị sa nhân tấn công, và chúng tìm cách dùng cơ thể vật lý của con để tiêu diệt con về mặt tâm lý lẫn tâm linh. Nhưng các thày đã cho con các dụng cụ để làm việc với vấn đề này, để con nhìn ra các ngã đó và để chúng chết đi. Đối với một số các con, điều sẽ rất lợi lạc là con nên dành ra một chút thời giờ để tập trung vào những cái ngã con đã tạo ra trong tiền kiếp có liên quan đến cơ thể vật lý, đến việc con ở trong cơ thể vật lý, và con chấp nhận là không những con ở trong cơ thể mà con còn chấp nhận cơ thể. Thay vì chấp nhận hay thấy mình ở trong cơ thể, con chấp nhận mình là cơ thể.

Tại sao sự phân biệt này quan trọng? Là vì chỉ khi nào con chấp nhận trọn vẹn mình là cơ thể thì bản mẫu của cơ thể con – được cầm giữ bởi Hiện diện TA LÀ của con, được cầm giữ trong tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con – mới hoàn toàn trở nên vật lý. Có rất, rất nhiều người tâm linh vì họ không chấp nhận “Tôi là cơ thể” cho nên họ không thể đưa bản mẫu này vào cõi vật lý. Nó bị chặn đứng trước khi nó đến cõi vật lý và do đó họ không thể nhận được sự chữa lành mà họ cần để tập trung vào sự tăng triển tâm linh của họ. Và hiển nhiên trong tư cách Mẹ Thiêng liêng, thày mong nhìn thấy tất cả các con được chữa lành càng nhiều càng tốt trong phạm vi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng chắc chắn thày mong muốn tất cả các con bị đau đớn tối thiểu do cơ thể của mình. Và như Quan Âm có nói, nếu con luôn bị kẹt trong cái tâm cứ phóng ra ngoài thì con sẽ không nối kết được.

Cho nên đã đến lúc con thử một cách khác hơn. Quá nhiều người tâm linh suốt các thời đại đã chối bỏ cơ thể, đã cố tránh né nó, đẩy nó ra xa. Bây giờ chẳng phải là lúc con thử một cách khác hơn? Và cách này là đón nhận cơ thể, chấp nhận cơ thể, đồng hóa mình là cơ thể, biểu hiện khuôn đúc cao nhất cho cơ thể.

3.5. Một dụng cụ thực tiễn để giúp con chấp nhận cơ thể

Trong khuôn khổ nỗ lực của các thày giúp con nối kết, thày cống hiến cho con một số dụng cụ thiết thực để bước vào một tâm thái nơi cơ thể của con, cơ thể vật lý, không ngăn cản con kết nối với các chân sư thăng thiên cùng cái ta cao của con, do cơ thể không đang lôi kéo sự chú ý của con ra ngoài. Như vậy con có thể có những giây phút an bình trong cơ thể để bước vào nội tâm. Đây là mong muốn của thày, cho nên thày sẽ yêu cầu con tham gia cùng với thày một số bài tập thực tiễn nhằm giúp con hoặc thay đổi cách tiếp cận của con đối với cơ thể, hoặc thật ra chữa lành cơ thể.

Các thày đã có giảng là cơ thể vật lý của con được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật. Các thày cũng nói Ánh sáng Mẫu-Vật là nền tảng cho hình tướng, nhưng tự nó không khoác vào hình tướng. Phải có một khuôn đúc, một khuôn đúc tư tưởng, được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì nó mới khoác vào hình tướng này. Khuôn đúc đó được phóng chiếu xuyên qua tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc lên Ánh sáng Mẫu-Vật, hình thành cơ thể vật lý. Điều này có nghĩa là cơ thể vật lý của con cho dù nó có vẻ dày đặc đến vậy, nhưng nó không dày đặc chút nào. Nó mềm lỏng. Nó tựa như loại nhựa dẻo có thể được uốn nắn, như đất sét có thể được nhào nặn, nhưng nó được nhào nặn bởi tư tưởng, bởi bản sắc, bởi cảm xúc. Và vì vậy nó có tiềm năng chuyển đổi chớp nhoáng. Chớp nhoáng. 

Bây giờ con cũng biết là cơ thể vật lý được cấu tạo bằng tế bào. Nếu con từng nghiên cứu điều này, con sẽ biết là tế bào phức tạp một cách khó tưởng tượng. Đã có một thời khi các nhà khoa học khám phá ra tế bào, họ tưởng tế bào cũng giống như nguyên tử thuở trước khi người ta tin rằng hạt nguyên tử không thể phân chia nhỏ hơn. Họ nghĩ tế bào chỉ là những viên gạch cơ bản xây dựng cơ thể và ngay trong tế bào thì không có gì nhiều. Nhưng một khi họ có được những dụng cụ để nghiên cứu tế bào, họ mới biết là họ lầm lẫn đến chừng nào và tế bào phức tạp như thế nào. Như một số bác sĩ đã phát hiện, tế bào hòa điệu chặt chẽ với trạng thái tâm con. Theo một nghĩa nào đó, tế bào là những chiếc máy radio nhận tín hiệu, và những tín hiệu này đến từ môi trường của con, từ tâm thức tập thể, nhưng chúng cũng nhận được tín hiệu từ chính tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của con.   

Tất nhiên con có thể dùng các dụng cụ của các thày như bài chú, bài thỉnh để cũng thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho cơ thể vật lý của con, niêm phong nó khỏi tâm thức tập thể cùng môi trường chung quanh. Nhưng điều thày muốn trao cho con ở đây là một dụng cụ thật đơn giản dựa trên hai dòng thơ trong bài chú của thày. Và hai dòng này là: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.”

Ý tưởng ở đây là tế bào của con giống như một chiếc âm thoa và nó có thể được điều chỉnh theo tần số của thế gian, một khuôn đúc thấp, hay nó có thể hòa điệu với một khuôn đúc cao hơn. Khuôn đúc cao nhất là viễn quan của Mẹ Thiêng liêng cho cơ thể vật lý của con. Và viễn quan này có thể được nhận thức như một âm thanh, một rung động, một tiếng chuông. Đây là dụng cụ mà thày muốn cho con. Nó không nhằm mục đích thay thế những dụng cụ khác mà các thày đã trao truyền, các bài thỉnh chữa lành. Nhưng dù sao đây là một dụng cụ mà con có thể tự mình thực tập, hay con có thể nghe lại bài truyền đọc này hết lần này sau lần khác và thể nhập nó. Thày xin con cùng thày đọc hai dòng này: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.” Con hãy đọc cùng với thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.

(9 lần, với tiếng chuông điểm sau mỗi lần)

Đây là một dụng cụ con có thể dùng một mình. Nếu con không có chuông, con có thể hoà điệu nội tâm con với một tiếng chuông, nhưng con hãy đọc hai dòng này trong ngôn ngữ của con, hòa nhập vào Hiện diện của thày, hòa điệu với cơ thể cùng bất kỳ điều kiện nào trong cơ thể, và để cho mình thâm nhập vào đó. Thày xin con không lặp lại theo thày bây giờ mà lắng nghe giọng đọc của vị sứ giả. Lắng nghe cái vượt khỏi giọng đọc, giọng đọc con người. Lắng nghe giọng của thày bên trong con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
(30 lần)

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Âm thanh phá tan bùa mê đáy vực
đến từ cõi chết và cõi địa ngục.

Con yêu dấu, con có thể dùng phiên bản trên hay phiên bản trong bài chú của thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Nếu con dùng dụng cụ này, đặc biệt nếu con nghe lại bài truyền đọc này, con có thể thấy với thời gian cách nhìn của con về cơ thể vật lý sẽ chuyển đổi. Thày hy vọng là con có thể đạt tới điểm đọc câu chú này: “Tôi là cơ thể này” và cảm thấy an bình với câu đó, không khởi lên phản ứng nào và chấp nhận mình là cơ thể, và cơ thể là một cơ hội trong thời gian con ở trong cơ thể. Thậm chí con còn có thể đi xa hơn và chấp nhận: “Tôi là thân thể của Mẹ Thiêng liêng. Tôi là thân thể của Mẹ Trái đất.”   

3.6. Là một người tâm linh trong cơ thể

Đối với những đệ tử nào đã có trù hoạch sự chấp nhận này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các con có thể qua đó cống hiến một việc phụng sự to lớn cho sự hàn gắn của thân thể hành tinh cùng các cơ thể vật lý của nhân loại. Thật sự, một trong những lợi ích to lớn có thể mang lại khi chúng ta tiến đến Thời Hoàng kim của Saint Germain là mọi người dần dần chấp nhận rằng bệnh tật trong cơ thể vật lý không phải là chuyện tự nhiên. Thật không tự nhiên khi cơ thể bị bệnh. Thật không cần thiết cho cơ thể phải mắc bệnh, mặc dù điều này tất nhiên rất khó tránh trong điều kiện hiện thời. Nhưng dù sao, bằng cách chấp nhận con là cơ thể và sau khi đã làm việc với ba thể cao, con cũng có thể dần dần chấp nhận là việc tạo thay đổi trong cơ thể là chuyện khả dĩ ngay cả khi bác sĩ hay tâm thức tập thể bảo chuyện này không thể xảy ra. Bởi vì con đang ở trong cõi vật chất. Đây là cõi của Mẹ Thiêng liêng. TA LÀ cõi vật chất. Không có gì trong vật chất là bất khả đối với Mẹ Thiêng liêng.

Chỉ sự chấp nhận hay không chấp nhận của con mới có thể ngăn cản một điều mà nhiều người sẽ gọi là phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ gì đâu con. Chỉ có sự biểu hiện tự nhiên của sự kiện Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trình chiếu ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó và do đó hình ảnh trình chiếu được thay đổi. Và con thay đổi điều kiện vật chất giống như con thay đổi truyện phim trên màn hình bằng cách thay thế dải phim trên máy chiếu. Đây chính là nội dung trong quyển sách của thày, Khóa học về sự Dồi dào. Và một số các con có thể thấy lý do xem lại khóa học này, và tất nhiên quyển sách về Khuôn đúc Chữa lành cũng có thể giúp con xoay chuyển thái độ của minh đối với cơ thể cho đến khi con chấp nhận cơ thể.

Dù điều này có vẻ kỳ lạ, có vẻ mâu thuẫn, có vẻ bí ẩn, nhưng trong nhiều trường hợp con cần phải hoàn toàn chấp nhận một điều kiện trong cơ thể trước khi con có thể thăng vượt điều kiện đó. Chừng nào con còn đẩy nó ra xa – không những đẩy điều kiện mà cũng đẩy cả cơ thể đã buộc con phải đối mặt với điều kiện đó – thì làm thế nào con có thể chấp nhận được thay đổi? Con có thể đã có nghe câu nói quen thuộc này: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong thế giới.” Nhưng liệu chúng ta cũng có thể nói: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong cơ thể”? Nhưng làm thế nào con thay đổi được cơ thể trừ khi con là cơ thể? Và làm thế nào con là cơ thể được nếu con chối bỏ nó, đẩy nó ra xa, cho rằng nó phản tâm linh hay là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của con?

Đâu là mục đích của việc làm người tâm linh trong thời đại này và hiện thân vật lý? Có phải là để đẩy cơ thể ra xa? Hay để chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong cơ thể? Con hãy là một người tâm linh trong cơ thể. Có cách nào khác để làm người tâm linh trong hiện thân hay không? Làm người hiện thân, đó chính là mục đích của con.

Với lời này, thày đã trao cho con phần trình bày mà thày mong muốn đem lại ở thời điểm này. Có thể thày có nhiều điều sẽ nói sau, nhưng chắc chắn các chân sư khác cũng có nhiều điều muốn nói. Cho nên con hãy nhận lòng biết ơn của thày vì con đã có mặt ở đây với cơ thể của con. Và thày mong con có thể có mặt ở đây và đồng thời cũng là cơ thể của con.

1 | Trải nghiệm mình là một sinh thể vượt hình tướng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels ngày 3 tháng 6, 2023, nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm.

Tại sao thày lại nói chậm như vậy?

Con hãy nhận xét phản ứng của con.

Con có cảm thấy bực bội, nóng nảy, sốt ruột?

Thế thì con thử nghĩ sự thể này xuất phát từ đâu.

Chẳng phải là nó xuất phát từ một tâm trí quá ghiền nghiện sự kích động hay sao? Con nghĩ xem trong thời đại hôm nay, biết bao nhiêu người đã quen thói nhận được sự kích động liên tục như vậy trong tâm. Từ biết bao nguồn gốc khác nhau, tâm con bị cuốn hút vào một phản ứng liên tục đối với quá nhiều thứ từ bên ngoài chính nó. Nhưng liệu thày đây, một chân sư thăng thiên, có phải là một nguồn từ ngoài? Liệu quyển sách này có chỉ là thêm một kích động từ ngoài đối với con hay nó là nhiều hơn vậy? Phải, nó có thể là nhiều hơn, nhưng nhiều hơn bao nhiêu thì tùy thuộc vào con.

1.1. Giọng nói yên ắng trong con

Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải là con đang nghe giọng nói một người ở bên ngoài đang đọc thông điệp từ một chân sư thăng thiên? Chẳng phải giọng nói này cũng đến từ một nguồn bên ngoài giống như mọi thứ khác đang lôi kéo tâm con?” Nhưng liệu thày, một chân sư thăng thiên, có thật là một nguồn bên ngoài hay không? Vì thày nói con này, là một chân sư thăng thiên thày không bị hạn chế bởi thời gian lẫn không gian. Thày ở khắp mọi nơi trong tâm thức Thượng đế. Có nghĩa là thày ở khắp mọi nơi trong bát cung vật lý. Có nghĩa là thày ở bên trong con lẫn bên ngoài con cũng như ở khắp mọi nơi chung quanh con. Nhưng thày cũng không ở bất kỳ vị trí cụ thể nào trong thời gian lẫn không gian.

Dù con nghe thày như một nguồn bên ngoài đang nói chuyện bằng giọng nói con người hay con nghe thày như giọng nói nhỏ nhẹ yên ắng bên trong, thì điều này tùy thuộc vào con. Con có thể nghe cả hai cùng một lúc. Hoặc con có thể làm giống như cái tâm kia bị ghiền nghiện, chỉ cố nghe giọng nói bên ngoài mà dập tắt giọng nói bên trong. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con chẳng nắm được hay sao là ông hoàng của thế gian, bọn quỷ của Mara, đang cố hết sức lôi kéo chú ý của con ra ngoài để con liên tục hướng nó về bất cứ gì ở bên ngoài chính con?

Chúng không cần biết sự chú ý của con tập trung vào nơi đâu miễn là nó tập trung ở ngoài con. Vì chúng biết là cho dù con có chú tâm vào ngoại vật gì đi nữa thì vật này sẽ kéo con ra khỏi cái bên trong. Và bên trong con là cái ta cao của con, là các thày tâm linh của con, là các chân sư thăng thiên, là trải nghiệm mà con có về chính mình rằng con không phải là tâm vỏ ngoài mà là điều các thày – vì không có cách gọi nào hay hơn – đã gọi là sự nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết đang tự trải nghiệm nó như sự nhận biết thuần khiết.

1.2. Các vị thày tâm linh cho nhân loại

Các con đã chọn chủ đề này cho buổi đại hội hôm nay: Kết nối với cái ta cao và các thày tâm linh của mình. Các thày sẽ trước hết giúp con kết nối với các thày, các chân sư thăng thiên, đang là những vị thày tâm linh cho hành tinh này và cho nhân loại. Cho dù người ta có biết đến các thày hay có biết danh xưng này hay không, thì các thày là thày tâm linh cho tất cả mọi người. Vì các thày là những sinh thể ở cõi thăng thiên, ở cõi tâm linh, đã được Đại đoàn chưởng giáo vũ trụ giao phó việc hoạt động với trái đất. Các thày hợp nhất. Các thày là một.

Tất nhiên là có những kẻ mạo danh tự xưng mình là thày tâm linh, có lẽ sử dụng cả danh hiệu các thày. Và họ thường ở cõi lý trí, một số ở cõi bản sắc thấp, một số thậm chí ở cõi cảm xúc. Và hiển nhiên có cả những kẻ đang hiện thân vật lý, tự xưng mình là đạo sư đủ kiểu, tự nhận mình có đủ loại thẩm quyền khác nhau hay một trạng thái tâm thức cao siêu nào đó. Nhưng các thày là chân sư thăng thiên, là những vị thày tâm linh đã được bổ nhiệm cho trái đất. Tất nhiên con có thể tìm đến bất kỳ vị thày nào hấp dẫn con ở mức tâm thức hiện thời của con, và hẳn là có nhiều người cần đến loại trải nghiệm mà họ có được khi họ đi theo đạo sư của họ.

1.3. Vượt lên trên sự hào nhoáng tâm linh

Nhưng các con đã biết đến chân sư thăng thiên, tất nhiên các con sẽ thăng tiến nhiều nhất khi tìm sự nối kết với các thày. Nhưng nối kết này sẽ xảy ra như thế nào? Liệu con sẽ nối kết được với các thày qua trung gian cái tâm bận rộn luôn luôn bị lôi ra ngoài, bị kéo đi đây đó, khiến con không bao giờ nghỉ chân được ở nơi nào lâu hơn vài giây? Liệu con sẽ nối kết được với các thày qua tâm đó? Không đâu, con sẽ không làm được. Có thể con sẽ nối kết được với những sinh thể ở cõi lý trí, họ sẽ kích động con với những hào nhoáng đủ loại. Con thấy đó, biết bao người bị hấp dẫn bởi những kẻ thuyết giảng về đủ loại chủ đề huyền bí theo những cách thường rất khó hiểu. Nhưng liệu họ có được sự nối kết với Đại đoàn vũ trụ hay không?

Con là người biết đến các chân sư thăng thiên, con cần đến hào nhoáng tâm linh đó để làm gì? Tại sao nó lại cần thiết đối với con? Bởi vì đường tu tâm linh không phức tạp lắm đâu. Đường tu không huy hoàng vẻ vang theo các tiêu chuẩn phán xét của người đời. Người đời muốn cái gì hào hứng. Họ muốn cái gì thu hút chú ý của họ, liên tục lôi kéo chú ý của họ, bởi vì đây là điều tâm vỏ ngoài ghiền nghiện, là những thứ không ngừng lôi kéo sự chú ý.

Chỉ cần xem các bộ phim, các chương trinh truyền hình thì con sẽ thấy nhịp độ dồn dập đã gia tăng như thế nào, đến nỗi cốt truyện gần như không có mà chỉ còn lại những cảnh đánh đấm với hiệu ứng đặc biệt, luôn luôn có gì đó để lôi kéo con vào. Không còn thời gian để ngừng chân tĩnh lặng. Có những người tự xem mình là tâm linh nhưng tâm họ bị cuốn hút ra ngoài liên tục, không bao giờ nhìn vào bên trong. Đường tu tâm linh là thế nào chứ? Có phải là tâm bị kích động liên tục mà không biết chán? Hay đó là bước vào bên trong, là tìm thấy một cái gì ở bên trong mà con không thể tìm được ngoài thế gian? Bởi vì nếu cái đó có thể tìm thấy ngoài thế gian thì chắc chắn nó đã được những kẻ luôn tìm cơ hội kiếm tiền tung ra phổ biến rồi.

1.4. Hướng chú ý vào bên trong

Con đường tâm linh mà các thày giảng dạy trở ngược về hàng thiên niên kỷ. Và mặc dù các thày có thể dùng từ ngữ cho phù hợp với thế giới hiện đại, trong tinh túy đó vẫn là cùng một con đường. Con sẽ không tìm thấy những gì con tìm kiếm bằng cách nhìn ra ngoài chính con. Con sẽ chỉ tìm thấy những gì con tìm kiếm khi con bắt đầu hướng chú ý vào bên trong.

Hiển nhiên đây không phải là chuyện dễ. Các thày hiểu hoàn toàn. Các thày hiểu hoàn toàn việc hướng chú ý vào bên trong khó khăn đến chừng nào, một phần vì hành tinh nơi con đang sống có một tâm thức tập thể dày đặc không ngừng lôi kéo con ra ngoài. Nhưng phần khác cũng vì con đã trải qua nhiều kiếp sống trên hành tinh gian lao này, cho nên chắc chắn con đã chạm trán đủ loại chấn thương với cường độ khác nhau. Khi con khởi sự nhìn vào nội tâm, có thể con sẽ chạm mặt những năng lượng cảm xúc, những chấn thương cùng tin tưởng sâu đậm gây đau đớn và khó khăn.

Nhiều người trên thế giới khi họ bắt đầu thiền tập, thực hành chánh niệm hay bất kỳ phương pháp phổ biến nào khác, thì họ đối diện với những chấn thương từ tiền kiếp. Một số cảm thấy sợ hãi, họ cho rằng nó quá sức họ, hay thậm chí nó còn nguy hiểm. Họ có xu hướng tụ quanh một số đạo sư hay tôn giáo hứa đem lại cho họ sự cứu rỗi vỏ ngoài, tức là có ai đó sẽ làm gì cho họ để họ không phải nhìn vào nội tâm của họ. Họ chỉ cần đi theo con đường vỏ ngoài đó, thực hành pháp tu tâm linh đó, bước theo đạo sư đó. Dù những lời dụ dỗ là gì, những hứa hẹn là gì, những tuyên bố là gì về thẩm quyền hay sự cao siêu của đạo sư, thì những lời này được tung ra để kéo hành giả bước xa khỏi con đường duy nhất đã từng đem lại kết quả, là nhìn vào nội tâm.

Trong số các chân sư thăng thiên được giao phó nhiệm vụ chăm sóc trái đất, nhiều người đã từng đầu thai trên trái đất. Các thày biết rõ hành tinh này dày đặc như thế nào. Các thày đã nếm trải điều này ngay bốn thể phàm của mình, nhưng các thày cũng chứng nghiệm là mình có khả năng vượt qua. Và do đó, các thày biết rõ con đường này hiệu quả và chính các con cũng có khả năng vượt qua. Tất nhiên, các thày cũng nghiệm thấy là mình không thể vượt qua bằng riêng quyền năng của mình. Các thày cần đến sự trợ giúp của những chân sư thăng thiên làm việc với trái đất vào thuở các thày thăng thiên. Và hiển nhiên đây là tại sao ngày nay các thày cũng cống hiến sự trợ giúp này cho bất cứ ai sẵn lòng nhận lấy. Các thày đã đến với nhau như một nhóm để xét xem làm cách nào các thày có thể giúp các con hoàn thành mục tiêu mà các con đã chọn cho đại hội này, là kết nối.

1.5. Mở rộng kết nối của con với các chân sư thăng thiên

Nhiều người trong số các con đã có được một sự kết nối nào đó với các thày và với cái ta cao của con. Một số thì cảm thấy mình chưa thiết lập được sự kết nối mà mình muốn có. Nhưng nhiều các con đã theo học giáo lý này được một thời gian, đặc biệt những ai đã sử dụng giáo lý được ban truyền cho các avatar về chấn thương nhập đời vũ trụ, về ngã gốc và làm cách nào khắc phục rất nhiều ngã tách biệt, những ngã tiềm thức, và nhiều các con đã tiến bộ nhiều hơn là con tưởng. Nhưng dẫu vậy, các thày đã quyết định cho các con cơ hội mở rộng sự kết nối này.

Tại sao thày lại nói “mở rộng” thay vì “thiết lập”? Bởi vì tất cả những ai có khả năng nhận ra chân sư thăng thiên đều đã có một sự kết nối nào đó với các thày rồi. Bởi vì chỉ khi nào đệ tử sẵn sàng thì thày mới có thể xuất hiện. Không phải vì thày trốn né đệ tử. Các thày luôn luôn ở đây. Các thày luôn luôn ở đây cho tất cả mọi người. Nhưng khi nào đệ tử chưa sẵn sàng thì đệ tử không thể cảm nhận được Hiện diện của các thày.

1.6. Tại sao con đang đọc quyển sách này?

Mục đích của thày với bài giảng mở đầu này là giúp con nhận biết – hay ít ra giúp con chú tâm, bởi vì tất nhiên đa số các con đã nhận biết là con không thể kết nối với chân sư thăng thiên qua trung gian tâm vỏ ngoài luôn luôn bận rộn quá đỗi. Tại sao con đang đọc quyển sách này? Điều gì đã thúc đẩy con khởi sự đọc? Con hy vọng rút tỉa được điều gì từ quyển sách? Riêng thày thì thày biết rõ tại sao thày ở đây. Con có biết tại sao con ở đây không? Nhiều các con sẽ chỉ ra đủ loại lý do khác nhau, nhưng liệu con đã bỏ ra chút thì giờ để xét xem thực sự tại sao mình ở đây? Liệu con đã xét có thể một phần động cơ của con là một số ngã tiềm thức hy vọng được hưởng gì đó từ việc ở đây? Liệu con đã xét có thể con có những động cơ nào chăng? Có thể con mang những kỳ vọng nào chăng?

Nhiều người đến tham dự một buổi họp tâm linh với hy vọng có được một trải nghiệm ấn tượng nào đó. Thậm chí có người đến với hy vọng sẽ có một số biểu hiện hay chứng cớ vật lý. Một số hy vọng mình sẽ cảm thấy thật đặc biệt hay người ta xem mình là đặc biệt. Nhiều loại kỳ vọng khác nhau, nhưng con hãy nhìn chủ đề con đã chọn: Kết nối. Con nghĩ – hay những cái ngã tiềm thức của con nghĩ – chuyện gì sẽ xảy ra khi con nối kết với một chân sư thăng thiên? Có kỳ vọng nào về một sự cố ấn tượng hay hoành tráng nào đó?

1.7. Kỳ vọng một sự cố ấn tượng

Thày không ở đây để cố tìm lỗi hay chỉ trích, mà thày chỉ tìm cách giúp con nhận thức rõ hơn về những chờ đợi mà con có thể có. Vì nhiều người đến với những chờ đợi sẽ ngăn chặn họ nối kết thật sự với các chân sư thăng thiên. Nhiều người đến mà cứ chờ đợi một sự cố ấn tượng, một sự cố hoành tráng nào đó. Và chắc chắn chúng ta có thể nói là phần nào kỳ vọng này đã được các giáo lý trước của chân sư thăng thiên tăng cường, qua đó đã có truyện kể về những người đi lên núi, gặp Saint Germain thị hiện vật lý trước mắt, rồi được dẫn đến Hang Biểu tượng, được có trải nghiệm ngoạn mục với Saint Germain hay với các chân sư khác nữa.

Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã đến tham gia với sự chờ đợi dựa trên những lời dạy khá cũ đó. Nhưng trong thời đại hôm nay, các thày đã trao cho con những lời dạy mới, soi một ánh sáng khác hơn trên các thày ngày hôm nay cũng như cách làm việc của các thày với đệ tử ngày hôm nay. Một số những lời dạy kia đã được đưa ra rất lâu về trước trong đợt truyền pháp của thời Song ngư khi tâm thức tập thể dày đặc hơn bây giờ rất nhiều. Con người thời đó cần đến nhiều kịch tính hơn, họ cần sự hứa hẹn về một sự cố đầy kịch tính. Nhưng con có thấy chăng đây là một ví dụ về sự thể các thày đã đề cập trước đây, là các thày phải thích ứng lời dạy và cách biểu đạt của mình với tâm thức của những ai các thày muốn tiếp cận? Và con thấy chăng cho dù các thày có làm gì đi nữa thì việc này cũng có một hiệu ứng phụ nào đó? Nếu con nhìn trở ngược về các lời dạy cũ đó, con sẽ thấy nhiều người đã bị lời dạy thu hút chính vì những câu chuyện ấn tượng như thế kia, vì họ hy vọng có được cuộc gặp mặt ấn tượng với một chân sư thăng thiên sẽ khiến họ cảm thấy đặc biệt biết mấy.

Nhưng con cũng thấy chăng là hầu hết những người đó, tuyệt đại đa số những người được thu hút bởi giáo lý của chân sư thăng thiên đã không có được loại gặp gỡ ngoạn mục như vậy? Và kết quả là gì? Họ đã thất vọng. Họ tự hỏi: “Có gì không ổn với chính tôi khiến cho Saint Germain không hiện ra trước mắt tôi, không dẫn tôi đến Hang Biểu tượng, không bảo tôi là sứ mạng của tôi đặc biệt đến chừng nào? Vậy làm thế nào tôi sẽ đơn thương độc mã cứu nguy được hành tinh và đem lại thời hoàng kim?” Con thấy đó, luôn luôn có một thế cân bằng tế nhị giữa việc hấp dẫn, thu hút sự chú ý của họ, rồi sau đó có rủi ro đem lại thất vọng khi những kỳ vọng quá đáng của họ không được đáp ứng.

1.8. Đẩy sự kết nối ra xa

Các con là học trò trong thời đại này, đã sẵn sàng tiếp nhận giáo lý được trao truyền qua sứ giả này, con có thể nhìn vào chính mình và xét xem liệu con có còn một số chờ đợi gặp gỡ ấn tượng không. Và nếu còn thì chờ đợi này sẽ ngăn chận sự kết nối của con với các thày. Tại sao? À, vì nhiều lý do. Trước hết là vì các thày là thày tâm linh đích thực. Có nghĩa gì? Có nghĩa là các thày muốn con giải thoát khỏi tự ngã, khỏi những cái ngã tiềm thức. Nếu con có một kỳ vọng dựa trên tự ngã ham muốn cảm thấy đặc biệt khi con được gặp chân sư thăng thiên, thì điều gì sẽ xảy ra nếu các thày thỏa mãn kỳ vọng của con? Điều gì sẽ xảy ra nếu các thày hiện ra trước mặt con đúng y như con chờ đợi và khiến con cảm thấy thật đặc biệt? Con sẽ bị yếu tố đó của tự ngã đánh bẫy, có lẽ cho đến hết kiếp này.

Cho nên là thày tâm linh chân chính thì các thày phải bước lùi lại khi con mang kỳ vọng. Vì các thày không thể nhận rủi ro đẩy con về hướng ngược lại sự tăng triển. Nhưng tất nhiên cũng có một lý do nội tâm, đó là khi con kỳ vọng một cuộc gặp gỡ ấn tượng thì một lần nữa, đây là tâm con đang phóng chiếu ra ngoài. Nhưng như thày vừa giảng, con sẽ không tìm thấy các thày ở ngoài kia, con sẽ không nối kết được với các thày ở ngoài kia. Nhưng nếu tâm con cứ phóng chiếu hình ảnh sự nối kết phải diễn ra thế nào thì chẳng phải là con đang phóng chiếu con muốn nối kết với các thày ở ngoài kia? Chẳng phải là với kỳ vọng này, con đang đẩy xa sự nối kết khỏi chính con hay sao? Đây là mâu thuẫn khó xử mà các thày phải đối mặt – nó không khó xử cho các thày mà nó khó xử cho con.

Các thày hiểu hoàn toàn thực trạng của việc đầu thai. Vì sao con lại muốn nối kết với thày tâm linh của con trừ phi sự nối kết này mang lại cho con cái gì đó mà con không có được trong cuộc sống thường nhật? Phải, các thày hiểu là con phải có một động cơ nào đó để học tập giáo lý, để thực hành các bài thỉnh, bài chú. Các thày hiểu. Nhưng các thày cũng hiểu là trong hầu hết trường hợp khi con không cảm thấy nối kết, đó là do kỳ vọng của con đang ngăn chặn sự nối kết. Không phải các thày.

1.9. Thiết lập một nối kết nội tâm trực tiếp với chân sư

Một điểm thày muốn con chú ý và lắng nghe là điều sau đây. Các thày, các chân sư thăng thiên, không giới hạn sự nối kết mà con có thể có với các thày. Một lần nữa, thày không đang cố chỉ trích dưới bất cứ hình thức nào. Thày chỉ đang chỉ ra là các thày sẵn lòng kết nối với bất cứ ai trên địa cầu ở mức tâm thức hiện thời của họ. Bởi vì đây chính là thực chất của tâm thức Ki-tô. Tâm Ki-tô là tâm có khả năng gặp gỡ mọi người ở bất kỳ mức tâm thức nào và cống hiến cho họ một khung tham chiếu sẽ giúp họ bước lên bước tâm thức kế tiếp. Dựa trên tâm Ki-tô, không có một người nào trên địa cầu mà các thày không sẵn lòng nối kết. Và thày nói điều này để các con là đệ tử trực tiếp của các thày có thể nhận rõ là các thày sẵn lòng nối kết với con. Mong muốn của các thày là tất cả các con thiết lập một sợi dây nối kết trực tiếp với các thày để con có thể nhận được những sáng ngộ cá nhân, những xoay chuyển tâm thức cùng sự giúp đỡ từ các thày, chứ không phải từ bất kỳ nguồn nào bên ngoài hay qua trung gian bất kỳ nguồn nào bên ngoài.

Con đang học hỏi và thực hành giáo lý được trao truyền qua sứ giả này. Nhưng cả các thày – là các chân sư thăng thiên đang đỡ đầu cho sứ giả này – lẫn chính sứ giả đều không mong muốn con chỉ nối kết qua trung gian sứ giả hay qua các giáo lý được trao truyền qua sứ giả. Các thày muốn con thiết lập một sự nối kết nội tâm trực tiếp với các thày để con đạt tới điểm không cần đến sứ giả nữa. Con có thể không cần đến lời dạy vỏ ngoài. Con có thể không cần đến pháp tu vỏ ngoài. Hoàn toàn không có mong muốn hạn chế con, cầm giữ con trong một trạng thái đồng phụ thuộc (co-dependence) vào sứ giả, hay vào giáo lý, hay vào pháp tu. Điều này không có nghĩa là con phải rời khỏi giáo lý hay pháp tu. Nhưng các thày mong muốn tất cả các con có được sự nối kết trực tiếp đó.

1.10. Rút lui khỏi thế giới

Câu hỏi đặt ra cho con thực sự là như sau: “Điều gì trong tâm con có thể ngăn cản sự nối kết trực tiếp của con?” Và tất nhiên, đây là điều các thày sẽ giúp con nhìn ra và khắc phục trong đại hội này. Nhiều các con sẽ coi đại hội này là một hội nghị, nhưng con cũng có thể xem đây là một khóa nhập thất. Tại sao thày dùng chữ “nhập thất”? Bởi vì khi con tham gia một khóa nhập thất thì con làm gì? Con rút ra khỏi thế giới. Trong những ngày sắp tới, các thày yêu cầu con rút càng nhiều càng tốt ra khỏi cuộc sống bình thường của con, khỏi những gì con bình thường tập trung chú ý. Không cứ là từ bỏ bất cứ trách nhiệm nào mà con đang có, nhưng là việc rút lui vào trong tâm hầu con rút chú ý ra khỏi tất cả những chuyện kia đang lôi kéo con.

Bây giờ con có thể, nếu con sẵn lòng, quyết định tắt máy điện thoại kia đi, tắt đường dây internet kia đi. Con yêu dấu, nếu con không để ý đến thế giới trong những ngày sắp tới, chắc chắn thế giới sẽ vẫn còn đó. Vì thày có thể cam đoan với con là thế giới vẫn còn đó khi không có ai nhìn – khi không có con người nào nhìn – vì các thày là chân sư thăng thiên luôn luôn nhìn.

1.11. Vô vi nhi vô bất vi

Có một khái niệm bắt nguồn từ đạo Lão được tìm thấy ngay cả trong bài chú của thày qua câu: “Mọi việc không làm, cũng không không làm”, hay “Không làm việc gì, nhưng không sót việc gì không làm.” Nhiều các con mong muốn nhìn thấy thay đổi trên thế giới hay nơi đất nước Hàn quốc này đây. Các thày hiểu. Nhưng có lẽ bằng cách rút ra khỏi sự chú tâm bình thường vào thế giới và việc thay đổi thế giới, con sẽ có thể đem lại một thay đổi lớn hơn trên thế giới qua việc kết nối trực tiếp với các thày. Có lẽ bằng cách không làm những chuyện con thường làm, không để ý đến những gì con bình thường để ý, con có thể làm nhiều hơn cho thế giới.

Thày yêu cầu con, nếu con muốn gặt hái kết quả lớn nhất từ khoá nhập thất này thì con hãy rút ra khỏi các quan tâm bình thường của con. Con đã đến đây vì con muốn kết nối với cái ta cao cùng các vị thày tâm linh của con. Con hãy quên đi sự kết nối với thế gian. Bởi vì nếu con đã có thể kết nối với các thày qua tâm vỏ ngoài cứ luôn phóng chiếu ra ngoài thì chắc chắn con đã kết nối được rồi vì tâm đó hoạt động rất ráo riết. Vậy con thử nghĩ xem con có thể làm gì khác, hay con có thể không làm gì cả. Không làm!

Một lần nữa, các thày hiểu vì các thày đã từng đầu thai trong cõi vật lý. Các thày hiểu là hành tinh địa cầu trải bày nhiều bí ẩn, nhiều uẩn khúc, nhiều điều dường như mâu thuẫn. Vì lý do gì biết bao người tâm linh khắp thế giới và khắp các thời đại đã rút lui khỏi thế gian để bước vào bên trong? Bởi vì thế gian, tâm thức đại chúng, luôn luôn kéo chú ý của họ ra ngoài. Các thày hiểu hoàn toàn là để thiết lập một sợi dây nối kết với cái ta cao, với các thày tâm linh của con, con cần phải kéo mình, phải vươn mình lên khỏi sức kéo hướng hạ đó, sức hút nặng trịch của tâm thức đại chúng đó đang kéo con xuống. Các thày hiểu là việc này cần sự nỗ lực.

Nhiều các con đã bỏ ra rất nhiều nỗ lực suốt nhiều năm trời để thực hành nhiều loại pháp tu tâm linh, cho dù là chú, thỉnh hay một pháp nào khác. Và nhờ làm vậy mà con đã tự nâng mình lên một cấp độ nào đó là cấp độ con đang đứng hôm nay. Các thày hiểu là nhiều các con, giống như sứ giả này cũng đã từng làm nhiều năm trời, đã tập trung vào công việc tâm linh, vào pháp tu tâm linh để nâng cao tâm thức cùa mình cũng như thay đổi thế giới. Các thày thấu hiểu, các thày kính trọng tất cả mọi công việc con đã làm. Các đệ tử của chân sư thăng thiên, đặc biệt các đệ tử ở Hàn quốc này đây, đã làm biết bao công việc suốt nhiều năm, đã nỗ lực biết bao trong nhóm hội của mình để đăng tải giáo lý, để thực hành các bài thỉnh và bài chú – các thày tôn vinh tất cả mọi việc con đã làm.

Nhưng các thày hy vọng là con cũng hiểu rằng cho khóa nhập thất này, vấn đề không phải là cố đẩy mạnh hơn để thiết lập một sự nối kết với các thày. Con đã biết cách đẩy mạnh rồi. Con đã phần lớn vươn mình lên trên tâm thức đại chúng rồi. Giờ đây con cần một cái gì khác! Con cần một cái gì khác để thiết lập hay để mở rộng sự nối kết. Con hãy sẵn sàng bỏ qua bên những kỳ vọng của mình, bỏ qua bên pháp tu bình thường của mình, thậm chí cả tư duy mà con thường có là tư duy năng động, tư duy làm việc. Thày không đang bảo – xin con lắng nghe lời thày nói – thày không đang bảo là việc hoạt động hay tu tập tâm linh có gì sai trái, mà thày chỉ nói rằng mọi chuyện đều có thời của nó, và bây giờ là thời điểm con cần làm khác hơn, hay đúng hơn, không làm. Bởi vì bằng cách không làm với tâm vỏ ngoài, có thể con sẽ tìm được sự nối kết qua đó không còn việc gì là không làm, mặc dù không có gì được làm qua tâm vỏ ngoài.   

1.12. Những dụng cụ để giúp con kết nối

Các chân sư sẽ ban ra một số lời dạy và mỗi bài truyền đọc sẽ nhắm tới việc giúp con nối kết với vị chân sư đó. Một số các con sẽ nối kết với thày, một số thì không. Thật chẳng có gì không ổn nếu con không nối kết chặt chẽ với thày hay với một chân sư nào khác. Điều quan trọng là con tìm ra vị chân sư mà con nối kết, xong con tập trung vào đó. Những bài truyền đọc này mà các thày sẽ cho con là công cụ để con dùng. Con có thể bảo là các thày như thể vẫn làm giống như mọi lần, vẫn ban ra những lời dạy mà tâm con có thể hiểu và nắm bắt. Nhưng thực sự mục đích ở đây không phải là đưa ra lời dạy mà là giúp con kết nối.

Đó là mục đích các thày. Và thày hy vọng qua những nhận xét mở đầu thày vừa đưa ra, mục đích của con cũng là việc thiết lập sự nối kết, trải nghiệm sự nối kết. Không phải là đẩy nó về phía trước như con lừa đẩy củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi nó.

Với lời này, thày sẽ cùng đọc với con một số câu chú và thày xin con tập trung vào Hiện diện của thày. Bởi vì Hiện diện của thày là cái con có thể nối kết vượt quá ngôn từ, vượt quá lời nói của bài truyền đọc cùng lời nói của câu chú. Nhưng dẫu vậy, lời nói là chén thánh sẽ neo trụ sự Hiện diện, và như vậy lời nói có thể giúp con trải nghiệm Hiện diện nếu con không dính mắc vào lời nói hay ý nghĩa lời nói.

Mặc dù đây là một bài truyền đọc mà bình thường con sẽ giữ im lặng, nhưng thày mời con đọc cùng với thày:

OM (5 lần)
OM Mani Padme Hum (48 lần)
OM Quan Âm OM (14 lần)
OM (13 lần)

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm. Nhưng sinh thể mà thày là có thể nào bị bắt giữ trong một danh xưng? Có thể nào bị bắt giữ trong bất kỳ hình tướng nào? Một lần nữa, đây lại là một mâu thuẫn khó xử trên địa cầu. Qua các thế kỷ và thiên niên kỷ, các thày là chân sư thăng thiên đã mở vòng tay để cố chạm tất cả mọi người khắp nơi trong mọi nền văn hóa. Đâu là giới hạn lớn nhất cho các thày? Đó là sự dính mắc của con người vào hình tướng, sự đồng hóa với hình tướng. Liệu họ sẽ nắm bắt được một thứ gì không có hình tướng? Liệu họ sẽ muốn nối kết với một thứ gì không có hình tướng? Hay là họ sẽ quá tập trung vào những gì các thày có thể làm cho họ trong thế giới hình tướng đến độ họ không thực sự mở tâm ra để nối kết?

1.13. Một thượng đế toại nguyện mọi ước muốn

Con nhìn xem rất nhiều nền văn hóa khắp thế giới đã tạo ra những vị thần cả nam lẫn nữ dưới đủ mọi hình dạng. Và mặc dù các vị này thường rất khác nhau trong mỗi hình dạng cụ thể mà con người đã phóng chiếu lên thần linh, rất nhiều vị được tạo dựng theo cùng một mẫu số chung: một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn của con người. Người ta muốn gì từ thần linh của họ? Họ muốn thần linh làm điều gì đó cho họ ở đây trong thế giới hình tướng. “Có lợi lạc gì cho tôi trong chuyện này? Tôi sẽ được hưởng gì? Tại sao tôi cần thờ phượng thần linh, hy sinh cho thần linh, đọc câu thần chú, nếu tôi không được hưởng lợi gì trong thế giới hình tướng?”

Nhưng chức năng của chân sư thăng thiên là gì? Các thày không ở trong thế giới hình tướng – ít ra là không ở trong thế giới hình tướng chưa thăng thiên mà con đang sinh sống. Các thày không phải là những thượng đế toại nguyện mọi ước muốn. Các thày không ở đây chủ yếu để làm chuyện gì cho con trong hình tướng. Các thày ở đây để chứng tỏ cho con thấy là có gì đó vượt khỏi thế giới hình tướng! – ít nhất cái thế giới hình tướng mà con nhìn thấy qua giác quan vật lý trong bầu cõi chưa thăng thiên này. Các thày ở đây để cho con một khung tham chiếu. Có gì đó nhiều hơn hình tướng. Chính con là nhiều hơn hình tướng!

1.14. Trải nghiệm điều gì đó vượt hình tướng

Đâu là thành quả lớn nhất mà con có thể gặt hái từ đại hội này, từ khóa nhập thất này? Phải chăng là một vật gì trong thế giới hình tướng? Hay là sự kết nối, sự trải nghiệm một điều gì đó vượt hình tướng? Thày vượt khỏi hình tướng. Con thử nghĩ tại sao trong đợt truyền pháp này các thày đã không dùng đến những tấm ảnh hay bức tượng? Đó là vì các thày hy vọng con sẽ có thể nối kết với các thày ngoài hình tướng, cái hình tướng đang bao quanh con và lôi kéo sự chú ý của con tập trung vào hình tướng. Nó quyến rũ con. Như bọn quỷ Mara, nó cám dỗ con đồng hoá với hình tướng. Nhưng các thày ở đây là để giúp con ngừng đồng hóa với hình tướng.

Nhưng để thực hiện điều này, con phải nối kết, phải trải nghiệm những gì vượt khỏi hình tướng mà lại vô cùng thực. Nói cho cùng, chỉ có cái vượt hình tướng mới là thực. Nhưng nếu con cho phép tâm con tập trung vào hình tướng, con sẽ bị cuốn hút vào trò chơi muôn thuở bảo rằng hình tướng này là thực, hình tướng kia không thực. Rằng hình tướng này là chân, hình tướng kia là giả. Hình tướng này là thiện, hình tướng kia là ác. Một lần nữa, con lại kẹt trong nhị nguyên. Các thày hy vọng sẽ kéo con vượt ra khỏi sự đồng hóa với hình tướng.

Thày biết ơn con đã chịu đựng bài giảng chậm chạp này, qua đó thày đã cố làm chậm lại cái tâm quá năng động cứ muốn chuyện gì đó phải xảy ra – không những vậy, phải xảy ra ấn tượng hơn cả trong quá khứ. Nhưng có lẽ điều ấn tượng nhất có thể xảy ra là sự kiện không có gì xảy ra, không có gì có hình tướng xảy ra. Bởi vì nếu không có gì xảy ra thì điều có thể đang xảy ra là con đang chứng nghiệm thực tại vô hình tướng mà TA LÀ.

Quan Âm, TA LÀ. Hơn nữa, TA LÀ. Vượt hình tướng, TA LÀ.

Chính con đây cũng vượt khỏi hình tướng. Nhưng tất nhiên con vẫn ở trong thế giới hình tướng. Cho nên các thày hiểu là các con sẽ khó lòng hơn chấp nhận chính mình vượt khỏi hình tướng. Nhưng dẫu vậy, các thày sẽ tìm cách giúp con trải nghiệm chính mình là một sinh thể vượt hình tướng.

5 | Con có muốn buông bỏ nỗi sợ của con không?

Bài truyền đọc của Đại thiên thần Michael qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Đại thiên thần Michael. Thày vui mừng được hỗ trợ các con cho một khía cạnh có thể ngăn cản các con không chú tâm vào bên trong. Và lẽ đương nhiên đây là tầng kế tiếp của thể vật chất của con, tức là thể tình cảm.

5.1. Nỗi sợ và tính bất định

Cảm xúc cơ bản nào khiến đa số con người không chú tâm được vào nội tâm? Lẽ đương nhiên, đó là sợ hãi. Sợ hãi có thể mang nhiều hình dạng, nhưng nó lúc nào cũng là cảm nhận có chuyện gì có thể xảy ra mà ta không có sự che chở nào, không thể trốn chạy, không thể tự vệ. Đây là một phản ứng rất dễ hiểu, vì con đang ở trong xác thân vật lý và có nhiều chuyện xảy ra mà con không thể kiểm soát. 

Tuy nhiên, con thấy là trong thế gian có nhiều người đã tìm cách đối phó với nỗi sợ bằng cách đi vào tư duy muốn kiểm soát mọi chuyện. Trường hợp cực đoan nhất thể hiện điều này là các sa nhân muốn kiểm soát mọi chuyện và mọi người chung quanh họ vì họ bị nỗi sợ bao trùm họ. Nhưng nhiều người có trạng thái tâm sợ hãi, và nhiều người không có quyền lực và không có khuynh hướng hung hãn đã tìm cách đối phó với nỗi sợ bằng cách gia nhập một tôn giáo cho họ cảm tưởng là có một đấng trên trời sẽ tối hậu che chở họ khỏi mọi điều kiện trên trái đất.

5.2. Tư duy thần thông

Vì vậy suốt dòng lịch sử, nhiều người đã kêu gọi thày hay các chân sư thăng thiên khác tới bảo vệ họ. Lẽ tất nhiên, họ thường khi, thật sự là mỗi khi họ bị nỗi sợ giam hãm, có tư duy thần thông và đây là một điều mà các con, là đệ tử chân sư thăng thiên, cần biết. Tư duy thần thông là niềm tin rằng, tuy mọi chuyện xảy ra theo cách của cõi vật lý, nhưng có một lực thần thánh có khả năng và được phép can thiệp để đình chỉ các định luật mà con gọi là luật thiên nhiên và qua đó giúp con được đặc miễn không bị các định luật này ảnh hưởng như chúng ảnh hưởng tất cả mọi người khác.

Ngay cả ngày nay, nhiều tín đồ Thiên chúa giáo hay tôn giáo khác, tin rằng có một thượng đế hay sinh thể tâm linh nào đó có quyền năng thần thông can thiệp và che chở họ tuy họ thấy rõ ràng các người khác không được che chở. Như thày có nói, họ cho rằng có một quyền lực thần thông có thể đình chỉ các định luật thiên nhiên hay luật nhân quả và che chở họ khỏi một số hậu quả mà họ sợ.

5.3. Sự khuynh loát của sa nhân

Tuy nhiên, như các thày đã giảng nhiều lần trong đợt truyền giáo này, luật tự quyết là luật tuyệt đối trên trái đất. Thày là Đại thiên thần Michael. Thày có tất cả mọi quyền năng trên trái đất. Thày có thể thay đổi bất cứ gì. Thày có thể che chở con người khỏi bất cứ gì, nhưng thày không phải chỉ cần có khả năng mà còn cần có thẩm quyền chiếu theo luật tự quyết. Sự thật phũ phàng trên trái đất là sa nhân đã rất khôn khéo dùng tư duy trọng thần thông để tạo ra một tín ngưỡng, một học thuyết, một nền văn hóa trong các tôn giáo khiến tín đồ tin rằng tai ương không thể xảy ra cho họ vì, do một lý do nào đó, họ thuộc một nhóm người chọn lọc. Sau đó sa nhân dùng các sa nhân đang đầu thai hay những người dễ bị ảnh hưởng tới hành hạ những tín đồ tôn giáo, khiến các tín đồ này thấy là họ không được che chở như họ nghĩ, và sau đó càng đi sâu thêm vào cảm giác sợ hãi hay bị bất công, hay tức giận Thượng đế vì ngài đã không giữ lời hứa.

Đây là một lý do khiến ngày nay nhiều người đã bỏ các tôn giáo truyền thống, thậm chí còn bỏ mọi tôn giáo và trở nên vô thần. Họ đã trải nghiệm là cái họ nghĩ là quyền năng của Thượng đế không thể che chở họ, và họ giận dữ đến độ chối bỏ là Thượng đế có quyền năng. Họ chối bỏ sự hiện hữu của Thượng đế, và qua đó một số cũng chối bỏ luôn là có ma vương đang tìm cách hãm hại họ, tuy ma vương là một quan niệm mà sa nhân đã rất khôn khéo đút vào mọi tôn giáo.

Thật ra thì một số các người đó đã trải nghiệm là họ có thể bị tổn thương, tuy họ chối bỏ cả Thượng đế lẫn ma vương. Nhưng nhiều người sống trong các chế độ dân chủ tân tiến có thể trọn đời sống trong hoàn cảnh tương đối an bình, và do đó họ có thể đi vào tâm thái mà ta có thể gọi là kiêu hãnh tâm linh, trong đó họ cảm thấy là họ hiểu rõ mọi chuyện hơn người bình thường. Họ cảm thấy họ biết là không có Thượng đế và ma vương, và họ đã chưa từng thật sự bị thất vọng vì trong kiếp sống này, không ai và không việc gì đã làm tổn thương họ.

5.4. Thượng đế xa xăm có mặt theo yêu cầu

Thày muốn dẫn con, là đệ tử chân sư thăng thiên, tới nhận biết là con cần buông bỏ tư duy thần thông, vì chính tư duy thần thông đã xua đẩy sự kết nối của con với cái ta cao của con và với các chân sư thăng thiên. Tại sao vậy? Vì đâu là ý niệm đằng sau tư duy thần thông? Con đang sống trên trái đất. Có một sinh thể trên thiên đàng, một sinh thể xa xăm trên thiên đàng bình thường không có mặt, nhưng con tin rằng sẽ can thiệp khi con cần đến. Ta có thể gọi đây là một Thượng đế có mặt theo yêu cầu, theo cách nói tân thời, nhưng cũng có nghĩa đây là một Thượng đế xa xăm có mặt theo yêu cầu, một Thượng đế không có mặt khi không có yêu cầu, có nghĩa là con có thể lẩn trốn vị Thượng đế đó. Và khi con phóng chiếu là có khoảng cách giữa con và thày, thì làm sao con có thể kết nối với thày là một chân sư thăng thiên? Và nếu con không thể kết nối với thày, thì làm sao thày có thể giúp con thăng vượt nỗi sợ đang níu kéo thể cảm xúc của con.

5.5. Nỗi sợ chết

Một lần nữa, như thày Quan Âm và Mẹ Mary đã trình bày, con lúc nào cũng gặp thế có vẻ là khó xử này trên trái đất. Thày vừa nói là luật tự quyết không cho phép thày làm một số chuyện để giúp con. Điều này có nghĩa là con đang hiện thân trong cõi vật lý và có một số chuyện mà con không thể được bảo vệ, tùy theo cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ.

Đồng thời, thày cũng nói chuyện giúp con thăng vượt nỗi sợ. Hai điều này có hợp lý chăng? À, chuyện hợp lý giản dị là con đang hiện thân trong cõi vật lý. Con biết là một ngày kia thân thể của con sẽ chết, nhưng con đã tìm ra một cách để sống với hiểu biết này để vẫn sinh hoạt được trong đời sống. Ngay cả những người không tâm linh hay không theo một tôn giáo nào cũng có thể sống với hiểu biết là một ngày kia thân thể họ sẽ chết. Đa số đẩy ngày đó ra thật xa trong tương lai, trong tương lai bất định, nhưng con cũng biết là cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Nhưng con vẫn tìm ra một cách để sống với nỗi sợ đó.

Điều thày đang muốn chỉ ra là có sự khác biệt giữa điều kiện mà con sợ và chính nỗi sợ. Và đó là lý do vì sao con có thể thăng vượt nỗi sợ. Bởi vì nỗi sợ là một điều kiện trong tâm con. Con có thể nói là có biết bao điều kiện trên trái đất mà con có thể sợ, và quả thật con có thể liệt kê đủ loại điều kiện trên trái đất mà con có thể sợ và con có thể đi vào tâm thái bị tê liệt và không còn sinh hoạt được vì quá sợ.

Tuy nhiên, như thày đã nói nỗi sợ tối hậu trên trái đất là gì? Ta có thể nói đó là nỗi sợ chết. Tuy nhiên có một số người có thể không đồng ý và cho rằng cách mình chết có thể là một nỗi sợ ghê gớm hơn chính cái chết. Nhưng nếu con tìm được cách để sống với nỗi sợ, và nếu con sống trong một hoàn cảnh mà mạng sống của con không bị đe dọa ngay lập tức, thì phải chăng chuyện hợp lý là con cũng có thể đối phó với những nỗi sợ khác.

5.6. Làm cách nào vượt thăng nỗi sợ

Dụng cụ mà thày sẽ cho con là nhận ra một cơ chế tâm lý giản dị. Chắc con cũng biết là khi một con đà điểu gặp nguy cơ bị ăn thịt, thì có khi nó dùng cái cổ dài của nó để vùi đầu vào trong bãi cát thay vì dùng cặp chân dài của nó để chạy. Đây là cơ chế qua đó, khi con bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hay con cảm thấy không có cách chi thoát được điều kiện, thì con chối bỏ hay phớt lờ nỗi sợ. Và quả thực đây là cách nhiều người đã đối phó với nỗi sợ chết, bằng cách vùi đầu vào bãi cát và không để ý tới nó, từ chối không chịu nhìn vào nó. Lẽ tất nhiên, vấn đề với phương pháp này là tuy con có thể phớt lờ nỗi sợ ở mặt nổi nhưng cách này không tiêu trừ nỗi sợ ở thể cảm xúc của con.

Và nếu con có nỗi sợ ở thể cảm xúc, thì nó sẽ buộc con vào thể cảm xúc của hành tinh, của tâm thức tập thể. Bất cứ lúc nào con cũng có thể bị các nỗi sợ tập thể làm choáng ngợp, đặc biệt là khi có chuyện xảy ra trong thế giới khiến con người đi vào trạng thái hốt hoảng. Lẽ tự nhiên, như các thày có giảng, phương pháp xây dựng hơn là đối phó với nỗi sợ. Và chắc chắn là mọi nỗi sợ đều bắt nguồn từ một ngã tách biệt, và do đó phương pháp tối hậu để khắc phục nỗi sợ là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã để con có thể thấy nó. Và dĩ nhiên các thày đã cho các con dụng cụ có giá trị để con lột mặt nạ các ngã và tới chỗ thấy chúng. Nhưng dụng cụ mà thày muốn cho con ở đây có thể nói là giản dị hơn, và nó có mục đích giúp con nhận ra là nỗi sợ có mặt trong tâm con, nhưng thông thường thì điều kiện mà con sợ không có mặt trong tâm con. Điều kiện ở bên ngoài tâm con.

5.7. Nỗi sợ là một lốc xoáy năng lượng cảm xúc

Nỗi sợ ở trong tâm con là gì? Nó không phải là một điều kiện vật lý, ít ra là theo nghĩa thông thường của chữ vật lý. Nó là một điều kiện năng lượng và là một điều kiện trong tâm. Năng lượng là gì? Như các thày đã giảng nhiều lần, một cảm xúc là năng lượng đang vận chuyển, do đó nó là một cái gì rung động và cuộn xoáy và có thể tạo ra một lốc xoáy, một vũng năng lượng cuộn xoáy. Và nỗi sợ trở thành giống như vậy trong thể cảm xúc của con. Nó đi vào, nó bắt đầu cuộn xoáy, nó thu hút thêm năng lượng, nó xoáy nhanh hơn và nhanh hơn nữa cho tới khi nó giống như một cuồng phong.

À, con cũng biết cuồng phong là gì. Nó chỉ là không khí cuộn xoáy ở vận tốc cao, và lốc xoáy cảm xúc cũng vậy. Không có gì trong đó ngoài năng lượng cuộn xoáy. Không có điều kiện nào bên trong năng lượng và đó là lý do vì sao con có thể tới chỗ nhận ra là nỗi sợ giống như một cuồng phong, một lốc xoáy, một vũng xoáy, hay có thể hữu ích hơn nếu ta dùng hình ảnh một bão xoáy, vì con biết là ngay giữa bão xoáy có mắt bão là nơi yên tĩnh. Không khí cuộn xoáy chung quanh mắt bão, nhưng ngay mắt bão thì yên tĩnh, và thể cảm xúc của con cũng vậy khi con sợ hãi.

5.8. Dụng cụ Đại thiên thần Michael cống hiến

Này con, đa số những người không tâm linh sợ không dám nhìn vào nỗi sợ của họ. Đó là điều xảy ra khi con cho phép cơn lốc xoáy, cơn bão xoáy hình thành trong thể cảm xúc của con, Khi con chú ý vào nó và chạm nó, thì gió thổi mạnh và khó chịu đến độ con cảm thấy choáng ngợp khi phải đối phó với nó, và do đó con rút lui và tìm cách lờ đi nỗi sợ.

Nhưng một cách khác là đi thẳng vào nỗi sợ cho tới khi con đi xuyên qua lớp năng lượng đang cuộn xoáy và đi vào nơi yên tĩnh ở chính giữa. Lẽ tất nhiên, điều này tự nó cũng có thể đáng sợ, và đó là lý do thày cống hiến sự trợ giúp của thày. Khi con yêu cầu thày thì thày sẽ đặt Hiện diện của thày lên trên con, và thày được phép làm điều này trong khuôn khổ luật tự quyết nếu con yêu cầu, và lúc đó con sẽ được bao bọc bởi Hiện diện của thày, và con và thày chúng ta cùng nhau đi vào cơn bão xoáy đầy năng lượng sợ hãi đang cuộn xoáy cho tới khi chúng ta tới trung tâm điểm. À, làm sao con có thể ngưng một bão xoáy hay một cuồng phong? Thật ra thì con có thể, nếu con đủ chính xác, thả một trái bom vào giữa cơn bão xoáy, và nếu sức nổ đủ mạnh thì nó có thể dập tắt bão xoáy.

5.9. Nỗi sợ như một cái cớ

À, thày quả thực có đủ uy lực để dập tắt bất cứ bão xoáy năng lượng sợ hãi nào trong thể cảm xúc và thày sẽ làm điều này nếu con cho phép. Nhưng để hoàn thành công việc này, con cần buông bỏ nỗi sợ. Này con, điều này có vẻ dễ làm. Ai lại chẳng muốn loại bỏ nỗi sợ của mình?

Ấy, con sẽ ngạc nhiên khi con thấy là có nhiều người không muốn loại bỏ nỗi sợ của họ. Bởi vì các nỗi sợ đó quy định những điều mà họ không thể và không nên làm, điều mà họ cần né tránh, và một khi họ chấp nhận nỗi sợ đó, thì nỗi sợ cho họ một cái cớ để không làm một số chuyện. Nhiều tín đồ tôn giáo sợ không dám có ý kiến riêng của mình, không dám suy nghĩ ngoài học thuyết và giáo điều của tôn giáo của họ, và họ đã tới chỗ chấp nhận nỗi sợ là một tai họa sẽ xảy ra nếu họ có ý kiến riêng của họ. Họ có thể sẽ phải xuống địa ngục, hay mở cửa tâm để ma vương xông vào, hay mọi nỗi sợ nào khác. Không đâu, vì lúc đó họ sẽ mất đi cái cớ để không suy nghĩ, và khi đó họ sẽ phải bắt đầu suy nghĩ về những điều bất nhất, mâu thuẫn trong tôn giáo của họ, về những câu hỏi họ đặt ra mà tôn giáo của họ không có câu trả lời, và do đó họ thích giữ nỗi sợ hơn.

Do đó, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên cảm thấy khó kết nối với các thày, thì con nên suy ngẫm xem con có nỗi sợ nào trong thể cảm xúc chăng. Con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con kết nối với một chân sư thăng thiên? Con có sẽ phải thay đổi gì chăng trong lối sống, hay trạng thái tâm của mình? Ấy, nếu vậy thì con có thể có một nỗi sợ. Ta hãy giả sử con có một thói quen nào đó mà con biết không có tính chất tâm linh, nhưng con đã xây dựng trong tâm một cái cớ vì sao con có thể tiếp tục có thói quen đó mà vẫn học giáo lý tâm linh. Con có thể sợ là nếu con quả thật kết nối với một chân sư thăng thiên thì con sẽ không thể chối bỏ nhu cầu ngưng thói quen đó. Vậy, con có thật sự muốn loại trừ nỗi sợ hay chăng?

Một lần nữa, như thày Quan Âm đã nói, các thày không muốn bắt lỗi ai. Các thày không tìm cách chỉ trích. Nhưng mục đích của khóa nhập thất này là giúp con nối kết, do đó điều tự nhiên là chúng ta cần xem xét những điều kiện đang ngăn chặn một số các con nối kết. Một điều kiện lớn là nỗi sợ, và thày có thể dễ dàng dập tắt nỗi sợ đó, nhưng con có muốn buông bỏ nó chăng? Con có muốn thấy cái ngã tiềm thức là nơi nỗi sợ tập trung chăng? Con có chịu để cho nó chết đi chăng? Đây là một số điều quan trọng mà con cần suy ngẫm trước khi con yêu cầu thày giúp, vì thày sẽ không xâm phạm quyền tự quyết của con. Có hai hàng trong bài chú của thày như sau:

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ.

Đây là một câu chú giản dị, dễ nhớ, dễ áp dụng khi con gặp một nỗi sợ nào đó. Con không nhất thiết cần đọc câu chú ra lời, và có thể tập trung trong tâm: “Đại thiên thần Michael, thày có mặt, Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ”, và thày sẽ có mặt bên con khi con đọc câu chú. Thày sẽ ở bên con bất kể con đang ở đâu, vì thày cũng vượt quá thời gian và không gian. Con không thể đi đến một nơi mà thày không có mặt.

5.10. Ảo tưởng là con có thể trốn Thượng đế

Con có thể đi vào một nơi trong tâm nơi con không cảm thấy Hiện diện của thày, nhưng Hiện diện của thày vẫn ở đó, cho dù con có cảm thấy nó hay không. Lẽ dĩ nhiên, đây là một điều nữa có thể giới hạn khả năng nối kết của con. Đây là mong muốn không bị Thượng đế trông thấy mà con người đã có từ rất lâu và vẫn còn đang có. Quả thật đúng là, như các thày đã giảng, sa nhân đã tạo ra các tôn giáo nói tới một Thượng đế xa xăm trên trời, nhưng tại sao các tôn giáo này lại thu hút con người? Tại sao các tôn giáo này tiếp tục thu hút con người? 

Đó chính là vì các tôn giáo đó mô tả một khoảng cách giữa con người và Thượng đế. Con ở đây hiện thân trong thân vật lý. Các giác quan vật lý của con không thể thấy cõi tâm linh, do đó con phóng chiếu hình ảnh trong tâm là thiên đàng ở trên kia, xa tít và tách biệt với cõi vật lý một cách căn bản. Do đó con có thể có ảo tưởng là những gì con che giấu người khác cũng khuất mắt Thượng đế, và từ đó lại có thêm ảo tưởng là con có thể làm một số chuyện mà không chịu hậu quả vì Thượng đế không trông thấy.

Đây là một trong những ảo tưởng vĩ đại nhất trên trái đất và nó dựa trên việc con người mất sự nối kết với cái ta cao của họ, vì nếu con có chút nối kết với cái ta cao thì con sẽ biết con là phần nối dài của cái ta cao đó, do đó làm sao con có thể tách biệt khỏi nó được? Cũng giống như ý nghĩ ngọn sóng có thể tách biệt khỏi đại đương. Lẽ dĩ nhiên, điều này không thể xảy ra, vì nếu một vũng nước tách biệt khỏi đại dương thì nó không thể nào có sóng. Chính sự chuyển động của đại dương tạo ra sóng, và nếu một vũng nước tách biệt khỏi đại dương, thì sức mạnh nào tạo ra được ngọn sóng?

Do đó, khi con nhận ra là tâm không thể nào tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ, thì con cũng có thể dễ dàng nhận ra là bát cung vật lý không tách biệt khỏi cõi tâm linh. Lẽ tất nhiên, các độ rung có khác nhau, và các thày đã trao cho các con hiểu biết sâu sắc là có quang phổ rung động vật lý, và ở trên đó có quang phổ cảm xúc, trên đó là quang phổ lý trí, trên đó là quang phổ bản sắc và trên đó là quang phổ tâm linh. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng của các con đã xây dựng hình ảnh là có khoảng cách, có sự khác biệt trong độ rung giữa cõi vật lý và cõi tâm linh.

Nhưng các rung động của cõi vật lý từ đâu nảy sinh? Chúng chỉ là các ngọn sóng trong đại dương, nhưng đại dương là gì? Chính là cõi tâm linh. Nếu cõi vật lý thật sự tách biệt khỏi cõi tâm linh, thì làm sao có thế giới này? Làm sao bất cứ gì có thể thể hiện nếu quả thật có một rào cản giữa cõi vật lý và cõi tâm linh? Nhất định cần một môi giới trong đó các ngọn sóng tạo nên cõi vật lý nảy sinh, nếu không thì không thể có gì thể hiện.

5.11. Một điều kiện vật lý không thể ảnh hưởng cái ta thực của con

Do vậy, khi con chiêm nghiệm các ý tưởng này, thì con có thể chiêm nghiệm xem một điều kiện vật lý có thể thật sự ảnh hưởng con chăng? Lẽ dĩ nhiên, nó có thể ảnh hưởng xác thân vật lý của con, nhưng nó có thể ảnh hưởng con chăng, con người thực của con? Vì khi con là một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên, thì ít nhất con đã bắt đầu nhận ra là con là một sinh thể tâm linh đang ở trong một thân thể vật lý. Con không phải là một sản phẩm của thân thể. Thày biết một tôn giáo lớn của thế gian là khoa học duy vật quả quyết không bằng chứng rằng tâm là sản phẩm của bộ óc vật lý, nhưng chắc hẳn con là người tâm linh thì đã nhìn thấu lời gian dối này.

Câu hỏi thực là: có bất cứ điều gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng được Hiện diện TA LÀ chăng? Và các thày đã nhiều lần nói với các con là không có. Các thày cũng đã giảng là cốt lõi con người con là cái Ta Biết, cũng là nhận biết thuần khiết và do đó không thể bị bất cứ gì trong cõi vật lý ảnh hưởng. Cái Ta Biết có phải sợ bất cứ điều kiện nào trong cõi vật lý chăng? Không đâu, chỉ các ngã tách biệt mới có thể sợ các điều kiện đó, vì chúng không thể trốn chạy các điều kiện đó.

Nhưng cái Ta Biết thì có thể, bằng cách bước ra ngoài ngã tách biệt và để chúng chết đi. Và điều này quả thật khó nắm bắt hơn, nhưng điều quan trọng là con suy ngẫm điều này, vì nhiều người trong các con đã tới giai đoạn trên con đường tăng triển tâm linh khi con vẫn còn một số sợ hãi vi tế, nhưng con có thể khắc phục chúng bằng cách nhìn vào chúng, đi vào chúng với thày và nhìn chúng. Đúng, quả thật con đang hiện thân trong cõi vật lý. Đúng, có những điều kiện vật lý có thể ảnh hưởng con. Đúng, có những điều kiện vật lý ảnh hưởng nhiều người, nhưng không có điều kiện vật lý nào ảnh hưởng tất cả mọi người, ít ra là loại điều kiện mà con sợ.

5.12. Con hãy sẵn lòng nhìn vào các nỗi sợ của mình

Khác biệt ở đâu? Tại sao một số người bị một điều kiện ảnh hưởng, trong khi một số khác thì không bị? Nhiều người nói đó là do nghiệp quả, nhưng nghiệp quả là gì? Nó chính là các ngã tách biệt mà con đã mang theo từ các kiếp trước. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn vào các ngã tách biệt đó và để chúng chết đi? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn vào một ngã tách biệt đang sợ một điều kiện và để cho nó chết đi? Khi đó tại sao con lại phải trải nghiệm điều kiện đó? Trong nhiều trường hợp, con trải nghiệm một điều kiện vì con có một ngã tách biệt trói buộc con vào điều kiện đó, và con cần trải nghiệm điều kiện để nhìn vào ngã tách biệt.

Đây là môi trường sinh hoạt của đa số con người trong thế gian, là Trường đời Cay đắng. Nhưng nếu con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt, thì tại sao con lại cần trải nghiệm điều kiện? Tại sao con cần sợ nó, khi con biết có cách để tránh nó? Nhưng con thấy chăng, chính một ngã tách biệt đang sợ điều kiện, và nếu con là cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn vào ngã tách biệt, thì con không thể để ngã chết đi, và do đó vẫn còn một vũng xoáy đang trì kéo thể cảm xúc của con, có thể nói nó trì kéo toàn thể cõi vật chất và thu hút về con những gì con sợ.

Con nghĩ rằng khi con phớt lờ nỗi sợ thì con xua đẩy điều kiện đi, nhưng sự thực là nỗi sợ của con thu hút điều kiện để rốt cuộc con được giải thoát khỏi nỗi sợ. Với một đệ tử tâm linh thì cách giải quyết là nhìn vào nỗi sợ. Như thày có giảng, ta có thể nói là có hai loại sợ. Có nỗi sợ một hoàn cảnh nào đó trong thế gian, một tai ương có thể gây tổn thương cho con, và có nỗi sợ gặp gỡ các chân sư thăng thiên vì như vậy các ngã tách biệt, tự ngã của con sẽ bị phơi bày và con sẽ phải thay đổi. Thày sẵn lòng giúp con khắc phục cả hai loại sợ, nhưng con cần yêu cầu, và con cần sẵn lòng xem xét cuộc đời của mình sẽ ra sao nếu con không còn nỗi sợ, và quyết định: “Cuộc đời của tôi sẽ khá hơn nếu tôi không còn nỗi sợ. Do đó tôi sẵn lòng yêu cầu Đại thiên thần Michael giúp tôi thấy nó, và yêu cầu Đại thiên thần Michael thực sự tung ra một bom nổ ánh sáng vào vũng xoáy trong thể cảm xúc của tôi để dập tắt nó và không cho nó cuộn xoáy nữa.”

Sau đó, lẽ dĩ nhiên, con cần sẵn lòng làm công việc dọn dẹp, dùng ngọn lửa tím và các bài chú bài thỉnh khác để chuyển hóa năng lượng, vì dập tan cơn bão xoáy không tiêu trừ tất cả năng lượng, nó chỉ ngưng năng lượng cuộn xoáy và do đó con dễ chuyển hóa nó hơn. Nhưng con cần làm công việc dọn dẹp để được giải thoát, nếu không thì một cuồng phong khác có thể sẽ hình thành và rốt cuộc trở thành một bão xoáy. Đây là một công việc khả thi cho tất cả các con.

Một số các con có thể nghĩ: “Tôi đã đi quá giai đoạn này rồi, tôi không cần làm công việc này nữa.” Nhưng nếu con cảm thấy mình không còn sợ gì cả, thì con hẳn không có vấn đề yêu cầu thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì con cần thấy chăng. Con hãy xem xét phản ứng của con khi thày nói như vậy. Con có cảm thấy: “Tôi đã vượt quá điều này rồi; tôi không sợ gì cả.” À, nếu vậy, con sẽ không sợ nhìn. Con sẽ không sợ thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì chăng. Nếu không có gì cả, thì có gì để sợ nhìn đâu? Nếu con cảm thấy có e dè không muốn nhìn, thì chỉ có một lý do là có điều gì mà con chưa thấy một cách ý thức, vì nếu không tại sao lại có sự đề kháng?

Con có thể xem xét chính mình và thấy có điều gì trong thể cảm xúc mà con e ngại không muốn thấy. Một lần nữa, thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày không muốn ép buộc con bằng bất cứ cách nào. Thày chỉ giản dị chỉ cho con thấy là nếu mục đích của con là thiết lập một nối kết mạnh hơn với các chân sư thăng thiên, thì sợ hãi là một chướng ngại mà con giản dị phải khắc phục, và đây là một việc mà con có thể làm được với sự giúp đỡ mà thày cống hiến.

5.13. Quyết định buông bỏ nỗi sợ

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì mà thày muốn trao truyền, trừ một điều. Sợ hãi là một cảm xúc. Tối hậu, cái gì khởi sự lốc xoáy sợ hãi là một quyết định, một ý muốn. Khi đã xem xét kỹ thì cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là lấy một quyết định khác, quyết định buông bỏ nó. Buông bỏ nỗi sợ bất kể điều kiện mà con sợ có còn đó hay không. Đây là một hành động của ý chí. “Tôi muốn được giải thoát khỏi sợ hãi.” Và điều này thày không thể làm thay con, bởi vì luật tự quyết đòi hỏi là con cung cấp ý chí, và thày có thể cung cấp uy lực. Nhưng nếu không có ý chí, thì uy lực không thể được phát ra.

Tới đây thì thày cảm ơn các con đã chú tâm, đã hiện diện rất đông đảo, cùng tới đây tập trung ý chí muốn có mặt, ý chí muốn hơn nữa. Chắc chắn là các con đã bắt đầu tạo ra một vòng xoáy năng lượng hướng thượng, xây dựng một động lượng sẽ tiếp tục được bồi đắp trong những ngày các con ở đây. Các thày khen ngợi các con đã làm như vậy và các thày hy vọng là các con đều cảm thấy là nỗ lực tới đây, nỗ lực xây dựng vòng xoáy hướng thượng, sẽ tự nó là phần thưởng. Do vậy, các con hãy được niêm trong Ý chí và Uy lực của thày.

35 | Không ngã nào có thể dẫn con đến giác ngộ

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/4/2023, nhân Webinar Phuc sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc và chính con xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật có liên quan gì đến thập tự giá và việc đem một ai đó xuống khỏi thập tự giá? À, con không thật tin rằng trước khi Giê-su xuất hiện trên trái đất thì con người chưa bị đóng đinh trong tâm họ hay sao? Các biểu tượng mà các thày đã giải thích trong hội nghị này về ý nghĩa sâu xa hơn của thập tự giá tất nhiên cũng áp dụng cho trước thời Giê-su. Các biểu tượng này đã áp dụng kể từ khi con người trên địa cầu bước vào nhị nguyên.

35.1. Gautama bước xuống từ thập tự giá

Khi thuở đó thày chuẩn bị sứ vụ của thày trong tư cách là Phật, sứ vụ giáo huấn của thày, nhiều lần thày đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá. Thày đã lớn lên trong một môi trường vô cùng bảo bọc nơi cung điện. Thày đã sống trong một số điều kiện vỏ ngoài thật đặc thù, không bao giờ gặp người bệnh tật, và thày được hưởng mọi giàu sang cùng thú vui vật chất mà thày có thể mong muốn. Thày đã bị đóng đinh bởi lối sống rất trần tục, thoải mái, sung sướng đó. Thày đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá mấy lần trước khi thày thực sự sẵn sàng rời bỏ cung điện, đi vào rừng để sống như một người khổ hạnh, thiền định, nhịn đói cho đến gần chết. Và khi thày ngồi đó thiền định, tất nhiên là thày xem xét tâm mình và khắc phục được một số ảo tưởng, có nghĩa là một lần nữa thày lại đem mình xuống khỏi một thập tự giá khác, vì như thày đã giải thích, con có thể nói là với mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng, có một ảo tưởng khiến con bị trói chặt vào thập tự giá.

Thày đã đạt tới mức có thể gỡ mình xuống khỏi một thập tự giá vĩ đại, một ảo tưởng vĩ đại, khi thày ngộ ra là lối sống khổ hạnh thật quá cực đoan và vì thế không phải là con đường tối thượng. Đó là khi thày chứng được Trung đạo, nhưng ngay cả khi đó, thày vẫn phải kinh qua một quá trình đã không được thực sự ghi lại trong kinh sách Phật giáo là thày phải hội đủ tư cách để có thể bắt đầu sứ vụ hoằng pháp, và một lần nữa thày lại gỡ mình xuống khỏi một loạt thập tự giá nữa. Nhưng rồi khi thày bắt đầu sứ vụ giảng dạy thì các Phật tử, đại đa số Phật tử, cứ muốn nghĩ là khi đó chắc chắn thày đã là một sinh thể toàn hảo. Nhiều Phật tử muốn nghĩ rằng thày còn toàn hảo ngay từ đầu cơ, nghĩa là thày đã không phải đi qua nguyên một quá trình. Nhưng điều họ nghĩ thật không có căn cứ nếu họ nhìn kỹ câu chuyện cuộc đời của thày.

Ngay cả sau khi khởi sự giảng dạy, thày vẫn còn những ảo tưởng phải khắc phục, vì lý do giản dị là nếu thày đã vượt qua mọi ảo tưởng thì thày đã không thể cầm giữ một thân thể vật lý. Thày vẫn phải nhìn ra nhiều điều trong bản thân mình, vẫn phải khắc phục những cái ngã tách biệt, vẫn phải gỡ mình xuống khỏi những thập tự giá đó. Điều thày muốn nói giản dị ở đây là thày đã đi qua quá trình bước khỏi thập tự giá, và vì thế thày đủ tư cách để nói chuyện về chủ đề này.

35.2. Đồng sáng tạo trong một trạng thái hợp nhất

Các thày có thể trình bày một cách nhìn nào khác về thập tự giá hay không? À như các chân sư khác có nói, có bốn tầng vật chất, bốn cánh hay bốn đầu trên thập tự giá, bốn điểm của thập tự giá, và vì vậy con bị đóng đinh trong vật chất. Nhưng vật chất là gì? Có thể nói vật chất là hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng không do cá nhân con tạo ra.

Các thày đã giải thích là khi con đi xuống hiện thân lần đầu tiên ở một cõi chưa thăng thiên, con là một người đồng-sáng tạo. Con tự xem mình là một sinh thể nối kết, và con thấy mình đang ở trong một môi trường đã được tạo dựng bởi những sinh thể ở một tầng tâm thức cao hơn con. Con đang sử dụng sự nối kết của con để đồng-sáng tạo và con cũng biết là con không đang sáng tạo qua uy lực của riêng minh. Cho nên trong hoàn cảnh này khi con chưa bước vào nhị nguyên, con không bị đóng đinh vào vật chất vì con biết con là nhiều hơn hình tướng. Thậm chí con là nhiều hơn cái ngã mà con đã khoác vào trong bầu cõi chưa thăng thiên này.

Ngay khi con đầu thai lần đầu, con đã có bốn thể phàm. Con có một bản sắc thể, một trí thể, một cảm thể và một cơ thể vật lý, và để bắt đầu đồng sáng tạo, con tạo ra một số cấu trúc trong những thể cảm xúc, lý trí và bản sắc đó. Điều này xảy ra khi từ mức Hiện diện TA LÀ của con, con bước xuống qua tầng 144, tầng 143, rồi xuống mãi đến tầng 48 trong bầu cõi của con. Theo một cách nào đó, con khoác vào tất cả những ảo tưởng này, nhưng vì con vẫn xem mình là một sinh thể nối kết cho nên con không bị đóng đinh trong tâm con, và nhờ thế khi con tạo ra một tình huống vật lý nào đó, con không đồng hóa với tạo vật của mình. Cho nên con không bị đồng hóa với tạo vật vật chất mà con đã tạo dựng và con không xem mình đồng hóa với xác thân của mình.

35.3. Ảo tưởng rằng vật chất quan trọng

Chỉ khi con xuống dưới tầng 48 đó và bước vào cõi tách biệt thì con mới bị đóng đinh. Nhưng thày chẳng vừa nói là với mỗi tầng tâm thức, kể cả ở trên tầng 48, đều có một ảo tưởng mà con phải khắc phục và do đó, theo một nghĩa nào đó, con bị đóng đinh vào ảo tưởng này hay sao? Bây giờ có phải thày đang nói ngược lại? Không, vì thày không nói về cùng một hoàn cảnh. Khi con giáng thế lần đầu, con không đi xuống một hành tinh có nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng đã đầu thai lần đầu khi chưa một ai trên trái đất đã bước vào nhị nguyên. Nhưng khi con đầu thai trên một hành tinh như trái đất nơi tâm thức bị thấm đẫm nhị nguyên, thì con mới có thể nói là con bị đóng đinh vào từng ảo tưởng, và chỉ khi nào con lên đến tầng 144 thì thực sự mới nói được là con đã khắc phục trọn vẹn cảm nhận rằng vật chất là quan trọng.

Con không chỉ bị vướng kẹt, hay bị đóng đinh, hay bị ám ảnh về mặt thể xác, cảm xúc hay lý trí, mà con vẫn mang cảm nhận rằng các điều kiện vật chất là quan trọng. Không nhất thiết là con đồng hóa với chúng, vì khi con bắt đầu lên cao hơn tầng 96 thì con ngừng không đồng hóa với vật chất nữa, nhưng con vẫn nghĩ là trên địa cầu có gì đó quan trọng, có gì đó mà con muốn thấy thay đổi, và trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì con duy trì cảm nhận này cho tới chót. Như con thấy thày Giê-su treo thân trên cây thập tự mà vẫn còn chút mong muốn làm gì đó trên trái đất, mong muốn tiếp tục sứ vụ của mình, cho nên thày mới muốn Thượng đế đến cứu thày khỏi thập tự giá để thày có thể tiếp tục sứ vụ của mình. Thày vẫn còn cái cảm nhận là vật chất quan trọng, có gì đó quan trọng trong vật chất.

Mặc dù điều này không được ghi lại trong kinh sách, con cũng có thể nhìn vào sứ vụ giáo huấn của thày. Thày không còn đồng hóa với cơ thể, không còn đồng hóa với vật chất, nhưng thày vẫn còn cảm nhận là trong vật chất có điều gì quan trọng, và đó chính là tại sao thày đã ở lại địa cầu và đã giảng dạy. Thày cảm thấy thày có thể đem lại một cái gì khác biệt. Thày không bảo chuyện này là sai, mà thày chỉ muốn giải thích cho con hiểu là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, chỉ khi nào con thăng thiên thì con mới thật sự khắc phục ảo tưởng cuối cùng khiến các điều kiện của thế giới vật chất có vẻ quan trọng.

35.4. Sự (không) sẵn lòng buông bỏ hình tướng con đã tạo dựng

Này con, khi con nhìn bức tranh tổng thể và nhìn xa hơn trái đất, con có thể nói là Đấng Sáng tạo thế giới hình tướng của con đã tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính bản thể ngài, tạo ra các sinh thể tự nhận biết từ chính bản thể ngài, rồi gửi họ vào bầu cõi để hoạt động trong tư cách đồng-sáng tạo với mục đích họ sẽ dần dần tăng triển tâm thức. Bầu cõi thứ nhất thăng thiên, bầu cõi thứ nhì được tạo dựng, nó cũng thăng thiên. Rồi bầu cõi thứ ba, rồi thứ tư, và mỗi bầu cõi sau dày đặc hơn bầu cõi trước một chút, cho tới một điểm ở bầu cõi thứ tư khi một số sinh thể từ chối không thăng thiên với bầu cõi của họ, cho nên họ bị rơi xuống, họ sa xuống bầu cõi thứ năm, vân vân. Điều có thể nói về ba bầu cõi đầu là những người đồng sáng tạo nâng bầu cõi họ thăng thiên đã không bao giờ trở nên đồng hóa với hình tướng. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là, chẳng hạn, cho dù nền văn minh mà họ tạo dựng trên một hành tinh có tinh xảo tuyệt diệu đến chừng nào thì họ vẫn không bao giờ đồng hóa với hình tướng họ đã tạo dựng.

Chúng ta không chỉ đang nói tới chuyện đồng hóa với thân xác vật lý mà thôi, chúng ta nói đến những sinh thể đã sống trong bầu cõi này suốt một thời gian dài đằng đẵng, đã làm người đồng-sáng tạo từ thuở họ mới khởi lên một ý niệm cái ta vô cùng giới hạn và một khả năng đồng-sáng tạo cũng vô cùng giới hạn, nhưng lần hồi sau một thời gian rất dài họ đã khuếch trương khả năng đồng-sáng tạo này đến mức họ có thể tạo dựng những hình tướng, những hành tinh, những nền văn minh trên hành tinh vô cùng tinh xảo. Nhưng mặc dù các hình tướng này cực kỳ tinh xảo công phu, họ đã không bao giờ đồng hoá với chúng. Không bao giờ họ bị lạc lối trong hình tướng mà họ tạo ra.

Nhưng bây giờ đến bầu cõi thứ tư, cũng có một số sinh thể đã bỏ ra một thời gian rất dài để khuếch trương khả năng đồng-sáng tạo của mình, nhưng khi đến lúc bầu cõi thăng thiên thì họ không sẵn lòng bỏ lại tạo vật của họ. Trong khi các sinh thể từng thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tới điểm sẵn lòng buông bỏ những hình tướng tinh xảo mà họ đã tạo ra, thì các sinh thể này ở bầu cõi thứ tư không sẵn sàng bỏ lại. Họ chiêm ngưỡng tạo vật của họ, họ mê say tạo vật của họ, và trong cái tâm đã tạo nên tất cả tạo vật tinh xảo đó, họ không sẵn lòng bỏ nó lại. Nói cách khác, họ đã trở nên đồng hóa với hình tướng họ tạo dựng.

Tất nhiên giáo lý mà các thày đã trao cho con về cái Ta Biết nói rằng cái Ta Biết không bao giờ có thể trở thành hình tướng do nó tạo ra. Nó có thể sáng tạo những hình tướng rất công phu khi nó khuếch trương khả năng đồng-sáng tạo, nhưng nó không thể trở thành hình tướng. Tại sao vậy? Con đồng-sáng tạo như thế nào chứ? Con đồng-sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong cõi bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý, và con đồng-sáng tạo xuyên qua ngã này. Ở đây chúng ta không nói về một cái ngã tách biệt. Tuy con tự xem mình là một sinh thể kết nối nhưng con vẫn tạo ra một cái ngã, và điều tài tình ở đây là cái Ta Biết không thay đổi trong nguyên tiến trình nó đi qua. Nó không thay đổi! Chỉ có ngã là ngày càng trở nên tinh xảo hơn thôi.

Khi bầu cõi của con sẵn sàng thăng thiên, con phải buông bỏ ngã này. Con phải buông bỏ hồn ma. Và đây chính là điều các sinh thể sa ngã không muốn làm vì họ quá mê say với nó, họ quá đồng hóa với ngã do họ tạo ra, họ quá đồng hóa với hình tướng đến nỗi – theo cách diễn tả của Ki-tô hoàn vũ – họ “không chịu để mất đời sống của họ vì ta”. Họ không chịu đánh mất đời sống của họ để đi theo Ki-tô và bước vào một trạng thái cao hơn của sự sống là sự sống vĩnh hằng. Họ đã được phép kinh qua trải nghiệm mà họ muốn, nhưng hiển nhiên, họ không thể duy trì tạo vật của họ ở bầu cõi thứ tư, cho nên họ đã – cùng với ngã tách biệt mà họ đã tạo dựng – rơi xuống bầu cõi thứ năm. Và ở đây, họ đã có thể sử dụng cái ngã tinh xảo này để khởi sự tạo ra gì đó trong bầu cõi thứ năm, và tất nhiên tạo vật này tiến bộ hơn tất cả mọi thứ mà các dân cư mới trong bầu cõi này có thể đồng-sáng tạo.

35.5. Tâm thức sa ngã ảnh hưởng giáo lý tâm linh như thế nào

Những điều trên liên quan thế nào với con là người đang hiện thân trong bầu cõi thứ bảy trên một hành tinh dày đặc chưa thăng thiên có tên là trái đất? À, đó là thế này: toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng chỉ đơn giản là cung cấp một môi trường cho các sinh thể tự nhận biết đồng-sáng tạo để họ có thể mở rộng khả năng đồng-sáng tạo, mở rộng tâm thức của họ. Nhưng trong một bầu cõi chưa thăng thiên, sự mở rộng tâm thức này không xảy ra trong bốn thể phàm, nó cũng không xảy ra ở mức cái Ta Biết, mà nó xảy ra ở mức Hiện diện TA LÀ và căn thể. Và điều này nhằm mục đích là ngay cả nếu con chọn sa ngã, nếu con chọn bị lạc lối trong tạo vật của con, thì Hiện diện TA LÀ vẫn không thể bị mất, và do đó các trải nghiệm của con như một người đồng-sáng tạo không bao giờ bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là như một đệ tử bước chân trên con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, con đường dẫn đến thăng thiên, con cần nhận ra là mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu đã bị tâm thức sa ngã chi phối, kể cả mọi khía cạnh của tôn giáo lẫn tâm linh. Bất kể lời cả quyết của bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ triết lý tâm linh hay tổ chức tâm linh nào, thì mọi giáo lý tâm linh đều đã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, theo nghĩa là nếu giáo lý không thích nghi với tâm thức sa ngã một cách nào đó, thì quần chúng sẽ không thể nắm bắt được giáo lý, bởi vì tâm thức sa ngã đã tràn lan quá đỗi, đã trở nên quá thuyết phục khắp địa cầu.

Ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên cũng phải thích nghi với tâm thức sa ngã, vì nếu không, không ai sẽ có thể nắm bắt được. Đấy là vì sao các thày mới nói đến phương pháp bán hàng của các nhân viên bán xe cũ gọi là “nhử hàng thấp, mời hàng cao”, và con cần dùng giáo lý này để bước lên một tầng cao hơn nơi con có thể nhận được những giáo lý không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một cách mà các tôn giáo, chẳng hạn, bị tâm thức sa ngã chi phối là quan niệm cho rằng con có một linh hồn do Thượng đế tạo ra có khả năng bước vào vương quốc thiên đàng. Nhưng như các thày đã giải thích, hồn chỉ vỏn vẹn là những cái ngã hay ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con – và nói cho cùng cũng gồm cả tự ngã – và tất cả những thứ này sẽ không bao giờ vào được thiên đàng. Hồn không thể hội đủ tư cách để thăng thiên. Chỉ có “người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể lên trở lại thiên đàng” – tức là cái Ta Biết. Đây là một lời dạy có thể làm xốn xang tuyệt đại đa số mọi người trên địa cầu nếu họ có thể thực sự nắm bắt được. Đây là một lời dạy gây xáo trộn và nó đã bị một số đệ tử của các đợt truyền pháp trước bác bỏ. Nhưng lời dạy kia, ý tưởng kia, đến từ đâu? Đâu là gốc gác của ý tưởng cho rằng có một cái gì rõ ràng nằm trong cõi này, nằm trong một cơ thể vật lý nhưng là nhiều hơn một cơ thể vật lý, và cái đó có thể được hoàn thiện một cách nào đó, hay trở nên tinh xảo đến độ nó có thể đi lên thiên đàng hay bước vào cõi tâm linh? Ý tưởng đó đến từ đâu?

35.6. Hoàn thiện ngã hay buông bỏ ngã

À, nó đến từ sa nhân bởi vì giấc mơ của sa nhân, ít ra của một số sa nhân từ khi họ sa ngã, là họ có thể cứ tiếp tục xây đắp cái ngã mà họ đã tạo ra nơi bầu cõi khi họ sa ngã, và họ có thể cứ tiếp tục tô điểm cho nó ngày càng tinh xảo cho đến một ngày kia Thượng đế sẽ phải cho nó vào thiên đàng – hay đúng hơn, các chân sư thăng thiên sẽ phải cho nó vào thiên đàng. Đây là giấc mơ cơ bản của ít nhất một số sinh thể sa ngã.

Một số sa nhân khác bị mắc kẹt trong giấc mơ muốn chứng minh là Thượng đế sai lầm, và một trong những cách này là chứng mình Thượng đế đã sai lầm khi ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng nhiều sa nhân bị kẹt trong giấc mơ là họ có thể tạo ra một cái ngã tinh xảo đến mức nó sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng. Nói cách khác, sa nhân sẽ có thể duy trì ngã đó thay vì bị rơi xuống các bầu cõi dày đặc hơn để cuối cùng phải đối mặt với cái chết thứ nhì, nghĩa là họ có thể tránh cái chết thứ nhì bằng cách trở nên tinh xảo đến độ ngã cũng hội đủ điều kiện thăng thiên. Và đây chính là điểm ẩn núp đằng sau tuyệt đại đa số các giáo lý tôn giáo lẫn tâm linh trên hành tinh, và cũng là một điểm rất khó giải thích cho mọi người khi chúng ta còn trong Thời đại Song ngư.

Đối với các đợt truyền pháp của chân sư thăng thiên khởi sự trong Thời đại Song ngư, thật khó giải thích điều đó cho mọi người. Đã có những sự gợi ý nhưng có rất ít người nắm được. Một số ít đã nắm được, và một số sẽ hiểu được. Nhưng trong Thời đại Bảo bình, có khả năng là nhiều người hơn sẽ tới mức nhận ra. Những người này sẽ tới mức nhận ra là để thăng thiên, con cần phải để cho hồn ma cuối cùng chết đi. Con cần từ bỏ hồn ma cuối, cái yếu tố chót cùng này của ngã tách biệt vì nó sẽ không bao giờ hội đủ tư cách. Nó sẽ không bao giở đủ tư cách để được cứu rỗi, để bước vào thiên đàng, hay niết bàn hay thăng thiên. Cho dù con có gọi cái vượt khỏi bốn tầng vật chất đó là gì, thì cái ngã được tạo ra trong thế giới hình tướng không thể đủ tư cách. Nó không thể bước vào. Đây là chứng ngộ cơ yếu trước khi con hội đủ tư cách thăng thiên.

Điều này không có nghĩa là trước thời hiện đại chưa từng có ai thăng thiên. Tất nhiên là đã có Giê-su, có chính thày, có Mẹ Mary và nhiều người khác nữa. Họ đến từ nhiều truyền thống tôn giáo hay tâm linh, nhiều truyền thống thần bí khác nhau, và họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng tất cả đều đã làm được vậy bằng cách đạt đến nhận thức rằng đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã của mình, mà là buông nó ra, thăng vượt nó, để cho nó chết, cho dù cách nhìn hay cách diễn tả của họ là gì. Tất cả đều đã đạt đến chứng ngộ này và điều này cũng đã được truyền dạy qua những lời dạy tôn giáo và tâm linh khác nhau. Con có thể tìm thấy một số dấu vết còn sót lại của lời dạy này. Ngay cả trong tôn giáo hay giáo lý đạo Phật, con cũng có thể tìm thấy nếu con cố tìm. Con có thể tìm thấy một số lời dạy về Biển Luân hồi là cùng một thứ với Niết bàn, và con tới mức ngộ ra là cả hai không có gì khác biệt. Có những lời dạy khác nữa mà rất it người đã nắm bắt được nhưng một số thì đã hiểu.

Việc các thày đang làm hiện nay trong đợt truyền pháp này là giải thích rõ ràng hơn trước kia, để giúp mọi người dễ dàng nắm bắt hơn rồi khởi sự áp dụng. Hiển nhiên có thể nói đây là sự thách đố cùng cực đối với sa nhân, cơn ác mộng tột độ đối với sa nhân, vì nó thách đố trực tiếp giấc mơ của họ về sự bất tử của ngã tách biệt, sự thường hằng của hình tướng, giấc mơ cho rằng một cái gì được tạo ra trong thế giới hình tướng có khả năng đạt đến thường hằng mà không đi qua tiến trình thăng thiên.

35.7. Mục đích của bầu cõi chưa thăng thiên

Và con cũng có thể hỏi giống như một số người đã tự hỏi suốt các thời đại: Tại sao mọi chuyện lại như vậy? Chúng ta có bầu cõi chưa thăng thiên để làm gì? Có hàng tỷ và hàng tỳ và hàng tỷ sinh thể đồng-sáng tạo, tất cả đều đang sáng tạo – hoặc một mình, hoặc cùng nhau khi họ nâng cao tâm thức – họ tạo ra những nền văn mình công phu tinh xảo đó trên những hành tinh tuyệt đẹp đó. Rồi sau biết bao thời gian dài đằng đẵng, tất cả những thứ đó họ sẽ phải buông bỏ, họ sẽ phải bỏ lại để chính họ có thể thăng thiên và toàn bầu cõi của họ cũng thăng thiên. Và trong tiến trình thăng thiên này, tất cả những thứ mà họ đã tạo ra sẽ tiêu tan, sẽ bị cuốn mất, sẽ bị xóa bỏ dù con có muốn mô tả thế nào. Đây là một tiến trình tịch diệt.

Tại sao lại như vậy? Tại sao không có chuyện trên một số hành tinh, họ có thể tạo ra một cái gì tinh xảo đến độ nó có thể thăng thiên khi bầu cõi thăng thiên? À, các thày đã cho con lời giải thích rồi đó: Quyền tự quyết là cách mọi người tăng triển, mọi sinh thể tăng triển, và quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, cho nên luôn luôn có khả năng là có người sẽ từ chối thăng vượt một điều gì đó, muốn bám giữ cái đó, và để tránh cho cái đó trở thành thường hằng thì bầu cõi phải thăng thiên. Nhưng con vẫn có thể nói: “Vâng, chúng con hiểu được là có những hành tinh có người không chịu buông bỏ và vì vậy sẽ sa ngã, thì các hành tinh này có thể bị phân hủy. Nhưng tại sao mọi hành tinh phải bị phân hủy?”

À, bởi vì để thực sự thăng thiên, con phải chứng tỏ sự không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào cái ngã mà xuyên qua đó con đã tạo ra hình tướng. Và con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ nó và tin tưởng rằng những trải nghiệm được thu hoạch trong nguyên hành trình của con qua bầu cõi chưa thăng thiên được bảo tồn trong Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và như vậy chúng không bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là sau khi một bầu cõi thăng thiên, tất cả mọi trải nghiệm được thu thập trong căn thể của tất cả mọi sinh thể thăng thiên vẫn còn đó. Và sau khi bầu cõi thăng thiên, năng lượng được thanh lọc, có nghĩa là nó không còn dày đặc như ở bầu cõi chưa thăng thiên, và giờ đây việc sáng tạo trong bầu cõi thăng thiên sẽ dễ dàng hơn hẳn. Điều này có nghĩa là tất cả các Hiện diện TA Là đã trở thành chân sư thăng thiên giờ đây có sự chọn lựa. Họ sẽ sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Họ sẽ đồng-sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Giờ đây họ hoàn toàn tự do quyết định những gì họ sẽ sáng tạo và như thế nào.

Nhưng con thấy không, trước điểm thăng thiên thì con mang cái ngã mà xuyên qua đó con đã sáng tạo một vật gì và nghĩ nó tốt đẹp, tinh xảo. Nhưng con vẫn mang ngã đó. Có nghĩa gì? Có nghĩa là mặc dù con đang khiến cho tạo vật ngày càng tinh xảo hơn, con vẫn làm vậy xuyên qua ngã, qua các thông số của ngã đó. Tạo vật do con đang đồng-sáng tạo tùy thuộc và được quy định bởi tạo vật con đã đồng-sáng tạo trước đó. Nhưng giờ đây khi con đã thăng thiên và bỏ lại ngã đó, con hoàn toàn tự do đồng-sáng tạo bất cứ gì trong bầu cõi thăng thiên. Con có thể rất nhanh chóng tạo lại một cái gì tương tự như cái con đã tạo ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nếu đây là điều con quyết định làm. Nhưng trên thực tế, tuyệt đại đa số các sinh thể thăng thiên sẽ muốn sáng tạo một cái gì khác hơn vì giờ đây họ có viễn quan rộng lớn hơn trước rất nhiều.

35.8. Tiến trình mở rộng ý niệm cái ta

Con thấy đó, tất cả đều là một phần của nguyên tiến trình mở rộng ý niệm cái ta khi một người đồng-sáng tạo bắt đầu với một ý niệm cái ta vô cùng giới hạn rồi lần hồi khuếch trương cho đến khi cuối cùng y đạt được mức tâm thức trọn vẹn của Đấng Sáng tạo. Nhưng làm thế nào con khuếch trương ý niệm cái ta? À, qua một tiến trình lần hồi mở rộng ngã, xong con trải qua một số xoay chuyển cách mạng trong ý niệm cái ta – và một xoay chuyển cách mạng như vậy là khi bầu cõi nơi con đã khởi sự đồng-sáng tạo thăng thiên.

Con cũng có những xoay chuyển khác. Lấy ví dụ con thăng thiên trong bầu cõi hiện thời. Trước tiên, con có thể mở rộng ý niệm cái ta của con trong bầu cõi thứ bảy cho dù bầu cõi này chưa thăng thiên. Nhưng một khi con đã làm vậy – con đã mở rộng đến mức tối đa của con – thì con có thể thăng thiên lên bầu cõi thứ sáu. Rồi ở đó con lại mở rộng thêm nữa và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con đạt đến tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mỗi bước thăng thiên lên bầu cõi kế tiếp như vậy là một cuộc xoay chuyển cách mạng, và cho dù con đã bước vào các bầu cõi thăng thiên, con vẫn phải từ bỏ ý niệm cái ta mà con đã mang trong bầu cõi trước.

35.9. Đạo Phật là một triết lý thực tiễn

Như con thấy, đây là một tiến trình rất phức tạp. Và tại sao nó lại phức tạp đến vậy? Bởi vì tâm thức của Đấng Sáng tạo vượt khỏi một cách gần như vô hạn những gì con có thể nắm bắt trên địa cầu. Vậy tại sao thày lại đề cập đến chuyện này làm gì? À, con sẽ thấy là 2500 năm trước đây, thày đã có một cách tiếp cận khác hẳn cách tiếp cận mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang có ngày nay. Vào thời đó hiển nhiên có nhiều tôn giáo, kể cả đạo Ấn, nói về thế giới thượng thiên cùng các cõi thánh thần và điều này điều nọ. Các giáo lý này đi ngược trở về kinh cổ Veda được ban truyền 10 ngàn năm về trước vào thời tâm thức loài người thấp hơn bây giờ – mặc dù ngày nay vẫn còn những người theo đạo Ấn nghĩ đó là giáo lý cao nhất có thể được ban ra trên địa cầu.

Vậy tình thế như thế nào vào thời thày hiện thân là Phật? Con có những người Bà-la-môn của Ấn giáo, họ hoàn toàn giống như lời mô tả mà Giê-su vừa đưa ra hồi nãy về các thày thông giáo và người Pha-ri-si của Do Thái giáo. Họ đã lấy những lời mà họ xem là chuẩn mực chân chính của kinh Veda, rồi họ đã diễn giải một cách trí thức và càng ngày càng xây dựng những cách diễn giải, những hình tư tưởng tinh xảo hơn mà họ nghĩ là chân lý tuyệt đối.

Và những ai tin họ – các tín đồ Ấn giáo vào thời đó, những người dân bình thường, tuyệt đại đa số dân chúng – không thể thoát khỏi vòng ảnh hưởng của những người Bà-la-môn này. Họ không thể nhìn xuyên thấu để nhận ra đó chỉ là hình tư tưởng, chỉ là ảo tưởng. Họ không có sự nhận biết, khả năng tri thức hay kiến thức về thế giới để nhìn xuyên thấu. Và đó là vì sao thày đã có một cách tiếp cận thật thực tiễn và nói: “Đạo Phật không phải là một tôn giáo như đạo Ấn. Đạo Phật không là một tôn giáo nhằm cung cấp kiến thức về các vị thần và cõi thần linh, vì hầu hết mọi người không thể nắm bắt cõi thần linh là gì, cho nên họ sẽ bị vướng kẹt trong các học thuyết và diễn giải vỏ ngoài. Thay vào đó, chúng ta hãy thiết lập một triết lý thực dụng nhằm đưa con người từ nơi họ đang đứng, nâng cao tâm thức của họ, ít nhất giúp họ khắc phục một số ảo tưởng của Maya. Rồi một khi họ đã nâng cao tâm thức thì họ sẽ có khả năng nắm bắt nhiều hơn. Họ sẽ phát triển khả năng trực giác và có thể biết được từ bên trong cái gì là thực, cái gì không thực.”    

Nói cách khác, điều thày đã tránh không làm trong kiếp đầu thai làm Phật là tạo ra một tôn giáo khác nữa tự xưng là cao trội hơn tôn giáo của người Bà-la-môn, vì điều này sẽ khóa chặt thày vào một cuộc chiến với người Bà-la-môn và họ sẽ tấn công thày và hành xử với thày y như họ đã cố hành xử với Giê-su. Đây là một lượng định dựa theo các chân sư thăng thiên đang hướng dẫn địa cầu vào thời đó, nhận định rằng đây là điều con người sẵn sàng làm được, ít ra ở vùng này của thế giới.

35.10. Thêm tiết lộ tuần tự

Điều xảy ra trong vòng 500 năm giữa thời của Phật và thời của Giê-su là tâm thức tập thể đã có tiến bộ. Và sự tiến bộ này phần lớn là do nhiều người đã đón nhận đạo Phật, đã chân thành nỗ lực cải hóa tâm thái của mình, nỗ lực khắc phục các ảo tưởng của Maya bằng cách bước chân trên Bát chánh đạo, là con đường thày vừa giải thích trong một bài trước nhằm giúp đỡ con người vượt qua các ảo tưởng. Đến thời của Giê-su, các chân sư thăng thiên đã xác định là các thày có thể dùng một cách tiếp cận khác xuyên qua Giê-su. Giê-su sẽ giảng dạy về Thượng đế, về cõi tâm linh và tiến trình thăng thiên, vì giờ đây đã có nhiều người hơn sẵn sàng chấp nhận tiềm năng thăng thiên một cách ý thức.

Tất nhiên các thày cũng biết là có những hạn chế do tâm thức tập thể dựng lên. Quả là có một tiềm năng rất thực tế là đạo Cơ đốc có thể trở thành cái mà nó đã trở thành sau này, một tôn giáo do sa nhân kiểm soát. Nhưng dẫu sao, đó là một cách tiếp cận mới mẻ khi Giê-su trình bày công khai về đấng Cha, nhưng như con thấy, tương đối Giê-su cũng đã đưa ra ít chi tiết về cõi tâm linh và mọi thứ ở đó. Kỳ thực Giê-su đã nói về cõi tâm linh ít hơn là kinh Cựu ước, ít hơn rất nhiều những người Bà-la-môn của Ấn giáo. Theo một nghĩa nào đó, Giê-su cũng đã lấy một cách tiếp cận thực dụng.

Rồi những gì xảy ra kể từ thời Giê-su đến nay là, tất nhiên và trên hết do thành quả của lời dạy của Giê-su lẫn của Phật, tâm thức tập thể đã được nâng lên cao hơn. Nhưng rồi sau đó Saint Germain lại quyết định ban truyền phương pháp khoa học, và điều này lại nâng tâm thức lên cao hơn nữa. Nó khiến cho thế giới quan của con người được mở lớn. Nó cho con người một tầm hiểu biết về một số khái niệm tổng quát mà bây giờ các thày sử dụng trong khoảng thế kỷ vừa qua để ban truyền thêm nhiều tiết lộ tuần tự qua trung gian một số tổ chức và sứ giả khác nhau.

Bây giờ chúng ta đang ở một điểm khi các thày lại cảm thấy tự do hơn giảng dạy về các điều kiện trong cõi tâm linh, nhưng các con sẽ thấy là trọng điểm của các thày vẫn tập trung vào việc cho con thấy làm thế nào con có thể thăng vượt tâm thức của mình. Theo một nghĩa nào đó, các thày đang làm cùng công việc mà các thày đã làm qua tôn giáo hay triết lý của Phật, là trình bày cho mọi người cách nâng cao tâm thức hầu họ có thể biết được từ bên trong cái gì là thực và cái gì không thực, hầu họ không cần lệ thuộc vào một thẩm quyền bên ngoài, thậm chí một giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên, mà ngược lại họ biết được từ bên trong nội tâm. Và tất nhiên, đây là cách duy nhất con có thể tự giải thoát khỏi các ảo tưởng của Maya, các lời dối trá của sa nhân.

35.11. Đọc rung động là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá

Nhiều người trong số những Bà-la-môn Ấn giáo kia là sa nhân. Họ có một khả năng đặc biệt làm rối trí và gần như thôi miên những ai chưa thiết lập được mối liên lạc nội tâm với tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu nối được liên lạc nội tâm này, con có thể nhìn xuyên thấu các ảo ảnh của sa nhân. Con có thể làm điều này phần nào qua tâm vỏ ngoài khi con lượng định là họ không nhất quán, họ không hợp lý, họ không tương hợp với những giáo lý khác mà con xem là đáng tin cậy. Nhưng nói cho cùng, con sẽ bắt đầu làm được điều này giản dị bằng cách đọc sự rung động. Con có thể đạt tới điểm đọc được rung động, con đọc một lời dạy nào đó và chỉ trong vòng một vài câu, con cảm nhận được là rung động không đến từ tâm Ki-tô. Và tất nhiên, đây chính là điểm mà các thày đã cố đưa tất cả các con đến, qua các lời dạy và các dụng cụ về việc khắc phục các ngã, vì chính những cái ngã này ngăn cản con thiết lập sự nối kết với tâm Ki-tô, ngăn cản con sử dụng tâm Ki-tô làm khung tham chiếu để đọc được rung động của bất cứ gì trong thế giới hình tướng.

Theo một nghĩa nào đó, đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá: con đọc rung động. Con có thể gọi đó là nhận thức ngoại cảm, là khả năng thấu thị – con muốn gọi là gì cũng được – nhưng khả năng này không gắn liền với giác quan vật lý. Nói cách khác, nhiều người tâm linh mơ ước có thể nhìn thấy hào quang bằng cách mở con mắt thứ ba, nhưng đây vẫn chỉ là sự nối dài của nhãn quan. Nhưng đọc được rung động thì vượt khỏi năm giác quan. Con có thể gọi là giác quan thứ sáu hay thứ bảy hay bất kỳ tên gọi nào khác, nhưng đó là khả năng đọc rung động.

Tại sao người ta có thể đọc được rung động? À, thày đã nói gì cách đây 2500 năm? Tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Điều gì đã được nói về tâm thức Ki-tô? Đó là Ngôi Lời, là Logos, là Đứa con Một, và nếu không có Lời thì không có tạo vật nào được tạo thành. Tất cả trong thế giới hình tướng đều khởi lên từ tâm thức Ki-tô, từ Phật tánh, bất kể tên gọi là gì, và tất cả đều có một rung động nào đó. Tâm thức Ki-tô, Phật tánh, không bao giờ xuống dưới một độ rung nào đó trong dạng thuần khiết của nó khi nó nối kết. Nhưng vì quyền tự quyết phải được phép trải bày, cho nên con có thể hạ thấp độ rung của năng lượng hầu tạo ra ảo tưởng tách biệt cùng ảo tưởng con tách rời khỏi nguồn cội của con. Như các thày có nói, ngay cả độ rung của vật chất trên trái đất đã bị hạ thấp dưới mức ban đầu, và đó là tại sao đã có vẻ hợp lý là con sống trong một thế giới tách biệt, và ngay cả nếu có Thượng đế thì Thượng đế này sẽ có vẻ ở tuốt trên kia nơi thiên đàng.

35.12. Phật tánh và các ảo tưởng của Maya

Có một sự khác biệt rõ rệt về rung động giữa những gì là tâm thức thuần khiết của Ki-tô, Phật tánh thuần khiết, và những gì tuy vẫn là Phật tánh nhưng đã bị ảo ảnh của Maya che mờ, khi tâm thức Ki-tô bị che lấp bởi các ảo tưởng của phản-Ki-tô. Nhưng tất nhiên, nó chỉ bị che lấp khi con nhìn hình tướng xuyên qua các ngã tách biệt đã tạo ra hình tướng. Khi đó, con không thể thấy được là mặc dù nó rung động thấp hơn tâm thức Ki-tô thuần khiết, nó vẫn chính là tâm thức Ki-tô. Kỳ thực, đó là một ảo tưởng được tạo dựng từ các rung động thấp hơn. Nó không bao giờ có thể thường hằng, nó không thể trở thành thường hằng, nó không thể nhận được sự sống vĩnh cửu, và do đó khi con bắt đầu cảm nhận rung động, con có thể lập tức cảm nhận được đâu là rung động thấp và đâu là rung động của Ki-tô hay của Phật tánh.

Và đây là cách tối hậu để tránh bị lừa bởi sa nhân, bởi ảo tưởng cuả Maya, bởi lũ quỷ của Mara, và đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá. Vì chừng nào con không thấy được là một số rung động không phải là bản tánh thuần khiết mà chỉ là những ảo ảnh tạm thời, thì con sẽ nghĩ những hiện hình đó rất có thể thường tồn và chúng có quyền năng trên con, thậm chí chúng còn quy định được con. Con có thể đồng hóa với chúng, ngay cả con có thể say mê những gì chính con hay một ai khác, một sa nhân, đã tạo ra dưới dạng một cấu trúc tinh xảo. Và nó có vẻ thật tinh xảo từ một tầm nhìn nào đó, nhưng nó không thể trở nên thường hằng vì sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được qua Ki-tô, qua sự hợp nhất với Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng con có thể tách rời khỏi Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng hình tướng – bất kỳ hình tướng nào – có thể tách rời khỏi Phật tánh và là gì khác hơn Phật tánh.

Đây là ảo tưởng cơ bản mà các thày đã trình bày qua tâm thức nhị nguyên. Ảo tưởng cơ bản là kìa có Phật tánh, có Ki-tô, và kìa có một cái gì khác hơn. Cái này không phải là Phật tánh, cái này khác với Phật tánh, tách biệt khỏi Phật tánh. Đây là ảo tưởng cơ bản của nhị nguyên rằng thế giới có thể được phân chia làm hai, nhưng sự phân đôi này không thể nào thực. Phật tánh không thể bị phân chia. Chỉ trong ảo ảnh của Maya con mới có thể tạo ra dáng vẻ có hai. Cho nên ý tưởng bảo rằng có một thượng đế và có một ác quỷ chỉ là một ảo tưởng, và thượng đế mà con nhìn thấy từ trạng thái tâm thức này không phải là Thượng đế chân thực, không phải là Thượng đế vô hình tướng. Các thày gọi là vô hình tướng vì các thày không thể đặt ra ngôn từ nào cho tâm thức của Thượng đế. Thượng đế hoàn toàn vượt khỏi các hình tướng mà con có thể thấy từ một bầu cõi chưa thăng thiên.

35.13. Cho con người động lực bước trên đường tu

Thế giới không là hai, nó không bị phân chia, nó là một. Nó luôn luôn là một. Nhưng điều gì có thể thúc đẩy một sinh thể bị kẹt trong ảo tưởng của Maya muốn nỗ lực khắc phục ảo tưởng của Maya? Tại sao thày trong tư cách Phật lại nói về niết bàn? Vì thày phải cống hiến một động cơ cho con người cất bước trên con đường khắc phục tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng của họ. Hiển nhiên những người này đang đau khổ và họ muốn thoát khổ đau. Nhưng khi con bị kẹt trong tâm thức tạo ra đau khổ, con không thể nhìn ra cách thoát khỏi khổ đau. Con cứ nghĩ là có lẽ con có thể phá tan các điều kiện gây ra khổ đau. Có lẽ con có thể tạo ra những điều kiện tốt đẹp hơn từ tâm thức tách biệt. Nhưng điều này không thể làm được.

Con không thể thoát khổ qua tâm thức tách biệt, nhưng con cũng không thể thực sự nắm bắt thế nào là đứng ngoài tâm thức tách biệt. Cho nên các thày trong tư cách là thày tâm linh, phải cho con người một động lực mà họ có thể nắm được để cất bước trên con đường thoát tách biệt, một động lực hấp dẫn đối với họ khi họ vẫn còn trong tách biệt. Đó là vì sao thày đã đưa ra Diệu đế thứ nhất. Cuộc đời là đau khổ, nhưng cũng có một con đường thoát khổ, và đó là Bát chánh đạo. Nhưng cái gì sẽ thúc đẩy con đây? Phải, thày có thể thúc đẩy con lánh xa khỏi đau khổ, nhưng con sẽ bước vào cái gì? Con sẽ hỏi và có những người đã từng hỏi: “Khi con bước trên Bát chánh đạo, mục tiêu chót cùng là gì? Phần thưởng ở điểm đến sẽ là gì?”

À, đấy chính là vì sao thày đã hình thành khái niệm niết bàn như một giải pháp thay thế cho đau khổ, cho Biển Luân hồi. Không phải là thày có khái niệm này trong tâm, nhưng khi người ta nghe nói về khái niệm này thì họ làm gì? Họ liền phóng chiếu một hình tư tưởng lên niết bàn dựa trên ảo tưởng tách biệt, thế là họ nghĩ mục đích con đường Bát chánh đạo là để đạt tới cái hình ảnh nhị nguyên đó về niết bàn. Đấy là tại sao mới có một lời dạy trong kinh sách đạo Phật nói rằng sẽ tới một điểm con nhận ra là về cơ bản, niết bàn và luân hồi chỉ là cùng một thứ, hay cả hai là cùng một chất liệu vì cả hai đều đi ra từ ảo tưởng tách biệt. Và vì vậy, cả hai đều cần bị tiêu diệt trước khi con tự do, trước khi con giải thoát. Và đây là điểm nhầm lẫn của nhiều tôn giáo trên trái đất, kể cả Cơ đốc giáo, Do thái giáo và truyền thống Do thái-Cơ đốc.

Như các thày đã nói, một lần nữa khi con bước vào nhị nguyên, con bắt đầu tạo ra một thượng đế trong hình ảnh của ngã tách biệt và giống như ngã tách biệt, thậm chí giống như sa nhân. Con sử dụng các điều kiện của hình tướng trong một bầu cõi chưa thăng thiên trên một hành tinh chưa thăng thiên để phóng chiếu cõi tâm linh là thế nào, cho nên con không thể biết được cõi tâm linh là thế nào. Các thày, các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh, sẽ không bao giờ có thể cho con một lời dạy về một số điều kiện ở cõi tâm linh. Nhưng các thày hoàn toàn không có ý định cho con một tầm nhìn toàn diện vì các thày biết nó không thể được nắm bắt, và thật chẳng ích lợi gì nếu con biết cõi tâm linh là như thế nào. Bởi vì như các thày cũng đã giải thích, con sẽ làm gì khi con bước vào tâm tách biệt đường thẳng? Con tự xem mình là một chủ thể đang tìm hiểu một khách thể từ xa. Và đối với cõi tâm linh, con cũng sẽ làm y như vậy. Khi con ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên, khi con chưa thăng thiên, con tìm hiểu cõi tâm linh như một đối tượng tách biệt.

Điều này có thể cần thiết cho con để con có được một cái hiểu nào đó về cơ học của tiến trình thăng thiên, và đó là vì sao các thày trao cho con lời dạy này. Nhưng con phải nhìn nhận là cho dù con nghĩ cái hiểu của con về cõi tâm linh tinh xảo đến đâu đi nữa, thì con không đang ở cõi tâm linh và cái hiểu này sẽ không đưa con lên đó. Con sẽ chỉ lên đó bằng cách buông bò hình tư tưởng đó, những cái ngã tách biệt đó. Rồi khi con ở đó, con sẽ trải nghiệm được cõi tâm linh, ít ra từ mức tâm thức vào lúc con thăng thiên. Con không trải nghiệm một cách trọn vẹn vì như thày nói, có nhiều tầng cấp trải dài cho đến Đấng Sáng tạo.

Một lần nữa, thày đã nói quá nhiều, thày đã cho con thật nhiều điều để con suy ngẫm, nhưng thày biết một số các con sẽ hiểu được, một số sẽ sẵn lòng suy ngẫm, sử dụng lời dạy mà các thày đã trao truyền để con gỡ mình xuống khỏi thập tự giá của cái hiểu cũ của con về con đường tâm linh. Không một cách mô tả vỏ ngoài nào về đường tu có thể đưa con vào trạng thái thăng thiên. Chỉ bằng cách thăng vượt mọi sự mô tả vỏ ngoài mà con có thể thăng thiên.

Và như vậy, thày sẽ niêm hội nghị này. Các thày biết ơn con đã tham dự, đã sẵn lòng tiếp nhận những lời dạy này và phóng chiếu ra qua hào quang cùng luân xa của con vào tâm thức tập thể, đã sẵn lòng thỉnh gọi qua những bài thỉnh đã có ảnh hưởng sâu xa trong thời điểm đặc biệt này khi quá nhiều tín hữu Cơ đốc chú tâm vào Ki-tô bị đóng đinh thay vì Ki-tô phục sinh.

Với lòng biết ơn sâu xa, thày niêm con trong sự an bình vô biên, vô điều kiện, không thể tả xiết của Phật.

Điều gì xảy ra cho những người lính thiệt mạng trong cuộc chiến ở Ukraine?

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Elohim Astrea qua trung gian Kim Michaels ngày 8/4/2023, nhân Webinar Phục sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Elohim Astrea. Ta đã quyết định dùng cơ hội này để cho các con một số sáng ngộ về cách làm thế nào Hội đồng Nghiệp quả lượng định hoàn cảnh trên trái đất và tìm cách giúp đỡ con người, kể cả việc ta cắt đứt các sợi dây ràng buộc để giải thoát con người, để khi họ rời khỏi hiện thân, họ có thể đi đến những cõi giới cao nhất có thể, và họ được trợ giúp trên con đường thăng tiến cá nhân của họ.

Các chân sư thăng thiên muốn giúp mọi người tăng triển

Ta sẽ đặt trọng tâm vào cuộc chiến ở Ukraine và ta sẽ, ít ra là để mở đầu, tập trung vào những gì xảy ra cho những người lính rời khỏi hiện thân. Trước hết, con cần nhìn nhận là các thày, các chân sư thăng thiên, không có cùng tầm nhìn về tình hình trên trái đất như con người. Ta không nói điều này để chê bai con người. Khi con ở trong một cơ thể vật lý, lẽ tự nhiên con đến từ một bối cảnh đặc thù và con nhìn các tình huống một cách đặc thù. Nhưng hiển nhiên các thày đã thăng vượt tất cả các thành kiến và quan điểm nhân thế đó, cho nên các thày nhìn từ nhãn quan tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô đương nhiên thấy rõ sự hợp nhất giữa mọi cách biểu hiện của tâm thức Thượng đế, bởi vì “nếu không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”, cho nên tâm thức Thượng đế ở trong mọi thứ và mọi người.

Các thày nhìn mọi người đều là những đứa con của Thượng đế, ít ra là mọi người đều khởi sự như vậy và kể từ đó họ đã đi xuống – rất nhiều người đã đi xuống – một ý niệm bản sắc thấp hơn. Nhiệm vụ của các thày trong tư cách chân sư thăng thiên là giúp cho mọi người tiến bước cho đến mức họ có thể nhận diện nguồn gốc của họ, bản sắc của họ, và tất nhiên họ làm vậy bằng cách nhìn vượt ra khỏi những phân chia vỏ ngoài đã gây chia rẽ giữa loài người và khiến họ xung đột với nhau.

Ý ta muốn nói ở đây là khi các thày nhìn vào một tình trạng như cuộc chiến ở Ukraine, các thày không có những phán đoán của con người. Các thày không phán xét là cái này sai, cái kia đúng, mặc dù tất nhiên các thày thấy rõ là những gì nước Nga đã làm tại Ukraine trong tư cách một quốc gia đã vi phạm định luật tự quyết. Dẫu vậy, điều ta muốn tập trung ở đây là làm thế nào để có thể giúp đỡ từng cá nhân, đặc biệt những người lính, những người dân thường đã phải lìa cõi hiện thân do hậu quả cuộc chiến. Đối với các thày, hoàn toàn không có khác biệt nào trong mong muốn giúp đỡ người Ukraine hay người Nga, nhưng trong cách thực hiện thì có một số khác biệt. Nhưng những khác biệt này trong cách trợ giúp con người không đến từ các thày hay từ tâm thức các thày, mà nó đến từ sự kiện mỗi cá nhân ở cả hai bên đều có những cách tiếp cận khác nhau, đều mang những tâm thái khác nhau.

Hãy cho ta bắt đầu nói đến những người lính Nga. Nhiều người trong số các con sống ngoài nước Nga đã tìm hiểu sự việc đã xảy ra. Con biết là có hàng ngàn, hàng vạn lính Nga đã tử trận. Con cũng biết đã có một số hành vi tàn bạo, một số tội ác chiến tranh do binh lính Nga gây ra đối với thường dân và dĩ nhiên cũng đối với binh lính Ukraine. Con cũng biết là trong y khoa có một nguyên tắc gọi là phân loại để chọn cách chữa trị hiệu quả nhất. Nếu có nhiều thương vong, bác sĩ sẽ xếp họ vào ba loại khác nhau dựa trên lượng định họ có thể được cứu giúp hay không và cách cứu giúp tối ưu là như thế nào. Theo một nghĩa nào đó, các thày cũng làm một lượng định tương tự khi xem xét những người lính Nga. Các thày phải nhìn vào trạng thái tâm thức của họ trước khi họ tham gia cuộc chiến, điều gì xảy ra cho họ trong suốt cuộc chiến, và hiển nhiên trạng thái tâm thức của họ bây giờ một khi họ lìa khỏi cõi hiện thân.

Những lính Nga không thể được giúp đỡ

Có một số lính Nga các thày không thể giúp được. Điều này đặc biệt áp dụng cho những ai đã phạm tội ác chiến tranh hay có hành vi tàn tệ nhất – những ai đã giết hại thường dân, đã hãm hiếp phụ nữ, đã nhắm bom vào các tòa nhà dân sự hay các cơ sở hạ tầng cho dù họ đã làm vậy bằng tên lửa phóng từ xa. Thường thường họ đã thâm căn cố đế trong một tư duy nhất định, và trong cốt lõi, tư duy này là như sau: ở một tầng sâu thẳm trong bản thân họ, họ thừa biết là hành vi của họ vi phạm quyền tự quyết, nhưng ở bề mặt tâm trí, họ không chịu và họ không thể thừa nhận sự thật này. Đặc biệt có nhiều người trong số các chiến binh chuyên nghiệp do nhóm Wagner sử dụng rơi vào hạng người này. Nói cách khác, các thày phải xét xem các thày có thể giúp họ được không. Và nếu tâm họ hoàn toàn đóng chặt, nếu họ nhất định không sẵn lòng nhìn vào hành vi của họ từ một nhãn quan cao hơn thì các thày không thể giúp được họ.

Điều ta đang giảng ở đây là nếu con nhìn con người một cách phổ quát, con sẽ thấy là khi một người rời khỏi xác thân vật lý, y có một cơ hội độc nhất để nhìn lại đời mình cùng trạng thái tâm thức của mình từ bên ngoài – hay nếu có thể nói như vậy – từ một nhãn quan cao hơn. Tuy nhiên, nếu y ở trong một tâm thái vô cùng khép kín trước khi rời khỏi hiện thân, thì y sẽ không thể hay không chịu làm điều đó. Y sẽ không sẵn lòng xem xét đời mình vì y không thể chịu đựng nhìn từ một nhãn quan trung lập những gì y đã làm, những hậu quả y đã gây ra cho người khác và cả hậu quả cho chính bản thân trong tương lai. Có thể nói, những người như vậy không thể chịu nổi việc thừa nhận các nghiệp quả mà họ đã tạo ra.

Những người như vậy, các thày không thể giúp. Vậy thì họ sẽ đi đâu khi họ lìa khỏi hiện thân? Họ đi đến một số tầng cấp khác nhau của cái mà các thày gọi là cõi trung giới (astral plane) là cõi cảm xúc thấp nhất nơi những người có tâm khép kín vốn đi tới. Một số đã ở đó suốt một thời gian rất dài vì trạng thái của họ thấp đến độ họ không thể trở lại đầu thai. Trong cõi trung giới có những cõi giống như địa ngục mà nhiều người thường mường tượng. Đúng thực là thi sĩ Dante khi ông thấy chín vòng địa ngục đã hình dung ra một vài tầng – nhưng chỉ vài tầng chứ không phải tất cả. Những tầng này của cõi trung giới mang hình dạng của địa ngục, và những người lính với tâm vô cùng đóng kín sẽ đi về đó. Và ở đó họ sẽ phải giáp mặt với những người hay những dòng sống ở cùng mức tâm thức như họ. Thậm chí họ phải hứng chịu cùng những hành vi mà họ đã từng hứng chịu trong quân đội Nga hay trong nhóm Wagner khi thượng cấp đã ngược đãi họ, đã không đếm xỉa gì đến họ, đã trù dập họ bằng nhiều cách, và vì thế họ cảm thấy xung khắc. Và họ bị xung khắc chừng nào khi còn sống thì đến khi rời khỏi xác thân họ vẫn xung khắc như vậy.

Thật không có gì để nói thêm. Các điều kiện đặc thù ở cõi trung giới không đặc biệt quan trọng ngoại trừ sự kiện là những người đó, tất nhiên, bị thu hút đến một tầng đặc thù tương ứng với mức tâm thức của họ, tức là họ sẽ bị những sinh thể khác đối xử với họ tồi tệ y như họ đã đối xử tồi tệ với người khác trong kiếp đầu thai vừa rồi của họ, đặc biệt là trong cuộc chiến. Nói cách khác, họ phải trải nghiệm đúng những gì họ đã gây ra cho người khác, chỉ có điều là bây giờ họ là kẻ hứng chịu để họ có thể trải nghiệm sự tàn bạo của chính họ. Những người đã phải hứng chịu hành vi của họ trong cuộc chiến đã chịu đựng những gì? Chính nhờ vậy mà đôi khi – và các thày nhìn sự thể này sau một quá trình lâu năm làm việc với con người – đây là cách duy nhất để cho một dòng sống có thể quay đầu mà nhìn ra: “Tôi không muốn trải nghiệm điều này nữa, có nghĩa là tôi phải thay đổi chính tôi.” Cách này không cứ sẽ hiệu quả đối với mọi người nhưng nó hiệu quả đối với một số, và các điều kiện đặc thù mà họ trải nghiệm không mấy quan trọng.

Những người lính Nga bị bối rối

Bây giờ có một loại dòng sống, một loại binh lính khác là những người, bằng cách này hay cách nọ, đã đặt niềm tin vào tư duy đứng đằng sau cuộc xâm lăng của Nga. Trong quân đội cũng như trong quần chúng có một tư duy tin vào tính ưu việt của nước Nga, của đế chế Nga, rằng Nga có quyền xâm lăng Ukraine vì nhiều lý do. Nói cách khác, họ đã bước vào cuộc chiến với một tư duy mà chúng ta có thể gọi là tư duy ý thức hệ, mặc dù đây không hẳn là điều con thường gọi là ý thức hệ như chủ nghĩa cộng sản. Nhưng đây vẫn là một tư duy ý thức hệ khi họ tin theo lời bịa đặt mà Putin và giới thượng tôn quyền lực Nga đã đưa ra xung quanh cuộc chiến về sự vĩ đại của nước Nga và đế chế Nga cùng nhu cầu phải khôi phục đế chế, phải bảo vệ nước Nga chống lại NATO, hay thậm chí phải giải phóng nhân dân Ukraine khỏi bọn Quốc xã ở Kiev.

Bất kể những lý do được đưa ra trong không gian tuyên truyền của Nga để viện cớ cho cuộc tấn công, có thể nói là họ đã cả tin theo đó. Họ đã đặt tin tưởng vào đó. Nhưng họ lại trải nghiệm là cuộc chiến hoàn toàn không giống như những gì họ chờ đợi, cho nên khi họ lìa cõi hiện thân, họ phần nào bị bối rối. Và sự bối rối có nghĩa là tâm họ cởi mở. Ít ra có một chút cởi mở trong tâm họ, có nghĩa là giờ đây các thày có cơ hội làm việc với họ. Và điều xảy ra là linh hồn hay dòng sống của họ được đưa về một nơi dễ chịu đối với họ.

Không phải là họ sẽ được tặng cho 70 trinh nữ trên thiên đàng như người đạo Hồi tưởng tượng, nhưng họ được đưa đến một nơi có thể gọi là bình yên, ngơi nghỉ, nơi họ có thể nhận được sự chữa lành tâm lý. Rồi lần hồi một khi họ đã bình tĩnh trở lại và họ có đôi chút cảm giác nghỉ ngơi, lành lặn, các thày sẽ cống hiến cho họ cơ hội nhìn lại cuộc đời của họ, nhìn vào tư duy của họ, cái tư duy mà họ đã được nuôi dạy, cái tư duy mà họ đã mang trong cuộc chiến, và họ xem xét nó từ một nhãn quan trung hòa. Nếu họ nắm lấy cơ hội này thì một số sẽ có thể được giúp đỡ, nhưng một số khác thì không. Những người không thể được giúp đỡ – tức là những người không sẵn lòng chấp nhận những điều họ đã nhìn thấy từ một nhãn quan trung hòa – họ sẽ trở về với cùng cái tư duy mà họ đã có khi còn hiện thân và đã từ chối chất vấn. Lại có cả những người không chịu nắm lấy cơ hội xem xét một cách trung hòa và cứ khăng khăng nắm giữ tư duy cũ. Trong trường hợp này, một lần nữa, các thày sẽ không thể giúp họ. Các thày phải để yên cho họ ra đi và họ sẽ loanh quanh luẩn quẩn ở một tầng nào đó nơi cõi trung giới.

Những lính Nga có khả năng xoay chuyển

Nhưng những người nắm lấy cơ hội và sẵn lòng xem xét tư duy từ một tầm nhìn trung hòa, thậm chí sẵn lòng xem xét bối cảnh rộng lớn hơn của nước Nga cùng lý do tại sao Nga đã gây chiến, thì họ sẽ được giúp đỡ – một cách rất từ từ, vì tiến trình này không xảy ra lập tức mà rất lần hồi – để họ nhìn một cách trung hòa vào một số yếu tố trong tư duy cùng hành động của họ cũng như của nước Nga. Có nghĩa là họ sẽ có một sự xoay chuyển nào đó. Xoay chuyển lớn hay nhỏ tùy theo mỗi cá nhân, tùy họ có ý muốn hay khả năng xoay chuyển đến đâu. Nhưng trong số những người xoay chuyển một chút thì một số sẽ ngừng lại ở một điểm nào đó. Họ sẵn lòng xoay chuyển đôi chút nhưng không muốn đi xa hơn. Những người này sẽ đi vào một tầng ở cõi trung giới cao hơn những người kia với tâm hoàn toàn khép kín, họ sẽ không phải hứng chịu cùng những cực hình, nhưng họ vẫn phải chạm mặt những chuyện tương ứng với mức tâm thức mà họ đã không chịu thăng vượt hay xem xét.

Nhưng có những người sẵn lòng xem xét, họ dần dần bước lên cao hơn, và họ nhìn ra là trong suốt thời gian họ lớn lên rồi bị nhập ngũ và tham gia cuộc chiến, họ đã tự cho phép mình cả tin vào một ảo tưởng hoàn toàn, một sự bịa đặt hoàn toàn. Toàn bộ tư duy của người Nga – những lý lẽ bào chữa cùng bộ máy tuyên truyền chung quanh cuộc chiến – là hoàn toàn không thực, hư cấu. Một sự dối trá toàn diện. Và một số người lính đó bị thiệt mạng trong cuộc chiến có thể vươn lên một tầng cấp nơi rốt cuộc họ sẽ có thể nhìn xuyên thấu. Và điều này có nghĩa là giờ đây họ có thể bước lên cao hơn.

Thật ra họ không đi vào cõi cảm xúc. Họ bước vào cõi lý trí nơi họ nhận được sự trợ giúp để mở rộng đáng kể tầm hiểu của họ về thế giới, về cách thế giới vận hành và làm thế nào họ có thể nhìn xuyên thấu các ảo tưởng mà khi còn đầu thai họ đã không thể nhìn thấu. Ở cõi lý trí có một số tầng đặc biệt được thiết lập cốt ý để hỗ trợ cho công việc này. Chúng hơi giống như các khóa nhập thất của các chân sư thăng thiên nhưng, tất nhiên, chúng không phải là khóa nhập thất của các thày vì các khóa này nằm ở phần cao của cõi bản sắc. Nhưng những khóa này thật đặc trưng, có thể gọi là sự phối hợp giữa một trường học với một trung tâm chữa bệnh nơi họ được trợ giúp để khuếch trương tầm hiểu về cách vận hành của thế giới, và làm thế nào trong kiếp đầu thai tới họ sẽ có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào một chuyện hoàn toàn hư cấu như vậy, không cứ là ở Nga mà có thể ở bất cứ nơi nào khác.

Những lính Nga không tin lời tuyên truyền của chính quyền

Xong có một loại người thứ ba là những ai đã không rơi vào lời tuyên truyền của chính quyền Nga trước khi họ tham chiến. Họ đã nhìn ra là việc gây chiến với một dân tộc láng giềng thật không chính đáng, và một số đã nhìn ra điều này vì họ lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo, và bất chấp lời khẳng định của vị đứng đầu Giáo hội Chính thống Nga nói rằng cuộc chiến được Thượng đế tán thành, họ có thể thấy rõ là việc giết người không bao giờ biện minh được.

Một số trong nhóm người này vẫn tình nguyện nhập ngũ vì họ sẵn lòng bảo vệ quê hương của họ, nhưng họ cũng thấy là khi người ta tấn công một nước khác thì người ta không đang bảo vệ quê hương. Có một số khác thì giản dị không tin những gì họ được tuyên truyền, họ có quan điểm riêng của họ khi lớn lên, và nhiều người trong số này đã không tình nguyện nhập ngũ mà bị gọi phải nhập ngũ. Hạng người này đã sẵn có tâm cởi mở để nhìn thấu các ảo tưởng trước khi họ lìa khỏi cõi hiện thân, và thường thường cách hành xử của họ trong cuộc chiến khiến họ không phạm tội ác chiến tranh hay hành động tàn ác, và họ đã cố hết sức không giết một ai. Khi những binh lính này rời hiện thân, họ sẵn sàng nhận được trợ giúp của các thày, cho nên họ có thể nhanh chóng đạt được cái nhìn toàn bộ về tình hình từ một nhãn quan trung hòa. Vì vậy họ có thể nhanh chóng vươn lên tầng cấp của cõi lý trí nơi họ nhận được thêm giáo huấn cùng hàn gắn.

Sự trừng phạt từ chính tâm thái con người

Nhưng này, cho dù các thày không thể giúp hạng binh lính ở mức thấp nhất, ta vẫn muốn cho con một số nhận xét về những gì thực sự xảy ra cho họ. Họ đi xuống một tầng ở cõi trung giới nơi họ phải chạm trán với đúng y cái tư duy mà họ đã có, cùng một lòng vô cảm, cùng một sự tàn nhẫn mà họ đã có. Nhưng thay vì là thủ phạm gây tội ác cho những nạn nhân, chẳng hạn những người thường dân tay trắng không vũ khí, thì bây giờ họ là nạn nhân, và có những kẻ khác sẽ vô cảm đối với họ, sẽ tàn nhẫn đối với họ, sẽ làm đủ mọi thứ chính họ đã từng làm. Câu hỏi đặt ra là, họ sẽ ở lại trong tình trạng này cho đến bao lâu? Điều này tùy thuộc rất nhiều vào tình trạng khép kín của tâm họ, và tinh trạng khép kín của tâm thì tùy thuộc rất nhiều vào những gì họ đã làm trong kiếp đầu thai trước. Bao nhiêu người họ đã giết hại, tra tấn, hãm hiếp hay bất cứ chuyện gì khác? Vì những hành vi như vậy càng nhiều khi họ biết nơi sâu thẳm là việc mình làm không phải, thì tâm họ sẽ càng đóng chặt hơn nữa. Đối với con, có một điểm đáng suy ngẫm ở đây, và tuy các thày không cần nêu ra trong tư cách là chân sư thăng thiên nhưng ta vẫn muốn con biết vì điều này có thể giúp con hiểu sự thể.

Tất nhiên con có các giáo lý truyền thống về nghiệp quả, và nhiều người xem nghiệp quả là một hình thức trừng phạt. Con làm chuyện gì sai trái như giết người, rồi con bị gửi xuống tầng này của cõi trung giới, một môi trường địa ngục nơi con phải chịu sự tra tấn như một hình phạt. Đây là cách nhìn của rất nhiều người, họ gọi đó là nghiệp xấu. Nhưng hiển nhiên đây không phải là cách nhìn của các chân sư thăng thiên. Dù sao thì nếu con theo lối nhìn truyền thống đó về nghiệp quả, con sẽ bảo là đối với một người lính cá biệt, nếu anh ta càng giết nhiều người trong cuộc chiến thì nghiệp quả anh tạo ra càng nặng nề, và thời gian anh phải ở lại trong môi trường địa ngục đó sẽ càng dài cho đến khi anh nhận trừng phạt đích đáng. Cho nên từ góc nhìn này, sẽ tốt hơn cho anh nếu anh chết vào thời điểm anh đã chết, vì nếu anh đã sống lâu hơn thì anh đã có thể giết nhiều người hơn và tạo nhiều nghiệp hơn.

Như ta vừa nói, từ tầm nhìn của các chân sư thăng thiên, nghiệp quả không phải là sự trừng phạt. Không có ai đang trừng phạt ai, và các chân sư thăng thiên cũng không trừng phạt ai. Sự trừng phạt là chính trạng thái tâm của người đó. Cho nên như ta vừa nói, anh ta càng giết nhiều người thì anh càng chìm sâu vào tâm thái của anh, là cái tâm thái cho phép anh giết người rồi tự biện minh, hay tiếp tục giết người mà không cần biện minh. Càng chìm sâu vào tâm thái này thì theo một nghĩa nào đó, sẽ càng dễ hơn cho những người chết sớm so với những người ở lại trong hiện thân lâu hơn và giết nhiều người hơn. Con thấy con có thể nói, giống như nhiều người Nga cũng nói: “Ồ, thật đáng buồn những người lính của chúng tôi phải thiệt mạng.” Nhưng trong một số trường hợp, việc họ bị thiệt mạng thật ra là một ân sủng vì số phận họ sẽ tệ hơn nhiều nếu họ ở lại hiện thân và giết nhiều người hơn.

Tất nhiên điều này không có nghĩa là các thày mong thấy người ta bị chết hay lìa khỏi cõi hiện thân. Ta chỉ cho con điều này để con suy ngẫm vì một phần những gì ta cố làm ở đây là cho con một góc nhìn khác về loại tình huống như thế này. Các thày nói gì giờ đây? Từ một tầm nhìn thăng thiên, các thày chỉ nói được là các thày có một mối quan tâm duy nhất, đó là: Làm thế nào giúp cho con người tăng triển. Làm thế nào các thày có thể giúp mọi người tăng triển? Như ta vừa nói, có một số người các thày sẽ không thể giúp trực tiếp, và giản dị họ sẽ phải tiếp tục học Trường đời Cay đắng là nơi họ đã theo học, thường từ nhiều kiếp sống, để đạt đến trạng thái tâm thức thấp kém đã khiến họ có thể làm những chuyện họ làm.

Nhưng có một số thì các thày có thể giúp được và các thày sẽ cố giúp, và mục đích của các thày luôn luôn là giúp họ tăng triển. Khi một người lìa cõi hiện thân, mục đích các thày là giúp họ chữa lành và tăng triển cho tới mức khi họ đầu thai tiếp tới, họ có thể gặp một hoàn cảnh cao hơn kiếp vừa qua. Ngược lại, những người các thày không thể giúp, những người phải đi vào các tầng địa ngục, họ sẽ ở đó một thời gian, rồi ít nhất một số sẽ trở lại hiện thân ở một thời điểm nào đó, nhưng họ sẽ không trở lại trong một hoàn cảnh tốt hơn kiếp trước. Rất có thể họ sẽ phải trở lại trong một hoàn cảnh tệ hơn – một số sẽ tái đầu thai ở Nga, một số ở Bắc Hàn, một số ở Trung quốc, nhưng rất nhiều người trong bọn họ sẽ đầu thai ở Phi châu ở những khu vực có chiến tranh bộ lạc.

Còn những người mà các thày có thể giúp và đã nâng cao tâm thức, họ sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn cho sự tăng triển. Một số sẽ vẫn tái đầu thai ở Nga nhưng với một mức tâm thức cao hơn, và tất nhiên nước Nga sẽ thay đổi, trong khi một số khác sẽ đầu thai ở các nước khác, một số ở cả các nước dân chủ phương Tây. Tất nhiên, một phần đáng kể những lính Nga đã thiệt mạng tại Ukraine và sẵn lòng được giúp đỡ sẽ đầu thai tại Ukraine trong kiếp tới. Đó là chuyện thường xảy ra trong nhiều trường hợp có chiến tranh giữa hai nước. Như các thày đã từng nói, nhiều binh lính và quan chức Đức quốc xã thời Đệ nhị Thế chiến đã đầu thai ở Israel.

Thay đổi sắp đến với nước Nga

Một điểm cân nhắc nữa mà ta muốn lưu ý con ở đây là một số các con nhìn vào nước Nga rồi nghĩ: “Thật chẳng có gì đã thay đổi. Hầu hết ai nấy vẫn ủng hộ cuộc chiến, nền kinh tế không đến nỗi tệ lắm, đến bao giờ nước Nga mới thay đổi đây?” À, như Mẹ Mary có trả lời một câu hỏi ở buổi hội thảo trực tuyến kỳ trước, nếu con có thể thấy được những gì đang xảy ra ở các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc thì con sẽ thấy là thay đổi sắp sửa đến với nước Nga, và nước Nga sẽ thay đổi trong những năm tới. Cho dù cuộc chiến có kéo dài bao lâu, nước Nga sẽ thay đổi. Sự thay đổi đã bắt đầu. Nó đã trở nên không thể đảo ngược. Và con có thể thấy chuyện này khi chính quyền ngày càng cuồng nộ hơn trong việc trấn áp bất cứ ai phản đối chiến tranh. Thậm chí con thấy thanh thiếu niên bị bắt giữ chỉ vì đã lỡ thốt ra chữ cấm trên mạng xã hội. Loại quốc gia nào sẽ làm chuyện này ngoại trừ một quốc gia tuyệt vọng? Đây là một chỉ dấu tuyệt vọng. Thật sự, việc bất cứ nước nào giết hại hay bỏ tù công dân mình rõ ràng là một hành động tuyệt vọng. Và mặc dù họ không thừa nhận một cách ý thức, nỗi tuyệt vọng có mặt là vì họ biết tình thế đang vuột khỏi tầm tay họ. Họ không thể kéo dài được mãi mãi.

Lực kéo tâm thức tập thể Nga

Nhưng điều ta muốn nói đến ở đây là khi con nhìn vào những người lính đã lìa hiện thân do chiến tranh, họ không còn ở trong một xác thân vật lý. Nhưng con đừng nghĩ điều này có nghĩa là họ hoàn toàn cắt đứt khỏi nước Nga. Như các thày đã giải thích, mỗi quốc gia có một tâm thức tập thể. Tâm thức này có một thành phần cảm xúc, lý trí, bản sắc. Những binh lính Nga đã thiệt mạng ở Ukraine vẫn bi buộc vào tâm thức tập thể này ở các cõi cảm xúc, lý trí, bản sắc. Ngay cả những người lính đi vào các cõi địa ngục cũng bị buộc vào tâm thức của người Nga. Họ vẫn đang lôi kéo tâm thức người Nga.

Những người lính nào đã nhận được, đã chấp nhận sự trợ giúp của các thày và đã nâng cao trạng thái tâm thức của mình, thì họ sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Còn những người lính đi vào cõi trung giới sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Điều này có nghĩa là họ sẽ lôi kéo những ai đang nắm quyền quyết định, từ Putin trở xuống cho đến dưới cùng, kể các những người trong quân đội mang cùng một tâm thái khép kín. Có nghĩa là họ lôi kéo những người này ngày càng trở nên cực đoan hơn, ngày càng sẵn sàng lấy những biện pháp cùng cực hơn – một điều mà con thấy rồi đó nhưng con sẽ ngày càng thấy nhiều hơn, tùy theo cuộc chiến kéo dài bao lâu. Và mục đích thực sự của chuyện này – nếu có một mục đích như vậy – dĩ nhiên là để quyền tự quyết trải bày ra, với tiềm năng đem lại kết quả tích cực là mọi chuyện có thể trở nên cực đoan đến độ những ai đang đầu thai sẽ bắt đầu nhìn thấy, bắt đầu thừa nhận là mọi chuyện đã quá mức, quá cùng cực rồi.

Tại sao người ta lại gây nỗi này cho tôi?

Một số những binh lính đang ở trên lãnh thổ Ukraine và chưa thiệt mạng, cũng như nhiều binh lính bị thương đã trở về Nga hay vẫn còn ở Ukraine, họ đã bắt đầu nhìn thấy điều đó. Chẳng hạn một người lính đã cả tin vào toàn bộ lời tuyên truyền của Nga bảo rằng anh đang chiến đấu cho quê hương của anh, đang làm một công việc quan trọng, đang hy sinh đời mình để làm một việc gì thật quan trọng cho đất nước, rồi anh bị đưa tới Ukraine. Trước hết, anh ta không được huấn luyện, không được cung cấp thiết bị hẳn hoi, thậm chí cả thức ăn ngon miệng, lều chõng hay túi ngủ cũng không có. Anh bị vứt ra ngoài đó cùng với một nhóm người. Họ cũng không có vũ khí thích hợp. Họ không có hậu thuẫn thích hợp. Ngay cả thượng cấp thích hợp hay lãnh đạo giỏi, họ cũng không có. Xong anh được lệnh xung phong trên cánh đồng trống trơn về phía quân lính Ukraine đang thủ sẵn trong chiến hào kiên cố. Anh có khẩu súng trường, nhưng quân Ukraine có súng máy. Bất cứ ai có trí thông minh tối thiểu cũng thấy được đây là chuyện tự sát. Và bất cứ ai cũng thấy được anh không đang phục vụ đất nước anh bằng cách đó. Anh đang không giúp gì cho nước anh vì anh sẽ bị bắn hạ mà không có hy vọng bắn quân thù.

Đâu là mục đích của chuyện này? Nếu anh ta sống sót thì nhất định một tiến trình suy nghĩ sẽ khởi lên trong anh. Không thể nào không có một tiến trình suy nghĩ: “Tại sao? Tại sao họ lại muốn tôi chết mà không cho tôi cơ hội chiến đấu? Tại sao họ lại gửi tôi ra đây để bỏ mạng? Tại sao họ không lo huấn luyện và trang bị cho tôi? Tại sao họ không có sĩ quan tài giỏi? Đâu là mục đích cuộc chiến này? Tại sao chúng ta lại đi làm chuyện này?” Tất cả những câu hỏi đại loại như vậy, nhưng có thể anh sẽ không muốn chia sẻ với ai. Thậm chí anh có thể không muốn nghĩ tới một cách ý thức nhưng các câu hỏi sẽ thấm vào khắp tâm tiềm thức của anh. Không thể nào khác được, vì con người không thể đối mặt với cái chết mà không tự hỏi trong tâm: “Tại sao? Tại sao chuyện này lại xảy ra cho tôi?” Và khi anh nhận ra nước anh đã cưỡng bức anh vào tình cảnh này, anh không thể không nghĩ ngợi: “Tại sao họ lại gây ra nỗi này cho tôi? Họ nói nước Nga là một quốc gia quan trọng, vì vậy tôi rất quan trọng là một người Nga và việc tôi phục vụ nước tôi là quan trọng. Nhưng họ lại ném tôi vào một tình huống tôi không thể phục vụ nước tôi. Tôi chỉ đang bỏ mạng một cách vô nghĩa. Tại sao họ lại gây ra nỗi này cho tôi?”

Một chấn động to lớn

Nếu con có thể thấy được những gì các thày nhìn thấy từ cõi thăng thiên, con sẽ nhìn ra là trong thể lý trí của người Nga, của cả nước Nga như một quốc gia, tất cả các câu hỏi đó đang quay cuồng như thế nào. Tiến trình này đã có trớn. Nó khởi đầu với những người lính ở mặt trận và những người dân có nhận biết cao, nhưng nó đang thấm sâu vào những vòng tròn ngày càng lan rộng trong quần chúng, tùy theo tầng tâm thức của họ. Người ở những tầng cao nhất nhìn thấy trước nhất, còn người ở những tầng thấp nhất sẽ nhìn thấy chót cùng. Nhưng nó đang lan truyền qua toàn tâm thức. Thế rồi tất nhiên ở tầng cảm xúc, làm sao mà không có cảm xúc được khi bị đẩy ra chiến trường chống chọi với súng máy mà không được trang bị hẳn hoi? Làm sao không có cảm xúc mãnh liệt khi vừa thoát chết trong gang tấc? Không, con không thể, trừ khi con là một kẻ bị rối loạn nhân cách (psychopath) hay ái kỷ (narcissist) hoàn toàn tê dại. Nhưng một người bình thường sẽ có cảm xúc rất mãnh liệt.

Con có thể là một bà mẹ Nga yêu nước cho nên bà hãnh diện khi thấy con mình ra chiến trường. Nhưng khi con bà trở về tật nguyền, hay bà nhận tin anh ta đã hy sinh hay bị mất tích, hay bà không nhận được tin tức gì hết, không biết anh đang ở đâu, còn sống hay đã chết, thì bà không thể nào không có cảm xúc dữ dội. Chuyện cũng sẽ tương tự nếu đây là một người thân. Nếu con thấy được cảm thể tập thể của người dân Nga, con sẽ thấy một sự chấn động to lớn. Con sẽ thấy những cơn lốc xoáy hình thành, mỗi ngày mỗi kéo nhiều người hơn vào vòng của chúng. Rồi nếu con có thể bước lên tầng bản sắc, một lần nữa con lại thấy những câu hỏi nhức nhối được đặt ra về bản sắc dân tộc Nga. Nguyên tiến trình này đã khởi sự khi cuộc chiến bắt đầu, do nhiều người với tầm nhận biết cao nhất bỏ nước ra đi, nhưng con có thể mường tượng là khi ở ngoài nước, tất nhiên họ vẫn bị buộc chặt vào các cảm thể, trí thể, bản sắc thể và họ vẫn lôi kéo các thể này.

Chu kỳ thay đổi không thể đảo ngược ở Nga

Sau khi cuộc chiến bùng nổ, nhiều người ở Nga đã bắt đầu âm thầm chất vấn bản sắc dân tộc mình: “Liệu chúng ta có thật sự cần xem mình là một đế chế? Chúng ta có thật sự cần cao trội hơn mọi người? Và đặc biệt, chúng ta có cần dùng vũ lực để cao trội hơn mọi người?” Tất cả những câu hỏi này dẫn đến gì? À, nó dẫn đến suy nghĩ là khi Putin và những người lân cận với của ông quyết định xâm lăng Ukraine, thì họ đã khởi đầu một chu kỳ không thể nào đảo ngược sẽ mang lại thay đổi cho nước Nga. Không phải là thay đổi đã chưa xảy ra ở Nga – chủ yếu do ở Nga có nhiều người tâm linh cho dù họ có theo đợt truyền pháp này hay một giáo lý tâm linh nào khác, đồng thời ở Nga cũng đã có sự tăng triển và như các thày có nói, kịch bản lý tưởng là sự tăng triển này sẽ tiếp diễn từ từ – nhưng điều Putin đã làm là đặt nước Nga vào một vòng xoáy ốc nơi tiến trình thay đổi từng bước bị đình chỉ để nhường chỗ cho những biến đổi vũ bão hơn xảy ra. Cần phải có một biến cố bên ngoài dữ dội đánh thức đa số quần chúng Nga nhanh chóng hơn, và biến cố này không thể đảo ngược, không thể chặn đứng.

Lẽ tự nhiên từ nhãn quan thăng thiên, các thày sẽ mong muốn một sự tăng triển từng bước, hòa bình, cho cả Ukraine lẫn Nga. Nhưng một lần nữa, mọi chuyện đều tùy thuộc vào luật tự quyết, và chắc chắn nhân dân Nga không phải là không có trách nhiệm trong việc cho phép thiểu số thượng tôn quyền lực hành xử như họ đã hành xử, và do đó nhân dân Nga cũng sẽ bị tác động và sẽ phải thay đổi nhanh hơn và đột ngột hơn rất nhiều. Ngay cả tại Ukraine, các thày đã có đề cập đến tình trạng chia rẽ trước khi cuộc chiến xảy đến, thì bây giờ tiến trình thay đổi cũng đã gia tốc đến độ Ukraine cần xây dựng một bản sắc dân tộc mà trước đây Ukraine không có.

Tình trạng những người lính Ukraine

Còn những người lính Ukraine thì sao? Đa số những điều nói trên cũng sẽ áp dụng, theo nghĩa là chỉ có một số ít binh lính Ukraine ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp – những kẻ giết người mà không cảm thấy thương cảm hay hối hận, và tất nhiên nếu họ không sẵn lòng thay đổi, họ cũng sẽ đi vào các tầng trung giới. Nhưng tuyệt đại đa số binh lính Ukraine đã rời hiện thân thuộc về phạm trù những người lập tức sẵn lòng nhận được sự trợ giúp từ các thày, vì họ không ở trong cùng tư duy như lính Nga. Họ thấy rõ là họ đã bị tấn công và họ phải bảo vệ đất nước cùng gia đình của họ chống lại kẻ tấn công. Không phải là họ không thấy được việc giết người là sai trái, họ biết rõ điều này, nhưng họ cảm thấy không có chọn lựa nào khác hơn là tự vệ.

Tiến trình chữa lành và tình huynh đệ

Khi họ rời hiện thân, họ thường cởi mở hơn với việc xem xét tâm thái của mình cùng các hành động của mình từ một nhãn quan trung hòa, cho nên rất nhiều người hơn có thể được trợ giúp để họ vươn đến các tầng ở cõi lý trí. Và điều xảy ra tại các lớp nhập thất ở cõi lý trí là không phải sẽ có một lớp cho lính Nga và một lớp cho lính Ukraine. Cả hai đều học chung với nhau. Và giờ đây họ tương tác với nhau, họ dần dần nhìn vào tình thế với một tầm hiểu chung. Kỳ thực, họ thường tha thứ cho nhau, và kết quả là họ đạt đến một tình huynh đệ và một cảm nhận hợp nhất.

Ở đó có một tiến trình chữa lành đã khởi sự, và trong những năm sắp tới, tiến trình này có thể ảnh hưởng cả hai dân tộc, và mong thay, nó sẽ giúp cho mọi người tiến lên nhanh hơn bình thường. Bởi vì khi những người lính Nga – những người có khả năng được giúp đỡ – rời khỏi hiện thân, họ không còn mong muốn thấy nước Nga chiến thắng và Ukraine bị chinh phục hay tiêu diệt. Và những người lính Ukraine khi rời cõi hiện thân, họ không có lòng căm thù người Nga. Họ không muốn nước Nga bị tàn phá, nhưng hiển nhiên, họ muốn Ukraine tiếp tục là một quốc gia riêng biệt. Và hầu hết mọi lính Nga cũng đạt đến cùng kết luận. Họ thấy rõ tất cả chỉ là trò hư cấu, sự biện minh cho chiến tranh là hoàn toàn hư cấu, vì người Nga với người Ukraine phải có khả năng sống chung với nhau trong hòa bình và nhìn nhau như anh em. Và họ muốn điều này nhiều hơn là thấy Ukraine bị chinh phục và nước Nga trở thành một đế chế vĩ đại. Những người lính này có thể đạt được một tầm hiểu. Đã có những ví dụ lính Nga giết lính Ukraine rồi bị giết – hay trường hợp ngược lại cũng vậy – thì cả hai gặp nhau ở lớp nhập thất và giờ đây họ có thể làm hòa. Họ có thể tha thứ lẫn nhau. Họ có thể nhận ra đây không phải là chuyện cá nhân, mà họ đã bị hoàn cảnh ép buộc phải hành xử như vậy. Có một tiến trình chữa lành đã khởi sự nơi những người lính từ cả hai bên chấp nhận trợ giúp của các thày và đã vươn lên một mức cao hơn.

Vươn lên khỏi mọi dính mắc và mọi điều kiện trên trái đất

Trên đây là một số suy nghĩ mà các thày muốn trao cho con để con có một tầm nhìn khác hơn. Con cũng hiểu là khi con ở trong một kiếp hiện thân làm người, khi con đang đầu thai, con nhìn vào tình huống và con hình thành trong tâm một kết quả đặc thù mà con muốn thấy xảy ra. Và ngay cả từ tầm nhìn thăng thiên, các thày cũng nhìn vào tình huống và mong muốn nhân dân Ukraine có đất nước riêng biệt, mong muốn nhân dân Nga tăng triển tối đa từ biến cố này. Không chắc là họ sẽ duy trì được một nước Nga thống nhất – ngay bây giờ đang có một sự bất an về những gì sẽ xảy đến cho Nga sau cuộc chiến. Nhưng vượt khỏi những mối quan tâm này – và con có thể nói là những quan tâm này phát xuất từ mong muốn giúp cho càng nhiều người tăng triển càng tốt – mối quan tâm trên hết của các thày là giúp cho con người tăng triển. Không phải là các thày gắn bó, hay tập trung vào một thành quả nhất định, mà các thày luôn luôn tập trung vào việc giúp con người tăng triển, rồi sau đó kết quả cụ thể trong cõi vật lý chỉ có tầm quan trọng thứ yếu, vì trong cách các thày nhìn thế giới, tất cả mọi sự việc đều là cơ hội tăng triển.

Và thày Giê-su đã nói gì trong bài truyền đọc đầu tiên hôm nay về câu chuyện Phục sinh? Mục đích của mọi câu chuyện là tác động tích cực đến người tiếp nhận câu chuyện. Đấy, tất cả mọi thứ trên trái đất đều là một câu chuyện, cho nên các thày xem mọi điều kiện chỉ là những câu chuyện có mục đích trao cho con người một cơ hội tăng triển. Và các thày luôn luôn tìm cách giúp đỡ bất cứ nhóm người nào tăng triển, để họ dùng bất kỳ câu chuyện nào mà họ chấp nhận để giúp họ tăng triển. Chính vì vậy mà điều kiện vật lý cụ thể, kết quả vật lý cụ thể, đối với các thày chỉ là một phương tiện cho một cứu cánh.

Tất nhiên con có thể nhìn lại lịch sử loài người và thấy được là khi con người bước vào tâm thức nhị nguyên, khi họ bước vào ảo tưởng tách biệt, thì họ không thể xem các điều kiện vỏ ngoài là phương tiện để đạt cứu cánh. Những điều kiện đó tự thân trở thành cứu cánh. Và đó là tại sao họ mới quá dính mắc với việc thị hiện một kết quả nhất định đến độ họ sẵn lòng giết người hay gây chiến để thị hiện. Con có thể trở nên dính mắc với giấc mơ xây dựng một đế chế vĩ đại đến độ con sẵn sàng dùng những biện pháp cùng cực để thị hiện nó. Nhưng tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ đụng phải một sự chống đối cùng cực, cho nên cuối cùng con thường tự hủy diệt chính mình, và con cũng thường hủy diệt cái đế chế con đang cố tạo ra, như con thấy rõ với Hitler và giấc mộng thiết lập đế chế Quốc xã bao trùm cả địa cầu.

Nếu có một bài học lịch sử thì đây chắc chắn là một bài học: Nếu con trở nên dính mắc với một kết quả, sẽ có lúc kết quả này phải bị đập vỡ tan tành để con có thể tự giải thoát khỏi dính mắc. Và đây là vì sao đối với một đệ tử tâm linh, việc nhìn vào dính mắc của mình thật quan trọng. Con có dính mắc vào một kết quả đặc thù hay không? Xong con bắt đầu chất vấn nó. Nhưng tất nhiên điều này thày Giê-su đã vừa trình bày rồi, cho nên ta sẽ không bàn thêm, mặc dù tất nhiên trong vai trò của ta là Elohim của Tia thứ Tư, ta cắt mọi người tâm linh ra khỏi dính mắc của họ, ra khỏi tâm thức tập thể, ra khỏi cõi trung giới, ra khỏi cõi lý trí, ra khỏi cõi bản sắc.

Và với lời này, ta cảm ơn con đã chú ý. Ta cảm ơn con đã sẵn lòng vật lộn với những điều kiện này. Và ta hy vọng là những ai đến từ Nga hay từ Ukraine có thể nhìn vượt ra khỏi cuộc xung đột này và thấy được là con trước hết không phải là người Ukraine hay người Nga. Trước hết con là người tâm linh, và tất cả các con đều đến từ cùng một nguồn cội, và các con đều đang bước trên con đường trở về nguồn cội đó bằng cách vươn lên khỏi mọi dính mắc, mọi điều kiện, mọi cảm nhận bản sắc trên trái đất. Điều này, ta sẽ hân hoan giúp con hoàn thành mỗi lần con thỉnh gọi ta đến cắt đứt cho con tự do.

Astrea, TA LÀ.

15 | Tâm con đầy những gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Bước kế tiếp của chúng ta trên con đường Bắt chánh đạo này là bước Chánh niệm. Con hãy xem xét từ này trong tiếng Anh: “Mind-full-ness” [mindfulness là chánh niệm tỉnh giác và mind-full-ness là đặc tính của tâm đầy]. Tâm chứa đầy những gì? Đến một điểm trên đường Bát chánh đạo con cần bắt đầu xem xét: “Điều gì đang choán tâm tôi, đang khiến tôi bận tâm? Trong tâm tôi đang có gì?” Tất nhiên như thày đã có giải thích, đây là những ngã tách biệt, những khuôn nếp phản ứng, những lập trình tiềm thức. Đâu là tác động chủ yếu của các chương trình này, các ngã tách biệt này và tự ngã?

Tự ngã và các ngã tách biệt sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nếu con ngắm đại dương vào một ngày tốt gió, trên mặt biển có rất nhiều sóng. Bây giờ con thử tưởng tượng con xây một chiếc cần trục có thể vươn ra ngoài biển. Ở cuối cần trục có một cái gắp hay một cái xẻng, và con đang đưa nó xuống để cố gắp lấy một ngọn sóng, kéo sóng ra khỏi đại dương. Liệu con có thành công không? À, có lẽ con sẽ kéo lên một xô nước, nhưng lập tức một ngọn sóng khác sẽ hình thành và xô nước của con sẽ không là một ngọn sóng mà là một xô nước. Con có thể nào tách rời sóng ra khỏi đại dương được không?

Cũng tương tự như vậy, tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng làm bằng một chất vô hình tướng. Chất vô hình tướng này khoác vào một hình thể đặc thù, nhưng chất thì vẫn không thay đổi. Phật tánh vẫn là Phật tánh giống như đại dương vẫn là đại dương khi nó khoác vào hình thù ngọn sóng thay vì lặng yên. Một khi chất vô hình tướng đã mang vào hình tướng thì hình tướng này có đó, nó có một sự tồn tại tạm thời nhưng nó không có một sự tồn tại tách biệt.

15.1. Các hạn chế của giác quan vật lý

Để cho con một ví dụ thị giác, con thử nhìn trái đất cùng tất cả hiện tượng vật lý trong môi trường của con. Có thể có nhà, có cây, có núi, có hồ, có biển hay bất cứ gì khác, nhưng tất cả được tạo thành bằng những hạt hạ nguyên tử không thực sự mang hình tướng nào cụ thể. Con có thể nhìn một thân cây và thấy cây rất khác tảng đá, nhưng cả hai đều cùng làm bằng hạt hạ nguyên tử. Ở trong cây có hạt hạ nguyên tử, cho nên con không thể nói là cây tách biệt với hạt hạ nguyên tử. Cây được tạo thành bằng những hạ hạt nguyên tử đã khoác vào một hình tướng đặc thù.

Tất nhiên con không thể thấy được điều này với giác quan hay với tâm vỏ ngoài của con. Con có thể suy ra chuyện này với tâm lý luận của con. Con có thể trải nghiệm chuyện này với tâm trực giác của con, nhưng có một mức nào đó trong tâm không thể nhìn xa hơn hình dạng hay hình thù. Ấy, thày không bảo là điều này có gì sai trái đâu con. Giác quan vật lý của con đã được thiết kế để phát hiện năng lượng trong một phổ tần số nhất định, cụ thể là cùng phổ tần số cấu tạo cơ thể vật lý của con. Giác quan vật lý là phần nối dài của cơ thể và chúng có mục đích phục vụ cơ thể khi cơ thể tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể chỉ là một hình tướng, nhưng nó cũng làm bằng hạt hạ nguyên tử.

Những giác quan vật lý này và sự hạn chế của chúng là cơ sở – ít ra là cơ sở nguyên thủy – cho con người đi vào ảo tưởng tách biệt. Nhưng như thày nói, đó là cơ sở cho ảo tưởng tách biệt chứ không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân con người đi vào tách biệt là một loạt những chọn lựa mà con người đã lấy, qua đó lần hồi họ đã chấp nhận ảo tưởng của Maya và tạo ra những ngã tách biệt kia. Ngã tách biệt được tạo ra từ ảo tưởng tách biệt. Khi con, cái Ta Biết, bước vào cái tâm chất đầy những ngã tách biệt này, con nhìn mọi chuyện xuyên qua ngã tách biệt. Con nhìn chính con, con trải nghiệm chính con xuyên qua ngã tách biệt, và suốt nhiều kiếp sống, con có thể quên mất con đã từng là một sinh thể nối kết. Hiện giờ con trải nghiệm con là một sinh thể tách biệt, nhưng liệu con đã trở nên tách biệt khi con tự trải nghiệm mình như thế?

À, đây là điều con bắt đầu tra vấn ở một tầng nào đó trên đường Bát chánh đạo. Con bắt đầu chất vấn ngay chính nhận thức của con về thế giới xung quanh, nhận thức của con về chính con. Có thể nói, khởi đầu của tỉnh giác cao hơn là khi con bắt đầu chất vấn nhận thức của con, các ý tưởng vỏ ngoài của con, ý niệm bản sắc của con, và ngay cả toàn bộ thế giới quan của con.

Con biết giác quan của con có thể dễ dàng bị các dáng vẻ bề ngoài đánh lừa hay phỉnh gạt. Tất cả các con đều đã xem các loại ảo thị (optical illusions) và con biết có cái gì đó vượt khỏi những gì giác quan của con có thể thấy. Có nguyên tử, có phân tử, có hạt hạ nguyên tử. Con biết giác quan không đáng tin cậy. Nhưng cái thực sự không đáng tin cậy là các ngã tách biệt, chúng không chỉ tiếp nhận giác quan mà chúng còn xây dựng một lớp phủ ý thức hệ lên trên nhận thức của giác quan, và ý thức hệ này thì bảo rằng những gì giác quan nhìn thấy thật sự là những vật tách biệt.

Nếu con chỉ lấy nhận thức giác quan mà thôi, con sẽ thấy tự thân giác quan không đưa ra phán đoán nào về những gì nó thấy. Mục đích của giác quan là phân biệt những vật khác nhau ở tầng cấp vĩ mô: “Đây là một con ngựa. Nó không nguy hiểm. Đây là một con sư tử. Có thể nó nguy hiểm.” Đó là mục đích của giác quan. Mục đích của giác quan là thấy rõ và phân biệt giữa đủ loại vật thể liên quan đến sự sống còn và an toàn vật lý của con – những gì con có thể làm và những gì con muốn làm trong thế giới. Giác quan không áp đặt một xét đoán giá trị lên những gì nó thấy.

Giác quan có thể thấy một con sư tử. Nó có thể nhận diện cái đó là một con sư tử nhưng tự thân giác quan không bảo con sư tử là nguy hiểm. Chính tâm con mới áp đặt sự đánh giá này lên sư tử. Nhưng dù sao việc này cũng là một sự đánh giá trung lập mà chúng ta có thể nói là khách quan. Một con sư tử nguy hiểm vì nó có thể tấn công cơ thể vật lý của con, nó có khả năng giết chết cơ thể. Nhưng đây không phải là cùng sự xét đoán giá trị như khi con bảo ngựa là tốt, sư tử là xấu, sư tử là ác. Ở đây con thấy, ngoài chuyện giác quan phân biệt những vật thể và hình tướng khác nhau, tâm con còn áp đặt lên đó một sự đánh giá, một sự xét đoán về tốt và xấu. Đây là cốt lõi của điều mà thày đã gọi là tâm thức nhị nguyên khi con tạo ra hai đối cực như vậy.

15.2. Tư duy trắng đen

Trong dạng cùng cực, nhị nguyên chỉ có hai đối cực và không có gì ở giữa. Có tốt, có xấu. Đây là cái gọi là lôgíc Aristote, lôgíc của khoảng giữa bị loại bỏ. Mọi thứ phải hoặc thế này, hoặc thế kia, và không có gì ở giữa. Tất nhiên như thày cũng đã trình bày, có một cách khác là bảo rằng có hai đối cực nhưng chúng nằm trên một thang điểm. Có một khoảng giữa hai đối cực với những sắc đậm nhạt khác nhau. Nhiều người có lối phán xét giá trị như vậy. Họ thấy có những điều thiện, có những điều ác, nhưng cũng có những điều nằm giữa.

Tâm con chứa đầy những gì? À, nó chứa đầy những ngã tách biệt kia, trong số đó có rất nhiều dựa trên sự phán xét giá trị này. Bất cứ gì cũng phải hoặc tốt hoặc xấu, hoặc đúng hoặc sai. Đâu là mục đích khi làm vậy? À, nếu con là một sinh thể nối kết thì con sẽ thấy gì? Con sẽ cảm thấy thế nào? Con sẽ trải nghiệm ra sao? Con trải nghiệm là con nối kết với một cái gì vượt hơn chính tâm con – cái ta cao của con. Con trải nghiệm là con đang nhận được năng lượng từ cái ta cao này và con có thể dùng năng lượng đó để tạo ra những hoàn cảnh cho con trên trái đất.

Trước khi con người bước vào nhị nguyên và tách biệt, trên trái đất không hề có những xung đột mà con thấy ngày hôm nay. Con người có thể sống hài hòa hơn gấp bội và không chống đối nhau. Có nghĩa là hầu hết mọi người có thể thị hiện những gì họ muốn mà không cần gắng sức nhiều lắm, chắc chắn là không cần tranh đua vật lộn. Vì họ thấy họ nối kết với một cái gì cao hơn và cũng nối kết với nhau và với môi trường, họ không cảm thấy là người khác hay môi trường đang chống lại họ. Không có sự chống đối nào hết.

15.3. Khởi đầu của khổ đau

Khi con là một sinh thể nối kết thì chống đối ở đâu? Con nhận ra là con nối kết với trái đất và với thế giới vật chất, và thế giới vật chất thì hoàn toàn vui lòng cho con những điều kiện mà con mong muốn. Nhưng một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt, con không còn cảm nhận nối kết nào nữa. Có nghĩa là con bị tách rời khỏi môi trường của con, tách rời khỏi người khác, và con cũng bị tách rời khỏi nguồn cội cao hơn là nguồn cung cấp năng lượng sáng tạo cho con. Thế là bây giờ con phải lấy năng lượng từ môi trường của con. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con lấy năng lượng từ người khác. Tất nhiên là họ sẽ kháng cự lại, cho nên đây là khởi đầu của vật lộn tranh đấu. Con cũng trải nghiệm là ngay cả thế giới vật chất cũng không cho con những gì con muốn khi con là một sinh thể tách biệt, cho nên con phải chiến đấu để có bất cứ gì.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là giờ đây con bắt đầu dùng vũ lực. Khi con là một sinh thể nối kết, con không cần dùng đến vũ lực. Con sử dụng tiến trình tự nhiên là cho phép năng lượng chảy qua tâm con, con hình thành những hình tư tưởng không dựa trên ảo tưởng tách biệt, và các hình tư tưởng này được áp chồng lên năng lương cơ bản và chúng cho con những gì con mong muốn. Khi con bước vào tách biệt, con không thể làm vậy được nữa. Con không thể đồng-sáng tạo theo cách tự nhiên. Con bắt đầu cố gắng đồng-sáng tạo theo một cách phản tự nhiên, tức là thay vì cho phép năng lượng khoác lấy hình tướng theo các nguyên tắc cơ bản, giờ đây con tìm cách ép buộc năng lượng phải khoác lấy hình thù. Trên căn bản thì con vẫn làm cùng một chuyện, con vẫn tạo ra hình tư tưởng và phóng chiếu lên năng lượng, nhưng bây giờ con phải cưỡng ép bằng sức mạnh vì hình tư tưởng của con dựa trên tách biệt, cảm nhận tách biệt.

Một ví dụ điển hình là khi con đi ngược dòng lịch sử, con nhận thấy trong hầu hết mọi xã hội đều có xu hướng hình thành một tầng lớp thượng lưu nào đó. Lớp người này sẽ tuyên bố là họ nắm giữ một loại uy quyền nào đó, chẳng hạn quyền sở hữu đất đai. Điều này có nghĩa là số dân còn lại sẽ không có đất. Cách duy nhất để họ sống còn là làm lụng trên đất của chủ đất, nhưng chủ đất thì đòi hỏi sự đền bù, có nghĩa là giờ đây chủ đất có thể có được đời sống mình muốn do sức lao động chân tay của người khác.

Đây là một ví dụ một số người đã có thể dùng sức mạnh để đạt được những thứ họ muốn, nhưng họ làm vậy bằng cách lợi dụng người khác, cưỡng ép người khác phải phục tùng lớp thượng lưu. Điều gì thực sự xảy ra trong tâm lý? Như thày đã có nói vài lần, một khi con bước vào tách biệt, con cảm thấy một sức ép. Đây là một sức ép quá sức chịu đựng, vì như một sinh thể tách biệt, con không thể thấy được làm sao con có thể tự vệ trước tất cả những mối đe dọa mà con cảm nhận trong thế giới. Con phải làm gì đây?

À, thày đã có giảng là con đè nén cảm xúc và tư tưởng của con, nhưng điều con thực sự làm trong quá trình này là con tạo ra một tập hợp ngã tách biệt dưới ô dù của tự ngã. Mục đích là để tạo dựng một thế giới quan đặt con vào một vị thế an toàn, cao trội, một địa vị đặc quyền được bảo vệ và không thể bị đe dọa. Đây là tâm lý cơ bản của tâm thức tách biệt, qua đó con cảm thấy mình bị đe dọa và con tìm cách dựng lên một thế giới quan sẽ giảm bớt mối đe dọa.

15.4. Nhà tù của tách biệt

Nhưng tất nhiên, người ta cũng có thể lấy những biện pháp vật lý. Một số người trong lớp thượng lưu mà con thấy khắp các thời đại, đã xây lâu đài bằng tường đá kiên cố để bảo vệ mình khỏi đe dọa từ ngoài. Có nhiều ví dụ khác về những biện pháp vật lý mà họ sử dụng, nhưng tất cả đều khởi lên từ trong tâm, từ tâm lý. Tất cả mọi chuyện đều khởi sự trong tâm lý. Bất kể biện pháp vật lý nào cũng chỉ là sự nối dài của cố gắng muốn tạo ra một thế giới quan đặt họ vào một vị thế đặc biệt trong đời để họ có thể chịu đựng được gánh nặng phải sống trên hành tinh này. Họ phải chịu được sức ép, sống chung với áp lực và tiếp tục tồn tại một cách nào đó.

Con có thể hỏi: “Nhưng có gì sai trái với chuyện này đâu?” Phải, ở một mức nào đó thì không có gì sai trái bởi vì trái đất là một cỗ máy trải nghiệm, một máy giả thực tại, nơi con được phép có những trải nghiệm mà con muốn bao lâu cũng được cho đến khi con chán ngán. Nhưng nếu con là một người tâm linh và con đang học giáo lý tâm linh và con muốn bước chân trên một con đường tâm linh, thì rõ ràng làm như vậy sẽ không đủ cho con. Thật không đủ cho con nếu con phải tạo ra tâm ảnh để cảm thấy an toàn, bởi vì đâu là hậu quả của việc tạo ra tâm ảnh như vậy? Hậu quả là một khi con có tâm ảnh thì con cảm thấy như thể mình phải bảo vệ tâm ảnh. Một khi con đạt một vị thế vật lý nào đó, con cảm thấy mình phải bảo vệ nó. Vị thế vật lý chắc chắn trở thành một vòng đai bảo vệ giống như lâu đài với tường đá kiên cố, nhưng nó cũng biến thành một nhà tù vì con không thể rời bỏ đi. Một khi con đã tạo ra thế giới quan đó thì tâm con không thể vượt ra ngoài. Con phải ở lại trong đó, và con luôn luôn phải sẵn sàng bảo vệ nó chống lại mọi hiểm họa có thể xảy đến.

15.5. Trong nhị nguyên, con không thể chứng minh bất cứ gì

Nhưng này con, thày đã có giải thích là tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực. Một khía cạnh của tâm thức nhị nguyên phối hợp với tâm phân tích và lý trí là, nói chung, con có thể chứng minh bất cứ gì con muốn. Trong nhiều nền văn hóa, người ta đã tranh luận từ rất lâu về câu hỏi này: “Có Thượng đế hay không?” Trong thế giới hiện đại, cũng có tranh luận giữa tín đồ các tôn giáo và những người theo chủ nghĩa duy vật hay người vô thần. Cả hai phe đều cố gắng đưa ra lập luận – người theo tôn giáo thì lập luận ủng hộ sự hiện hữu của Thượng đế, và người vô thần lập luận chống lại sự hiện hữu của Thượng đế. Cả hai bên đều mổ xẻ lập luận của nhau để cố đánh phá hay bẻ gẫy bên kia, nhưng con thấy gì khi con nhìn vào chuyện này? Con thấy là sau một thời gian, có hai nhóm riêng biệt sẽ hình thành, một nhóm tin chắc chắn là có Thượng đế, và nhóm kia tin cũng không kém chắc chắn là không có Thượng đế. Nhưng cả hai đều nhìn vào cùng những lập luận.   

Tại sao nhóm này nhìn vào lập luận và kết luận thế này, trong khi nhóm kia nhìn vào cùng những lập luận đó mà lại kết luận thế khác? Á, đó là vì mỗi nhóm người có mang một số ngã tách biệt trong tâm họ, và các ngã tách biệt này có nhiệm vụ – do chúng đã được lập trình như vậy –phải bênh vực tổng quan của họ. Người theo tôn giáo mang tổng quan là có một thượng đế giữ quyền kiểm soát tối hậu trên mọi chuyện xảy ra trên thế giới, và điều này khiến họ cảm thấy an toàn vì họ nghĩ rằng bởi vì họ là tín đồ ngoan đạo, thượng đế này sẽ che chở họ và ban cho họ thật nhiều ân huệ. Cảm giác an toàn của họ dựa trên ý tưởng thượng đế này là có thật, nghĩa là ngã tách biệt của họ được lập trình để bênh vực cho thế giới quan và sự hiện hữu của thượng đế này. Ngã tách biệt làm thế nào? Bằng cách ngăn chặn và vô hiệu hóa bất cứ lập luận nào chất vấn thế giới quan.

Phía bên kia, những người vô thần mang thế giới quan là không có Thượng đế vì họ cảm thấy – và trong tiền kiếp họ đã cảm thấy – bị đe dọa bởi những người theo đạo đã bức hại họ, như con thấy trong Tòa án Dị giáo và các cuộc Thập tự chinh. Họ suy luận tôn giáo là một trong những hiểm họa lớn nhất trên thế giới, cho nên họ dựng lên một thế giới quan bảo rằng tôn giáo chỉ là chuyện mê tín chủ quan chứ không hề có Thượng đế. Thay vào đó thì có các định luật tự nhiên, và một khi hiểu được các định luật này qua khoa học, họ cảm thấy là họ nắm được quyền kiểm soát nào đó trên hoàn cảnh của họ. Làm thế nào họ đã đạt đến thế giới quan này? Bằng cách tạo ra những ngã tách biệt sẽ loại bỏ, ngăn chặn hay vô hiệu hóa bất cứ bằng chứng nào chất vấn thế giới quan của họ.

Bây giờ con có thể nhìn quanh thế giới và tìm thấy vô số nhóm người khác cũng y như thế. Người Do Thái có một thế giới quan đặc thù xem mình đối chọi với người Ả Rập, và ngược lại người Ả Rập có một thế giới quan xem mình đối chọi với người Do Thái. Rất nhiều nhóm khác khắp thế giới có cơ chế vận hành cũng giống như vậy.

Điều con nhận ra khi con bước lên tỉnh giác cao hơn là mọi người đều đã tạo ra những ngã tách biệt như thế. Mọi người đều có một thế giới quan cơ bản. Con cần có một thế giới quan để có thể vận hành, nhưng vấn đề là khi thế giới quan của con dựa trên tách biệt và nhị nguyên, không thể tránh được là nó sẽ đặt con vào thế xung đột với những ai có một thế giới quan dựa trên đối cực nhị nguyên ngược lại.

Lấy ví dụ các cuộc Thập tự chinh giữa người đạo Hồi và đạo Cơ đốc, cả hai đều tuyên bố thờ cùng một thượng đế, là thượng đế được mô tả trong kinh Cựu ước, nhưng họ vẫn đánh nhau. Người Cơ đốc cảm thấy họ đại diện cho cái thiện và người đạo Hồi đại diện cho cái ác. Người đạo Hồi cũng tin chắc là họ đại diện cho cái thiện và người Cơ đốc mới đại diện cho cái ác. Hiển nhiên là cả hai không thể nào đúng cùng một lúc. Nhưng nếu như chẳng có bên nào đúng thì sao? Nếu như cả hai đều có một thế giới quan chủ quan nhị nguyên thì sao, bởi vì họ đã chụp lấy một đối cực nhị nguyên rồi nâng nó lên địa vị tối cao, và điều này đặt họ vào một vị thế xung đột hiện sinh với đối cực nhị nguyên ngược lại?  

Nói cách khác, đạo Cơ đốc và đạo Hồi đã được đặt lên một thang điểm nhị nguyên trong đó họ đại diện cho hai đầu của cái thang. Người Cơ đốc có thể nói: “À, đầu bên chúng tôi mới tốt, còn đầu bên kia xấu.” Và người đạo Hồi có thể bảo ngược lại. Đây là cách nhị nguyên vận hành. Con lấy một cực đoan tương đối xong con nâng nó lên địa vị không tương đối. Nó tuyệt đối: “Đây là sự thật tuyệt đối. Chúng tôi người Cơ đốc nắm sự thật tuyệt đối. Người đạo Hồi sai lầm tuyệt đối, cho nên việc chúng tôi giết họ là chuyện chính đáng cho dù tôn giáo chúng tôi có điều răn, Ngươi chớ giết người.” Đây là cách con vô hiệu hóa một lời răn và biện minh cho việc vi phạm lời răn, và điều này hiển nhiên là tương đối nhưng con lại nghĩ nó dựa trên một sự thật tối cao nào đó.

15.6. Tám tỷ vũ trụ

Đó là làm thế nào con tạo ra những thế giới quan đó, và con có thể nhìn ra điều này khi trong tư cách một học trò tâm linh, con bước lên những tầng cao hơn của Bát chánh đạo. Con nhìn ra điều này, cho nên tất nhiên, con cần ngừng tập trung tâm con vào những gì người khác đang làm, và thay vào đó con nhận ra là con cũng đang làm cùng một chuyện như vậy, bởi vì ai ai cũng làm chuyện này cho đến khi họ giải phóng tâm họ khỏi ảo tưởng tách biệt, khỏi các ngã tách biệt. Không thể nào khác được. Không có bí ẩn gì ở đây. Đây là chuyện mọi người đều làm. Khi chính thày còn hiện thân và trước khi thày đạt đến các tầng nhận biết cao hơn, thày cũng đã làm chuyện đó. Trong tiền kiếp thày cũng đã làm như vậy, cho dù nhiều Phật tử sẽ phủ nhận là thày có tiền kiếp.

Con đạt tới điểm có thể nói được: “Tôi hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi thấy được cách vận hành khi mọi người đều có một thế giới quan.” Nói chung, tất cả tám tỷ người trên hành tinh đều có một thế giới quan cá nhân. Có nhiều người mang thế giới quan tương tự như nhau, cho nên họ có thể nhận diện mình là thành viên của một nhóm, nhưng thế giới quan của mỗi người thì vẫn khác nhau một chút.

Thậm chí con có thể nói là không có một vũ trụ độc nhất, mà trên trái đất có đến tám tỷ vũ trụ, bởi vì mỗi người đều ở trong – ở ngay trung tâm – vũ trụ cá nhân của riêng mình. Mỗi người đều xem mình là trung tâm của vũ trụ. Có một sự tương đồng nào đó với góc nhìn của con trong không gian vật lý. Ngay bây giờ đây con đang ngồi ở một vị trí cụ thể, cơ thể của con đang ở một vị trí cụ thể. Con đang nhìn qua đôi mắt từ một góc độ cụ thể. Con đang chiếm giữ khoảng không gian nơi con ngồi, đây là không gian cá nhân của con. Một người khác có thể ngồi ngay cạnh con và có một góc nhìn gần giống con, nhưng người đó không thể đẩy cơ thể của họ vào cơ thể của con để nhìn từ cùng góc độ như con. Tâm con cũng như vậy. Con có thể có những điểm tương đồng với người khác nhưng con vẫn là trung tâm của vũ trụ cá nhân của con.

Bây giờ, nếu con có tám tỷ người và mỗi người xem mình là trung tâm vũ trụ và do đó họ là người quan trọng nhất trong vũ trụ, thì có gì đáng ngạc nhiên khi có xung đột, đấu tranh, đau khổ và Biển Luân hồi? Là một học trò trên con đường tâm linh, con có thể nhìn ra điều này. Vậy con cần làm gì đây? À, nếu con muốn tiến cao hơn trên đường tu, con cần nói: “Tôi hiểu là tất cả chúng ta đều đang sống trong vũ trụ riêng của mình. Vũ trụ này chỉ hiện hữu trong tâm mỗi người, nhưng chúng ta hành xử dựa theo cách mình nhìn thế giới, dựa theo thế giới quan của mình. Tôi hiểu là mỗi chúng ta đều có xu hướng bênh vực cho thế giới quan của mình. Tôi hiểu là tôi không có quyền điều khiển thế giới quan của người khác. Dù họ là con cái, cha mẹ hay là người thân, tôi cũng không có quyền kiểm soát tâm họ. Vậy tôi có thể làm gì? Là một học trò tâm linh đang bắt đầu nhận ra những gì tôi đang nhận ra về con đường tâm linh, tôi có thể làm gì?”

15.7. Con từ bỏ việc thay đổi người khác

À, bước đầu tiên con có thể làm là con có thể bước lui lại và lấy một quyết định. Con có thể nói: “Tôi quyết định từ chức khỏi công việc thay đổi tâm người khác.” Thậm chí con có thể tự hỏi: “Liệu tôi có ký hợp đồng lao động nào với một khuôn mặt thẩm quyền ghi rằng công việc của tôi là phải thay đổi suy nghĩ của người khác không? Tôi có hợp đồng này không?” Con thử tìm trong ngăn kéo và tủ hồ sơ của con xem có một hợp đồng như vậy không? Nếu con không có, con có thể tự hỏi: “Vậy thì tại sao tôi đã đảm nhận công việc thay đổi tâm người khác?” Sau đó con có thể dùng lời dạy này để ngộ ra là con đã nhận công việc này vì tự ngã của con nghĩ rằng nó phải thay đổi tâm người khác ngõ hầu thay đổi trạng thái tâm con. Nó nghĩ là để con cảm thấy an toàn, con cần thay đổi tâm người khác.

Sau đó con có thể bước lui lại thêm nữa, ít ra một khi con đã bắt đầu nhìn nhận con không phải là tự ngã, con không phải là tâm vỏ ngoài, thì con có thể lui thêm và nói: “Nhưng có phải là chính tôi đã nhận việc này hay là tự ngã?” Xong con có thể bắt đầu nhận ra là chính tự ngã của con đã đứng ra đảm nhận công việc. Không phải là con. Và điều này có nghĩa là giờ đây con có thể rút lui khỏi công việc và nói: “Thôi đủ rồi. Bây giờ tôi quyết định một cách cốt ý là tôi sẽ ngừng tập trung vào việc thay đổi tâm người khác, và tôi sẽ dành tất cả chú ý vào việc thay đổi tâm tôi. Đây là công việc duy nhất của tôi trên hành tinh này. Mục đích duy nhất của tôi ở trên hành tinh này là nâng cao nhận biết của tôi chứ không phải là thay đổi tâm người khác. Không chỉ là chuyện thay đổi tâm tôi mà là nâng tâm tôi lên những tầng nhận biết cao hơn.”

Con đang chú tâm vào điều gì? Con đang chú tâm vào nhu cầu thay đổi tâm thức của con, tâm lý của con. Con làm thế nào? Như thày đã mô tả rồi đó, con xem xét các khuôn nếp, con phơi bày các ngã, con để cho chúng chết đi. Khi con tập trung làm điều này, con sẽ bắt đầu tiến bộ, tiến bộ nhanh chóng. Sau đó con có thể đi vào những tầng tỉnh giác cao hơn nơi con bắt đầu nhìn vượt khỏi nhiều trò chơi mà người ta bị mắc kẹt.

Con thử nhìn mọi người xem. Lấy ví dụ các thành viên trong gia đình, có người có thể bị nhốt hàng chục năm trời trong một trận chiến tìm cách thay đổi một người khác, hay ngược lại. Cả hai đang chơi một trò chơi xem ai có thể thay đổi ai, ai có thể khống chế ai, vân vân. Con có thể thoát ra khỏi toàn bộ trò chơi này. Con có thể giải phóng sự chú ý và năng lượng của con  – năng lượng ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc – để chúng không còn bị buộc chặt vào trò chơi tìm cách thay đổi người khác. Làm vậy sẽ giúp con tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều.

15.8. Sự phán xét liên tục trong tâm

Khi con đạt đến một tầng cao hơn và đã tự giải thoát khỏi trò chơi đó, con có thể đi bước kế tiếp và nói: “Tôi đang bắt đầu nắm bắt được tự ngã làm việc như thế nào, các ngã tách biệt hoạt động như thế nào. Tôi có trải nghiệm là tôi đã nhìn thấy một số ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Tôi đang bắt đầu nắm bắt được quá trình này.” Điều gì đang thực sự xảy ra ở đây? Điều xảy ra là, như thày có nói, tự ngã và các ngã tách biệt tạo ra một thế giới quan đặc thù. Thế giới quan này dựa trên tách biệt, trên các đối cực nhị nguyên và sự phán xét giá trị.  

Điều liên tục diễn ra trong tâm con là con có một tập hợp những ngã tách biệt đang đánh giá mọi chuyện xảy ra trong đời con. Không chỉ là những sự cố bên ngoài. Tất nhiên ngã tách biệt không ngừng theo dõi sự cố bên ngoài. Chúng không ngừng đánh giá: “Chuyện này có đe dọa thế giới quan của tôi không?” Xong chúng phán xét: “À, nếu nó đe dọa thì thật quá tệ, tôi phải ngăn chặn hay tránh xa nó. Còn nếu nó không đe dọa thì quá tốt, tôi có thể chấp nhận nó.”

Trong tâm con liên tục có một tiến trình đánh giá và phán xét những sự kiện bên ngoài. Bất cứ gì xảy ra, dù đó là biến cố trên thế giới, là một sự kiện vật lý cá nhân, là một lời nói của ai đó, là một chuyện gì con đọc được, một chuyện gì con xem trên tivi, bất kỳ xung động nào đến với con từ ngoài bản thân con sẽ được đánh giá không ngừng bởi các ngã tách biệt đó. Phần lớn hoạt động này diễn ra bên dưới mức nhận biết ý thức của con, nhưng khi con vươn lên cao hơn trên đường tu và con trở nên ý thức hơn, con không thể nào tránh nhìn thấy một phần tiến trình này đang diễn ra. Con không thể tránh nhận ra là nó tiêu hao năng lực và chiếm hữu sự chú ý của con.

Ngoài những sự việc đến từ bên ngoài, cũng có sự đánh giá liên tục những gì xảy ra bên trong tâm con. Ở mức cảm xúc, con có những cái ngã đánh giá: “Tôi phải cảm thấy thế nào trong tình cảnh này? Liệu cảm xúc này có ổn không dựa trên thế giới quan tâm linh của tôi? Một người tâm linh mà cảm thấy thế này có chấp nhận được không?” Xong con có những ý tưởng: “Không biết mình nghĩ thế này có được không?” Về cơ bản, sự đánh giá là như sau: “Ý nghĩ này có là một đe dọa cho thế giới quan của tôi hay nó xác nhận thế giới quan của tôi?” Rồi ở mức bản sắc, con liên tục có những ý nghĩ: “Tôi là ai? Làm thế nào để tôi khớp vào với thế giới? Tôi có quyền ở đây không? Tôi có nên thay đổi không? Tôi nên làm theo nhóm này hay nhóm kia?” Tất cả những sự đánh giá như thế liên tục xảy ra, nhưng mục đích chung vẫn là: “Đây có phải là một mối đe dọa cho thế giới quan của tôi không? Điều này có xác chứng thế giới quan của tôi không? Nó có tốt không? Nó có xấu không?”

Một lần nữa, đối với nhiều người thì đó là cách họ trải nghiệm cuộc sống. Họ trải nghiệm cuộc sống qua tâm họ, qua thế giới quan của họ, qua các ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu đó là trải nghiệm họ muốn thì tự thân nó không có gì sai trái. Là một học trò tâm linh, con cần đạt tới điểm trở nên tỉnh giác về điều này và con bắt đầu lượng định: “Tôi có muốn những chuyện này lấp đầy tâm tôi không? Bây giờ tôi nhìn ra là những chuyện này đã lấp đầy tâm tôi suốt đời rồi, nhưng tôi có muốn chúng tiếp tục lấp đầy tâm tôi cho phần đời còn lại hay tôi muốn vươn lên cao hơn?” Đó là khi con có thể bắt đầu sử dụng lời dạy để phơi bày các ngã tách biệt cứ không ngừng xét đoán và đánh giá.

Con cũng có thể bắt đầu ý thức được thế giới quan của con. Con thực sự nhìn thế giới và chỗ đứng của con trong thế giới như thế nào? Điều gì trong thế giới quan này cho con cảm nhận là mình có thể chịu được, đương đầu được với cuộc sống, mình có thể tồn tại và tiếp tục tồn tại trong thế giới hỗn loạn này? Xong con có thể nhận ra là cơ sở của tất cả những thứ đó chính là sự phán xét giá trị. Con nhìn vào một hiện tượng trong thế gian – có thể là chuyện vật lý, là tình cảm, tư tưởng hay ý niệm bản sắc của con – và con cứ luôn đánh giá: “Cái này có tốt không, xấu không, đúng không, sai không?” Rồi đến một điểm trên con đường dẫn tới quả vị Phật, con cần bắt đầu lượng định: “Đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống hay không? Tôi có thể nào giải phóng tâm tôi khỏi sự đánh giá và phán xét không ngừng về mọi chuyện?”

15.9. Đau khổ là ở trong tâm

Thậm chí con có thể khởi sự đặt câu hỏi: “Đâu là nguyên nhân của đau khổ? Đó có phải là thế giới bên ngoài? Đau khổ có phải là hậu quả bắt buộc của việc tôi sống trong thế giới khủng khiếp này?” Xong con bắt đầu tự hỏi: “À, ngay lúc này đau khổ đang diễn ra ở đâu?” Con có thể ngộ ra đau khổ là một điều kiện diễn ra trong tâm con.

Phải, rất có thể là có một điều kiện bên ngoài. Có thể con đi xe đạp, bị ngã gãy chân khiến con đau đớn. Có một yếu tố vật lý trong sự kiện này, nhưng đau khổ thật sự xảy ra trong tâm con. Con có thể đã bước vào một tiến trình đánh giá: “Ồ, chuyện này lẽ ra không được xảy ra. Thật là vô lý bất công. Sao tôi quá ngu ngốc không chịu thận trọng. Tại cái anh kia ép tôi ra khỏi đường.” Tất cả những sự đánh giá như vậy bây giờ chiếm đóng tâm con. Đó chính là tiến trình diễn ra trong tâm con tạo ra đau khổ. Các sự kiện bên ngoài chỉ là sự kiện bên ngoài. Hiển nhiên bị gãy chân không có gì vui thú, nhưng đó vẫn là một sự kiện bên ngoài, trong khi việc đánh giá là tốt hay xấu, là vô lý hay bất cứ gì khác, diễn ra trong tâm con.

Cho dù điều kiện vật lý có là gì thì đau khổ vẫn diễn ra trong tâm con. Đau khổ khởi lên từ sự đánh giá không ngừng về đúng-sai, tốt-xấu, cái này đúng lý phải xảy ra nhưng không xảy ra, cái kia không được xảy ra nhưng lại xảy ra, tất cả những loại đánh giá như vậy. Đây là khi con có thể khởi sự phơi trần các ngã tách biệt, và khi con lần hồi nhìn thấy chúng hay để chúng chết đi thì đó là lúc con trải nghiệm một sự nối kết chặt chẽ hơn với tâm Phật. Bởi vì trong tâm Phật không hề có sự đánh giá và phán xét giá trị như vậy.

Đây là điều thày đã cố giải thích 2500 năm về trước qua khái niệm những cặp đôi, qua khái niệm khắc phục đau khổ, khắc phục dính mắc. Chính sự dính mắc của con với mọi chuyện khiến con đau khổ. Đó là sự dính mắc của con với quan điểm cho là có những điều nên xảy ra và những điều không nên xảy ra. Khi những điều con nghĩ không nên xảy ra lại xảy ra, con đau khổ. Khi những điều con muốn xảy ra lại không xảy ra, con đau khổ.

Con thường xuyên ở trong một trạng thái xao động, không hài lòng, không an bình vì con luôn luôn nhìn về tương lai, lo sợ chuyện xấu có thể xảy ra hay chuyện tốt có thể không xảy ra. Con bị căng thẳng liên tục. Nhưng con có thể đạt tới điểm có được những lần hé thoáng khi cái Ta Biết bước ra khỏi tâm vỏ ngoài và con trải nghiệm một sự nối kết với cái ta cao của con, và nhờ vậy con trải nghiệm an bình. Giờ đây con trải nghiệm điều này trực tiếp – không phải một khái niệm lý thuyết. Con đang trải nghiệm là có cái gì khác hơn trạng thái tâm bình thường của con, và cái khác hơn này là một trạng thái tâm an bình hơn. Và đó là khi con bắt đầu hỏi: “Tôi muốn gì? Tôi có muốn ở lại trong xao động này hay tôi muốn bước về phía an bình?” Để có thể bước về phía an bình, đúng vậy, con phải loại bỏ các ngã tách biệt kia đi, nhưng con cũng phải xem xét tổng quan của mình về thế giới và nói: “Có thật là mọi chuyện đều tách biệt hay không? Tôi có thật đang sống trong một thế giới được tạo thành từ những vật tách biệt, những sự việc tách biệt? Tôi có phải là một sinh thể tách biệt? Tôi có tách biệt khỏi tám tỷ người kia trên hành tinh? Tôi có phải là một hòn đảo ở trung tâm vũ trụ riêng của mình, hay là có gì khác?” Tất nhiên là có, và đó là tâm Phật, đó là giác ngộ.

15.10. Khái niệm giác ngộ

Giác ngộ có giai đoạn. Tất nhiên có một số người cho rằng đó là một trạng thái toàn hảo tuyệt đối, nhưng không phải vậy. Giác ngộ là khi con bắt đầu nhìn vượt khỏi ảo tưởng rằng thế giới có thể chia ra thành những vật tách biệt.

Con đang sống trong thời đại máy tính. Nhiều người trong các con có thể nhớ thời máy tính còn sơ khai và màn hình máy tính có những pixel trên đó mà con có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Con có thể thấy từng chấm vuông tạo nên hình ảnh trên màn hình. Nếu con nhìn lại một hình chụp của màn hình máy tính thời đó, và nếu con nhìn thật gần bằng kính lúp, con sẽ chỉ thấy toàn là những chấm vuông đơn lẻ với màu sắc khác nhau – chúng có hình dạng giống hệt nhau mà chỉ khác màu sắc. Về cơ bản chỉ có ba màu và con có thể thấy từng pixel riêng biệt. Điều này có nghĩa là con nhìn vào màn hình máy tính, và trên màn hình có thể có một tấm ảnh như một con hổ chẳng hạn, nhưng khi con nhìn đủ gần thì con chỉ thấy được những chấm vuông khác màu, và chỉ khi con lui về đủ xa thì đột nhiên nhãn quan của con xoay chuyển, con nay thấy được tấm ảnh và con nói: “Ồ, những chấm vuông này tạo thành một tấm ảnh, tấm ảnh này là một con hổ, và hổ là một con thú nguy hiểm có thể ăn thịt tôi.”

Đây là điều con bắt đàu nắm bắt khi con đạt đến các tầng cao hơn của tỉnh giác, cụ thể là chỉ ở một cấp độ nào đó, từ một nhãn quan nào đó, thì thế giới mới hiện ra như được tạo thành bởi những vật tách biệt. Chỉ ở một cấp độ nào đó thì việc sử dụng phán xét giá trị tốt-xấu, đúng-sai, mới xảy ra. Khi con tiến lại gần hơn, con thấy tất cả mọi hình tướng, tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được tạo thành bởi những cái chấm nhỏ đơn lẻ kia. Con có thể đi thêm một bước và nhận ra ngay cả những cái chấm đó cũng không thể xuất hiện nếu không có một màn hình, và do đó tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được làm bằng các đơn vị nhỏ hơn, xuống tận đến các hạt hạ nguyên và sóng năng lượng.

Tất cả chỉ có thể hiện ra vì có gì đó ở đằng sau khiến chúng hiện ra. Cái ở đằng sau những chấm trên màn hình máy tính là chính màn hình, cái ở đằng sau những chấm trên tờ giấy là chính tờ giấy, nhưng cái ở đằng sau những chấm tạo thành thế giới hình tướng là cái vô hình tướng, tức là Phật tánh. Phật tánh là cái vô hình tướng cho phép hình tướng khởi lên. Cái vô hình tướng có thể khoác vào hình tướng tạm thời, nhưng cái vô hình tướng thì không vì vậy mà thay đổi. Một lần nữa, thày đã dùng hình ảnh của một rạp chiếu phim nơi con phóng chiếu lên màn hình với các thể bản sắc, lý trí, và cảm xúc của con. Màn hình có thể trưng bày nhiều bộ phim khác nhau nhưng khi làm vậy, nó không hề thay đổi. Màn hình vẫn ở đó, nó vẫn trắng tinh, không phân biệt, không hình dạng. Cho dù Phật tánh có khoác vào hình tướng nào thì việc này không thay đổi Phật tánh. Hình tướng chỉ tạm thời. Còn Phật tánh thì thường hằng, vượt thời gian, luôn luôn có. Không bao giờ một hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng.

Một hình tướng có thể thay đổi một hình tướng khác, nhưng không hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng, và đây là điều – cụ thể rằng đằng sau mọi hình tướng là Phật tánh – con có khả năng hiểu được không chỉ một cách trí thức, mà cuối cùng trải nghiệm được bằng trực giác. Khi con bắt đầu trải nghiệm điều này qua trực giác, con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác. Con thấy là toàn bộ sự đánh giá đúng-sai tốt-xấu kia chỉ có thể diễn ra trong tâm nhưng là tâm tách rời khỏi Phật tánh. Và hậu quả của sự đánh giá, sự căng thẳng không ngừng, sự phán xét không ngừng này, là điều giữ chặt cái Ta Biết tập trung vào tâm tách biệt, tập trung ở trong tâm tách biệt, và nhìn thế giới xuyên qua tâm tách biệt. Vì cái Ta Biết là một biểu hiện của Phật tánh vô hình tướng, cho nên nó có khả năng bước ra ngoài tâm có hình tướng để trải nghiệm bản tánh của nó. Đây là sự tỉnh giác cao hơn. Đây là ý nghĩa thật của chánh niệm tỉnh giác.

15.11. Những định nghĩa khác nhau về tỉnh giác

Bây giờ nếu con nhìn vào đạo Phật qua các thời đại, con sẽ thấy nhiều người, nhiều Phật tử, ngay cả các bậc gọi là học giả cao thâm, đã định nghĩa tỉnh giác theo nhiều cách khác nhau. Một số đã cố gắng định nghĩa là có những thứ con không được nghĩ tới và có những thứ con nên nghĩ tới, con nên chú tâm vào. Xong họ đã tạo ra một số hình thức thiền tập nhằm ngăn chặn một số ý tưởng và chú tâm vào một số ý tưởng khác.

Đây không phải là ý nghĩa nguyên thủy của tỉnh giác. Kỳ thực điều xảy ra là những vị đó đã dùng lời dạy của Phật để củng cố, hay thậm chí để tạo ra một ngã tách biệt mới. Họ lấy lời dạy của Phật, mà mục đích là để giải phóng họ khỏi tâm vỏ ngoài, tâm nhị nguyên, tâm tách biệt, và họ dùng lời dạy của Phật để tạo ra một ngã tách biệt giờ đây cảm thấy cao trội hơn những ai không chia sẻ thế giới quan của họ. Họ tạo ra một thế giới quan đặc thù mà họ tuyên bố là dựa trên giáo lý của Phật, nhưng kỳ thực được tạo ra từ tách biệt, qua đó họ nhìn giáo lý của Phật xuyên qua phin lọc tách biệt. Xong họ bóp méo lời dạy, biến nó thành một học thuyết hay một giáo điều, cùng với một thế giới quan rất cố định, khép kín và tuyệt đối.

Đâu là toàn bộ khái niệm Bát chánh đạo? Đó là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con vẫn chưa đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó. Như thày đã có nói, con sẽ còn một số ảo tưởng chừng nào con còn đầu thai trong cõi vật lý. Không thể nào khác được. Bước trên đường Bát chánh đạo là một tiến trình trọn đời, nhưng các vị ấy đã lấy lời dạy của Phật, hay đúng hơn phiên bản bóp méo của nó, và họ nói: “Đây, chúng tôi có thế giới quan tuyệt đối rồi. Chúng tôi là người đạo Phật. Chúng tôi biết rõ chuyện này. Chúng tôi đang tu theo các pháp tu này. Chúng tôi có khả năng ép tâm để nó không nghĩ về một số chuyện và ép tâm để nó chỉ chú tâm vào một số chuyện khác. Vì vậy chúng tôi tu rất cao. Chúng tôi đã giải thoát. Chúng tôi đã đạt đến một trạng thái tâm thức cao. Chúng tôi là người đặc biệt và chắc chắn đức Phật sẽ ban thưởng cho chúng tôi trong một tương lai sẽ đến.” Chánh niệm tỉnh giác không có nghĩa như vậy. Đây là đánh mất chánh niệm [mindlessness, trong nghĩa đen là đặc tính không có tâm] mặc dù tâm đầy ắp cái thế giới quan mà chính nó đã tạo ra. Tất cả chuyện này chỉ là ảo tưởng, một mạng lưới ảo tưởng khổng lồ, và đây là cốt lõi của tình trạng nan giải mà con phải đối mặt.

Nếu con xem câu chuyện đời thày, con sẽ thấy là sau khi nhập Niết bàn, thày đã suy ngẫm việc trở lại trái đất và giảng dạy. Thày đã đối mặt với ý nghĩ: “Nhưng bạn đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, cao hơn hẳn, khác biệt hẳn với tâm thức của mọi người trên trái đất, cho nên sẽ chẳng có ai nắm bắt được lời giảng của bạn. Không ai sẽ hiểu được đâu.” Đó là một cám dỗ mà thày phải đối mặt, vượt qua. Và thày lượng định: “Quay trở lại có đáng công không? Sẽ có ai nắm bắt được không?” Điều đã khiến thày quay trở lại là thày nhận ra là thày đã nắm bắt được. Thày đã hiểu được. Thày đã nâng cao nhận biết của mình đến một mức nào đó, và như thày đã nói, khi con đạt được mức giác ngộ đó và quả vị Phật, thế giới quan của con dựa trên hợp nhất. Con không thấy mình là tách biệt với người khác, cho nên con không xem mình là đặc biệt. Con xem mình là một biểu hiện cá nhân của Phật tánh và mọi người khác cũng vậy, và một biểu hiện của Phật tánh thì không thể – tự thân nó và trong bản chất – cao trội hơn một biểu hiện khác của Phật tánh.

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra là vì mình đã có thể nâng cao tâm thức của mình thì mọi người cũng có khả năng làm y như vậy. Việc thày đã làm được có nghĩa là có những người khác cũng sẵn sàng và sẵn lòng, và vì vậy thày có thể cho họ một tấm gương. Thày có thể trao cho họ một số lời dạy, và đó là tại sao thày đã quyết định quay trở lại: “Một số người sẽ hiểu được.” Thày biết là đa số sẽ không hiểu được, và con có thể nhìn lại đạo Phật suốt 2500 năm qua, đã có nhiều môn phái khác nhau xuất hiện và đã có nhiều lý lẽ khác nhau về sự kiện họ có hiểu lời Phật dạy hay không. Con có thể thấy là đa số đã không hiểu nhưng vẫn có một số đã hiểu được, và trong thời đại hôm nay có nhiều người hơn có thể hiểu được, ngay cả khi họ không là Phật tử. Ngay cả khi họ đã lớn lên trong thế giới phương Tây không theo đạo Phật, họ vẫn có thể hiểu được vì các ý tưởng này mang tính phổ quát.

15.12. Thế nào là một lời dạy tâm linh chân chính?

Con thấy đây là một cái ngộ khác mà con đạt được trên đường tu. Con nhận ra là tất cả mọi tôn giáo và triết lý tâm linh khác nhau được tìm thấy trên trái đất đều khẳng định là mình nắm một chân lý cao trội nào đó. Hay nói đúng hơn, các tín đồ và giới tu sĩ của các tôn giáo này tuyên bố là họ nắm được một chân lý cao trội, nhưng nếu một giáo lý tâm linh có giá trị, có xác thực và phát xuất từ một nguồn cao hơn, thì giáo lý này sẽ chỉ ra là vượt khỏi tất cả những mối chia rẽ con chứng kiến trên trái đất, có một cái gì đó, có một mức nhận biết vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi sự phán xét giá trị và cảm nhận tách biệt.

Vượt lên trên tách biệt và chia rẽ là cái Một mà bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng chỉ về. Cho nên thật là vô nghĩa mà bảo: “Đây mới là giáo lý cao trội.” Bởi vì con người là những cá nhân, con không thể nào tạo ra một giáo lý tâm linh sẽ thích hợp cho mọi người trên địa cầu. Và điều này thật không quan trọng, con không cần tạo ra một giáo lý như vậy. Điều quan trọng là: “Liệu lời dạy cụ thể này có thể giúp ai đó thăng vượt tâm thức của họ để rốt cuộc thăng vượt tách biệt và nhị nguyên hay không?” Nếu vậy thì lời dạy hiệu nghiệm. Nếu không thì nó không hiệu nghiệm. Bất kỳ lời dạy nào được đưa ra với mục đích này cũng có thể bị tha hóa, sàng lọc bởi tâm tách biệt, cho nên người ta tạo ra phiên bản riêng của họ về lời dạy, và phiên bản này thì không nhằm giải thoát họ khỏi tâm vỏ ngoài, mà nhằm chứng thực thế giới quan của tâm vỏ ngoài, hay cung cấp cho tâm vỏ ngoài một thế giới quan sẽ khiến nó cảm thấy an toàn và cao trội.

Nếu con lấy một lời dạy tâm linh và dùng nó để cho con cảm giác cao trội do con nghĩ rằng con đã có lời dạy cao nhất có thể, rằng con đã có chân lý tuyệt đối, thì con chỉ chứng tỏ là con đã hoàn toàn hiểu lầm mục đích của lời dạy tâm linh đích thực. Mục đích của một lời dạy tâm linh là giải thoát con khỏi chính tâm con, tâm tách biệt. Nếu nó làm được việc này thì nó hiệu nghiệm. Nếu nó không làm được việc này thì nó không hiệu nghiệm. Nếu con dùng nó để tự giải thoát khỏi chính tâm mình thì con đang dùng nó theo cách cao nhất. Nếu con dùng nó để giam con chặt hơn vào chính tâm con – vì con tin chắc là mình có thế giới quan tuyệt đối, thế giới quan cao nhất có thể – thì con đã lạm dụng lời dạy.

Phật không bao giờ có ý định lập ra tôn giáo cao nhất trên trái đất. Các lời dạy của Phật có dụng ý để là một tiến trình giúp mọi người nâng cao tâm thức và thoát ra khỏi nhà tù của tâm mình. Nếu con biến lời dạy của Phật thành bất cứ gì khác thì con chứng tỏ là con không tỉnh giác [mindful] về lời dạy của Phật, vì tâm con đầy ắp [mind full] những tin tưởng khởi lên từ tâm tách biệt đang thấy nó tách biệt với Phật. Nó khởi lên từ ảo tưởng, và thay vì giải phóng con khỏi tấm màn của Maya, nó chỉ có thể giam con chặt hơn đằng sau tấm màn vì con nghĩ là thế giới quan của con không dựa trên ảo tưởng mà dựa trên một chân lý tối thượng nào đó.

Nói một cách thật đơn giản, tỉnh giác cao hơn là gì? Đó là sự nhận biết rằng mục đích của đường tu là để con giải thoát khỏi chính tâm con, giải thoát khỏi nội dung của tâm con. Có nghĩa chăng là con phải đạt tới điểm không còn nội dung nào nữa trong tâm? Đây không phải là điều thày đã nói. Nếu con chú ý những gì thày nói, thì thày đã nói là con tự giải phóng, con giải phóng tâm con khỏi các nội dung dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Và khi con làm vậy, con tạo ra những nội dung khác dựa trên nối kết và hợp nhất. Khi thày trở lại giảng dạy, thày đã trở lại với tâm đã giải thoát khỏi nhị nguyên và tách biệt, nhưng nó vẫn có một tính cá biệt nào đó, nó vẫn có một thế giới quan nào đó, và nó thích nghi với nền văn hóa nơi thày hiện thân. Và tất nhiên là thày có những nội dung trong tâm.  

Thày không đồng hóa với các nội dung này. Thày biết là nội dung trong tâm chỉ đơn giản là dụng cụ để tương tác với thế giới vật chất, tương tác với người khác. Các nội dung này không quy định được thày. Chúng có thể được thay đổi. Chúng có thể khác đi. Chúng không phải là nội dung tuyệt đối nào đó của tâm. Con thấy đó, thày không đang yêu cầu con, ít ra ở một tầng nào đó trên đường tu, đạt tới điểm con không còn cá thể nào nữa, không còn cá tính nào nữa. Mà thày đang yêu cầu con sẵn lòng đạt tới điểm không còn một cá thể dựa trên ảo tưởng tách biệt, không còn một cá tính dựa trên tách biệt và nhị nguyên khiến con xem mình đối lập với người khác. Con có khả năng xây dựng hay con có khả năng phát hiện – bởi vì có thể con đã xây dựng trong tiền kiếp rồi – cái cá tính và cá thể dựa trên cảm nhận nối kết, nối kết với cái ta cao của con, nối kết với một cõi cao hơn, nối kết với người khác, nối kết với thế giới vật lý. Khi đó, con sẽ có một cách hoàn toàn khác để tương tác với người khác, với thế giới vật lý, với cái ta cao của mình cũng như với cõi cao hơn.

Bấy giờ con sẽ có khả năng hành động dựa trên nối kết, và hệ quả tự nhiên sẽ là gì? Là thay vì con tìm cách nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, con tìm cách nâng cả tổng thể vì con thấy mình là một phần của tổng thể đó, và vì vậy cách thức để con tự nâng mình lên chính là con nâng cao mọi sự sống. Và điểm này dẫn chúng ta đến chủ đề chót là chủ đề tập trung – con chú tâm vào điều gì – nhưng tất nhiên, đây sẽ là đề tài của bài giảng tới.

Thày vừa cho con một minh chứng về chánh niệm. Thày mong con đã có một trải nghiệm nào đó của một dạng tỉnh giác cao hơn. Tâm thày đầy ắp Phật tánh. Tâm con đầy ắp những gì?

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuần thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho càng ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật tánh.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều cơ hội để cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang xảy ra, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có cơ hội, có khoảng trống cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ những loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một số ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được sa thải. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện buôn bán này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ đang xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu tàn lụi, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi, và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phá hoại chức năng của tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh và nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này để giúp nó tiến tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lại lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh, bảo rằng: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh”? Tất nhiên là không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Nói chung, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và nhìn ra là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc làm tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những lời phát biểu đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ mà bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng-sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp đôi – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả cho người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất “lý duyên khởi” vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả đối với tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả gây ra. Thậm chí cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị tác động thế nào, họ đang tạo ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao cho dù họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn, và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích nghi nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh mang tính xây dựng. Không có vấn đề kinh doanh biến mất khi địa cầu nâng lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn thì kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ hơn hẳn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Chỗ nào là chỗ tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Nói chung, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có nhiều khoảng trống cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con có gì trong đó?

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm ra một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất hay không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nguyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Một trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những vì sao cùng dải thiên hà và con có thể thầm nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một khối năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền của họ không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn, vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó là một ngã tách biệt và tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng đó là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian, cho nên nó chỉ biết nghĩ ra một cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái mà nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị nhuộm màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng hư giả hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc gia tăng nhận biết này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng – hay vốn liếng – khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trong cốt yếu, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy sung sướng hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố nâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ con còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục chính ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt ra khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát chánh đạo, đây là giai đoạn tập trung, mà có lẽ tốt hơn nên dịch là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát chánh đạo – con đường tâm linh, con đường dẫn đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con tới điểm tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Ở đây không có sự đánh giá là con đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý. Suốt các thời đại, nhiều người đã đánh giá như vậy và nói: “Đây là một giáo lý sao có vẻ quá tuyệt hảo, nó tự cho là cao siêu, đặc biệt, và vì tôi đã tìm ra cho nên phải có nghĩa tôi cũng là một đệ tử tuyệt xảo.” Điều này không nhất thiết là đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời đại mà thông tin lan truyền dễ dàng hơn bao giờ hết.

Có trang mạng, có sách, cho nên người ta có thể tình cờ bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nào đó trong giai đoạn đi từ những mức nhận biết thấp hơn lên những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách. Thật không xây dựng mà áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực mà tất cả mọi người phải theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mỗi người cần khởi sự ở mức tâm thức mà họ đang có, và họ không thể làm gì khác được. Khi tìm ra một giáo lý, nhiều người cần đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan hiện hữu của mình hay để xây dựng một thế giới quan mới dựa trên giáo lý. Thế giới quan này có căn bản là quan điểm tách biệt và mong muốn nâng mình lên cho có vẻ cao trội, hay khiến mình cảm thấy an toàn do mình đang đi theo giáo lý. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi theo giáo lý tâm linh này cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ.” Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với hoàn cảnh sống hiện tại của họ. Đây chỉ là một số nhu cầu có mặt ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con người có những nhu cầu như vậy. Họ không thể làm gì khác hơn là tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua các nhu cầu đó, và họ phải nếm trải nghiệm đó trong một thời gian cho đến khi tâm họ mở ra một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Chúng ta có thể nói là một số người khi tìm ra con đường tâm linh sẽ đi qua một giai đoạn sử dụng giáo lý tâm linh để xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số rốt cuộc có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt quá giai đoạn này, trong khi một số khác sẽ vẫn ở trong đó cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Mà là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã mô tả trong loạt bài giảng này, đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài trước hết, với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Khi con bắt đầu nắm được điều này thì đó là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chủ yếu là kéo mình ra khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi sự đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức tập thể của nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức tập thể trong nền văn hoá, chủng tộc và nhóm người nơi con đã lớn lên. Điều con có thể thấy trong tất cả những nền văn hóa này là có một quan niệm nào đó về sự bình thường. Đây là một điều bình thường trong văn hóa của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng muốn con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi nền văn hóa đều mang một quan điểm nào đó là mình cao trội hơn các nền văn hóa khác. Có lẽ họ đang xung đột với văn hóa khác và họ không thể thấy mình là gì khác hơn. Tất nhiên, để có thể tiến bộ trên con đường tâm linh, con cần kéo con lên trên tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn mà chú tâm chính yếu – sự tập trung chính yếu – là giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hóa các năng lượng đang cho tâm thức đại chúng một cái chuôi để nó nắm lấy kéo con đi. Con làm điều này bằng cách trở nên ý thức về các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải tỏa các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể lôi kéo con khi trong bốn thể phàm của con có gì đó để nó lôi kéo. Cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ có thể hấp dẫn vật gì có khối lượng. Vật nào không có khối lượng thì trọng lực không làm sao hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để lôi kéo con trở lại các khuôn nếp mà con vốn thấy trong văn hóa của con hay ngay cả trong nhân loại nói chung. Con không bận tâm chuyện chiều theo tiêu chuẩn, mà con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm then chốt trên con đường tâm linh, và điểm này khiến nhiều người bối rối. Con có thể đạt đến một điểm con đã giải thoát mình, phần lớn hay thậm chí hoàn toàn, khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm được vậy bằng cách nào? Bằng cách nào con đã giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được vậy dựa trên mức nhận biết của con, và rất có thể mức nhận biết của con khi khởi sự đường tu sẽ ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Lẽ tự nhiên trên trái đất có nhiều người bị khống chế bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách riêng của mình.

Để đi trên con đường tâm linh, con cần bước đi như một cá nhân riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hóa nào trên trái đất xem việc tu tập tâm linh là chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại quy chuẩn xã hội và con chỉ có thể làm vậy như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm như thế nào? Đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm vậy bằng cách tạo dựng một ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không thể bị cuốn hút vào những khuôn nếp tập thể trong văn hóa của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp ngã tách biệt có khả năng cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm vậy tới một mức nào đó, thì con đến bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là liệu con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích, nó không thể nào đưa con đến những giai đoạn cao hơn của đường tu. Thật vậy, nó không thể đưa con quá một điểm nào đó. Thày đã có giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con khắc phục mọi ý niệm bản ngã, mọi cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Cho nên cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay xem mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con đứng riêng khỏi người khác và tâm thức đại chúng.

Để có thể đi tiếp lên các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con phải gỡ bỏ nó đi. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hỏa tiễn, một hỏa tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm bên dưới được dùng để đẩy hỏa tiễn đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hỏa tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hỏa tiễn và chính con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà một tổ hợp ngã tách biệt, cho nên con có thể tháo gỡ từng cái một.

Suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt được nhưng phần đông thì chưa, cho nên họ quá dính mắc với ngã này, hay với bản sắc họ đã xây dựng, đến mức họ không chịu buông nó ra. Như thày đã có mô tả về tự ngã, những người này bây giờ tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, và vì thế họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi nó có thể bước vào thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay niết bàn hay bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người bị mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng, đó là vì nó dựa trên tách biệt, ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành đạt tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người ở ngoài giáo lý, mà cao hơn cả những người ở trong giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con cho phép mình bước lùi lại thì con có thể thấy rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một ngã tách biệt, và một ngã tách biệt thì không thể đưa con lên một mức nhận biết cao hơn. Nó không thể đưa con đến quả vị Phật, nó không thể đưa con lên niết bàn hay thiên đàng. Không cách gì mà chuyện này có thể xảy ra.

Vậy con bắt đầu nhận thấy khi đạt đến mức này, con cần xoay chuyển tâm mình. Con cần đi thêm một sự xoay chuyển để nhận ra là từ giờ trở đi con đang xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa trên việc thấy mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà thấy mình nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra thôi.

Điều con cần làm ở đây là bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Liệu có những yếu tố nào mà con có thể nhận diện khởi lên từ tách biệt hay có lẽ ngay cả từ nhị nguyên? Con có thể bắt đầu nhìn ra là những yếu tố này đang giới hạn con, chúng khiến con mất tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng tự do hơn. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng khống chế đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc của tập thể. Vì tâm lý trí của họ bị áp đảo bởi tâm đại chúng, họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập. Họ thường không thể chọn cảm xúc riêng của mình mà họ động cảm theo bất kỳ khuôn nếp nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu có một tình huống khiến những người trong nhóm họ phản ứng giận dữ thì họ cũng sẽ phản ứng giận dữ. Thường họ xem đó là chuyện hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất. Cho nên họ không tự do trong tâm trí, họ không tự do lựa chọn phản ứng trước một hoàn cảnh, họ không tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của họ.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con ra khỏi tâm thức đại chúng thì con ngày càng tự do hơn, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con, vì con nghĩ con phải ở lại trong ngã đó. Con phải ở lại trong lối tiếp cận đường tu mà con đã chấp nhận khi con ở một mức tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do trong tâm. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng đây vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí của con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình lên so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hóa mình với tâm đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác.” Vậy thì con vẫn đang dính liền với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần tự gia tốc để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm vậy bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì con bắt đầu gắn kết với cái ta cao hơn của con – và cái này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu, khi con chú tâm vào tâm thức của mình – giải quyết trạng thái tâm thức mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý mình một thời gian khá lâu và đạt được nhiều tiến bộ khi làm vậy. Nhưng vẫn đến một điểm con cần nhìn nhận là mặc dù con đã nâng tâm thức, đã trong lọc tâm thức, bước kế tiếp thật ra là con phải tạo một ý niệm bản ngã mới dựa trên sự kiện con là một sinh thể kết nối, dựa trên trải nghiệm con là một sinh thể kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra là ngoài nhân cách vỏ ngoài và ý thức riêng biệt dính liền với thế giới, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính, một cá thể. Thật sự con không thể gọi đó là một cá tính hay một nhân cách như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào nhận biết ý thức và biểu lộ nó qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Giờ đây con đang trong giai đoạn quan hệ với cái ta cao của con thay vì quan hệ với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một phần cá thể này từ cái ta cao.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra cái ta cao của con không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà nhiều người gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là sự duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem sự hợp nhất này từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách riêng với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang quan hệ với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc thấy mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với mọi người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên mà ý niệm con đứng riêng khỏi người khác, đứng riêng khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là Chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa cao hơn của sự chú tâm hay tập trung. Con không tập trung vào tâm thức đại chúng, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con chú tâm vào tổng thể, con chú tâm vào kết nối, con chú tâm vào hợp nhất, và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì cân nhắc: “Làm sao tôi có thể nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi có thể nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một khía cạnh đặc thù của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lãnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ của tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể sử dụng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng ngày càng vũ bão và có nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức của mình và nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con, nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận biết của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con xoay chuyển và thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con trên tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt gấp bội. Do đó tác động của con lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, qua đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu nhìn ra nhu cầu phải chuyển đổi một điều gì đó.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người kinh qua ngay trong bản thân họ một sự chuyển đổi tâm thức, thì họ bắt đầu ngộ ra các ý tưởng và lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và trong khi họ nâng cao nhận biết của họ thì họ cũng kéo đại chúng lên theo, cho đến khi mọi chuyện bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước. Càng ngày càng có nhiều người bắt đầu thấy được những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi, bởi vì quyền này được trao từ một tầng nhận biết cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả mọi tiến bộ đã diễn ra, bằng việc nâng cao nhận biết của đại chúng, trong đó một túc số tới hạn đã bất ngờ xoay chuyển và thấy được những gì họ không thể thấy trước đó. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhìn ra: “Ừ nhỉ, rành rành ra đó. Chuyện này thật quá hiển nhiên. Xã hội cần nhắm hướng này mà đi tới.”

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá nhân tách biệt, chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật là sự chú tâm vào tổng thể, tập trung vào toàn thể chứ không chỉ một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đó là lý do con có thể kéo cả tổng thể đi lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, nếu con bị tâm thức đại chúng khống chế thì con không kéo tâm thức này lên được – hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn, và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói là những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức đại chúng, và chúng có khả năng làm vậy nếu con mang một số tin tưởng, một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của chúng. Giê-su đã diễn đạt điều này hơi khác qua câu “Ông hoàng của thế gian đến mà không nắm được gì trong ta.” Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, có một tâm thức nào đấy trong thế gian muốn kéo con về những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao nhận biết, cho nên con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể phóng cái gì đó tới con – có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đó ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì ở đó để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo ta.” Hay nói cách khác, con hãy đi theo vị thày, đi theo nhận biết cao hơn và buông bỏ tất cả những cám dỗ kia đang kéo con vào khuôn nếp phản ứng.

Đâu là một cách để nâng cao toàn thể? Đó là chứng tỏ cho mọi người thấy là có một cách phản ứng khác hơn là cách thịnh hành nhất trong tâm thức đại chúng trong văn hóa của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng giận dữ trong một số tình huống, và nếu con cho họ thấy là con không phản ứng tức giận trong tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta, hay anh kia, hay chị kia, thường phản ứng? Chuyện gì xảy ra vậy? Có gì khác biệt?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể, hay tối thiểu để có tác động lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác nữa. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã có bàn về đề tài này rồi, và thày có nói là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc thù rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ.” Ấy, sự thật là không hề có kết quả riêng rẽ lẫn nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang qua đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là khi con khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể thì trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là một vấn đề cần được thay đổi.” Chẳng hạn vấn đề có thể là: Chúng ta cần khắc phục chiến tranh và đem lại hòa bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân.” Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được một hiểu biết sâu sắc hơn về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai.” Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người, và nguyên nhân này thì đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại đang bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Có thể con sẽ nói: “Vậy làm sao con có thể thay đổi được chuyện này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách riêng ra một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển và thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể nào chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể, thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy mình cần làm gì đó và mình muốn thấy cái đó thay đổi. Xong con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này để con cảm thấy mình đã thành tựu được điều gì. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều đã làm giống như vậy. Họ đã tách riêng một hiện tượng trong thế giới và cố gắng thay đổi. Dĩ nhiên nhiều người đã muốn loại bỏ chiến tranh, nhưng con thấy đó, đến nay vẫn chưa có ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Kìa, giáo lý tâm linh chẳng đem lại kết quả gì. Rõ ràng những chuyện tôi làm đã không có kết quả.” Đó là bởi vì con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Xoay chuyển mà con có thể thực hiện là con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, con chú tâm vào việc nâng cao nhận biết ở mức cá nhân lẫn ở mức tập thể. Con đang kéo nhận biết của cả cá nhân lẫn tập thể đi lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này chỉ là hậu quả của những gì xảy ra ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con có thể thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào đất, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể dời chuyển cả một quả núi. Nhưng đối với những hiện tượng lớn hơn, chẳng hạn như chiến tranh, con sẽ không thể khắc phục bằng những thay đổi vật lý. Chọn lựa duy nhất mà con có là quy tụ một đạo binh hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của bất cứ nước nào, và điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời nào đó, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh đâu.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm vào việc tạo ra thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức của chính con, chứng tỏ cho người khác thấy là con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một lời dạy ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với lời dạy đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Cho nên con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một tâm thái nơi con thăng vượt sự nghi ngờ, sự thất vọng và niềm hy vọng là con sẽ chứng kiến một số thay đổi nhìn thấy.

Con thăng vượt tất cả mọi tiềm năng thất bại, con bước trên một con đường mà con biết là hiệu quả vì con biết chắc việc nâng cao tâm thức luôn luôn đem lại kết quả. Con biết con đang làm công việc nâng cao tổng thể và điều này sẽ có kết quả. Con chỉ tiếp tục như vậy, tiếp tục nâng cao nhận biết của con, tìm cách nâng cao nhận biết của người khác, và chính vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù cho nên con cảm thấy mình đang đóng góp mà không mang rủi ro thất bại hay thất vọng. Tại sao con không nên mong đạt được thay đổi đặc thù? À, trong một số trường hợp thì con nên mong muốn như vậy vì trong Kế hoạch Trọn đời của con có công việc tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lãnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến ở đây là tầm mức bao quát khi con mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt hiện tượng chiến tranh, một điều mà cá nhân con thật sự không thể nào làm được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể, và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết đây là chuyện khả thi. Con có thể đóng góp gì đó, và khi người khác cũng làm tương tự thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng đủ lực kéo để kéo tâm thức đại chúng đi lên, tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã có thể mang lại thể chế dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay – dù họ thuộc một phong trào, một giáo lý tâm linh hay là không – cũng đang làm công việc kéo tâm thức tập thể đi lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát chánh đạo, trên con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào một số mục tiêu, khía cạnh, phương pháp. Những giai đoạn con đi qua càng ngày càng cao qua đó con chuyển sự chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt và ngã nhị nguyên sang sự chú tâm vào kết nối. Con có thể nói là quỷ Mara, ông hoàng của thế gian, liên tục tìm cách cám dỗ con người với rất nhiều cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới tất cả là một cám dỗ cơ bản nhằm kéo con vào một tâm thái nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con tập trung vào ảo tưởng tách biệt này, thì con không thể thấy đằng sau mọi hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ, chẳng hạn: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Cho nên anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đó với đất nước của tôi mà lẽ ra họ không được làm, cho nên họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới này thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới.”

Có quá nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và giáo lý tâm linh là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người ở trong và ở ngoài giáo lý. 

Họ có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể là người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, hay là người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như là kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như là kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con đứng riêng khỏi những ai không theo giáo lý. Khi con làm như vậy thì con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, chính vì đường tu là khắc phục tách biệt, như thày đã đề cập hàng chục lần rồi. Thày sẽ nhắc lại nhiều lần và nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất, và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa nắm được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật suốt nhiều kiếp sống mà vẫn chưa nắm được điều này. Họ đứng riêng ra khỏi những ai không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng lên ý tưởng là bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành pháp tu từ quá lâu rồi và đã sống cuộc đời tu sĩ tận tuỵ với tu tập, cho nên có nghĩa là chắc hẳn họ đã tiến bộ. Chắc hẳn họ đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ biệt lập với những ai chưa áp dụng được giáo lý như họ nghĩ họ đã làm được. Họ vẫn chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người cải đạo thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Kỳ thực, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và tuy con đã dùng một giáo lý đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Có thể họ cần những giáo lý khác, hoặc họ cần một số ý tưởng phổ quát, trong bản chất không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vào đó, họ cần neo trụ vào sự kiện là từ tầng mức vượt khỏi thế giới vật chất, từ tầng nhận biết cao hơn, có một loạt những ý tưởng phổ quát đang được rải xuống, và chính những ý tưởng phổ quát này sẽ tác động tối đa đến việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Chỉ lấy một ví dụ, con hãy nhìn ở các nước phương Tây có nhiều người tập môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hóa rất đặc thù, và mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát nhưng sau đó lại đồng hóa với đạo Hindu. Nếu con đi ngược dòng thời gian thì đã có một thời để tập luyện yoga, con phải là một tín đồ Hindu, hoặc con phải sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian tập trung vào việc thực hành tâm linh, gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà Phật đã thực hành khi thày mới rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Nói cách khác, yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh cực đoan không mấy thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Tuy vậy con thấy nhiều người ở thế giới phương Tây vẫn tập được yoga song hành với một cuộc sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt những tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su cũng đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt những tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính là lý do vì sao thày đã bị xem là mối đe dọa cho giới thẩm quyền đạo Do thái. Thày đã đe dọa môn phái độc quyền cục bộ của họ bằng cách đưa ra những ý tưởng phổ quát. Điều gì có thể phổ quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt các ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Cho nên tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm của con ra khỏi tư duy cho rằng chỉ có một giải pháp độc nhất cho các vấn đề của thế giới, và giải pháp này là cải đạo tất cả mọi người vào pháp tu và triết lý tâm linh của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào những tư tưởng bao quát, những cách diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, từ nhiều tầng lớp khác nhau, mà không cần đòi hỏi họ phải đổi sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm vậy nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều gì xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều gì chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu ác, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là hợp nhất, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền và sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp những tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ có tác động lớn nhất trên việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời đại hôm nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không có ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách riêng khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung hòa 

Khi thày đưa ra những giáo lý này lúc ban đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có thể nghĩ ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hòa hơn – là nhận biết cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp hơn khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trong thế gian? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt trên tất cả mọi biểu hiện đa dạng bất tận. Họ thấy được dù mọi người có vẻ khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Con chỉ thấy được như vậy một khi con kết nối với một cái gì đó cao hơn, một tầng nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hòa, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con đã chẳng nghe lời dạy này trước đây sao? Các chân sư khác đã chẳng giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do thày dùng cơ hội ở đây để trao truyền những bài giảng này là vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và những bài này sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn. Sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hòa điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này thật quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine lẫn Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin là nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận ra là con cần tới một điểm, là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý đạo Phật. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có gì khác hơn là niềm vui trong hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra bực dọc. Với lời này, thày niêm các con, con yêu dấu. 

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là sự tinh tấn, hay nỗ lực. Một lần nữa như theo truyền thống, người ta đã quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Xong người ta đã cố tránh nỗ lực sai và trau dồi, thực hành nỗ lực đúng. Đối với nhiều người, chuyện này trở thành một chiếc áo tù bó tay bó chân, khiến họ cảm thấy gần như không thể làm bất cứ gì vì họ quá sợ những nỗ lực sai lầm sẽ tạo nghiệp. Cuối cùng họ cảm thấy chỉ còn một việc họ có thể làm là hạn chế tối đa các hoạt động thể chất và trong phần lớn thời gian, hoặc họ thiền định, hoặc họ thực hành những pháp tu khác. Thế là chuyện này trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, và tuy họ cảm thấy mình rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên con đường tâm linh. Họ không đang leo lên những tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng ngày càng bất an, càng ngày càng lo sợ tất bật để cố nỗ lực làm sao cho đúng với những gì họ đã quy định.

Hiển nhiên, dựa trên những điều thày đã trao cho con trong những bài trước, giờ đây chúng ta có thể khá dễ dàng thẩm định nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng rất nhiều để giải thích mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo là gì. Đó chính là nâng cao tâm thức, và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, ngay cả nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã bước vào một tâm thái nghĩ rằng nỗ lực đúng có nghĩa là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức của họ, đưa họ đến gần hơn với giác ngộ, hay niết bàn, hay bất kỳ cách nào họ định nghĩa. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là một việc làm máy móc

Thày đã nói là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả, nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí cả trong các tế bào vật lý ở một mức độ nào đó. Một kỹ thuật tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, các tin tưởng của con, các ảo tưởng của con, cho dù thực tập đó là gì, đến từ đâu, do ai định ra hay do ai ban ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con còn bị giam trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con đã tới chỗ chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào đã cấy ảo tưởng vào tâm con? Quả là có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể hiện đang phóng chiếu rất nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa là con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, cái gì xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mất là trong một tiền kiếp, con đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Sau khi con bước vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép vô số ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh, và tất cả mọi thứ khác cũng là biểu hiện của Phật tánh cho dù hình tướng vỏ ngoài có là gì. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng, và do đó con buông bỏ chúng vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2500 năm, đây là tình trạng kể từ đó cho tới nay, và đây sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Sự tăng trưởng tâm linh đến các tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình ý thức nhìn ra các ảo tưởng một cách ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng được lưu trữ trong tâm tình cảm của con chẳng hạn, khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích, nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con. Chính con, cái Ta Biết là cốt lõi của bản thể con, phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách trở nên ý thức về những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách moi ảo tưởng ra khỏi tâm tiềm thức, đem chúng vào nhận biết ý thức nơi con có thể thấy chúng, xem xét chúng, và một khi con nhận ra chúng là ảo tưởng thì con sa thải chúng.

13.2. Các ngã tiềm thức được tạo ra như thế nào

Các thày đã có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là chuyện con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là chuyện con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đó là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Có năng lượng, có một hiểu biết hay tin tưởng nào đó, và có tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Cũng giống như con ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính, cho nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và xuyên qua phin lọc đó, thì con phú cho nó một rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng này được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể của con: bản sắc, lý trí và cảm xúc. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo một lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ nổi giận hơn chẳng hạn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, thật ra con đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung chú ý vào bất cứ gì thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính, và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà chúng ta có thể gọi là “ngã” theo một cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có khả năng tự nhận biết của cái Ta Biết, cho nên ngã này đã không tạo ra chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo ra một cái ngã, nhưng ngã thì không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng trưởng, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con, nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một cái ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống, việc nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, giận dữ là một chuyện không đúng với lời dạy tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được như vậy. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng nóng giận hơn chứ nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó sống và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng đã tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm chuyện này.

Thật vậy, ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ thì lực hút của nó trên cái Ta Biết của con sẽ mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó, và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn những cái ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng lần hồi tạo thêm lực hút đến độ cái Ta Biết của con bị kéo vào tấm màn ảo tưởng. Con bị kéo ra đằng sau tấm màn ảo tưởng và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới mức quên khuấy mất là con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao của con và con có Phật tánh và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là một con người thế trần – hoặc một kẻ có tội, hoặc một kẻ mang nghiệp rất lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, con có thể nói là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt đó và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó – nếu có thể gọi như vậy – thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi, và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao hơn là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt cùng tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người trong truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của một tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng con hãy lắng nghe những gì thày đang nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của một tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng-sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo ra một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con đã tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng chừng nào nó còn ở trong tâm con, chừng nào năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó, thì nó sẽ ảnh hưởng tâm con. Điều này có nghĩa – trong số nhiều ý nghĩa khác – là tự ngã không thể được chuyển hóa. Quả vậy, có nhiều người đã xây đắp một ngã tách biệt dũng mãnh, họ đồng hóa với nó chặt chẽ đến độ họ nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là chuyển hóa ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái khả dĩ đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của đạo Cơ đốc thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem nhân cách vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đàng.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế thì làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra, không thể làm được. Nó chỉ giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người lại nảy ra giấc mơ đó? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con cảm thấy đó là một sự mất mát và con mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức được điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có lòng khát khao một cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong sinh hoạt thế gian như nhiều người đã làm suốt nhiều kiếp sống, nhưng sẽ tới một điểm nỗi khao khát này – mà trên cơ bản là khao khát một cái gì ở ngoài chính tâm con, ở ngoài tâm tách biệt của con – sẽ trồi dậy và con không thể phủ nhận nó được nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên thì tự ngã biết rõ nó không thể đáp ứng được, nhưng nó vẫn cố khiến con tin rằng con có thể thỏa mãn nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ như khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nhu cầu nâng cao nhận biết của con, đạt đến một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc hay giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên rồi! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn để đạt được trạng thái cao siêu này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên trạng thái cao đó. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là một lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta hợp nhất với cái một. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu, và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giải thích 2500 năm về trước khi thày nói là không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên, thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời, và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con cần thực tiễn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một, và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với lòng sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự nóng giận hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ chính mình? Tại sao khi bị tấn công, con trở nên hung hãn hay con chịu thua?

Con làm việc với từng phản ứng cá biệt. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động, và khi điều này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con đang không dùng tâm ý thức để quyết định cách phản ứng nào với hoàn cảnh đó. Giản dị là khi ngã tách biệt được kích hoạt, nó sẽ tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn đằng sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào trong nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng, và con có thể tiếp tục quán xét và dùng trực giác cho tới khi con thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Có thể sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng, và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng vào im lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này vậy?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù, và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã đang hạn chế con như thế nào, nó đang hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong đời tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy, không phải là con cần giải quyết một vấn đề gì, không phải là con cần làm gì với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con chỉ giản dị bước tới buông ngã ra, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con chỉ cần để cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc, và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách để nó ra đi. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu một điều gì đó trên thế gian này – nói chung là để khỏa lấp cảm giác là mình không trọn vẹn. Khi nhận ra điều này, con có thể buông nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ gì trong thế gian để trở nên trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trong thế gian thì con sẽ tự nhiên cảm thấy trọn vẹn hơn.

Tại sao như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Ở ban đầu, con có cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Rồi con đã che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng, nhưng trạng thái mặc định của con vẫn là cảm nhận kết nối. Một khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể khuếch trương cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn luôn ở đó, nó luôn luôn hướng năng lượng về phía con. Chỉ có điều là trong tâm con, con đã bước vào một ảo tưởng cho nên con không ý thức được sự kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng ngã tách biệt đã ngăn con trải nghiệm kết nối cần phải được hoàn thiện rồi khi đó con mới lại cảm thấy kết nối. Không đâu, con chỉ cần buông ngã ra và trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cho cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con tiến bước trên đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối, và đây là điều sẽ đưa con xa hơn trên đường tu. Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao hơn. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo lẫn các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Chẳng hạn nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng, nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ các giáo lý này được cất giấu đâu đó, và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này, vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ bằng cách chỉ giản dị đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc cùng một giáo lý tâm linh. Một người có thể nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ nó, nhưng người kia không nhìn ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Có phải tinh túy là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay con nhìn vào trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn vào các ảo tưởng của mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay liệu con nghĩ có cái gì thần diệu ở ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, thậm chí con không nghĩ là điều đó bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con, mà con nghĩ có vị đạo sư bên ngoài kia sẽ đem cho con sự giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những gì một đạo sư không làm được cho con

Ở phương Đông có một truyền thống lâu đời về quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng – và có nhiều đạo sư cũng sẽ xác nhận – là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, giác ngộ, niết bàn hay bất kỳ con gọi là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức vào những quyết định mà con đã lấy trong quá khứ khi con chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức để cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử thế nào để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con mang. Nhưng vị ấy không thể quyết định hộ con, vì quyết định được tạo ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể trở nên ý thức là mình đã từng lấy quyết định, hậu quả của nó là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay đạo sư bên ngoài nào có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng mình đang tiến tới, nhưng con thật sự làm gì khi con làm vậy? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây con tìm thấy đường tâm linh, một giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo Bát chánh đạo, nhưng liệu nó sẽ làm được hay chăng? Kết quả không thể nào bảo đảm, bởi vì cốt lõi của đường tu chân chính là con khắc phục các ngã tách biệt, con đưa chúng lên tâm ý thức và con thải bỏ chúng một cách ý thức. Nếu con không chịu làm hay không nắm bắt được điều này, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý, nếu con chăm chỉ thực hành các pháp tu, thì con sẽ trở nên một học trò ngày càng cao cấp qua việc chứng tỏ những thứ vỏ ngoài đó và vì thế con đang tiến bộ trên đường tu.

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến bộ tâm linh nhưng lại không nắm được bản chất cốt yếu của con đường tâm linh, và do đó họ chỉ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố cho tự ngã vốn tin là nó tách biệt và luôn cố gắng cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã lại cố gắng cao trội? À, tự ngã có đủ nhận biết để biết là nó không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu là nó không bao giờ có thể vào được thiên đàng nhưng nó biết là nó không trọn vẹn. Nó biết là con cảm thấy không trọn vẹn và nó liên tục tìm cách che phủ hay bù đắp cho sự thiếu trọn vẹn này. Tự ngã liên tục tìm cách cao trội theo một kiểu nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, là nếu nó trở nên đủ tinh xảo lịch duyệt trong thế gian này thì nó bắt buộc phải được phép lên cõi cao.

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Rất nhiều người tin vào một Thượng đế tối cao đã, trên cơ bản, tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài kia đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đàng. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất tử. Và như vậy tự ngã đang thương thảo với Thượng đế: “Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì ngài phải cho con lên thiên đàng.” Vấn đề là tất cả những thứ này là chuyện tưởng tượng. Trước hết, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì đến thực tại của cõi tâm linh. Chẳng hạn con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh của kinh Cựu ước về một Thượng đế giận dữ trên trời, và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này hay không?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống như tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên, và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một chuyện không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt, nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã làm gì? Nó quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, có nghĩa là không thật. Sự thật là cái một, còn sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, là con có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một lời dạy tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra – hay đúng hơn, thường thường họ chụp lấy những gì đã được tập thể tín đồ của tôn giáo này tạo ra – một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân siêng năng thực tập như vậy, tuyệt đối tin chắc là mình đang tiến bộ và một ngày kia một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc những người còn lại. Một giáo lý thần diệu sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người mang niềm tin là việc bước chân trên đường tâm linh là một cuộc mạo hiểm đầy vinh quang dẫn họ đến những mức tinh xảo càng ngày càng cao, những địa vị và ca ngợi của thế gian theo các tiêu chuẩn được quy định trong thế gian. Các tiêu chuẩn này là do tự ngã quy định dựa trên tách biệt. Làm sao chúng có thể dẫn con đến cái một được đây? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Đó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và để chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt và để chúng chết đi. Đó chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn đầu thai thì con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa phát hiện, bởi vì nếu con không có ngã tách biệt nào nữa thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là như thế nào

Có một tin tưởng rất lâu đời trong các đệ tử tâm linh bảo rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư kia đã giác ngộ.” À, ở đây có một sự thật và cũng có một ảo tưởng. Một mặt, rõ ràng là có những người đã đạt đến một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những ai hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập và dần dần tiến lên những tầng tâm thức cao hơn so với khi con mới cất bước, và chắc chắn cũng cao hơn một người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa thì con không có cái hiểu cao nhất.

Có câu truyện về Phật nói rằng khi thày giác ngộ, thày nhập Niết bàn rồi quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy, và do đó thày đã trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người đã phóng chiếu ra là thày, một cách nào đó, là một sinh thể toàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có khi là một con người hiện thân. Nhưng thày vẫn chưa khắc phục tất cả mọi ảo tưởng, vì nếu được vậy thì thày đã không thể ở lại trong một cơ thể vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình – thày có đạt được như vậy. Mà điều này có nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không xem mình là một sinh thể toàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này vẫn tiếp tục nghĩ.

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu ước mơ và ảo tưởng của mình lên đạo sư – vị ấy đặc biệt như thế nào, vị ấy toàn hảo như thế nào. Tại sao họ lại làm vậy? Bởi vì đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử cũng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này, họ xây đắp tự ngã, xây đắp ảo tưởng là bằng cách đi theo vị thày hoàn hảo này, và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày sẽ có quyền năng thần diệu biến đổi họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói gì ở đây? Giản dị thày đang nói là khi con còn đầu thai trong thân thể vật lý thì con vẫn có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm tốn, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của một vị thần hay họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố như vậy nhưng họ cho phép những ai theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục, và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý được nữa. Giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyền thuyết và ý tưởng về những sinh thể toàn hảo sống trên núi Himalaya đã duy trì được thân vật lý của họ suốt hàng thế kỷ. Không phải là không có phần nào sự thật trong đó, nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ từ trạng thái tách biệt. Họ đã đạt được một tầng nhận biết cao độ nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý, và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Việc tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố là mình cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông vẫn chưa khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã có thể làm được?

13.10. Nỗ lực giả hiệu khi nâng mình cao hơn người khác

Một thẩm định thực tế hơn là khi con đã khắc phục tất cả ngã tách biệt đó, con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng vậy. Ấy, làm thế nào một biểu hiện của tâm một có thể tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn những sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” À theo một nghĩa nào đó, đây là sự công nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn Maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Những lời này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào để nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao hơn. Làm sao có thể được? Khi con bước lên cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu nhận ra tổng thể, cho nên mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chứ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Mong muốn nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình lên để là một đạo sư hoàn hảo và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho chính con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt, đồng thời giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – rằng thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể hoàn thiện. Tuy nhiên con có thể tìm thấy những giáo lý dựng thày lên như vậy, nhưng đây là những giáo lý được thêm vào sau này bởi những người nhìn cuộc đời và giáo lý của Phật qua màn huyễn Maya. Họ đã áp chồng các niềm tin tách biệt của họ lên đó, niềm tin của họ vào sự tách biệt. Và vì vậy họ đã thần tượng hóa Phật, bảo Phật thật quá đặc biệt, cách Phật sinh ra đời đặc biệt đến nỗi Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất và độc nhất đã từng xuất hiện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ phải bỏ ra nỗ lực vừa khó khăn vừa khó chịu để nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Tất cả đều là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm được cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ bảo sao thày cứ lặp đi lặp lại. Khi con đọc lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể nhiều hơn ba lần. Tại sao vậy? Bởi vì hầu hết những người nghe không nắm bắt được giáo lý lần đầu tiên họ nghe. Con có thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khi con học một giáo lý thì con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học lại và nắm bắt ở tầng lý trí, và con học lại và nắm bắt ở tầng bản sắc. Nếu như con không nắm bắt được ở tầng cảm xúc thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức của con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng hiểu biết trí năng này để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đó không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói “hiểu biết” mà thày nói “nắm bắt,” thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, thì lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý? À, không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Đây con nhìn Phật. Thày đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra ở niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó, thày chọn trở lại một cơ thể vật lý để giáo huấn. Thày muốn thực hiện điều gì? Ấy, thày biết là cơ thể của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết việc giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể kéo dài một thời gian, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên đường đạo, chính con đường mà thày đã đi qua để tới được những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của đường tu, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục các ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật sự của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Đâu là sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh? Con có Phật tánh trong con. Làm thế nào con sẽ tìm thấy Phật tánh? Làm thế nào con tìm được Phật? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nào nắm bắt được điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài con, ở ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật, thế là tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên núi Himalaya. Phật ở trong quyển kinh kia. Phật ở trong pháp tu này.” Có một vị thiền sư Phật giáo đưa ra ý tưởng là nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và nhận diện người đó là Phật, thì khi làm vậy con sẽ ngăn cản mình nhìn thấy Phật tánh bên trong mình, và điều này sẽ chặn đứng bước tiến của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết con người vỏ ngoài kia – không phải là giết thân vật lý của họ mà giết cái hình tư tưởng trong tâm con – để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm thế nào con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung của tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc, nhưng nó không trở thành những nội dung đó. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ đạt tới một điểm con tự nhiên có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình, và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh đích thực nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Cho nên bây giờ con có thể lượng định các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là cho con trải nghiệm kết nối, trải nghiệm hợp nhất với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất phải trầm trồ: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên mặt đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật đã chạy theo một cái tôi vĩ đại muốn nâng mình lên trên tất cả mọi người đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin như vậy thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết ông Phật này đi vì làm vậy còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì việc thờ phượng Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Thật sự Phật đã muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được. Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được.” Làm thế nào Phật đạt được nhận biết cao? Bằng cách tìm lại Phật tánh trong chính mình. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không đang dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? À, mục đích của con trên con đường tâm linh phải là trải nghiệm hợp nhất, trải nghiệm nối kết. Ngay đây con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con đang phản ứng thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con nắm những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự ngớ ngẩn của lối tiếp cận đó. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt mà có thể bảo đảm sản xuất ra trải nghiệm hợp nhất. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng tốt hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng những nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Nhưng này con, thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng, tuy nhiên không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con im lặng, nhưng làm thế nào con làm cho tâm im lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực thế nào để tôi im lặng? Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được.

13.13. Nỗ lực để ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã thiền quán và thấy rõ tâm họ luôn xen vào. Tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng, nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao hơn để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì kỳ thực con càng dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng kẹt hơn trong tâm mình. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ biến thành một cái bẫy, một cái bẫy khác. Vậy con làm được gì đây? À, con có thể tiến bước trên đường tu, con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Và khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có những lúc con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm hợp nhất không phải là điều gì con có thể chế tạo, mà đó là một điều con nhận được. Con có thể xem đó như một món quà hay một hồng ân, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào đó ban cho con hồng ân này. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước đi trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc là nó có xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này sẽ đẩy nó xa hơn khỏi con. Nhiều, rất nhiều người tâm linh quả thực đã đạt đến một mức loại bỏ dược nhiều chướng ngại trong tâm. Họ có khả năng trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ đã đủ thông thoáng. Họ có khả năng làm được, nhưng trong tâm ý thức họ quá mức tập trung vào nỗ lực, cho nên họ đẩy trải nghiệm này xa khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể bỏ ra. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này, và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm chuyện này hàng chục năm trời, thậm chi cả nhiều kiếp, liên tục tập trung quá đỗi trong tâm thay vì buông ra. Hầu hết những ai cởi mở với giáo lý này đều đã có một mức thông thoáng nào đó trong tâm mình. Cho nên con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối, nhưng con sẽ chỉ trải nghiệm kết nối khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con hay ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con cứ tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tâm linh con có thể có những nỗ lực sẽ giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần suy ngẫm xem là vượt quá nỗ lực – và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực – nhưng vượt quá nỗ lực, liệu con có cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, cho dù con muốn nhìn cách nào. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với những lời này, thày niêm con. Đối với thày, bài giảng thật dài này được trao truyền hoàn toàn không cố gắng. Liệu con đã có cố gắng khi học bài giảng này hay chăng? Ấy, vậy thì con hãy suy ngẫm những gì thày vừa nói về buông bỏ, vì con có thể đạt tới điểm khi việc học hỏi và thể nhập bài giảng trở nên không cố gắng, và đó là lúc con đã nắm được nỗ lực cao hơn một cách trọn vẹn.

Hãy đón nhận sự hỗn loạn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền vào dịp Webinat Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava và đúng vậy, thày là một Đạo sư Kim cương (Vajra Guru). Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là thày khẳng định quyền là một đạo sư ban giáo lý trên địa cầu mặc dù tuyệt đại đa số loài người không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này, mặc dù các tà lực và các sinh thể ích kỷ vĩ cuồng (narcissistic) không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này, mặc dù tâm thức tập thể loài người không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này. Nhưng thày vẫn khẳng định quyền ban giáo lý trên địa cầu vì chính địa cầu sẽ xác chứng quyền này như đã từng xảy ra suốt các thời đại.

Quyền quấy rầy người khác

Vì nếu không như vậy thì loài người sẽ có thể làm bất cứ gì mình muốn với Ánh sáng Mẫu-Vật, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ phải thụ động tuân phục bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật có một khả năng tự nhận biết và nó có quyền khẳng định một thực tại khác hơn những hình tượng đang được phóng chiếu lên nó, khẳng định là có một con đường cao hơn, có những hình thể cao hơn, có một tầng cấp nhận biết cao hơn, và con có thể có được nhận biết này ngay cả trong phổ tần số vật chất.

Thày là một Đạo sư Kim cương. Vị sứ giả này là một sứ giả Kim cương. Ông khẳng định quyền làm cánh cửa mở cho các sinh thể vượt khỏi cõi vật chất phát biểu qua trung gian chính ông để ban truyền những lời dạy không thể nào được tâm vỏ ngoài của ông chế tạo. Các con có tiềm năng là những đệ tử Kim cương khi con khẳng định quyền làm đệ tử tâm linh, quyền đạt tới những tầng cao hơn nữa nơi con không còn là đệ tử, không còn là người theo chân vì con đã thể nhập quả vị Ki-tô, quả vị Phật. Cho nên con có thể làm cánh cửa mở, không cứ là qua việc nhận bài truyền đọc mà bằng cách truyền rải các ý tưởng, truyền rải ánh sáng, đọc chú đọc thỉnh để toả vào tâm thức tập thể những xung lực sẽ quấy rầy, sẽ làm dao động tâm thức tập thể, các sinh thể sa ngã cũng như hầu hết mọi người trên trái đất. Con có quyền làm dao động những người đã biến tâm mình thành hệ thống kín mít. Bởi vì một khi tâm trở thành một hệ thống kín mít tự nó chứng thực chính nó, làm thế nào con người sẽ có thể thoát ra khỏi trừ khi có gì đó từ bên ngoài hệ thống khép kín ấy quấy rầy thế cân bằng đang giam họ trong đó?

Quyền làm cánh cửa mở cho ánh sáng

Đấy là vì sao con có định luật nghiệp quả, là nguyên lý đằng sau định luật thứ hai của nhiệt động học, qua đó trong một hệ thống khép kín, các mâu thuẫn sẽ nảy sinh và phá sụp hệ thống cho đến khi nó rơi xuống một trạng thái thấp hơn. Cho nên mới có một Trường đời Cay đắng, nhưng cũng có một Trường học của Nhận biết Cao, và những ai đang đầu thai trên địa cầu đều có quyền bước vào trường học này để trở thành những cánh cửa mở cho các thày ở cõi cao phát biểu qua con, để truyền rải các ý tưởng, để truyền rải ánh sáng qua các bài thỉnh bài chú của con. Các thày có quyền ở trên trái đất và mở ra một cái gì vượt khỏi trái đất. Quyền này đã luôn luôn hiện hữu và sẽ luôn luôn hiện hữu, chắc chắn nó đang ở ngay đây ngay lúc này. Thày đã khẳng định quyền này rất lâu trước đây khi thày còn hiện thân. Vị sứ giả này cũng đã khẳng định quyền của ông. Liệu con đã khẳng định quyền của con hay chưa? À, con có thể nếu con sẵn lòng. Và nếu con chưa sẵn sàng thì con có thể dùng lời dạy của các thày để giải quyết bất cứ gì trong tâm lý con đang khiến con do dự chưa khẳng định quyền này.

Xét lại cơ sở cho thế thăng bằng của con

Phật Gautama vừa trao cho con một số lời dạy nhắm đến một cử tọa rộng lớn hơn, mặc dù thày đây biết chắc là các con, các đệ tử trực tiếp của các thày, cũng sẽ được lợi lạc từ đó. Nhưng thày sẽ ban thêm một số lời dạy đặc thù cho các đệ tử trực tiếp. Các thày biết rất rõ là từ hai ba năm qua, đầu tiên với đại dịch và bây giờ với chiến tranh ở Ukraine, đã có một biến động to lớn trong tâm thức tập thể. Điều này khiến cho nhiều người phản ứng theo một cách mà mấy năm trước đây họ không phản ứng. Đó là vì tâm thức tập thể đã bị dao động bởi các biến cố này, cho nên có thể nói, mọi người đã bắt buộc phải phản ứng do cảm giác thăng bằng của họ bị xáo trộn. Các thày nhận thấy nhiều người trong các con là đệ tử tâm linh cũng đã tạo dựng một thế thăng bằng nào đó, và con đã hy vọng, đã mong chờ và nỗ lực để việc trái đất tiến dần đến thời hoàng kim sẽ không phải nếm quá nhiều biến động, khủng hoảng, xung đột lẫn chiến tranh.

Nhưng dẫu sao một khi sự thể đã xảy ra, con có thể nhìn chuyện này theo hai cách. Hoặc đó là một sự xáo trộn và con cần vượt qua nó càng nhanh càng tốt để tái lập thăng bằng trong con, hoặc con cũng có thể xem đó là một cơ hội để xét lại thế thăng bằng của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là khi con đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất – như Gautama nói vậy – con phải chạm trán với một áp lực lớn khủng khiếp từ tâm thức tập thể, và để sống còn về mặt tâm lý trong áp lực này, con phải thiết lập một thế thăng bằng nào đó. Điều này không thể tránh khỏi nhưng dù sao như một đệ tử tâm linh, con có thể hưởng rất nhiều lợi lạc nếu con tái xét cơ sở cho thế thăng bằng của con.

Ví dụ sứ giả này khi vụ xâm lăng Ukraine xảy đến, ông nhận ra và nhìn nhận là trước đó ông đã có một thế thăng bằng nhất định vì ông tin rằng địa cầu đang tiến đến Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, và có một tiến trình tuần tự không đòi hỏi những cú sốc lớn, những tai biến lớn. Trong nhiều năm trời, ông đã làm việc và quan sát điều này qua phận sự sứ giả của mình, qua công việc đọc chú trong một đợt truyền pháp trước và giờ đây trong đợt truyền pháp này, và ông mường tượng tiến trình lân hồi này sẽ tiếp diễn. Nhưng như các thày có giải thích, đôi khi lực cưỡng chống sự thay đổi trong tâm thức tập thể mãnh liệt đến độ các biến cố vật lý phải được cho phép trải bày ra để chúng làm xáo trộn mọi người, phá vỡ thế cân bằng của họ và buộc họ phải nghĩ lại cách tiếp cận cuộc sống của mình. Và điều này chắc chắn đã xảy ra đầu tiên với đại dịch và bây giờ với cuộc xâm lăng Ukraine, và trong thập niên 2020 này có thể sẽ còn thêm những biến động tương tự.

Tất nhiên trong quá khứ cũng đã có những biến động như nhiều các con đã sống qua với cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, biến cố 9-11 năm 2001 và nhiều nữa. Tùy theo con sống ở nơi nào, chắc chắn cũng đã có những biến động khác nữa. Nhưng dù sao thì nhiều người trên địa cầu ngày nay đã bị chấn động bởi các biến cố mới nhất này và họ bắt đầu tự hỏi liệu thế giới đang đi về đâu, hay như câu nói phổ biến, thế giới sẽ nên nỗi nào? Nếu con đã bị xốn xang trong mấy năm qua, con sẽ được lợi lạc tái xét lại cái gì là cơ sở cho cảm giác thăng bằng đó.

Cảm giác là nó quá mức

Bây giờ tất nhiên, nhiều người trong các con là avatar đã đến địa cầu và đã mang đủ loại viễn quan khác nhau về lý do tại sao mình đến đây, về những gì con muốn thấy xảy ra ở đây do việc mình đến địa cầu. Và nhiều các con có một cái nhìn chung chung là con muốn thấy một sự cải thiện, một tiến bộ hướng tới một trạng thái cao hơn, một mức tâm thức cao hơn. Trong mấy kiếp đầu thai, nhiều các con đã hòa điệu với ý muốn của Saint Germain thị hiện thời hoàng kim và kể từ đó, con đã tập trung vào việc đóng góp cho công cuộc này.

Lẽ tự nhiên trong viễn quan này, con mang một số ý tưởng về những điều kiện cần được khắc phục, được thăng vượt và thay đổi hầu thời hoàng kim có thể thị hiện. Nhưng nhiều các con cũng mang một lớp phủ từ chấn thương nhập đời nguyên thủy, qua đó con bị sốc do sự tàn bạo phi nhân tính trên địa cầu đến độ con khởi lên mong muốn giúp địa cầu vượt khỏi mức tàn bạo đó. Con mong muốn nhìn thấy các loại biểu hiện hung dữ nhất được thăng vượt và điạ cầu bước vào một trạng thái cao hơn mà không phải chịu quá nhiều biến động, chinh chiến, cường bạo, hay ngay cả quá nhiều biến cố vật lý khốc liệt. Như sứ giả này hiểu ra, con hình thành ý muốn được chứng kiến những thay đổi từng bước không đem lại điều gì quá tệ hại. Có thể con đã có cách định nghĩa riêng những thay đổi đó là thế nào, đâu là những chuyện con xem là quá đáng – và đa số các con đều mang ý niệm là có những chuyện thật quá mức. Thày không đang bảo con làm vậy là sai trái. Thày không bảo là đối với các thày, các chân sư thăng thiên, không có những điều mà các thày muốn thấy điạ cầu tránh khỏi.

Nhưng dẫu sao, mục đích của thày tại hội nghị này là giúp con gây dựng một cảm giác an bình với việc mình ở đây trên trái đất – như Gautama mô tả – không dựa trên sự phủ nhận bất cứ gì đe dọa thế giới quan cùng thế thăng bằng của con. Nói cách khác, hiện giờ con có một thế giới quan đem lại cho con một thế thăng bằng nếu như một số chuyện không xảy ra. Nhưng nếu những chuyện này xảy ra thì sự thăng bằng của con bị xáo trộn. Đấy, các thày muốn giúp con vươn lên một tầng cao hơn nơi con nâng cao thế giới quan của mình và thiết lập một thế thăng bằng không dựa trên bất kỳ thế giới quan mỏng manh nào, mà ngược lại dựa trên sự nối kết với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên và một viễn quan rộng lớn hơn về tiến trình thị hiện thời hoàng kim, và do đó, con không bị đe dọa bởi một số biến cố. Thế cân bằng của con không dựa trên sự cố nào trên địa cầu, hay biểu hiện nào, hay hình dạng nào trên địa cầu. Nó dựa trên sự nối kết với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên. Tất nhiên Gautama đã trao cho con nhiều lời dạy có thể giúp con đạt được trạng thái này nhưng các thày mong muốn đi xa hơn một chút.

Mong muốn đổi địa cầu thành hành tinh tự nhiên

Trong một bài truyền đọc ở cuối hội thảo trực tuyến về Ukraine, Gautama có đề cập đến thuyết hỗn mang. Và ở một khía cạnh nào đó, con có thể nói là con sống trong một thế giới hỗn loạn vì quá nhiều sự việc không thể tiên đoán được. Có bao nhiêu nhóm người với tầm nhìn khác nhau, cách tiếp cận khác nhau, thế giới quan khác nhau. Tất cả đều cảm thấy bị đe dọa bởi những ai khác mình, cho nên luôn luôn có tiềm năng xung đột. Vậy con có thể làm gì? À, con có thể nhận ra là tự ngã, ngã tách biệt mong tìm thấy một cách kiểm soát, kiểm soát các tình huống bên ngoài để tránh khỏi cảm giác xáo trộn bên trong. Giản dị là mong muốn này đã cài sẵn trong tự ngã được tạo ra từ tách biệt. Nhưng là một avatar, con có thể đem theo từ hành tinh tự nhiên một viễn quan về các điều kiện sống trên loại hành tinh đó. Và khi con xuống một hành tinh như địa cầu, con không thể tránh khỏi bị xốn xang khi con tìm thấy điều kiện trên trái đất khác đến chừng nào. Con thấy rõ hành tinh này có nhiều bạo lực, nhiều xung đột, nhiều điều vô nhân đạo đến chừng nào. Con không thể tránh khỏi bị sốc. Tất cả các con đều đã bị sốc.

Điều có thể xảy ra cho một avatar là sau đó con hình thành một mong muốn thay đổi địa cầu thành một hành tinh tự nhiên, biến một hành tinh phi tự nhiên thành tự nhiên. À, con sắp sửa phản bác: “Nhưng chuyện này có gì sai trái đâu? Thày chẳng nói đó cũng là điều thày muốn hay sao?” Phải, dĩ nhiên là đúng vậy, nhưng sự khác biệt ở chỗ các thày hiện không đang đầu thai. Con đang đầu thai. Các thày không có rủi ro đột nhiên phải chạm trán với một biến cố bạo động do bàn tay sa nhân gây ra. Nhưng con có rủi ro đó. Ý của thày là thế này: Con, một người đang đầu thai, có thể xử lý các điều kiện hiện thời trên trái đất như thế nào? Con có thể làm vậy bằng cách lui lại một chút và nhận ra là con mang một cái ngã tách biệt – là đứa con đẻ của ngã gốc – có mong muốn biến địa cầu phi tự nhiên thành một hành tinh tự nhiên. Xong con có thể nhận ra là ngã này ở trong một trạng thái thiếu hụt liên tục vì có những biến cố đang liên tục xảy ra khiến nó dao động và phản ứng: “Ồ, biết bao lâu nữa địa cầu mới là một hành tinh tự nhiên, đến khi nào địa cầu mới thành một hành tinh tự nhiên đây?”

Con có thể đứng lui lại và nhận ra là địa cầu sẽ không trở thành một hành tinh tự nhiên trong kiếp này của con. Saint Germain nói đến một thời hoàng kim nhưng đâu có nghĩa là trong những thế kỷ đầu của thời hoàng kim, địa cầu sẽ trở thành một hành tinh tự nhiên. Nó có khả năng tiến gần đến giai đoạn tự nhiên vào phần sau của thời hoàng kim, nhưng chuyện này không có gì chắc chắn. Nói cách khác, con vẫn có thể có một thời hoàng kim với một địa cầu chưa tự nhiên, vì tiến bộ đã xảy ra với nhiều hòa bình hơn, nhiều thịnh vượng hơn, nhiều phát minh hơn, v.v. Con có thể nhận ra điều này một cách ý thức, chấp nhận nó và từ đó khởi sự xem xét cái ngã này. Rồi con dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để giải thể nó, hầu con khỏi bị thất vọng, khỏi rơi vào tình trạng căng thẳng cho đến mãn kiếp này chỉ vì con thấy địa cầu quá lâu nữa mới biến thành một hành tinh tự nhiên. Khi con làm vậy, khi con để cho ngã này chết đi, con sẽ có thể nhìn thế giới và thấy rõ nó hỗn loạn đến chừng nào, nhưng con có khả năng chấp nhận sự hỗn loạn như một trạng thái tạm thời chứ không vĩnh viễn.

Chuyện gì cứ việc xảy ra!

Con có khả năng chấp nhận sự hỗn loạn. Có nghĩa gì? Có nghĩa là con không thể kỳ vọng là con, hay đúng hơn tự ngã và các ngã tách biệt của con, có thể kiểm soát được hành tinh này một chút nào. Đối với hầu hết các con là người tâm linh, đây không phải là vấn đề kiểm soát đời mình mặc dù tất cả các con đều mang một số ngã muốn như vậy. Nhưng đối với nhiều các con, đây là vấn đề giành chút kiểm soát trên hành tinh hầu những chuyện tệ hại mà con muốn tránh không xảy ra. Nhưng con có thể dần dần chấp nhận một cách ý thức rằng đây là một hành tinh hỗn loạn, và do đó con không thể chờ đợi mình sẽ có bất kỳ kiểm soát nào trên các biến cố vỏ ngoài. Điều con có thể làm được là con đạt tới một mức chủ động cao độ trên chính tâm con cùng tâm thái của con, nhưng không qua trung gian tự ngã hay ngã tách biệt muốn kiểm soát và kỷ luật ý tưởng cùng cảm xúc của mình. Như Gautama đã mô tả rất tỉ mỉ, con làm điều này qua việc giải quyết những cái ngã. Nói cách khác, làm thế nào con chủ động được tâm mình? Bằng cách buông bỏ những cái ngã muốn kiểm soát tâm con hầu con không có nhu cầu kiểm soát tâm nữa, và dù biến cố vỏ ngoài nào có xảy ra trên trái đất thì nó cũng không khuấy động được ngã tách biệt để gây xáo trộn trong tâm con.

Như Gautama cũng mô tả, con có thể giữ một thái độ đối với địa cầu không dựa trên việc liên tục phán xét cái gì phải xảy ra và cái gì không được xảy ra. Con có thể tiến gần đến trạng thái không dính mắc khi con nhìn vào địa cầu và nói: “Không sao, bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Cho dù chuyện gì xảy ra thì tôi cũng sẽ xuôi chảy với nó, tôi sẽ sử dụng nó tốt nhất, tôi sẽ vẫn tiến tới trên con đường tâm linh của mình, tôi sẽ tiến tới và thực hiện sứ vụ thiêng liêng như tôi đang thấy. Vậy chuyện này hay chuyện nọ xảy ra có thực sự quan trọng hay không?”

Sứ giả này chưa bắt đầu làm sứ giả vào năm 2001 khi ông có một việc làm tầm thường. Hôm đó, ông nghe nói có một biến cố xảy ra ở New York và ông đứng đó ở sở làm, theo dõi chương trình ti vi đang chiếu hình hai toà tháp sụp đổ. Lẽ tự nhiên, bản tin khiến ông dao động và ông lo lắng hàng vạn người có thể thiệt mạng khi tòa tháp đổ xuống. Tuy vậy cho dù lúc đó ông đang sống tại Hoa Kỳ và đây là một biến cố đáng sợ, nó đã không làm xáo trộn cảm giác thăng bằng của ông nhiều như cuộc chiến ở Ukraine, mặc dù cuộc chiến này diễn ra nhiều năm sau đó. Lý do là vì ông mang một cái ngã tách biệt dựa trên giáo lý mà các thày đã trao truyền, một cái ngã mong muốn nhìn thấy một tiến trình chuyển tiếp tuần tự vào thời đại hoàng kim.

Một khi ông bước lui lại và nhận ra mình có mang ngã đó, ông đã có thể trụ chặt vào Saint Germain để hiểu ra là nếu muốn thời hoàng kim biểu hiện một cách tiệm tiến thì sẽ phải tốn rất nhiều thời gian do sức kháng cự mạnh mẽ của tâm thức tập thể chống lại sự thay đổi. Và vì thế, ông nhận ra và chấp nhận một cách ý thức rằng ông có thể sống chung với những biến cố khủng khiếp như vậy, là những chuyển biến sẽ buộc mọi người phải xét lại cách sống của mình. Sau đó ông đã có thể buông ngã đó, và ông chấp nhận là nếu có những diễn biến cần phải xảy ra để buộc mọi người nghĩ lại cách tiếp cận cuộc sống hay một số tình huống đặc thù, thì hãy cứ để yên cho chúng trải bày ra. Con sẽ chỉ cần thích ứng và bước tới, luôn luôn hướng mắt nhìn về mục tiêu của thời hoàng kim, về sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng cùng việc thăng thiên của mình. Trong bối cảnh vỏ ngoài đó, con bước tới từng bước một về hướng đó trong khả năng của mình.

Lẽ tự nhiên nếu con là một đệ tử tâm linh đang sống tại Nga hay Ukraine, con phải đối mặt với một tình thế khó khăn hơn hẳn những ai đang sống ở nơi khác trên thế giới. Tuy vậy, con vẫn có thể đi xuyên qua tiến trình này, là con nhìn vào bất kỳ ngã nào trong con phản ứng lại tình hình hôm nay và nhờ vậy dần dần chấp nhận là hoàn cảnh hiện tại, dù đáng lo đến chừng nào, vẫn là sự cần thiết để cả hai dân tộc Nga lẫn Ukraine tiến bước về thời hoàng kim. Thày biết, mọi chuyện hiện nay không có vẻ gì khả quan, nhưng ít nhất con có thể thấy được biến cố này có khả năng gia tốc sự chuyển bước về thời hoàng kim, trong khi trước kia thì cả hai nước – và cả thế giới, đặc biệt là châu Âu – bị kẹt cứng ở một mức tâm thức nhất định, một cái nhìn nhất định về thế giới. Tình trạng bế tắc này cần được phá vỡ, và một khi con chấp nhận điều này, con sẽ thấy là con cần tập trung vào tương lai. Chính vì vậy mà các thày đang trao cho con các bài truyền đọc này nhân dịp cuộc hội thảo trực tuyến về Ukraine, về tiềm năng tương lai của Ukraine và phần nào cũng về tương lai nước Nga.

Con có thể dõi mắt nhìn vào tiềm năng tích cực, con có thể dõi mắt vào sứ vụ thiêng liêng của con, vào bước tăng triển tâm linh không ngừng của con, vì hiển nhiên điều quan trọng hơn bao giờ hết là ở Nga và Ukraine có những người đang nâng cao nhận biết của mình, đang kéo tâm thức tập thể đi lên và cầm giữ sự cân bằng tâm linh cho dân tộc mình. Với tâm vỏ ngoài, con không thể hiểu được đầy đủ và nhận chân tầm quan trọng của sự có mặt của con trong thời buổi này ở nước con. Tương tự như vậy, hầu hết đệ tử của các thày ở các nước khác cũng không thể nhận chân một cách ý thức tầm quan trọng của sự có mặt của mình, sự nâng cao nhận biết và công việc tâm linh của mình trong thời buổi này. Nhiễu loạn càng nhiều thì sự hiện diện cùng nỗ lực của con càng quan trọng. Một khi con chấp nhận điều này và khắc phục ý muốn tránh cho một số biến cố xáo trộn xảy ra, con sẽ đạt được một tầm nhìn khác về tình trạng trên địa cầu.

Một thế giới hỗn loạn so với một hệ thống tiền định

Phải, con có thể nói là có hỗn loạn, nhưng hỗn loạn có nhất thiết là điều gì tiêu cực không? Các thày đã cho con rất, rất nhiều lời dạy về sự có mặt của sa nhân cùng đủ loại nhóm thượng lưu quyền lực đang tìm cách kiểm soát trái đất. Chúng muốn nắm càng nhiều quyền lực càng tốt trên địa cầu và khống chế quần chúng. Chúng đã thành công phần nào trong việc này nhưng như các thày đã nói, chúng không thể đoạt được sự kiểm soát tối hậu trên địa cầu, và tại sao chứ? À, một phần do sự xung đột nội tại trong bọn chúng vì chúng luôn luôn bị chia rẽ, và phần khác do tâm thức nhị nguyên vốn tạo ra cái đối lập với chính nó. Nhưng một cách khác để nhìn sự thể này là nói rằng trong một hệ thống hỗn loạn không thể nào có sự kiểm soát.

Kiểm soát ngụ ý trật tự. Và hỗn loạn không cứ là nghịch đề của trật tự, nhưng hỗn loạn không phải là trật tự. Nếu có trật tự thì không có hỗn loạn. Nhưng bây giờ con có thể đi thêm một bước và nói: “Vâng, con hiểu là các chân sư đã dạy con là hầu hết mọi người đã bước vào ảo tưởng tách biệt, vào tâm thức nhị nguyên, và đó là tại sao họ đã gây ra mọi xung đột được thấy trên trái đất.” Phải, điều này đúng, nhưng bây giờ con hãy tự hỏi. Trước khi loài người bước vào nhị nguyên, liệu đã có hỗn loạn trên địa cầu hay địa cầu hoàn toàn trật tự? Thậm chí con có thể hỏi thêm một câu nữa, liệu một hành tinh tự nhiên là một hành tinh hỗn loạn hay là một hành tinh hoàn toàn trật tự? Và con có thể ngạc nhiên nhận ra rằng kỳ thực hành tinh tự nhiên là một hành tinh hỗn loạn, và trước khi loài người bước vào nhị nguyên thì địa cầu cũng là một hành tinh hỗn loạn. Điều này có thể gây chấn động cho một số các con, nhưng con hãy bước lui thêm nữa và nhìn lại xem hỗn loạn là gì.

Sự hỗn loạn có nhất thiết hỗn loạn? Sự hỗn loạn có phải là một điều tiêu cực hay phá hoại? Một cách khác để nhìn sự hỗn loạn là bảo rằng đó không phải là một hệ thống tiền định (deterministic). Con biết mấy trăm năm về trước, các nhà khoa học tin rằng trái đất là một bộ máy khổng lồ, vũ trụ là một bộ máy khổng lồ. Nó giống như cỗ máy đồng hồ có bánh răng cưa quay theo một số quy luật nhất định. Các nhà khoa học tin rằng nếu con biết các quy luật vận hành vũ trụ và nếu con cũng biết các điều kiện tiên khởi khi cỗ máy khởi động, thì con có thể tiên đoán mọi chuyện có thể và sẽ xảy ra khi cỗ máy cứ thế chạy. Tất nhiên, đây chính là giấc mơ của sa nhân là tạo ra một vũ trụ cơ học như vậy nơi chúng là kẻ định ra cả quy luật lẫn điều kiện tiên khởi để chúng có thể kiểm soát tất cả.

Nhưng thật ra các thày đã nói gì về sự vận hành của thế giới chứ? Các thày đã nói với con là các Elohim đã tạo ra hành tinh địa cầu và vì thế, theo một nghĩa nào đó, cũng đã tạo ra các điều kiện tiên khởi. Nhưng các thày cũng có nói là mặc dù địa cầu vận hành theo một số quy luật nhưng nó không là một hệ thống tiền định. Tại sao lại không? Bởi vì mục đích của địa cầu là cống hiến một phương tiện cho sự tăng triển tâm thức của những sinh thể tự nhận biết đã đến địa cầu và trở thành những người đồng sáng tạo. Các sinh thể tự nhận biết này – trong đó có các con – có quyền tự quyết. Con gia tăng nhận biết của mình bằng cách dùng quyền tự quyết để thử nghiệm, bằng cách chọn lựa rồi trải nghiệm hậu quả của chọn lựa. Đấy, các chọn lựa của con càng tự do bao nhiêu thì chúng càng khó tiên đoán bấy nhiêu. Đối với một người hoàn toàn tự do trong tâm mình, sẽ không có ai – ngay cả sa nhân khôn ngoan nhất hay thậm chí chính Thượng đế – có thể đoán trước người đó sẽ làm gì tiếp theo.

Hỗn loạn là nền tảng của sáng tạo

Đấy, con thấy điạ cầu đã không được thiết kế để vận hành như một cỗ máy tiền định. Nó được thiết kế như một hệ thống sáng tạo. Điều các nhà khoa học gọi là hỗn mang chỉ đơn giản là một hệ thống sáng tạo không hề tiền định và bởi vậy không thể đoán trước. Các nhà khoa học nhìn thế giới rồi bảo: “Chúng tôi thấy có một số quy luật nhưng chúng tôi cũng thấy có quá nhiều hỗn loạn đến độ chúng tôi không thể dự đoán những gì xảy ra một cách chắc chắn tuyệt đối.” Trong nền vật lý lượng tử có cả một nguyên lý bất định nói rằng không có cách chi mà tiên đoán chắc chắn, vì thế giới ở mức hạ nguyên tử không tiền định và chắc chắn thế giới ở mức vĩ mô lại càng ít tiền định hơn nữa. Khi con nhìn từ góc cạnh này, con ngộ ra sự hỗn loạn không phải là một điều gì tiêu cực. Nó không tệ hại xấu xa. Kỳ thực nó là nền tảng cho sáng tạo, rồi từ đó con có thể có một tầm nhìn mới mẻ về khái niệm của Phật có tên là lý duyên khởi.

Con có thể nhìn ra là nếu địa cầu là một hệ thống được định trước thì nó đã có thể bị sa nhân kiểm soát rồi, và nếu chúng kiểm soát được thì chúng đã bành trướng tầm kiểm soát đó. Nếu hành tinh tới độ rơi vào sự kiểm soát toàn diện của sa nhân thì không thể có cách nào vực nó dậy. Chỉ còn cách để yên cho nó tự hủy diệt. Nhưng chính vì địa cầu là một hệ thống sáng tạo cho nên sa nhân sẽ không bao giờ hoàn toàn làm chủ được tình hình, và đó là tại sao địa cầu có tiềm năng vươn lên để bước vào một thời hoàng kim và vươn lên nữa để rốt cuộc trở lại với trạng thái hành tinh tự nhiên. Theo một nghĩa nào đó, sự hỗn loạn mà con thấy từ một góc cạnh kỳ thực là một cơ chế an toàn để ngăn ngừa sự thiết lập của một chế độ kiểm soát toàn diện. Kiểm soát toàn diện sẽ làm gì chứ? Nó sẽ dập tắt mọi sự sáng tạo vì sự sáng tạo vốn không thể đoán trước, và người ta chỉ có thể kiểm soát toàn diện nếu người ta tiên đoán được mọi chuyện.

Hỗn loạn không phải là một mối đe dọa. Tự ngã và ngã tách biệt của con sẽ coi hỗn loạn là một mối đe dọa vì nó đe doạ cảm giác thăng bằng của con. Nhưng con, khi con bước ra ngoài tự ngã và các ngã tách biệt, con có thể thấy sự hỗn loạn là bạn của con. Hỗn loạn là một điều tích cực. Nó là cơ sở cho sáng tạo. Con hãy bỏ công ra xem xét tại sao. Trong một hệ thống tiền định con có thể nói: “Tôi có thể làm việc này hay tôi có thể làm việc kia. Nhưng trong cả hai trường hợp, tôi có thể hoàn toàn đoán trước kết quả sẽ là gì, vậy liệu tôi đã thực sự chọn lựa hay không? Tôi không thể đem lại một cái gì mới vì tất cả phải chạy theo một đường rày.” Nhưng trong một hệ thống sáng tạo, con có thể đem lại một điều gì hoàn toàn mới.

Hiển nhiên, chuyện này có hai khía cạnh. Địa cầu được tạo ra lúc ban đầu ở một trạng thái nào đó, rồi loài người đã đưa nó xuống một trạng thái thấp hơn. Họ đã làm thế nào? À, họ đã tận dụng chức năng cơ bản của hệ thống sáng tạo là đặc tính không thể tiên đoán. Họ đã phản-sáng tạo thay vì đồng-sáng tạo, nhưng dẫu sao đây vẫn là một hình thức sáng tạo.

Tận dụng sự hỗn loạn

Nhưng con có thể đảo ngược lại và khởi sự tận dụng sự hỗn loạn để nâng địa cầu trở lên những tầng mức cao hơn. Đây chính là việc các thày kêu gọi con làm. Đây là công việc mà các đệ tử của chân sư thăng thiên đã làm kể từ Phong trào TA LÀ. Đây là công việc mọi người tâm linh đã làm từ hàng thiên kỷ qua đủ mọi cách tu tập tâm linh. Có thể nói, các con đang dấn thân vào sự hỗn loạn, và thay vì tìm cách tạo trật tự và kiểm soát, các con tìm cách tạo ra một trạng thái mới cao hơn trạng thái cũ. Nói cách khác, thay vì chế tạo hòa bình trên địa cầu bằng cách kiểm soát mọi chuyện và dùng vũ lực để kềm chế xung đột và chiến tranh, con sẽ sử dụng khả năng sáng tạo để tạo nên một trạng thái mới. Và khi con cứ tiếp tục làm vậy thì như Gautama cũng nói, sẽ tới một điểm khi tâm thức tập thế đạt đến một mức nào đó và bỗng nhiên mọi người thấy rõ là chiến tranh, chẳng hạn, không thể nào chấp nhận được nữa. Và khi có đủ số người ngộ ra điều này, mọi chuyện cũng sẽ bắt đầu chuyển đổi trong cõi vật lý.

Vậy con đang làm gì trong tư cách một đệ tử tâm linh? À, tự ngã của con, ngã tách biệt của con sẽ bảo con phải dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để đem lại trật tự trên trái đất, hầu chiến tranh và bạo lực bị tiêu trừ và hoà bình được thiết lập qua trật tự. Nhưng các thày đây, các chân sư thăng thiên thì nói rằng con có cơ hội dùng giáo lý tâm linh để dấn thân, tham gia vào sự hỗn loạn, rồi sử dụng tính linh động của hỗn loạn để thị hiện một trạng thái cao hơn qua sáng tạo chứ không qua kiểm soát. Con hãy nhìn xem đời sống có biết bao hoàn cảnh hỗn loạn, và điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì được tạc trên đá, không có gì cố định, mọi sự đều chuyển biến, và điều này có nghĩa là mọi sự có thể khá dễ dàng chuyển sang một hướng mới.

Có một ẩn dụ quen thuộc như thế này: Con thử lấy một chiếc bánh xe và đặt nó thẳng đứng trên mặt đất, nếu bánh xe đứng yên và con đẩy nó sang bên, nó sẽ đổ xuống. Nhưng nếu nó đang lăn, đang chuyển động, và con đẩy nó sang bên, nó sẽ không đổ mà chỉ đổi hướng lăn. Khi bánh xe đứng yên thì con có một hệ thống cố định, con khó lòng nào thay đổi điều gì trong một hệ thống cố định. Nhưng khi bánh xe đang lăn, con có một hệ thống động, dễ thay đổi hơn rất nhiều. Cũng vậy, con dễ thay đổi nước chảy hơn là tảng đá, cho nên con thấy một hệ thống càng năng động linh hoạt thì nó sẽ càng dễ thay đổi. Điều này cũng có nghĩa là với một hệ thống năng động linh hoạt, con sẽ cần ít người hơn để chuyển đổi nó so với một hệ thống cố định, đứng yên một chỗ.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là tâm thức tập thể càng có nhiều luồng lưu chuyển thì sẽ càng dễ cho một số ít đệ tử của chân sư thăng thiên xoay chuyển dòng chảy về một hướng khác. Đây chính là điều các thày tìm cách giúp con tận dụng, và tất nhiên các thày cũng giúp những người tâm linh khác mà các thày đang cộng tác. Chính sự kiện có nhiều luồng chảy, nhiều năng động đến vậy trên địa cầu là cơ hội để tạo ra thay đổi. Như các thày đã từng nói, nếu con có một con tàu, con chỉ cần bẻ tay lái một chút thì tuy con tàu dường như không chuyển hướng trong ngắn hạn, hành trình của nó sẽ thay đổi lớn lao trong dài hạn. Khi con chấp nhận điều này, con sẽ thấy là vai trò của con không phải là thị hiện những thay đổi vật lý đặc thù ở một thời điểm đặc thù.

Mạng lưới Antahkarana của sự Sống

Trong các đợt truyền pháp trước, các thày đã khuyến khích mọi người đọc chú để thỉnh cầu một số điều kiện đặc thù, và điều này đã khiến tâm một số đệ tử chú mục vào nhu cầu thị hiện một điều kiện nhất định vào một thời điểm nhất định, và nếu không làm được thì xem như việc đọc chú của họ đã thất bại. Điều này thậm chí khiến cho một số đệ tử nghi ngờ sự hiệu quả của bài chú, và họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Nhưng con thấy đó, khi con hiểu những gì thày vừa trình bày ở đây, con sẽ tránh rơi vào những loại định kiến khiến con kỳ vọng một kết quả nào đó phải thị hiện ở một thời điểm nào đó.

Tất nhiên, điều tương tự cũng áp dụng cho cuộc đời của cá nhân con. Hàng ngàn và hàng triệu người khắp thế giới đã dùng khái niệm giữ thái độ tích cực trong tâm, lập ra một bản đồ kho báu rồi đặt vào bản đồ những gì họ muốn thị hiện ở một thời điểm nào đó. Một số đã thành công nhưng hầu hết đã bị thất vọng vì kết quả mong muốn đã không xuất hiện ở thời điểm mong muốn. Thế là nhiều người đã lật ngược và nghi ngờ sự hiệu quả của cả tiến trình này.

Nhưng nó sẽ có hiệu quả về mặt xoay chuyển phương trình hoàn cảnh cá nhân của con. Câu hỏi đặt ra là đến khi nào kết quả vật lý sẽ biểu hiện, và điều này thì tùy thuộc vào lý duyên khởi, vì con đâu phải là một hòn đảo, con đâu hiện hữu như một hòn đảo trong tâm thức tập thể cùng hệ thống năng lượng của bốn tầng cõi trên trái đất? Nếu con có thể bước lui lại khỏi địa cầu và quan sát từ tầm nhìn thăng thiên, con sẽ thấy trái đất là một tấm thảm dệt vô cùng phức tạp tinh vi gồm những liên hệ năng lượng, liên hệ nghiệp quả, liên hệ ở mức tâm thức, rồi lại có những liên hệ vật lý, liên hệ cảm xúc, liên hệ lý trí, liên hệ ở mức bản sắc, quá nhiều sự nối kết như vậy, và tất cả đều đan chặt vào với nhau. Đôi khi các thày đã có nói về Antahkarana của sự Sống, mạng lưới phức tạp tinh xảo kết nối tất cả mọi thứ. Con đang sống trong mạng lưới này. Con là một phần của mạng lưới này.

Khi con dùng ngã tách biệt để lập mục tiêu cho các thay đổi vật lý đặc thù mà ngã tách biệt muốn thị hiện, rồi con ấn định một thời điểm đặc thù chúng phải thị hiện, xong con kỳ vọng một loại phép lạ sẽ đến từ đâu đó – cho dù từ các chân sư thăng thiên hay từ cái gì khác – để thị hiện những gì con đã đặt vào bản đồ kho báu, thì con đã nắm sẵn nỗi thất vọng trong tay vì con đang cố làm chuyện bất khả thi. Con đang cố thị hiện một cái gì như thể con tách biệt khỏi Mạng lưới của sự Sống, nhưng làm sao được? Chuyện đó không thể làm được. Không ai có thể làm được.

Cách tiếp cận khác hơn là con chấp nhận con là một thành phần của Mạng lưới sự Sống đó, cho nên con cũng chấp nhận mình có khả năng thay đổi đời mình. Con có thể trước tiên thay đổi tâm thái của mình, con cũng có thể thay đổi các điều kiện vật lý của mình, nhưng việc thay đổi điều kiện vật lý xảy ra trong khuôn khổ rộng lớn hơn của hệ thống phức tạp đó, mạng lưới nối kết đó nơi con đang sống.

Con có thể, như các thày có nói, phóng chiếu một xung lực vào tấm gương vũ trụ nhưng cách nó phản ánh lại như thế nào sẽ tùy thuộc vào mạng lưới phức tạp kia. Nhưng này, rất nhiều điều con có thể muốn trong đời mình sẽ tác động đến người khác. Nếu con muốn thị hiện một ngôi nhà đặc thù chẳng hạn, một ai đó sẽ phải xây hay mướn người xây ngôi nhà, một ai đó sẽ phải đồng ý bán nhà cho con, cho nên có rất, rất nhiều người sẽ tham gia vào quá trình thị hiện ngôi nhà đó. Tất cả những người này đều có quyền tự quyết, đều có một mức tâm thức, và để thị hiện một cái gì đó cho con, con phải làm việc với tất cả những thứ đó trong bối cảnh đó. Con không thể chờ đợi một viễn quan tách biệt sẽ phải thị hiện như thể con là người duy nhất trong hệ thống. Nhưng một lần nữa, con có thể dần dần chấp nhận sự thể này, và con nhận ra là khi con nỗ lực nâng cao tâm thức của mình, hình thành những hình ảnh và phóng chiếu chúng ra ngoài thì nó sẽ có tác động, nhưng tâm vỏ ngoài sẽ không thể tiên đoán chính xác chuyện gì sẽ xảy ra, sẽ thị hiện như thế nào và khi nào.

Con có thể biết là con đã gửi ra một xung lực vào tấm gương vũ trụ. Con có thể biết là một cái gì đó sẽ quay trở về con và con có thể hài lòng biết rằng khi con cứ tiếp tục gửi xung lực như vậy thì lần hồi cuộc sống của con sẽ bắt đầu thay đổi, mọi chuyện sẽ bắt đầu thị hiện cho con. Nhưng nếu con chờ đợi những kết quả đặc thù ở những thời điểm đặc thù thì đó là một kỳ vọng không thực tế, nó chỉ có thể đem lại thất vọng. Nhiều năm trước đây, sứ giả này có nghe nói về khái niệm bản đồ kho báu, ông đã làm thử mặc dù bán tín bán nghi, và sau khi làm thử và kết quả không hiện ra vào thời điểm ông đã hình dung theo lời người ta khuyên, thì ông hiểu ra đó là một kỳ vọng không thực tế mặc dù ông không diễn tả như vậy. Thật có quá nhiều yếu tố liên hệ với nhau để có thể xem như con là một cá nhân tách biệt.

Kể từ đó, ông đã đổi cách tiếp cận và khi ông đọc chú, ông cố nâng cao tâm thức nhưng ông không kỳ vọng một kết quả nhất định ở một thời điểm nhất định. Ấy thế nhưng khi ông nhìn lại thời ông bắt đầu cất bước trên đường tu, ông thấy được là đã có rất, rất nhiều thay đổi không chỉ trong tâm thức mà cả trong hoàn cảnh vỏ ngoài của ông. Nhiều người trong các con sẽ có thể nhận ra một điều tương tự nếu con nhìn ngược trở lại, và do đó nhiều người cũng có thể nhận ra là với thời gian cuộc sống của con sẽ thay đổi khi con thực hành các lời dạy. Tất nhiên, một điều tương tự cũng không chỉ áp dụng cho việc thay đổi đời con mà cả việc thay đổi hành tinh do có nhiều người hơn tham gia vào.

Công việc tâm linh của các đệ tử chân sư ở Nga

Bây giờ con có thể nhìn vào một dân tộc như nước Nga, con thấy là trong nhiều năm trời qua sứ giả này, các thày đã trao truyền nhiều bài truyền đọc về nước Nga cùng trạng thái tâm thức ở Nga. Con thấy những bài này được ban ra với niềm hy vọng nước Nga sẽ dần dần biến đổi để tiến gần hơn với thời đại hoàng kim, rằng tâm thức tập thể có thể được chuyển hóa và nâng cao gần hơn với mức tâm thức thời hoàng kim. Xong con có thể nhìn những biến cố vừa xảy ra và nói: “Liệu đó có phải là một kỳ vọng thiếu thực tế hay không?” Nó không thiếu thực tế, nhưng không phải các chân sư thăng thiên đã có những chờ đợi nhất định về điều gì phải xảy ra. Các thày chỉ xem đó là một tiềm năng và các thày đã đưa ra một tiềm năng. Có một tiềm năng thực sự là điều đó đã có thể xảy ra lần hồi, nhưng rốt cuộc thì nó không xảy ra.

Cho nên con có thể bảo: “Thế còn các đệ tử tâm linh ở Nga thì sao? Họ đã nhận các bài truyền đọc, đã đọc thỉnh, đọc chú với niềm hy vọng chuyển đổi tâm thức tập thể. Liệu họ đã bị lừa? Liệu họ đã thất bại? Liệu nỗ lực đó đã không thành công? Liệu có vấn đề gì không do lỗi họ? Liệu có vấn đề gì với giáo lý của chân sư thăng thiên hay các bài thỉnh?” Tất nhiên con có thể lý luận theo cách đó nhưng con cũng có thể lui lại một bước, rồi con bước lên cao hơn để nhận ra là các đệ tử của chân sư tại Nga đã thực sự có tiềm năng đem lại thay đổi lần hồi đó. Nhưng chuyện xảy ra là đã không đủ số người dân Nga sẵn lòng xoay chuyển nhận biết của mình. Và vì vậy, cái tiềm năng có thực kia đã không trở thành hiện thực.

Là đệ tử của chân sư thăng thiên, tất nhiên con không thể lật bỏ quyền tự quyết của hàng chục triệu người. Con không thể chờ đợi mình làm được như vậy vì con không thể kỳ vọng các bài chú bài thỉnh sẽ có phép như một loại đũa thần và con chỉ cần khua đũa để ai nấy đổi ý. Con không thể lật bỏ quyền tự quyết qua các bài thỉnh bài chú như các thày đã nói nhiều lần. Nhưng đó đã là một tiềm năng có thực, chắc chắn không phải là sự lãng phí công sức, tuy nhiên sự việc đã không xảy ra và giờ đây con cần chấp nhận và bước tới. Dù vậy, con hãy cố nâng cao tâm thức cá nhân của mình, lượng định những gì con cần làm ở tầng cấp vật lý dựa trên tình hình mới, nhưng con cũng hãy tiếp tục đọc thỉnh đọc chú vì công việc này có tác dụng.

Có lẽ con không thể nói: “Chúng tôi là một nhóm người đã đọc từng nấy bài thỉnh vào thời buổi đó, đem lại từng nấy thay đổi đặc thù,” nhưng điều con có thể nói là các nỗ lực của con đã có tác động tích cực đến một tình thế vô cùng phức tạp, là một quốc gia trải rộng mênh mông với 140 triệu con dân sống trên dải đất bao la này. Đây không phải là một nước dễ thay đổi, nhưng hiển nhiên, không có nước lớn nào mà dễ thay đổi. Không nước nào là dễ thay đổi, nhưng nước càng nhỏ thì việc xoay chuyển tâm thức tập thể sẽ càng dễ.

Tăng triển bằng cách thử nghiệm

Một khi con lui lại, chấp nhận, đón nhận sự kiện con đang sống trong một môi trường sáng tạo chứ không phải một môi trường tiền định, con có thể ôm lấy sự sáng tạo, ôm lấy dòng lưu chuyển, ôm lấy cái mà nhiều người gọi là hỗn loạn nhưng con xem là tiềm năng đem lại những trạng thái mới mẻ cao hơn. Nếu không gì có thể thay đổi thì làm thế nào thay đổi được bất cứ gì? Làm thế nào con có thể đem lại cái mới nếu con không thể thay đổi cái gì đó? Và làm thế nào con có thể thay đổi một cái gì cố định, bị buộc chặt vào tình trạng hiện thời của nó? Con chỉ có thể đem lại thay đổi khi có sự linh hoạt, khi có những luồng đang chảy. Con hãy đón nhận cái đó, đón nhận môi trường con đang sống.

Hãy hài lòng là một con người sáng tạo không hề kiểm soát xung lực sáng tạo của mình sẽ biểu hiện ra sao. Nhưng con có thể tới mức nhìn vào đó và nói: “À, nếu tôi thực sự có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra do nỗ lực sáng tạo của tôi thì làm sao gọi đó là sáng tạo được? Kỳ thực tôi không đang sáng tạo mà đang máy móc.” Nhưng này, một số các con có thể nghĩ là trên một hành tinh tự nhiên, con có thể tiên đoán chính xác những gì sẽ xảy ra do nỗ lực sáng tạo của mình, và theo một nghĩa nào đó, con có thể đoán trước vì ở đó không có yếu tố nhị nguyên như trên địa cầu. Mọi chuyện trên hành tinh tự nhiên dễ tiên đoán hơn, nhưng làm thế nào con tăng triển được chứ? Con tăng triển bằng cách thử nghiệm.

Thử nghiệm là gì? Là con gửi ra một xung lực, con có ý chung chung điều gì sẽ quay trở lại nhưng con không biết chinh xác. Rồi con thấy kết quả, con điều chỉnh xung lực sáng tạo của con, con lại gửi ra một xung lực khác và con cứ tiếp tục làm vậy, con tiếp tục thử nghiệm nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Nếu khi con bấm cái nút, con đã biết rõ kết quả sẽ thị hiện máy móc ra sao, liệu đây có thật là sáng tạo hay không? Con chỉ đang làm chuyện máy móc. Vậy con sẽ học được gì từ đó? Làm thế nào cái đó sẽ chuyển đổi tâm thức của con? Nếu con dùng tâm thức hiện thời để thị hiện, phóng chiếu một hình ảnh nào đó và con biết rõ kết quả sẽ ra sao, làm thế nào tâm thức con sẽ chuyển đổi? Để con có thể là một người đồng sáng tạo, con không thể ở trong một môi trường cơ học kiểm soát. Phải có luồng chảy, phải có linh hoạt thì mới có chỗ cho sự thử nghiệm, có chỗ cho một cái gì chưa ai nghĩ ra bao giờ.

Đây chính là điều sa nhân lo sợ vì chúng không thể tiên đoán, chúng không thể kiểm soát. Đó là tại sao chúng sợ con, vì khi con bước lên tầng mức đó, con là một người sáng tạo. Trong các tổ chức chân sư thăng thiên và các tổ chức tâm linh khác đã có một xu hướng suy nghĩ rằng đường tu phần nào là máy móc. Con học hỏi giáo lý, con tránh làm chuyện sai trái, con làm chuyện đúng đắn, con mặc loại y phục này, con lái loại xe kia, con ăn loại thực phẩm nọ, rồi con tu hết các pháp tu tâm linh càng nhiều càng tốt, thế là một cách máy móc như Gautama có nói, con đạt được giác ngộ.

Nhưng đây là một tiến trình sáng tạo, không phải một tiến trình cơ học. Thày cũng biết nó có một số khía cạnh cơ học trong việc biến đổi năng lượng tha hóa chẳng hạn, nhưng về cơ bản con đường tâm linh là một tiến trình sáng tạo. Có một số đệ tử tâm linh bước vào giáo lý của chân sư thăng thiên mà lại muốn kéo nó xuống thành một tiến trình máy móc. Họ muốn tin rằng nếu họ sống một cách nào đó và đọc một lượng chú mỗi ngày thì họ bảo đảm sẽ thăng thiên ở cuối kiếp này. Như các thày đã cố giải thích từ đủ mọi góc cạnh, không phải vậy đâu.   

Xuôi chảy với sự hỗn loạn

Khi con chấp nhận điều này, việc sống trên một hành tinh như địa cầu sẽ dễ hơn hẳn vì con không đang cố làm chuyện bất khả thi, con không cố dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để kiểm soát một môi trường không thể kiểm soát. Con dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để hướng dòng chảy của hỗn loạn về một hướng khác. Đây có thể sẽ là một sự xoay chuyện vô cùng xây dựng cho con nếu con có thể xoay chuyển như vậy và đón nhận sự hỗn loạn, đón nhận sự linh hoạt trong môi trường của con. Nó có thể đem lại nhiều hệ quả cho đời sống hàng ngày và đường tu tâm linh của con.

Nó có thể cho phép con nói: “Tại sao tôi lại cần một số điều kiện vỏ ngoài đặc thù thị hiện trong đời tôi? Thật ra chỉ vì tự ngã và một số ngã tách biệt của tôi muốn những điều kiện này, vì chúng nghĩ nhờ đó chúng sẽ có được cảm giác an toàn. Nhưng tôi, sinh thể mà tôi thực LÀ, tôi không cần an toàn mà tôi cần tăng triển. Tôi không cần những điều kiện không làm phiền tôi. Kỳ thực tôi muốn những điều kiện sẽ làm phiền tôi, sẽ khiến tôi phản ứng hầu tôi có thể xem xét các khuôn nếp phản ứng của tôi, phơi bày những cái ngã tách biệt đó và để chúng chết đi. Tôi muốn tăng triển suốt phần còn lại của kiếp này. Tôi muốn tăng triển tối đa để nếu đó là sứ vụ thiêng liêng của tôi thì tôi có thể thăng thiên, tôi có thể hội đủ tư cách thăng thiên. Và nếu trong sứ vụ thiêng liêng không có điều đó, tôi sẽ đạt mức tâm thức cao nhất mà tôi có thể, để tôi có nền tảng tốt nhất cho kiếp tới khi tôi góp phần thị hiện thời đại hoàng kim. Đây là điều tôi muốn cho đến hết kiếp này. Tôi không muốn thoải mái. Tôi không muốn cảm thấy an toàn. Tôi không muốn những điều kiện vỏ ngoài thoải mái an toàn. Tôi muốn tăng triển tối đa.”

Làm thế nào con sẽ tăng triển? Bằng cách xuôi chảy với sự hỗn loạn. Bằng cách nhìn ra những gì khuấy động tâm con, rồi bằng cách làm việc trên điểm đó, con vượt qua nó và tiến bước. Rất nhiều Phật tử mang xu hướng nhìn vào đức Phật và nghĩ rằng trước hết, Phật sinh ra đã sẵn là một sinh thể rất đặc biệt. Cho nên ngay từ khi ra đời, thày đã khác hẳn mọi người tầm thường ngay trong cơ bản. Họ nghĩ thày không phải đối mặt cùng những vấn đề như họ, cùng những khai ngộ trên đường tu như họ. Họ cũng mang xu hướng nghĩ rằng vì thày quá đặc biệt cho nên thày đã có cách thần diệu nào đó để giác ngộ. Thày đã không phải đi qua tiến trình chứng ngộ dài đằng đẵng – như thể nó xảy ra tự nhiên, và họ cũng mong mỏi nó sẽ xảy ra tương tự với họ.

Nhưng Phật và chính thày đây cùng tất cả các chân sư thăng thiên khác đều đã phải kinh qua cùng cái quá trình các con đang kinh qua. Các thày đã mang một tâm lý rất giống con với rất nhiều ngã tách biệt mà các thày đã dựng lên suốt bao kiếp sống trên hành tinh này. Các thày đã phải khắc phục từng cái ngã đó như chính con đang làm. Đường tu là một tiến trình. Đó là một tiến trình sáng tạo. Luôn luôn đã là như vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. Nếu con chấp nhận được điều này thì đường tu của con sẽ dễ hơn nhiều. Vì nếu không, điều này có nghĩa là trong tâm tiềm thức của con có những cái ngã đang kháng cự lại tiến trình, đang cưỡng chống sự tăng triển tâm linh, cưỡng chống những khía cạnh sáng tạo của đường tu. Nhưng để chấp nhận sáng tạo, chấp nhận hỗn loạn, con sẽ cần gì? Con cần sẵn lòng lấy quyết định và thử nghiệm cho dù con không biết kết quả sẽ ra sao.

Trong đời không có lỗi lầm

Đây là điểm nhiều học trò tâm linh gặp khó khăn vì họ bị ảnh hưởng bởi sa nhân, bởi tâm thức nhị nguyên, rằng có một chuẩn mực một người tâm linh phải như thế nào. Và nếu con tuân theo chuẩn mực thì con đúng, nếu con không tuân theo thì con sai. Đây chính là sa nhân với tiêu chuẩn xét đoán của chúng. Các đệ tử này lo sợ mình sai lầm cho nên họ không muốn lấy quyết định, vì họ biết mỗi khi họ lấy quyết định thì họ có thể lầm lỗi dưới mắt chính họ. Kỳ thực họ muốn bước vào một phong trào tâm linh với những lời dạy nghiêm ngặt, những luật lệ nghiêm ngặt, một cách tu tập nghiêm ngặt, và họ muốn nhận chỉ thị là họ không được tự ý suy nghĩ mà cứ việc tuân theo luật lệ, cứ việc làm đúng pháp tu thì ở cuối đường, họ sẽ thăng thiên hay sẽ nhập Niết bàn hay bất kỳ mục tiêu nào khác. Điều này như Gautama giải thích, không thể làm được.

Con cần bước lui lại và nhận ra là ngược với niềm tin đó, con không thể lầm lỗi trên đường tu tâm linh. Nhiều người sẽ bị sốc bởi câu vừa rồi, nhưng lý do là vì con đã bị ảnh hưởng bởi sa nhân cùng chuẩn mức của chúng về đúng và sai. Đó là một chuẩn mực nhị nguyên dựa trên một ảo tưởng toàn diện. Chuẩn mực này không có mặt trong trạng thái thăng thiên, trong tâm thức Phật. Thày biết rõ các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã bị chuẩn mực này ảnh hưởng sâu xa. Chính sứ giả này đã nếm mùi một tổ chức với tâm thức tập thể vô cùng xét đoán. Nhưng ông cũng đã có thể vượt thăng nó, vì nếu không thì ông đã không cả gan làm những gì ông đã làm từ khi ông bắt đầu làm việc với Giê-su suốt 20 năm qua. Và ông đã làm được là vì ông bắt đầu ngộ ra là trên đường tu không hề có lỗi lầm.

Theo một nghĩa nào đó, trong đời cũng không có lỗi lầm. Cho dù con có làm gì thì quyết định con lấy cũng là một thử nghiệm. Đó là một cơ hội nhìn xem điều gì sẽ xảy ra. Và khi con thấy cái đó xảy ra, trước hết con có thể nhìn xem phản ứng của mình là gì và dùng đó như một cơ hội chuyển đổi các khuôn nếp phản ứng, khắc phục các khuôn nếp phản ứng của con. Nhưng con cũng có thể nhìn xem con có thể điều chỉnh các quyết định cùng hình ảnh con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ như thế nào. Con có khả năng tăng triển khi con quyết định thử nghiệm. Nhưng nếu con cứ ngồi đó không muốn quyết định, không muốn thử nghiệm mà chỉ muốn người ta bảo mình làm gì và phải làm như thế nào một cách thật chi tiết, thì làm sao con tăng triển được đây?

Hãy cả gan thử nghiệm rồi tiến bước

Có những đệ tử tâm linh – không chỉ các đệ tử của chân sư thăng thiên mà trong nhiều phong trào tâm linh kể cả đạo Phật – đã bỏ ra nguyên kiếp đầu thai để tuân theo luật lệ mà không bao giờ dám lấy một quyết định thực sự nào. Liệu trong kiếp sống đó họ đã tăng triển hay không? Họ đã có thể bỏ ra hàng ngàn giờ tu tập chuyên cần, nhưng họ có tăng triển hay không? Nhiều người trong số đó đã không tăng triển chút nào. Con có thể là một học trò chuyên cần học tập một triết lý tâm linh, một người chuyên cần tu hành một pháp tu tâm linh suốt mấy chục năm trời mà không tăng triển gì hết. Hiển nhiên đây không phải là điều các thày mong muốn cho các để tử trực tiếp của thày, và thày cũng không nghĩ con muốn điều đó cho chính con.

Vậy con cần nhìn xem liệu con đang có một cái ngã tách biệt được tạo ra dựa trên chuẩn mực đúng-sai đó, thái độ xét đoán đó, nỗi sợ sai lầm đó, xong con cần xem xét nó, sử dụng các dụng cụ của các thày để đạt tới mức con có thể buông nó ra và nói: “Tôi sẵn lòng thí nghiệm, tôi sẵn lòng thử nghiệm. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Tôi sẽ nhìn kết quả, tôi sẽ dùng nó để nâng cao nhận biết và do đó tôi sẽ tăng triển cho dù kết quả là gì.” Một lần nữa, như các thày đã nói, mục đích của cuộc sống là gì chứ? Sự tăng triển và sự nhận biết của con. Liệu các kết quả thử nghiệm, các kết quả vật lý của việc thử nghiệm, có quan trọng gì trong đời con hay không? Không. Điều quan trọng là những gì con làm với kết quả đó về mặt nâng cao tâm thức. Đó là điều quan trọng duy nhất.

Con nghĩ xem làm thế nào con trở thành một sinh thể thăng thiên? Các thày đã giảng rồi nhưng thày sẽ giảng thêm lần nữa. Con thử hình dung làm thế nào con nhập được cõi thăng thiên? Con phải buông bỏ mọi thứ trên địa cầu. Con có quyền tự quyết. Nếu vẫn còn điều gì đó con muốn làm, muốn hoàn thành, muốn thị hiện hay trải nghiệm trên trái đất, con sẽ không thể chọn rời bỏ trái đất vĩnh viễn. Con sẽ phải quay trở lại cho tới khi con chán chê những gì con có thể trải nghiệm trên trái đất.

Con có nghĩ là các thày, các chân sư thăng thiên, ngồi trên đây xem xét từng quyết định của con và đánh giá: “Ồ, quyết định này quá tệ. Bạn này đã không nên biểu hiện kết quả đó. Kết quả này quá tệ.” Không đâu con. Các thày đã buông mọi chuyện trên trái đất. Liệu những gì xảy ra trong cõi vật lý trên địa cầu do kết quả cuộc thử nghiệm của con có quan trọng gì không đối với các thày? Điều quan trọng duy nhất cho các thày là tác dụng trên tâm thức của con.

Nhiều người trong các con đã nắm lấy khái niệm thời đại hoàng kim của Saint Germain và đặt chồng lên đó một hình ảnh dựa trên những cái ngã vỏ ngoài bảo rằng một số chuyện phải thị hiện. Nhưng như chính Saint Germain đã nói, thời đại hoàng kim là một tiến trình. Mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức tập thể cũng như tâm thức của mỗi cá nhân. Mục đích chủ yếu không phải là thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù. Hẳn là các thày đã có đề cập đến những kết quả vỏ ngoài và đó cũng là một phần của thời đại hoàng kim, nhưng đó không phải là mục đích chủ yếu vì ngay cả kết quả vỏ ngoài cũng chỉ là công cụ cho việc nâng cao tâm thức.

Lấy ví dụ bao nhiêu công nghệ đã được thị hiện trong khoảng hai trăm năm vừa qua do Saint Germain đỡ đầu nền khoa học. Đấy, mục đích của Saint Germain không bao giờ là việc thị hiện một loại xã hội với những toà nhà tối tân, những phương tiện giao thông tinh xảo, những dạng công nghệ cao cấp như con có thể thấy trong phim khoa học viễn tưởng. Mục đích của Saint Germain là nâng cao nhận biết. Thày đã đem lại công nghệ để con người không phải cong lưng làm lụng 12 tiếng đồng hồ mỗi ngày ở đồng ruộng, rồi về nhà trong tình trạng kiệt sức đến độ họ không còn năng lực hay chú ý cho đời sống tâm linh. Mục tiêu của Saint Germain với công nghệ là đem lại cho mọi người thì giờ rảnh rỗi để họ có thể tập trung vào việc giải quyết tâm lý của họ và tăng triển tâm linh.

Trong Dòng sông sự Sống không có đúng đường hay sai đường

Không có gì trên trái đất tự thân nó là một mục tiêu cần đạt. Mọi sự việc trên địa cầu chỉ là phương tiện cho mục tiêu nâng cao tâm thức. Hãy nắm bắt điều này thì phần còn lại của đời con trên địa cầu sẽ dễ dàng hơn biết bao, vì giờ đây con có thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Dòng sông sự Sống hỗn loạn. Con thử lên núi nhìn sông chảy xiết qua vách đá, nó uốn lượn, trong dòng sông có xoáy nước, có đá sỏi. Con hãy nhìn dòng nước. Linh hoạt làm sao, hỗn loạn làm sao, khó lường làm sao! Đó là Dòng sông sự Sống. Sông càng hỗn loạn thì nó càng chảy nhanh. Nó càng êm ả thì nó càng chảy chậm. Con là một đệ tử tâm linh. Con muốn hội đủ tư cách để thăng thiên. Con muốn làm gì cho đến mãn kiếp này? Con có muốn bước chậm hay muốn tiến nhanh? À, hãy đón nhận sự kiện con càng tiến nhanh thì con càng phải linh hoạt, môi trường của con càng phải linh hoạt.

Thật không quan trọng nếu con phạm lỗi miễn là con đang chuyển động. Con chỉ cần chọn lựa khác đi và thăng vượt lỗi lầm. Thậm chí con không cần xem đó là lỗi lầm. Đó là một thử nghiệm trải bày ra một kết quả nào đó. Con dùng nó để nâng cao nhận biết của con, hình thành một xung lực tốt hơn và thị hiện một kết quả khác hơn. Một lần nữa, đây lại là một lời gian dối của sa nhân. Chúng muốn con tin là con có thể làm một chọn lựa mà con không thể tháo gỡ. Thày cũng biết các thày đã nói điều này rồi, nhưng con hãy lắng nghe thật cẩn thận. Sa nhân rất ghét quyền tự quyết vì quyền tự quyết khiến không ai có thể kiểm soát được con.

Chúng muốn con ngưng dùng quyền tự quyết của con. Chúng đã tạo ra chuẩn mực đúng-sai đó và phóng chiếu là con cần đánh giá mọi chuyện mình làm dựa theo chuẩn mực này. Và chúng muốn con tin là có một số chọn lựa với những hậu quả nghiêm trọng đến độ con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi. Người ta có khái niệm là con có thể bán linh hồn cho quỷ rồi không bao giờ thoát ra nổi. Điều này không đúng đâu con. Đó là một sự lừa bịp toàn diện có ác ý.

Quyền tự quyết, hay ý chí tự do, sẽ tự do như con muốn nó tự do thế nào. Con không bao giờ có thể dùng quyền tự quyết để làm một chọn lựa sẽ đình chỉ quyền tự quyết của con. Điều này không thể làm được. Đó là một cơ chế an toàn được gắn sẵn trong định luật tự quyết. Điều sa nhân muốn con làm khi con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống và vấp phải một tảng đá trên sông, con chỉ có ít hơn một giây để lấy quyết định, liệu con sẽ lái sang phải hay sang trái? Con quẹo trái, thế là giờ đây sa nhân bảo con đã quyết định sai lầm và con phải bám vào tảng đá đó, giữ chặt lấy nó để cưỡng lại dòng nước chảy xiết, và con phải tiếp tục bám lấy tảng đá cho đến mãn kiếp này vì con đã quyết định sai lầm.

Nhưng điều con cần làm như một đệ tử tâm linh là nói một cách đơn giản: “À, đi vòng tảng đá phía trái có thể đã đưa tôi đến chỗ này, nhưng tôi vừa đổi hướng và lại quay trở về đó. Chỉ cần ít thời gian hơn chuyện bám lấy tảng đá và phân tích hệ quả xem mình đã làm gì sai, tôi đã cứ trôi tiếp và bây giờ tôi đến được nơi tôi muốn đến.” Con không bao giờ làm một chọn lựa sai lầm mà con chỉ đơn giản đổi hướng trên dòng sông, và nếu con đến một nơi con không muốn đến thì con chỉ việc đổi hướng lần nữa và đi tiếp.

Đây là điều tất cả các thày đã phải làm để hội đủ tư cách thăng thiên. Không một ai trong các thày được miễn không phải kinh qua điều này, cả Giê-su lẫn Phật lẫn chính thày đây. Tất cả các thày đều tới chỗ phải lấy quyết định. Các thày đã điều chỉnh lại tâm thức mình, bước đi tiếp, lấy thêm một số quyết định, đổi hướng. Không có đúng hướng hay sai hướng trong Dòng sông sự Sống. Con có thể nói là nếu con quyết định ôm lấy một tảng đá thì sẽ không xây dựng lắm, nhưng chừng nào con còn chuyển động thì không có chọn lựa sai hay đúng. Con chỉ đổi hướng và đi tiếp.

Con không cần phân tích, con không cần tự trách móc, con không cần buồn phiền hối hận, con không cần bước vào nguyên tiến trình: “Ồ, tại sao tôi đã làm chuyện này, tôi không nên làm vậy, tôi thật ngu ngốc, tôi cứ làm đi làm lại chuyện này và tôi cứ mắc phải cùng một lỗi lầm.” Đây là những cái ngã tách biệt đang nói chuyện. Con hãy nhận ra đó là ngã tách biệt. Con hãy nhìn chúng và nói: “Ta không muốn mi nữa trong trải nghiệm cuộc sống của ta. Hãy lui ra sau ta, Sa-tăng.” Hãy để cho chúng chết. Bước tới. Sáng tạo. Dám là con người sáng tạo, dám xuôi chảy, dám trải nghiệm, dám làm một điều gì đó mà con chưa từng làm. Hãy cả gan không phân tích, không đánh giá kết quả hành động của mình dựa trên tiêu chuẩn đúng-sai. Lời gian dối lớn nhất, một trong những lời gian dối lớn nhất, là bảo rằng Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã tạo ra tiêu chuẩn này. Nó hoàn toàn do sa nhân tạo ra.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con trong bài giảng này. Ý định của thày là trở lại trao cho con thêm một số ý nghĩ có thể sẽ giúp con đối phó với cuộc sống trên hành tinh khó khăn này. Nhưng thày cũng biết con cần nghỉ ngơi, cho nên thày để con nghỉ và thày sẽ trở lại khi thuận lợi.


* Cho năm nay, chúng ta sẽ dùng cùng hình tư tưởng Mặt trời như năm ngoái:

Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”

Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”

Chấp nhận là nhiều người còn trong Trường đời Cay đắng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinat Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava. Thày đã cho con một cái nhìn đặt phần nào trọng tâm vào hoàn cảnh cá nhân của con – làm thế nào con có thể nhìn chính mình và hoàn cảnh của mình như một sinh thể đầu thai trên trái đất. Nhưng bây giờ chúng ta hãy lấy một góc nhìn khác và xem xét tình trạng chung của địa cầu.

Con là một đệ tử tâm linh. Nhiều người trong các con đã từng là đệ tử tâm linh hàng bao nhiêu kiếp sống, và đó là tại sao trong kiếp này con có thể nhận diện một giáo lý cao hơn. Con không thể nhớ cuộc sống của con như thế nào, tâm thái của con như thế nào khi có lẽ vào một thời quá khứ rất xa con không là một đệ tử tâm linh. Hầu như con không nhớ gì hết. Con có thể có chút hiểu biết trí thức rằng nhiều người trên địa cầu đang ở trong một tâm thái thấp hơn, nhưng con có rất ít ký ức trực tiếp về điều này.

Những người cưỡng lại thay đổi

Các thày đã nói gì? Địa cầu là một lớp học, và có hai cách để học trong lớp học địa cầu. Một cách là qua sự chỉ đạo cao hơn, qua giáo lý tâm linh, qua tu tập tâm linh, qua việc tự quan sát, nỗ lực thay đổi tâm lý của mình, bước đi trên một đường tu. Nhưng cách kia là Trường đời Cay đắng. À, có thể con đã ở trong Trường đời Cay đắng vào một thời rất xa hàng bao kiếp trước, cho nên con không nhớ nó như thế nào, và tuy con hiểu một cách trí thức là hầu hết mọi người còn trong Trường đời Cay đắng, liệu con có thực sự nắm bắt được điều này có nghĩa là gì? Hậu quả là gì?

Bây giờ con nhìn lại chính con và con có thể chấp nhận ý tưởng về một thời hoàng kim và chúng ta đang tiến dần đến thời hoàng kim. Nhưng con có hiểu chăng là nếu con cố giải thích cho họ thời hoàng kim là gì, thì tuyệt đại đa số con người trên hành tinh này sẽ không có khái niệm gì về những chuyện con nói – về tiềm năng tiến đến thời hoàng kim? Như câu nói thông dụng, họ mù tịt về chuyện này.

Bởi vì họ không thể hiểu nổi họ có thể nâng cao tâm thức và nhờ vậy đưa địa cầu lên một trạng thái cao hơn một cách hệ thống. Thậm chí họ không nghĩ cả tới chuyện họ có thể chủ tâm nâng cao tâm thức của họ. Họ không sẵn lòng xem xét bản thân hay nhìn vào cái xà trong mắt họ, như Giê-su gọi vây. Cho nên chừng nào họ còn trong tâm thái đó thì làm thế nào đưa họ vào thời hoàng kim, và làm thế nào đưa địa cầu vào thời hoàng kim?

Nhiều người trong số đó sống một đời sống mà con có thể gọi là nghèo nàn, nhưng họ vẫn cố bám lấy nó. Con hãy nhìn biết bao người ở những vùng nghèo của thế giới đã lớn lên trong nghèo khó với viễn quan là họ chỉ có thể nghèo khó, và họ còn chống đối những thay đổi trong xứ họ sẽ đem lại nhiều sung túc hay nhiều tự do hơn cho họ. Con nhìn xem bao nhiêu người khắp thế giới đang cưỡng lại sự tiến bộ. Làm thế nào con có thể thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh với quá nhiều người – đa số mọi người – cưỡng chống lại sự tiến bộ cho dù là tiến bộ nào? Họ không có viễn ảnh nào về thời hoàng kim nhưng họ chống đối tiến bộ vì họ cố bám lấy bất kể những gì họ đang có.

Làm thế nào con có thể thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh như thế này? Con chỉ có thể thực hiện được một khi những người đó chuyển đổi tâm thức của họ và trở nên sẵn lòng trải nghiệm tiến bộ, sẵn lòng trải nghiệm hoàn cảnh của họ được cải thiện. Là một đệ tử tâm linh, hẳn con đang nghĩ: “Nhưng nếu người ta đau khổ, tại sao người ta lại không muốn cải thiện hoàn cảnh của mình?” Nhưng họ không muốn. Đây chính là sự khác biệt giữa con và đa số mọi người trên hành tinh này.  

Con muốn nâng cao cuộc sống của con, con muốn khắc phục đau khổ, con muốn đạt được tự do và con sẵn lòng tự thay đổi để đạt được. Đó là tại sao con là một đệ tử tâm linh. Nhưng hầu hết mọi người chưa ở mức nhận biết này. Họ không thể có viễn ảnh về một thời hoàng kim hay về đường tu tâm linh. Họ chỉ biết những gì họ đang có. Họ không muốn đánh mất cái đó cho nên họ cưỡng lại thay đổi – họ cho rằng thay đổi chỉ có nghĩa là mất mát chứ không là lợi lạc.

Động lực trên địa cầu

Làm thế nào con thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh như thế này? Đấy, con phải tìm ra cách chuyển hóa tâm thức con người. Và đây là chỗ con cần hiểu động lực của ý chí tự quyết. Cách đây hai ba ngàn năm, việc thị hiện thời hoàng kim như Saint Germain mường tượng sẽ không thể thực hiện được. Tại sao vậy? Vì vào thời đó, rất rất ít người có thể nắm bắt khái niệm thời hoàng kim, khái niệm con đường tâm linh, khái niệm tự thay đổi bản thân, khái niệm rằng việc thay đổi tâm thức có khả năng ảnh hưởng đến các điều kiện của hành tinh.

Nhưng ngày nay, rất rất nhiều người đã bước vào nhận biết đó. Nhiều người dù chưa bao giờ nghe nói về chân sư thăng thiên hay ngay cả về đường tu tâm linh, đã cởi mở hơn với sự thay đổi, đã nhận ra là các điều kiện có thể thay đổi. Họ nhìn vào khối lượng tiến bộ đã xảy ra trong mấy thế kỷ qua và họ thấy là tiến bộ có thể tiếp tục trong tương lai, họ chấp nhận, họ mong muốn tiến bộ.

Trái đất đã vượt quá số lượng tới hạn khi có đủ túc số những người muốn thay đổi, và vì vậy định luật không cho phép những kẻ chống đối thay đổi có thể kìm hãm bước tiến dẫn đến thời hoàng kim. Mặc dù đa số còn kháng cự sự thay đổi, nhưng vẫn có một số người tới hạn đã đón nhận sự thay đổi, và đây chính là khối người sẽ đẩy mạnh động cơ dẫn đến thời hoàng kim.

Họ là những người đang quyết định hướng đi chung của hành tinh, vì họ là số 10% ở trên cùng về mặt tâm thức và đông hơn cả số 10% đó. Cho nên luật tự quyết được thiết lập để đảm bảo là khi có đủ số lượng tới hạn những người muốn thay đổi trên một hành tinh, thì thay đổi này phải được phép trải bày ra.

Nhưng điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là thành phần dân chúng kháng cự lại sự thay đổi sẽ không bị ép buộc phải thay đổi, mà điều sẽ xảy ra là nghiệp chướng của họ sẽ không còn được trì hoãn lại – nếu đây là một cách giải thích. Có thể nói là đã có một thời gian miễn thứ khi nghiệp chướng của con người được trì hoãn, được giữ lại, để tạo điều kiện cho con người tăng triển. Nhưng khi chu kỳ xoay vòng, nghiệp chướng sẽ được phóng thích. Có nghĩa là Trường đời Cay đắng sẽ giáng thêm nhiều cay đắng cho họ.

Con cũng có thể nhìn sự việc một cách khác và nói rằng sự phản hồi của tấm gương vũ trụ được gia tốc, cho nên cũng như trên, Trường đời Cay đắng sẽ giáng những cú mạnh hơn trong một thời gian ngắn hơn. Và qua đó họ sẽ bắt buộc phải thay đổi tâm thức, nhưng yếu tố sẽ bắt buộc họ thay đổi không phải là khối người mong muốn thay đổi, cũng không phải là các chân sư thăng thiên, mà là chính những chọn lựa của họ trong quá khứ. Thay vì được phép làm ngơ các chọn lựa cũ thì giờ đây họ phải giáp mặt với các chọn lựa này và không thể nào bỏ qua được nữa.

Bóng hình trên vách

Đây là động lực đang diễn ra trên trái đất. Làm thế nào sự thể này sẽ giúp con, một đệ tử tâm linh, thay đổi cái nhìn của mình về trái đất? À, chúng ta hãy bắt đầu bằng hang động của Plato, một truyện ngụ ngôn từ lâu đời do nhà hiền triết Plato đưa ra. Con có một hang đá. Trong hang có một nhóm người bị xiềng xích khiến họ không thể quay đầu ngó ra đằng sau. Họ ngồi đối mặt với vách đá.

Ngoài hang trời nắng chói chang, có người đi lại bên cửa hang, và ánh sáng mặt trời chiếu lên vách bóng hình những người qua lại. Theo một nghĩa nào đó, những người trong hang cảm nhận là có chuyện gì đang xảy ra sau lưng họ, một chuyện gì ở ngoài hang, nhưng họ không thể thấy chính xác đó là gì, mà họ chỉ thấy bóng hình trên vách đá.

Tất nhiên, Plato muốn dùng hình ảnh này để minh họa sự kiện là những gì con nhìn thấy với tâm vỏ ngoài và giác quan vật lý chỉ là hình bóng của những căn nguyên đang hiện hữu ở những cõi cao hơn, mà ông gọi là “cõi của hình tượng lý tưởng”. Điều này cũng tương tự như những gì các thày gọi là cõi cảm xúc, cõi lý trí và cõi bản sắc, nơi các hình ảnh do mỗi người và nhân loại nói chung cầm giữ được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật trong bát cung vật lý. Thế giới vật chất chỉ là hình bóng của những hình ảnh và hình tượng ở ba cõi cao.

Bản đồ các tầng tâm thức con người

Này con cũng biết khoa học đã tạo ra nhiều loại dụng cụ đo lường khác nhau. Con có vệ tinh không ngừng bay quanh trái đất, dõi tìm một số vật cụ thể trên mặt đất. Con hãy tưởng tượng con đang bay trên quỹ đạo trái đất trong trạm vũ trụ nhìn xuống mặt đất như một con người. Con thấy gì? Con thấy phong cảnh, con thấy những khu rừng, con thấy đại dương, con thấy nhiều thành phố, con thấy đường xá, con thấy cả người ta. Là một con người, xu hướng tự nhiên của con là chú tâm nhìn sinh hoạt con người.

Bây giờ con có một vệ tinh rà xét nhiệt độ. Con thấy mặt đất hiện ra như một mô hình, nhưng vì vệ tinh này chỉ thấy được khác biệt nhiệt độ cho nên một số vùng lạnh hơn sẽ màu xanh, một số vùng ấm hơn sẽ màu đỏ. Vệ tinh không thấy được người ta, không thấy thành phố, không thấy đường xá, mà chỉ thấy sự khác biệt về nhiệt độ.

Rồi có một máy rà xét khác tìm kiếm khoáng chất, nó thấy được những cấu trúc địa chất, những loại quặng sắt. Một chiếc máy khác tìm kiếm dầu hỏa, một chiếc khác nữa đo đạc độ cao và nó chỉ thấy được những khác biệt về độ cao.

Con có thể tạo một bản đồ trái đất về những thứ do bàn tay con người xây dựng. Trên bản đồ có thành phố, đường xá, ranh giới giữa các quốc gia. Hay con có thể tạo ra đủ loại bản đồ khác dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau, như nhiệt độ, độ cao, lượng mưa, quặng mỏ hay bất cứ gì khác. Có rất nhiều cách nhìn trái đất. Là một đê tử tâm linh, con có thể sử dụng cách thức này, con có thể bước lui lại và nói: “Trái đất là gì? Trái đất là gì, đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang tiến về thời hoàng kim?”

Chúng ta đang đến gần điểm thời hoàng kim sẽ bắt đầu xuất hiện, nhưng để cho thời hoàng kim thị hiện, rất nhiều thay đổi phải cần xảy ra. Con có thể bước lui lại và có được một cách nhìn khác về trái đất. Con có thể nói: “Sẽ cần gì để cho thời hoàng kim thị hiện? Sẽ cần một số lớn những người này phải xoay chuyển nhận biết của mình.”

Thậm chí con có thể tạo ra một bản đồ trưng bày những nơi nào có người tập trung sinh sống cùng với mức tâm thức của họ. Liệu loài người đã đến gần hơn với tâm thức thời hoàng kim? Còn xa đến bao nhiêu? Và con có thể lập ra một bản đồ nhiều màu cho thấy là ở một số vùng trên thế giới có nhiều người đã đạt gần đến mức tâm thức thời hoàng kim, trong khi ở những vùng khác thì hầu hết mọi người vẫn còn rất xa. Và như vậy con có thể nói: “Sẽ cần gì để khiến cho những người còn xa tâm thức hoàng kim xoay chuyển được tâm thức của họ đây?”

Trường đời Cay đắng

À, một giáo lý tâm linh sẽ không đủ để làm chuyện này. Những loại giáo lý khác, ngay cả tư tưởng về dân chủ chẳng hạn, cũng sẽ không đủ để làm chuyện này. Các giáo lý về giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ, tính nhân bản cao hơn, cách hành xử trung thực và tử tế giữa mọi người, tất cả những giáo lý và tư tưởng như vậy cũng không đủ để làm chuyện này, bởi vì nếu chúng đủ thì chúng đã làm được rồi.

Vậy sẽ phải cần gì để những người đó chuyển đổi? Đấy, họ còn trong Trường đời Cay đắng, cho nên những cú giáng phải trở nên dữ dội đến độ họ thực sự chú ý. Ngay bây giờ, con có thể nói là họ đang đau khổ, họ đã đau khổ từ rất lâu, có thể họ đã phải nếm mùi đủ loại cay đắng, đủ loại tai ương, đủ loại hoạn nạn, nhưng vẫn không đủ để lay họ thức giấc khỏi trạng thái tâm thức hiện thời, không đủ để khiến họ ngộ ra: “Không, chính chúng ta mới phải thay đổi.” Câu hỏi đặt ra là những cú giáng mà các nhóm người trải nghiệm phải dữ dội đến chừng nào trước khi họ chứng được điều này: “Chúng ta cần thay đổi, chúng ta không thể cứ tiếp tục như thế này”?

Cuộc sống trên trái đất là một màn trình diễn

Khi con ngộ ra điều đó, con có thể nói: “Trái đất là gì chứ?” Con có thể trở về thời Hy Lạp cổ với những nhà hát ngoài trời để trình diễn kịch nghệ. Một loại kịch là bi kịch. Mục đích của bi kịch – mà các sọan giả lẫn diễn viên đều biết rõ – là trình bày một số tình huống trong đời sống, diễn xuất một số cảm xúc đặc thù, một số hoàn cảnh khó xử mà mọi người đều sống qua, hầu cử toạ có dịp giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm thức của mình khi xem kịch thay vì phải trải nghiệm tình thế đó trong đời sống thật, hay có lẽ cử toạ có thể học được điều gì từ vở kịch sẽ áp dụng cho đời sống thật.

Đấy, theo một nghĩa nào đó, Trường đời Cay đắng cũng giống như một vở kịch. Mục đích của nó là đánh thức cử toạ nhìn ra nhu cầu phải thay đổi. Câu hỏi là loại kịch nào sẽ cần được trình diễn cho một nhóm người đặc thù để họ thức tỉnh trước nhu cầu phải thay đổi. Và do đó con có thể thấy là các biến cố vỏ ngoài đang xảy ra trên điạ cầu, tuy có vẻ rất dữ dội và đáng lo ngại, nhưng chúng chỉ là những phương tiện để đạt cứu cánh. Kỳ thực, các biến cố vật lý vỏ ngoài đang diễn ra trên địa cầu có thể ví như màn trình diễn trên sân khấu.

Vấn đề là khi con ngồi trong một rạp hát vật lý theo dõi một màn trình diễn kịch nghệ, con biết rõ những gì xảy ra trên sân khấu không có thật, đó không phải là cuộc đời thật. Vậy tại sao con không nhận ra điều này khi xem cái gọi là cuộc đời thật – rằng những hình dạng diễn ra trên địa cầu thật ra không có gì thực hơn một màn trình diễn trong nhà hát? Vấn đề ở đây là không có sân khấu, mà có một môi trường nơi con đã nhập vai, đã chìm đắm vào đó, cho nên nó có vẻ thực hơn. Thày không đang nói đến đa số con người nhận ra được điều này, mà thày nói đến con là đệ tử tâm linh nhận ra rằng những gì xảy ra trên địa cầu là một màn trình diễn có mục đích đánh thức một số người đang cưỡng lại bước tiến về thời hoàng kim. Và do đó, vấn đề chỉ đơn giản là liệu sự kháng cự của con người sẽ lớn đến chừng nào, và các cú giáng sẽ phải dữ dội đến chừng nào trước khi họ thức tỉnh.

“Chuyện này đáng lẽ không được xảy ra”

Và khi con nhận ra, khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể nói: “Ừ nhỉ, tại sao tôi phải xem đó là hệ trọng? Tại sao tôi phải coi đó là chuyện cá nhân của mình? Tại sao tôi phải cưỡng lại những gì đang xảy ra? Taị sao tôi phải dùng giáo lý tâm linh để lượng định: Ồ, chuyện này đáng lẽ không được xảy ra?” Vị sứ giả này khi vụ xâm lăng Ukraine xảy ra đã cảm thấy rõ ràng: “Ồ, chuyện này đáng lẽ không được xảy ra.” Trước khi nó xảy ra và bất chấp các dấu hiệu báo trước, ông nghĩ: “Chuyện này sẽ không xảy ra đâu. Không có cách chi Putin không thấy được hậu quả, không có cách chi giới lãnh đạo nước Nga không thấy được hậu quả. Họ không thể đui mù đến như vậy.” Nhưng như mọi người có thể chứng kiến hôm nay, họ đã đui mù đến như vậy.

Sứ giả này đã thấy được hậu quả và ông đã phóng chiếu trạng thái tâm thức của ông rằng nhất định phải có ai đó trong giới lãnh đạo nước Nga cũng sẽ thấy được hậu quả và sẽ ngăn cản vụ này. Nhưng ông đã lầm và ông chịu nhìn nhận là mình lầm. Cũng vậy, con có thể dần dần nhìn nhận là trên trái đất có nhiều người cần đến những kịch bản vô cùng dữ dội được trải bày ra trên sân khấu địa cầu mà họ xem là đời sống thực trong thế giới vật chất, trước khi họ có thể thức tỉnh thấy được nhu cầu một sự thay đổi.

Nhưng con không nằm trong số những người đó. Con là một người tâm linh. Con cởi mở tiếp nhận sự hướng dẫn từ một cõi vượt khỏi tâm con cùng vũ trụ vật chất. Con không ở trong Trường đời Cay đắng. Tại sao con lại xem đó là hệ trọng đến vậy, thậm chí con còn xem đó là chuyện cá nhân? Tại sao con lại cưỡng lại? Tại sao con lại cố thay đổi nó đi? Nó là một phần của tiến trình đưa địa cầu đến gần với thời hoàng kim.

Chắc chắn con không thể chờ đợi mọi người có khả năng bước tới thời hoàng kim như con đang bước? Con cần nhìn nhận là nhiều người cần đến Trường đời Cay đắng để có thể bước tới. Điều con có thể làm là lui lại và nhận ra là cho dù những chuyện này có vẻ thực đến đâu, đó chỉ là một vở kịch đang được trình diễn. Thày biết, điều này sẽ có vẻ thật vô cảm đối với nhiều người vì hiển nhiên thế giới đang chứng kiến nhiều khổ đau có thực như chết chóc, bom đạn và tất cả những thứ đó. Thày không yêu cầu con vô cảm. Nhưng thày xin con hãy lui lại và nhận ra là trong tư cách một người tâm linh, con cần cho phép vở kịch này trải bày ra để những ai không thể được đánh thức bởi một giáo lý tâm linh có thể được đánh thức bởi các biến cố đang diễn ra trong cái họ tưởng là đời sống thực.

Tránh không bị i kéo vào màn trình diễn

Tất nhiên là có hậu quả tàn khốc cho nhiều người. Tất nhiên con muốn tránh cho nó không xảy ra. Tất nhiên các chân sư thăng thiên cũng muốn tránh cho nó không xảy ra. Nhưng một khi nó không thể tránh được thì con có thể tránh bị lôi kéo vào trong đó, bị cuốn hút vào các cảm xúc, các ý nghĩ, các cơn lốc, thậm chí vòng xoáy vật lý của các biến cố này. Con có thể đứng lui lại và quan sát, và con quan sát y như con đang ngồi trong nhà hát xem vở bi kịch cổ Hy Lạp được trình diễn trên sân khấu. Thày không nói là con cần thưởng thức vở kịch, nhưng con có thể xem đó như một buổi biểu diễn và con tránh không bị cuốn hút vào đó. Con có thể tránh không phản ứng lại như thể đó là một điều đáng lẽ không được xảy ra.

Từ một nhãn quan nào đó, đúng vậy, tốt hơn là nó không xảy ra. Sẽ tốt hơn biết mấy nếu con người có thể tăng triển mà không đau khổ. Nhưng nếu họ không thể, thì trong chiều dài của thời hoàng kim, nó vẫn gây ra ít khổ đau hơn trong dài hạn so với kịch bản con người không thay đổi. Một khi con hiểu luân hồi thì vấn đề ở đây là con nhận ra, cho dù ai đó có phải rời kiếp đầu thai quá sớm do chiến tranh, thì cơ hội của họ vẫn chưa kết thúc. Họ sẽ lại có cơ hội trở lại hiện thân trong một hoàn cảnh khác và do đó họ sẽ vẫn bước tới.

Cho nên ngay cả nếu con nhìn từ nhãn quan một linh hồn, con có thể nói là người đó có thể đã đau khổ dữ dội trong một thời gian ngắn trong kiếp này, nhưng nó có thể ngăn chặn sự khổ đau kéo dài hơn rất nhiều trong những kiếp tới. Từ một quan điểm toàn bộ, đây là một kết quả xây dựng hơn.

Con hiểu là thày không đang ngồi đây như một chân sư thăng thiên và đưa ra những lời đánh giá như vậy. Thày đã trình bày những điểm này với con như một cách để giúp con tránh không bị lôi cuốn vào sợ hãi, vào phản ứng dựa trên sợ hãi hay nỗi giận hay lòng oán hận hay bất kỳ phản ứng nào khác mà con có thể bị cuốn hút vào khi con chứng kiến những biến cố như vậy. Con có thể trụ ở trung tâm, con có thể tiếp tục tập trung vào công cuộc đưa hành tinh tiến bước về hướng thời hoàng kim. Con có thể đọc bài chú bài thỉnh, con có thể nâng cao tâm thức, con có thể làm việc với Sứ vụ Thiêng liêng của con và nhờ vậy đưa hành tinh đi tới, thay vì bị trật đường rày hay chui vào ngõ hẻm do con phản ứng quá mạnh trước các biến cố.

Mọi thứ đều là dáng vẻ

Con hãy lấy câu này trong bài chú của thày: “Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.” Câu này khiến cho nhiều người xốn xang, nhưng con là một đệ tử tâm linh, con có thể bước lên một tầm nhìn khác và nhận ra là tất cả mọi thứ con người nhìn thấy, mọi thứ con người trải nghiệm đều là một vẻ ngoài. Vẻ ngoài được tạo ra do sự phối hợp giữa những gì xảy ra bên ngoài tâm con với những gì xảy ra bên trong tâm con. Nói cách khác, có những sự kiện bên ngoài, nhưng con cũng có phin lọc nhận thức sẽ pha màu cách con nhìn sự kiện đó.

Có những nhà khoa học đang tranh luận nghiêm túc rằng khi có hai người nhìn vào bãi cỏ, họ có thể đồng ý là cỏ màu xanh lá cây, nhưng liệu họ có thật nhìn thấy cùng một màu xanh hay là cách nhận thức màu xanh của mỗi người là một cái gì cá nhân? Vấn đề này – con có tin không – là chủ đề của một cuộc tranh luận nghiêm túc, và cuộc tranh luận này không vô căn cứ vì nó mở đầu cho việc ngộ ra là mọi người đều mang những phin lọc nhận thức cá nhân. Và đây không chỉ là chuyện nhìn màu sắc, vì nếu việc nhìn màu sắc cũng đã chủ quan và cá nhân, thì việc nhìn các biến cố, các tư tưởng và đời sống riêng của mình sẽ chủ quan hơn đến chừng nào?

Con nhận ra là khi con nhìn vấn đề này từ một nhãn quan thăng thiên, con có thể nói: “Các Elohim đã thị hiện hành tinh Địa cầu. Với tầm mức nhận biết của các vị đó thì Địa cầu là thực, có một hành tinh có thực.” Nhưng nếu con nhìn từ nhãn quan con người đang đầu thai, họ không đang thấy hành tinh thực sự mà họ thấy một vẻ ngoài được chế tạo bên trong tâm họ. Từ nhãn quan một người đầu thai, địa cầu là một hình dạng không có gì là thực, vì cái họ nhận thức không phải là cái được các Elohim tạo ra, mà là một hình dạng bị chính tâm họ ảnh hưởng sâu đậm. Và nếu họ càng ở trong trạng thái tâm thức thấp bao nhiêu, nếu tâm họ càng khép kín bao nhiêu, nếu họ càng chống lại sự thay đổi bao nhiêu, thì họ sẽ chỉ càng thấy được cái hình dạng chứ không phải thực tại.

Cái gì là thực?

Bây giờ con có thể xét tới nhiều điểm khác và hỏi: “Khi bảo rằng một cái gì có thực thì có nghĩa là gì?” Và nhiều người sẽ trả lời, đó là một cái gì mang trải nghiệm khách quan, độc lập với tâm. Có một chút giá trị trong quan điểm này nếu con nhận ra là đối với những người ở trong tâm thức nhị nguyên, tâm họ hoàn toàn chủ quan và tất cả mọi thứ họ thấy đều chủ quan. Con có thể nói là ở bên ngoài tâm đó – cái tâm tách biệt nhị nguyên – có một sự hiện hữu khách quan. Nhưng con không thể bảo rằng chỉ những gì không do tâm tạo ra hay ảnh hưởng mới là thực, bởi vì làm thế nào các Elohim tạo ra địa cầu chứ? Qua uy lực của tâm họ. Các Elohim cũng đã hình thành những hình tư tưởng, đã phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật và thị hiện hành tinh.

Và đấy, tất cả phần còn lại của vũ trụ cũng y chang như vậy. Tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ tâm, cho nên nếu con bảo bất cứ gì tạo ra từ tâm đều không thực một cách tối hậu, thì chẳng có gì là thực trong toàn bộ vũ trụ. Nhưng tất nhiên trên một hành tinh như trái đất, điều thực tiễn hơn là nhận ra rằng khi tâm càng chủ quan, càng khép kín thì tâm này sẽ chỉ càng thấy được những hình dạng không có gì là thực.

Điều nói trên sẽ hữu ích như thế nào cho con, một đệ tử tâm linh? À, con có thể một lần nữa neo chặt vào ẩn dụ rạp hát hồi nãy, và nói rằng trong rạp hát không có gì là thực một cách tối hậu – đó là một buổi trình diễn nhằm ảnh hưởng tâm khán giả. Toàn bộ hành tinh là một màn trình diễn, nhưng sự khác biệt giữa rạp hát với hành tinh nằm ở chỗ mọi người trên địa cầu không chỉ là kẻ bàng quan thụ động, mà họ cũng tham gia vào màn trình diễn. Có thể nói, họ ở trên sân khấu, họ là một phần của vở kịch, nhưng tất nhiên họ lại nghĩ đấy là cuộc đời thật. Nhưng con là một đệ tử tâm linh, con có khả năng giải thoát tâm con khỏi ảo tưởng này về một thế giới có thực. Và lợi ích cho con khi con làm vậy là con có thể nhận ra làm thế nào một cái gì không thực có khả năng ảnh hưởng tâm con?

Ảo tưởng về một thế giới khách quan

Con đã được nuôi dạy suốt nhiều kiếp sống và bị sa nhân lập trình để nghĩ rằng có một thế giới thực, một thế giới khách quan, và tâm con không có quyền lực nào trên thế giới khách quan đó, mà ngược lại thế giới khách quan có quyền lực trên tâm con. Nó có khả năng ảnh hưởng tâm con. Đây là điều sa nhân muốn con tin – có một thế giới khách quan không do tâm tạo ra, cho nên những gì con có thể thay đổi trong hoàn cảnh cá nhân của mình hay những gì nhân loại có thể thay đổi trên hành tinh, có giới hạn.

Sa nhân muốn con tin là con đang sống trong một thế giới thực. Con không thể thay đổi nó, cho nên con không thể thay đổi ảnh hưởng của nó trên tâm con cho tới giờ. Con không có quyền năng thay đổi sự thể này. Thế giới đang đi theo một cách nào đó, như đang có chiến tranh trên thế giới. Điều này ảnh hưởng tâm con theo một cách nào đó, và chừng nào còn có chiến tranh trên thế giới thì con không thể thay đổi cách nó ảnh hưởng tâm con. Đây là điều sa nhân muốn con tin và tất nhiên, đây là một lời nói dối xảo quyệt.

Thực tại mà các chân sư thăng thiên đã giảng dạy từ rất lâu là chính con có quyền năng thay đổi tâm con, để con thay đổi cách thế giới bên ngoài tâm con ảnh hưởng thế giới bên trong tâm con. Thật ra, con có thể đạt tới một tâm thái khi không có gì trên thế giới có thể ảnh hưởng tâm thái của con. Con chọn lựa tâm thái của con một cách độc lập đối với những sự kiện bên ngoài xảy ra trên thế giới.

Đây là điều mà Phật Gautama dạy là “chánh đạo” – Bát chánh đạo – qua đó con lần hồi đạt tới điểm không có gì trên thế giới ảnh hưởng được con. Quỷ dữ của Mara, ông hoàng của thế gian này không thể ảnh hưởng được con, ép buộc con bước vào một phản ứng nào đó.

Quả vị Phật và quả vị Ki-tô

Nhiều người trong các con chưa bắt đầu nắm bắt được điều này. Một số các con đã hiểu được một cách trí thức nhưng con chưa thể nhập được hoàn toàn. Quả vị Phật, quả vị Ki-tô có nghĩa là con đạt tới điểm không có gì xảy ra trên thế giới có thể kiểm soát tâm thái của con. Không có gì có thể buộc con phản ứng lại. Con tự do, cho nên con có thể nhìn vào bất kỳ biến cố nào trên địa cầu mà hoàn toàn tự do chọn lựa phản ứng của mình, chọn lựa những gì mình cảm nhận, những gì mình suy nghĩ, những gì mình tự đồng hóa trong quan hệ với biến cố, và những cách mình sẽ hành động trong quan hệ với biến cố. Con tự do. Con không bị các sự kiện bên ngoài ép buộc.

Làm thế nào con đến được trạng thái này? Bằng cách nhận ra là con mang một số ngã – những cái ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng rằng tâm con phải bị các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng, và chúng chỉ có thể bị ảnh hưởng theo một cách nào đó. Điều này trở ngược về thuở con đến địa cầu lần đầu tiên và nhận chịu những cú sốc kia. Con trải nghiệm trên địa cầu có chiến tranh. Con trải nghiệm sự tàn nhẫn tuyệt đối của một số sa nhân khi chúng sẵn sàng giết hại hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu người chỉ để thỏa mãn tự ngã của chúng. Con bị chấn động đến độ con tạo ra một cái ngã tách biệt để đối phó với sự thể hầu con vẫn giữ được một chút cảm giác thăng bằng, tức là cho dù con phải sống trên một hành tinh khó khăn, nó cũng không hoàn toàn điên rồ đến nỗi con không thể sống sót về mặt tâm lý.

Đó là một phản ứng dễ thông cảm khi con mới đến trái đất lần đầu, nhưng con đã ở đây rất lâu rồi, con đã bước chân trên đường tu và đã đến lúc con cần xem xét ngã tách biệt này, những cái ngã tách biệt này, và để cho chúng chết đi. Điều này không có nghĩa là con trở nên vô cảm theo nghĩa là con phủ nhận sự đau khổ đang tiếp diễn hay con không có lòng từ bi đối với mọi người. Nhưng nó có nghĩa là con nhận ra mặc dù vẫn có chiến tranh trên trái đất, con có khả năng chọn lựa cách phản ứng của mình, hay con chọn không phản ứng trong sợ hãi, trong tách biệt. Thay vào đó, con chọn nói rằng: “Tôi sẽ giữ vững viễn quan. Tôi sẽ đọc chú đọc thỉnh để vấn đề này được vượt thăng. Tôi sẽ nỗ lực nâng cao tâm thức tập thể để vấn đề này được vượt thăng và không thể nào tái diễn.”

Nhưng con không bị xáo trộn, con không bị cuốn hút vào phản ứng tiêu cực của giận dữ, sợ hãi hay thù hận. Con tiếp tục không dính mắc. Không có nghĩa là con không hành động, con không làm tất cả những gì có thể làm để thay đổi tình thế, nhưng con không hành động từ trạng thái dính mắc, xáo trộn, bởi vì trạng thái này đến từ một ngã tách biệt và khi con hành động dựa theo đó, tác động của con sẽ yếu ớt hơn nhiều so với nếu con hành động từ trạng thái cao của quả vị Ki-tô và quả vị Phật.

Con cũng có thể nói là Hiện diện TA LÀ của con có thể gửi xuống một xung lực vào bốn tầng của tâm con nhằm biến hóa năng lượng đang lôi kéo người ta vào cuộc chiến, nhưng năng lượng này phải đi qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc, và khi nó đi qua như vậy, nó sẽ tương tác với bất kỳ khuôn nếp phản ứng nào có mặt ở đó, khiến cho sức mạnh của xung lực bị giảm bớt. Cho nên khi con loại bỏ được các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt này, xung lực có thể đi từ cái ta cao xuyên qua tâm con mà không bị cản trở, và nhờ vậy nó có tác động lớn hơn rất nhiều.

Đừng trì hoãn vô hạn định quả vị Ki-tô

Tất nhiên, việc nhìn ra là không có gì thực một cách tối hậu còn có một lợi điểm nữa, là nó có thể giúp con đạt được trạng thái an bình với sự hiện diện của mình trên trái đất ngay cả trong các điều kiện hiện thời.

Để thị hiện quả vị Ki-tô hay quả vị Phật khi con vẫn hiện thân trong một cơ thể vật lý, con sẽ cần những gì? À, một trong những cơ chế do sa nhân tạo ra là chúng phóng chiếu: “Bạn là một đệ tử tâm linh có trách nhiệm. Bạn đang nỗ lực đạt được một mức nhận biết cao hơn. Bạn đã đạt đến một mức nhận biết cao hơn nhưng bạn cần dấn thân vào những gì đang xảy ra trên trái đất. Bạn không thể lạnh nhạt đứng ngoài cuộc. Bạn không thể rút lui, bạn không thể thản nhiên không quan tâm gì đến người khác.” Cho nên chừng nào địa cầu còn những điều kiện khủng khiếp như chiến tranh chẳng hạn, con sẽ không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Con sẽ cần triệt tiêu các điều kiện vỏ ngoài đó để địa cầu được thái bình hơn, rồi sau đó con mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô của mình.

Sa nhân luôn luôn nói: “Bạn cần phải dấn thân vào các điều kiện hiện thời và tìm cách thay đổi chúng đi, sau đó bạn mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô của bạn.” Và như thế nếu con đồng ý làm vậy, chúng khiến con trì hoãn lại quả vị Ki-tô của con một cách vô hạn định: “Ồ, có chuyện này tôi phải lo cái đã.” Đây chính là truyện ngụ ngôn của Giê-su với chàng thanh niên kia đến nói với Giê-su: “Con muốn theo thày nhưng thày cho phép con chôn cất cha con cái đã.” Phản ứng của Giê-su là gì? “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Bởi vì điều chàng thanh niên muốn nói là: “Con muốn theo thày. Con muốn cất bước trên đường tu dẫn đến quả vị Ki-tô, nhưng có đúng một chuyện này trong thế gian mà con phải lo cái đã. Có chuyện này con phải làm, rồi sau đó con mới có thể tập trung vào quả vị Ki-tô.”

Đấy, có thể có những công việc là một phần chính đáng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con mà con phải làm, hay con phải trải nghiệm để thoát ra khỏi nó, và việc này nằm trong con đường của con dẫn đến quả vị Ki-tô. Nhưng điều sa nhân phóng chiếu vào con là có một tình huống vỏ ngoài nào đó, và chừng nào tình huống này còn tồn tại thì con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên, đâu là cách duy nhất để loại trừ chiến tranh khỏi trái đất? Là khi có một lượng tới hạn những con người thể hiện được quả vị Ki-tô của mình, và nhờ vậy họ có thể kéo tâm thức tập thể đi lên hầu càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh với cái nhìn đổi khác về chiến tranh.

Thế bí lưỡng nan

Vậy nếu con trì hoãn quả vị Ki-tô của mình bởi vì chiến tranh, làm thế nào chiến tranh sẽ được loại bỏ đây? Đây là một thế kẹt, một thế bí lưỡng nan do sa nhân tạo ra và chúng đã tạo ra nhiều thế kẹt kiểu như vậy. Sẽ tới một điểm con cần xem xét điều này và nhận ra là bất kể trên hành tinh đang trải bày ra điều kiến gì, con có quyền gỡ mình ra khỏi nó và tập trung vào sự phát triển tâm linh của mình và thể hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì một khi con đạt đến một trạng thái nhận biết cao hơn, con sẽ có tác động lớn hơn trong việc chuyển đổi các điều kiện trên địa cầu, nhưng con sẽ không thể làm vậy nếu con còn bị dính mắc và phản ứng lại theo một ngã tách biệt.

Nhưng cũng có một góc nhìn khác mà con có thể xem xét. Như thày vừa nói, sa nhân đã dựng lên nhiều điều bí ẩn, một thế kẹt khó xử, một thế tiến thoái lưỡng nan, một tình huống không có giải pháp. Có một ví dụ điển hình là sa nhân tấn công con trong vật lý và hăm dọa giết con. Con làm gì đây? Liệu con sẽ để yên cho chúng giết con hay con đánh trả và giết chúng? Đây chỉ là một trong nhiều tình huống. Sa nhân gây ra một cuộc chiến. Một nước tấn công một nước khác. Con sẽ làm gì?

Chấp nhận trọn vẹn quyền tự quyết

Đó là những thế kẹt mà sa nhân tạo ra và con bị cuốn hút vào đó khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và mang những ngã tách biệt đó, nó khiến con cảm thấy mình phải làm một cái gì. Tất nhiên, cách tối hậu là con giải quyết những ngã vỏ ngoài đó. Nhưng con cũng có thể xoay chuyển thái độ của mình và nói: “Nhưng tôi đang sống trên một hành tinh nơi định luật tối hậu là quyền tự quyết. Nếu người khác dùng quyền tự quyết của họ để làm một chuyện gì, tại sao tôi lại phải ra tay chỉnh sửa? Tôi không có vai trò thay đổi quyền tự quyết của người khác. Tôi có quyền tự quyết của riêng tôi. Vai trò của tôi, thẩm quyền của tôi là những chọn lựa mà tôi lấy, chứ tôi không chịu trách nhiệm những gì người khác làm với quyền tự quyết của họ, và tôi không có thẩm quyền ép buộc họ đổi ý, ép buộc họ đổi ý chí tự do của họ. Cho nên khi có ai làm gì đó, tại sao tôi lại phải phản ứng lại? Tại sao tôi phải tìm cách thay đổi chọn lựa của họ? Tại sao tôi không thể đơn giản để yên cho họ trình diễn nó ra rồi gánh lấy hậu quả?”

Trong một số trường hợp, đó là vì con muốn bảo vệ chính mình khỏi hậu quả, nhưng trong tư cách là người tâm tinh – hầu hết các con – thật ra đó là vì con muốn bảo vệ họ khỏi hậu quả chọn lựa của họ, vì con thấy được những hậu quả đó và con không muốn họ khổ đau. Nhưng trên một hành tinh với quyền tự quyết, con không có trách nhiệm ngăn chặn người ta chọn lựa hay ngăn chặn người ta đau khổ do hậu quả các chọn lựa này.

Như các thày đã có nói, nhiều avatar đến trái đất là vì họ đã chưa neo chặt, chưa hoàn toàn thể nhập quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách mà các avatar phải đối mặt trên hành tinh này – là đạt tới điểm con có thể nhìn sự việc xảy ra, nhìn những người đang làm việc đó, và thay vì tìm cách ngăn chặn họ có những chọn lựa gây ra khổ đau, con đứng lui lại và nói: “Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Để yên cho họ nếm trải hậu quả vì đằng nào họ cũng không nghe tôi nói. Họ không thể học hỏi từ ai đó nói cho họ nghe, mà họ chỉ học hỏi bằng cách nếm trải hậu quả. Tại sao tôi lại ngăn cản không cho họ học hỏi qua cách duy nhất mà họ có thể học hỏi? Tại sao tôi có nhiệm vụ chèn mình vào giữa họ và quả báo của họ? Là một avatar trên địa cầu, vai trò của tôi có thật là ngăn chặn người khác gặt hái hậu quả những chọn lựa của họ bằng cách ngăn chặn không để họ chọn lựa như vậy? Tôi có ở đây để khiến họ thay đổi tâm họ, hay tôi ở đây để thay đổi tâm tôi, nâng cao tâm thức của tôi, thoát ra khỏi bất kỳ ảo tưởng nào mà tôi đang có về quyền tự quyết và thăng vượt nó?” Khi con nhận ra điều này, con sẽ có thể đứng lui lại, nhìn địa cầu và để yên cho mọi chuyện trải bày.

Bí ẩn gắn sẵn với quyền tự quyết

Trên đây là những điều liên quan đến các thế kẹt do sa nhân tạo ra để khiến con mắc bẫy và lôi kéo con vào vòng xoáy bất tận của phản ứng. Nhưng cũng có một số điều khó xử không do sa nhân. Chúng ta có thể nói là những điều này đã được gắn sẵn vào quyền tự quyết và nguyên tiến trình nâng cao tâm thức. Có một số điều khó xử hay bí ẩn như vậy, nhưng điều thày muốn đề cập ở đây là như sau. Như các thày đã nói, con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một ý chí tự do cá biệt. Các thày có nói con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con đang hiện hữu ở cõi tâm linh. Ở cõi tâm linh, mọi người, mọi sinh thể đều cảm thấy mình nối kết với mọi sinh thể khác, mình là thành phần của một tâm, và thế giới là một tổng thể tương kết. Con đã được gửi xuống một bầu cõi chưa thăng thiên như một sinh thể cá biệt. Con có sự tùy chọn để bước vào nhị nguyên và xem mình là một sinh thể tách biệt, nhưng điều thày đang đề cập là sự kiện con đã đến đây như một sinh thể cá biệt.

Con trù hoạch sẽ trải nghiệm thế giới này như một sinh thể cá biệt từ góc nhìn đặc thù của con. Con trù hoạch sẽ tăng triển, sẽ mở rộng sự nhận biết của mình, nhưng vẫn trong tư cách một sinh thể cá biệt. Thế rồi khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, con có thể từ bỏ đời sống cá biệt này và trở về với Hiện diện TA LÀ của con – hay bất kỳ cách giải thích nào khác mà các thày đã cố đưa ra bằng ngôn từ nhưng sẽ không bao giờ thỏa đáng. Bí ẩn được gắn sẵn trong tiến trình này là: Làm thế nào con cân bằng được quyền tự quyết cá nhân của mình với sự kiện con không sống một mình trong thế giới này và trên hành tinh có đến 8 tỷ người khác với quyền tự quyết của họ? Làm thế nào con cân bằng được điều này?

Các thày có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con không đánh mất cảm giác nối kết. Nhưng các thày cũng có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con vẫn phải khởi đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt, con nhận ra là con nối kết với một cái gì vượt khỏi tâm con – con nối kết với mọi người khác, con nối kết với môi trường xung quanh, nhưng con vẫn là một sinh thể cá biệt. Cho nên ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con cũng có bí ẩn này, tình trạng khó xử này. Làm thế nào con giải quyết sự kiện mình có quyền tự quyết cá biệt và mọi người khác trong môi trường của mình cũng có quyền tự quyết cá biệt? Làm thế nào con xử lý được đây?

Nhưng này, thày không đang trình bày cho con điều này với ý nghĩ là sẽ có một cách nhiệm màu để xem xét và giải quyết bí ẩn. Thày không đang nói con có một nhận thức sai lầm, con có một cái nhìn sai lầm và con nên xoay chuyển cái nhìn đó thì con sẽ giải quyết được bí ẩn. Khi con thăng thiên, con có thể nói là con đã giải quyết bí ẩn, nhưng chừng nào con chưa thăng thiên thì thày không thể cho con những từ ngữ và lời dạy sẽ giải quyết bí ẩn dùm con.

Cân bằng ý muốn của con với ý muốn người khác

Chuyện đó không thể diễn tả bằng lời, nhưng điều con có thể làm là chấp nhận bí ẩn có ở đó. Con có thể chấp nhận là chừng nào con còn đầu thai, ngay cả khi con đạt đến tầng tâm thức 144, con vẫn phải xử lý nhu cầu giữ sự cân bằng giữa quyền tự quyết của con và quyền tự quyết của người chung quanh.

Con thử nhìn hai người sống trong một mối quan hệ. Họ sống với nhau trong cùng ngôi nhà, họ có thể có con với nhau, họ có cuộc sống chung. Hãy giản dị hóa và chỉ nhìn vào hai người. Cả hai có thể rất yêu nhau, hiểu nhau sâu sắc và kính trọng lẫn nhau, nhưng hai con vẫn là hai cá thể. Hai con có góc nhìn khác nhau, có quan điểm khác nhau về cuộc đời, có ý chí tự quyết cá biệt. Làm thế nào con sẽ cân bằng đây? Xử lý thế nào khi một người muốn cái này và người kia muốn cái kia?

Một lần nữa thày không đang bảo là có một giải pháp rõ ràng sẽ giải quyết vấn đề. Thày chỉ đang chỉ ra cho con, đây là một bí ẩn sẽ đeo đuổi con chừng nào con còn sống cuộc đời cá biệt này trong một bầu cõi chưa thăng thiên, và ngay cả ở một hành tinh tự nhiên vì đó vẫn là một bầu cõi chưa thăng thiên. Là một người tâm linh, con có thể làm gì? Tại sao thày lại nói cho con điều này nếu con không thể giải quyết hay làm bất cứ gì?

À, con có thể dùng cái đó để nhìn vào toàn bộ hành tinh một lần nữa và con có thể nói: “Lẽ tự nhiên, tôi cần tìm ra cách cân bằng quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người gần gũi với tôi, là những người tôi có mối quan hệ riêng tư trực tiếp. Nhưng phần còn lại của nhân loại, tôi không có nhu cầu làm vậy. Cho nên tôi có thể đứng lui lại và nói: “Tám tỷ người kia trên hành tinh này đều có quyền tự quyết cá nhân, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về quyền tự quyết của họ. Tôi không trách nhiềm về các chọn lựa của họ. Tôi không có nhu cầu điều chỉnh quyền tự quyết của tôi dựa trên chọn lựa của họ.”

Khi con ở trong một mối quan hệ riêng tư trực tiếp, con cần điều chỉnh quyền tự quyết cùng các chọn lựa của mình theo người chung quanh. Nhưng con không cần làm vậy đối với nhân loại nói chung. Con thử suy ngẫm, làm sao con có thể làm được điều đó? Có quá nhiều người khác nhau muốn làm quá nhiều chuyện khác nhau.

Điều con có thể làm như một người tâm linh là bước lui lại và nói: “Tôi không trách nhiệm chọn lựa của những người đó. Tôi không cần phản ứng lại các chọn lựa hay hậu quả chọn lựa của họ. Tôi cần tiếp tục không dính mắc và để yên cho các hậu quả này trải bày ra. Chúng có thể ảnh hưởng đến cá nhân tôi nhưng tôi cần càng không dính mắc càng tốt và hiểu ra là họ cần nếm trải các hậu quả này để chuyển đổi tâm thức. Tôi cần hoàn toàn không dính mắc và chú tâm vào trạng thái tâm thức của tôi. Tôi không trách nhiệm chọn lựa của những người đó. Tôi không cần điều chỉnh quyền tự quyết của tôi dựa trên chọn lựa của họ. Tôi có quyền tập trung vào sự phát triển tâm linh của tôi, con đường tâm linh của tôi, và chú ý tối thiểu đến chọn lựa của người khác. Cho dù nó có tác động đến tôi trong cõi vật lý, tôi có thể tìm ra cách để nó tác động càng ít càng tốt đến tâm và tâm thái của tôi.”

Làm thế nào an bình trong một thế giới hỗn loạn

Điều trên sẽ không giải quyết được bí ẩn, nhưng chắc chắn nó sẽ giúp con dễ sống hơn trên một hành tinh có quá nhiều biến động. Và nó là một phần trọng tâm của những gì các thày muốn trao cho con tại hội nghị này. Hy vọng của các thày là giúp con an bình hơn trong một thế giới hỗn loạn. Và làm thế nào con sẽ an bình hơn? Bằng cách chấp nhận sự hỗn loạn, đón nhận sự hỗn loạn, nhận ra là bất kể chọn lựa của người khác, con vẫn có thể có chọn lựa của riêng con. Và cho dù con không thể kiểm soát các tình huống vỏ ngoài, con có thể làm chủ tâm thái của con một cách độc lập khỏi chọn lựa của người khác. Nói cách khác, con có thể nói: “Tôi không cho phép sự hỗn loạn do chọn lựa của người khác gây ra đi vào tâm tôi và ảnh hưởng chọn lựa của tôi. Tôi vẫn đang lèo lái trên Dòng sông sự Sống với một ý hướng rõ ràng mình muốn đi về đâu. Và cho dù điều gì có xảy ra, cho dù phải quẹo trái hay quẹo phải, tôi chỉ đơn giản tìm về hướng đi mà tôi đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.”

Thày biết rất rõ những gì thày vừa trao không phải là một phương thuốc thần kỳ. Mục đích không phải để con có thể nghiên cứu các giáo lý được ban ra ở hội nghị này và bỗng chốc giải quyết được cảm giác xáo trộn rồi lập tức an bình. Nhưng không có phương thuốc thần kỳ đâu con ạ. Và các thày đã giải thích tại sao.

Đường tu đích thực là gì?

Con cần học hỏi, con cần trải nghiệm, con cần thay đổi tâm thức của mình. Đó là cách con tăng triển nhận biết. Quá nhiều người tâm linh đến với đường tu tâm linh với mục đích đạt được một tâm thái nào đó, và tâm thái này có thể cao hơn nhiều bậc so với tâm thái hiện thời của họ. Nhưng họ thấy được mục tiêu ở đó, cho dù con gọi là quả vị Ki-tô hay quả vị Phật hay giác ngộ hay tâm thức cao, và họ nói với vị thày tâm linh: “Thày hãy cho con phương thuốc thần kỳ để con lập tức có thể bước từ mức hiện thời của con lên cái mức mà con thấy ở trên kia. Thày hãy chỉ con cách làm thế nào từ nơi con đứng, con có thể nhảy cóc lên nơi thày đứng.”

Nhưng làm thế nào thày đã đạt được mức tâm thức hiện tại của thày? Bằng cách bước từng bước một. Vì bằng cách bước từng bước một mà thày đã lần hồi biến đổi tâm thức thày. Làm sao con có thể nhảy cóc lên mức tối hậu từ mức hiện thời của con? Không thể được. Con cần sẵn lòng kinh qua cùng cái quá trình mà mọi người thăng thiên từ trái đất đã sẵn lòng kinh qua.

Nếu con muốn đường tắt, nếu con muốn nhảy bước, thì con chưa thật sự sẵn sàng với đường tu đích thực đã được truyền dạy suốt mọi thời đại trong nhiều bối cảnh khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, con còn tìm kiếm con đường tay trái của các thày giả, họ đưa ra đủ loại hứa hẹn mà họ biết rõ không thể nào giữ lời.

Một vị thày chân chính sẽ không đưa ra một lời hứa không thể nào thực hiện. Làm vậy để làm gì? Một vị thày chân chính không cần gì từ đệ tử. Thày giả cần một điều gì đó từ đệ tử, có thể là ánh sáng của con, năng lượng của con, cũng có thể sự vâng lời của con, một số hành động từ con. Nhưng thày chân chính đã thăng vượt tâm thức nhị nguyên cùng bầu cõi chưa thăng thiên, vị ấy không cần gì từ con. Vị ấy muốn con tăng triển và do đó chỉ có thể cho con một con đường mô tả cách duy nhất để tăng triển – từng bước một.

Mỗi bước là một bí ẩn mà con cần phải giải quyết, một ảo tưởng mà con cần phải vượt qua. Đôi khi đệ tử sẽ nghĩ: “À, mục tiêu chót cùng là giải thoát khỏi mọi ảo tưởng, vậy tại sao tôi không thể nhảy lên đó và được tự do? Hãy cho tôi cái sáng ngộ thần kỳ để tôi giác ngộ ngay lập tức.” Nhưng mục đích thật ra không phải là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Mục đích là kinh qua tiến trình giải quyết các ảo tưởng, từng cái một, vì chính qua sự giải quyết ảo tưởng mà con mở rộng nhận biết. Điều sẽ mở rộng nhận biết của con không phải là trạng thái tự do khỏi ảo tưởng. Điều sẽ mở rộng nhận biết của con là tiến trình giải quyết ảo tưởng. Đây mới là đường tu đích thực.

Hành trình mới cốt yếu chứ không phải mức đến

Một khi con nắm bắt điểm này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình bước theo con đường tuần tự đó. Con có thể chấp nhận, con có thể đón nhận từng bước mà con đang đi, con có thể tập trung vào cái ảo tưởng hiện tại. Con không phải lo lắng về những ràng buộc cao hơn tầm tay của con. Con chú tâm vào cái ảo tưởng trước mặt, con làm việc với cái bí ẩn này, con nhìn ra ngã tách biệt, con buông bỏ nó xong con vươn lên mức kế tiếp. Con bằng lòng là mình đã vươn đến mức này. Nhưng sau một thời gian con nói: “Đâu là ảo tưởng kế tiếp? Đâu là bí ẩn của tầng này?” Và con lại tập trung vào đó. Và cứ như vậy, con an bình với sự kiện mình sẽ tiếp tục làm vậy chừng nào mình còn hiện thân trên trái đất.

Hãy bước từng bước một, giải quyết từng ảo tưởng một. Và khi con neo chặt vào tiến trình này, khi con ôm lấy nó, con sẽ có thể khắc phục thái độ thiếu hụt, mà qua đó con cảm thấy mình bất toàn khi mình biết là mình chưa đến mục tiêu chót cùng. Thay vào đó, con có thể cảm thấy là con trọn vẹn khi tham gia vào tiến trình. Như người ta thường nói, và câu này phần nào đã trở thành sáo ngữ: “Hành trình mới là cốt yếu chứ không phải mức đến.” Nhưng trong câu đó có một sự thật. Rất rất nhiều người tiếp cận đường tu tâm linh với thái độ thiếu hụt đó cho rằng họ sẽ không bao giờ an bình, sẽ không bao giờ toại nguyện hay viên mãn cho tới khi họ đến được tầng mức tối hậu của giác ngộ.

Hãy trung hòa khi quan sát mọi sự trải bày

Nhưng con có thể xoay chuyển thái độ để con an bình, con toại nguyện khi con đang bước trên đường tu, nhìn thấy tiến trình trải bày, cảm thấy tràn đầy mỗi lần con bước lên một nấc, thậm chí còn cảm thấy tràn đầy ở ngay mức hiện thời của mình, tràn đầy khi con quan sát thế giới qua tầng tâm thức hiện thời của mình.

Con có thể đạt tới điểm con an bình quan sát màn trình diễn của địa cầu đang trải bày ra, con thấy rõ mọi người đang phản ứng như thế nào, thấy rõ mọi người đang làm gì. Con quan sát và không có nhu cầu phán xét, con chỉ quan sát xem một số nhóm người có thể rơi vào đối cực đến chừng nào trước khi những cú giáng của Trường đời Cay đắng mới mạnh đủ để khiến họ chú ý và nhận ra sự cần thiết mình phải thay đổi chính mình. Con có thể quan sát điều này. Con hãy quan sát nó trải bày ra như thể con đang theo dõi một bộ phim hay một vở kịch trên sân khấu.

Cuối cùng thì mục tiêu của bất kỳ vị thày tâm linh nào là các thày mong muốn đệ tử của mình có thể đạt được cùng tầng mức tâm thức, cùng sự nhận biết như các thày. Cuối cùng tất nhiên, thày muốn con, mỗi người trong các con, sẽ thăng thiên và nghiệm được sự tự do cùng niềm vui hiện hữu ở cõi thăng thiên, nhưng thày cũng biết điều này không thực tế.

Cho nên điều thứ nhì mà thày muốn, mà tất cả các thày đều muốn cho đệ tử của mình, là trong khi con còn đầu thai trong thế giới hỗn loạn này, con vẫn có thể đạt được một sự giải quyết nội tâm, một sự an bình nội tâm, một sự chấp nhận nội tâm đối với thế giới mình đang sống, đối với các biến cố đang diễn ra cùng tiến trình nâng cao tâm thức của mình và tham gia vào việc nâng cao thế giới cho gần hơn với thời hoàng kim.

Các thày, các chân sư thăng thiên tìm thấy sự toại nguyện khi góp phần vào tiến trình này. Các thày mong con cũng tìm thấy sự toại nguyện mặc dù các thày cũng biết đối với con sẽ khó khăn hơn khi con còn ở trong sự dày đặc của bốn tầng cõi vật chất. Nhưng dẫu vậy, con có thể đạt được sự giải quyết nội tâm đó khi con ngừng cưỡng lại tiến trình để mà ôm lấy nó. Con đón nhận sự hỗn loạn, con đón nhận các biến chuyển và sự năng động trong môi trường của con.

Khao khát tĩnh lặng

Điều thú vị – và đây là một bí ẩn khác – là sự kiện con đã được Hiện diện TA LÀ của con gửi vào thế gian để cho Hiện diện TA LÀ những trải nghiệm khi bước qua các giai đoạn. Có thể nói là Hiện diện TA LÀ của con an bình hơn, tự tại hơn, trong khi một bầu cõi chưa thăng thiên thì chuyển động theo cách khác. Theo một nghĩa nào đó, con đã được gửi ra khỏi sự tĩnh lặng để bước vào chuyển động, nhưng con vẫn khao khát trở về với tĩnh lặng.

Thày không nói là cõi thăng thiên đứng yên một chỗ, nhưng thày đang cố cho con một sự tương phản có thể diễn tả bằng lời. Con bước ra khỏi tĩnh lặng đi vào một thế giới chuyển động. Con là một sinh thể chuyển động nhưng con lại khao khát tĩnh lặng, và con nghĩ cách duy nhất để đạt được tĩnh lặng là ngừng chuyển động. Nhưng đây là một ảo tưởng. Cách duy nhất để đạt được tĩnh lặng là đón nhận chuyển động và nhìn thấy sự chuyển động chỉ có thể có được nhờ sự hiện hữu của một hậu cảnh tĩnh lặng.

Và khi con hoà điệu vào hậu cảnh đó, con có thể cảm nhận sự an bình cho dù con đang chuyển động. Và đây là điều tất cả các thày đều đã làm được ở các tầng cao hơn của đường tu. Nhưng không có quy luật nào bảo rằng con phải ở các tầng cao hơn của đường tu để đạt được điều đó. Con có thể đạt được điều đó hầu như ở bất kỳ tầng nào trên tầng 48 và chắc chắn khoảng tầng 96. Đây là điều mà Gautama lẫn thày đây mong muốn cho con, rằng con sẽ có được một niềm an bình nào đó khi đang chuyển động.

Với lời này, con nhận được lòng biết ơn của Gautama lẫn của thày vì con đã sẵn lòng làm dụng cụ để tiếp nhận vào tâm mình rồi toả ra tâm tập thể. Các thày mong mỗi cá nhân con đã được lợi lạc. Các thày biết tâm thức tập thể đã được lợi lạc. Việc truyền rải một lời dạy như thế này là một bước quan trọng, không những nó được truyền rải vào cõi vật lý mà vào cả bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Với lời này và lòng biết ơn sâu xa, cả Gautama lẫn thày niêm các con trong sự bình an mà các thày là. So với mọi người trên trái đất thì các thày an bình nhưng các thày vẫn chuyển động, bởi vì ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có sự tự thăng vượt, và các thày đón nhận tiến trình này.

Các con được niêm trong sự chuyển động của an bình, sự chuyển động bình an.


* Cho năm nay, chúng ta sẽ dùng cùng hình tư tưởng Mặt trời như năm ngoái:

Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”

Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”

9 | Hành động cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề tiếp theo của chúng ta đương nhiên là điều mà theo truyền thống được gọi là Chánh nghiệp, nhưng thày sẽ chọn gọi là hành động cao hơn.

Con cần lấy các lời dạy của thày về Lời nói Cao hơn, về năng lượng và việc sử dụng năng lượng vì các đề tài này cũng liên quan đến hành động. Con có thể hỏi: “Làm thế nào một hành động vật lý với một cơ thể vật lý lại liên quan đến năng lượng?” À như thày đã nói, mọi thứ đều là năng lượng. Mọi việc con làm đều được làm với năng lượng. Thày biết có thể con sẽ dễ hình dung hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng xuyên qua cảm thể khi con phóng chiếu một cảm xúc thật mãnh liệt. Và có thể con sẽ khó hình dun hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng bằng cơ thể vật lý.

Vấn đề này tương đối dễ giải quyết khi con nhận ra cơ thể vật lý là thể thấp nhất trong bốn thể phàm của con. Con không thể nào có một hành động vật lý chỉ diễn ra trong cơ thể vật lý ở tầng vật lý mà thôi. Tầng vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Bất kỳ hành động nào cũng khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, đi xuống thể cảm xúc rồi mới được chuyển thành một hành động vật lý. Mỗi khi con hành động vật lý, con gửi ra một xung lực xuyên qua cả bốn thể phàm của con. Hầu hết mọi người không nhận biết điều này. Họ cứ đinh ninh là họ có thể hành động vật lý ở trong tầng vật lý mà thôi. Nhiều người tưởng rằng nếu họ quyết định làm một việc gì đó thì họ đang quyết định bằng tâm ý thức, mà họ không biết là họ đang có những khuôn nếp trong cả ba tâm cao hơn, và những khuôn nếp này đã phần lớn định ra ranh giới cho những gì họ có thể quyết định bằng tâm ý thức.

9.1. Ngăn ngừa một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế

Như thày đã giảng, nhiều người thường hành xử giống như một loại rô-bốt, một loại máy tính với những lập trình, những mô thức mà họ mang nơi những tầng tâm cao hơn, tâm tiềm thức của họ. Các chương trình này điều khiển phản ứng của họ, cho nên họ không đang lấy một quyết định vật lý, ý thức, để làm một việc gì. Quyết định được định đoạt bởi các khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Đây là một sự kiện mà một lần nữa chúng ta có thể nói là có vẻ nghịch lý. Thày đã có giảng là về cơ bản, con có thể chọn một trong hai cách tiếp cận con đường tâm linh. Con có thể tìm cách kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một ý niệm bản sắc nào đó, thậm chí cả một số hành động, nhưng điều này sẽ không giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Để nâng cao nhận biết, con cần bước vào bên trong, xem xét các khuôn nếp và giải quyết chúng một cách ý thức – giải quyết thay vì phủ nhận và đè nén.

Khi nói đến hành động, có một giai đoạn trên đường tu khi quả thực con cần trau dồi một sức mạnh ý chí có ý thức để chặn đứng không cho một xung lực từ tâm tiềm thức, từ ba tầng của tâm con, bị đưa ra biểu hiện thành một hành động vật lý. Ở một mức tâm thức nào đó, con không hoàn toàn có khả năng giải quyết các khuôn nếp đó, con không thật sự biết cách làm thế nào, có thể con không có sự quyết tâm để giải quyết, hay con không sẵn lòng nhìn vào bên trong tâm mình – nhìn vào cái xà trong mắt mình theo cách diễn tả của Giê-su.

Xuyên qua các thời đại, không chỉ đạo Phật mà nhiều tôn giáo và nhiều truyền thống tâm linh khác, đã lập ra một quy tắc ứng xử, một quy tắc hành động về những gì con làm hay không làm khi con là tín đồ của tôn giáo đó. Chúng ta không thể chỉ đơn giản bác bỏ quy tắc này và bảo nó hoàn toàn sai trái, ngay cả nếu chúng ta dùng những từ “sai” và “đúng” trong bối cảnh này. Thày sẽ không tìm cách bác bỏ nó vì tất nhiên, khi con làm một hành động thì hành động này có thể tạo nghiệp. Như thày có giảng, nghiệp là các xung lực năng lượng đi qua bốn tầng cõi và quay trở về với con. Nếu con cứ liên tục làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nghiêm trọng hơn, con có thể phá hoại khả năng nâng cao nhận biết của con. Cho nên ở một giai đoạn nào đó, thật là tự nhiên hoặc cần thiết con dùng sức mạnh của ý chí vỏ ngoài để kỷ luật hành động của mình, bởi vì nếu không, con sẽ phá hoại bước tiến tâm linh của con. Có thể con đang theo học một giáo lý tâm linh, có thể con đang thực hành một số pháp tu, nhưng nếu con không ngừng làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nặng nề thì làm thế nào con tăng triển tâm linh được đây? Quả báo thường sẽ ngăn chặn hay cản trở đường phát triển tâm linh của con.

Có một số hành động đã được nhiều tôn giáo quy định suốt các thời đại. Chính thày đây chắc chắn cũng đã định ra một số giới luật cách đây 2500 năm. Một số điều răn được xác định trong Kinh Cựu ước qua những câu “Ngươi chớ…” Những câu này có thể hiệu nghiệm ở một tầng nào đó trong việc ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế mà nhiều người đã vướng phải suốt nhiều kiếp sống. Đến một lúc nào đó con phải chặn nó lại, và bằng cách chấp nhận một khuôn mẫu lý tưởng về những gì một tín đồ trong tôn giáo của con không làm, thì quả thực con có thể tiến bộ. Nhưng tiến bộ này chỉ có thể đưa con đến một điểm nào đó mà thôi, vì thật ra nó không khiến cho vòng xoáy nghiệp quả ngừng hẳn. Nó sẽ ngăn không cho nghiệp trở thành vật lý nếu con không có những hành động vật lý, và nhờ vậy nó giảm bớt độ khắc nghiệt của vòng xoáy nghiệp quả. Tuy nhiên nếu con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tất nhiên con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng. Chỉ có điều là nghiệp sẽ bớt nặng, bớt mãnh liệt.

9.2. Con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm

Vậy con sẽ làm gì khi con vượt quá giai đọan đó? Thành thật mà nói, hầu hết những người cởi mở tâm linh đều đã vượt quá giai đọan đó rồi. Thường thường từ rất nhiều kiếp, con đã không tham gia vào chuyện giết người, không dùng ma túy hay rượu chè cùng nhiều loại sinh hoạt như vậy mà thày đã quy định ngay từ thuở đó là không có tính xây dựng trên con đường Bát chánh đạo. Vậy bước kế tiếp từ điểm này là gì? Ấy đó là trước hết, con nhìn nhận thật là không đủ mà chỉ quy định một số hành động như vậy mà thôi. Bởi vì tâm vỏ ngoài, tự ngã, vô cùng khéo léo sử dụng một giáo lý tâm linh để ngăn chặn bước tiến của con, để nó lẩn trốn hầu con không thấy nó, con không thấy cần buông bỏ nó, giải tán nó, giải thể nó.

Một trong những cách tự ngã làm là nó tạo ra, như thày đã có đề cập trước đây, khái niệm một con đường vỏ ngoài, một con đường tự động. Con đường này bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và nếu con ép mình chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ lên được niết bàn. Nếu con cứ nhắm mắt bước theo con đường tự động này thì ở một điểm nào đó trong tương lai, đùng một cái, con sẽ giác ngộ. Con kiêng những việc làm phi tâm linh và con làm những việc làm tâm linh, kể cả những pháp tu do tôn giáo con quy định, và nếu con cứ siêng năng thực hành thì con sẽ tự động tiến bước.

Như thày vừa giảng, bằng cách nhịn không làm những hành động tạo nghiệp và thực hành các pháp tu tâm linh, con có thể tiến bộ nhưng chỉ tới một mức nào đó. Sẽ đến một điểm con không bước xa hơn mức này cho tới khi con neo chặt vào con đường nội tâm. Thật không đủ nữa nếu con chỉ kiêng một số hành động và làm một số hành động khác. Con cần làm việc trên tâm lý của con, giải quyết các khuôn nếp, các ảo tưởng, những cái ngã mà con có trong tâm tiềm thức giống như những chương trình điều khiển phản ứng của con. Con không thể đi quá một điểm nào đó cho đến khi con nhận ra và bước chân trên con đường nội tâm này. Điều tự ngã thường làm là nó định ra một con đường vỏ ngoài rồi bảo, bởi vì con đã chuyên cần kiêng cữ việc sai và chỉ làm việc đúng, cho nên con không cần nhìn vào bản thân con. Con không cần nhìn vào tâm tiềm thức của con. Con không cần làm bất cứ gì có thể phơi bày chính tôi tức là tự ngã của con.   

Xuyên qua các thời đại, biết bao nhiêu người – không chỉ người theo đạo Phật mà bất kỳ giáo lý tâm linh nào – đã tin vào chuyện này. Nhiều người thời nay là Phật tử, là người tâm linh, tin vào con đường vỏ ngoài này. Quả là có một giai đoạn con có thể tinh tiến với con đường vỏ ngoài, nhưng sẽ tới một điểm nó sẽ cản trở bước tiến của con vì nó sẽ ngăn con nhìn vào tâm tiềm thức.

9.3. Khi các nỗ lực tâm linh cản trở bước tiến

Có những người đã quy định thế nào là hành động bất chính hay chân chính và họ đã rất chăm chỉ sống theo cách định nghĩa này. Nhưng dần dần họ đã cảm thấy một sự căng thẳng bất an nào đó. Lý do là vì qua trực giác, họ cảm thấy họ không đang thực sự tiến bộ với cách tu này. Nhưng tâm vỏ ngoài của họ thì rất gắn bó, và họ gắn bó rất chặt với con đường vỏ ngoài. Họ mang một nỗi dính mắc nói rằng nếu họ thay đổi cách tiếp cận đường tu thì điều này sẽ chứng tỏ là cho đến giờ họ đã đi lầm đường. Và điều cuối cùng họ muốn là bị sai trật về con đường tâm linh họ đang đi.

Cho nên họ mới dính mắc, họ ôm chặt lấy quan điểm của họ, họ bám víu vào cách tiếp cận hiện thời của họ về đường tu. Do cảm giác bất an, giờ đây họ lý luận: “Tôi phải tu tập chăm chỉ hơn nữa. Tôi phải cần mẫn hơn nữa trong việc kiêng cữ mọi việc làm bất chính và chỉ làm những việc chân chính.” Có thể trước hết, họ sẽ suy luận là họ không thể nào sống tiếp một cuộc đời thế tục, họ phải lánh xa xã hội, rút vào tu viện nơi họ sẽ không bao giờ bị cám dỗ bởi hành động bất chính. Nhưng ngay cả khi họ sống trong tu viện, họ vẫn cảm được sự bất an cho nên giờ đây họ nghĩ: “Tôi phải tu tập nghiêm mật hơn nữa.” Thế là nó biến thành một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, tới mức rốt cuộc họ cảm thấy hành động chân chính độc nhất còn lại là chính pháp tu của họ – dù đó là quỳ lạy trên sàn nhà, quay bánh xe cầu nguyện hay bất cứ gì khác. Càng ngày họ càng bị ám ảnh nhiều hơn đến nỗi họ cảm thấy đây là tất cả những gì họ có thể làm.

Bấy giờ tâm vỏ ngoài sẽ thì thầm vào tai họ: “Ồ xem kìa, bạn tu tập sao quá thuần thành. Hiếm có ai tu nghiêm mật như bạn. Điều này chứng minh bạn là môt đệ tử cao cấp, cho nên bạn không có nhu cầu nhìn vào tâm tiềm thức, bạn không có nhu cầu soi gương. Đừng để ý đến những loại xung lực kia và tập trung tâm trí vào việc tu tập đúng đắn.” Có những người có thể làm chuyện này nguyên một kiếp sống hay hàng chục năm trời mà không bước lên được một bước nào trên đường tu đích thực.

9.4. Trung đạo đích thực

Tất nhiên con sẽ muốn tránh điều đó, và làm thế nào con tránh được chứ? Một lần nữa, qua con đường Trung đạo, mà thật sự chúng ta có thể gọi là Thượng đạo, con đường cao hơn, hay Việt đạo, con đường siêu việt. Tâm đường thẳng nói chuyện như thế này: “Đây là một đối cực, kia là một đối cực nữa. Giữa hai đối cực có một thang điểm, có nhiều sắc thái khác nhau từ màu đen qua đủ các sắc xám ngày càng nhạt hơn cho đến khi bạn có màu trắng. Khi Phật dạy về Trung đạo, nhất định phải có nghĩa là bạn tìm ra trung điểm giữa hai đối cực.”

Và người ta lý giải: “Ồ đúng rồi, tôi cần phải nhịn không làm điều sai và đằng khác tôi cần thực hành pháp tu, nhưng tôi không thể bỏ ra quá nhiều thì giờ tu tập đến độ tôi không còn tham gia vào cuộc sống bình thường năng động được nữa. Tôi phải tìm ra một thế cân bằng.” Đây không phải là một cách tiếp cận hoàn toàn vô giá trị, nhưng có một cách hiểu cao hơn. Trung đạo trong nghĩa nguyên thủy, ngay cả trong cách biểu đạt nguyên thủy của nó, không phải là con đường chính giữa. Đó không phải là trung điểm giữa hai đối cực. Đó là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu thoát. Là con đường vượt khỏi không chỉ hai đối cực mà toàn bộ thang điểm nhị nguyên giữa cả hai, tất cả mọi sắc đậm nhạt giữa cả hai. Cho đến giờ thày đã nói là tâm nhị nguyên quy định hai cực đối lập, nhưng tâm nhị nguyên hoàn toàn có khả năng quy định một vùng xám với những độ xám khác nhau giữa hai cực. Toàn bộ thang điểm này, không chỉ hai đối cực mà cả những sắc thái khác nhau cùng với điểm chính giữa, vẫn do tâm nhị nguyên quy định.

9.5. Hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời

Vậy thế nào là con Đường Cao hơn để tiếp cận hành động? À một lần nữa, đó là tìm cách gia tăng khả năng trực giác để chạm được phần nào những gì đã được ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Như thày đã có nói, vào lúc con lập ra Kế hoạch Trọn đời, có thể con đã quyết định là có một trải nghiệm nào đó con có thể có trên trái đất mà con chưa chán chê – như thể con cần trải nghiệm nó cho thỏa thuê tới mức con hoàn toàn chán chê, và nhờ vậy con có thể giải quyết toàn bộ ham muốn này và buông bỏ nó. Con thăng vượt hoạt động đó, ham muốn đó, trải nghiệm đó. Nhưng bây giờ khi con bước vào đầu thai thì con quên mất. Con tìm thấy một giáo lý tâm linh bảo rằng chính cái sinh hoạt mà con muốn nếm thoả thuê cho tới mức chán ngán, là không tâm linh. Và vì vậy con phải kiêng khem không được làm. Con buộc mình phải nhịn hẳn sinh hoạt đó, và kết quả là gì? Con không đạt được tiến bộ mà con đã trù liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con.

Thày đang nói gì ở đây? Thày đang nói là con không thể lập ra một thang điểm vỏ ngoài rồi bảo: “Đây là cách một người tâm linh phải hành động, và kia là những hành động mà một người tâm linh không bao giờ được làm.” Chẳng hạn: “Một người tâm linh phải sống độc thân và kiêng quan hệ tình dục.” Nhiều người tâm linh, đặc biệt trong truyền thống Phật giáo, đã lý luận kiểu đó. Nếu ham muốn trải nghiệm tình dục là dính mắc cuối cùng ngăn cản con nhập niết bàn, thì làm như vậy sẽ cản trở bước tiến của con. Đương nhiên tự ngã có thể dễ dàng dùng điểm này như một cái cớ và nói: “Ồ lời dạy này nghe hay quá. Có nghĩa là tôi có thể làm bất cứ chuyện gì tôi muốn. Có lẽ chăng trải nghiệm này nằm trong Kế hoạch Trọn đời của tôi?” Tất nhiên, làm như vậy chỉ là rơi vào cực đoan ngược lại. Tất cả là vấn đề sử dụng trực giác của con để phát hiện chính xác những gì chính con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của con. Những gì người khác nói hay đặt vào Kế hoạch Trọn đời của họ thật không quan trọng gì. Con cần khám phá chính con đã ghi gì trong Kế hoạch của con và con có thể làm vậy qua trực giác. Một lần nữa, bằng cách dùng những dụng cụ này để nâng cao nhận biết, khắc phục các khuôn nếp và chuyển hóa năng lượng thấp, con sẽ có được một tầm nhìn sáng suốt.  

Kế hoạch Trọn đời của con neo trụ ở đâu? À, nó thật sự neo trụ nơi cái ta cao của con. Kế hoạch Trọn đời của con có thể được xem như một quyển sách hay ít ra một tấm bảng trên kia ở một cõi có năng lượng cao hơn. Cách duy nhất con có thể thấy nó là nhìn từ tâm ý thức xuyên qua các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nhưng nếu các thể này chất đầy những năng lượng thấp, những ảo tưởng của Maya, thì con sẽ không thể nhìn thấy tấm bảng đó, hay ít ra con không thể đọc được.

Khi con bắt đầu dọn dẹp rác rưởi trong các thể cao hơn, loại bỏ Maya, làm sạch năng lượng, thì một cách tự nhiên con sẽ có thể bắt đầu hé nhìn thấy Kế hoạch Trọn đời. Do đó con có thể bắt đầu nhìn ra thế cân bằng cá nhân của con là gì, những hoạt động nào con nên tham gia mà con đã muốn tham gia để khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng.

Tất nhiên một khía cạnh khác trong Kế hoạch Trọn đời là con muốn đóng góp vào sự thăng tiến của cuộc sống trên trái đất, của tâm thức tập thể, của hoàn cảnh nhân loại. Một lần nữa, nhiều người tâm linh đã đặt ra chuẩn mực quy định sự đóng góp này phải như thế nào. Thường thường có thể là họ tham gia vào công việc từ thiện hay họ thực hành pháp tu tâm linh của họ vì đây là cách họ có thể thay đổi thế giới. Điều này không nhất thiết là sai, nhưng liệu có phải là điều chính con đã định ra trong Kế hoạch Trọn đời của con không? Mặc dù con là một người tâm linh, có thể có một đóng góp cụ thể mà con muốn cống hiến trong một lãnh vực thế tục nào đó. Con muốn đưa ra một ý tưởng mới nhằm đề xướng một cải tiến nào đó chẳng hạn trong lãnh vực kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hay nhiều thứ khác. Có lẽ con muốn viết một quyển sách đặc biệt để giúp một số người đạt sáng ngộ. Có thể là nhiều thứ khác nhau. Có muôn ngàn chuyện mà con đã có thể quyết định muốn làm nhưng lại không được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh, chính vì họ đã mang sẵn quy chuẩn kia. Một lần nữa, con có thể bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình, và điều này sẽ không giúp con tăng triển tâm linh cho dù con đã thực hành những pháp tu được thiết kế để giúp con tăng triển tâm linh. Nó sẽ giúp con cảm thấy mình tâm linh hơn, mình tinh tiến hơn, nhưng điều này không phải là tăng triển tâm linh, như thày hy vọng đã giảng rõ rồi.

9.6. Làm hay không làm đều không đủ

Có rất nhiều khía cạnh ở đây cần được cân nhắc nhưng không bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Kỳ thực, chính tâm vỏ ngoài đường thẳng mới thường ngăn cản con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con qua trực giác. Con cần vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài đường thẳng này, nó luôn luôn muốn lập ra chuẩn mực có hai đối cực đúng-sai, nó bảo tất cả những gì con cần làm là làm cái này mà không làm cái kia, và như thế con sẽ đạt mục tiêu. Vì lý do gì con sẽ không đạt được mục tiêu bằng cách làm những việc tâm linh và nhịn không làm những việc phi tâm linh?

Thày đã nói mục tiêu là gì? Giác ngộ là gì? Đó là một mức nhận biết cao hơn. Làm thế nào con sẽ đạt được mức nhận biết cao hơn? Chỉ bằng cách, duy chỉ bằng một cách là thăng vượt mức nhận biết hiện tại của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con vươn tới ít nhất những tầng ở các giai đoạn khởi đầu của giác ngộ. Khi con làm hay nhịn không làm những việc vỏ ngoài, điều này sẽ không tự động chuyển đổi mức nhận biết của con. Trên thực tế, nhiều người tâm linh đã chui vào rồi bị kẹt lại trong một ngõ cụt, và cách duy nhất để họ tiến bước là chất vấn chính cái chuẩn mực về tâm linh và phi tâm linh, trong hành động, trong lời nói, trong ý định, trong toàn bộ cái nhìn của họ về cuộc sống.

Thày có nói là con sống trong một thế giới bất ổn, rằng con không thể nào sống sót về mặt tâm lý, cho nên để sống sót con phải kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một số xung lực ở tầng bản sắc, hầu con tìm được một thế quân bình và một cảm giác liên tục nào đó. Việc kìm nén là cần thiết cho sự sống còn ở một tầng mức nào đó, nhưng kìm nén cũng trở thành cái bẫy chủ chốt – Maya, tấm màn của Maya – sẽ giam giữ con người trong Biển Luân hồi. Do tấm màn ảo tưởng, con người không thấy được là nội dung trong chính tâm họ sản xuất ra trải nghiệm mà họ đang có về cuộc sống. Cho nên cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống là thay đổi nội dung trong tâm họ, chứ không phải một cái gì ở ngoài họ ngay cả ở mức hành động.

Con cần lượng định lại các hành động dựa theo ảnh hưởng của chúng trên trình độ tâm thức của con. Rõ ràng có một số hành động sẽ kéo thấp mức tâm thức của con. Và một trong những hành động phổ biến nhất là ma túy, rượu và các chất gây say khác. Tại Ấn Độ đã có một truyền thống khá lâu đời là một số người – thậm chí họ còn tự xưng là swami hay yogi – sử dụng nhiều loại ma túy và cho đây là cách đạt được tiến bộ tâm linh. Nếu có một chất vật lý nào có thể đưa con đến giác ngộ thì tại sao lại có truyền thống hàng ngàn năm trời của các vị thày tâm linh giảng dạy pháp tu gian nan kia thay vì chỉ cứ giản dị sử dụng chất đó? Đấy, có lẽ là vì các vị thày tâm linh này biết rõ ma túy là một ngõ cụt. Nó cho con một cảm giác, có thể nó khiến con nghĩ vì con có một số trải nghiệm cho nên nhất định con phải là người tâm linh. Nhưng không có gì con có thể làm cho bộ não vật lý sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Trái lại nó có thể hạ thấp mức tâm thức của con, hay ít ra ngăn con vươn lên cao hơn vì con bị kẹt lại ở một tầng mức nhất định.

Nếu con cứ tiếp tục làm vậy thì quả thực nó sẽ kéo thấp mức tâm thức của con xuống, vì sẽ tới một điểm sau khi con dùng ma túy một thời gian, con bắt đầu trực nhận trong nội tâm là con không thể tiếp tục như vậy được nữa, con cần bước tới vì con đang không tăng triển. Như thày vừa nói, điều này gia tăng sự căng thẳng. Bây giờ nếu con phớt lờ cảm giác này và cứ nhất định làm tiếp – hay con tiếp tục ăn cắp, lừa gạt người ta hay bất cứ thói nào khác – thì chỉ có một chuyện có thể xảy ra. Con sẽ phủ nhận mãnh liệt hơn, và chính việc gia tăng phủ nhận sẽ hạ thấp trạng thái tâm thức của con. Cho nên con bước xuống các bực thang tâm thức khi sự phủ nhận càng ngày càng sâu đậm hơn.

Có những hành động khác cũng có thể đem lại tác động tương tự nhưng lại được nhiều người tâm linh liệt vào loại việc làm tâm linh, thậm chí còn thánh thiện nữa. Ngày nay không còn nhiều thông tin về hoàn cảnh thực tế mà thày đã gặp phải trong tư cách là Phật cách đây nhiều thế kỷ. Thày đã gặp khá nhiều sự chống đối từ các nhà Bà la môn đạo Hindu, họ cho rằng họ có độc quyền giảng dạy tâm linh ở vùng này của nước Ấn. Họ rất coi trọng các loại nghi lễ vỏ ngoài. Ngày nay con cũng thấy rất nhiều lễ hội, có những nghi lễ người ta đi vào đền thờ, được một tu sĩ rưới nước trái cây lên người hay bất cứ việc gì khác, và điều này được cho là sẽ trợ giúp tiến bộ tâm linh. Tất nhiên đó là vì các nhà Bà la môn đã tự xưng là người trung gian giữa quần chúng và cõi tâm linh hay các thần linh được mô tả trong đạo Hindu. Cũng giống như các chức sắc giáo hội vào thời Giê-su cũng định nghĩa một tôn giáo dạy rằng cách duy nhất để đến với Thượng đế là qua trung gian hội thánh cùng các tu sĩ, thành phần tu sĩ của giáo hội. Giê-su bị kết án tử hình và hành quyết là vì thày đã thách thức quan điểm đó với lời dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con.

Trong cốt lõi, nói rằng Nước Trời ở ngay trong con cũng giống như nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh và mọi người đều có tiềm năng vươn lên quả vị Phật. Đây chính là điều mà các tu sĩ của một tôn giáo có tổ chức không thể chịu nổi. Họ đã dựng lên quan niệm là qua những hành động được tôn giáo vỏ ngoài quy định và việc kiêng khem những loại hành động khác, thì đảm bảo con sẽ được cứu rỗi, con sẽ được lên niết bàn hay bất cứ tên gọi nào khác. Đây là một động lượng vô cùng lâu đời trên trái đất, một động lượng rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Rất, rất nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin vào điều đó? Vì nó cho họ một cái cớ để họ không nhìn vào chính tâm họ cùng tâm lý của họ.

9.7. Nỗi sợ những gì nằm trong tâm tiềm thức

Tại sao họ không muốn nhìn vào? Vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy trong đó. Điều này con sẽ không hiểu nổi nếu con không hiểu về luân hồi. Con thử nhìn trường hợp đứa bé kia lớn lên ở một trong những nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà xem. Nhìn từ mọi khía cạnh, đứa bé này đã được hưởng một sự nuôi dạy lý tưởng với cả cha lẫn mẹ thương yêu nó, có thày giáo tốt ở trường học, anh chị em cũng tốt bụng. Nói chung nó có những điều kiện tốt nhất mà một người có thể mong muốn, nhưng nó lại mắc phải những chứng bệnh tâm lý trầm trọng đến độ nó không thể hoạt động bình thường trong xã hội. Có vấn đề gì trong cách nuôi dưỡng hay trong gen của nó hay không (nurture or nature)? Không ai trong gia đình nó có xu hướng mắc bệnh tâm lý cho nên không thể quy cho di truyền được. Trong suốt tuổi ấu thơ nó không bị chấn thương, cho nên cũng không thể quy cho cách nuôi dạy. Làm thế nào con giải thích được tại sao một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh lý tưởng lại mắc phải một chứng bệnh tâm lý ngặt nghèo đến thế? Chỉ có một cách giải thích là trong tiền kiếp, nó đã trải qua chấn thương trầm trọng.

Con hãy nhìn bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra chỉ trong một thế kỷ qua. Bao nhiêu người đã phải chịu cảnh chiến tranh? Bây giờ khi họ tái đầu thai, họ mang chấn thương này trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rất nhiều người trong thế giới ngày nay đã đầu thai lại nhiều lần cho nên họ đã hứng chịu đủ loại chấn thương, nhưng chính họ cũng đã làm nhiều chuyện rất ích kỷ, chỉ lo bản thân mình, dựa trên ảo tưởng họ là những sinh thể tách biệt, và những gì họ gây cho người khác sẽ không ảnh hưởng gì đến họ – hay ít ra nếu họ không phải chịu hậu quả vật lý trực tiếp thì họ đã tránh khỏi hình phạt tày trời. Nếu họ không bị bắt thì hình như họ đã thoát được hình phạt. Bây giờ họ hiện thân trong thời đại tân tiến, một trong những biến chuyển to lớn đã xảy ra trong tâm thức tập thể trong mấy thế kỷ qua là rất, rất nhiều người hơn trước bắt đầu lo việc cải sửa tâm lý, như chữa lành tâm lý, đón nhận nhiều loại giáo lý tâm linh, từ yoga qua thiền chánh niệm cho đến đủ loại liệu pháp khác nhau. Cho nên họ đã khởi sự làm việc trên tâm lý của họ.

Có một động lượng đang lớn mạnh trong tâm thức tập thể xem việc tu sửa tâm lý là bình thường, tự nhiên, cần thiết, xây dựng. Trên thế giới có một nhóm người rất đông không chỉ mang theo chấn thương từ tiền kiếp, mà họ cũng mang theo sự nhận biết tinh tế là họ đã làm những chuyện mà đúng lý họ không nên làm. Và họ không muốn nhìn vào những cái đó. Họ không muốn xem xét tâm lý của họ vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy. Họ sợ bị choáng ngợp đến độ không thể sinh hoạt bình thường được nữa. Những người đó muốn gì? Họ muốn con đường tự động, họ muốn có ai đó hứa hẹn với họ: “Con hãy tuyên bố Giê-su Ki-tô là Chúa, là Đấng Cứu rỗi, thì bảo đảm con sẽ được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy gia nhập môn phái Phật giáo này, học tập các giáo lý này, thực hành các pháp tu này thì bảo đảm bạn được giải thoát,” hay “Bạn hãy làm bài tập này, quỳ lạy trên sàn, quỳ lạy đủ mười ngàn lần trong kiếp này thì bảo đảm bạn được nhập niết bàn.” Đó là điều người ta muốn.

Vậy một lần nữa, đâu là cách nhìn cao hơn về hành động? Đó là con nói: “Việc này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Không những nó có nâng cao mức tâm thức của tôi hay không, mà khi tôi làm một hành động thì phản ứng của tôi là gì? Phản ứng tâm lý của tôi là gì? Nó khởi lên những gì trong tâm lý tôi? Cái gì đang bị khuấy động?” Rồi con dùng đó như một cơ hội để nhận ra chính vì con là một sinh thể tâm linh, vì con muốn tăng triển tâm linh, cho nên con đã tự đặt mình vào những tình huống sẽ buộc con – nếu có thể nói như vậy – làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý của con. Đó là một cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con tinh tiến, con bước lên cao hơn. Thêm một bực nữa trên chiếc cầu thang. Nếu con xem mình là một người tâm linh, con cần thực hiện cuộc xoay chuyển này để con sẵn lòng làm công việc này, con ngộ ra sự cần thiết của công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng kia về con đường tự động. Con cần quan sát phản ứng của con khi con nghe những ý tưởng này và nhìn thấy lực kháng cự trong con đang không muốn xem xét chính mình.

9.8. Hành động không thể đưa con vào Niết bàn

Sau đó con có thể đi thêm một bước liên quan đến hành động. Trong giới mộ đạo truyền thống có nhiều người sẽ bảo rằng nếu con làm một số chuyện thì hành động của con sẽ kết án con xuống địa ngục. Nếu con giết một người hay thậm chí nhiều người, con sẽ bị đọa xuống địa ngục. Một lần nữa, đây lại là lối suy nghĩ nhị nguyên. Con đang định ra một đối cực nhị nguyên. Có một thiên đàng, có một địa ngục, và liệu con đi đến nơi này hay nơi kia tùy thuộc vào hành động của con. Một số hành động sẽ đày con xuống địa ngục, một số hành động khác sẽ bảo đảm đưa con lên thiên đàng. Một lần nữa có một động lượng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể khiến người ta muốn tin vào chuyện đó, ít ra nếu những người này đã kiêng cữ không làm những việc đưa xuống địa ngục. Thật không có cơ sở thực tế nào trong chuyện này.

Thày không hề phủ nhận là có một tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất, vượt cả bốn tầng của vũ trụ vật chất. Thày không phủ nhận là con người có khả năng vươn lên tầng cõi đó để được giải thoát khỏi bánh xe sinh tử – con không phải trở lại hiện thân mà sẽ vĩnh viễn thăng khỏi trái đất. Tầng cõi này có đó, đó là một tiềm năng, nhưng đó không phải là điều những người mộ đạo gọi là thiên đàng. Sự khác biệt giữa cõi con đang sống và cõi cao hơn kia – mà thày không muốn dùng ngôn từ để mô tả – sự khác biệt giữa cõi hiện hữu của con bây giờ trên trái đất và tầng cõi cao hơn là mức độ tâm thức. Không phải các hành động của con sẽ quyết định con có thể thoát khỏi trái đất và đi lên cõi cao kia nơi không còn những xung đột, không còn Biển Luân hồi như trên trái đất. Điều duy nhất sẽ quyết định là mức độ tâm thức của con.

Hãy thử lấy một ví dụ cùng cực, con hãy tự hỏi loại sinh thể nào có thể bước vào cõi cao đó? Hãy thật cụ thể. Giáo hội Công giáo có dạy về thiên đàng và những tín đồ Công giáo ngoan đạo đảm bảo được lên thiên đàng. Con có thực sự hình dung được một người Công giáo trung bình tồn tại ở một cõi cao được cho là thiên giới hay chăng? Thử lấy một vị linh mục Công giáo. Từ một góc nhìn vỏ ngoài về hành động, thật con không thể tìm được ai tốt đẹp hơn một linh mục Công giáo. Nhưng nếu như vị này đã lạm dụng trẻ em thì sao? Ông là một kẻ đạo đức giả vì ông giả vờ là một linh mục và một người phụng sự Chúa, nhưng ông lại xâm hại trẻ em. Liệu con có thể nào hình dung một người như vậy được bảo đảm lên thiên đàng với mức tâm thức đã khiến ông xâm hại trẻ em? Có thể nào không? Có thể tưởng tượng được không? Đối với những ai đã kích hoạt trực giác thì chắc chắn không thể. Con sẽ lập tức nhìn ra là tuyệt đại đa số mọi người trên trái đất không thể lên thiên đàng hay nhập niết bàn với mức tâm thức hiện thời của họ.

Điều này liên quan thế nào với hành động? À, nhiều người rất lo sợ khi họ tin vào luân hồi, là có thể họ đã làm một việc gì đó trong kiếp trước sẽ ngăn họ không lên được thiên đàng hay niết bàn, cho dù họ định nghĩa là gì. Sau đây là sự thật giản dị mà thày đã cố giải thích cách đây 2500 năm nhưng thày sẽ trao cho con dưới một hình thức trực tiếp hơn nữa. Không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ đưa con lên thiên đàng, và không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng. Tại sao? Vì hành động không phải là yếu tố quyết định con có lên thiên đàng hay không, mà là mức tâm thức của con. Tất nhiên, một hành động tuôn ra từ một mức tâm thức nào đó. Nếu con đã làm một hành động thì nó cho thấy là ít ra trong tiền kiếp đó khi con đã hành động như vậy – hay ngay cả trong kiếp này – con đã ở mức tâm thức đó, và mức tâm thức này sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng.

Nếu con là một người tâm linh, con không cần sợ xem xét tâm lý của mình. Bởi vì cho dù con đã làm gì đi nữa trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Vũ trụ, Thượng đế, hay bất cứ gì con có thể tưởng tượng, không quan tâm đến những hành động con làm trên trái đất. Quan tâm duy nhất là trình độ tâm thức của con. Thật chẳng quan trọng gì nếu trong một tiền kiếp con đã làm gì đó bị quy định là phi tâm linh hay phản tâm linh. Nếu con đã thăng vượt mức tâm thức này, hay nếu con sẵn lòng thăng vượt tâm thức này ngay bây giờ, thì con có thể – và con sẽ – thoát ra khỏi hành động. Cho nên con sẽ tiến bộ trên đường tâm linh dựa trên những tiến bộ con đạt được trong tâm thức của con. Hành động không phải là yếu tố quyết định mà là mức tâm thức. Và một khi con đã thăng vượt mức tâm thức thì con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

9.9. Nghiệp quả vận hành thực sự như thế nào

Con có thể được lợi lạc từ việc thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa xung lực năng lượng do hành động tạo ra, là điều mà nhiều người gọi là nghiệp. Con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả – nếu con đã giải quyết tâm thức. Cũng có thể nói là khi con làm một hành động, con gửi một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, và khi nó đi lên tầng bản sắc, nó được phản chiếu lại cho con, đi vào thể bản sắc của con. Đây là một xung lực năng lượng. Năng lượng làm gì? Nó tạo ra những mô thức giao thoa với năng lượng ở xấp xỉ cùng độ rung. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức đã khiến con hành động như vậy, nếu con vẫn còn một số ảo tưởng và niềm tin chưa giải quyết trong thể bản sắc của con, năng lượng nghiệp báo sẽ tương tác với những thứ này, sẽ được tăng cường bởi những thứ này. Có nghĩa là nghiệp báo bây giờ đi xuống thể lý trí dưới một dạng tăng cường. Nếu trong thể lý trí con vẫn còn những khuôn nếp và tin tưởng, nó sẽ lại tương tác với chúng và được tăng cường thêm nữa. Rồi nó đi vào thể cảm xúc, và nếu con vẫn còn khuôn nếp cảm xúc chưa giải quyết, nó lại được củng cố thêm, cho nên khi nó băng qua lằn ranh của cõi vật lý, rất có thể nó sẽ thị hiện như một hậu quả dữ dội.

Nhiều người tin vào nghiệp quả tin rằng nếu con đã giết ai đó trong một kiếp trước, quả báo có thể khiến con bị giết trong kiếp này. Không có gì con làm có thể ngăn chặn được sự kiện này vì con đã tạo nghiệp và giờ đây nghiệp phải giáng xuống với kết quả là con bị giết. Điều này chỉ đúng nếu con chưa thăng vượt tâm thức. Nếu con đã thăng vượt tâm thức ở tầng bản sắc, nghiệp báo có thể quay trở lại nhưng không có gì để nó tương tác, không có gì để nó gia tăng. Kỳ thực nếu con đã tạo ra những khuôn nếp cao hơn hay đã tự giải phóng khỏi ảo tưởng và thỉnh cầu năng lượng, nghiệp báo có thể suy giảm.

Đến khi nó xuống đến thể lý trí và nếu con đã thăng vượt các khuôn nếp trí năng, cũng lại không có gì tăng cường cho nó và nó suy giảm thêm. Điều tương tự lại xảy ra ở thể cảm xúc, cho nên khi nó xuống đến thể vật lý, có thể nó đã được chuyển hóa toàn diện thành một độ năng lượng cao hơn, hay nó chỉ thị hiện dưới một dạng nhẹ hơn rất nhiều. Thay vì bị giết, có thể con chỉ gây cho mình một thương tích ngoài da.

Như ngành vật lý hiện đại cho thấy, hành động gắn liền với phản ứng. Không có hành động mà không có phản ứng, nhưng cũng không có phản ứng mà không có hành động. Tất cả buộc chặt với nhau trong lý duyên khởi. Con có thể nói: “Tôi đã làm một hành động vật lý. Hành động này tạo ra một phản ứng từ người khác, và phản ứng của họ đã ảnh hưởng đến tôi.” Hay có lẽ nó không ảnh hưởng đến con vì con đã tránh né được, nhưng nó vẫn tạo ra một phản ứng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cũng tạo ra một phản ứng trong tâm con. Thật ra hành động dựa trên một tiến trình trong tâm con. Nếu con bị kẹt trong Maya và các ảo tưởng, trong một trạng thái tâm thức tách biệt, trong tâm nhị nguyên, rất có thể hành động của con đã khởi lên từ các khuôn nếp phản ứng có mặt trong ba tâm cao của con. Cho mỗi hành động đều có một phản ứng, nhưng con có khả năng thăng vượt, biến hóa phản ứng từ tấm gương vũ trụ bằng cách thăng vượt cái tâm thức đã dẫn đến hành động.

Có rất nhiều người tin vào nghiệp quả, tin đó là một sự trừng phạt, nhưng thật sự nghiệp quả không phải là trừng phạt. Đó là một cơ hội. Thày đã nói gì về mục đích cuộc sống? Đó là để tăng triển nhận biết của con. Làm thế nào con tăng triển nhận biết? Bằng cách nhìn ra điều gì đang cầm giữ con lại ở mức nhận biết hiện thời, khiến con không thể thăng vượt và vươn lên mức cao hơn. Nếu con không nhìn ra thì làm sao con thăng vượt đây? Đôi khi con có thể cố tình nhìn và con thấy, nhưng khi khác con không cố tình nhìn. Thế rồi một tình huống bên ngoài buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con. Đấy, đó là điều nghiệp quả vốn làm. Luật nghiệp quả bảo rằng con đang làm một hành động. Con giết một người – một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự quyết của họ cũng như quyền được có cơ hội tăng triển. Nếu luật nghiệp quả trải bày tức khắc, con sẽ bị giết ngay lập tức, nhưng điều này có nghĩa là con sẽ bước ra ngoài hiện thân. Nếu con không bị giết ngay lập tức, con sẽ phải sống phần còn lại của kiếp này biết rằng mình đã giết một người.

Và điều này cho con một cơ hội để con xử lý nó trong kiếp sống đó. Trong những kiếp tiếp theo, có thể con không nhớ lại một cách ý thức, nhưng con vẫn mang cái tâm lý, các khuôn nếp trong tâm lý đã khiến con giết người. Con vẫn có cơ hội nhìn ra cái đó, xử lý nó và khắc phục nó. Mấy kiếp sau, xung lực nghiệp quả quay trở lại. Đây không phải là một trừng phạt mà là một cơ hội. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức, xung lực nghiệp quả sẽ khuấy động tâm thức đó lên, ngay cả khi không có một tình huống bên ngoài kích động. Có thể con không ở trong một hoàn cảnh bị thúc giục giết người, nhưng xung lực nghiệp quả quay trở về các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con sẽ khuấy động những gì chưa được giải quyết, để con kinh nghiệm nó và được thêm cơ hội xem xét nó trước khi nghiệp quả trở thành vật lý.

Nếu con không sẵn lòng xem xét nó, nghiệp quả sẽ trở thành vật lý, và giờ đây con hứng chịu một hậu quả vật lý mà con không thể phủ nhận. Nhưng trước khi con phải chịu hậu quả vật lý không thể phủ nhận này, con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con. Con chỉ phải chịu hậu quả vật lý nếu con không sử dụng cơ hội. Vậy đâu là trừng phạt chứ? Mọi sự đều là cơ hội. Đây là điều con có thể neo trụ vào và chấp nhận một cách ý thức. Con có thể tự hỏi, con có thể dùng trực giác mà hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”  

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con về hành động. Thày niêm con trong niềm vui của Phật biết rằng thày đã chọn một hành động cao hơn khi trao truyền lời dạy này.

7 | Lời nói cao hơn cần năng lượng cao hơn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 7 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Đề tài tiếp theo mà chúng ta cần bàn đến ở đây là khái niệm lời nói cao hơn. Một lần nữa, nhiều Phật tử đã nhìn vào khái niệm này, lấy cách dịch “Chánh ngữ” và tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Như thày đã có giảng, đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Làm thế nào vươn lên cao hơn?

À, con không thể thấu triệt khái niệm lời nói cao mà không hiểu về năng lượng. Phải công nhận đây là một điều khó giải thích cho con người 2500 năm về trước, nhưng với tiến bộ của khoa học hiện đại, việc này đã dễ dàng hơn. Như đã có đề cập, Albert Einstein đã chứng minh là thực sự thế giới được tạo thành bằng năng lượng. Có nghĩa gì? Có nghĩa là tất cả mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng. Con không thể cảm xúc, con không thể suy nghĩ, con không thể cầm giữ một ý niệm bản sắc, con không thể nói năng và con không thể hành động mà không sử dụng năng lượng. Thày cũng biết là nhiều người nhận thức được là cơ thể của họ cần đến năng lượng, và họ nghĩ họ lấy năng lượng từ thức ăn, có lẽ từ ánh sáng mặt trời, cũng có thể từ việc hít thở không khí, nhưng đây chỉ là khía cạnh vật lý của năng lượng.

Tất nhiên điều này không liên quan gì lắm đến lời nói, lời nói cao hơn. Để nắm bắt khái niệm lời nói cao hơn, con cần nhận ra năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có những năng lượng cấu tạo cái con gọi là cõi vật chất, nhưng còn nhiều rung động năng lượng khác nữa. Con biết qua khoa học là người ta có cách đo những rung động năng lượng không thể nào phát hiện bằng giác quan vật lý. Có một dạng năng lượng rung động trong phạm vi cái chúng ta có thể gọi là phổ tần số vật lý, nhưng vượt ngoài phạm vi này là một dạng năng lượng rung động trong phổ tần số cảm xúc, rồi có một dạng năng lượng lý trí, và cuối cùng là năng lượng rung động ở tầng bản sắc, tức là tầng cao nhất trong vũ trụ vật chất. Vượt ngoài những cái đó tất nhiên có cõi tâm linh với những rung động còn cao hơn nữa, vượt khỏi khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Có thể con chưa biết điều này, nhưng có một giới hạn trong những gì các dụng cụ làm bằng vật chất có thể đo lường. Cũng ví như một kính hiển vi quang học không thể nhìn thấy hạt nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến (wavelength of visible light), và đó là lý do người ta đã chế tạo loại kính hiển vi điện tử để phát hiện những hạt nhỏ hơn. Tương tự như thế, có thể có những dụng cụ khác được chế tạo để đo rung động cao hơn, và một số dụng cụ như vậy đã được sáng chế, tuy nhiên có một giới hạn trong khả năng đo đạc của những dụng cụ làm từ cõi vật chất. Cho nên con sẽ không thể nào tạo ra một dụng cụ có khả năng chứng minh sự hiện hữu của một cõi tâm linh vượt khỏi cõi vật chất. Đơn giản là không thể. Tuy vậy, những năng lượng này có thật.

7.1. Tâm đường thẳng, tâm trực giác và sự khách quan

Bây giờ con có thể nhìn sang những gì các nhà khoa học đã khám phá khi họ đưa ra thuyết Big Bang (vụ Nổ Lớn). Họ bảo là vào thuở Big Bang thật sự không có vật chất theo cách con hiểu vật chất ngày nay, vì mọi thứ đều là năng lượng bị dồn nén trong một điểm cực nhỏ gọi là điểm dị biệt (singularity). Quan niệm này về điểm dị biệt thật ra là do tâm đường thẳng mà có, và chúng ta cần nói sơ qua về vấn đề này. Thày có nói là tâm đường thẳng nhìn vào một hiện tượng xảy ra trong hiện tại, nó nhìn vào sự phức tạp đang có mặt ngay bây giờ, nhưng nó muốn chẻ nhỏ ra và bảo rằng sự phức tạp đến từ một trạng thái đơn giản hơn chỉ tuân theo một vài định luật tự nhiên giản dị. Cho nên nếu con cứ tiếp tục đi trở xuống các trạng thái thấp hơn hay cơ bản hơn, cuối cùng con sẽ lần đến cuối đường dây nơi con tìm thấy nguyên nhân ban đầu.

Theo khoa học, đây là điểm dị biệt có mặt trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay trước Big Bang. Không ai thực sự giải thích được một điểm dị biệt là gì. Không ai thực sự giải thích được làm thế nào toàn bộ năng lượng được tạo ra trong vũ trụ mênh mông bát ngát này có thể dồn nén lại thành một điểm độc nhất. Đây là một thuyết do tâm đường thẳng dựng lên bảo rằng con phải có thể đi ngược trở lại những giai đoạn đơn giản hơn, cơ bản hơn, cho đến khi con chạm được giai đoạn nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên. Cũng giống như bảo rằng ở một thời điểm quá khứ, trong canh súp ban sơ có một tia sét đánh và sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện. Nhưng đây có thật là cách  hiểu duy nhất không? Đối với tâm đường thẳng thì đây là cách hiểu duy nhất, nhưng đối với tâm không đường thẳng thì sao? Ngày nay càng ngày càng có nhiều người ý thức được khả năng trực giác. Càng ngày càng có nhiều người nghiệm ra trực giác chỉ đơn giản là một phương pháp khảo sát thế giới nơi mình đang sống, và trực giác cũng có thể sáng giá và chính đáng như tâm phân tích đường thẳng.

Sở dĩ xã hội hiện đại ngày nay phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn chẳng hạn với môi trường, là vì các nhà chủ nghĩa duy vật khi họ chiếm lãnh khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ muốn bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy, và chỉ có tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc mới có thể khách quan, đáng tin cậy. Đây là một quyết đoán giả tạo đã gây ra những hậu quả sâu rộng trong xã hội hiện đại cũng như rất nhiều vấn nạn mà con thấy dường như không có giải pháp. Họ không đem lại giải pháp nào với tâm đường thẳng, vì một lần nữa tâm đường thẳng chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh, chỉ có thể nhìn cuộc sống theo cách phân tích tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.

Ban đầu khoa học đã là một tiến trình khách quan nhằm quan sát những gì có thể được quan sát. Thay vì cho rằng một học thuyết hay một giáo điều có thể mô tả vũ trụ chính xác mặc dù sự quan sát đi ngược lại giáo điều, thì con người đã sẵn lòng nhìn vào những gì thực sự xảy ra. Đây là một nỗ lực nhằm thiết lập một phương thức khách quan để tiếp cận thế giới. Đây là một phương thức chính đáng nhưng vẫn chỉ là một mặt của đồng tiền – đồng tiền những khả năng của tâm. Trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con có trải nghiệm mà thày đã mô tả, khi cái ta, cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, đó là một trải nghiệm khách quan. Việc trải nghiệm trực giác có thể có giá trị y như việc sử dụng lôgíc và phân tích, nhưng các nhà khoa học lại quyết định chỉ có tâm thuần trí mới đáng tin cậy. Họ đã tìm cách loại bỏ trực giác, tuyên bố là nó chủ quan, trong khi tâm thuần trí thì không chủ quan. Tất nhiên đây là một lời tuyên bố giới hạn, vì con làm gì với cả hai loại tâm đó? Cho dù con dùng lôgíc và lý luận hay con dùng trực giác thì con vẫn đang có một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Câu hỏi trở thành như sau: Vậy liệu con có sẵn lòng, khi con trở về mức nhận biết bình thường của mình, sử dụng trải nghiệm đó để tra vấn nhận biết của mình, tra vấn tâm mình? Hay con sẽ cố diễn giải trải nghiệm xuyên qua mức tâm thức hiện thời của con vì con muốn nó ăn khớp với phin lọc nhận thức, với hộp tư duy mà con đang có? Các nhà khoa học diễn giải các quan sát khoa học nhiều khi không trung lập hay khách quan. Chắc chắn họ không trung lập hay khách quan nếu họ là những nhà chủ nghĩa duy vật tiếp cận khoa học theo ý thức hệ. Họ sẵn có ý về cách họ muốn vũ trụ phải vận hành ra sao, xong họ áp chồng ý này lên quan sát khoa học vì họ cực kỳ mong muốn quan sát phải ăn khớp với hệ thống tư tưởng của họ.

7.2. Một giải pháp trực giác cho thuyết Big Bang

Đó là cách họ đã tạo ra thuyết Big Bang. Phải có sự khởi đầu ở đâu đó, và nếu con dùng tâm đường thẳng để đi đến vật nhỏ nhất con có thể tưởng tượng, thì con sẽ đến một cái gì tâm không thể tưởng tượng nhưng tâm có thể dán nhãn và gọi đó là một điểm dị biệt. Có ai biết cái đó là gì không? À, nhưng con hãy thử dùng tâm trực giác và nói: Big Bang – hay đúng hơn, quá trình thị hiện của vũ trụ vật chất – đã không khởi đầu với một điểm dị biệt. Nó đã khởi đầu với một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số nằm ngay bên trên, một độ rung cao hơn vượt quá phổ tần số vật chất. Không cần thiết là toàn bộ năng lượng của vũ trụ hiện hữu bị dồn nén lại trong một điểm độc nhất, bởi vì chuyện này rõ ràng không thể xảy ra. Điều cần thiết duy nhất là có một cửa mở giữa cõi cao hơn và cõi vật chất để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Bây giờ, tất nhiên vẫn còn khái niệm giả tạo là nếu cửa chỉ mở ra ở đúng một điểm, thì sẽ khó lòng tưởng tượng nguyên vũ trụ rộng lớn này có thể khởi đầu ở một điểm độc nhất. Nếu như không phải vậy thì sao? Nếu như thay vào đó có rất nhiều cửa mở ra thì sao?Thay vì mọi thứ phải chui qua cái lỗ nhỏ độc nhất đó, nếu như có một khối năng lượng rất lớn được giảm độ rung từ phổ tần số cao hơn xuống phổ tần số của vũ trụ vật chất thì sao? Nói cách khác, một sự thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Nếu vậy thì con không cần đến điểm dị biệt nữa. Bây giờ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ cãi: Chứng minh đi! Và thày sẽ nói: Con hãy dùng trực giác của con thì con sẽ trải nghiệm được sự thật. Làm sao thày diễn tả được đây? Vì tâm con có tiềm năng trở thành một điểm vào, một điểm tiếp nhận năng lượng đến từ cõi cao. Thật ra nếu tâm con không có khả năng này thì con đã không thể có ý thức. Từ ngày chủ nghĩa duy vật lên ngôi, các khoa học gia đã cố loại trừ tâm thức ra khỏi các nghiên cứu khoa học, bảo rằng: “Chúng tôi không cần nghiên cứu tâm thức làm gì vì tâm thức chỉ có thể chủ quan.”

Một nhà khoa học giỏi sẽ biết rõ các dụng cụ mình dùng, sẽ sẵn lòng xem xét những hạn chế của dụng cụ. Các nhà khoa học đã có thể dùng kính hiển vi quang học để quan sát hạt nhỏ nhất họ có thể quan sát nhưng vẫn lớn hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến. Nếu họ có cùng tư duy như những nhà duy vật kia thì họ đã có thể quả quyết: “Không có gì nhỏ hơn hạt nhỏ nhất này. Không thể có gì nhỏ hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy qua kính hiển vi quang học này.” Con cần biết hạn chế của dụng cụ con dùng để con biết liệu con có đang quan sát chính xác hay không. À, đâu là dụng cụ cơ bản mà các nhà khoa học sử dụng? Đó là tâm họ. Không những họ dùng tâm họ để xây dựng lý thuyết hầu chế tạo dụng cụ quan sát, mà họ cũng dùng tâm họ để diễn giải các quan sát đó.

7.3. Sự mở rộng nhận biết dẫn đến kiến thức mới

Bây giờ con có thể trở ngược về 2500 năm trước khi thày hiện thân trên trái đất và con người không có nhận thức về bất cứ chuyện gì vượt ngoài khả năng giác quan của họ. Nhiều người không biết là trong cơ thể họ có các bộ phận, Chắc chắn họ không biết đến tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử. Họ có thể quan sát năng lượng như ánh sáng mặt trời, nhưng họ thật không có khái niệm về năng lượng. Họ cũng không có khái niệm về rung động, tần số, bước sóng, biên độ. Ngay cả khái niệm về sóng năng lượng họ cũng không có. Họ có thể nhìn thấy sóng trên mặt nước nhưng họ không quan niệm được sóng năng lượng. Không có cách chi giải thích được cho họ. Kỳ thực, không có cách chi các nhà khoa học có thể xây dựng các thuyết hiện thời dựa trên những gì con người hiểu biết vào thời đó.

Điều gì đã xảy từ thuở đó? Nhân loại đã mở rộng nhận biết của mình, không những dựa trên khám phá mới mà cũng nhờ việc hình thành khái niệm mới. Ngày nay con người có nhiều khái niệm hơn hẳn cách đây 2500 năm, và đây là tại sao con người có thể giải thích những chuyện không thể nào giải thích trước đây. Một điều các nhà khoa học không ý thức là cách họ hình thành khái niệm có tác động đến cách họ nhìn toàn bộ vấn đề. Nó tác động đến các lý thuyết mà họ có thể xây dựng, các dụng cụ mà họ nghĩ họ sẽ chế tạo, các đo đạc mà họ nghĩ họ sẽ đo đạc, cũng như cách họ diễn giải các đo đạc đó.

7.4. Cái gọi là lưỡng tính sóng-hạt

Con cũng biết nếu con đã học môn này là trong khoa vật lý lượng tử có một hiện tượng gọi là lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality). À, hạt là gì chứ? Hạt là một khái niệm đã khởi đầu trong cái tâm sử dụng giác quan để nhìn thế giới, để trải nghiệm thế giới. Mắt con có thể nhìn thấy một quả bóng bi-a, nó có thể nhìn thấy những vật nhỏ hơn rất nhiều xuống đến hạt cát. Cho nên con mang khái niệm về hạt là một hạt khả kiến, rồi khái niệm này được các nhà khoa học dùng tâm đường thẳng nới rộng ra, bảo rằng chắc phải có những hạt càng ngày càng nhỏ hơn cho đến hạt nhỏ nhất có thể. Đây là cái mà người Hy Lạp cổ gọi là nguyên tử, nghĩa là hạt bất khả phân chia. Rồi tới thời điểm các nhà khoa học hiện đại phát hiện cái họ nghĩ là hạt nhỏ nhất không thể phân chia thì họ cũng gọi là nguyên tử. Nhưng sau đó, họ khám phá là nguyên tử thật ra có thể được phân chia và có những hạt nhỏ hơn nữa – thường gọi là hạt hạ nguyên tử với những cái tên khác nhau.

Các thí nghiệm cho thấy là nếu con quan sát hiện tượng hạ nguyên tử này theo một cách nào đó thì nó cư xử như một hạt, nhưng nếu con quan sát theo cách khác, nó sẽ cư xử như một sóng. Cho nên các nhà khoa học nghĩ ra cái tên “lưỡng tính hạt-sóng”, xem như đây là một trong vài bí ẩn còn sót lại trong ngành vật lý hiện đại. Nhưng lưỡng tính hạt-sóng là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô (macroscopic) có thể được phát hiện bằng giác quan, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô (microscopic) không thể phát hiện bằng giác quan. Nếu con lấy thuyết của Einstein, thuyết này nói rằng mọi vật chất đều thực sự là năng lượng và năng lượng là sóng, thì làm gì có chuyện có hạt nào nhỏ nhất. Kỳ thực ở mức hạ nguyên tử, không hề có hạt nào mà con có thể nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy các khái niệm mà con mang trong tâm ảnh hưởng như thế nào đến cách con nhìn thế giới, đến những kết luận mà con rút tỉa, và do đó đến những trải nghiệm mà con có về thế giới.

7.5. Quan niệm một Thượng đế cá nhân

Có rất rất nhiều người cởi mở với một giáo lý tâm linh nghĩ rằng giáo lý tâm linh có thể cho họ sáng ngộ về cách vận hành của thế giới. Hiển nhiên nhiều giáo lý làm công việc này, nhưng nhiều người cũng hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp họ thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Họ tìm kiếm một loại đũa thần được cài sẵn trong giáo lý để họ có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Ví dụ điển hình là người ta dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế mà họ nghĩ là một ông già ngồi trên ngai trắng vĩ đại, đang nhìn xuống cá nhân họ và đánh giá từng việc họ làm là đúng hay sai theo quy chuẩn tối thượng của ngài.

Nếu con làm theo những gì Thượng đế này bảo là đúng – hay đúng hơn những gì mà một con người, một tu sĩ thuộc nhân gian, một nhà Bà la môn, đã quy định là đúng dưới mắt Thượng đế – thì con sẽ được tưởng thưởng và được lên thiên đàng. Còn nếu con không nghe theo các nhà Bà la môn của tôn giáo của con thì con sẽ bị trừng phạt đày xuống địa ngục. Niềm hy vọng ẩn chứa trong thế giới quan này là bằng cách làm những điều được tôn giáo mình quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn.

Tất nhiên đây là một niềm tin có từ cổ xưa và nhiều người đã sống bao nhiêu kiếp sống với niềm tin đó. Nhiều người thời nay đã từng sống với niềm tin này trong nhiều kiếp đến độ họ phải từ bỏ nó vì họ nhận ra là nó không hiệu nghiệm – ít ra là không có cách nào khiến cho nó hiệu nghiệm mỗi lần. Họ bước vào đầu thai trong thời đại hôm nay với một lòng ngờ vực sâu sắc đối với các tôn giáo truyền thống dạy về một Thượng đế sẽ toại nguyện mọi ước muốn. Lý do là vì họ trải nghiệm là mặc dù niềm tin này cho họ niềm hy vọng, nhưng rốt cuộc đây là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng của họ (disempowering). Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng các nỗ lực nhằm xúi giục ngài làm theo ý muốn của họ, thì họ sẽ chẳng làm gì được. Họ bị kẹt cứng, theo nghĩa đen. Họ bị tước mất quyền năng.

7.6. Một giáo lý tâm linh trao quyền năng

Lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng (empowering) cho con. Thế nào là trao quyền năng? Là con nhận ra sự kiện thày vừa nhắc đến lúc nãy. Tâm con mà có ý thức là vì có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con – mà chúng ta không cần đào sâu ở đây – nhưng trước tiên nó đi vào tâm bản sắc của con. Ở đây năng lượng được phú cho một số đặc tính, hay nó khoác vào hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc. Điều này khiến cho năng lượng mang đặc tính, cho nên nó khoác vào một hình tướng nào đó. Con có thể so sánh với một cái kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu khác nhau, và khi ánh sáng đi qua lớp hạt màu đầu tiên, nó khoác vào màu sắc đó, rồi cứ vậy nó đi qua các lớp màu tiếp theo.

Trước hết con có tâm bản sắc và ở đây con có ý niệm về con là ai và con có thể làm gì. Nếu con cảm nhận mình là một sinh thể thụ động không có quyền năng thì đây là đặc tính mà năng lượng sẽ khoác vào khi nó đi vào tâm bản sắc của con. Rồi năng lượng đi qua tâm lý trí nơi con có thể có một số tin tưởng khác gây giới hạn – giới hạn những gì con có thể làm hay không thể làm – và bây giờ năng lượng khoác vào những đặc tính này. Cuối cùng nó đi vào tâm cảm xúc nơi con có thể có một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ gì khác, và một lần nữa điều này lại phú thêm đặc tính cho năng lượng. Thế rồi năng lượng đi vào tâm ý thức của con, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Con làm gì với tất cả năng lượng này? À, con dùng nó để suy nghĩ, để bày tỏ cảm xúc, con dùng nó để thốt ra lời nói, và con dùng nó để hành động, những hành động vật lý. Đây không phải là tất cả những gì con làm. Tâm con kỳ thực là một máy chiếu tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

7.7. Tấm gương vũ trụ

Con có thể – và một số các con đã nghe các thày đề cập trước đây – con có thể so sánh vũ trụ vật chất với một tấm gương. Những gì con phóng chiếu ra ngoài bằng tâm con sẽ được tấm gương phản chiếu lại. Có nghĩa gì? À, đây thực sự là ý nghĩa sâu sắc hơn của lời dạy mà thày đã trao truyền 2500 năm trước về lý duyên khởi.

Tất cả mọi thứ trong thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu được tạo thành bằng bốn tầng này: tầng vật lý, tầng cảm xúc, tầng lý trí và tầng bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu. Tuy nhiên, vũ trụ vật lý có sự nối kết với tâm con người. Con người là những sinh thể đồng-sáng tạo. Có một số sinh thể tự nhận biết đã tạo ra hành tinh địa cầu từ bên ngoài, nhưng con người là những sinh thể đồng-sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con làm việc này xuyên qua tâm con bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, phóng chiếu chúng vào năng lượng cấu tạo bốn tầng. Đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi đã không thể được giải thích 2500 năm về trước, nhưng có thể được giải thích ngày hôm nay ở một mức dễ nắm bắt hơn nhờ hiểu biết hiện thời về năng lượng.

Con thấy đó, con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực – chúng ta có thể tranh luận nó thực đến chừng nào, nhưng ngay bây giờ thì không phải là chuyện thích đáng nhất. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Nói cách khác như thày đã giảng về Big Bang, thay vì toàn bộ năng lượng cấu tạo vũ trụ hiện thời bị dồn ép vào một điểm dị biệt, đã có một thời điểm khi vũ trụ không thị hiện vì không có năng lượng nào trong phổ rung động vật lý. Tất cả năng lượng đều nằm ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rồi tới một điểm đã có một sự phóng chiếu đưa năng lượng vào phổ vật lý. Việc này không xảy ra ở một điểm độc nhất mà ở nhiều điểm, và những điểm này quy định một khoảng không gian là không gian nguyên thủy.

Năng lượng đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó bắt đầu kết tụ thành các hạt vật lý, xong các hạt này ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành như con thấy được ngày hôm nay – hay đúng hơn, còn nhiều thiên hà hơn nữa mà con chưa thấy được ngày hôm nay do vũ trụ quá lớn. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng về cơ bản, nó cũng xảy ra theo cùng một cách như con đồng-sáng tạo, nghĩa là năng lượng được phép chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

7.8. Một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau

Vậy ở đây con có một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Có bốn tầng trong cái chúng ta có thể gọi là vũ trụ vật chất, nhưng ở trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt hiện hữu trong trường năng lượng rộng lớn hơn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, một tâm lý trí, một tâm bản sắc. Rộng hơn, tất cả những tâm con người cá biệt này đều nối kết, hình thành cái chúng ta có thể gọi là tâm tập thể. Khoa học thậm chí đã khám phá là khi một số biến cố xảy ra, có một sự mạch lạc gắn kết trong tâm tập thể, và điều này ảnh hưởng đến các bộ sinh số ngẫu nhiên (random number generator). Thày không đang cố chứng minh một điều gì cho tâm thuần lý đường thẳng mà chỉ muốn khích động trải nghiệm trực giác của con.

Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi. Tại sao điều này lại trao quyền năng cho con, ngược lại với tước quyền năng? Bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu. Phải, hoàn toàn đúng là các tình huống vật lý của con không chỉ độc nhất là sản phẩm của sự phóng chiếu từ tâm con. Chúng cũng là sản phẩm do tác động liên kết của tâm tập thể và tất nhiên cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Đây không phải là một niềm tin thần diệu vào một Thượng đế toại nguyện mọi ước muốn, có uy lực gạt qua bên quyền tự quyết của tám tỷ con người hầu ban cho con đúng những hoàn cảnh mà con muốn, vì như vậy là tước quyền năng. Nhưng nếu như Thượng đế không làm vậy thì sao, vì trong hầu hết trường hợp ngài sẽ không làm vậy? Với hiểu biết này, con có thể có một cách tiếp cận trao quyền năng, và con nói: “Có thể là tôi không thể thay đổi mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số khía cạnh bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống vật lý tôi không thể thay đổi theo cách này, nhưng chắc chắn tôi có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, thay đổi cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực, tôi có thể đạt tới điểm tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Đây là trao quyền năng. Và mặc dù thày đã không thể giải thích điều này cách đây 2500 năm, đó vẫn là điều thày đã cố giải thích. Chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của mình.

7.9. Lời nói và năng lượng

Vậy tất cả những điều vừa rồi liên quan thế nào với lời nói và lời nói cao hơn? Ấy, lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Tuy nhiên, ngay cả khi con im lặng trong tâm bản sắc, lý trí và cảm xúc, thì con vẫn đang phóng chiếu, nhưng những phóng chiếu này không có tác động trực tiếp ở tầng vật lý như khi con hành động vật lý hay khi con phát biểu. Nói cách khác, khi con tạo ra một tác động có thể được quan sát bởi giác quan vật lý, điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hơn ở tầng vật lý so với khi con phóng chiếu từ một trong ba tầng cao.

Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng có thể được dùng để phú đặc tính cho năng lượng, và con sẽ không bao giờ hiểu được khái niệm Chánh ngữ – hay như thày chọn diễn tả ở đây: lời nói cao hơn – nếu con không hiểu là giọng nói của con chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng. Năng lượng này sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Có thể con đã ý thức điều này vì con đã quan sát là nhiều lần con có thể có những cảm xúc mãnh liệt, thì con cảm được trong trường năng lượng của con có một sự xáo trộn. Có thể con không ý thức lắm về trường năng lượng của mình, nhưng con có thể cảm thấy có gì đó đang xảy ra. Nếu con rất tức giận, nó gần như có thể biến thành một hiệu ứng tự tăng cường, một vòng xoáy hướng hạ. Một khi con băng qua một lằn ranh nào đó, con mất hết tự chủ. Thường thường con biểu lộ nỗi giận qua giọng nói của mình và nó cuốn hút con vào một cơn lốc, một vòng xoáy đi xuống có thể rất khó lòng nào thoát ra khỏi. Có thể con đã quan sát sự giận dữ nơi người khác hay con đã trải nghiệm nơi chính con. Tất nhiên còn có nhiều loại cơn lốc hay vòng xoáy khác có thể khống chế con, và đây chỉ là một ví dụ về cách con sử dụng năng lượng. Con khiến cho năng lượng mang một sắc thái nào đó và nó tác động trực tiếp đến trạng thái tâm con.

Để biểu hiện lời nói cao hơn, con cần ý thức làm thế nào giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính và phóng chiếu năng lượng. Con cần không làm vậy một cách đường thẳng, lý luận. Luôn luôn có cám dỗ muốn xử lý một cách đường thẳng, và đây là một chuyện khả dĩ. Hiện nay người ta đã có những dụng cụ có thể đo đạc giọng nói con người cùng sự rung động trong giọng nói con người. Con có thể dùng dụng cụ này nếu muốn, hầu lập ra một thang điểm đường thẳng, rõ ràng, có thể phát hiện những loại rung động khác nhau do giọng nói tạo ra. Một số người đã thử nghiệm điều này, chẳng hạn con thấy những nhà khoa học thí nghiệm ảnh hưởng của âm thanh trên đống cát đặt trên một tấm kính hay những loại dụng cụ tương tự. Điểm đáng nói là thay vì giàn dựng việc này theo kiểu phân tích, điều sẽ thực sự hữu ích cho con là con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong chính trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.    

7.10. Âm thanh ảnh hưởng trường năng lượng của con như thế nào

Con cũng biết là nếu ai đó nổi giận la hét với con, điều này tác động đến con. Lý do là vì họ đang phóng chiếu năng lượng mang một rung động đặc trưng nào đó vào cảm thể của con. Mọi năng lượng đều có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Nếu con mang một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc và nếu người kia tức giận với con, nó sẽ khuấy động các khuôn nếp này. Chẳng hạn chính con cũng có thể nổi giận theo. Hoặc con có thể xấu hổ hay buồn phiền vì cảm thấy mình có lỗi khi người kia la hét buộc tội mình.

Con có thể sử dụng điều sau đây. Con đã có khả năng này rồi nhưng con có thể tinh luyện và phát triển thêm nữa để con cảm rõ là có những loại lời nói phú cho năng lượng một đặc tính rung động thấp. Về cơ bản có hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con có thể học cách cảm nhận được điều này. Thật đơn giản, con trụ vào giữa trái tim, giữa lồng ngực và con tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi chăng? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?” Con sẽ có thể cảm được là nếu có ai la mắng con thì năng lượng của con bị kéo thấp xuống, Và nếu có ai nói chuyện với con một cách tích cực, thương yêu, thì năng lượng của con được nâng lên.

Đây là những tiêu chí mà hầu hết người tâm linh đều có thể phát triển khá nhanh chóng. Tất nhiên một số đã làm vậy rồi. Con có thể lượng định mình dùng lời nói như thế nào và người khác dùng lời nói như thế nào. Điều này sẽ cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Bởi vì dù con có gửi ra những gì, và cho dù con nghĩ con chỉ hướng nó về đúng một người và trong phòng này không có ai khác và không ai khác có thể nghe thấy con, thì bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ quay trở về con.   

7.11. Nghiệp thật ra là xung lực năng lượng

Đó là một cách để giải thích quan niệm cổ xưa về nghiệp (karma). Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm của con để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi vào thể lý trí, vào thể cảm xúc, vào thể vật lý rồi được phóng ra ngoài. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc. Ở đây, nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi cái thày đã gọi là tấm gương vũ trụ, và như vậy nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi thể lý trí, rồi thể cảm xúc, rồi thể vật lý. Đây là điều các tôn giáo và triết lý phương Đông gọi là nghiệp. Giản dị đó chỉ là sự phản hồi về chính con của năng lượng mà con đã gửi ra.

Bây giờ nếu như con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương thì chuyện gì xảy ra? À, cùng điều đó lại xảy ra. Nó lại đi xuyên qua bốn thể trong tâm con, đi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó lên đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu trở về con. Kỳ thực nó sẽ vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con. Giờ đây con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn mang rung động cao từ cái ta cao của con, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con. Nói cách khác, khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao đó, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn. “Người nào đã có, sẽ nhận được nhiều hơn.” Đây là ý tưởng về các ta-lăng, hay vốn liếng tâm linh, được nhân lên gấp bội mà Giê-su đã mô tả trong một truyện ngụ ngôn.

Vậy chúng ta cũng có thể hỏi: “Tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ? Tại sao lại có Biển Luân hồi?” Đấy, bởi vì trái đất là một hệ thống năng lượng, nhưng hiện nay phần lớn năng lượng trong hệ thống này bị tha hóa bởi một rung động thấp kém dựa trên sợ hãi. Có quá nhiều năng lượng sợ hãi trong hệ thống năng lượng và trong tâm thức tập thể, đến độ nó thường khiến cho tâm con người bị quá tải và con người bị đau khổ, cảm thấy buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận và đủ mọi thứ khác. Tất cả những cảm xúc thấp này liên quan đến sự kiện năng lượng trong tâm thức tập thể làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người. Phương thức để thoát khỏi sự thể này là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Con thấy đó, thày có giảng là nếu con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó sẽ được gửi trả về cho con, nhưng tác dụng sẽ ra sao trên trường năng lượng của con? Tác dụng là sẽ có sự phản ứng lại, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp đã sẵn có trong năng trường của con. Con trở nên căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Nếu con loại bỏ năng lượng sẵn có trong năng trường của con và cũng loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đã khiến con tha hóa năng lượng với lòng sợ hãi, thì sẽ chẳng có gì để năng lượng tương tác với. Xong nếu con đổ đầy năng trường của con với rung động cao, thì khi rung động thấp quay trở lại, chúng sẽ được các rung động cao này biến hóa. Một lần nữa, đây lại là một điểm khó giải thích vào thời của Phật nhưng dễ giải thích ngày hôm nay qua các nguyên tắc động học sóng đơn giản.     

Nếu con hướng một sóng năng lượng với một độ rung nào đó vào một sóng năng lượng khác, sẽ có một mô thức giao thoa giữa hai sóng với kết quả là một sóng thứ ba phối hợp cả hai. Nói cách khác, con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên nhưng thấp hơn sóng thứ nhì. Kết quả chung cuộc là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Con thử nghĩ nếu con đã mang một khuôn nếp trong mấy kiếp sống và đã tha hóa năng lượng với lòng giận dữ, và năng lượng này một phần được phóng ra ngoài, một phần tích tụ lại trong trường năng lượng của con, thì con có thể thấy khuôn nếp đó không chỉ mang một khía cạnh tin tưởng – tin rằng con cần đáp trả bằng sự tức giận hay đây là cách đáp trả duy nhất. Khía cạnh kia của khuôn nếp chính là năng lượng tác động lên cảm xúc của con, và con càng nhiều năng lượng giận dữ trong cảm thể thì con sẽ càng có xu hướng đáp trả, phản ứng lại bằng sự giận dữ trong đủ loại tình huống khác nhau. Nếu con bỏ được năng lượng này đi, con sẽ dễ nhìn ra khuôn nếp phản ứng hơn, nhìn ra tin tưởng đằng sau khuôn nếp và buông bỏ nó, hầu con được tự do và con vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trên đường tu.       

7.12. Dùng lời nói để chuyển hóa năng lượng

Tại sao thày lại nói tất cả những điều này khi chủ đề là lời nói? À theo truyền thống, các giáo lý đạo Phật hay các phong trào Phật giáo đã dùng nhiều dụng cụ tâm linh khác nhau để nâng cao tâm thức. Người ta đã dùng pháp thiền trong im lặng, nhưng nhiều người cũng đã dùng pháp tụng niệm, đọc Om, đọc các câu chú hay một số âm tiết, và các pháp này cũng đã được sử dụng trong các truyền thống tâm linh hay các nền văn hóa khác. Lý do làm vậy là vì con người từ thuở xưa đã biết sâu trong trực giác là việc sử dụng giọng nói của mình là một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy họ chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực lôi kéo tâm họ.

Bây giờ con thấy được là có hai khía cạnh khi con mang những dính mắc mà thày đã nói đến khoảng 2500 năm về trước. Một, con có một tin tưởng là một ảo tưởng, và hai, con có một số năng lượng đã được phú cho một đặc tính xuyên qua tin tưởng đó, và năng lượng này lôi kéo tâm ý thức của con. Nếu con đã tích lũy nhiều năng lượng giận dữ, thật không cần gì lắm để kích hoạt phản ứng giận dữ của con trong một số tình huống nhất định. Con có thể nhìn những người với thời gian càng ngày càng có xu hướng phản ứng giận dữ, và lý do đơn giản là vì họ càng ngày càng tích tụ nhiều năng lượng giận dữ hơn trong cảm thể của họ, và nó áp đảo tâm ý thức của họ.

Khi con ý thức được điều này, và bằng cách sử dụng những loại dụng cụ thích hợp để thỉnh năng lượng có tần số cao, con có thể tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Tất nhiên con có thể dùng các pháp tụng niệm truyền thống trong đạo Phật, nhưng cũng có những phiên bản hiện đại hơn, có khi gọi là bài chú hay bài thỉnh mà con có thể dùng trong mục đích này. Điều con nhận ra ở đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói, lời nói cao hơn, là con học cách dùng giọng nói của mình, quyền năng của giọng nói, để thỉnh và hướng năng lượng hầu năng lượng dựa trên sợ hãi được biến hóa trở lại thành năng lượng dựa trên tình thương. Khi làm vậy, con giải phóng tâm con để nhìn vào các khuôn nếp và bước lên một tầng cao hơn trên đường tu. Đây là điểm then chốt con cần ngộ ra liên quan đến lời nói.

Nhiều người trong các con đã sẵn cảm thấy là khi mình nói chuyện giận dữ hay bài bác thì năng lượng của mình bị kéo thấp xuống. Khi con nói chuyện tử tế yêu thương, năng lượng của con được nâng lên. Một lần nữa, với thời gian, nhiều Phật tử cũng như nhiều người tâm linh khác đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là trong tư cách một người tâm linh, họ phải luôn luôn nói chuyện theo một cách nào đó. Họ phải tránh nói năng giận dữ, họ phải tránh nói to, họ phải luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ tử tế, và họ cho rằng như vậy là đủ, nhưng họ đang làm gì chứ? Họ đang dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Thày vừa cho con điều gì ở đây? Một giải pháp khác. Con không dùng sức mạnh để kềm chế xu hướng nói năng giận dữ, mà con dùng giọng nói của mình để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Con có thể cho rằng bằng cách kềm chế mọi phát biểu thiếu hài hòa thì con đã chứng tỏ một sự tiến bộ vượt bực trên đường tu tâm linh, nhưng thày thà thấy con loại bỏ chỉ một khuôn nếp còn hơn là con kềm chế cả trăm khuôn nếp. Ít ra một khuôn nếp này sẽ đưa con lên một bước cao hơn, trong khi việc kềm chế sẽ chỉ khiến con cảm thấy mình không cần bước lên bước nào vì mình đã là một đệ tử tâm linh cao cấp quá rồi. Một lần nữa, con có khả năng bước lên cao hơn và nhìn mọi chuyện như một cơ hội. Nhiều người tâm linh đã chấp nhận chuẩn mực quy định mình phải nói năng nhỏ nhẹ, không bao giờ được mất hài hòa, không bao giờ được to tiếng, không bao giờ được cáu kỉnh, và nếu làm vậy thì mình cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận, mình phải tự khiển trách hay khiển trách người khác.

Thực sự tại sao một vị thày tâm linh lại muốn quan tâm đến cách cư xử như vậy? Đúng, nếu đấy là một khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại thì nó thật không xây dựng, nhưng thày vừa nói gì chứ? Con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra trong đời con như một cơ hội để nhìn ra một điều gì đó trong tâm thức của con và khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây chính là phương thức xây dựng. Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao về chủ đề này. Cho nên thày sẽ niêm con trong lời nói vui mừng của Phật.

3 | Từ chánh kiến đến cái hiểu cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Bát chánh đạo là một điều mà nhiều người tự xem mình là Phật tử suốt các thời đại đã hoạt động trí năng đáng kể để cố tuân theo trong khả năng cao nhất của mình, có nghĩa là họ đã dùng trình độ nhận biết của họ và biết bao khuôn nếp có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ để tuân theo. Như được mô tả thì đó không phải là một con đường dễ theo, vì vậy thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách làm thế nào con có thể đạt được một tầm nhìn mới về con đường này trong thế giới hôm nay.

Bình thường con đường này được định nghĩa là có tám bước, tám giai đoạn, tám phẩm chất, và chúng đều bắt đầu với từ “chánh,” như chánh kiến, vân vân. Nhưng liệu “chánh” có phải là từ thích hợp để sử dụng hay không khi con nhớ lời dạy của thày về các cặp? Tâm thức nhị nguyên luôn luôn muốn chia mọi chuyện thành ít nhất hai đối cực, xong áp đặt một phán xét giá trị bảo rằng cái này là đúng và cái kia sai, cái này là thiện và cái kia ác. Thay vì dùng từ “chánh,” chúng ta hãy dùng từ “cao hơn” – cái hiểu cao hơn, ý định cao hơn, lời nói cao hơn, vân vân.  

Vậy chúng ta hãy bắt đầu với điều mà theo truyền thống được xem là bước đầu tiên, Hiểu biết Cao hơn. Con thấy chuyện xảy ra ở đây là chúng ta vừa xoay chuyển. “Chánh” hàm ý một mục tiêu cuối cùng, một giai đoạn tối hậu nào đó. Đối với nhiều người, “chánh kiến” mang ngụ ý – và đã mang ngụ ý này suốt các thời đại – là con có thể đạt đến một cái hiểu tối thượng nào đó. Và nếu điều gì đúng tuyệt đối thì trong suy nghĩ của nhiều người, đó phải là điều cao nhất, là cái hiểu cao nhất. Cái đó không thể được nới rộng, không thể được thăng vượt, không thể nào qua mặt. Nhưng nếu vậy thì tại sao Phật lại đặt hiểu biết như bước đầu của một con đường tám bước?

3.1. Không hề có hiểu biết tối thượng

Nếu ngay từ bước đầu con đã đạt được một hiểu biết tối thượng nào rồi thì tại sao con lại cần đến bảy bước kia? Con thấy là bằng cách chuyển sang từ “cao hơn,” chúng ta hàm ý là luôn luôn có một cái hiểu cao hơn có thể được thu hoạch. Không có gì là chót cùng. Và chắc chắn sẽ cực kỳ hữu ích nếu con nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất với tâm thức tập thể dày đặc như thế này, thì không một hiểu biết tối hậu nào có thể đạt được.

Điều này một phần là do sự dày đặc của chính vật chất, nhưng cũng do sự dày đặc của tâm thức tập thể. Tất nhiên với thời gian thì tâm thức tập thể có thể được nâng lên, và nó đã được nâng lên. Sẽ tới một điểm trong tương lai khi con người có thể với tới một hiểu biết cao hơn hiểu biết hiện thời, nhưng đây vẫn không phải là hiểu biết tối thượng. Đó là tại sao Phật đã không đưa ra một tôn giáo với một vũ trụ quan phức tạp và bảo rằng đây mới là cách vận hành thực sự của vũ trụ. Phật nhận ra là tâm con người, nhận biết của con người, có giới hạn.  

Cách đây 2500 năm, tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay. Về khả năng nắm bắt hiểu biết sâu sắc về vũ trụ học, con người thời đó còn bị giới hạn hơn cả con người thời nay. Ngày nay tâm thức đã được nâng lên đáng kể, phần nào do ảnh hưởng của khoa học, và do đó con người có một nền tảng tốt hơn để hiểu được một sự thật lớn hơn. Nhưng điều thiết yếu mà con cần nhìn nhận là trình độ hiểu biết hiện thời vẫn giới hạn, và nó sẽ còn giới hạn trong tương lai trước mặt.

Điều này có nghĩa khi con là một đệ tử tâm linh chân thành nỗ lực đạt đến giác ngộ, con không bao giờ có thể ngừng chân và cho phép mình tin rằng: “Bây giờ tôi đã đạt được hiểu biết tối thượng rồi”. Nhiều người đã làm vậy bằng cách lấy một giáo lý vỏ ngoài – dù là giáo lý đạo Phật hay bất kỳ giáo lý nào khác – xong rồi bảo:  “Đây là sự thật tối hậu, và vì tôi đã hiểu được giáo lý này cho nên tôi đã nắm được hiểu biết tối hậu.” Nhưng đây là một sự hiểu lầm về ý nghĩa của cái hiểu.   

3.2. Các hạn chế của tâm đường thẳng

Thày vừa nói là con người ngày nay có một nhận biết cao hơn 2500 năm về trước và điều này phần nào do khoa học đem lại. Nhưng khoa học chủ yếu dựa trên tâm suy luận phân tích, đường thẳng. Thày muốn nói gì qua từ “tâm đường thẳng”? À, tâm đường thẳng muốn nhìn mọi chuyện dưới góc độ nhân và quả. Nó cho là khi con nhìn cuộc sống trên trái đất, con luôn luôn phải có thể xác định rõ ràng: “Đây là một nguyên nhân tách biệt, đây là một điều kiện tạo ra một kết quả đã khởi đầu ở một thời điểm nào đó. Thông qua một chuỗi những bước đường thẳng dẫn từ cái này tới cái kế tiếp tới cái kế tiếp sau nữa, điều kiện hiện tại đã được tạo ra.”

Con thấy được rất nhiều ví dụ về cách suy nghĩ này trong khoa học, nhưng hãy lấy thuyết tiến hóa chẳng hạn. Người ta cho rằng có một tế bào đầu tiên xuất hiện, xong đến sinh vật có hai tế bào, xong đến sinh vật ngày càng phức tạp hơn, và lần hồi từng bước một, theo một đường thẳng, các loài hiện thời được sinh ra. Đây là – và thày không bình luận gì thêm về thuyết tiến hóa – một ví dụ của tư duy đường thẳng. Người ta lấy điều kiện hiện tại, người ta phóng chiếu một chuỗi bước đi từ điều kiện hiện tại về những nguyên nhân đơn giản hơn, và rốt cuộc người ta đến một điểm tận cùng là nơi quá trình đã khởi sự. Trong suy nghĩ của một số người, đây là thành tựu đỉnh cao của khoa học.

Tất nhiên đây không phải là điều thày giảng dạy 2500 năm về trước, vì khi đó thày dạy về lý duyên khởi, hay nhân duyên liên khởi. Sự thật là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Quả là có một số lãnh vực khoa học đã phát hiện ra điều này và nhìn nhận là người ta không thể tách rời bất cứ gì. Không có nghĩa là khoa học đã bị chứng minh là sai, vì tất nhiên là vẫn có giá trị trong việc xem xét một hiện tượng cụ thể, cố gắng mô tả nó và tách riêng ra một nguyên nhân nào đó. Cho nên phương pháp khoa học nhìn vào một hiện tượng tách biệt để cố tìm ra nguyên nhân, không phải là không chính đáng. Cái không chính đáng là khi một số người áp chồng một lớp phủ triết học và ý thức hệ lên trên tiến trình đó, bảo rằng có một thực tại tối hậu, khách quan trong việc xem hiện tượng là tách biệt và do đó phải có một nguyên nhân tách biệt. Nói cách khác, con có thể nhìn vào hiện tượng cụ thể này đây, nhìn vào các bước đã dẫn từ nguyên nhân ban đầu đến hiện tượng, thế là giờ đây con có thể biết tất cả mọi chuyện có thể được biết về hiện tượng.

À, rõ ràng đây không phải là cái hiểu cao hơn, bởi vì nó không còn chỗ nào để nới rộng, không còn chỗ nào để thăng vượt vào một cái hiểu cao hơn. Có lẽ cũng tốt thôi nếu con lấy một cái bàn bi-a và đặt lên đó một số bóng bi-a. Con lấy cây cơ và đánh một quả bóng, khiến nó lăn vào một quả bóng khác. Sau đó con đo bất cứ gì con có thể đo và con nói: “Nguyên nhân ban đầu là cái cơ bi-a đập vào quả bóng đầu tiên, sau đó với phương hướng và động lượng, quả bóng đầu truyền sang quả bóng sau một lực nhất định, rồi quả bóng sau lại đập vào quả bóng khác và cứ thế.” Chuyện này hoàn toàn ổn thỏa nếu con muốn mô tả một hiện tượng đặc thù.   

Nhưng liệu chiếc bàn bi-a đó có là một hiện tượng tách biệt không? Làm thế nào nó đã ra đời? Nó chẳng do con người sáng chế hay sao? Chẳng phải nó dựa trên một số nguyên lý tổng quát về những gì có thể được thực hiện trong vũ trụ vật chất hay sao? Các nguyên lý này đến từ đâu? Con thấy đó, như các nhà vật lý lượng tử đã khám phá, con không thể thực sự nhìn vào một hiện tượng hạ nguyên tử và tách riêng nó ra, xong con dùng một tâm ảnh vĩ mô áp chồng lên hiện tượng và nói: “Đây, bây giờ chúng ta có một hạt tách biệt rồi. Chúng ta có thể tìm hiểu hạt hạ nguyên tử này như thể chúng ta tìm hiểu một quả bóng bi-a trên bàn bi-a.”

Các nhà vật lý lượng tử đã khám phá không còn nghi ngờ gì nữa là trong thế giới lượng tử không có hạt nào là tách biệt. Chúng là một phần của một tổng thể lớn hơn. Chúng có thể xa nhau một khoảng cách nhưng chúng vẫn nối kết với nhau, vì vậy mà sự thay đổi của một hạt đi liền tức khắc với sự thay đổi của một hạt khác cho dù rất xa nhau. Đây là điều một lãnh vực của khoa học đã khám phá. Nó đã không vô hiệu hóa phương pháp khoa học trong việc tìm hiểu một hiện tượng đặc thù, mà nó đã vô hiệu hóa cái lớp phủ ý thức hệ bảo rằng người ta có thể tách riêng một hiện tượng để đi đến kết luận là hiện tượng này có một nguyên nhân tách biệt. Không hề có hiện tượng tách biệt và cũng không hề có nguyên nhân tách biệt.

3.3. Tìm cách kiểm soát thế giới của những nguyên nhân tách biệt

Tại sao điều này lại quan trọng? À một lần nữa, chúng ta đã bắt đầu nói về chuyện gì chứ? Con sống trong một thế giới mà trong vài năm qua đã trở nên hỗn loạn hơn, khó lường hơn, khiến nhiều người  cảm thấy bất an về tương lai. Như thày đã nói, phản ứng của nhiều người là họ muốn duy trì cảm giác cân bằng của họ. Mong muốn đầu tiên của họ là tìm cách nào kiểm soát thế giới. Khi họ nhận ra là họ không thể kiểm soát thế giới thì họ bước vào phản ứng mà thày đã mô tả, là họ chối bỏ cảm xúc, chối bỏ tư tưởng và ý niệm bản sắc của họ, đẩy chúng xuống dưới mức nhận biết ý thức để họ có thể duy trì cảm giác cân bằng.

Thày cũng có mô tả là có một con đường cao hơn, đó là nhìn xem tại sao con cảm thấy như vậy, tại sao con nghĩ như vậy, tại sao con nhận diện mình là như vậy, và nhận ra là những thứ đó không là hiện tượng tách biệt. Có một lý do để chúng có mặt và con có thể phát hiện lý do này. Nếu thế thì đây chính là cái hiểu cao hơn, nhưng cái hiểu cao hơn còn là nhiều hơn vậy. Tại sao thày đã nói là trong thế giới hạ nguyên tử không có hiện tượng nào tách biệt? Bởi vì tất cả mọi thứ đều được tạo thành từ hạt hạ nguyên tử, hay ít ra tất cả mọi thứ trong cõi vật lý. Những gì con bình thường xem là thế giới vật lý mà con có thể phát hiện bằng giác quan hay dụng cụ khoa học, con nhìn chúng theo một quy định rất đặc thù. Con nhìn chúng như được tạo thành từ những vật tách biệt mà con áp chồng một tâm ảnh lên trên.

Nhưng ngành vật lý lượng tử đã chứng minh là không có vật nào tách biệt. Quả bóng bi-a không là vật tách biệt vì nó được tạo thành từ các phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử, và ở sâu hơn nữa, từ tầng lớp cấu tạo ra hạt hạ nguyên tử, hay sản xuất ra, hay biểu hiện ra các hạt hạ nguyên tử. Có nghĩa là không có gì con nhìn thấy trong thế giới vật lý có thể tách riêng ra khỏi thế giới hạ nguyên tử. Nó được tạo thành từ chính thế giới đó.

Thêm vào đó, Albert Einstein đã chứng minh là vật chất vật lý thật sự không hiện hữu vì vật chất chính là năng lượng đã khoác vào một hình tướng cụ thể. Tầng lớp sâu hơn, tầng lớp sâu nhất của vật chất không phải là hạt. Đó là năng lượng. Tất nhiên, năng lượng không thể tách riêng ra như con có thể tách riêng một hạt. Một sóng năng lượng tỏa rộng trong không gian. Nó không có một vị trí riêng biệt. Con không thể cô lập một sóng năng lượng. Con không thể đông lạnh một sóng năng lượng xong bảo rằng bây giờ con có cái nhìn chính xác về sóng đó, bởi vì sóng không ngừng chuyển động. Khi thày nói về lý duyên khởi, đó chỉ đơn giản là một cách khác để nói về những gì các nhà khoa học lượng tử đã tìm ra, cụ thể là tất cả mọi thứ con nhìn thấy đều là sự biểu hiện của một cái gì con không thấy, và ở cùng cực, đó là sự biểu hiện của một tổng thể liên kết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.  

3.4. Con không tách biệt khỏi môi trường của con

Điều này liên quan thế nào với lời dạy của Phật về giác ngộ? À, trải nghiệm của con như một người đầu thai trên trái đất là gì chứ? Bắt đầu với cơ thể vật lý. Con đã được nuôi dạy, thậm chí suốt nhiều kiếp sống, để xem cơ thể vật lý của mình như một đơn vị tách biệt, phần nào biệt lập. Con trải nghiệm cơ thể của con là một đơn vị mạch lạc, tích hợp. Con có thể quyết định đứng dậy khỏi ghế ngồi, đi dạo một vòng ngoài trời, và cơ thể của con di chuyển xuyên qua không gian bên ngoài như một khối riêng biệt. Nó có thể chịu một số tác động. chẳng hạn nếu có chiếc xe chạy tới có thể đụng con. Hay nếu có mưa từ trời rơi xuống, con bị ướt, cơ thể con bị ướt. Nhưng nói chung, con có cảm giác con là một đơn vị tách biệt và con có thể di chuyển theo ý muốn trong không gian vì đó là môi trường địa phương của con.

Khi con nghĩ về chuyện này, con cũng biết là lý do con có thể đi bộ trên mặt đất là vì có một lực vô hình, gọi là trọng lực, đang giữ con trên mặt đất để con không bay đi mất. Con biết một cách trí thức là có những lực ảnh hưởng cơ thể của con, có nghĩa là cơ thể con thật ra không tách biệt. Tất nhiên, con có thể nghĩ xa hơn và nhận ra là cơ thể được tạo thành từ nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử cũng như từ sóng năng lượng. Cho nên nó không thể tách riêng ra khỏi môi trường năng lượng này nơi con sinh sống. Tuy nhiên, do ấn tượng từ giác quan vật lý, do sự dạy dỗ mà con đã nhận được trên trái đất trong kiếp này và ấn tượng từ tiền kiếp, hầu hết mọi người đều có xu hướng xem cơ thể của mình là tách biệt.

Hầu hết mọi người cũng có xu hướng xem thể cảm xúc của mình – nếu họ cho là họ có một thể cảm xúc – như một đơn vị tách biệt. Cũng tương tự vậy với thể lý trí và thể bản sắc. Con thường nghĩ mình là người có cảm xúc, nhưng chẳng phải là biết bao lần con đã bị ảnh hưởng bởi những ấn tượng đến từ ngoài, bởi những gì người khác làm hay nói với con hay sao? Nếu có ai giận dữ tiến lại gần con, con chẳng thấy là điều này tác động lên thể cảm xúc của con hay sao? Làm sao cảm thể của con lại tách biệt được?

Con chẳng đã trải nghiệm một ai đó đến nói với con điều gì khiến con bị phiền lụy hay sao? Con sẽ có xu hướng hoặc tin họ hoặc không tin họ. Con có thể nhập cuộc tranh cãi với họ. Hiển nhiên thể lý trí của con không là một đơn vị tách biệt.

Hầu hết mọi người không nghĩ đến chuyện ý niệm bản sắc của họ cũng có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi môi trường sinh sống. Họ không nhận ra là họ đã được dạy dỗ dến chừng nào để có một ý niệm bản sắc nhất định. Họ cũng không nhận ra là suốt nhiều kiếp sống, họ đã bị lập trình đến chừng nào để chấp nhận mình là một sinh thể tách biệt. Khi con bắt đầu tìm kiếm cái hiểu cao hơn, con cần xem xét vấn đề này. Con cần xem xét là ở mức vĩ mô, ở mức của giác quan và tâm vỏ ngoài đường thẳng, con xem mọi hiện tượng là tách biệt. Có một sự lập trình khổng lồ trong tâm tiềm thức của con và trong tâm thức tập thể, tập trung vào việc nhận diện những khác biệt, những vật tách biệt và hiện tượng tách biệt.

Nhưng tất nhiên, cũng có một lý do rất thực tế cho chuyện này. Con cần có khả năng nhận diện những hiện tượng riêng biệt. Đây là một phần của khả năng sinh sống trong cuộc đời thực tế. “Chuyện này có nguy hiểm cho tôi không? Chất này có hại gì không nếu tôi đem nó vào cơ thể? Nó có làm tôi chết? Nó có giết chết cơ thế của tôi không?” và nhiều loại cân nhắc như vậy.

Một lần nữa, điều này tự thân nó không có gì sai trái. Vấn đề khởi lên khi con áp chồng một lớp phủ ý thức hệ lên những ấn tượng đến với con qua giác quan và tâm vỏ ngoài. Khi đó, có một phần khác của tâm vỏ ngoài bảo rằng những thứ đó đúng là tách biệt. Nó bảo những gì con trải nghiệm qua giác quan và tâm vỏ ngoài là sự thật khách quan. Ở ngoài kia là những vật tách biệt, chúng tách biệt khỏi cơ thể vật lý của con, tách biệt khỏi tâm con. Và vì vậy, nếu cơ thể của con không thể tác động đến chúng thì tâm con cũng không thể làm gì được. Và tất nhiên, vấn đề này cũng ảnh hưởng cách con quan hệ với người khác – họ tách biệt khỏi con.

3.5. Người không thể giết người

Nếu con nhìn các loài động vật, con sẽ thấy là hầu hết không giết hại một thành viên trong cùng giống loài với chúng, nhưng rõ ràng loài người thì có. Sự thật ở đây là một người không thể giết một người khác. Vì nếu con nhìn người kia như một người, như chính con, thì con không thể giết người đó. Đơn giản đây là một cơ chế sống còn ở cấp độ giống loài. Con cũng biết, vì các nhà khoa học đã nói với con như vậy, là có một cấp độ cá nhân và một cấp độ cho toàn bộ giống loài. Đôi khi một số cá nhân cần làm gì đó để đảm bảo sự tồn tại của cả giống loài – có thể qua sự truyền giống, sự bảo vệ, hay nhiều thứ khác nhau.

Để một loài có thể tồn tại, cần phải có một sự lập trình nào đó. Thậm chí trong cơ thể vật lý của con có một lập trình bảo rằng: “Đừng giết đồng loại của mình, vì giết đồng loại là một chiến lược sinh tồn rất tệ.” Tất cả mọi loài đều được lập trình để sống còn. Vậy làm sao lại có chuyện con người giết hại lẫn nhau và họ đã làm vậy từ khi có lịch sử ghi lại? Ấy, chuyện này xảy ra được là vì con có thể lấy ấn tượng từ giác quan và phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài, và con có thể tạo ra tâm ảnh rằng người kia không phải là một con người như mình đây, mình không gắn liền với họ, và vì vậy mình có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến mình. Đây là cách duy nhất một người có thể giết một người khác.

Câu chuyện này dẫn đến nhận xét gì? Ít nhất nó gợi ra cho con cái hiểu là con người có khả năng tạo dựng một tâm ảnh hoàn toàn xa rời thực tế. Khoa học đã cho thấy là mọi thứ đều liên kết với nhau, nhưng trong chiều dài lịch sử, loài người đã tạo ra tâm ảnh là họ tách biệt với nhau và do đó họ có thể giết hại nhau mà không bị ảnh hưởng gì. Phải, hiển nhiên con đã trải nghiệm việc một người có thể dùng cơ thể của mình để giết một cơ thể khác và cơ thể của mình thì không chết. Tất nhiên trên thế giới cũng có một phần lớn tin vào nghiệp quả, và do đó, con sẽ bị tác động khi con giết người khác, ngay cả trong những kiếp tiếp theo – cho nên ở đây có một sự liên kết nào đó.

Chắc chắn trong một phần lớn của thế giới hiện đại đã rời bỏ lời dạy của các tôn giáo về nghiệp quả, con chứng kiến tư duy tách biệt này khiến cho người ta tin rằng những gì họ làm tới người khác thì họ không đang làm tới chính họ. Con sẽ thấy là hầu hết mọi tôn giáo đều có lời răn: Đừng làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con. Tất nhiên, lời dạy này dựa trên sự nhìn nhận là mọi thứ đều liên kết với nhau, cho nên những gì con làm cho người khác sẽ tác động đến con.

3.6. Tách biệt dẫn đến sự phán xét giá trị

Đâu là khởi đầu của cái hiểu cao hon, bước đầu tiên của Bát chánh đạo? À, đó là khi con bắt đầu chất vấn cảm nhận tách biệt này, ảo tưởng tách biệt này. Đâu là cơ sở đã tạo ra ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt? À, đó là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là những cặp đôi, nhưng với cách diễn tả hiện đại hơn, chúng ta có thể gọi là tâm thức nhị nguyên. Đó chính là ý tưởng rằng con có thể nhìn cuộc sống, con có thể nhìn thực tế mà có thể nói: “Đây là một hiện tượng riêng rẽ, khác biệt với hiện tượng kia.” Để cụ thể hơn: “Đây là một nhóm người khác biệt với nhóm người kia, họ khác màu da cho nên họ khác biệt.” Ở đây con chỉ có một sự nhận biết về điểm khác biệt trong các đặc tính bên ngoài. Sau đó con đi xa hơn.

Thay vì chỉ bảo rằng nhóm này có màu da này và nhóm kia có màu da kia, giờ đây con nói: “Có một tầm quan trọng ý thức hệ nào đó trong chuyện này.” Để đơn cử một ví dụ quen thuộc ở một thời điểm cách đây không lâu – mà một số người vẫn còn bị dính mắc – người da trắng từng xem bất cứ ai khác màu da đều thuộc một chủng tộc thấp kém hơn. Đây là lúc con dùng tâm nhị nguyên và nói: “Đây là một số khác biệt, khác biệt về màu da, nhưng chúng không chỉ là khác biệt vật lý.” Không, nó không giống như khi con lấy một bông hoa huệ và một bông tulip và con nói: “À, đây chỉ là những bông hoa khác nhau, chúng có hình thù khác nhau, chúng có màu sắc khác nhau, nhưng cả hai đều đẹp.” Thay vào đó con nói: ”Đây là một người da trắng. Đây là một người da đen. Màu da khiến cho họ khác nhau một cách cơ bản. Họ không chỉ là những biến thể của loài người giống như hai bông hoa là biến thể của loài hoa. Họ là những sinh thể khác nhau trong bản chất.”

Không những vậy, họ có thể được xếp vào một hệ thống nhị nguyên: “Màu da này khác màu da kia một cách cơ bản.” Thậm chí con có thể áp đặt lên đó một lớp phủ bảo rằng Thượng đế đã tạo ra một giống dân cao trội hơn giống dân kia. Xong con có thể làm thêm một thủ thuật nhị nguyên là áp đặt sự phán xét giá trị mà thày vừa nói đến. Con bảo giống da trắng cao trội và giống da đen thấp kém. Thậm chí con có thể đi xa hơn nữa và bảo rằng việc giống da trắng khuất phục giống da đen, biến người da đen thành nô lệ, là một chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Nếu giống da đen kháng cự lại, thì việc giống da trắng giết họ là chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Hay con có thể thế vào một giống dân khác và nói: “Chủng tộc Aryan cao trội hơn chủng tộc Do Thái. Việc người Aryan diệt chủng người Do Thái là chuyện hoàn toàn chấp nhận được, thậm chí còn cần thiết cho một đại nghĩa cuồng đại nào đó.”

Con sẽ thấy là khi con nhìn lại lịch sử và hỏi: “Người ta đã làm gì để có thể giết người như vậy,” con sẽ thấy là trong đa số trường hợp – và chắc chắn trong những trường hợp lớn rộng như chiến tranh hay diệt chủng – đó không chỉ là chuyện giết người do bị khuấy động tình cảm, như khi người ta sợ có ai khác sắp sửa giết mình. Không, ở đây có sự biện minh. Có sự biện minh tại sao giống da trắng lại có thể bắt giống da đen làm nô lệ. Có sự biện minh tại sao người Aryan lại tìm cách diệt chủng người Do Thái. Đây là tâm thức nhị nguyên. Nó dựa trên cảm nhận tách biệt, ảo tưởng tách biệt, nhưng nó đi xa hơn, tạo ra các đối cực nhị nguyên và áp đặt một phán xét giá trị. Bấy giờ, những kẻ tin tưởng vững chắc vào phán xét giá trị này có thể biện minh cho hầu hết mọi hành vi xâm phạm nhóm người mà họ đã dán nhãn là thấp kém.

3.7. Cảm nhận cao trội, nguồn gốc của đau khổ

Con thấy được ở đây là trong suốt lịch sử, con người đã nghĩ ra rất, rất nhiều cách biện minh khác nhau cho việc xâm phạm người khác. Tất cả đều dựa trên cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, dựng lên các đối cực và áp đặt một phán xét giá trị. Tuy nhiên từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói: “Nhưng đây chính là điều mang lại cho những người này một trải nghiệm đặc thù.” Thày đã có nói về những người mong muốn cảm thấy cao trội hơn người. Tâm thức nhị nguyên này, sự phán xét giá trị này chỉ là một cái cớ để mang lại cho họ trải nghiệm là họ cao trội.

Chắc chắn là có thể nói như vậy, nhưng đâu là hậu quả khi làm vậy? Hậu quả là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên đó, cảm nhận tách biệt đó, con chỉ có thể đau khổ. Có thể nói là tâm thức nhị nguyên, cảm nhận tách biệt chính là nguồn gốc của đau khổ. Cũng có thể nói là con không có cách chi thoát được đau khổ chừng nào con còn ở trong trạng thái nhị nguyên, tách biệt. Đây là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là Maya – ảo tưởng. Đây là ý nghĩa sâu hơn, là cái hiểu cao hơn về Maya: Con ở trong ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt.

Chuyện gì xảy ra khi con tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt? À, bỗng nhiên con tách biệt khỏi người khác, con tách biệt khỏi môi trường của con ở đây trên trái đất, và con tách biệt khỏi bất cứ gì ở ngoài môi trường của con, nghĩa là bên ngoài vũ trụ vật chất. Con không một mình trên trái đất. Có hàng tỷ người khác ở đây. Có một môi trường vật lý đôi khi biểu hiện thiên tai. Như một sinh thể tách biệt, con sẽ thấy mình bị đe dọa bởi các điều kiện trong môi trường của mình.

Đây là nguyên nhân khiến người ta tìm cách giành được chút nào quyền kiểm soát môi trường xung quanh. Người ta làm vậy ở mức độ vật lý thông qua sức mạnh thể xác hay bạo lực, bằng cách hoặc chế ngự người khác để kiểm soát họ, hoặc cố tiêu diệt người khác để họ không có mặt ở đây nữa. Người ta cũng làm vậy ở mức độ cảm xúc, qua đó nhiều người đi vào tiến trình liên tục tìm cách kiểm soát cảm xúc của mọi người xung quanh ngõ hầu tránh né các cảm xúc tiêu cực hay khó chịu nơi chính mình. Cũng vậy, nhiều người bước vào trò chơi kiểm soát tư tưởng, niềm tin hay hiểu biết của người khác, thậm chí cả ý niệm bản sắc của người khác.

3.8. Sự trớ trêu của tách biệt

Liệu con có bắt đầu nhìn thấy sự trớ trêu ở đây? Đây là một người. Y tự nhận diện mình như một sinh thể tách biệt, một con người tách biệt. Y có một cơ thể vật lý tách biệt. Y có một thể cảm xúc, một thể lý trí, một thể bản sắc tách biệt. Y sợ một chuyện gì đó sắp sửa xảy ra trong môi trường của y sẽ giết chết cơ thể của y. Y cố dùng phương tiện vật lý để kiểm soát môi trường này. Nhưng điều này rất khó thực hiện, và chưa một ai đã thành công hoàn toàn. Cho dù người ta có trở thành nhà độc tài quyền lực đến đâu, không ai có thể kiểm soát hoàn toàn môi trường của mình.     

Người đó cũng tìm cách kiểm soát cảm xúc, lý trí và ý niệm bản sắc của người khác xung quanh y. Nhưng tại sao y lại làm vậy? Y làm vậy để trốn tránh một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một sự nghi vấn nào đó về bản sắc của mình. Nói cách khác, thật ra y đang tìm cách kiểm soát chính tâm của y, nhưng bởi vì y ở trong trạng thái tách biệt, tâm thức nhị nguyên, cho nên y cho rằng cách duy nhất để kiểm soát tâm mình là phải kiểm soát môi trường xung quanh mình, hoàn cảnh vật lý của mình, cảm xúc của người khác, ý nghĩ của người khác, ý niệm bản sắc của người khác.

Tất nhiên, điều này có nghĩa là y ở trong tình trạng giao tranh bất tận với người khác. Và người khác cũng tự xem mình là tách biệt, cho nên khi một người cố kiểm soát người thứ hai, thì người thứ hai cảm thấy bị đe dọa, cho rằng người thứ nhất đang hung hãn tấn công mình. Người thứ hai sẽ chống cự lại. Đây là Biển Luân hồi. Đa số con người trên địa cầu bị kẹt trong cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, và họ tìm cách kiểm soát lẫn nhau để cố đạt được một trạng thái cân bằng, một sự an bình nào đó trong tâm họ.

Phải, một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con người có quyền tự quyết, chẳng phải là họ được phép có bất kỳ trải nghiệm nào họ muốn hay sao?” Tất nhiên rồi. Thày chỉ đang chỉ ra là trải nghiệm mà họ đang có thông qua Maya, thông qua tách biệt, thông qua nhị nguyên, là một trải nghiệm vật lộn, và một trải nghiệm vật lộn chỉ có thể tạo ra đau khổ. Nó có thể cho con một cảm giác thích thú tạm thời khi con thấy giờ đây mình đã đạt được một trạng thái quyền lực, hay kiểm soát, hay an bình tối thượng nào đó. Nhưng trạng thái này luôn luôn bị đe dọa, và con sẽ luôn luôn biết điều này. Tại sao con biết? Bởi vì nếu con đạt đến một trạng thái quyền lực qua vũ lực, con sẽ ý thức được vũ lực. Con ý thức là có thể ai đó sẽ tìm cách tước đoạt những gì con đã thu hoạch qua vũ lực bằng cách dùng nhiều vũ lực hơn con.

Con hãy nhìn các nhà độc tài, nhìn xem hầu hết suốt đời càng trở nên hoang tưởng như thế nào. Dù họ có quyền lực và khống chế nước họ biết mấy, họ vẫn luôn lo sợ ai đó có thể đoạt mất quyền lực của họ. Đó là tại sao họ phải liên tục có một lực lượng công an mật vụ để nhận mặt và loại trừ những người có tiềm năng là mối đe dọa cho họ. Con hãy nhìn bao nhiêu nhà tỷ phú có nhiều tiền đến độ không thể nào tiêu hết, nhưng họ luôn luôn lo sợ có người đến cướp mất. Họ phải bảo vệ tài sản của họ hay họ phải kiếm nhiều hơn nữa. Chuyện này trở thành một vòng xoáy ốc không bao giờ chấm dứt vì họ đang cố làm chuyện bất khả thi. Họ cố kiểm soát trạng thái tâm họ qua việc kiểm soát ngoại cảnh. Một lần nữa, điều này hoàn toàn chấp nhận được nếu con muốn ở trong Biển Luân hồi, nhưng nếu vậy thì con không cần đến Bát chánh đạo.

3.9. Bát chánh đạo là giải pháp thay thế cho đau khổ

Bát chánh đạo không phải là những gì nhiều Phật tử đã kết luận. Đó không phải là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi hay Niết bàn. Đó không phải là một con đường cao trội. Bát chánh đạo không bao giờ có mục đích ép buộc con người phải theo. Kỳ thực mục tiêu của thày không bao giờ muốn những lời dạy này phải được truyền bá khắp địa cầu, rằng mọi người phải đi theo một đạo Phật vỏ ngoài và điều này bị áp đặt lên họ. Bát chánh đạo là một lời mời cho những ai đã chán ngán tình trạng bị sóng Biển Luân hồi xô đẩy tới tấp. Đây là những người tìm kiếm một cái gì khác hơn, họ cởi mở với ý tưởng là để đạt cái khác hơn đó, họ không thể cứ tiếp tục làm những gì họ đã làm cho đến nay. Họ cần làm gì đó khác hơn.

Đâu là bước đầu tiên trực chỉ cái hiểu cao hơn? Đó là trước tiên nhìn nhận là tâm con có những hạn chế. Ngay bây giờ con không có cái hiểu cao nhất. Thật ra con không một có cái hiểu cao hơn – bởi vì ở ngay thời điểm này, con đang có một trình độ hiểu biết nào đó, nhưng có thể có những mức hiểu biết cao hơn. Để đạt đến những mức hiểu biết cao hơn này, con phải làm gì đó khác hơn, một cái gì đó mà hiện nay con không làm. Đâu là cái khác hơn? À, đó là con phải ít nhất nắm bắt được sự cần thiết phải thăng vượt Maya, ảo tưởng, ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng nhị nguyên, các đối cực nhị nguyên, sự phán xét giá trị, cảm nhận cao trội lẫn cảm nhận thấp kém. Con phải chất vấn toàn bộ tư duy đó. Con phải bắt đầu chất vấn nó.

Việc này con không thể làm tất cả cùng một lượt. Con cần một sự liên tục nào đó. Đây là một con đường tuần tự chất vấn những ảo tưởng của Maya. Con cần thời gian. Thật ra con cần nhiều kiếp, nhưng nhiều người hiện đang đầu thai – đặc biệt ở các quốc gia hiện đại hơn, phát triển hơn – đã làm điều này trong những kiếp trước. Họ đã khởi sự tiến trình này trong tiền kiếp và tất cả những gì họ cần làm bây giờ là nối kết lại với sự thật là họ cần chất vấn tâm họ, chất vấn cách họ nhìn cuộc sống, cách họ tiếp cận cuộc sống, đặc biệt là ảo tưởng tách biệt, các cặp đôi, các đối cực nhị nguyên.

3.10. Tâm con có thể biến thành một hệ thống đóng kín

Việc này bắt đầu với một sự nhìn nhận mà thày khó lòng đưa ra 2500 năm về trước nhưng có thể đưa ra ngày hôm nay. Sự nhìn nhận này là tâm con người có xu hướng biến thành một hệ thống đóng kín. Con không phải là một hòn đảo. Không người nào là một hòn đảo. Con không phải là một sinh thể tách biệt. Con được nối kết theo nhiều cách vượt khỏi tầm nhìn của mắt thịt, không những với người khác mà với môi trường nơi con sống cũng như với một nguồn cội vượt khỏi môi trường của con – một điều mà chúng ta chưa cần bàn vội. Nhưng con cần biết là có cái gì đó ở ngoài thế giới vật chất – con là ai, con được sinh tạo như thế nào.

Con không nhìn thấy được điều này ngay bây giờ. Lý do con không nhìn thấy là vì tâm con đã bị che mờ bởi Maya, bởi nhiều ảo tưởng khác nhau, nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Bát chánh đạo là một tiến trình tuần tự, từng bước một, mỗi bước một lượt, để đem các ảo tưởng và khuôn nếp phản ứng đó vào tâm ý thức, xem xét chúng một cách phân biện, lượng định hậu quả của chúng, thậm chí cả sự chính đáng và nhất quán của chúng. Và sau đó đi đến kết luận là ảo tưởng này đây và khuôn nếp này đây đang giới hạn mình. Và mình đã chán ngán sự giới hạn, vì chính giới hạn luôn luôn giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi nổi sóng.

Con có khái niệm về Biển Luân hồi, nhưng bên kia biển, hay ít nhất ở một bên biển, là bến bờ bên kia. Con có thể đến đó bằng cách dùng thuyền, một con thuyền Bát nhã được tạo thành từ giáo lý và tu tập. Một lần nữa, con không thể lấy giáo lý vỏ ngoài, học giáo lý, thực hành pháp tu mà nghĩ rằng con sẽ tự động sang được bờ bên kia. Con sẽ chỉ sang được bờ bên kia bằng cách tự xem xét mình, nhìn vào bản thân, nhìn vào các tin tưởng, các khuôn nếp của mình. Con tự hỏi xem tại sao mình phản ứng cách đó, tại sao mình lại nghĩ kiểu đó, tại sao mình xem mình là loại người đó. Con tuần tự chất vấn tất cả mọi điều như vậy và giải thể từng ảo tưởng một. Đây chính là con thuyền Bát nhã. Đây là cái sẽ chở con đi một khi con leo vào đó, một khi con đã neo chặt vào ý nghĩa của đường tu. Đây là cái sẽ chở con băng qua Biển Luân hồi. Không có nghĩa là con sẽ không bị sóng đánh, bởi vì con sẽ bị sóng đánh, nhưng ít ra con có thể nắm vào cái gì đó sẽ chở con đi xa hơn.

Đây là khởi đầu của minh triết, khởi đầu của hiểu biết. Tâm con có thể trở thành, hay đúng hơn đã trở thành, một hệ thống khép kín. Tại sao thày lại nói vậy? Làm thế nào thày nói được vậy? À, con có cảm thấy mình là Phật ngay bây giờ không? Con có cảm thấy là mình giác ngộ, mình đang ở trong trạng thái Niết bàn hay là Luân hồi? Con có cảm thấy là con đang an bình? Nếu vậy thì cho thấy tâm con là một hệ thống khép kín. Nó khép kín vì con đã dùng khả năng của tâm để kềm nén cảm xúc, tư tưởng và ý niệm bản sắc, để kềm nén bất cứ gì làm con xáo trộn, nhưng chính điều này cũng trở thành một chiếc áo bó tay bó chân giữ chặt con lại, trói buộc con lại. Bởi vì bất cứ khi nào có một ý tưởng mới đến với con, nó phải nhét vừa vào hệ thống sẵn có, tức là kho dữ liệu tiềm thức ở trong con đánh giá mọi ý tưởng mới, bảo rằng: “Chuyện này có nguy hiểm không? Có đúng không? Có phải là một điều tôi cần xem xét hay không xem xét?”  

3.11. Làm thế nào một vị thày tâm linh có thể giúp con?

Một lần nữa, thày đã nói gì về vấn đề nan giải của một vị thày tâm linh? À, một thày tâm linh không bị vướng trong Maya, không bị kẹt trong Biển Luân hồi, nhưng con thì đang bị. Làm thế nào vị thày tâm linh có thể giúp con thoát ra khỏi Maya? Maya là gì chứ? Con có một tin tưởng mà thật sự là một ảo tưởng, nhưng con lại tin đó là sự thật. Con tin chắc đó là sự thật – thế giới là như thế này. Chính tin tưởng này giữ con lại trong Maya. Làm thế nào vị thày giúp được con đây? Đấy, con phải nhìn ra tin tưởng của con là một ảo tưởng.

Điều này có nghĩa là vị thày phải thách thức tin tưởng của con. Tiến trình mà thày vừa mô tả có nghĩa là có một phần trong tâm con đang muốn đè nén bất cứ gì thách thức tin tưởng của con. Nhiều người gặp được một lời dạy tâm linh khác với giáo lý mà họ đang có. Họ nhìn vào lời dạy nhưng tâm ý thức của họ không bao giờ nắm được ý nghĩa hay tầm quan trọng của lời dạy, bởi vì tâm tiềm thức của họ bác bỏ, hay tô màu, hay diễn giải lời dạy. Như thày đã nói, con không thể làm gì khác. Con phải bắt đầu từ đâu đó, và khi con tìm thấy một lời dạy tâm linh, con sẽ diễn giải nó xuyên qua trình độ tâm thức hiện tại của con.

Một lần nữa, điều này tự nó không phải là một vấn đề lớn. Vấn đề là nếu con không nhận ra là chính con đang giới hạn lời dạy, rằng con đang áp chồng một cái gì đó lên lời dạy, thì cái đó sẽ ngăn cản con đi bước kế tiếp trên con đường dẫn đến giác ngộ. Con thấy không, có rất rất nhiều người – cho dù họ là Phật tử hay những người có khuynh hướng thần bí hơn, Thời Mới hơn mà con gặp thời nay – đã nhìn vào khái niệm giác ngộ và họ đã áp chồng lên đó một hình ảnh dựa trên mức tâm thức hiện thời của họ. Nhiều người có nguyên một hộp niềm tin mà họ vô cùng gắn bó. Họ nghe nói về khái niệm giác ngộ và họ thấy có vẻ cũng hay. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại phóng chiếu ra hình ảnh là một khi mình giác ngộ, mình sẽ nhận được sự chứng thực về các niềm tin mà mình hiện có, và mình sẽ thấy các tin tưởng hiện thời của mình đúng là chân lý tối thượng. Và tất nhiên, khi có người khác giác ngộ thì người đó cũng sẽ thấy tin tưởng của mình là chân lý tối thượng, và như vậy mình đã luôn luôn đúng.

Đây là một khía cạnh khác của mong muốn cao trội. “Chắc chắn một vị giác ngộ sẽ đồng ý với tôi, với các tin tưởng hiện thời của tôi, với cách tôi đang nhìn cuộc đời.” Nhưng con thấy đó, nếu con chưa giác ngộ thì làm thế nào một vị giác ngộ có thể đồng ý với con? Con chưa giác ngộ chính là vì con còn ảo tưởng. Một vị giác ngộ không có ảo tưởng, đã thăng vượt ảo tưởng. Cho nên làm thế nào vị đó có thể đồng ý với con là các ảo tưởng của con không là ảo tưởng mà là sự thật? Đây không phải là một kịch bản thực tế. Những ai tin vào chuyện này sẽ chỉ giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi, giữ cho tâm mình bị Maya xâm chiếm. Họ vẫn ở đằng sau tấm màn Maya.

Khởi đầu của Bát chánh đạo là sự sẵn lòng chất vấn chính tâm mình, nhìn ra là nó đã biến thành một vòng tròn khép kín đang tự xác nhận và tự củng cố. Sau đó là sự sẵn lòng nắm lấy lời dạy, và thay vì cố khiến cho lời dạy phải xác chứng các niềm tin hiện có của mình, thì con dùng lời dạy để tra vấn các tin tưởng, các ảo tưởng hiện có. Đó chính là Bát chánh đạo. Cho đến khi con có được cái hiểu này, con không thể thực sự cất bước trên con đường Bát chánh đạo chân chính. Thay vào đó, con sẽ khởi sự đi trên con đường giả dựa trên việc sử dụng các tin tưởng hiện thời của mình để định nghĩa thế nào là chánh kiến, thế nào là chánh tư duy, thế nào là chánh ngữ, thế nào là chánh nghiệp, thế nào là chánh mạng, thế nào là chánh tinh tấn, thế nào là chánh niệm, thế nào là chánh định. Tất cả đều “chánh” vì nó xác chứng cho các tin tưởng hiện thời của con.     

Các tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Làm thế nào một lời dạy chân chính có thể xác chứng chúng được? Con chỉ có hai lựa chọn ở đây. Hoặc Phật đã cho con một giáo lý giả trá, hoặc tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Con không thể có cả hai đường. Chọn lựa tức là luôn luôn chất vấn tâm mình, nhận thức của mình, cách mình nhìn cuộc sống. Đó là lúc con cất bước trên đường tu, con đường dẫn đến giác ngộ. Con cũng có thể lấy lời dạy của Phật và tạo ra một con đường giả sẽ dẫn con càng ngày càng sâu vào ảo tưởng. Nó có thể cho con một cảm giác là con đã đạt được một trạng thái cao trội nào đó so với người khác, vì con có giáo lý cao siêu này rồi, con đã tu tập bao nhiêu lần rồi và tất cả những chuyện như vậy. Nó có thể thay đổi trải nghiệm của con về cuộc sống nhưng nó không nâng cao tâm thức của con trên chiếc thang đưa con lên giác ngộ. Con vẫn đang mặc cái bộ đồ lặn.

Đây là bài giảng thứ nhì của thày về những gì thày muốn trao cho con trong hội nghị này. Tất nhiên thày còn nhiều điều nữa để trình bày về các bước kia trong Bát chánh đạo. Và như vậy thày niêm con trong cái hiểu minh bạch, không phân rẽ của Phật.

1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng đã xem có thể trao truyền điều gì sẽ giúp cho những ai khác có tâm cởi mở về mặt tâm linh và điều gì sẽ giúp cho cả hành tinh này nói chung. Lẽ tự nhiên, chính các con đang kết nối qua internet và cùng nhau đọc các bài chú, bài thỉnh, cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Bây giờ thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói là cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lui lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” Vậy đây là một cách khả dĩ để nhìn vấn đề.

1.1. Cảm giác khi con bước vào đầu thai 

Con cũng biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này, nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên thêm vào đó, người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước, và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào mũ bảo hiểm. Con thử hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm, nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn xa lắm vì còn tùy thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn, con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất – còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì con muốn gọi – bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc, là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức tập thể. Con đã được nuôi dạy để nhận diện mình theo một cách nào đó.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như cách con quy định con là loại người thế nào, những chọn lựa, những tùy chọn của con là gì.

Nhờ trí thể mà con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm nào đó. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận là không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận là phải có cái gì vượt ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà người ta có thể tranh cãi. Đây là điều diễn ra chủ yếu trong trí thể, nhưng dĩ nhiên nó bắt đầu ở bản sắc thể, vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác lại xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào đủ loại bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con mặc vào tất nhiên là thể tình cảm, là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tùy vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào một số khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người cảm thấy mình có quyền nổi giận, có người cảm thấy mình phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa, con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này bị gò ép khủng khiếp. Đây chỉ là bốn thể con khoác vào trong kiếp này để có thể đầu thai. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hóa nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ những kiếp trước. Và ở đây ít nhất con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân mới mỗi lần con đầu thai, nhưng vẫn có một số khuôn nếp từ quá khứ định đoạt cơ thể vật lý của con sẽ như thế nào trong kiếp này, sẽ vận hành ra sao, và thậm chí có xu hướng mang bệnh tật gì.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực khổng lồ này.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người, nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con sinh sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý, nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được dịch là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn, là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một loại ham muốn đặc thù gây ra khổ đau, và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã diễn giải giáo lý của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói là họ đã diễn giải sai. Nhưng con thấy đó, không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, con người có xu hướng định nghĩa cái đúng như là đối nghịch của cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực, nhưng chúng không chỉ đối lập như trắng với đen chẳng hạn. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này, và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực kia sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên qua các thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã tìm cách quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới, và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm, đây cũng chỉ là một mức hiểu nông cạn.

Cũng có thể nói, đây không phải là ý Phật muốn nói. Đây không phải là điều thày đã nói 2500 năm về trước vì thày đã trao truyền giáo lý về các “cặp đôi” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng-sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Thật sự trạng thái tâm thức nhị nguyên này mới là nguyên nhân của khổ đau. Thày đang nói là con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực, nhưng áp lực đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị chi phối rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Nhiều người trên thế giới sẽ không thể nắm bắt được điều này. Họ sẽ không thể nắm bắt nhị nguyên. Đây là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Trở lại với hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, chúng ta có thể nói là con người trên trái đất cũng đang mặc một bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Chính những nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Tùy vào độ trong của nước nơi họ sống, họ chỉ nhìn được bao xa. Nhưng là thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hòa mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch kia còn ở tít dưới đáy biển và không làm sao nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những gì các con đang kinh qua. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố truyền đạt là trước tiên, con nên mong muốn có được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng cố nói là mặc dù con không thể đạt được tầm nhìn trọn vẹn như các thày ở ngoài hiện thân, nhưng con có khả năng đạt được tối thiểu một tầm nhìn rộng hơn trong khi còn đang đầu thai. 

Nhưng liệu có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người nắm được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý đạo Phật và nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng con người thì không thể nâng tâm thức mình lên để có tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải – và họ không thể làm được gì khác – tiếp cận triết lý này ở tầng nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Cũng có thể nói, vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, nó phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể chạm được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tùy vào những gì có mặt trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh chạm được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên đó những gì họ đang có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một hệ quả tiêu biểu của sự thể này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người. Họ thường chụp lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào trong đó để xây dựng một lớp phủ lên giáo lý, để khiến cho những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, những ai tuân thủ các quy tắc và công phu tu tập, cảm thấy như thể mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác cũng có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một ví dụ cho thấy, khi con không nắm được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng lên đó những nội dung của tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của mình ở mức tiềm thức. Trong cốt lõi, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của con.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm, nhưng con cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp thế giới không hề biết là có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là liệu họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Liệu họ sẽ nói: “Ô, chắc phải có gì đó ở cuối sợi dây này, và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy gì đó ở đầu bên kia không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người họ, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, phải cảm thấy thế nào, phải suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ gần như không thể nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là tình trạng trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình sẽ suy luận rằng nếu họ xác định được mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng làm vậy sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay giáo lý tâm linh khác, đã chứng minh là điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy một điều gì mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy một điều gì vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác biệt giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất, đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ – và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ – con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít ra hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình tuần tự, đi từng bước có hệ thống, qua đó một người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về đề tài này và thày sẽ trở lại sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia.

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan cụ thể, sự khác biệt giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là mức nhận biết. Và con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có thể làm hay không thể làm. Họ thường cảm thấy là hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều chuyện.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy bó buộc phải đương đầu với một số ý tưởng nào đó. Và tất nhiên nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con thuộc về nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Có thể nói là nhiều người cảm thấy bị áp lực không ngừng. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực, hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Con có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến những áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, dù áp lực đó là gì tùy theo nơi mình lớn lên.

Con có một loạt những mong muốn, con muốn thoát khỏi một số giới hạn, con muốn giảm bớt một số áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có thể nào toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định đều đặn, nên họ không phải lo lắng về các nhu cầu cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn, nhưng có nghĩa chăng là họ đã tự do khỏi áp lực? Họ đã thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi những áp lực khác.

Nhìn chung, con thấy con có thể tự do phần nào khỏi một số áp lực của cuộc sống, nhưng thật là vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại như vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực, nhưng áp lực này nằm ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Có thể con sẽ nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc khiến cho một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh là có sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa, suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được điểm này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một dạng thích hợp với thời đại và nền văn hóa nơi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Có nghĩa là gì?

Đây, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Xong con tìm thấy một giáo lý tâm linh, và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế khó xử cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm quá nhiều tự do hơn, quá nhiều hỉ lạc hơn chính vì không cảm thấy áp lực đó. Các thày thấy rõ áp lực con đang hứng chịu. Nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến độ họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ một chút động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền, cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì sẽ thúc đẩy được những người đang chịu áp lực to lớn như vậy? Ấy, đó là họ muốn thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời nó cũng không thật. Vì nếu con lấy một giáo lý tâm linh, và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình, thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con được tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày đã nói gì trước đó? Bất kỳ xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Không thể chối cãi điều này. Thày không hề nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Đây là những thứ tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Làm thế nào sử dụng một giáo lý tâm linh 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và bấy giờ con nói: “Đây là giáo lý đã hứa tôi có thể tìm thấy tâm an bình, hay giác ngộ, hay niết bàn.” Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng cách tìm ra một giáo lý tâm linh nào đó rồi quyết định theo học, thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con không? À tất nhiên là không. Bởi vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng dính liền với tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài đó? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh được trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ được áp lực, nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là một lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi sự đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Và do đó, bằng cách thay đổi tâm thức của mình thì hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chủ yếu của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện cái chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào nhận biết ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này với tôi không?” Và nếu con trả lời “không” thì con buông chúng ra.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Thế nào là mong muốn mang tính xây dựng và mong muốn không mang tính xây dựng? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực con đang cảm thấy, là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này đi ngược lại hướng tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Chừng nào con còn chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn, thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học vượt khỏi tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất là tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người khi lần đầu tiên tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn làm gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, thày đã nói gì chứ? Trải nghiệm áp lực của con được định đoạt bởi những gì có mặt trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những nội dung này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất cứ gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể làm được, chưa bao giờ làm được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con làm được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một nhãn quan nào đó, chúng ta có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con phải trong lọc mong muốn của con để không chờ đợi những kiểu đường tắt nhằm thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực, nhưng lại không chịu xem xét bản thân mình và tâm của mình. Nhìn ra những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Bây giờ điều gì ngăn cản con người nắm bắt được sự thật đó, là điều mà Tập đế, Chân lý thứ nhì, muốn nói lên về các mong muốn? Ấy, đó là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế – là các dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại công nhận. Chúng ta có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải, và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau tình trạng này là gì? À, đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, dưới áp lực của hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Là vì con cũng có khả năng phần nào dẹp bỏ áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến một số thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Con dựng lên các phin lọc này để có thể bóp nghẹt, kìm nén một số cảm xúc, kìm nén một số ý nghĩ, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con, và nhờ vậy con không bị quá tải để có thể sinh hoạt.

Chúng ta có thể nói là đại đa số con người đã xây dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng khiến người ta trở nên choáng ngợp, mọi chuyện trở nên quá sức chịu đựng. Chính cơ chế cần phải duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào một số khuôn nếp cảm xúc vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với một số khuôn nếp ngăn chặn họ nghi ngờ tôn giáo của họ. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền lời dạy này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một lời dạy sâu sắc hơn. Về căn bản, chúng ta có thể nói là để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều đã dựng lên những thành lũy bảo vệ mình khỏi sự quá tải. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt ra ngoài mức nhận biết hiện thời của con. Có thể nói là bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng, nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển. Vì thế đây là một trong những nghịch lý, nan đề, bí ẩn về con đường tâm linh. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần xem xét chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, mong muốn giảm bớt áp lực. Đây là những mong muốn sẽ không giải thoát con khỏi áp lực nếu con muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, cho nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con xem xét những cơ chế một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi áp lực, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực một cách vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn trừ khi con chịu nhìn vào cái gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là một giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống để thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của mọi triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo, hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của họ, và trong quan hệ với mọi người, họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao siêu – hiểu biết trí thức – về giáo lý. Họ cũng đã thực hành miên mật quá nhiều năm đến mức họ cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong một số tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ một cục chì lặn khỏi thắt lưng và thả nó xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tuần tự.

Chúng ta cũng có thể nói là con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng cho tới khi con vứt chì lặn đó đi thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà vẫn không bước lên được bực kế tiếp. Đây thật sự là cách tăng triển – xem xét chính mình, xem xét các khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày vừa nói gì hồi nãy? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người, không chỉ trong đạo Phật mà cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác, đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo phong trào từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi đi đứng. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đó. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Có thể con sẽ nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan biến. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta tự cách ly và cô lập khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong một số cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con lên những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng vừa rồi, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế, thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật là dễ hiểu. Thày đang giản dị chỉ ra là nếu trạng thái cân bằng của con có thể bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đó con chưa giải quyết, và điều này xuất phát từ cơ chế thày đã mô tả. Con mang một điều gì kềm chế mà con chưa giải quyết, vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự nắm bắt con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói là con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và bất kỳ con đường tâm linh nào khác cũng được thiết kế như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang một mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút, và đây chính là điều mà rất rất nhiều người không nắm được tầm quan trọng.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến cho nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra một số ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và giải thể chúng, làm tan khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng, nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng thấp nhất của tâm con. Bên trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ một số khuôn nếp tư tưởng trong trí thể và thậm chí từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác được trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ, hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn, thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh bên ngoài. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng thì trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa, và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm, và trong vài trường hợp, cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong một số trường hợp khác, cơn giận chỉ làm cho tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực cũng như sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra. Con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này đã bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp, nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi sẽ không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể nhận chân Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống các khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày có đề cập đến những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và kềm chế. Nhưng cũng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận cách thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được một số quy trình, một số định luật thiên nhiên, một số nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh của họ.

Kết quả là con thấy có nhiều người đã tạo ra một quan niệm về thế giới phải vận hành thế nào, rồi họ dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu quan niệm này lên vũ trụ. Và họ nghĩ họ có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản để cảm thấy mình kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật, để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì chứ? Đó là giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời của con. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp loại này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về chuyện này. Tôi không cần suy nghĩ về bất cứ gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Chuyện này không cần thiết vì tất cả đều sai, không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt mức tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định, thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử suốt các thời đại và cả ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình, thì tôi đảm bảo sẽ giác ngộ hay nhập niết bàn. Đức Phật là một đạo sư đích thực và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Và vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày vừa giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của con, nghĩ ra là con phải bước theo Bát chánh đạo như thế nào rồi con bước đi với cùng tâm thức hiện thời của con, để đảm bảo là con sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của con. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng cách đứng yên ở mức tâm thức hiện thời. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức mà con mang trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con cứ việc tiếp tục đè nén mọi nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, nhưng con không đang leo tiếp bực thang. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc là mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây chứ. Con đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời của con một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách chi làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố khuôn nếp của họ. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt, nhưng tất nhiên điều này chỉ giữ họ kẹt lại trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống theo nghĩa là họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không đang leo thêm được nấc thang nào.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã có tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn bằng cách trở nên ý thức hơn về những điều thày giảng ở đây – quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và nhu cầu luôn luôn bị xao động. Như thày đã nói, nhiều người trong các con sẽ nhận ra khi lần đầu con tìm thấy giáo lý thì con nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, thuộc về giáo lý này, thuộc về cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có thể đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhìn ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người thì tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ nghĩ: “Đây rồi”. Hay đúng hơn, họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Bây giờ con có thể nói: “Nhưng khi lần đầu tôi tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đó, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Nói cho cùng, con có thể bảo đây không phải là chuyện thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là điều các thày giảng dạy ngày nay. Nhưng đây không là lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với áp lực bên ngoài. Một phần là vì nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn trong khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là Sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được sự yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Con thấy rất nhiều người khắp chiều dài lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các cộng đồng tu sĩ nơi môi trường ngoại cảnh được kiểm soát chặt chẽ. Họ được bảo vệ khỏi các hành động bạo lực xảy ra bên ngoài, cho nên họ ở trong một môi trường rất kềm chế nơi thế cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả đời trong những môi trường như vậy mà không thật sự tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng dựa trên đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập sẽ giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào, nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con chủ động được cảm xúc, con giỏi hơn người khác về mặt trí năng, và vì vậy trong bản chất con là người cao trội hơn những ai không theo giáo lý của con.

Còn cách tiếp cận kia là con đi tìm sự giải quyết. Khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa cho trạng thái cân bằng này và do đó cần phải đè xuống. Con cần tìm cách dẹp bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện này là trấn áp bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng của con.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn lòng bị xáo trộn. Và quả thật con có thể xoay chuyển và nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả mọi khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi vào trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, đã ngăn tôi nắm lấy sợi dây và leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa gì đối với con? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con hỏi: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì phủ nhận cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào trong lòng nó. Tôi thật sự cảm thấy gì ngay đây? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận diện tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào cho phép tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Chính vì các khuôn nếp lý trí của tôi mà tôi không thể nắm bắt giáo lý tâm linh tôi đang theo học. Giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với việc làm của con. Cảm xúc đầu tiên là con có thể bực bội với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, trước hết con cảm nhận một sự bất lực là mình không thay đổi được phản ứng của người kia đối với mình, thay đổi cách người kia nhìn mình. Nhưng con cũng cảm thấy là con phải có cách thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hòa đồng với mọi người. Con không muốn ai giận con và con không biết, ít nhất thể cảm xúc của con không biết, làm thế nào khác hơn là phải thay đổi cảm xúc của người kia để con không cảm thấy mình đã quấy rầy họ.

Sau đó, con bước lên cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình đã hiểu quyền tự quyết, mình tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến ai nổi giận, không khiến ai kết tội mình. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép tự biểu đạt, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức cho người khác, để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác, nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng cho nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu xem xét các khuôn nếp này, và dần dần qua thời gian – có thể một thời gian dài – làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng, cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác, vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết của mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi có điều gì từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả con người mà họ có thể là. Họ cần là như vậy. Khi cái bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tâm linh? Con đang lần hồi nâng nhận biết của mình lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn người khác chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận khi thày bắt đầu truyền pháp trong tư cách Phật. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng dạy. Nhưng ở một mức độ nào đó, tất cả mọi vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Một vài vị đã tìm được cách rút lui, như thày đây cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế giới và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là đi ra ngoài thế giới và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn toàn bộ sứ vụ ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có cái gì hơn thân phận làm người mà con đang trải nghiệm ngay bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta thà trả tự do cho một tên sát nhân còn hơn là cho kẻ đến khuấy động họ, vì họ có thể chịu được tên sát nhân. Đây chỉ là chuyện bình thường – có những người đi giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thế phàm thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động, cho nên chúng tôi sẽ giết người nào khuấy động chúng tôi.”

Con thấy đó, đa số người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện đây? Đó là có một số người chứng tỏ được là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm vậy bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa là con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác, và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này hầu hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con mới cất bước trên đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này, để khi người khác phản ứng lại thì con không cảm thấy xao động.

Thày biết bài giảng này đã dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể trao cho con những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo, cũng như cách thức con có thể tiến đến niềm an bình nội tại thật sự, không dựa trên đè nén và chối bỏ, mà dựa trên sự giải quyết và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Và như vậy, thày cảm ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó nó chạm được những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này hay giáo lý này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, hay sẽ không bao giờ chấp nhận ý tưởng này mặc dù nó vẫn ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên nhìn ra một điều gì họ chưa từng thấy trước đây, và từ đó họ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào mà họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa, mục tiêu của các thày là nâng cao nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh chân chính, các thày mong muốn họ đạt được những mức thấu triệt ngày càng cao hơn. Theo một nghĩa nào đó, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm trong tư cách Phật. Đây là một quá trình đã không ngừng nghỉ từ khi bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước nữa. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào, có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong một thế giới đầy rẫy biểu hiện xáo trộn. Con có mặt ở đây để góp phần vào quá trình đang tiếp diễn mỗi lúc một cách bất tận, nhằm nâng cao mọi sự sống từng bước vươn lên những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con đây nếu không phải là một khuôn nếp mà con chưa giải quyết, một ngã tách biệt mà con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt đó hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhìn ra điều này, bằng cách làm việc trên ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng lớn hơn. Không có công thức thần diệu nào đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này, và con đi nhanh hay đi chậm tùy theo con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những gì gây xáo trộn cho con. Với những lời này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, và đổi lại, thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ trở lại và trao truyền những lời dạy thâm sâu hơn, thậm chí còn xáo trộn con nhiều hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.

5 | Con không thể lên cao hơn ý định của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Ý định cao hơn có nghĩa là gì? Ý định là gì? Thông thường người ta nói: “Tôi có một ý định dựa trên mong muốn có một vật gì, trải nghiệm một điều gì, hoàn thành một điều gì.” Ý định hàm ý quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó hàm ý là trong quá khứ con đã hình thành một số mong muốn nào đó, một viễn quan nào đó. Ngay bây giờ, con có ý định là viễn quan này trở thành hiện thực, nhưng con nghĩ nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nhưng ý định cao nhất là gì? Chẳng có cách nhìn nào khác về ý định hay sao?

Thày đã có nói là con sống trong một thế giới khó khăn. Nhiều người có mong muốn tự bảo vệ khỏi thế giới hỗn loạn này. Họ có ý định được bảo vệ khỏi một phần của sự hỗn loạn để không bị quá tải, nhưng cũng có thể họ mong muốn sở hữu một cái gì, thực hiện một việc gì, trải nghiệm một điều gì trong thế gian này. Một lần nữa, tất nhiên là chuyện này không có gì sai trái. Con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người con là bây giờ, con nhìn thế giới, con nhìn bản thân, con nhìn cuộc sống theo một cách nào đó. Dựa trên cái đó, con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thấy sẽ hiện thực, một số thứ mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh. Không thể nào khác được.

Khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra là ý định con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất có thể. Thật con không cần nhất thiết lên án ý định của con, phán xét nó là sai lầm hay mạnh bạo trấn áp nó, mà con cần nhận ra là cuộc sống trên một hành tinh như địa cầu có hai khía cạnh. Một khía cạnh như thày đã nói, là có một số chuyện con cần làm để sống còn, để giữ cho thân xác vật lý của mình tồn tại. Và khía cạnh kia là con có một mục đích rộng lớn hơn, một mục đích dài hạn hơn, là đạt niết bàn, đạt sự an bình nội tâm, đạt sự giác ngộ, bước chân trên đường tâm linh, nâng cao trình độ nhận biết của mình cho dù con định nghĩa như thế nào.

Con cần bắt đầu suy ngẫm là thực sự con có hai loại ý định khác nhau ở đây. Con có một ý định liên quan đến việc sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất, và con có một ý định liên quan đến việc vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý. Khi con bắt đầu có sự nhận biết tâm linh, thử thách là làm thế nào quân bình được cả hai. Đây là thử thách muôn đời, là thử thách vượt thời gian mà con người đã đối mặt trong một thời gian rất dài. Làm thế nào con dung hòa được sự kiện con đang ở đây với ý định là mình sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn? Đây là điểm đòi hỏi con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng các mong muốn của mình.

5.1. Sự căng thẳng tinh thần khi định nghĩa thế nào là ý định chân chính

Có nhiều Phật tử đã xem xét khái niệm ý định “chân chính” này [còn được gọi là Chánh tư duy] theo cách nhìn của họ, và một lần nữa họ lại tìm cách quy định một cách thức vỏ ngoài để phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. “Tôi cần tránh, tôi cần ép mình để không có ý định nào sai trái, và thay vào đó tôi sẽ ép mình để có, hay để trau dồi, những ý định chân chính.” Điều này đã khiến cho nhiều, rất nhiều người rơi vào một vòng xoắn ốc phải vận dụng càng ngày càng nhiều áp lực tinh thần để kìm nén các ý định mà họ đã dán nhãn là sai trái, để luôn luôn tỉnh thức, tập trung ý định vào việc chỉ cho phép những ý định được họ dán nhãn là đúng đắn mà thôi. Điều này có thể trở thành một nỗ lực trí năng gay gắt, một sự dồn ép căng thẳng mà con có thể chứng kiến không những nơi các Phật tử mà nơi nhiều người tâm linh hay mộ đạo, thậm chí cả nhiều người đang cố sống theo một loại lý tưởng nào đó.

Đây là lúc chúng ta cần bước lui lại một chút. Chúng ta cần nhìn nhận là đường tu dẫn đến nhận biết cao hơn có nhiều giai đoạn. Có một số giai đoạn và con phải bắt đầu ở một điểm nào đó. Con bắt đầu ở mức con đang đứng khi con tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này. Đối với mỗi người thì mức này mỗi khác, tùy theo trình độ phát triển con đã đạt được trong tiền kiếp. Đối với cá nhân con, con đã bước vào kiếp đầu thai này với một mức độ ý định nào đó, một mức độ nhận biết nào đó. Con đạt tới điểm lần đầu tiên con khám phá giáo lý tâm linh, con nhận chân là có một đường tu tâm linh, có một quy trình con có thể đi theo. Vào lúc đó, cách con nhìn sự việc này thể hiện trình độ nhận thức tổng quát của con, và dựa theo đó, con hình thành một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ việc bước chân trên đường tâm linh. Một lần nữa, không có gì sai trái ở đây – con đâu làm gì khác được?

Điều con cần nhận ra ở đây là khi con bước chân trên đường tu, khi con nâng cao mức nhận biết, con cần tái xét các ý định đã khiến con đi theo đường tu cùng các ý định của con về cuộc sống trên trái đất. Con không thể chỉ đơn giản lập ra một cách đánh giá trắng-đen nhị nguyên về thế nào là ý định “đúng”, thế nào là ý định “sai”. Con không thể tự ép buộc mình. Hay đúng hơn, con có thể tự ép buộc mình nhưng làm như vậy sẽ không nâng cao nhận biết của con. Nó sẽ giữ con kẹt lại ở mức này nơi con cảm thấy bởi vì con đã tự ép mình để không có ý định sai mà chỉ có ý định đúng, cho nên con đã đạt đến một giai đoạn cao cấp nào đó trên đường tu, và vì thế con tốt thiện hơn những kẻ đã không làm giống con. Như thày đã giảng rất nhiều lần, đây không phải là tiến bộ thực.

5.2. Một lượng định cao hơn về ý định

Có một giải pháp khác là con không đánh giá các ý định của con dựa trên đúng hay sai. Thày đã giảng về sự tách biệt, về ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Chuyện gì thực sự xảy ra khi con quy định có hai đối cực nhị nguyên là đúng và sai? Con tự đặt mình vào một tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực. Như thày đã trình bày, hậu quả cùng cực là con sẵn lòng tiêu diệt một nhóm người khác với nhóm của con theo cách con định nghĩa. Là một người tâm linh, con đã vươn lên một mức cao hơn nơi con không còn quá chú tâm vào việc ép buộc người khác nữa. Thật ra hầu hết những người tâm linh đều không sẵn lòng dùng sức mạnh trên người khác, nhưng thường khi con lại sẵn lòng dùng sức mạnh trên chính con. Con có thể rất dễ bước vào tâm thái cảm thấy mình phải vận dụng ý chí, vận dụng chú ý và tập trung của mình để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Nhiều người tâm linh cho rằng họ có thể tiến bộ qua việc thiền quán, nhưng thiền quán thường bị xáo trộn bởi cái mà một số Phật tử gọi là tâm khỉ, qua đó ý tưởng cứ chạy tứ tung. Họ đã tạo dựng quan điểm cho rằng họ có thể cưỡng ép tâm họ để nó không suy nghĩ, cưỡng ép tâm để nó không có ý tưởng, và điều này có thể trở thành một nỗi căng thẳng to lớn cho những ai đã tập theo như vậy trong một thời gian dài. Có thể họ nghĩ là họ đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Giải pháp khác hơn là con tra vấn cách tiếp cận dựa trên sức mạnh này và nhận ra là con không cần dùng đến sức mạnh.

Điều có thể giúp con trong việc này là con hiểu rằng trước khi con đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã lập ra như vậy cùng với các vị cố vấn tâm linh của con, dù những vị này là ai tùy theo quá trình cùng mức phát triển cá nhân của con. Con đã nhận được lời khuyên từ những vị thày già dặn hơn, giàu kinh nghiệm hơn, và dựa theo đó con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Đa số con người trên trái đất hoặc không có Kế hoạch Trọn đời, hoặc có một Kế hoạch Trọn đời rất đơn giản, nhưng con là một người tâm linh cởi mở với giáo lý tâm linh thì con có một Kế hoạch Trọn đời tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Kế hoạch này nhằm mục đích chủ chốt là tăng triển trình độ tâm thức, nâng cao mức nhận biết ngày càng cao hơn. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào, đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng mà con có trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để có thể tinh tiến, và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai tới của con?”

Và đó là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Hầu hết những người tâm linh đều chọn cha mẹ và gia đình của mình, họ chọn nền văn hóa và quốc gia, vì trong môi trường đó có một điều gì có thể giúp họ khắc phục các ảo tưởng, các dính mắc, các khuôn nếp, các khuôn nếp phản ứng mà họ muốn vượt qua trong kiếp đầu thai này.

Đây là điểm mà con có thể nói là có một yếu tố vũ lực nào đó, vì khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời thì con có một tầm nhìn rõ ràng hơn về những gì con cần khắc phục. Tất nhiên, con biết là một khi con lại bước xuống hiện thân thì con sẽ quên mất tầm nhìn này. Đây chính là bản chất của việc khắc phục một điều gì đó. Nếu con biết trước con sẽ phải khắc phục điều gì thì việc khắc phục đâu còn là thử thách gì nữa?

Làm thế nào con sẽ khắc phục trong thực tế? Con có một ảo tưởng. Nếu con biết đó là ảo tưởng thì con đã khắc phục nó rồi. Cách duy nhất để khắc phục là con bước xuống hiện thân với ảo tưởng đó, con quên mất ảo tưởng, rồi trong khi đầu thai con nhìn ra ảo tưởng. Đây là cách con khắc phục nó. Con vẫn mang một sự nhận biết nào đó trước khi đầu thai về những điều con cần khắc phục, và con quyết định tự đặt mình vào một tình huống bắt buộc con phải giải quyết cái khía cạnh cụ thể đó trong tâm lý của con. Hoàn cảnh vỏ ngoài của con, những người mà con cùng đầu thai như cha mẹ và anh chị em con chẳng hạn, tất cả đều mang một số khuôn nếp trong tâm lý của họ sẽ bắt buộc con phải phản ứng lại họ hầu con có dịp nhìn thấy các khuôn nếp nơi chính con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con đã tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng tất nhiên khi con bước vào đầu thai thì con đã quên mất, và đây chính là tại sao con thường phản ứng mạnh mẽ đến như vậy đối với cha mẹ mình, gia đình mình, hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Thử thách của con là con nối kết lại với cái đó.

5.3. Tâm muốn kềm chế

Con thấy những gì thày vừa nói đó, có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Đó có thể là mối đe dọa bị choáng ngợp, hay phải chất vấn các niềm tin của mình hay là gì đi nữa, nhưng con muốn kềm chế nó. Khi con bước vào kiếp đầu thai, điều này thường có nghĩa là trong những hoàn cảnh khó khăn phải đương đầu với một người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình. Con muốn trấn áp các cảm xúc, các tin tưởng, kềm chế tình huống con phải đối mặt để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con. Một lần nữa, đây là một điều tự nhiên trong một thời gian, nhưng nếu con là một người tâm linh, Kế hoạch Trọn đời của con có trù liệu là tới một điểm con sẽ tìm ra một giáo lý tâm linh và con được nhắc nhở một cách ý thức là có một con đường để mình bước theo.

Điều có thể đem lại lợi lạc cho con là con nắm lấy lời dạy này ở đây và nói: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn ép buộc mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi?” Bằng cách quyết định ý thức như vậy, con có thể ít nhất khắc phục được phần nào sự kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý của mình để tìm ra tại sao mình lại có khuôn nếp phản ứng như vậy đối với một số loại người.

Đây là một phần trong tiến trình con hình thành một ý định cao hơn, qua đó con nhận ra là trong cái bây giờ và ở đây, trong tình huống trước mắt con, con có một số khuôn nếp phản ứng đang muốn con kìm hãm việc xem xét tâm lý của con. Con có thể bất chấp các khuôn nếp này và quyết định: “Không, tôi sẵn lòng nhìn vào tâm lý của tôi, các khuôn nếp của tôi, để nhìn thấy chúng và khắc phục chúng.” Điều này có nghĩa là giờ đây con đang nối kết với ý định của chính mình đằng sau Kế hoạch Trọn đời. Và khi con nối kết vào đó thì còn đâu yếu tố vũ lực nào nữa? Con đâu cần ép buộc mình phải xem xét một điều gì khi chính con đã nối kết lại với ý muốn giải thoát khỏi điều đó? Khi con nhận ra là con muốn được tự do khỏi cái đó, con không đang ép buộc mình phải đương đầu với nó.

5.4. Con là ai?

Khi đó, con có thể bắt đầu chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Như thày vừa nói, bây giờ và ở đây, trong tình huống hiện tại, có một phần trong tâm con, tâm phàm của con mà có thể gọi là tự ngã, đang có một ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con. Đây là điều mà phần này của tâm vốn làm. Nó giống như một chương trình máy tính không biết làm gì khác. Đây không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục một số những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Một khi con nhận chân điều này thì không có chuyện ép buộc mình phải từ bỏ ý định thấp và chấp nhận ý định cao. Con tái nối kết với ý định cao. Con nhận ra rằng cái ta mà con là, đó là chính con có một ý định cao hơn. Đây mới là ý định của con.

Ý định muốn bưng bít và tránh né một chuyện gì không phải là ý định của con, đó là ý định của tự ngã, của cái ta vỏ ngoài. Xong với thời gian, con có thể lần hồi chiêm nghiệm được điều này: Con là ai chứ? Đâu là cái ta đang có một ý định cao hơn cái ta mang ý định thấp?

Đây là điểm con sẽ được lợi lạc khi con tự hỏi một số câu hỏi mà hầu hết mọi người không thể đặt ra. Chẳng hạn, con là ai ngay lúc này, ai đang thu nhận bài giảng này? Đây là một bài giảng tâm linh. Nó có ý định giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Ai là cái ta đang thu nhận lời dạy này?

Con cũng có thể hỏi ai là cái ta đang cưỡng lại lời dạy này? Con có thể nhận ra là trong tâm con có một cố gắng nào đó để khiến con cưỡng lại lời dạy. Có một cố gắng moi ra những kiến thức và tin tưởng hiện thời của mình, rồi dựa trên đó đánh giá lời dạy, tìm xem có điểm nào, có lý do hay viện cớ nào để bác bỏ lời dạy. Nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh rồi phát hiện một chi tiết nhỏ xíu không tán thành với những niềm tin hiện tại của họ, thì họ dùng điểm này để bảo: “Ồ, toàn bộ giáo lý này sai bét.”

Ai là cái ta đang học giáo lý và ai là cái ta đang cố khiến con bác bỏ giáo lý? Nói cách khác, ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn con đóng tâm lại? Cái ta cởi mở là cái ta thực của con, trong khi cái ta cưỡng chống muốn con khép kín tâm con lại là tâm vỏ ngoài, là nhân cách tự ngã muốn con ở lại trong ảo tưởng. Toàn bộ nhân cách tự ngã này dựa trên ảo tưởng. Nó khởi lên từ ảo tưởng nhưng nó muốn con ở lại trong ảo tưởng. Đâu là cái ta mà con là? Ấy, con có thể bắt đầu cố sức tìm hiểu nó một cách trí thức, nhưng thật sự tất cả chỉ là việc trải nghiệm, cho nên con hãy thử làm bài tập đơn giản sau đây.

Một số các con đã biết bài tập này rồi nhưng đối với một số khác thì đây là điều mới lạ. Con hãy nhận biết là con đang ngồi đây thu nhận bài giảng này. Con nhận biết là có thể con đang ngồi trên một chiếc ghế, cho nên con hãy bước ra ngoài chính con bằng tư tưởng, bước ra ngoài tâm con, và con hình dung, con tưởng tượng là con đang đứng sau ghế và đang nhìn thân con ngồi trên ghế. Bây giờ con nhận ra là con đang ngồi trong một căn phòng, nhưng có gì đó bên ngoài căn phòng. Bây giờ bằng tư tưởng, con hãy lùi về thêm nữa cho đến khi con nhìn thấy nguyên căn phòng nơi con ngồi. Con thấy thân con đang ngồi trên chiếc ghế trong căn phòng. Rất có thể căn phòng này thuộc một căn nhà. Con lại lùi thêm, lại hình dung, tưởng tượng toàn bộ căn nhà, căn phòng trong căn nhà, và thân con ngồi trên ghế trong căn phòng. Bây giờ con có thể lùi lại thêm nữa trong khoảng môi trường bên ngoài căn nhà, nhìn căn nhà, căn phòng, chiếc ghế, vân vân. Con có thể lui lại, lui nữa và lui thêm nữa, nhìn thấy toàn bộ trái đất, con nhìn trái đất từ ngoài không gian, nhìn thái dương hệ, nhìn dải thiên hà, và suốt thời gian này từ nhãn quan của con, con vẫn nhìn xuống nơi thân con đang ngồi trên chiếc ghế.

Đây là một bài tập thật đơn giản nhưng một số người sẽ không thể làm được, trong khi một số khác sẽ không bị khó khăn gì hết, ít ra để tưởng tượng và hình dung là mình đang bước lùi lại. Câu hỏi bây giờ là như sau: Ai là cái ta đang lùi lại? Đâu là khả năng mà con có trong tâm con để lùi lại khỏi thân vật lý của con?

5.5. Cái ta là nhiều hơn cơ thể và tâm vỏ ngoài

Tuyệt đại đa số con người trên trái đất bị đồng hóa với cơ thể vật lý của mình đến độ họ không thể tưởng tượng là họ có thể bước ra khỏi cơ thể và đứng nhìn cơ thể. Nếu con có khả năng làm điều này thì có nghĩa là con không đến nỗi đồng hóa với cơ thể mình như hầu hết mọi người. Điều này có nghĩa là có một cái ta không phải là cơ thể, bởi vì nếu không thì làm sao con đã có thể bước ra khỏi nó bằng tư tưởng? Con không phải, như các nhà chủ nghĩa duy vật thường bảo, là một sản phẩm của những quá trình điện hóa (electrochemical) trong bộ não. Là người tâm linh, con đã chấp nhận mình không phải là cơ thể vật lý của mình. Thế thì con cũng có thể chiêm nghiệm rằng con không là thể cảm xúc của con, con không là các tình cảm của con, con không là các ý nghĩ của con, thậm chí con không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất. Vậy con là ai? Con là gì?

Khi con suy nghiệm điều này, cuối cùng con sẽ nhận ra là, giống như con có thể bước ra ngoài thân xác vật lý của mình bằng tư tưởng, thì con cũng có thể bước ra ngoài các cảm xúc của mình, các ý nghĩ của mình cùng ý niệm bản sắc của mình, và con ngộ ra là thực sự mình y như một diễn viên. Con bước vào một rạp hát, con mặc vào một bộ trang phục, con trét vào một lớp phấn son, thậm chí con khoác vào một giọng nói đặc thù, một cách nói năng, một nhân cách đặc thù, và đột nhiên con có thể bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là trong đời sống bình thường. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào. Vậy đâu là cái ta của con? Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con.

Thày biết là tâm con đang bị khó khăn, nó đang đánh lộn vì nó muốn làm những gì nó vẫn thường làm. Nó muốn có một sự mô tả, nó muốn có một cái nhãn, một tên gọi, nó muốn nắm một số đặc tính để nó có thể hiểu được cái ta là gì. Con thấy không, khi bàn đến bản sắc thế trần, tâm lý trí, cảm xúc và cơ thể vật lý của con, tất cả những thứ này đều mang những đặc tính có thể được mô tả bằng từ ngữ, bằng những tâm ảnh mà con sử dụng trên trái đất. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi cái đó. Nó là nhiều hơn bốn thể của con, cho nên nó không thể được mô tả qua ngôn từ cùng các tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nào nắm bắt cái ta thực của con, và rất có thể nó đang nổi loạn chống lại ý tưởng này, nó đang cuống cuồng muốn nắm bắt, gắn nhãn, phân loại khái niệm này. Có thể nó đang lập luận rằng thật vô nghĩa mà nói chuyện về một cái gì có thực nhưng lại không mang đặc tính nào khả dĩ được mô tả.

Đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh? Là giúp con nâng cao nhận biết, và làm thế nào con sẽ nâng cao nhận biết? Bằng cách thăng vượt mức nhận biết hiện thời của con. Đâu là mức nhận biết hiện thời của con? Đó là nội dung của các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc của con. Đó là cái cho con một cái ngã vỏ ngoài, một cảm nhận vỏ ngoài rằng con là ai và con liên hệ thế nào với môi trường nơi con sống.

Ngay bây giờ đây, con có một mức nhận biết nào đó, và khi thày cho con khái niệm là có một phần trong bản thể con vượt khỏi mức nhận biết đó, thì tâm con liền muốn dùng mức nhận biết hiện thời này để cố nắm bắt, phân loại, gắn nhãn, mô tả cái phần này của bản thể con. Có những đệ tử tâm linh đã bỏ ra hàng chục năm trời để cố tìm hiểu các khái niệm tâm linh một cách trí thức bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Thậm chí một số đã cố tìm hiểu khái niệm bảo rằng có một phần của họ vượt khỏi tâm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài, nhưng họ không thể hiểu nổi với mức nhận biết hiện tại của họ. Con hãy ngẫm đi, và khi đó nếu con có khả năng buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của mình, con sẽ có thể đạt được cái người ta thường gọi là một trải nghiệm thần bí.

Cái gọi là trải nghiệm thần bí đó thật chẳng thần bí gì cả. Nó dựa trên sự kiện có một cái ta. Chúng ta có thể gọi đó là cái ta ý thức, hay cái Ta Biết, nhưng ở một thời điểm nào đó có một cái ta đã bước vào cơ thể vật lý của con cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nó đến từ ngoài, nó đã bước vào đó, và nó đang dùng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường của con trên trái đất. Nó không do các thể này sản xuất ra, mà nó đã khoác vào các thể này. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí nó đã chế tạo ra các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc trong những kiếp trước. Chính sự kiện nó đã bước vào tâm hiện thời của con cũng có nghĩa là cái ta này có khả năng bước ra ngoài tâm con. Con có thể nói là ngay bây giờ đây, cái ta nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng cái ta có khả năng bước ra ngoài bốn thể này và ý thức được chính nó vượt hơn bốn thể, vượt hơn tâm. Đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Nếu con lại dùng tâm đường thẳng thì con có thể ví con đường này như một chiếc cầu thang có nhiều bực riêng rẽ. Ngay bây giờ con đang đứng ở một bực nào đó trên cầu thang. Câu hỏi là làm thế nào con bước lên bực kế tiếp? Ai đang bước lên chứ? À, đó không phải là các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc của con. Đó không phải là ý niệm bản ngã hiện thời của con, ý niệm con là ai, bởi vì cái ngã hiện tại này của con bị buộc chặt vào bực thang hiện tại. Vậy cái gì bước lên? Cái Ta bước lên.  

5.6. Tự quan sát là cốt tủy của con đường tâm linh

Điều này xảy ra khi con nhìn vào bản thân, chẳng hạn một khuôn nếp phản ứng. Con thấy mình có xu hướng phản ứng một cách nhất định nào đó trong một số hoàn cảnh. Thay vì cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất hay đây là cách phản ứng đúng, con đạt tới điểm tự hỏi: “Tại sao tôi lại phản ứng cách này? Tôi thật không muốn nổi giận khi có ai đó không làm theo ý tôi. Tôi không muốn có trải nghiệm giận dữ này. Nếu tôi nghĩ đây là cách duy nhất thì làm thế nào tôi có thể thoát ra khỏi nó? Vậy tôi hãy nhìn vào nó, nhìn vào cái gì ở đằng sau nó. Tại sao tôi lại cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất?”

Xong con có thể nhận ra là người khác không phản ứng cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Có những cách phản ứng khác. Thật ra, Phật có nói là luôn luôn có một cách phản ứng khác dựa trên sự không dính mắc. Nói cách khác, con không mang một khuôn nếp khiến con bị dính mắc với một cách phản ứng nhất định. Điều này con có thể ngộ ra, con có thể nhìn ra là có một ảo tưởng khiến con tin rằng đây là cách phản ứng duy nhất. Khi con nhìn xuyên thấu ảo tưởng này, khi con thấy đó là một ảo tưởng đang giới hạn con, đang cầm giữ con lại, thì con sẽ tự động buông nó ra.

Có một câu chuyện quen thuộc được nhiều vị thày tâm linh sử dụng là nếu con đang đứng trong bóng tối, con nắm một vật gì đó và tưởng đó là sợi dây thừng thì có thể con sẽ nắm tiếp. Nhưng nếu người ta bật đèn lên và con thấy đó là một con rắn, thì con không phải nặn óc phân tích phức tạp dài dòng. Con chỉ tự động mở tay ra và buông con rắn. Điều tương tự cũng xảy ra ở đây. Khi con thấy rằng cái con tưởng là sự thật hay cách phản ứng duy nhất chỉ là một ảo tưởng, thì con tự động buông ảo tưởng ra, thế rồi con bước lên bực kế tiếp. Tất nhiên, con sẽ vẫn đem theo các ảo tưởng khác còn sót lại trong ba thể. Nhưng khi con xem xét ảo tưởng kế tiếp và buông nó ra, con lại đi lên một bước nữa, và đây là cách làm thế nào con lần lần tiến bước trên đường tu. Nhưng công việc này chỉ có cái Ta của con mới làm được, không phải là tâm vì tâm không thể xem xét chính nó.

5.7. Máy tính sẽ không bao giờ có khả năng tự nhận biết

Hiện trong các giới khoa học đang có một phong trào nỗ lực tạo ra thông minh nhân tạo, vì nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu hành xử con người, chẳng hạn, đã tìm ra là các phản ứng của con người gần giống như máy tính. Đối với hầu hết mọi người thì nhận xét này không sai. Con đặt người ta vào một tình huống nào đó thì họ sẽ phản ứng y như cách họ đã phản ứng mười lần trước đó trong cùng tình huống này. Lý do là vì như thày đã giải thích, con mang một số khuôn nếp trong tâm tiềm thức của con. Thông thường một khuôn nếp nằm yên như đang ngủ, nhưng khi con gặp một tình huống đặc thù, tình huống sẽ kích hoạt khuôn nếp, sẽ tiếp quản phản ứng của con, thế là bây giờ con phản ứng theo đúng cách đó. Tâm tiềm thức của con có nhiều mặt giống như một chiếc máy tính, nó mang sẵn một số chương trình và khi chương trình được kích hoạt, chúng sẽ điều khiển phản ứng của con, con sẽ phản ứng theo một cách nào đó, rồi có thể sau đó con sẽ hối hận hay con lập luận rằng: “Ồ, đó là cách duy nhất mình đã có thể phản ứng.”       

Điều các nhà nghiên cứu thông minh nhân tạo đã hiểu lầm là đối với một con người, đó không phải là cách duy nhất. Một con người luôn luôn có tiềm năng thay đổi khuôn nếp của mình một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng khác trong lần kế tiếp. Một chiếc máy tính sẽ không thể làm vậy được. Tại sao? Vì nó không có sự tự nhận biết. Nó không có một cái ta nhận biết. Cái ta mà thày vừa nói đến là cái ta có khả năng trở nên ý thức về chính nó. Lúc đầu nó trở nên ý thức về chính con, nhưng nó cũng nhận biết nó không phải là ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao chính con có tiềm năng – như một con người và mọi con người – thay đổi phản ứng cùng hành động của mình một cách ý thức và cố tình. Con có thể chọn một phản ứng khác so với cách phản ứng trong quá khứ. Trong quá khứ có thể con đã phản ứng theo một chương trình nơi con thực sự không có chọn lựa. Đúng, con đã chọn lựa trong một quá khứ xa xôi qua việc tạo ra chương trình, nhưng khi chương trình kích hoạt thì con không đang chọn lựa ý thức. Đây chính là lý do tại sao một số nhà khoa học đã khám phá là con đã có một phản ứng trong bộ não trước khi con chọn lựa ý thức trong một tình huống đặc thù. Lý do là vì có một chương trình tiềm thức đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Vấn đề rộng lớn hơn ở đây là con mang tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của mình mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là các phản ứng của con, con không là các cảm xúc của con, con không là các ý nghĩ của con, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là cái mà một số người gọi là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài cái môi trường mà con gọi là trái đất. Theo một nghĩa nào đó, Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

5.8. Không có giác ngộ tức thì

Một lần nữa, tâm vỏ ngoài của con sẽ lại nói: “Vậy tại sao thày không cho con ngay mức tự nhận biết tối thượng đó đi, cái bí ẩn tối hậu về sự tự nhận biết, để con nhảy qua tất cả những bước này và bước vào cõi Niết bàn ngay bây giờ? Con có thể giác ngộ ngay lập tức.” Con thấy đó, điều này không thể làm được. Không có sự giác ngộ tức thì và lý do thật đơn giản. Cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến trái đất là để có một số trải nghiệm ở đây có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ của con. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có những trải nghiệm này, cái ta mà con là phải tạo ra những nội dung, trước tiên trong tâm bản sắc, xong trong tâm lý trí, rồi trong tâm cảm xúc của con. Chính những khái niệm này đặt nền tảng cho các trải nghiệm con đã có trên trái đất, với mục đích để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê các loại trải nghiệm này và mong muốn một cái gì hơn nữa.

Đó là lúc con sẵn sàng cất bước trên đường tu. Cho đến khi đó, con vẫn có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, rằng mình là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới với những sinh thể tách biệt khác, và con đang giao tranh với các sinh thể này. Con có thể nói bằng tâm ý thức: “Tôi không bao giờ mong muốn chuyện giao tranh này. Đó không phải là lý do tôi đã đến địa cầu.” Nhưng thật ra đó chính là lý do. Khi con bước lui lại khỏi trải nghiệm hiện thời của mình, con nhận ra đây chính là tại sao con đã đến địa cầu. Con có thể có nhiều lý do khác nhau, nhiều động lực khác nhau, nhiều ý định khác nhau ở bên sau, nhưng đó chính là tại sao con đã đến trái đất – để có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất. Sẽ tới một điểm sau rất nhiều kiếp sống nếm mùi loại trải nghiệm này, con sẽ chán chê và bấy giờ con muốn cái gì khác hơn. Đó là lúc con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh dưới bất kỳ phiên bản nào con có khả năng nắm bắt.

Mục đích của con đường tâm linh bây giờ là giúp con dần dần trở nên ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào các tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày con càng có ít hơn trong những tâm này. Con trở nên càng ngày càng tự do hơn. Thực sự giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào nữa dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt. Con đã khắc phục tất cả mọi ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt, rằng con có thể sử dụng các đối cực nhị nguyên để biện minh cho mọi việc mình muốn làm như một sinh thể tách biệt. Đó là khi con giác ngộ. Có thể nói là trong khi con bước chân hướng đến giác ngộ, con lấy từng nội dung từ trong tâm và vứt nó đi, con để cho nó ra đi, mỗi lần một ảo tưởng, cho đến khi con không còn ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nào sót lại.

5.9. Con có đánh mất nhân cách của mình?

Tuy nhiên một số người sẽ phản đối chuyện này và cho rằng: “Liệu sẽ có nghĩa là tôi không còn quan điểm, niềm tin hay lý thuyết nào về cuộc sống, không còn khuôn nếp nào trong cảm xúc? Liệu có nghĩa là tôi không còn nhân cách nào, bản sắc nào?” Phải, có nghĩa đúng là như vậy. Con không còn nhân cách cùng bản sắc vì những thứ này được định nghĩa trên trái đất dựa trên các ảo tưởng của Maya, các ảo tưởng của tách biệt và nhị nguyên. Con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Không có nghĩa là con trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của con mà bây giờ con có thể bắt đầu biểu đạt trên trái đất. Cái con mất đi là cái có thể gọi là cá tính, nhân cách và bản sắc nhân thế. Nếu con cởi mở với một giáo lý tâm linh, đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của mình.

Điều này có nghĩa là giờ đây khi con nhìn vào đời mình và các hoạt động của mình, con không phải làm điều mà nhiều Phật tử đã làm, là đánh giá lại xem ý định nào là chân chính, ý định nào là bất chính: “Tôi cần phải ép buộc mình không được có ý định bất chính.” Thay vào đó, con có thể nói: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ?” Lấy ví dụ con nhận diện trong con mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó. Trên trái đất có thể có nhiều loại trải nghiệm khác nhau, nhưng như trong trường hợp nhiều người, con quyết định mình muốn một mối quan hệ riêng tư, một quan hệ tình dục với ai đó. Đây là một loại mong muốn rất phổ biến, ngay cả trong số những người tâm linh.

Có rất rất nhiều sự hiểu lầm về điểm này trong số những người tâm linh, và con vẫn thấy rất nhiều Phật tử tu học giáo lý rồi dùng tâm vỏ ngoài để bảo: “Ồ, bất cứ hoạt động nào không tâm linh đều sai trái cả và tôi phải tránh làm chuyện đó.” Có một điều khác con có thể xem xét ở đây. Giả dụ con đang thảo Kế hoạch Trọn đời của mình, khi đó con có một tầm nhìn rộng lớn hơn bây giờ. Con nhận ra là con vẫn còn mong muốn trải nghiệm một quan hệ riêng tư, ngay cả một quan hệ vật lý. Con quyết định là con sẽ tự đặt mình vào một tình huống nơi con có thể gặp một người và có được loại quan hệ này. Có sai trái gì đâu trong việc trải nghiệm như vậy nếu con đã lượng định là mình cần có trải nghiệm này trong một thời gian để mình có thể chán chê chuyện này? Nhờ vậy con sẽ có thể thoát ra khỏi nó, để sau đó con có thể tập trung vào những trải nghiệm khác mà con muốn cho phần còn lại của kiếp này. Có sai trái gì đâu trong việc này?

Đó là một phần trong Kế hoạch Trọn đời của con sẽ cuối cùng dẫn con lên một mức nhận biết cao hơn. Thay vì ép buộc mình phải kìm nén một trải nghiệm, con bước vào trải nghiệm cho đến khi con chán chê, con chán ngán nó, rồi con có thể lượng định – không nhất thiết là con phải từ bỏ tình huống vỏ ngoài đó, mà con đạt tới điểm mình không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó. Thật chẳng có gì tự thân là phi tâm linh trong hoạt động tình dục, nhưng nếu con dính mắc với nó, nếu đó là một ám ảnh cưỡng chế, thì tất nhiên nó có thể cản trở sự tăng triển lên những tầng nhận biết cao hơn. Nếu con đạt tới điểm khắc phục được sự dính mắc, khắc phục được sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn, thì hoặc con có thể chọn ngừng hẳn hoạt động đó, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, nó sẽ tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Con thấy đó một lần nữa, đâu là ý định cao hơn của con ở đây? Có phải là giải quyết các ảo tưởng, giải quyết Maya trong tâm con? Hay có phải là sử dụng một lời dạy tâm linh để che đậy các ảo tưởng để con, ở mức ý thức, có thể giả vờ như thể con không có ảo tưởng? Con có thể nghĩ: “Ồ, tôi đã hiểu lời dạy tâm linh cao cấp này rồi, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời giờ thực hành các pháp tu này, cho nên tôi đã vượt xa mong muốn này, ý định này.” Nhưng con chỉ giả vờ thôi con. Con đang che phủ mong muốn đó và điều này sẽ không giúp con vươn lên bước kế tiếp của chiếc thang hay của cầu thang.

5.10. Xét lại các ý định của mình

Đây là bước tiếp theo trên con đường Bát chánh đạo, là xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức. Nhiều người tâm linh đã ép buộc mình phải sống trong một khung cảnh tu viện nơi họ phải kìm nén ham muốn tình dục. Có thể là họ đã sống được như vậy suốt một kiếp dài, hay ngay cả mấy kiếp, nhưng sẽ tới một điểm họ nhận ra – khi họ ở ngoài hiện thân – là họ đã không tự giải phóng khỏi ham muốn mà chỉ kìm nén ham muốn. Họ sẽ cần trở lại trải nghiệm hoạt động đó cho dù nó là gì, cho đến khi họ có thể buông bỏ ham muốn một cách ý thức và cố tình: “Tôi đã chán chê trải nghiệm này rồi.” Việc này không thể cưỡng ép được, nhưng tiếc thay, rất rất nhiều người đã dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra ý tưởng là họ phải tự cưỡng ép. Nếu con thực sự muốn tiến triển tâm linh, ý định của con phải là giải quyết, từ bỏ, buông xả, khắc phục, vượt qua các mối dính mắc của mình, các khuôn nếp, các nội dung trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Đây phải là một ý định bao trùm tất cả, và khi con vươn lên đến mức đó và ý thức được điều đó, con có thể lượng định tất cả mọi ý định khác của con.

Một lần nữa, con phải kiếm sống để nuôi cơ thể, giữ cho nó sống còn. Có thể con có một số bổn phận đối với gia đình và với người khác. Làm thế nào con quân bình được một cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện mình là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh? Con chỉ có thể làm được bằng cách ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào – ừm, hầu hết mọi hoạt động trên địa cầu – đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Nguyên cái ý tưởng cho rằng con phải từ bỏ cuộc sống trần tục, phải lui vào tu viện để tiến bộ tâm linh, không luôn luôn đúng. Có thể có một số người cần làm như vậy trong một hay vài kiếp sống, nhưng chắc chắn không phải là mọi người. Kỳ thực, trong thời buổi con đang sống hôm nay, điều quan trọng hơn so với các thời đại trước là mọi người cần bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội. Đây là điểm sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người hơn trước để họ cởi mở với đường tu khi họ thấy là họ không phải từ bỏ đời sống bình thường, rút vào tu viện trên đỉnh núi ngõ hầu là người tâm linh.

Bây giờ là một thời đại, một thời điểm có rất nhiều người đã tình nguyện bước vào hiện thân để chứng tỏ là con có khả năng tìm ra một sự quân bình giữa đời sống trần thế và sự tăng triển tâm linh, tăng triển nhận biết. Tuy nhiên, thày cũng nói là điều này quan trọng hơn bao giờ hết do thời buổi, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng trong quá khứ. Con nghĩ tại sao thày đã gọi con đường này là Trung đạo? Một lần nữa, Trung đạo là một cách dịch đáng tiếc về một khái niệm phức tạp hơn. Dẫu vậy, Trung đạo không phải là pháp tu khổ hạnh cực đoan mà thày đã đi theo trong thời non trẻ dại dột, cũng không phải là cuộc sống thế tục hoàn toàn mù quáng mà đa số con người đi theo. Nó thăng vượt cả hai, qua đó con sống một cuộc sống năng động trong xã hội với bổn phận gia đình, nhưng con vẫn bước chân trên con đường tâm linh vì con có ý định sử dụng các hoạt động thế tục của mình để tạo thuận lợi cho mình tăng trưởng nhận biết.

Làm thế nào thực hiện được việc này? À, một phần bằng cách xem xét phản ứng của mình trong các tình huống thế tục, và phần khác bằng cách nhận ra là con có khả năng tạo cảm hứng cho người khác qua tấm gương của con. Điều gì xảy ra khi người ta rút lui khỏi xã hội, trở thành tăng ni và sống trong thiền viện? Họ tránh được nhiều áp lực của đời sống thường nhật khả dĩ kích hoạt các khuôn nếp phản ứng của họ. Họ sống trong một môi trường kiềm chế, và một khi họ đã chấp nhận các ràng buộc của môi trường này, rất có thể không có nhiều thứ sẽ kích hoạt phản ứng của họ. Họ có thể tự đánh lừa là họ không còn các phản ứng này nữa, rằng bằng cách chọn sống trong một hoàn cảnh không kích động khuôn nếp thì họ đã khắc phục khuôn nếp. Nhưng không, tất nhiên là họ chỉ áp chế nó thôi.

5.11. Trung đạo thực sự nghĩa là gì

Toàn bộ khái niệm Trung đạo là con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Có một con đường khác cho tình trạng “hoặc cái này hoặc cái kia”, một giải pháp khác cho cái nhìn trắng đen đó. Con có thể tìm ra một cách để là người tâm linh trong khi vẫn năng động trong xã hội. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn, và bỗng nhiên tất cả mọi thứ đều hiện ra dưới một sắc thái mới. Con có được một nhãn quan mới về mọi khía cạnh đời con. Bỗng nhiên con có thể bắt đầu xem lại một vấn đề đã là một trong những cản trở lớn nhất cho người tâm linh – đó là sự phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Tất nhiên đây là một chủ đề thày sẽ quay trở lại khi trình bày về hành động cao hơn [Chánh nghiệp]. Nhưng dẫu vậy, điều quan trọng khi con xem xét ý định của mình là con cần vượt qua cái nhìn nhị nguyên về con đường tâm linh.

Đâu là một trong những lời dạy nền tảng của đạo Phật? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Hiển nhiên, con người trên địa cầu không nhìn thấy mọi thứ là Phật tánh. Tại sao họ không thấy được mọi thứ là Phật tánh? Bởi vì tâm họ bị mù quáng bởi tấm màn Maya. Nhưng cái gì cấu tạo tấm màn Maya? Đó là tâm thức nhị nguyên luôn luôn tạo ra hai đối cực nghịch lại với nhau một cách đen trắng. Tâm thức này ngụ ý một sự phán xét giá trị, nó bảo hoạt động này không tâm linh và hoạt động kia thì tâm linh. Nếu tất cả đều là Phật tánh thì có nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh?” Sẽ ý nghĩa hơn chăng nếu con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng? Ảo tưởng là cái che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Có nghĩa mục đích thực của đường tu không phải là định nghĩa thế này là tâm linh, thế kia là phản tâm linh để rồi phải tránh cái phản tâm linh và chú tâm vào cái tâm linh.

Mục đích thực của con đường tâm linh, của Trung đạo, là ngộ ra mọi hoạt động trên trái đất đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con khi con tiếp cận chúng với ý định thăng tiến nhận biết, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình. Đó là khi hoạt động đó trở nên tâm linh. Bảo rằng một hoạt động là không tâm linh cho nên việc tham gia vào đó – như việc lập gia đình chẳng hạn – sẽ phá hoại bước tiến tâm linh, chỉ đơn giản là một mức độ hiểu biết thấp hơn về đường tu.

Hiển nhiên là có một số hoạt động sẽ không tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết vì chúng càng nhốt con sâu hơn sau tấm màn Maya, nhưng bất kỳ hoạt động nào cũng có thể được sử dụng để giúp con nhìn ra ảo tưởng đằng sau hoạt động. Vì vậy thày không bảo là việc xông ra ngoài kia giết người sẽ giúp con tăng triển nhận biết, nhưng quả thực việc nhìn ra các ảo tưởng đằng sau việc giết người có khả năng tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Một lần nữa, tâm nhị nguyên luôn luôn muốn tạo ra sự phân biệt và tách biệt để giàn dựng một thế nhị đối, nhưng đường tu, con đường Bát chánh đạo, là nhìn vượt lên trên tấm màn Maya để nhìn thấy mọi sự là Phật tánh. Phật tánh ở trong mọi thứ, cho nên ý định đích thực là nhìn ra điều này, chứ không phải là nhận diện cái này hay sinh hoạt này là tâm linh và sinh hoạt kia thì không. Điều gì sẽ giúp con thấy được Phật tánh đằng sau tấm màn Maya? Nếu điều đó giúp con thấy được thì làm sao nó không tâm linh cho được? Nếu điều gì buộc chặt con vào các ảo tưởng nhị nguyên, thì cho dù con có dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho ảo tưởng, làm sao nó tâm linh cho được?

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao trong bài này. Những ngọn sóng chấn động chắc chắn đang được gửi vào tâm thức tập thể, làm khuấy động lũ quỷ của Mara. Chúng đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến cho mọi người bác bỏ những xung lực này để họ lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi.

Nhưng các con cởi mở với những lời dạy này, các con có thể tránh được chuyện đó bằng cách biến lời dạy thành con thuyền Bát nhã, nhưng con sẽ chỉ làm được vậy nếu con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với ngay bây giờ. Thày đã hoàn thành ý định của thày trong việc ban truyền lời dạy này. Thày hy vọng nó sẽ giúp con hoàn thành ý định của con trong kiếp đầu thai này.

Tự do khỏi vũ lực là chìa khóa cho một cuộc sống tốt đẹp hơn trên địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 30/10/2022, nhân Webinar 2022 cho Ukraine. Đăng ngày 28/11/2022.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, Thượng sư của Tia thứ Bảy.

Tự do là gì? Ở những thời điểm khác nhau, tự do đã mang những định nghĩa khác nhau cho những người khác nhau. Con sẽ thấy ví dụ những chế độ, những đế quốc, những ý thức hệ đủ loại đã định nghĩa tự do là việc tuân thủ hệ thống. Ngay cả trong thế giới hôm nay, con cũng thấy được điều này. Các giáo sĩ cực chính thống của Hồi giáo tại Iran định nghĩa tự do như thế nào? Là tuân theo chính quyền, tuân theo hệ thống, tuân theo luật Sharia và sống – thậm chí còn chấp nhận – một cuộc đời định ra dùm họ, rằng đây là những gì ý chí Thượng đế đã muốn cho họ, là tất cả những gì họ có thể mong mỏi.

Tự do được định nghĩa thế nào ở Liên Xô? Là trở thành một công dân thuần phục tuân thủ luật pháp cùng mọi phép tắc và mệnh lệnh của giới lãnh đạo trong đảng. Giáo hội Công giáo sẽ định nghĩa tự do thế nào? Là tuân thủ mọi quy luật, tín điều và học thuyết của đạo Công giáo. Các hội thánh cực chính thống định nghĩa tự do thế nào? Là tin vào cách diễn giải phúc âm theo nghĩa đen và tuân thủ từng chữ, cho dù nó có nghĩa là gì cho cuộc đời của con ở đây trên trái đất, bởi vì – họ dạy như vậy – điều quan trọng là những gì sẽ xảy ra sau cuộc đời này.  

Một cuộc sống tốt đẹp hơn sau địa cầu

Hiển nhiên, là chân sư thăng thiên, chính các thày là những ví dụ sống cho thấy có sự sống sau cuộc đời trên địa cầu. Có thể gọi đó là sự sống sau đời sống – cái mà con người gọi là đời sống. Nhưng nếu muốn cho khái niệm “có sự sống sau đời sống” có chút ý nghĩa, thì chẳng hợp lý hay sao khi bảo rằng sự sống sau đời sống phải tốt đẹp hơn cuộc đời trên trái đất? Nhiều người đạo Cơ đốc khắp thế giới mong mỏi gì? Nhiều người Cơ đốc ở Nga mong mỏi gì? Họ mong mỏi có một sự sống sau đời sống của họ trên trái đất, và họ mong nó sẽ tốt hơn những gì họ đang có. Ngụ ý là gì?

Tôn giáo Cơ đốc đã quen làm gì trong 1700 năm qua từ ngày thành lập Giáo hội Công giáo, qua đó họ cũng đã lập khuôn cho tất cả các giáo hội Cơ đốc khác, kể cả Chính thống giáo Đông phương? Phải, đạo Cơ đốc đã trở thành công cụ cho thiểu số thượng tôn quyền lực để cố ép buộc dân chúng phải chấp nhận cuộc đời mà chúng, thiểu số quyền lực, đã quy định cho mọi người. Thiểu số quyền lực đã cố ép mọi người phải tin rằng cuộc đời mà họ đang có, ngay cả khi họ nghèo khó, là do Thượng đế quy định. Đó là cuộc đời mà Thượng đế đã quy định họ phải sống – nhưng đừng lo, bởi vì trong cõi tới, cuộc sống sẽ khá hơn. Nhưng tất nhiên, đây là một lời gian dối vì nó đi ngược lại luân hồi.

Sự thật là tâm thức mà con mang trong kiếp này định đoạt cuộc sống của con sẽ ra sao trong kiếp tới. Nếu con đã không tự giải thoát khỏi ách thao túng của thiểu số quyền lực trong kiếp này, thì trong kiếp tới con sẽ trở lại dưới ách nô lệ của chúng. Tất nhiên thiểu số quyền lực biết rõ chuyện này, nhưng chúng tước mất hiểu biết này khỏi người dân để họ không thể nổi dậy chống lại chúng vì cứ tin rằng làm vậy sẽ có hại cho đời sống của họ trên trái đất, sẽ cản trở việc họ được lên thiên đàng, mà thay vào đó, họ sẽ bị đày xuống địa ngục với nỗi thống khổ kéo dài đời đời kiếp kiếp.    

Một cuộc sống tốt đẹp hơn ngay trên địa cầu

Nhưng con thấy đó, nếu con dùng suy luận cao để suy ngẫm – một khả năng mà nhiều người có nhưng không phải ai ai cũng có – nếu con mang khái niệm về một sự sống tốt đẹp hơn sau cuộc đời trên trái đất, thì con đã cởi mở với khả năng là cuộc sống có thể khá hơn bây giờ. Vậy tại sao con không thể có cuộc sống đó ngay trên trái đất? Tại sao con phải chờ một cõi cao hơn để sống tốt hơn?

Các Thượng sư kia đã nói đến quá trình tiến hoá trong lịch sử, những chiều hướng, những xoay chuyển đã xảy ra trong lịch sử. Ở đây, con có thể nhìn từ góc cạnh Tia thứ Bảy của Tự do. Đã có một thời con người phải sống trong tình trạng dốt nát dưới đế chế Công giáo thời Trung cổ. Họ chỉ biết những gì giáo hội bảo họ được phép biết, và tất nhiên, giáo hội không cho họ biết là có một cách sống khác hơn cuộc đời của họ. Giáo hội không nói cho họ biết là có những người ở những nơi khác trên thế giới đang có một cuộc sống khác hơn.

Điều tương tự tất nhiên cũng đã xảy ra ở Liên Xô. Không ai nói cho dân chúng biết rằng người dân ở các nước Tây phương có một đời sống tốt đẹp hơn Liên Xô rất nhiều, không chỉ về vật chất mà cả về tinh thần. Con hãy nhìn sự kiện thật đơn giản là cái người ta gọi là Bức màn Sắt. Nếu Liên Xô đã thật là thiên đường xã hội chủ nghĩa tuyệt vời như họ tuyên bố, thì chức năng của Bức Màn Sắt phải là để ngăn không cho dân nghèo tại Tây Âu đang quằn quại dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản di cư đến thiên đường Liên Xô. Nhưng thay vào đó, hiển nhiên, chức năng của Bức màn Sắt là để giam dân chúng trong “thiên đường” xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn họ không thể biết được cuộc sống ở những nơi khác trên trái đất tốt đẹp hơn như thế nào.

Con thấy gì? Con thấy quá trình tiến hóa, sự tiến hóa của xã hội, đã đem lại điều kiện sống tốt đẹp hơn gấp bội cho con người trên trái đất. Chắc chắn vẫn có người phải sống trong những điều kiện khủng khiếp, nhưng so với 100 hay 500 hay 1000 năm trước, rất nhiều triệu người đang có một cuộc sống tươm tất hơn hẳn. Điều này đã không xảy ra do tầng lớp thượng tôn quyền lực hay với sự chấp nhận của chúng – thật sự chúng đâu có muốn chuyện này xảy ra. Tại sao như vậy? Vì chúng muốn duy trì tình trạng mọi người đều không nghĩ là một cách sống khác hơn cách họ đang sống có thể hiện hữu. Họ không nghĩ có bất cứ ai đang được hưởng những điều kiện tốt hơn điều kiện của họ tại xứ họ. Tại sao Liên Xô phải ngăn không cho dân chúng trong nước biết đến những gì xảy ra bên ngoài? Vì Liên Xô phải cố ngăn không cho họ biết là cuộc sống trên địa cầu có thể tốt hơn những gì họ đang có.

Boris Yeltsin, như các thày đã từng đề cập, đã hiểu ra điều này khi ông sang thăm Hoa Kỳ. Ông thấy một cửa hàng tạp hóa chỉ tầm thường thôi nhưng kệ hàng thì đầy ngập những mặt hàng đủ loại, và khách mua thì chỉ việc bước vào chọn mua bất cứ gì họ muốn. Và ông nhận ra là nếu người dân Liên Xô biết người dân Tây phương đang sống như vậy thì họ cũng sẽ muốn được như vậy. Và do đó, Liên Xô sẽ không thể nào sống còn.

Điểm này dẫn đến điều gì? Nó dẫn đến nhận thức là ai ai cũng đều muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tất cả mọi người trên địa cầu đều muốn sống tốt hơn. Lý do duy nhất mà quá nhiều người không có được cuộc sống đó là vì trong tâm họ, do sự thao túng của thiểu số quyền lực, họ đã tin rằng chuyện này không thể nào xảy ra cho họ.

Một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người Ukraine

Đâu là một trong mấy lý do đã gây ra cuộc chiến tại Ukraine? À, người Nga tại Nga hay tuyên bố rằng người Ukraine và người Nga là hai dân tộc anh em. Họ quả quyết là hai dân tộc sao có thể giống nhau đến như vậy, và Putin tạo ra ý tưởng là người Ukraine muốn được giống như người Nga. Họ muốn là người Nga – hay ít ra họ phải muốn được vậy chứ. Nhưng sự cai trị của Putin tại Nga dựa trên gì?

Nó dựa trên sự kiện là người dân Nga không tin là họ có khả năng thay đổi các điều kiện ở Nga. Họ không tin là họ có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn, rằng họ có thể thoát khỏi hệ thống hiện hữu, thoát khỏi Putin lẫn tầng lớp thượng lưu quyền lực của ông ta. Hầu hết mọi người đều không tin là họ có khả năng thoát ra được. Nhưng điều gì đã xảy ra tại Ukraine, đặc biệt từ khi một tổng thống mới được bầu lên, và ngay cả trước đó nữa? Điều xảy ra là nhân dân Ukraine đã nổi lên nỗi khát vọng muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Rõ ràng họ muốn sống tốt hơn thời Liên Xô. Rõ ràng họ muốn sống tốt hơn ngay cả thời hậu Liên Xô. Và ngày càng có nhiều người tại Ukraine hiểu ra là chỉ có một cách họ có thể có được cuộc sống đó – là tiến lại gần với Âu châu, vì họ thấy rõ cuộc sống này đang là hiện thực ở đó.

Con cũng biết trong lịch sử, hay thậm chí trong cả Kinh thánh, tình anh em có thể mang những khía cạnh không mấy âu yếm. Hẳn con có nghe truyện về Cain và Abel. Abel có một điều gì mà Cain cũng có thể có nếu y sẵn lòng tự thăng vượt, nhưng Cain lại không sẵn lòng. Y không sẵn lòng tự thăng vượt, cho nên y không thể có cái Abel có. Nhưng sự kiện Abel có cái đó khiến cho y bực bội, bối rối, ghen tuông. Y không chịu nổi Abel có mà y lại không có. Và vì y không sẵn sàng tự thăng vượt cho nên y đã làm gì? Cain đã sát hại Abel để y không phải nhìn anh mình sở hữu một cái gì mà mình không sẵn lòng đạt được. Đó, đây cũng chính là điều xảy ra cho tâm thức tập thể toàn nước Nga, nhưng đặc biệt trong giới thượng tôn quyền lực.

Tại sao Putin lại quyết tâm nắm quyền tại Ukraine đến như vậy? Vì ông không muốn người dân Ukraine tạo được một cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ và hướng về phía phương Tây. Tại sao ông không muốn? Vì nếu nhân dân Ukraine có thể làm được điều này thì tại sao nhân dân Nga không thể làm được tại Nga? Cho nên ông sợ nếu người Nga ở Nga chứng kiến điều này, chứng kiến người Ukraine sống tốt đẹp hơn, thì chính họ cũng sẽ muốn được như vậy. Và ông biết việc này chỉ có thể xảy ra nếu chế độ của ông bị lật đổ – không chỉ chính quyền của ông, nhưng cả những đại gia đầu sỏ (oligarch), những nhà tài phiệt, cùng toàn bộ cách vận hành của nền kinh tế Nga.

Một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người Nga?

Muốn cho đa số người dân Nga được sống tốt hơn, nguyên hệ thống phải thay đổi một cách cơ bản. Như các thày đã nói về quân đội Nga, nếu con muốn sửa một vấn đề, con không thể sửa vấn đề đó trong phạm vi cùng hệ thống, vì chính hệ thống đó là vấn đề. Putin không thể đem lại một cuộc sống tốt hơn cho dân Nga vì chính ông là người đang kìm hãm nước Nga.

Cho nên ông cho rằng nếu Ukraine thành công trong việc thiết lập một nền kinh tế cường thịnh hơn, một mức sống cao hơn cho dân Ukraine bằng cách hướng về phương Tây và bảo đảm những quyền tự do dân chủ rộng rãi hơn, thì đây sẽ là một mối đe dọa cho chinh ông. Putin mô tả đó là mối đe dọa cho nước Nga, nhưng như các thày đã nói, Putin ở trong trạng thái tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, cho nên trong tâm ông, tất cả mọi thứ đều xoay quanh chính ông. Trong tâm Putin không có một người nào khác ngoài Putin. Mọi người khác đều chỉ là công cụ để thăng cấp hay bảo vệ cho hình ảnh mà Putin muốn có về chính mình. Điều này, bất cứ ai sẵn sàng quan sát khách quan đều có thể thấy rõ.

Kế hoạch của Putin cho Ukraine

Một phần động cơ ở đây là sự ghen tuông, là khi con không muốn để cho một người mà con xem là anh em có nhiều hơn những gì con đang có. Và do đó, Putin sẵn sàng hủy diệt xứ Ukraine như một quốc gia độc lập, tiêu diệt dân tộc Ukraine bằng cách cưỡng bức họ phải giống như người Nga. Có nghĩa là họ phải tuân phục ông ta, tuân phục chế độ cai trị của ông ta.

Con có biết chăng là không những chính quyền và quân đội Nga đã lên kế hoạch xâm lăng Ukraine mà họ còn hoạch định những biện phạp tiếp theo sau? Bây giờ con có thể nhìn ngược lại và thấy các kế hoạch đó thiếu thực tế, nhưng họ đã dự tính chiếm đóng Ukraine, lật đổ chính phủ và nắm quyền kiểm soát cả nước rất nhanh chóng. Sau đó, họ trù hoạch làm những gì mà nước Nga cùng Stalin đã làm trong thập niên 1940 tại các nước Baltic: bắt giữ tất cả những ai có thể đe doạ sự kiểm soát của Nga. Họ đặt cùng những đơn vị Vệ binh Quốc gia đã từng đàn áp người biểu tình tại Nga và Ukraine. Họ lên kế hoạch thiết lập những trại giam để bắt giữ và lượng định xem những người đó có thể được “cải tạo” hay phải bị thủ tiêu ngay lập tức. Đó là tại sao các thày đã nói là nếu những kế hoạch này đã thành hình, thì số người dân Ukraine bị sát hại sẽ cao hơn những tổn thất được ghi nhận cho tời giờ rất nhiều.

Tự do khỏi vũ lực

Con cần nhận ra ở đây điều gì đã xảy ra trên thế giới. Các thày đã nói đến sự kiện các quốc gia tân tiến đạt được một trình độ nhân tính cao hơn, một mức độ sẵn sàng phụng sự cao hơn, nhưng các nước này cũng đã đạt được một tầng cấp tự do cao hơn. Các thày cũng từng nói là tự do có những giai đoạn khác nhau, và các tầng thấp của tự do là “tự do khỏi”, tức tự do khỏi một điều gì đó. 

Trong nhãn quan này, điều đã xảy ra là thế giới tân tiến đã đạt được tự do khỏi vũ lực. Kể từ Thế chiến thứ Hai, ở các nước phương Tây trong các nền dân chủ hiện đại, đã có sự tự do khỏi các thế lực bên ngoài muốn dùng vũ lực để cưỡng ép người dân, nhưng họ cũng đạt một mức tự do cao độ khỏi các thế lực nội tại dưới hình thức chính quyền trong nước. Gần như không có ai – à, không hẳn là vậy vì chắc chắn vẫn còn một số người – nhưng hầu hết mọi người trong thế giới tân tiến đều không cảm thấy bị chính phủ mình tìm cách bắt nạt. Ngay cả những ai trong thế giới tân tiến có cảm giác chính phủ mình tìm cách bắt nạt mình, thì họ chỉ nghĩ vậy do họ hoàn toàn không biết gì về đời sống tại Nga. Vì nếu họ biết, nếu họ sẵn lòng nhìn nhận, thì họ sẽ hiểu ra là chính phủ của họ không có ý bắt nạt họ, và tin tưởng này thật không thực tế chút nào.

Con nhận ra là nhân dân trong thế giới tiền tiến đã đạt được một mức tự do cao độ khỏi vũ lực. Đây cũng chính là điều nhân dân Ukraine, đa số nhân dân Ukraine, mong muốn. Họ đã mong muốn điều này trước khi chiến tranh xảy ra, nhưng như các thày đã có giải thích, họ chưa hẳn tới được mức đó. Và đây là lý do tình hình hôm nay đã có thể xảy đến, phần nữa cũng là vì họ đã khoác vào vai trò nhằm chứng tỏ người Nga đang thiếu tự do đến chừng nào đối với vũ lực.    

Nếu con nhìn tâm thức tập thể của nhiều nước, con có thể lập ra một thang điểm qua đó con bảo: đây là mức tự do khỏi vũ lực, hoàn toàn tự do khỏi vũ lực; và dưới mức đó có nhiều mức độ tự do khác nhau. Sau đó con bước vào mức âm, là những độ vũ lực khác nhau, và ở mức thấp chót cùng là hoàn toàn không có tự do khỏi vũ lực.

Con có thể nhìn vào thang điểm này và thấy trước cuộc chiến, tuy Ukraine chắc chắn cao hơn Nga nhưng vẫn có những người còn phần nào trung thành với Nga. Họ đã cầm chân Ukraine lại nhưng nói chung, Ukraine vẫn cao hơn Nga. Điều xảy ra sau khi cuộc chiến bùng nổ là trong dân tộc Ukraine đã có một sự xoay chuyển khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu khát khao tự do đó. Có thể nói, chiến tranh vẫn tiếp diễn và vì vậy họ vẫn bị một lực bên ngoài chi phối, nhưng dẫu vậy, càng ngày càng có nhiều người thực sự đạt đến nhận thức là họ mong muốn tự do khỏi vũ lực.

Sự thờ ơ tại Nga

Nhưng ở Nga, người ta đã đi theo chiều hướng ngược lại. Trong lòng nhiều người Nga, ít ra cho tới giờ, có sự cam chịu là không gì có thể thay đổi. Một số những ai tin rằng sự thể có thể thay đổi đã bỏ nước ra đi. Một số người ra đi chính vì giờ đây họ không nghĩ sự thể có khả năng thay đổi. Còn những người ở lại Nga thì họ cam chịu, hầu hết đã buông xuôi, và do đó tâm thức, tâm thức tập thể nước Nga, đã xuống thấp rất nhiều. Bây giờ họ sẵn sàng chấp nhận càng ngày càng nhiều vũ lực hơn từ chính quyền. Tất nhiên như một vài chuyên gia có nói, sự thể này có thể chuyển đổi một lúc nào đó khi lòng sợ hãi chế độ bị lấn át bởi những nỗi sợ hãi khác và họ sẵn sàng đứng lên đòi hỏi thay đổi. Nhưng ngay bây giờ thì trên thế giới, có rất ít quốc gia có trình độ tâm thức tập thể thấp hơn nước Nga, ít nhất nếu dựa trên tiêu chí tự do khỏi vũ lực.

Con có thể nhìn vào Putin và tự hỏi, không hiểu ai là người ít tự do nhất nước Nga? Từ một nhãn quan nào đó, có vẻ như ông ta là người quyền lực nhất nước. Ông có thể làm bất cứ gì ông muốn và cả nước sẽ răm rắp làm theo chỉ thị của ông. Nhưng khi con nhìn vào khía cạnh tâm lý, Putin là con người ít tự do nhất nước Nga và một trong những người ít tự do nhất trên toàn địa cầu, vì ông bị kẹt quá đỗi trong chính cách tư duy của ông.

Và điểm này dẫn tới gì? Nó dẫn tới nhận thức là chắc chắn vũ lực vật lý có thể hạn chế tự do, nhưng tại sao con bị vũ lực vật lý chi phối chứ? Tại sao con lại chấp nhận là tình trạng của con trên địa cầu không thể thay đổi, rằng con không thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn? À, là vì các điều kiện tâm lý. Con mang một cơ chế trong tâm lý đang ngăn cản không cho con chấp nhận là con có thể có những điều kiện tốt hơn, cho nên con cam chịu, con buông xuôi. Khi con nhìn vào chiều dài lịch sử, đây chính là điều mà tất cả mọi thiểu số thượng tôn quyền lực, tất cả mọi chế độ độc tài hay lạm quyền trong lịch sử đều trông cậy vào.

Chúng trông cậy là một khi chúng đã áp đặt đủ vũ lực trên dân tộc của chúng, thì nhân dân sẽ buông xuôi, sẽ chịu thua – cuộc đời bắt buộc phải trải ra như vậy và không có gì sẽ cải thiện được cuộc đời, ít ra là nơi đây trên trái đất. Như các thày đã giải thích, người Nga đã phải hứng chịu tình trạng này từ rất rất lâu, rất nhiều người như vậy. Nhưng tất nhiên cũng có nhiều người đã chọn đầu thai ở Nga trong thời buổi này vì họ muốn chứng tỏ là có một cách sống khác hơn. Vấn đề là giờ đây, nhiều người trong số đó đã bỏ nước ra đi. Hiển nhiên họ vẫn lôi kéo tâm thức tập thể đi lên, và ngay cả việc này cũng có thể đem lại một tác động tích cực dài hạn.

Nhưng điểm cần nói ở đây là như sau. Một quốc gia không thể đạt đến tự do khỏi vũ lực cho tới khi có một túc số tới hạn (critical mass) người dân xoay chuyển, tức là xoay chuyển chính tâm lý của họ để bắt đầu xét xem tại sao họ lại nghĩ họ phải cam chịu số phận của mình trong đời. Tại sao họ nghĩ là họ phải bỏ cuộc mà không cố cải thiện đời mình. Đôi khi nhận thức này đòi hỏi những cú giáng thật đau đớn. Như con thấy tại Iran, giới thanh thiếu niên gần như phải chạm đáy tuyệt vọng khi nhìn ra là mình không có tương lai trước khi họ sẵn sàng phản đối. Nhưng luôn luôn có tiềm năng là mọi người có thể thức tỉnh, và đây chính là điều đã xảy ra tại Ukraine và cũng là lý do tại sao con chứng kiến Ukraine đã tiến bộ nhiều hơn Nga. Và cũng là tại sao con chứng kiến âm mưu tuyệt vọng của Nga hầu chặn đứng tự do tại Ukraine.   

Cuộc xoay chuyển ở Ukraine

Vậy điều này có nghĩa gì cho nhân dân Ukraine? Có nghĩa đơn giản như sau: Các con đã khởi hành trên con đường dẫn đến tự do rộng lớn hơn. Đã có một túc số tới hạn tại Ukraine mở tim mình ra cho Ngọn lửa Tự do của Tia thứ Bảy. Các con đã tiếp nhận ngọn lửa theo khả năng xử lý của mình, nhưng các con đang trên đường đi đến tự do. Các con chỉ cần đơn giản bước chân đi tiếp và gia tốc. Và một lần nữa, đang có một sự gia tốc to lớn ngay bây giờ, đang có một tiềm năng to lớn ngay bây giờ, vì nhiều người chưa nhìn ra trước chiến tranh thì nay họ bị chấn động đến độ họ thốt lên: “Chúng tôi muốn tự do, chúng tôi muốn thoát khỏi tình trạng này.”   

Họ nhìn vào sự tàn phá, và nếu con chưa sống trong vùng chiến sự, nếu con chưa bước chân đến những vùng Ukraine bị Nga chiếm đóng, thì con không thể tưởng tượng nổi người dân đã phải chịu đựng những gì. Nhiều người bị chấn động đến tận xương tủy khi chứng kiến nhà cửa bị tàn phá, người dân bị giết hại, những tra tấn, những hãm hiếp, cách hành xử hoàn toàn vô nhân đạo, ăn cướp bất cứ gì có thể ăn cướp. Thật là một cú sốc cho rất nhiều người đến độ những ai từng trung thành với nước Nga cũng phải mở lòng ra mà nói: “Chúng tôi không bao giờ muốn chuyện này tái diễn, chúng tôi muốn thoát khỏi sự thể này, chúng tôi muốn tự do khỏi loại vũ lực này.”

Tự do khỏi tham nhũng

Một lần nữa, có một cơ hội mở ra ở đây cho Ukraine thực hiện một cuộc xoay chuyển sâu xa khi mọi người nhận ra: “Chúng tôi muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng cái gì đã ngăn cản chúng tôi? Đó là vũ lực, và chúng tôi muốn tự do khỏi vũ lực.” Điều này có nghĩa rất nhiều thứ. Tất nhiên ngay bây giờ thì con nói: “Chúng tôi muốn tự do khỏi nước Nga đang đàn áp, tấn công, tàn phá chúng tôi.” Nhưng con hãy nhìn vào các lực nội tại đang cầm chân bước tăng trưởng của Ukraine. Như các thày đã trình bày rất nhiều lần, nạn tham nhũng là một trong số đó. Nhưng thêm vào đó còn có toàn bộ hệ thống kinh tế với đại gia đầu sỏ và tệ nạn thiên vị, cùng với toàn bộ hệ thống chính trị không đặt nền tảng trên việc phục vụ nhân dân mà phục vụ đặc quyền đặc lợi.

Có một cơ hội tuyệt vời để người Ukraine thức tỉnh, nhìn lại xứ sở mình và nói: “Chúng ta cần làm gì để vươn lên cao hơn, để đạt được tự do khỏi các thế lực bên ngoài lẫn bên trong? Chúng ta cần thay đổi chính chúng ta như thế nào?” Và con sẽ thấy là tại Ukraine đã có đủ túc số những người mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn và tin rằng đó là chuyện khả dĩ, là điều thật sự có khả năng thị hiện. Ngoài ra còn có sự kiện nhiều người Ukraine đã tị nạn ra nước ngoài, ở đó họ có thể nhìn thấy tận mắt một cuộc sống tốt đẹp hơn là điều khả dĩ. Họ thấy tận mắt những người chẳng khác gì họ đang có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Con cũng thấy nhiều người ti nạn như vậy nhận được cú sốc – một cú sốc thú vị – khi họ được các quốc gia đó tiếp đón nồng hậu như thế nào. Trở về với bải giảng của thày Nada về phụng sự, nhiều người tị nạn Ukraine đã chứng kiến và trải nghiệm một mức phục vụ cao hơn khi nhân dân các nước đó đã đón tiếp họ và chứng tỏ ý muốn giúp đỡ họ cho dù không được hưởng lợi lộc gì. Nhiều người Ukraine từng nghi kỵ quốc gia và nhân dân Ba Lan do hiềm khích quá khứ. Nhưng họ được cú sốc thú vị khi Ba Lan mở vòng tay đón tiếp họ, và Ba Lan là quốc gia đón nhận nhiều người tị nạn Ukraine nhất thế giới.

Một lần nữa con thấy một bằng chứng về sự sẵn lòng phụng sự vô vị lợi, và những người Ukraine đó có thể đem tinh thần này về nước mình, và một cuộc xoay chuyển có thể xảy ra khi con nói: “Thôi đủ rồi những cách hành xử lỗi thời kia. Đủ rồi các đặc quyền đặc lợi. Đủ rồi những các quan chức tiếng là phục vụ công chúng nhưng chỉ mưu cầu lợi ích cho cá nhân mình, cho những kẻ chịu chi trả hay chịu đổi chác đặc quyền. Chúng ta không thể chấp nhận chuyện này nữa. Chúng ta sẽ không dung túng chuyện này trong nước chúng ta. Và chúng ta đòi tự do khỏi những thế lực bên trong, vì đó là một lực kỳ thị đối với nhân dân khiến cho một số được đặc lợi trong khi một số khác bị chà đạp.”

Tạo dựng một bản sắc dân tộc và văn hóa mới

Tất nhiên còn nhiều khía cạnh khác nữa. Về dài hạn, Ukraine sẽ có một nhu cầu to lớn những con người sáng tạo. Họ là nghệ sĩ, họ là nhạc sĩ, họ là triết gia, họ là những nhà tư tưởng. Họ không nhất thiết có bằng cấp trong tất cả những ngành đó, nhưng họ có khả năng suy nghĩ độc đáo. Họ có thể nhìn vào sự việc, nhận ra các mội liên hệ nối kết, hiểu ra tại sao một số sự thể đã xảy ra, rồi sau đó họ có thể rèn đúc một bản sắc dân tộc và một văn hóa mới. Có người Ukraine đã nói: “Nước chúng tôi không có nhiều anh hùng. Khi nhìn lại quá khứ, chúng tôi không thấy nhiều vị anh hùng.” Nhưng bây giờ con có anh hùng rồi đó. Không chỉ là các chiến sĩ mà rất nhiều người khác. Và các con có khả năng tạo ra một bản sắc dân tộc mới nơi con không những thoát khỏi quá khứ, kể cả quá khứ Xô viết, mà con còn thoát khỏi tinh thần vô cảm đối với sự sống, thoát khỏi sự tàn bạo, sự tham nhũng, xu hướng vi phạm luật pháp, xu hướng ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Con có khả năng thoát khỏi tất cả những thứ đó về lâu về dài. Con có thể hun đúc một cách nhìn mới về chính mình, và như các thày có nói, các con đạt tới điểm tự chấp nhận mình thực sự là một thành viên xứng đáng của gia đình châu Âu. Các con là một vốn quý cho gia đình châu Âu vì các con đã vươn tới trình độ nhân bản của châu Âu, và như vậy có nghĩa là giờ đây con là một quốc gia bình đẳng giữa các quốc gia.

Phân biện Ki-tô và sự bình đẳng

Nói chuyện về bình đẳng cũng tốt thôi, và ở một mức độ nào đó, tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Nhưng đó là khi họ mới đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu. Kể từ đó, qua rất nhiều kiếp sống, họ đã phát triển theo những chiều hướng khác nhau và vì thế con không thể nói là ngày nay, mọi người đều ngang hàng. Đây chính là một nhược điểm của các nền dân chủ hiện đại, là xu hướng cho rằng mọi người đều ngang nhau và có thể được đối xử giống nhau. Tất nhiên đây không phải là phân kiện Ki-tô, vì để dùng một ví dụ hiển nhiên, con cần nhìn nhận rằng Putin cùng chính quyền Nga không hề có ý định trong sáng đối với các nước dân chủ, và bởi vậy con không thể đối xử với ông ta như thể ông có ý định trong sáng.

Điều tương tự cũng áp dụng cho nhiều lãnh vực khác. Nhưng trước tiên là trình độ nhân bản, mức độ nhân tính. Khi con đạt đến một mức độ nhân tính nào đó, con không thể cho phép mình làm ngơ hay quên mất là người khác có thể chưa đạt đến mức đó. Và vì vậy, con không thể đối xử với họ như là ngang hàng khi họ vẫn ở một mức nhân tính thấp hơn và họ sẽ đâm con sau lưng ngay khi nào họ có cơ hội.

Sự hợp tác bình đẳng

Một lần nữa, Ukraine có tiềm năng tự vươn mình lên, nâng cao tâm thức tập thể để bình đẳng với các nước châu Âu kia về trình độ nhân tính và khát vọng tự do, và nhờ vậy có thể hợp tác trong sự bình đẳng. Các thày cũng từng nói là các thày mong muốn nước Nga cũng hợp tác bình đẳng với mọi nước khác, nhưng hiển nhiên điều này không thể xảy đến ngay bây giờ. Cần có sự nâng cao tâm thức tập thể trước khi điều này có thể xảy đến. Và đối với Ukraine, điều thật sự cần xảy ra ở đây là Ukraine cần nắm bắt sự thật đơn giản này mà các thày đã giải thích, rằng sự phát triển mà con chứng kiến trong thế giới hiện đại đã không đến qua sự cưỡng ép. Không có một tổ chức trung ương nào đã cưỡng bách các nước dân chủ phải trở nên tự do và thịnh vượng hơn. Điều này đã xảy ra qua sự hợp tác tự nguyện.

Nhưng hợp tác tự nguyện đặt nền tảng trên một nhận thức. Nó không dựa trên những con tính của ai đó nghĩ rằng: “À, tôi thấy các nước châu Âu này đang hợp tác với nhau. Vậy chúng ta hãy giả vờ cũng hợp tác với họ, nhưng chúng ta sẽ chỉ tìm xem chúng ta có thể lợi dụng họ đến chừng nào và chúng ta có thể gian lận họ được bao nhiêu.” Hiện có một số nước trên thế giới đã mang tâm thức luôn luôn tìm cách gian lận này từ hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm qua. Nhưng đó không phải là hợp tác bình đẳng.

Sự hợp tác sẽ hiệu quả khi nó tự nguyện, vì nó dựa trên nhận thức rằng qua sự trung thực, chúng ta đang giúp chính chúng ta một cách tối ưu. Bằng cách hợp tác cởi mở và trung thực, chúng ta đang hành xử tốt nhất cho mình lẫn cho đất nước mình. Vấn đề không phải là Ukraine phải làm gì để giành được lợi điểm, mà là Ukraine vươn lên tới cùng một mức như các quốc gia châu Âu khác, qua đó sự hợp tác trung thực và cởi mở là cách hành xử tự nhiên. Đơn giản, đó là bản chất thứ hai của mình, hay có lẽ hơn vậy nữa, là bản chất thứ nhất của mình. Con không hành động với bất kỳ thâm ý nào hết. Con nhận ra là các nước Tây Âu kia, hay các nước kia tại châu Âu, thực sự muốn giúp Ukraine vươn lên để trở thành một quốc gia tân tiến.

Tự do khỏi tâm thức của Cain

Con có thể cãi: “Nhưng tại các nước đó có những công ty muốn làm tiền từ việc tái thiết Ukraine.” Cũng đúng đấy, nhưng điều này không áp dụng cho tất cả mọi người. Có những người trong thế giới hiện đại, không chỉ tại châu Âu mà ở cả nơi khác, mong muốn nhìn thấy phần còn lại của thế giới cũng được hưởng những gì mình đang được hưởng. Họ là những người không mang tâm thức của Cain. Họ không ghen tuông với anh chị em. Họ muốn mọi người có được cuộc sống mà họ đang có, vì đây chính là tự do. Đây là tự do khỏi một cái gì. Là tự do khỏi đố kỵ và ghen tuông. Chuyện ghen tị anh chị em mình, đó là tâm thức của Cain. Khi con đạt được tự do khỏi cái đó, làm sao con có thể cảm thấy mình bị đe dọa khi người khác cũng có những gì con đang có, hay còn nhiều hơn nữa? Làm sao đó là một đe doạ cho con? Làm sao nó gây bất lợi cho con? 

Một khi con đã trải nghiệm sự thật là toàn bộ thế giới tân tiến đã trở nên trù phú hơn qua sự hợp tác, con nhìn ra là nếu người khác có nhiều thêm thì toàn bộ nền kinh tế sẽ được nâng cao, và chính con cũng sẽ có nhiều thêm. Nếu toàn bộ thế giới – con hãy bước lui lại và hình dung điều này – con hãy tưởng tượng toàn bộ thế giới có được cùng mức độ trù phú vật chất như Tây Âu. Con thử tưởng tượng đi. Ta biết con có thể nghĩ ra đủ loại lý lẽ và luận cứ bảo rằng chuyện này không thể xảy ra vì tài nguyên tự nhiên có hạn và vân vân. Nhưng hãy tạm gác cái đó sang một bên, vì trước hết, ta cũng đã từng trình bày là tài nguyên thiên nhiên không là một lượng cố định. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng toàn thể thế giới được hưởng cùng mức trù phú như nhân dân cùng các nước Tây Âu. Làm sao điều này có thể gây thiệt hại cho Tây Âu được chứ? Ngược lại là đằng khác, Tây Âu sẽ càng trù phú hơn nữa. Không có nghĩa là họ sẽ vẫn luôn luôn dẫn đầu, nhưng nếu toàn bộ nền kinh tế thế giới được nâng lên thì mọi người sẽ đều hưởng lợi.

Một lần nữa, những ai ít tự do hơn sẽ có xu hướng phóng chiếu trạng thái tâm thức của họ lên mọi người khác. Đây là điều được trình chiếu quá rõ ràng qua con người của Putin cùng tư duy dựa trên vũ lực của ông. Ông không thể hiểu nổi là các quốc gia trong NATO đã có thể thăng vượt tư duy vũ lực đó, cho nên ông phóng chiếu lên họ ý tưởng là họ muốn gây cho Nga những gì ông muốn gây cho họ. Ông muốn dùng vũ lực để giành lại những gì ông xem là lãnh thổ của Nga, thế mà NATO lại đứng cản đường, cho nên ông phóng chiếu ra chính họ mới là kẻ muốn xâm chiếm Nga. Theo một nghĩa nào đó thì ông có lý. Tham vọng của ông là chiếm đất đai mà ông xem là của Nga, nhưng NATO lại ngăn cản ông thực hiện giấc mơ đế quốc đó. Dưới mắt Putin, lực nào kềm chế sức hung hãn của ông phải là một lực hung hãn chống lại ông. Trong tâm trí Putin, ông là trung tâm vũ trụ, cho nên bất cứ hành động nào của nước khác cũng nhắm trực tiếp vào ông. Nếu các nước đó hạn chế tham vọng bành trướng của ông thì, hiển nhiên trong tâm Putin, đó là một hành động gây chiến.

Điều này cũng liên quan tới Ukraine ở chỗ Ukraine có thể xoay chuyển. Người dân Ukraine có thể nhận ra là trong tâm thức tập thể của mình vẫn còn tàn dư của tinh thần nghi kỵ kẻ khác và nghi kỵ động cơ của họ. Chắc chắn con có thể thấy sự thể này bắt nguồn từ thời Xô viết, nhưng nó còn trở ngược về xa hơn nữa. Con phóng chiếu ra là có lẽ người khác sẽ lợi dụng con, nhưng con có khả năng xoay chuyển và nhận ra là nếu con buông tư duy đó, con sẽ có thể tự do hợp tác với những quốc gia hiện đã hợp tác với nhau một cách tự do.

Ta đang không cố mô tả Tây Âu như một loại thiên đường nào đó trên địa cầu. Ta chỉ muốn nói là họ đã tiến xa hơn so với Ukraine hiện nay và Ukraine có thể được lợi lạc khi vươn lên tới mức đó. Con thấy rõ là Nga không sẵn lòng tái thiết Ukraine sau cuộc chiến. Cho dù Ukraine có đầu hàng Nga ngay bây giờ và nói: “Mời các ông vào đây chiếm chúng tôi,” con có nghĩ nước Nga sẽ bỏ tài nguyên ra để xây dựng lại Ukraine? Chắc chắn là không, cho đến khi họ “cải tạo” dân chúng cả nước biến thành người Nga, và ngay cả khi đó, con có thể thấy là phần lớn xứ Ukraine sẽ bị kéo xuống thấp đồng đều như xứ Nga.

Vậy ai sẽ muốn giúp Ukraine tái thiết sau chiến tranh đây? Tất nhiên là Tây Âu rồi, hay châu Âu nói chung. Đâu là điểm lợi cho Ukraine? Là thoát ra khỏi cái tư duy nghi kỵ ý định của người khác. “Ồ có lẽ họ đang cố lợi dụng chúng ta đây.” Nếu con có thể khắc phục tư duy này, con sẽ tiến bộ nhanh hơn rất nhiều trong việc xây dựng lại đất nước.

Mọi người đều thắng khi hợp tác

Cách đây không lâu, chúng ta đã có một hội nghị tại Ukraine nơi các thày đã có mặt trong vật lý, hay đúng hơn, sứ giả này đã đích thân đến tham dự. Con có thể tìm lại và học hỏi các bài truyền đọc đó và con sẽ thấy là mọi điều các thày đã nói vẫn áp dụng cho Ukraine. Mọi điều đều vẫn có giá trị để con tìm hiểu. Nhưng hiển nhiên kể từ đó, nhiều điều mà các thày chỉ ẩn ý hoặc ám chỉ thì giờ đây đã rõ nét hơn hẳn. Đó là tại sao trong các bài truyền đọc lần này, các thày đã trình bày bộc bạch hơn. Vì bây giờ các thày có thể nhận ra một sự cởi mở trong tâm thức tập thể. Có những điều các thày không nói trực tiếp trước đây thì bây giờ có thể nói trực tiếp hơn, vì trước đây không có cùng sự cởi mở. Biết bao nhiêu người muốn giữ nguyên như cũ tình trạng hiện thời, hoặc vì họ cảm thấy được ưu đãi trong hoàn cảnh của họ, hoặc vì họ đã chấp nhận cuộc sống này là số phận của họ và không muốn đánh mất nó.

Con có thể nhận ra một sự thật ở đây, là khi con vươn lên tự do khỏi vũ lực, vươn lên khỏi tư duy dựa trên vũ lực, con có thể tự do hợp tác với người khác vì con không sợ mất gì trong hợp tác. Đây là điều con thấy, một tâm thức mà rất ít người ngộ ra, nhưng nó đang lộ diện trong thế giới tân tiến. Đây là sự nhận thức rằng chúng ta không mất gì khi chúng ta hợp tác, mà chúng ta đều được thêm khi hợp tác. Mọi người đều thắng trong sự hợp tác. Đây là nguyên lý con thấy thể hiện trong thiên nhiên, là lý do tại sao sự sống đã bền vững trên hành tinh này trong một thời gian rất dài. Như các thày đã giảng, thành ngữ “sự sống còn của kẻ thích nghi” (survival of the fittest) có nghĩa là những ai sẵn sàng hợp tác nhất sẽ sống còn, chứ không phải những ai sẵn sàng dùng vũ lực nhất.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng cho dân tộc Ukraine. Nó có thể đem lại những lợi ích to lớn trong một thời gian dài trước mặt. Nhiều người đã làm cuộc xoay chuyển này. Tổng thống và nhiều vị mới gia nhập Quốc hội đã làm cuộc xoay chuyển này. Nhiều người khác cũng đã xoay chuyển. Nhưng con vẫn có thể bồi đắp thêm để cái trớn đó đưa dân tộc Ukraine vượt quá điểm then chốt khi bước tiến bộ không thể đảo ngược lại và tự nó sẽ tăng cường. Đây là cách tiến bước nhanh chóng nhất sau biến cố đáng tiếc mà không ai trong chúng ta muốn thấy, nhưng dẫu vậy vì biến cố đã xảy ra, cho nên các thày đang trao cho con động lực để con hãy sử dụng – sử dụng theo cách tốt nhất mà con có thể.

Người xưa có câu: Thắng được cuộc chiến là một chuyện, nhưng thắng được hòa bình là chuyện khác. Đấy, các thày muốn Ukraine thắng cả cuộc chiến lẫn hòa bình. Các con có thể thắng cuộc chiến với tư duy mà các con đang có; tuy nhiên một lần nữa, nếu con thăng vượt được tư duy này thì nó sẽ giúp con chiến thắng nhanh hơn. Nhưng chắc chắn các con sẽ không thể thắng được hòa bình với tư duy mà các con đang có. Nó đòi hỏi con thăng vượt, như các thày đã giải thích.

Lẽ tự nhiên, tự do có nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ. Thày có thể nói nhiều hơn về tự do, nhưng thày đã nói nhiều rồi cho những ai sẵn sàng nhìn vào các khía cạnh cao hơn đó của tự do. Qua hội nghị này, các thày, các Thượng sư, đã cho con một lời dạy cân nhắc dựa trên sự quan sát tâm thức tập thể, những thay đổi đã xảy ra từ khi cuộc chiến bùng nổ, sự sẵn lòng chuyển đổi của mọi người để suy nghĩ theo những cách mới.

Hãy cả gan mơ ước!

Con cũng biết một cách nhìn khác về những gì đã xảy ra trên thế giới là nói đến trí tưởng tượng. Con hãy trở ngược về thời Liên Xô, tại Ukraine cùng các nước cộng hòa khác và ngay tại Nga, và con sẽ thấy cái mà Liên Xô đã hủy diệt nơi hầu hết mọi người là trí tưởng tượng. Không ai còn dám tưởng tượng bất cứ gì mới mẻ, bất cứ gì khác biệt, bất cứ gì tốt hơn. Vì sao các quốc gia trong thế giới tân tiến đã đạt được những tiến bộ mà họ đã đạt? Vì trí tưởng tượng của người dân được tự do hơn. Họ dám mơ ước. Họ dám thử nghiệm. Họ dám suy nghĩ theo những cách mà không ai suy nghĩ trước đó. Có người bảo rằng khoa học là tiến trình nhìn thấy những gì mọi người đều thấy nhưng lại suy nghĩ những gì chưa ai suy nghĩ bao giờ. Đấy, tưởng tượng là nhìn thấy những gì ai ai cũng thấy nhưng trải nghiệm trong tâm một điều gì vượt hẳn ra ngoài, một điều gì mà hầu hết mọi người không thể trải nghiệm, nhưng khi con có trí tưởng tượng thì con trải nghiệm được.

Điều gì cầm chân một quốc gia? Chính là sự thiếu tưởng tượng. Tâm mọi người bị khóa chặt vào một đường rày. Họ được nuôi dạy và lớn lên trong một số điều kiện. Họ có một quá khứ được gia đình hay nhà trường kể lại, và họ nghĩ: “Chúng ta người Ukraine là như vậy đó. Đây là cách chúng ta đã làm mọi chuyện, đây là cách chúng ta suy nghĩ, đây là cách chúng ta nhìn cuộc sống.” Và họ chấp nhận có những lằn ranh giới và chẳng có ích gì mà suy nghĩ vượt ra ngoài ranh giới, chẳng có ích gì mà tưởng tưởng bên ngoài biên giới, bởi vì: “Chúng ta là người Ukraine, chúng ta đang kéo lê theo mình tảng đá khổng lồ này, và chúng ta không thể buông sợi dây ra, chúng ta cứ phải tiếp tục kéo lê tảng đá này. Dù chúng ta có đi đâu, dù chúng ta có đến đâu, dù chúng ta nghĩ dân tộc mình có thể đi đến nơi nào thì chúng ta cũng sẽ phải kéo dĩ vãng này theo chúng ta.” 

Nhưng con không phải. Con không phải kéo nó theo con. Nhưng để ngừng kéo nó theo con, để buông sợi dây ra, con phải dám cả gan suy nghĩ những gì mà cho đến giờ chưa ai trong đất nước con đã nghĩ tới. Con cần cả gan tưởng tượng mọi chuyện có thể thực hiện khác hơn cách truyền thống. Con có bắt buộc phải có sự thối nát tham nhũng, một tệ nạn mà con đang có và đã từng có từ bấy lâu nay? Con có phải mang theo cái đó hoài hoài mãi mãi hay không? Con có phải luôn luôn đấu tranh theo cách con đã từng đấu tranh cho tới giờ? Con có phải kinh doanh theo kiểu con đã từng kinh doanh? Hay có cách nào khác hơn không? Con có phải sinh hoạt chính trị theo cách con đã từng làm chính trị? Hay có cách nào khác hơn không?

Món quà lớn nhất mà con có thể trao như một cá nhân cho đất nước con là giải thoát trí tưởng tượng của con, để con cả gan tưởng tượng những gì chưa ai đã tưởng tượng cho đến giờ. Nếu có đủ số người làm điều này, các con sẽ có khả năng tiến bộ ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất của mình hiện giờ. Con có khả năng thị hiện một điều gì vượt khỏi những mơ ước cuồng nhiệt nhất của con. Viễn quan của ta cho Ukraine cao hơn rất nhiều tầm hiểu biết của bất cứ ai tại Ukraine ngay bây giờ. Và ta sẵn sàng trao viễn quan này cho bất kỳ người nào chịu mở tâm mình ra.

Theo một nghĩa nào đó, con thường hay nghĩ, và nhiều người cũng nghĩ vậy, rằng trí tưởng tượng chỉ là chuyện mơ huyễn. Nhưng con hãy trở về 500 năm trước và nhìn xem người ta sống thế nào vào thời đó. Rồi con nhìn thực tế cuộc sống của con ngày hôm nay. Liệu con người thời đó có thể tưởng tượng nổi cách con sống hôm nay? Không. Và nếu có ai dám tưởng tượng thì hầu hết sẽ bảo đó là hoàn toàn mơ huyễn. Nhưng rõ ràng con đang sống trong thế giới ngày nay và con biết đó không phải là mơ huyễn mà là thực tế. Cái tương lai mà con không dám tưởng tượng hôm nay không phải là mơ huyễn. Đó là một tiềm năng rất thực. Và nó chỉ đòi hỏi một điều, là sự chấp nhận đó là khả năng có thực chứ không phải mơ tưởng.

“Hỏi và con sẽ nhận được,” người ta từng nói vậy. Còn ta sẽ nói: “Chấp nhận thì con sẽ nhận được. Chấp nhận điều đó là khả dĩ thì con sẽ nhận được.” Bởi vì nếu con không chấp nhận nó là khả dĩ, làm thế nào ta có thể trao nó cho con? Đó sẽ là vi phạm quyền tự quyết của con.

Tự do khỏi tâm trạng nạn nhân

Các thày đã trình bày về tâm thức nạn nhân. Đâu là cốt tủy của tâm thưc nạn nhân? Con nghĩ là con không chủ động tương lai của mình. Con tùy thuộc vào những thế lực bên ngoài mà con không thể kiểm soát. Phải, các con từng thuộc về Liên Xô. Các con cảm thấy bị cưỡng ép phải gia nhập, bị cưỡng ép phải là một thành phần. Nạn đói Holodomor đã bị áp đặt lên các con. Và bây giờ thì chiến tranh bị áp đặt lên các con. Một số người nhìn về thời hậu chiến và hy vọng Liên Âu sẽ bước vào như một vị cứu tinh và ép buộc các con thay đổi. Nhưng Liên Âu không dựa trên vũ lực. Chính các con cần đứng dậy và quyết định các con muốn gì. Các con cần quyết định mình muốn loại tương lai nào. Trí tưởng tượng là một khía cạnh nhưng khía cạnh kia là quyết định: “Chúng ta muốn gì đây? Chúng ta sẽ sẵn sàng tự thay đổi như thế nào để đạt được cái đó?” Sau đó sẽ tới quyết định chấp nhận là cái đó khả dĩ. Con chỉ là nạn nhân nếu con nghĩ mình là nạn nhân.

Câu hỏi đặt ra là: Con có muốn tiếp tục là nạn nhân của những thế lực vượt khỏi sự kiểm soát của con – cho dù đó là thế lực bên ngoài hay là các đại gia đầu xỏ, hay các nhà chính trị hay quan chức hay thời tiết hay điều này điều nọ? Con có muốn tiếp tục là nạn nhân? Hay con muốn được tự do khỏi tâm trạng nạn nhân? Nếu con muốn tự do thì ta sẽ giúp được con. Ta sẵn sàng giúp con được tự do. Hãy cho ta một số tâm cởi mở thì ta sẽ cho các con viễn quan về một tương lai tốt đẹp hơn cho Ukraine. Ta không cất giấu bất cứ gì khỏi bất cứ ai. “Vì vậy con hãy chứng minh cho ta qua việc này – vị Chủ tể của Tự do phán như vậy – thì ta sẽ đổ phước lành xuống cho con đến độ con sẽ không đủ chỗ để mà hứng lấy.”

Nước Nga sẽ thay đổi

Với câu đó, ta cũng đã nói xong. Một lần nữa ta bày tỏ lòng biết ơn của ta đến tất cả các con đã sẵn lòng làm công cụ, đã lắng nghe bài giảng này và đã phát sóng qua luân xa của mình. Nếu con có thể thấy tác động của hội nghị này – tác động mà hội nghị này đã tạo ra, những gợn sóng mà nó đã dấy lên và gửi vào tâm thức tập thể của Ukraine, Belarus và Nga – con sẽ rất hứng khởi. Ta biết ơn là rất nhiều người đã đến tham dự hội nghị này từ Belarus, từ Nga và từ chính xứ Ukraine. Lẽ tự nhiên, khi con đến từ một nước đang lắng nghe, thì việc thể nhập những bài truyền đọc này sẽ có tác dụng to lớn hơn trên tâm thức tập thể so với những người đã không sinh trưởng tại quốc gia đó. Con hãy nhìn nhận là con đã đóng góp một việc làm quan trọng, không những cho Ukraine mà chắc chắn còn cho Belarus và trong lâu dài cho cả nước Nga.

Có một điều thật rõ ràng, nước Nga sẽ không thể không thay đổi sau cuộc chiến này. Chuyện này sẽ tốn bao nhiêu thời gian và sẽ trải bày ra như thế nào thì hiện thời không ai tiên đoán được. Nhưng một điều là chắc chắn: nước Nga sẽ không bao giờ như trước nữa. Putin đã đi một bước không thể nào đảo ngược lại, với những hậu quả vượt ngoài tất cả những gì ông ta có thể tưởng tượng – cho dù, nói thật, ông đã không tưởng tượng nhiều lắm. Nước Nga sẽ thay đổi, không có nghi ngờ gì về điều này.

Và như vậy ta niêm con trong Ngọn lửa Tự do hân hoan nhất mà ta là. Có thể đối với nhiều người Ukraine ngay bây giờ, có vẻ như không có nhiều lý do để vui mừng – ta nhận ra điều này – nhưng ta vẫn gửi niềm vui đó vào tâm thức tập thể cho những ai có khả năng bắt lấy nó và nhận được phần nào sự an ủi trong tình cảnh hiện tại. Các con đều có tình yêu của ta mà ta ban ra vô lượng, và ta trao tình yêu này đến mọi người ở Belarus, ở Nga, ở Ukraine và tất nhiên là ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tình yêu của ta không giới hạn, con yêu dấu, nó không bị ràng buộc vào không gian lẫn thời gian, nó vô biên, nó tràn khắp mọi nơi. Ta chỉ có một mong muốn cho địa cầu là nhìn thấy Thời Hoàng kim thị hiện.

Ta niêm con trong Ngọn lửa Tự do hân hoan đó, vì TA LÀ Saint Germain, Trưởng giáo của Thời đại Bảo bình, Thượng sư của Tia thứ Bảy và Đại diện của Tự do cho trái đất.

19 | Hãy tĩnh tâm và xuôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022, nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền Dân chủ.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”
[Bài chú 8.06 Gautama, con an bình trọn vẹn].

Khi thày còn hiện thân là Phật nhiều thế kỷ về trước, một phần lớn trong sứ vụ của thày – mà con có thể gọi là trong Tăng đoàn của Phật – là giúp cho các đệ tử tĩnh tâm hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng. Điều này cần thiết 2500 năm về trước. Thời nay con khó lòng tưởng tượng được thời đó con người sống như thế nào. Con có tưởng tượng được không? Đối với những ai trong số các con đủ lớn tuổi để̉ còn nhớ, liệu con có nhớ cuộc sống như thế nào khi chưa có internet? Con có tưởng tượng cuộc sống như thế nào khi chưa có truyền hình? Chưa có máy phát thanh? Con có thể tưởng tượng khi chưa có sách vở và hầu hết mọi người đều không biết đọc?

19.1. Ý nghĩ lăng xăng

Chắc chắn đa số con người thời đó đều bận rộn làm lụng thể xác để kiếm sống. Và so với ngày nay, họ chẳng có gì để tiêu khiển hay khích động tâm trí. Con thử nhìn xem thế giới hiện đại có biết bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con. Có lạ lắm không nếu con có nhiều ý nghĩ lăng xăng? Thật có quá nhiều thứ đang đòi hỏi sự tập trung của con, đòi hỏi con phản ứng lại và làm gì đó. Nhưng ngay cả thuở trước cũng vậy, thử thách lớn nhất mà thày đã gặp trong cương vị thày tâm linh chính là các ý nghĩ lăng xăng nơi mọi người.

Vậy con hãy tưởng tượng ngày nay với tất cả những kích thích đó, liệu việc neo trụ vào Ngọn lửa Hòa bình hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng sẽ khó khăn hơn chừng nào? Việc tĩnh tâm đã luôn luôn là một thách đố, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử ghi chép mà thách đố này to lớn như ngày nay. Các thày, các chân sư thăng thiên, biết rất rõ là khi các thày trao cho con bấy nhiêu giáo lý như đã ban truyền, thì không nhất thiết các thày sẽ giúp con làm yên ý nghĩ lăng xăng dễ dàng hơn.

Đa số mọi người – và chắc chắn sứ giả này có thể chiêm nghiệm điều này nơi bản thân ông – đều trải qua một giai đoạn khi họ lần đầu tiên khám phá đường tu tâm linh, và hẳn giai đoạn này đã phấn khích họ mãnh liệt. Nhiều người trong số các con đã lớn lên trong một cuộc sống thiếu vắng chất liệu tâm linh, nhưng con vẫn biết là có một điều gì đó cần tìm kiếm, một điều gì đó còn thiếu sót, một hiểu biết nào đó con hằng khao khát. Khi con tìm ra giáo lý tâm linh thì bấy giờ tâm con được dịp rồ máy. Con muốn học giáo lý, con muốn hiểu giáo lý, con muốn thể nhập giáo lý, con muốn thực hành mọi pháp tu mà giáo lý đưa ra. Và con tập trung hết mình vào đó.

Không cứ là việc này có gì sai trái – đó là một tiến trình con cần kinh qua. Nhưng liệu con có thấy là kỳ thực nó tạo ra một mức độ suy nghĩ lăng xăng cao hơn nữa hay không? Nhiều người chú tâm vào giáo lý vỏ ngoài, cách tu tập vỏ ngoài, nét văn hóa vỏ ngoài của tổ chức tâm linh mà họ tham gia. Và họ bị cuốn hút vào đó đến độ gần như không còn lúc nào tâm họ có thể tĩnh lặng, có thể trung hòa, có thể lắng nghe. Họ có tai để lắng nghe.

19.2. Sự phóng chiếu liên tục vào tâm con

Thế rồi tới điểm con trụ chặt vào đường tu nội tâm. Bây giờ con nhận ra đường tu không thực sự là chuyện tuân theo pháp tu vỏ ngoài hay học hỏi lời dạy vỏ ngoài, mà là giải quyết tâm lý. Con tập trung vào việc giải quyết tâm lý của con, như nhiều người trong các con và sứ giả này đã làm suốt nhiều năm. Nhưng đây lại là thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng nữa. Bỗng nhiên một ý tưởng nảy ra: “Ồ, có lẽ chăng tôi mang xu hướng này trong tâm lý mình? Tại sao tôi lại phản ứng cách đó trong hoàn cảnh đó? Có điều gì tôi chưa nhìn ra? Có điều gì tôi chưa giải quyết? Ồ, tốt hơn tôi nên nhìn xem, tôi nên tìm xem cái đó là gì, vì chắc chắn tôi không muốn trong tâm mình có vấn đề gì chưa giải quyết.” Cho mỗi tầng trên đường tu đều có nguyên một bộ ý nghĩ lăng xăng. Chúng được phóng chiếu vào tâm con từ các tà lực, từ sa nhân, từ tâm thức tập thể và từ những cái ngã tách biệt mà con còn sót. Đây là một sự phóng chiếu liên tục.

Lẽ tự nhiên, con có thể làm gì đó về chuyện này. Các thày có dạy con là con có thể thỉnh Đại thiên thần Michael để thày niêm phong tâm con và các luân xa của con. Con có thể thỉnh Elohim Astrea để thày cắt đứt cho con thoát khỏi nhiều sợi dây ràng buộc với tà lực. Nhưng có một sự phóng chiếu liên tục những ý nghĩ lăng xăng này. Một số vị thày trong đạo Phật gọi đó là “tâm khỉ” không ngừng suy nghĩ. Con bị phóng chiếu liên tục. Con có thể làm gì đây? Có thể nào con tắt nó đi? Con không thể thực sự tắt nó đi. Sa nhân sẽ tiếp tục làm những gì chúng vẫn làm. Tâm thức tập thể sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm.

Con có thể giải quyết những cái ngã và điều này sẽ giảm bớt các ý nghĩ. Nhưng dù sao con vẫn có một bộ não, một bộ não vật lý. Và bộ não vật lý được thiết kế để suy nghĩ, hay ít ra để chuyên chở suy nghĩ. Bộ não vật lý cũng có khả năng tạo ra ý nghĩ, không phải là ý nghĩ cao, nhưng nó có khả năng tạo ra ý nghĩ cùng một số trải nghiệm và cảm thọ khác nhau. Khi con bước chân trên đường tâm linh, não của con sẽ bắt đầu tạo ra những ý nghĩ tâm linh, và con có thể cảm thấy mình bắt buộc phải suy nghĩ chúng. Sứ giả này đã bước trên đường tu nhiều năm trước khi ông ngộ ra là ông thực sự không bắt buộc phải suy nghĩ bất kỳ ý nghĩ nào đi vào trong đầu ông.

19.3. Chuỗi tư tưởng cưỡng chế

Con thử xem xét điều này. Có một ý tưởng đột ngột xuất hiện trong đầu con. Nó có thể được phóng chiếu từ đâu đó không liên quan gì tới con. Nhưng tâm con vẫn cảm thấy bị bó buộc phải suy nghĩ về nó. Con cho rằng, và hầu hết mọi người cũng cho rằng ý nghĩ đó là của mình. Và con thấy bó buộc phải suy nghĩ nó. Có nguyên một tiến trình khi ý tưởng trải bày ra trong tâm con, thế rồi ý tưởng này dẫn đến một sự liên tưởng và đột nhiên một ý tưởng khác xuất hiện. Và trước khi con biết chuyện gì xảy ra, mấy phút đã trôi qua và con đã nhảy vào đủ loại đề tài vớ vẩn khác dẫn con thật xa khỏi ý tưởng ban đầu. Sứ giả này đã phải mất một thời gian dài trước khi ông chịu nhìn nhận là ông đã có hiện tượng này suốt đời ông. Những chuỗi tư tưởng, những quy trình tư tưởng này chẳng dẫn tới đâu và chẳng sản xuất được gì. Chúng chẳng giải quyết được gì mặc dù đôi khi chúng khoác lấy hình dạng một vấn đề. Nhưng chúng không bao giờ ngừng, không bao giờ giải quyết hay tạo ra bất cứ gì.

Thày không bảo là con không thể có những ý tưởng xây dựng dẫn đến một hành động tạo ra một kết quả. Nhưng rất nhiều khi con chỉ có ý nghĩ chạy loanh quanh luẩn quẩn, nhảy từ đề tài này sang đề tài khác và không sản xuất được gì. Đây là điều thày gọi là ý nghĩ lăng xăng. Nhiều người, hầu hết mọi người, đều cho rằng: “Ồ, chắc đây là ý tưởng của tôi. Tại sao nó lại nảy lên trong đầu tôi nếu nó không phải là ý tưởng của tôi? Và nếu nó là ý tưởng của tôi thì tôi phải suy nghĩ nó, tôi phải đi theo nó, tôi phải chú ý đến nó.” Nhiều người bỏ ra cả đời trong tâm trạng này, không ngừng có những ý nghĩ lăng xăng mà họ cảm thấy phải suy nghĩ. Ý tưởng dẫn đến liên tưởng, nó kéo dài một vài giây, xong nó dẫn đến một ý tưởng khác, và nó nhảy từ cái này sang cái kia rồi cái nọ, chẳng khác gì một con khỉ đu cây. Nó chẳng đi tới đâu, giống như con khỉ cũng chẳng đi tới đâu. Con khỉ nhảy từ cành này sang cành nọ nhưng vẫn ở nguyên trên cây.

19.4. Tâm muốn bận rộn

Tới một điểm trên đường tu con cần nhận thức hiện tượng này và tự hỏi: “Tôi có thực sự muốn các ý nghĩ lăng xăng này chiếm trọn tâm tôi? Tôi có muốn cảm thấy bó buộc phải suy nghĩ về chúng và bị cuốn vào các quy trình tư duy đó, những liên tưởng đó, nhảy qua nhảy lại kiểu đó?” Là một học trò tâm linh, con thường vô hiệu hóa nó, vì khi con học tập một giáo lý tâm linh thì con chú tâm vào lời dạy, và nhiều khi không hay biết, con bỗng gạt đi rất nhiều ý nghĩ như thế vì con tập trung vào giáo lý. Ý tưởng nhập vào tâm con vì tâm con lẫn bộ nảo được thiết kế để suy nghĩ, cho nên chúng tưởng là chúng phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con, và ngay cả não của con, cảm thấy là nếu nó không đang suy nghĩ thì có gì đó không ổn và nó không đang làm nhiệm vụ của nó. Cũng từa tựa như nếu tim con ngừng đập. Tim ngừng đập quả sẽ là một vấn đề, nhưng tâm mà ngừng suy nghĩ thì thật sự không là vấn đề, thế nhưng tâm lại cho đó là một vấn đề. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Con cũng có thể vô hiệu hóa quy trình đó bằng cách đọc chú, đọc thỉnh, vì điều này khiến tâm con bận việc. Con thấy đó, tâm con phải bận làm một chuyện gì đó. Nó có thể bận học giáo lý, nó có thể bận đọc thỉnh đọc chú, nó có thể bận làm một công việc thực tiễn, nhưng tâm phải chất chứa một chút nội dung nào đó. Phải có chuyện gì diễn ra trong tâm, vì nếu không thì tâm cảm thấy có vấn đề không ổn. Con sẽ thấy là tâm có khuynh hướng muốn bận rộn. Tâm muốn làm việc.

Cách đây khá nhiều năm, sứ giả này phát hiện có một phần trong tâm ông muốn giải quyết những vấn đề. Phần này được tạo ra để giải quyết vấn đề. Nó phải có vấn đề để mà giải quyết. Nếu nó không có vấn đề nào để giải quyết ở bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề ở bên trong. Và ông nhận ra là ông có thể bỏ ra cả phần đời còn lại để giải quyết những vấn đề trong tâm do chính tâm ông tạo ra. Nhưng liệu làm vậy sẽ giúp ông đạt được gì chăng trên đường tu hay đường đời?

19.5. Làm thế nào con có thể thoát khỏi ý tưởng?

Nếu con quan sát chính mình khi con đang nghe hay đang đọc bài giảng này, chuyện gì xảy ra trong tâm con ngay lúc này? Con đang nhận diện thày là một vị thày tâm linh và một chân sư thăng thiên. Thày đang trao cho con một lời dạy và thày có một mục đích khi làm việc này. Thày muốn giúp con bước chân trên đường tu tâm linh, cho nên con cảm thấy bó buộc phải đặt chú ý vào lời dạy. Và điều gì xảy ra khi con làm vậy? Con có những ý tưởng nảy lên trong tâm. Đó có thể là nhiều loại ý tưởng khác nhau tùy theo từng người, nhưng con có ý nghĩ: “Lời dạy này ý nghĩa là gì? Tôi có thể áp dụng thế nào? Tôi có thể làm gì? Làm thế nào tôi có thể tránh các ý nghĩ lăng xăng đó? Bởi vì đây chính là điều mà hình như Gautama đang ngụ ý tôi phải làm.” Một số các con có thể cảm thấy vô vọng, và một số có thể đang suy nghĩ về cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Làm sao chuyện này có thể được? Và câu hỏi trở thành: Con sẽ làm gì đây?

Nhiều vị thày tâm linh và nhiều đệ tử tâm linh khắp các thời đại đã cố giải quyết vấn đề này theo nhiều cách. Nhiều người, đặc biệt trong truyền thống đạo Phật, đã biết về tâm khỉ. Nhiều người đã tự đặt ra mục tiêu làm cho tâm tĩnh lặng. Họ đã sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, thiền định, quán chiếu, để làm yên tâm họ. Rất nhiều người thời nay, cả tại Mỹ lẫn khắp các nơi khác, đang tu tập đạo Phật và cố gắng áp dụng các kỹ thuật của đạo Phật. Họ sống trong thế giới Âu Tây nhưng họ cho rằng họ phải có thể làm yên tâm họ, y như người ta có vẻ làm được trong một đạo tràng hay một đoàn tăng trên núi ở phương Đông.

Nhưng nếu các con đang sống trong một thế giới hiện đại bận rộn, liệu điều này có thực tế lắm không? Với tất cả những thứ đang níu kéo sự chú ý của con, tất cả những chuyện được phóng chiếu vào con, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không? Ngay cả nếu con có thể bay đến núi Himalaya để sống trong một tu viện, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không trong một thế giới hiện đại với tâm thức đại chúng bao quanh? Con có thể tự cô lập về mặt địa lý, nhưng đâu là giới hạn của tư tưởng? Thậm chí, liệu tư tưởng có phải tuân thủ giới hạn vận tốc của vũ trụ hay tốc độ của ánh sáng hay không? Không đâu, một ý tưởng không cần bay đến một địa điểm cụ thể để hiện diện tại nơi đó trong vật lý. Nó có mặt ở đó tức thì. Làm thế nào con có thể thoát khỏi các ý nghĩ? Làm thể nào con có thể thoát khỏi tâm thức đại chúng? Chắc chắn là có những cường độ khác nhau, nhưng con không bao giờ có thể thực sự thoát khỏi nó. Và làm thế nào con có thể thoát khỏi chính tâm con khi nó cứ muốn suy nghĩ suốt ngày để cảm thấy nó đang làm nhiệm vụ của nó?

À, xuyên qua các thời đại, một số người đã tìm kiếm nhiều cách khác nhau để cố xử lý cái tâm này. Một số vị thày Phật giáo đã nhìn nhận là chuyện này không thể làm được. Và họ còn đặt vấn đề là liệu việc khiến cho tâm tĩnh lặng có cần thiết hay không.

19.6. Con không thể tĩnh tâm bằng cách suy nghĩ về phương cách tĩnh tâm

Điều thày muốn gợi ý, duy như một cách để xử lý vấn đề này, là con nhìn nhận rằng con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và các thày đã trao cho con một số dụng cụ. Tất nhiên con sẽ dùng các dụng cụ này. Con sẽ thỉnh sự bảo vệ tâm linh, thỉnh cầu để mình được giải phóng, để tâm được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng. Đó là một việc quan trọng và cũng là một việc chính đáng.

Nhưng thày cũng sẽ gợi ý là giữa tất cả những bài chú, bài thỉnh, giữa tất cả việc học tập và các sinh hoạt thường nhật, con có thể dành ra một chút thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì khi con cố làm cho tâm yên tĩnh thì con đang làm gì chứ? Con đang sử dụng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Và làm thế nào tâm có thể khiến cho tâm tĩnh ngoại trừ bằng cách suy nghĩ về một cách khiến cho tâm tĩnh? Và khi con suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh thì con vẫn đang suy nghĩ đó. Tâm đang làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm, cho dù dường như con đang muốn nó tĩnh lặng.

19.7. Buông các ý nghĩ

Thày đề nghị con tiếp cận một cách khác hơn. Trước hết, con quyết định là con sẽ dành ra một khoảng thời gian, con vào một phòng yên tĩnh và con có thể bắt đầu đọc chú, đọc thỉnh, nhưng con hãy vào một phòng yên tĩnh. Con không ngồi trong tư thế thiền định, khoanh chân như người ta thường làm. Con nằm trên giường hay đi-văng êm ái nơi con có thể thư giãn thân thể, hầu con không có cảm giác nào, không bị khó chịu phải giữ một tư thế nhất định nào. Con chỉ nằm đó, tốt nhất là trong phòng tối, chắc chắn một phòng yên tĩnh. Và sau đó mục tiêu của con không chủ yếu là tĩnh tâm, mà ở trong một trạng thái tâm trung hòa. Tâm trung hòa (neutral) quan trọng hơn là tâm tĩnh (still) không có ý tưởng. Thay vào đó, con cố gắng, con nỗ lực, con có mục tiêu rằng: “Tôi sẽ trung hòa.”

Điều này có nghĩa là con không đóng chặt để ý tưởng không vào được mà con không giao tiếp với ý tưởng. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Và như vậy, con nằm đó với mắt nhắm. Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông (surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại). Tôi để cho nó đi (let go).” Con buông ý nghĩ. Thay vì suy nghĩ về nó, đặt chú ý vào nó, cho phép nó liên kết mọi phía, thì con buông nó, con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi.

Lúc đầu việc này có thể khó khăn. Nhưng con càng giải quyết được nhiều ngã tách biệt trong tâm thì sẽ càng dễ dàng hơn. Con có thể đạt tới điểm khi, ít nhất trong một thời gian, con tiếp tục nói: “Tôi buông. Tôi để cho nó đi. Tôi buông. Tôi buông.” Bất kỳ ý tưởng nào hiện lên, con chỉ buông nó ra. Con không tiếp xúc với nó. Rất có thể con sẽ nhận thấy là tâm con bị khuấy động, nó có thể cuống cuồng hoảng sợ: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ những ý tưởng tôi đang gửi cho bạn? Tại sao bạn lại làm ngơ, phớt lờ tôi đi? Bạn không còn ưa tôi nữa sao?” Tất cả những điều này có thể khởi lên với con. Hoặc có thể con chỉ cảm thấy một sự xao động hay bối rối, vì tâm không biết nó phải làm gì khi con không suy nghĩ các ý tưởng đó. Nhưng con có khả năng cứ tiếp tục như vậy.

Thỉnh thoảng sẽ có một ý tưởng thu hút chú ý của con. Con đi theo nó và con đi tới chỗ này chỗ nọ, xong thình lình con nhận ra: “Ồ, tôi lại đang suy nghĩ rồi.” Khi đó, con chỉ quay trở lại: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông.”

À, con cần thận trọng ở đây. Con đừng trở nên áy náy về chuyện này. Đừng biến nó thành một áp lực. Đừng bị căng thẳng bởi nó. Đừng cảm thấy là con phải có khả năng làm bài tập này và con phải có khả năng buông bỏ các ý nghĩ. Con chỉ việc thực tập một cách thoải mái, càng thư giãn càng tốt. Quả thực những giây phút như thế sẽ giúp con rất nhiều, như các thày đã có đề cập, khi cái Ta Biết của con đứng bên ngoài tâm vỏ ngoài và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là gì? À, đó là khi con ý thức mà không có ý nghĩ. Giống như thể con ý thức nhưng không có nội dung tâm thức.

19.8. Sử dụng thần chú

Một số kỹ thuật thiền lấy điều này làm mục tiêu. Một số kỹ thuật thiền sử dụng một câu thần chú không mang ý nghĩa nào, và con chỉ lặp đi lặp lại câu đó. Và khi nào con nhận ra là con đang suy nghĩ, con chỉ quay trở lại với câu thần chú. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là việc con đang làm ở đây, chỉ có điều câu thần chú của con là: “Tôi buông.” Nếu chuyện này không hiệu quả thì con có thể dùng một câu chú. Thày đề nghị con dùng câu OM, con đọc OM lặng lẽ trong tâm con. Khi con có một ý nghĩ, con chỉ quay trở lại với OM. Con chú tâm vào OM, con lặp lại OM. Nhưng đối với nhiều người trong các con, sẽ hiệu quả hơn nếu con nói: “Tôi buông. Tôi buông ý nghĩ này.”

Thày hoàn toàn không có ý nói rằng đây là một liệu pháp thần kỳ, rằng nó nhất thiết sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ lăng xăng, nhưng nó có thể hữu ích nếu con thực hành. Con không cần phải làm thật lâu, thậm chí con không phải làm mỗi ngày. Chẳng hạn, con có thể thực tập buổi tối khi con nằm trên giường chuẩn bị đi ngủ. Nó có thể sẽ mở tâm con ra một cảm giác an bình – “niềm thanh thản cho Biển động Luân hồi được yên lắng.”

19.9. Tâm tĩnh do trung hòa

Thế nào là Biển động Luân hồi? Nhiều người nghĩ đó là thế gian cùng các hoạt động vật lý trong thế gian, nhưng thật ra đó là tâm. Khổ đau xảy ra ở đâu? Trong tâm. Và con khăc phục khổ đau ở đâu? Trong tâm. Nhưng những ai không nắm được lời dạy của Phật sẽ chú tâm vào những thứ vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng chính những cảnh huống vỏ ngoài khiến cho tâm trải nghiệm khổ đau. Và do vậy họ nghĩ giải pháp duy nhất là thay đổi cảnh huống vỏ ngoài. Nhưng trong nhiều trường hợp, họ không thể thay đổi cảnh huống vỏ ngoài, một phần là vì người khác không chịu hợp tác, cho nên họ sống trong nỗi bực dọc không nguôi. Đó là Biển Luân hồi.

Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con cũng có thể tạo ra phiên bản riêng của con về Biển Luân hồi, qua đó – như PadmaSambhava có nói – con không ngừng tập trung vào việc giải quyết một vấn đề gì đó trong tâm lý của con, hay thay đổi thế giới, hay đọc bài thỉnh, hay tìm hiểu giáo lý, hay làm một việc nhằm cải thiện thế giới, quảng bá giáo lý, hay bất kỳ điều gì khác. Con có thể nhìn sứ giả này và nói: “Đấy, ông ấy đã đi trên đường tu tâm linh rất nhiều năm trời, ông đã làm sứ giả được gần 20 năm, ông đã có một cuộc sống đầy ý nghĩa và ông được làm việc với các chân sư thăng thiên để ban truyền tất cả những lời dạy kia, với sách, với trang mạng, vân vân.” Nhưng có lẽ con không nhận ra là việc làm này đã khó khăn đến chừng nào. Ông đã có thể làm việc cho tới kiệt sức, ông đã có thể bị căng thẳng đến độ suy sụp tâm thần, ông đã có thể bị choáng ngợp bởi tinh thần trách nhiệm phải chu toàn điều này hay điều nọ. Và chắc chắn đã có những thời kỳ ông phải nếm mùi sự bực dọc cao độ khi ông cảm thấy cho dù mình có làm nhiều đến đâu thì vẫn chưa đủ, hay chưa tốt đủ, và mình luôn luôn muốn làm nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì ông đã sống sót, và các con cũng vậy, các thày muốn tất cả các con sống còn. Ông đã sống còn bằng cách xem xét tất cả những gì thày vừa trình bày với con, bằng cách tìm ra một thế quân bình, tìm ra Trung đạo, và không bị bực bội, không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng, bằng cách tĩnh tâm.

Điều đã giúp cho sứ giả này là ngay từ buổi đầu, ông đã nhận ra là để nhận được thông điệp từ các chân sư thăng thiên, ông phải ở trong một tâm thái trung hòa. Có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không hoạch định con sẽ trở thành một sứ giả, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ của con có việc tiếp nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ các thày thay vì từ một giáo lý vỏ ngoài. Hầu nghe được Hiện diện TA LÀ của con hay một chân sư thăng thiên, con cần ở trong tâm thái trung hòa đó. Con cần dành thời gian để nỗ lực trụ trong tâm thái trung hòa đó mà không phấn đấu. Con đánh gạt tâm con, con khiến cho nó bối rối, để các ý nghĩ lăng xăng không chiếm trọn sự chú ý của con.

19.10. Một cách tiếp cận giáo lý cân bằng

Biết bao nhiêu thứ níu kéo tâm con. Biết bao nhiêu thứ. Các thày nhìn nhận là những lời dạy của các thày có thể dễ dàng biến thành một lực níu kéo khác đối với tâm con. Các thày nhận rủi ro này, một rủi ro có cân nhắc. Khi con quan sát diễn biến trong thời gian gần 20 năm qua khi đợt truyền pháp này hoạt động, con sẽ thấy – như các thày đã có đề cập – là giáo lý được ban ra có nhiều cấp độ. Đã có những giáo lý vượt xa hơn giáo lý ban đầu. Con sẽ thấy là một số người đã khám phá ra giáo lý, tham gia được một thời gian rồi bỏ đi làm công việc khác. Lại có một số người buộc tội sứ giả này đã trở thành một sứ giả giả hiệu. Còn một số khác thì tìm được một giáo lý khác để chuyên chú đi theo.

Các thày xác định là sứ giả này đã sẵn lòng thăng vượt mức tâm thức của ông đến độ các thày có thể ban truyền những cấp độ giáo lý khác nhau đó. Cho nên các thày đã và đang tiếp tục ban truyền giáo lý vì các thày muốn gửi càng nhiều giáo lý càng tốt vào cõi vật lý. Nhưng điều này không có nghĩa là con phải cảm thấy bó buộc luôn luôn theo sát những lời dạy mới nhất. Điều hoàn toàn phải lẽ là con có thể thấy một lời dạy nào đó – ngay cả một lời dạy được ban ra cách đây nhiều năm – hấp dẫn con, có vẻ quan trọng đối với con. Điều hoàn toàn phải lẽ là con tập trung vào lời dạy đó, học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, và không để ý đến những lời dạy đang được ban ra.  

Con không cần phải tham dự tất cả mọi hội nghị hay hội thảo trên mạng. Con không cần phải đọc tất cả mọi quyển sách hay mọi bài truyền đọc hay mọi lời giải đáp được đăng tải. Con không cần cảm thấy áp lực phải dự phần vào những giáo huấn đó. Đây quả thực là một sự thay đổi so với các tổ chức trước đây mà trọng tâm được đặt nhiều hơn vào việc đệ tử phải làm cái gì đó suốt ngày, thậm chí phải đọc chú hàng giờ liền để thay đổi thế giới. Nhưng các thày muốn các con được tự do đi vào nội tâm. tập trung vào những giáo lý mà con cảm thấy mình cần tập trung và bỏ qua phần còn lại. Thật hoàn toàn phải lẽ nếu con bỏ ra mấy tháng trời hay mấy năm trời để chú tâm vào một lời dạy cụ thể, rồi khi con cảm thấy mình đã tiến xa đủ với nó thì con có thể quay trở lại và nói: “À các chân sư có vừa dạy thêm gì nữa không?”

Không có một cách duy nhất để bước chân trên đường tâm linh. Việc đi theo một giáo lý tâm linh không được biến thành một chiếc áo tù bó chặt tay chân như từng xảy ra cho nhiều người, cả đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn các đệ tử tâm linh khác, hay tất nhiên như đang xảy ra cho hầu hết mọi người sùng đạo. Nhưng để tránh sự thể này, con cần sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình và nhận ra là phản ứng đó đến từ một cái ngã trong tâm. Chân sư MORE có nói: “Hãy nhìn cuộc đời. Mọi thứ xảy ra trong đời đều là một cơ hội để con làm việc trên tâm lý của con.” Vậy con hãy nhìn vào một lời dạy tâm linh, một đường tu tâm linh và một tổ chức tâm linh theo cách tương tự. Tất cả mọi thứ đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì đó chưa giải quyết trong chính tâm con, trong tâm lý của con. Tại sao con phản ứng theo cách con đang phản ứng?  

19.11. Nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngay trong tâm

Con thử nhìn xem những ai đã rời bỏ giáo lý tâm linh và bây giờ đổ lỗi cho đạo sư hay vị thày hay sứ giả hay chính giáo lý đó. Họ đang làm gì vậy? Họ đang phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm của họ nằm ngoài tâm họ. Trải nghiệm thì xảy ra trong tâm nhưng nguyên nhân thì nằm ngoài tâm.

À, nếu thế thì con không thực sự là một học trò tâm linh rồi, vì cốt lõi của con đường tâm linh chính là việc điều ngự tâm con. Và làm sao con có thề điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm bên ngoài tâm? Nếu con nghĩ một đạo sư hay một sứ giả nào đó có quyền lực trên trải nghiệm nội tâm của con, thì con bất lực không thể thay đổi được trải nghiện nội tâm. Và nếu con bất lực không thay đổi được trải nghiệm nội tâm thì làm sao con có thể tinh tiến trên đường tu tâm linh khi tinh túy của đường tu tâm linh là việc điều ngự trải nghiệm nội tâm?

Khi con tự xưng là một học trò tâm linh mà lại phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm nội tâm của con nằm ngoài tâm con, thì đây chính là một sự bất nhất trong nhận thức (cognitive dissonance).

19.12. Chờ đợi giáo lý sẽ chứng thực phin lọc nhận thức

Các thày đã thấy, không cứ trong phong trào này mà chắc chắn trong nhiều phong trào tâm linh, là có một tỷ lệ những người tìm ra một giáo lý tâm linh – một giáo lý tâm linh chính đáng và chân truyền – nhưng họ lại rơi vào phản ứng như vậy. Hay họ ở lại trong phản ứng đó vì họ đã từng ở trong đó trước khi tìm ra giáo lý, và phản ứng là họ phóng chiếu nó ra.

Thày Giê-su đã giảng điều gì về tâm thức Peter? Peter công nhận là Giê-su có gì đặc biệt, nhưng ông không nắm bắt được sự kiện Giê-su đặc biệt là vì Giê-su ở ngoài tâm của Peter nên mới có thể cho Peter một khung tham chiếu từ ngoài tâm ông. Thay vào đó, Peter lại muốn kéo Giê-su vào chính tâm mình và khiến Giê-su phải tuân theo những hình ảnh cùng chờ đợi mà ông có trong tâm.

Hàng ngàn, hàng vạn người, cả ở phương Tây lẫn phương Đông nhưng đặc biệt ở phương Tây, đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính nhưng họ lại phóng chiếu ra ngoài. Họ nhận diện một điều gì đó trong giáo lý đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu phóng chiếu để khiến vị thày phải tuân theo những chờ đợi của họ. Họ không nắm được là toàn bộ mục đích của con đường tâm linh là để thoát khỏi, để thăng vượt, để giải quyết các hạn chế trong chính tâm mình.

19.13. Điều kiện vỏ ngoài chỉ kích hoạt chứ không gây ra

Khi con nắm được điểm này, con sẽ thấy là không thể nào có một nguyên nhân bên ngoài tạo ra các hiện tượng bên trong tâm con. Không thể nào. Hiện tượng trong tâm là do tâm chế tạo. Chúng có thể được kích hoạt, chúng có thể là phản ứng trước một cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài.

Đây là tinh túy của lời dạy mà thày đã trao cách đây 2500 năm. Con sẽ không tìm thấy lời dạy này trong bất kỳ giáo lý nào được ghi lại. Nó đã không được diễn đạt với những từ đó, nó đã không được diễn đạt rõ ràng như chúng ta có thể diễn đạt ngày hôm nay bởi vì tâm thức tập thể đã được nâng lên. Nhưng đó chính là điều thày đã cố gắng trao cho đệ tử của thày. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không. Đó cũng là điều mà Giê-su đã cố trao cho đệ tử của Giê-su. Một số đã nắm được nhưng phần đông cũng không, và Peter thì nằm trong số những người này.

Các thày mong mỏi là những ai trong các con cởi mở với những lời dạy này có thể làm cuộc xoay chuyển đó trong tâm mình, tức là con có thể chấp nhận không có gì bên ngoài tâm con là nguyên nhân cho những gì xảy ra bên trong tâm con. Mọi chuyện xảy ra trong tâm con là kết quả của những điều kiện trong tâm con. Con có thể nghĩ là thày đang mâu thuẫn với những gì thày vừa nói ở trên liên quan đến rất nhiều ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con. Nhưng con thấy đó, ý nghĩ chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm.

Thày đã trình bày về điểm nay 2500 năm trước đây, về hành uẩn (samskara) trong tâm, về các khuôn nếp trong tâm. Bây giờ các thày gọi là ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến, một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi một trong những cái ngã đó hoạt động. Nhưng nếu con cứ tập trung vào cái nguyên do bên ngoài, cái điều kiện bên ngoài, và tưởng đó là nguyên nhân, thì làm thế nào con có thể thay đổi được phản ứng bên trong tâm con? Con không thể đóng chặt không cho các ý tưởng phóng chiếu đi vào tâm con. Như một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi chính tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

19.14. Tĩnh tâm có nghĩa là gì

Và đây là điều có thể xảy ra lần hồi khi con giải quyết các ngã đó, khi con thực hành bài tập này và buông ý nghĩ. Con có thể đạt tới điểm khi không phải là con không có ý nghĩ nào từ ngoài phóng chiếu vào tâm, không phải là con không có bộ não và tâm vỏ ngoài sản xuất ý nghĩ từ trong, mà cái Ta Biết của con, sự nhận biết ý thức của con, không giao tiếp với chúng. Chúng chỉ lướt xuyên qua.

Con hãy nghĩ đến hình ảnh của PadmaSambhava, của người đứng đó, hay người đứng trong phong cảnh bao la đó nhưng không nhìn thấy phong cảnh mà chỉ tập trung vào đám mây đen trên trời. Đấy, con có thể nghĩ là có nhiều ý nghĩ đi vào đầu con, nhưng trên thế giới vẫn còn rất, rất nhiều điều kiện mà con không nhận thấy, không chú ý. Con có thể đi bộ trên đường phố, bước qua nhiều người khác nhau nhưng con không để ý đến họ. Hay có lẽ con để ý một hai người nhưng số còn lại thì chỉ lướt xuyên qua. Con có thể đạt tới điểm khi con có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. Và đây chính là khi con đã làm yên tâm con.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngưng hẳn, mà có nghĩa là chúng ngừng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con. Đó là cách mà ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

19.15. Trải nghiệm Ngọn lửa Hoà bình Hoàn vũ

Thế thì câu điệp khúc mà các con vừa đọc lên nói gì? “Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ, chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”. Con có thể suy ngẫm và hòa điệu với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ mà thày giữ cho địa cầu, và con cũng có thể sử dụng để tránh tập trung vào các ý nghĩ. Nhưng đây là một điều mà hầu hết mọi người không thể làm được khi mới bắt đầu, và đó là tại sao thày đã cho con các bài tập kia trước. Nhưng chắc chắn một khi con đã đạt được một trình độ không dính mắc nào đó đối với ý tưởng, một khi con đã bỏ ra một thời gian để nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông,” thì sau đó con có thể quyết định chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của thày, hòa điệu vào đó, mở tâm con ra với nó và đơn giản được nó bao bọc chung quanh.

Tuy nhiên con hãy cẩn thận ở đây. Điều gì xảy ra cho tâm con khi thày nói Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ? Điều xảy ra trong tâm sứ giả là ông nghĩ ông phải thấy nó như một ngọn lửa. Phải có một loại lửa nào đó với một hình thù nào đó, và ông phải có thể hòa điệu vào đó. Nhưng làm vậy thì khiến cho tâm suy nghĩ rồi – con không hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang suy nghĩ về chuyện hòa điệu vào ngọn lửa. Và chừng nào con còn nghĩ ngợi về nó, con còn suy nghĩ, con còn nhìn ngọn lửa như một cái gì tách biệt với con, một cái gì ở ngoài kia: “Lửa ở đó, tôi ở đây, tôi phải hòa điệu vào cái ở đó,” thì con không thể làm được. Không thể nào làm được.

Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc không ở trong ngọn lửa. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc suy nghĩ về việc ở trong ngọn lửa. Nhưng ở trong đó hay nghĩ tới việc ở trong đó – hai cái này khác nhau. Đó là tại sao con cần một chút thực tập để đạt tới điểm con không thực sự hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang trải nghiệm chính ngọn lửa, con đang ở trong nó, con đang được nó bao trùm.

Trong chương trình canh thức chữa lành tâm lý, con vừa được thày Hiện diện Tình thương ban cho một bài thực tập, một bài thỉnh, qua đó con hình dung một cái tháp quan sát [xem bài truyền đọc ở đây] và con nhận thấy có một chiếc cầu thang dẫn lên một mặt phẳng và có một vị chân sư đang đứng trên mặt phẳng. Khi sứ giả này bắt đầu làm bài tập đó, ông hình dung trong tâm có một chân sư đứng đó như một hình người đứng trên mặt phẳng, và ông bước chân lền cầu thang rồi ôm lấy chân sư như thể ông ôm một người. Nhưng sau vài ngày, ông nhận ra là kỳ thực, làm vậy sẽ khiến ông bị rối trí, vì ông cho rằng mình phải hình dung tiến trình và điều này kéo chú tâm của ông ra khỏi việc trải nghiệm vị chân sư. Thế rồi ông nhận ra là thay vì hình dung hình một người và chính ông cũng là một hình người đang ôm lấy chân sư, thì ông có thể thay đổi cách hình dung để cảm thấy mình không phải là một hình người đang leo lên cầu thang, mà mình chỉ là một điểm chú ý, mình được bao bọc trong quả cầu là vị chân sư, quả cầu tâm thức, Hiện diện của chân sư. Thậm chí ông có thể cảm thấy mình là một cái chấm bên trong quả cầu của chân sư đang nhìn xuyên qua Hiện diện của chân sư, và làm như vậy sẽ cho ông một trải nghiệm mật thiết hơn.

Một điều tương tự cũng xảy ra với Ngọn lửa Hòa bình. Con không ngồi đó như một hình người cố gắng hòa điệu với ngọn lửa ở ngoài kia đang bốc cháy giống như những đám lửa mà con thường thấy. Ngọn lửa ở đây là một quả cầu và con thì là một cái chấm. Con ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm ngọn lửa, thậm chí con trải nghiệm xuyên thấu qua ngọn lửa. Khi con đã làm nhiều lần và có trớn, con còn có thể nhìn thế giới xuyên qua ngọn lửa. Đây là cách con có thể dùng Ngọn lửa Hòa bình. Và khi con chỉ trải nghiệm Ngọn lửa Hòa bình và chính con cũng ở trong ngọn lửa, chính con là một với ngọn lửa, thì các ý nghĩ lăng xăng sẽ chấm dứt. Nhưng như thày vừa trình bày, ít người làm được điều này ngay từ đầu, và con cần đi qua một số bước.

Một lần nữa đối với một số người, điều này sẽ khó thực hiện. Con đừng quá lo lắng. Đừng cảm thấy là mình phải làm cho được. Thày chỉ cống hiến cách này cho những ai đã sẵn sàng. Nếu con chưa sẵn sàng thì chẳng có vấn đề gì, và cũng không có gì để xấu hổ. Con không đang làm gì sai cả. Con hãy tìm một lời dạy hấp dẫn đối với con rồi chú tâm vào đó. Đôi khi như PadmaSambhava có nói, con có thể bị ghiền chuyện giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm lý con, gần như thể con nghiện bước chân trên đường tâm linh, và con cảm thấy mình phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày đưa ra, con phải có thể sử dụng, phải có thể tận dụng, phải có thể hình dung cái này hay cái nọ.

19.16. Dùng trực giác để bước trên đường tu

Hãy đứng lui lại. Con không phải làm tất cả mọi thứ. Con không phải tận dụng mọi thứ mà các thày đề nghị ở đây. Con cần tìm ra cái khía cạnh của giáo lý thu hút con ở mức tâm thức hiện thời của con trong số 144 tầng tâm thức. Con không nhất thiết cần biết mình đang đứng ở tầng nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác rằng lời dạy này hấp dẫn đối với con. Xong con hãy tập trung vào đó chừng nào con cảm thấy mình còn cần đến nó.

Sự thể là nhiều người trong các con đã không làm như vậy. Con đã tiếp cận một cách năng động hơn, con tìm ra giáo lý, con hào hứng với giáo lý và con nói: “Ồ, tôi muốn làm mọi thứ. Tôi muốn học hỏi tất cả, đọc hết tất cả. Tôi muốn thực hành tất cả, đọc tất cả các bài thỉnh và điều này điều nọ.” Làm như thế cũng phải lẽ thôi, nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Mong thay sẽ tới một giai đoạn khác khi con bắt đầu có nhiều trực giác hơn. Thay vì cố bước trên đường tu với tâm vỏ ngoài, con bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Và thay vì cố làm mọi thứ một lượt, con tập trung vào đúng một thứ mà con cần ngay bây giờ, và con không tiếc nuối, con không có cảm tưởng mình bị bắt buộc, hay cảm giác là mình phải làm nhiều hơn. Con chú tâm vào đúng một chuyện, xong con tận dụng nó chừng nào mà con còn cần đến nó, sau đó con lại tìm đến điều kế tiếp sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Các thày đã cho con rất nhiều thứ vì các thày biết khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên, con thường chưa có một phương hướng nội tâm mạnh mẽ. Con nói: “Tôi có thể làm gì? Hãy cho tôi một việc gì tôi có thể làm.” Đó cũng chính là cảm nhận của sứ giả này khi lần đầu tiên ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Ông vô cùng háo hức – chúng ta có thể gọi là ám ảnh cưỡng chế – khi đọc chú, học hỏi giáo lý, dọn sang Hoa Kỳ, tu học tất cả những khóa tu kia và vân vân. Một lần nữa, ông cần kinh qua giai đoạn này, nhưng sẽ tới điểm khi ông nhận ra đã tới lúc ông cần tiếp cận một cách khác. Tới lúc ông cần ngưng tập trung vào việc cứu nguy thế giới cho Saint Germain, và thay vào đó, ông tập trung vào việc giải quyết tâm lý của mình. Và điểm đó đã tới khi thay vì để cho tâm vỏ ngoài của ông cuống cuồng muốn làm chuyện này chuyện nọ, ông đã bắt đầu lắng nghe trực giác, và nhờ vậy ông đã bắt đầu nhận được nhiều hướng dẫn hơn từ các thày, cho đến khi ông có khả năng nhận được lời hướng dẫn của Giê-su muốn thực hiện một công việc xuyên qua ông, và tất cả đã dẫn đến việc phụng sự mà ông đã cống hiến.

19.17. Đi từng bước một là đủ rồi

Con cũng có thể đi theo cùng mô thức như vậy. Tất nhiên, tất cả các con sẽ không phụng sự giống nhau, nhưng các con vẫn có thể đi theo tiến trình lắng nghe đó, bước đi từng bước một, tập trung vào từng bước một. Con không thể leo nguyên cái cầu thang bằng cách bước tất cả mọi bực thang cùng một lượt. Con có thể toan nhảy hai ba bước một, nhưng làm vậy sẽ khiến con kiệt sức trước khi con leo đến đỉnh. Con hãy vừa lòng với việc bước đi từng bước. Chẳng có gì sai trái nếu con ở tầng tâm thức 48 và chú tâm tìm cách bước lên tầng 49. Con sẽ luôn luôn ở một tầng nào đó cho tới khi con thăng thiên, và thử thách sẽ luôn luôn là bước lên bực kế tiếp. Đường tu là như thế đó.

Tâm đường thẳng muốn làm đủ mọi trò trống. Các ngã tách biệt của con cứ muốn nói: “Ồ, lẽ ra tôi phải tiến bộ hơn thế này. Đáng lý tôi phải ở một tầng cao hơn hiện nay. Tôi không được ở tầng hiện tại của tôi. Tôi phải cao hơn 10 hay 50 tầng. Tôi phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày chỉ bảo. Tôi phải biết hết giáo lý.” Tất cả những chuyện này chỉ là tâm vỏ ngoài đó thôi, là những ý nghĩ lăng xăng do các ngã tách biệt sản xuất ra, hay là phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường đạo.

Hãy đứng lui lại. Lắng nghe từ bên trong. Khi tâm vỏ ngoài phóng chiếu tới con: “Bạn phải làm cái này hay bạn phải làm cái kia,” con sẽ phản ứng ra sao? “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Và con cứ tiếp tục buông hoài cho tới khi con đạt tới trạng thái có khả năng lắng nghe từ bên trong. Rồi một ý tưởng sẽ đến với con: “À, tôi sẽ làm điều này, vì nó không đến từ bên ngoài, nó không đến như một bổn phận tôi phải chu toàn.” Nó chỉ đến như một ý nghĩ về một điều con có thể làm. Không có chút áp lực nào, cho nên con làm theo.

Nhưng đây là một thử thách, một thử thách to lớn để có thể làm vậy trong một thế giới hiện đại quá bận rộn, nơi có quá nhiều thứ níu kéo sự chú ý của con, lôi con về phía này hay phía nọ, nơi có quá nhiều áp lực phải làm cho giỏi, phải làm tốt hơn nữa, phải học hành, phải có giáo dục hay nghề nghiệp, phải kiếm nhiều tiền, phải có ngôi nhà thật lớn. Tất cả những thứ như vậy, đặc biệt tại Hoa kỳ nơi mọi người đều phải cố sánh kịp với ông A bà B, và không một ai bỏ ra một phút để tự hỏi: “Ủa, thế ông A bà B đang cố sánh kịp với ai đây? Liệu người đó có thật không? Có ai đã gặp ông Nặc danh đó bao giờ chưa?”

Con nhận ra ở đây là khi lần đầu con tìm thấy một con đường tâm linh, như thày có nói về sứ giả này, ông đã đương đầu với nó như một thách đố. Cũng giống như chuyện chinh phục một ngọn núi vậy. Đó là một nhiệm vụ phải làm cho được, là một sự nghiệp khi ông bước trên đường tu tâm linh. Đó là một cuộc phấn đấu. Ông cảm thấy ông phải đạt được kết quả tốt. Ông phải làm tròn những mong đợi của chính mình cũng như mong đợi của người khác, mong đợi của một vị sứ giả và mong đợi của các chân sư. Có quá nhiều thứ mà ông phải cố xứng đáng và ông háo hức muốn làm tròn. Nhưng rất may, thay vì bị kiệt lực, ông đã tới điểm bước lui lại và nhận ra nhu cầu tập trung vào tâm lý của mình. Và tất cả các con có thể làm được tương tự.

Đây không phải là một sự nghiệp, không phải là một áp lực, không phải là một chuyện con phải hoàn thành và đạt được. Các thày đã nói gì về những ai sẵn sàng dùng vũ lực? Rằng vũ lực sẽ không đưa con đến đâu trên đường tu tâm linh. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con có thể cưỡng chiếm một cái gì mô phỏng thiên đàng, nhưng đó không phải là thiên đàng. Con đừng tự ép mình phải đi trên đường tu. Vũ lực đến từ ngã tách biệt. Hãy nhận diện nó và buông nó ra. Rồi sau đó, làm thế nào con sẽ bước trên đường tu tâm linh khi con không còn tự ép mình chứ? Bằng cách xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Thày cũng biết đây là một khái niệm khó khăn, đặc biệt đối với những ai đã lớn lên trong thế giới Âu tây – xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Nhưng dù sao thì đó vẫn là một điều để con quán chiếu cùng với các lời dạy mà các thày đã trao và sẽ trao.

19.18. Cho phép mình xuôi chảy

Câu trong Kinh thánh nói gì chứ? “Tốt lắm, hỡi người đày tớ trung tín. Con đã từng trung tín trong một ít việc. Ta sẽ giao cho con trọng trách của nhiều việc.” Một lần nữa, đây là chuyện nhân lên các ta-lăng, nhân lên vốn liếng tâm linh. Con đã nhân lên các ta-lăng mà các thày đã giao cho con. Con đã tinh tiến. Hãy nhìn nhận điều đó. Đứng lui lại. Hãy nhìn xem con đã tiếp cận con đường tâm linh như thế nào cho tới giờ, rồi hãy quyết định buông bỏ cách đó, và nhìn xem những gì đến với con từ nội tâm.

Con có thể nghĩ sứ giả này có một số khả năng hay chứng đạt đặc biệt và đó là lý do ông làm sứ giả. Chắc chắn người ta đã phóng chiếu ý tưởng này trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây khi vị sứ giả được xem là vô cùng đặc biệt. Nhưng tại sao sứ giả này lại là sứ giả chứ? Tại sao ông lại trở thành sứ giả? Tại sao ông vẫn là sứ giả 20 năm sau? Bởi vì ông đã sẵn lòng buông bỏ hết lần này đến lần khác. Ông đã sẵn lòng buông ra bất kỳ dính mắc nào về giáo lý cũng như về việc làm sứ giả. Tới một điểm thì cách duy nhất để tiến bước trên đường tu tâm linh không phải là bằng vũ lực hay bằng nỗ lực, không phải là qua trung gian tâm vỏ ngoài, mà cách duy nhất để tiến tới là buông ra, là từ bỏ, là cho phép chính mình xuôi chảy với dòng chảy.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con, và thày chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các chân sư đối với sự tham gia của con trong hội nghị này cũng như việc con sẽ sử dụng các lời dạy. Thày niêm hội nghị này trong ngọn lửa vui mừng của Hòa bình Hoàn vũ của đức Phật mà TA LÀ. Hãy an bình. An bình. Tĩnh lặng.

Buông mọi ý niệm nghĩa vụ đối với địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022. Bài giảng này được ban truyền nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Khôi phục nn dân chủ.

TA LÀ chân sư PadmaSambhava. TA LÀ một Đạo sư Kim cương (Vajra Guru). Điều này biểu thị ta đã đạt đến một mức quả vị Phật với quyền ở đây trên trái đất, giảng dạy trên trái đất. Ta không thường phát biểu theo cách này nhưng ta muốn nhân cơ hội này trao cho con một lời giảng có thể đem lại lợi lạc cho con.

Thày Astrea đã trình bày về khả năng bị ghiền một sự kích thích nào đó trên địa cầu. Là một người đang bước đi trên con đường quả vị Ki-tô, con vươn lên khỏi các thói nghiện ngập đối với những thứ của thế gian. Nhưng có thể con vẫn gần như bị ghiền việc giải quyết các vấn đề, giải quyết mọi chuyện trong tâm hồn, trong tâm lý của con.

Xu hướng tập trung vào các vấn đề

Ta muốn cho con một hình ảnh. Có một phong cảnh bao la, một đồng bằng rộng lớn với đồi núi bao quanh trải dài đến chân trời xa tắp. Bên trên là bầu trời xanh bát ngát có mặt trời sáng rỡ tuyệt đẹp. Dưới đất ngay giữa đồng bằng rộng lớn đó có một người đang đứng. Trên đầu người đó là một đám mây đen rất nhỏ. Và y ngước mắt nhìn lên đám mây rồi bảo: “Ồ, xem mây đen kia kìa, chắc chắn thế giới sắp đến ngày tận thế”. Y hoàn toàn không để ý gì đến cảnh vật bao la, đến bầu trời xanh ngắt và ánh nắng tươi sáng, mà chỉ chú tâm vào đám mây đen.

Ta biết rất rõ – chúng ta đều biết rất rõ – rất nhiều giáo lý mà các thày đã ban ra, đặc biệt qua trung gian vị sứ giả này, về việc giải quyết tâm lý, khắc phục chấn thương nhập đời cùng giải thể các ngã tách biệt của con, có thể gần như choáng ngợp đối với con. Như một số các con có bày tỏ, con cảm thấy gần như vô vọng, gần như không có cách nào nhìn hết được những khía cạnh thâm sâu đó của tâm lý mình. Nhưng một số khác đã đạt được kết quả đáng kể, và con nhận ra là con đã giải quyết nhiều cái ngã, nhiều vết thương, nhiều vận đề trong tâm lý mình.      

Sứ giả này đã bước trên đường tu suốt hơn 45 năm qua. Đã có một giai đoạn trong thập niên 1990 khi ông thường xuyên có ý nghĩ: “Tôi đã nhìn ra và đã giải quyết quá nhiều chuyện trong tâm lý của tôi, nhưng những chuyện mới cứ không ngừng xuất hiện. Đến bao giờ mới hết đây?” Và tất nhiên, ông vẫn còn tìm kiếm các vấn đề trong tâm lý của ông. Nhưng từ khá lâu nay, ông chỉ đơn giản mở tâm ra quan sát rồi giải quyết chúng. Ông không tập trung vào chúng. Ông không bị chúng đè nặng. Chúng không lấy đi sự an bình của ông. Chúng không khiến ông bực dọc.

Điều ta muốn nói ở đây là đặc biệt trong cương vị một avatar, con đã đến địa cầu với ý định tạo ra một sự thay đổi tích cực, cho dù con đã nhìn việc đó như thế nào trước khi con đến, con đã thay đổi cách nhìn của con như thế nào, con đã thay đổi phương thức hoạt động của con như thế nào sau khi con đến hiện thân ở đây. Nhưng con vẫn còn mang một cách nhìn nào đó về lý do tại sao con ở đây, những gì con định bụng sẽ làm hay sẽ hoàn thành. Và cái nhìn này có thể cho con một xu hướng tập trung vào các vấn đề, tập trung vào những gì chưa được giải quyết. Và con giống như anh chàng kia đứng giữa phong cảnh bao la mà không ngắm phong cảnh, chỉ lo chú mục vào đám mây đen nhỏ xíu trên đầu mình.

Đúng, con có thể còn sót một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Đúng, như các thày đã nói, vẫn còn một số ảo tưởng mà con cần nhìn xuyên thấu trước khi con thăng thiên. Nhưng nếu như những điều còn sót lại không nhiều như con tưởng thì sao? Nếu như con đã giải quyết xong phần lớn những gì con cần giải quyết nhưng con không nhìn ra điều này, con không công nhận điều này vì con quá tập trung vào vấn đề kế tiếp? Gần như con ghiền chuyện giải quyết các vấn đề, ghiền cảm giác kích thích mà nó cho con mỗi khi con giải quyết hay chú tâm vào vấn đề.

Một lần nữa, ta không đang bảo con phải ngừng giải quyết tâm lý của con. Ta chỉ nói là thỉnh thoảng con hãy bước lui lại, và con tiếp tục bước lui lại cho đến khi con nhìn xa hơn đám mây đen kia trên đầu mình và thấy được quang cảnh rộng lớn, bầu trời xanh tươi của tâm hồn con, thấy được mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con đang toả ánh nắng, và cảm thấy hơi ấm của Hiện diện TA LÀ đang chiếu rọi trên con.

Nhìn nhận mình đã có tiến bộ

Các thày đã trao cho con rất nhiều lời dạy về tâm thức nhị nguyên. Nhưng ta tự hỏi không hiểu con đã nắm bắt được một khía cạnh của những lời dạy đó và áp dụng trên bản thân mình hay chưa? Các thày đã nói đến sự cân bằng, nói đến Con đường Trung đạo, không đi về đối cực nhị nguyên này lẫn đối cực nhị nguyên kia. Nhưng các thày cũng đã nói là tâm thức nhị nguyên có khả năng chụp lấy bất kỳ lời nào của một vị thày tâm linh và khiến nó trở nên mất quân bình. Liệu con đã hoàn toàn nắm bắt là khi các thày trao cho con một giáo lý, thì sẽ có một cái ngã tách biệt trong tâm con – thậm chí cả các tà lực ở ngoài tâm con – sẽ kéo con vào cực đoan đối chọi, hoặc cái mà tâm nhị nguyên xem là cực đoan đối chọi?

Các thày đã khá nhiều lần đề cập đến các đệ tử bước vào đường tu, đã đến với các chân sư thăng thiên vì họ muốn cảm thấy mình đặc biệt. Họ muốn cảm thấy họ đã tiến xa hơn các đệ tử khác, thậm chí còn là đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh. Nhiều các con đã nhận các giáo lý này và quyết định là con muốn khắc phục xu hướng nói trên nếu con đang mang xu hướng đó, hoặc con không muốn rơi vào xu hướng đó. Nhưng lại có một cái ngã trong tâm con bảo rằng, để tránh cảm thấy mình đặc biệt, con phải tránh không được cảm thấy bất cứ gì về mình. Nói cách khác, con không được phép công nhận mức chứng đạt của mình, công nhận những gì mình đã giải quyết trong tâm lý bởi vì làm vậy có thể khiến con kiêu mạn.

Có một cái ngã muốn con cảm thấy kiêu mạn và cũng có một cái ngã bảo con không được kiêu mạn và do đó con không được công nhận bước tiến của mình. Nhưng con đường quả vị Ki-tô là gì chứ? Đó là con đường tiến bước, tự thăng vượt. Nếu con không công nhận mức tự thăng vượt của mình thì con sẽ rơi vào một vùng hoang địa nơi con sợ cảm thấy kiêu mạn đến độ con không dám công nhận mình đã thật sự có tiến bộ, mình đã đạt tới một mức nào đó. Đây chính là tác động của tâm thức nhị nguyên trên những ngã này.

Bây giờ con hãy quan sát bản thân. Con có thể nhìn vào sự kiện này. Con có xu hướng gì khi con nghe ta trình bày những điều trên? Con có thể cảm thấy những loại ngã nào? Xong con có thể sử dụng các dụng cụ của các thày để làm việc trên điểm này, khắc phục những cái ngã đó cho tới khi con đạt tới điểm con buông được nhu cầu cảm thấy mình đặc biệt, mình cao trội, mình kiêu mạn. Và như vậy con cũng buông luôn cái ngã cho con sự khiêm tốn giả tạo, sự nhún nhường giả tạo không muốn công nhận bước tiến của mình. Con có thể đơn giản buông chúng ra và nhờ vậy trụ trong một tâm thái trung hòa nơi con có thể nhận diện, con có thể nhìn lại con đường của mình và nói: “Thật ra tôi đã đi được nhiều bước trên con đường của tôi. Tôi đã kinh qua nhiều trải nghiệm. Tôi đã nhìn ra nhiều điều trong tâm lý của tôi. Tôi đã giải quyết được nhiều chuyện. Tôi thực sự đã có tiến bộ.” Không phải là con tự hào mà con cảm thấy vui mừng.

Và tại sao con lại không được cảm thấy ngày càng vui hơn khi con bước cao hơn trên đường tu chứ? Tâm Ki-tô vốn hoan hỉ. Tâm Ki-tô không nghiêm nghị như quá nhiều người vẫn tưởng vậy, thậm chí nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn nhiều tín hữu Cơ đốc giáo vẫn tưởng rằng Ki-tô thật nghiêm trang, Thượng đế thật nghiêm trang. Ki-tô vốn vui mừng. Tại sao con không có quyền cho phép mình vui mừng khi con đã có chứng đạt trên đường tu? Đây không phải là một niềm vui nghịch với đối cực ngược lại, không phải là hạnh phúc nghịch với sự bất hạnh theo một định nghĩa nhân thế nào đó. Mà đây là niềm vui vượt khỏi cặp đối cực phàm phu, vượt khỏi mọi nhị nguyên và phân cực. Con có quyền cảm thấy niềm vui này. Tại sao không cho phép mình cảm thấy nó, ghi nhận nó?

Con đường Thương khó

Các thày chưa bao giờ bảo rằng con đường dẫn đến quả vị Ki-tô là Con đường Thương khó (Via Dolorosa). Không, các thày đã nói điều ngược lại. Ai đã chế ra Con đường Thương khó, ai đã chế ra toàn bộ khái niệm này? À, tất nhiên là sa nhân rồi. Chúng muốn vắt kiệt niềm vui khỏi mọi người đến độ người ta không thể mua được cái ảo tưởng phổ biến trong đạo Cơ đốc về con đường cứu rỗi tự động: Con hãy đi lễ nhà thờ, hãy tuân theo các luật lệ và quy tắc, hãy tin vào giáo điều thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Luôn luôn có những người muốn nhiều hơn, thế là sa nhân dựng lên khái niệm bảo rằng đây là con đường hy sinh, đây là con đường đau đớn, cho nên không hề có niềm vui nào trên con đường của các vị thánh.

À, tất nhiên khi con có một giáo hội đặt nền tảng trên tâm thức của Peter và tâm thức của phản Ki-tô, thì làm sao có niềm vui được? Làm sao những người lãnh đạo giáo hội đó cảm thấy vui mừng? Và nếu các lãnh đạo không vui mừng thì tại sao bất cứ ai khác trong giáo hội lại vui được? Nói cho cùng, bản chất con là một kẻ có tội. Làm sao con có thể cho phép mình vui sướng khi con là một kẻ tội đồ khốn nạn đúng lý phải ăn năn xấu hổ chỉ vì mình đang tồn tại? Tất cả thật là vô lý. Vô lý. Con hãy buông nó ra. Hãy nhận diện những cái ngã đó, nhìn thẳng vào mặt chúng và bảo: “Mi không phải là ta. Ta không phải là mi. Ta không muốn mi nữa. Ta để cho mi chết đây.” Đây chính là những gì Ki-tô muốn nói khi thày bảo: “Ai sẵn sàng vì ta bỏ đời sống, sẽ tìm thấy sự sống.” Con sẽ tìm thấy một dạng sống cao hơn vượt khỏi những cái ngã tách biệt đó.

Lý do đưa con đến địa cầu

Khi con nhìn lịch sử, nhìn vào ngày hôm nay, phải nói là những gì loài người có thể tin được thật đáng kinh ngạc. Bao nhiêu dối trá, bao nhiêu ảo tưởng mà con người đã có thể tin theo, thật không thể nào ngờ được. Đối với một chân sư thăng thiên thì không đến nỗi nào, vì các thày đã chứng kiến đủ mọi chuyện. Tuy nhiên vẫn là một khối lượng lừa dối và ảo tưởng khó tin. Con người có khả năng tin những chuyện đó, thậm chí còn tin rằng chúng diễn tả một chân lý nào đó, hay chúng đã được ban ra bởi Thượng đế, hay bởi đức Phật, hay Krishna, hay Ki-tô, hay bất kỳ thẩm quyền nào mà họ nhìn thấy. Con hãy nhìn vào đó và nhận diện đó là chuyến hồ đồ, vô lý. Xong con chỉ đơn giản buông nó ra.

Có lẽ con có thể nhận diện một cái ngã mà hầu hết mọi avatar đều có, và các con đã mang ngã này ngay từ lúc đầu thai. Đó là hệ quả của sự kiện con đến đây với lòng mong muốn giúp đỡ mọi người, tạo cuộc thay đổi. Để giúp người khác, con cảm thấy con phải lắng nghe họ, phải nhạy bén với họ. Con gặp những người tin vào các dối trá đó hay con gặp sa nhân và con nghĩ: “Tôi nên để ý và quan tâm những gì họ nói. Tôi nên mở tâm lắng nghe họ.” Con bắt đầu hấp thụ, con cảm thấy một nghĩa vụ. Khi sa nhân ném cho con một ý tưởng sai lầm, con cảm thấy mình có bổn phận xem xét nó: “Không hiểu trong lời nói này có gì đáng xem xét chăng? Có thể nào đó là sự thật?” Con thấy chuyện này xảy ra ngay cả trong câu chuyện Vườn Eden khi Eva cảm thấy bắt buộc phải lắng nghe lời nói của rắn và cân nhắc xem nó nói gì. Là một avatar, sẽ tới điểm con cần nhìn vào sự kiện này. Con cần nhìn xem con có cảm thấy nghĩa vụ nào đối với trái đất, đối với người khác, thậm chí đối với cả sa nhân. Và con cần bác bỏ ngã đó và để cho nó chết hầu con có thể nhìn nhận: “Tôi không bắt buộc phải làm bất cứ gì trên địa cầu. Tôi không có nghĩa vụ gì trên địa cầu.”

Bây giờ, để đi muốt toàn bộ tiến trình này, có thể con sẽ phải xét xem những gì đã đưa con đến trái đất, những gì con muốn thực hiện, những gì con muốn hoàn tất, vì đó chính là cái đã cho con cảm giác nghĩa vụ. Con muốn hoàn thành một điều gì đó và để làm vậy, con có bổn phận ra tay. Con cảm thấy mắc kẹt, vướng víu vì con đã nghiệm thấy là khi con làm những gì con nghĩ mình có bổn phận phải làm, thì thật ra con không đạt được kết quả con muốn. Vậy con có chọn lựa nào không?

Nhiều người hết kiếp này tới kiếp khác cứ cố đẩy tới, cố tìm cách thị hiện được kết quả mong muốn. Nhưng chỉ có một lối thoát duy nhất khỏi sự khó xử này, điều bí ẩn này, tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, đó là nghĩ xem có phải con đã thiếu cố gắng? Không, vấn đề có thể nằm ngay ở mục tiêu của con. Và có thể con sẽ phải xét lại chính cái lý do đã đưa con đến địa cầu, ngộ ra nó không là cao nhất. Nó là một sản phẩm của mức tâm thức mà con đã có vào thuở đó. Nhưng giờ đây con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn thì con có khả năng nhìn vào nó, tái xét nó, và con buông nó ra. Buông nó ra!

Vị sứ giả này đã làm việc trên vấn đề này được năm sáu năm từ khi các thày ban truyền các giáo lý về ngã tách biệt. Ông đã mô tả bước đột phá quan trọng đầu tiên mà ông có được khi ông nhận ra: “Tôi không phải làm gì trên trái đất.” Nhưng kể từ đó, ông đã có thêm nhiều đột phá khác liên quan đến điểm này – tại sao ông có mặt trên địa cầu, ông xem vai trò của mình là gì, muc tiêu của mình là gì khi ở đây – và ông đã sẵn lòng cứu xét lại tất cả. Việc này vượt khỏi chấn thương nhập đời vì nó được định đoạt trước khi con gặp phải chấn thương nhập đời.

Đó là những gì con đã đem theo con từ một hành tinh tự nhiên, những gì đã đưa con đến đây từ một hành tinh tự nhiên. Và đây là bước kế tiếp sau khi con giải quyết chấn thương nhập đời, là con xem xét các khía cạnh sâu sắc hơn, chẳng hạn như: Tại sao con lại có mặt ở đây? Bởi vì nếu con không giải quyết chuyện này thì làm sao con sẽ rời được nơi đây? Làm sao con có thể thăng thiên? Làm sao con có thể đứng đó trước cánh cổng, nhìn lại trái đất một lần chót và tìm xem còn điều gì níu con ở lại? Làm sao con có thể nhìn quỷ Mara đang cố kéo con vào một phản ứng mà vẫn không phản ứng lại? Chỉ khi nào con cảm thấy con không còn việc gì cần làm trên trái đất thì con mới có thể tránh không phản ứng lại bất kỳ điều kiện nào trên trái đất.

Một số các con chưa đạt tới mức sẵn sàng với lời dạy này. Nhưng ta muốn đem nó vào cõi vật lý để những ai đã sẵn sàng có thể tiếp nhận được, và những ai sẽ sẵn sàng trong tương lai có thể tìm thấy và đọc được. Và với tư cách một Đạo sư Kim cương, ta có quyền đem lại bất kỳ giáo lý nào ta muốn khi có cánh cửa mở ra cho giáo lý đi vào. Và như vậy, ta nói Vajra, Vajra, Vajra. PadmaSambhava TA LÀ.

Làm thế nào loại bỏ đau khổ con người

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2022, nhân dịp Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Một truyền rải chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình

Hòa bình là một ngọn lửa, một năng lượng, một tâm thức, một sinh thể – một sinh thể vũ trụ mà sự chứng đạt vượt khỏi tầng mức nơi ta đang đứng trong tư cách đức Phật cho trái đất. Sinh thể vũ trụ này đã được từ hóa (magnetized) đến địa cầu bởi các chân sư thăng thiên, bởi các con là đệ tử của chúng tôi và bởi sự xoay chuyển tâm thức vừa xảy ra do hệ quả cuộc xâm lăng nước Ukraine. Biến cố đó đã tạo ra một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể đến độ chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khẩn khoản sinh thể vũ tru đó từ hóa sự hiện diện của thày trong cõi ê-the bên trên địa cầu và rải xuống một sự phát tỏa chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình.

Hiển nhiên ngọn lửa hòa bình này không có nghĩa là trên địa cầu sẽ tức khắc có hòa bình theo nghĩa hòa bình vật lý. Ý nghĩa thực sự là ngọn lửa sẽ phơi bày ra tất cả mọi năng lượng, mọi tâm thức, mọi sinh thể của phản hoà bình, cho nên có vẻ như ngọn lửa sẽ đem lại cái đối nghịch của hòa bình, nhưng điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian. Chúng tôi đã từng nói là địa cầu không thể cưỡng lại lực kéo hướng thượng của toàn bộ bầu cõi. Và địa cầu cũng không thể cưỡng lại Ngọn lửa Hòa bình Toàn vũ. Cho nên đây là một sự đặc miễn, một cơ hội cho một địa cầu đã được từ hóa bởi bao nhiêu người trên trái đất mong muốn hòa bình. Họ mong muốn một tương lai được hưởng thái bình khỏi tay những kẻ sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực.

Tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực

Thế nào là tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Đó là một chất độc tâm linh. Nó có mấy yếu tố. Thật ra nó khởi lên từ tất cả những chất độc kia, từ vô minh cho đến dục vọng, thèm muốn, tham lam, bởi vì tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực không bao giờ thấy đủ. Những người, những sinh thể sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực tạo ra điều gì? Họ tạo ra đau khổ, thường là cho người khác, nhưng họ luôn luôn tạo ra đau khổ cho chính họ. Những kẻ chủ mưu chiến tranh, chẳng hạn, không thể tránh tạo ra trong chính tâm họ và bốn thể phàm của họ một sự nhiễu loạn có thể sẽ nhanh chóng khiến họ không sao chịu đựng nổi. Đó là tại sao con thấy một số nhà lãnh đạo khởi sự chiến tranh đã trở nên điên loạn – trong nghĩa đen – và họ bước vào một tâm trạng hoàn toàn hoang tưởng, xa rời thực tế. Cho nên liệu con có thể nói được là khi một sinh thể bước vào tâm thức mong muốn hay sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực, thì sinh thể đó có còn quyền tự quyết, còn ý chí tự do nữa hay không? Hay chẳng phải là họ đã nộp quyền tự quyết của họ cho những con quái vật tập thể, những quỷ dữ hay sa nhân chỉ muốn gây rối loạn hoặc mưu toan chứng minh Thượng đế sai lầm? Liệu những người như thế có còn ý chí tự do hay không? Họ có một ý chí, nhưng ý chí đó không tự do.

Điều gì xảy ra trong tâm lý những người đi vào tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Hiển nhiên, họ cũng bước vào tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là họ có thể dùng tiến trình lý luận nhị nguyên để biện minh cho hành động của mình, nhưng chỉ từ một góc cạnh nào đó thôi. Con thấy đó, sức mạnh hướng thượng của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là tâm thức Ki-tô đưa tất cả mọi thứ xích lại ngày càng gần hơn với duy nhất. Chắc chắn, duy nhất là một cái gì khó mường tượng cho những người đầu thai trên một hành tinh với vật chất dày đặc như địa cầu, nhưng dù sao đi nữa, trong vũ trụ có một hướng chuyển động đi lên. Khi con đi vào tâm thức chiếm đoạt bằng vũ lực, con không thể ở trong duy nhất. Bởi vì nếu con ở trong duy nhất, con sẽ nhận ra là nếu con lấy của người khác bằng vũ lực thì con cũng lấy từ chính con, và thử hỏi có ai lại điên rồ đến mức làm chuyện đó?

Trạng thái phi hòa bình và phi tự do

Các sinh thể đó đi ngược lại sức mạnh hướng thượng của vũ trụ và họ không thể nào không cảm thấy điều đó. Thường thường họ không cảm thấy một cách ý thức. Họ không nhận thức được tại sao họ lại có cảm giác đó, nhưng họ cảm được một sự nhiễu loạn. Họ liên tục ở trong tâm trạng phi an bình, bất ổn này. Họ không thể bình an trong tâm. Cuối cùng nó có thể khiến họ điên loạn – cho dù con có định nghĩa từ này như thế nào – nhưng trong trung hạn, họ sẽ rơi vào một tâm trạng hoang tưởng nơi họ không thể nhìn ra hậu quả việc làm của mình. Họ không có khả năng nhìn nhận hậu quả việc làm của họ. Tại sao thế? Bởi vì để có thể sống còn về mặt tâm lý trong trạng thái phi an bình đó, họ phải cố tìm ra trong tâm một cách biện luận hầu bênh vực cho hành động hung hãn bạo ngược của họ, và họ không thể nhìn nhận hậu quả vì hậu quả sẽ vô hiệu hóa cách biện luận đó. Họ bắt buộc phải đi vào tâm trạng hoang tưởng, phủ nhận thực tế, hầu sống còn trong tâm lý.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là giờ đây họ bước vào tâm trạng cùng cực của phi tự do. Họ có còn tự do nào nữa hay chăng khi họ không thể rút lại những chuyện bạo lực mà họ đã làm, không thể hủy bỏ hay tháo gỡ những hậu quả mà họ đã gây ra cho tha nhân? Và nếu họ nhìn nhận các hậu quả đó, dù chỉ là hậu quả trên nhân dân họ và chính họ, thì họ sẽ phải công nhận là cách biện minh của họ không sao đủ được.

Có nghĩa là trong tâm, họ sẽ phải nhìn nhận là mình sai lầm, nhưng nếu họ đã ở trong trạng thái cùng cực muốn cưỡng chiếm thì họ cũng tự coi mình là cao trội hơn, vì cái cho họ ý muốn nắm quyền lực cao nhất cũng chính là cái khiến họ cưỡng chiếm. Và nếu đã là một sinh thể cao trội hơn thì họ không thể sai lầm – hay đúng hơn, họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và do đó họ cũng không thể nhìn nhận là mình sai lầm. Họ không thể nhìn nhận thực tế của những gì đang xảy ra trên thế giới, và do đó họ hoàn toàn phi tự do.

Họ không thể thay đổi quan điểm, vì khi họ thay đổi quan điểm hay thay đổi cách hành động, họ sẽ phải thừa nhận là hành động nguyên thủy của mình là sai trái và cách biện minh cho hành động đó cũng sai trái. Cho nên họ đã sai lầm, và khi đã là một sinh thể cao trội thì họ không thể chịu đựng mình đã sai lầm, và vì thế họ phải phủ nhận. Trong sự phủ nhận toàn diện đó, họ đánh mất tất cả mọi tự do trong tâm.

Bề ngoài có vẻ như sa nhân có tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải cân nhắc những hậu quả cho người khác mà một người bình thường sẽ cân nhắc. Có vẻ như họ thường hay trốn tránh được hậu quả việc làm của họ vì họ khiến cho những ai đi theo họ phải gánh dùm nghiệp chướng. Nhưng khi con nhìn sâu vào tâm của sa nhân, con sẽ thấy ở tầm mức của tâm, họ là những sinh thể ít tự do nhất. Họ có vẻ tự do ở tầm mức hành động vật lý, nhưng họ ít tự do nhất ở tầm mức của tâm.

Những lãnh đạo không chịu nổi là mình sai

Từ khá lâu nay chúng tôi đã có đề cập đến các thiên thần sa ngã qua một đợt truyền pháp trước. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi nói đến các sinh thể sa ngã và đưa ra một số lời dạy rất thâm thuý về sa nhân. Lời dạy đó đã đi vào tâm thức tập thể, đã chạm được những ai có tâm cởi mở do họ đã nhìn vào lịch sử và tự hỏi tại sao trên địa cầu lại có loại lãnh tụ như vậy, những người thiếu hẳn lòng trắc ẩn hay quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác. Hẳn lời dạy này đã chạm được các con, những học trò trực tiếp của chúng tôi. Các con đã suy ngẫm những ý tưởng đó, đã đọc thỉnh dựa trên những bài truyền đọc của chúng tôi, và tất cả đã tạo ra một động lượng hướng thượng – giờ đây được tăng cường và kết tinh do cuộc xâm lăng nước Ukraine – đến độ hành tinh đã đạt đến một khối lượng tới hạn (critical mass).

Hiện nay đã có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể khi có nhiều người hơn thấy được, nhận ra được, sự cần thiết phải hiểu biết tại sao ngay cả trong thế giới hiện đại vẫn có những loại lãnh đạo như thế, những lãnh đạo sẵn sàng hành động bạo lực rõ ràng, gây ra biết bao hậu quả khốc liệt cho nhân dân xứ họ cũng như các xứ khác. Hơn thế, họ không sẵn lòng công nhận hậu quả đó để mà thay đổi hành động, thay đổi quan điểm của mình. Họ không có lòng trắc ẩn. Họ xem thường hậu quả mà họ gây ra, tại sao chứ? Như ta vừa nói, vì họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và đây chính là điểm mà nhiều người đã bắt đầu nhìn ra: sự xơ cứng hoàn toàn, sự thiếu vắng khả năng cùng thiện chí để chấp nhận là mình đã sai lầm, hay việc làm của mình đã không tối ưu mà lại còn gây tổn hại cho chính quyền lợi của mình.

Sự xơ cứng của các chế độ độc tài

Điều này dẫn đến sự tỉnh ngộ rằng các nền dân chủ là những xã hội có đủ khả năng cho phép một lãnh đạo sai lầm. Những xã hội đó có đủ khả năng cho phép người ta sai lầm. Người ta có đủ khả năng nhìn nhận là mình đã sai lầm, rồi dựa vào đó, thay đổi cách nhìn và cách làm của mình. Đây là một trong những khác biệt cơ bản giữa một chế độ độc tài và một thể chế dân chủ. Người lãnh đạo trong một chế độ độc tài không thể công nhận là mình sai lầm, người dân không thể công nhận là mình đã sai lầm về lãnh đạo độc tài của mình, và sự thể này tạo ra một sự xơ cứng ở mức cơ bản, có nghĩa là một chế độ độc tài không có khả năng thích ứng với những tình huống thay đổi. Họ phải tiếp tục hành xử y như trước mà cứ chờ đợi kết quả sẽ khác đi, và như con cũng biết Einstein đã từng nói, đó chính là một hình thức điên rồ. Họ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ cứ đi xuống mãi cho tới khi một biến cố xảy đến, một biến cố gây sốc đến độ nó sẽ đập tan sự phủ nhận của họ. Có thể biến cố đó là một thảm bại toàn diện như con thấy trong trường hợp Đức quốc xã. Đó có thể là sự phơi bày những dã man khủng khiếp như con thấy với Đức quốc xã và cuộc diệt chủng người đạo Do Thái. Hay đó có thể là hiểm họa một sự sụp đổ kinh tế toàn diện như con thấy trong trường hợp Liên Xô.

Con cũng thấy đôi khi một chế độ độc tài có thể chuyển hướng và bước vào một vòng xoắn ốc hướng thượng. Con đã thấy Đế chế Anh đã phải tự xét mình như thế nào do tấm gương của Gandhi và phong trào bất bạo động, và vì thế họ đã chuyển đổi từ cách cư xử chuyên chế đối với Ấn Độ sang nhận thức là họ không thể tự xưng là một nền dân chủ ở trong nước mà lại hành xử độc tài ở ngoài nước. Con đã thấy nước Đức chuyển đổi từ một quốc gia độc tài dưới Hitler thành một quốc gia dân chủ. Gần đây con thấy nước Đức nhìn nhận là chính sách của họ đối với Nga và Putin là một sai lầm và họ sẵn sàng thay đổi. Con cũng thấy các nước dân chủ khác nhìn nhận là họ đã đánh giá sai về Putin cùng tình hình ở Nga và họ cũng sẵn sàng thay đổi theo đó. Nhưng con cũng thấy một số nước dân chủ chưa sẵn sàng làm chuyện đó.

Uyển chuyển có nghĩa là sống còn

Dù sao đi nữa, điều ta muốn nêu ra ở đây là ta đã từng đầu thai trên trái đất rất nhiều ngàn năm trước khi hiện thân là Phật Gautama. Ta đã không là Phật trong suốt thời gian đó – ta chưa chứng được tâm thức Phật nhưng ta đã đầu thai trong một thời gian rất dài. Ta thăng thiên cách đây 2500 năm và kể từ đó, ta đã là một chân sư thăng thiên trong tâm thức Phật. Ta có một kinh nghiệm rất dài, một cái nhìn vô cùng dài hạn về địa cầu. Điều này có nghĩa là khi nói về xã hội, ta biết cái gì có thể sống còn và cái gì không thể sống còn. Và quả thực, cái duy nhất có thể sống còn là khả năng thích nghi, tính linh hoạt uyển chuyển, sự sẵn lòng thay đổi. Không chỉ thay đổi chiều ngang mà thay đổi chiều dọc, thay đổi trong sự thăng vượt mức tâm thức cũ của mình.

Bất cứ ai có cái nhìn dài hạn như ta đều có thể thấy sự tiến bộ là một đòi hỏi tuyệt đối, không chỉ trên địa cầu mà khắp mọi nơi trong vũ trụ. Thăng vượt trạng thái cũ, tiến lên một trạng thái cao hơn, đó chính là nền tảng để sống còn. Con cũng có thể thấy được điều này khi con nhìn vào lịch sử, nhìn xem những xã hội đã ra đời và biến mất như thế nào. Con có thể nhìn vào các loài động vật và dòng tiến hóa. Tại sao loài khủng long lại tuyệt chủng? Vỉ chúng không thể thích nghi. Thật sự con có thể thấy, đây chính là một định luật tự nhiên. Tất nhiên, đây cũng là một định luật tâm linh nhưng con có thể nhìn hoàn toàn trung hòa và gọi đó là một định luật tự nhiên. Khi xã hội trở nên xơ cứng, thiếu uyển chuyển và từ chối thích ứng, xã hội đó sẽ không thể bền vững trong thời gian. Nó có một thời hạn, một thời điểm hết hạn. Điều gì khiến cho một xã hội trở nên xơ cứng? Khi người ta không thể nhìn nhận, không nhất thiết rằng mình sai lầm, mà người ta không thể nhìn nhận là mình có khả năng làm tốt hơn những gì mình đang làm.

Sự sụp đổ của các nền văn minh và sức kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ

Tiến tới cái tốt đẹp hơn là một định luật. Tất nhiên, dựa theo lịch sử ghi chép thì con không nhất thiết thấy được là đã từng có những thời đại trong quá khứ khi toàn bộ hành tinh rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khiến cho các nền văn minh bị sụp đổ. Một hành tinh như địa cầu hoàn toàn có khả năng rơi vào một vóng xoáy hướng hạ và đi ngược lại định luật tự nhiên của sự tự thăng vượt tuần tự. Nhưng hiển nhiên biến cố đó cũng đã gây ra sự sụp đổ cho các nền văn minh, sự hủy diệt của các nền văn hiến và dân số bị suy giảm xuống một mức rất thấp so với ngày nay. Tình trạng này tất nhiên không thể duy trì mãi, và đã tới một điểm khi không còn nơi nào thấp hơn để đi xuống và vòng xoáy hướng hạ đã chạm đáy.

Thế rồi lực kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ bắt đầu vực địa cầu lên trở lại, và lần hồi loài người lại đáp ứng, tạo nên một động lượng đi lên. Có những thế lực hoạt động chống lại một động lượng đi lên như vậy và chúng có thể phần nào thành công dựng lên những đế quốc tạm thời chặn đứng sự tăng trưởng. Và mặc dù đôi khi chúng có thể kéo dài cả ngàn năm nhưng chúng không thể tồn tại mãi mãi.

Và ngay cả nếu con nhìn vào lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy tuổi thọ của những đế quốc như vậy rõ ràng ngày càng ngắn ngủi hơn. Đế chế La Mã sống sót được khá lâu. Đế chế Công giáo La Mã sống sót được một thời gian. Đế chế Nga hoàng, các vị vua tại Âu châu, các vương quốc châu Âu, cũng sống sót một thời gian, nhưng con thấy ngày càng ngắn hơn. Rồi con chứng kiến các lãnh tụ với tham vọng chinh phục toàn thế giới, như Napoleon thành công một thời gian nhưng không được bao lâu. Con thấy Hitler cũng thành công một thời gian nhưng rất ngắn ngủi. Con thấy là lãnh đạo càng hành xử bạo ngược bao nhiêu thì tuổi thọ của chế độ càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Liên bang Sô viết sống sót được như vậy là vì họ tránh được chiến tranh lạnh trở nên quá nóng. Putin đã kéo dài được như vậy cũng là vì ông đã tránh vượt qua lằn ranh đó. Nhưng bây giờ lằn ranh đã bị vượt qua thì không có đường nào để quay trở lại được nữa.

Một nhận biết mới tại các quốc gia phi dân chủ

Đây là một điểm mà nhiều người có thể nhận biết và nắm bắt được, không những tại các nước dân chủ mà cả các nước phi dân chủ. Có một động lượng đang được vun đắp trong tâm thức tập thể, đó là: Rất, rất nhiều người tại các nước phi dân chủ đã hiểu ra – đột nhiên mà không cần suy nghĩ gì đặc biệt – rằng họ cũng đang mang các nhược điểm nói trên trong quốc gia của họ, trong chính quyền cũ và trong các chế độ độc tài. Họ bắt đầu thấy được là mình đang ở trong một vòng xoắn ốc tự hủy diệt không thể kéo dài lâu hơn. Và nếu xã hội của họ muốn tránh khỏi phần nào bị đổ vỡ thì phải có một sự thay đổi.

Có những người tại Trung quốc thấy được là một cuộc xâm lăng Đài Loan sẽ là một hành động tự sát đối với đảng Cộng sản và thiểu số tự tôn quyền lực Trung quốc. Có những người tại các nước Ả rập thấy được là không thể nào kéo dài tình trạng đạo Hồi chi phối chính quyền đến mức đó. Có những người tại một số nước khác thấy được là âm mưu của một số lãnh đạo nhằm khuynh đảo và phá hoại nền dân chủ, cũng như tự trao cho mình những quyền hạn vi hiến, là không bền vững. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ hiển nhiên của tệ trạng này. Đổi tên thôi thật không đủ mà cần đổi cả cách hành xử, có nghĩa là cần đổi người cầm đầu ở trên cùng.

Hẳn là có một động lượng như vậy đang được bồi đắp ở hạ tầng nhưng hầu như chưa được người ta nhìn thấy hay công nhận – một động lượng hướng tới việc nhận thức rằng đau khổ không phải là một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Đau khổ phần lớn do con người tạo ra, và nó được tạo ra bởi những kẻ chiếm đoạt bằng vũ lực, những kẻ biện minh cho bạo lực và nhất định không thừa nhận là mình sai lầm. Chính sự xơ cứng đó, chính sự kháng cự lại nhu cầu phải thích nghi và thay đổi, là nguyên nhân thực sự của hầu hết mọi khổ đau có mặt trên địa cầu. Hay nói cách khác, đó là động lực chủ yếu làm khuấy động biển luân hồi.

Chìa khóa để khắc phục đau khổ con người

Như ta có nói, động lượng hướng thượng đã phần nào do các học trò của chân sư thăng thiên xây dựng lên, phần nào do rất nhiều Phật tử suốt 2500 năm qua đã cố gắng hiện thân những lời dạy mà ta truyền giảng, phần nào do rất nhiều tín hữu Cơ đốc đã cố gắng hiện thân những lời dạy của Giê-su, và phần nào cũng do rất nhiều người tại các nước dân chủ lẫn phi dân chủ đã suy ngẫm về sự khác biệt giữa chế độ độc tài và thể chế dân chủ. Họ đã suy ngẫm: “Tại sao lại có đau khổ con người? Đâu là nguyên nhân? Có thể làm gì được để giảm bớt, thậm chí loại bỏ, đau khổ con người? Có thể nào trừ hẳn mọi đau khổ con người?” Nhiều người đã đặt ra câu hỏi đó. Một số đã kết luận là chuyện đó không thể làm được, vì họ không thấy được làm thế nào. Nhưng một số đã suy ngẫm là chuyện đó phải có cách làm được. Họ có thể trực nhận, hoặc có thể họ biết được từ tiền kiếp, hay trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai, rằng có cách giảm bớt, loại bỏ, giải quyết đau khổ con người.

Nói cho cùng, chẳng phải đó là những gì Phật đã nói hay sao? Chẳng phải là những gì Giê-su đã nói? Chẳng phải là những gì nhiều tôn giáo khác và nhiều phong trào tâm linh khác cũng đã nói? Có cách vượt qua đau khổ. Một số sẽ bảo, người ta chỉ thoát được đau khổ sau khi nhắm mắt bỏ lại cõi đời này. Nhưng nhiều người khác, đặc biệt trong thời đại hôm nay, bắt đầu tự hỏi: “Hẳn là phải có cách nào thoát khỏi khổ đau ngay trong thế giới này chứ?” Điều mà nhiều người trong số đó bắt đầu cảm nhận là con người có khả năng thoát khỏi khổ đau không qua một phương thức vỏ ngoài, không bằng cách tạo dựng một xã hội lý tưởng hay không tưởng. Vì nói cho cùng, đau khổ xảy ra ở đâu? Con có thể bảo rằng nếu con ngã ngựa và gẫy chân thì có một cơn đau vật lý khiến con đau khổ. Nhưng đau khổ đó được trải nghiệm ở đâu? Trong tâm con. Khi con được tiêm một mũi thuốc tê để làm dịu cơn đau, liệu thuốc tê có ảnh hưởng gì trên cái chân gẫy của con? Hay là thuốc tê ảnh hưởng đến bộ não cảm nhận cơn đau vật lý?

Nhưng xa hơn cơn đau vật lý, tất nhiên còn có trải nghiệm tâm lý về nỗi đau, và đây chính là đau khổ. Cơn đau, nỗi đau vật lý, ngay cả khi được trải nghiệm bởi bộ não, không thật là đau khổ, bởi vì đau khổ không là cùng một thứ như cơn đau. Cơn đau có thể gây ra hay kích hoạt đau khổ, nhưng tự thân cơn đau không phải là đau khổ. Đau khổ là một trải nghiệm của tâm. Nó có thể bao gồm một số yếu tố nhưng luôn luôn có yếu tố này: “Đúng ra tôi không được cảm thấy cơn đau này. Đúng ra tôi không phải trải nghiệm điều kiện này. Đúng ra những người kia không được hành xử như vậy với tôi.” Luôn luôn trong tâm có một ý niệm rằng chuyện đó đúng lý không được xảy ra. Nhưng bởi vì nó đang xảy ra và con không thể làm cho nó biến mất, cho nên đó là cái gây ra đau khổ.

Nhiều người ít ra đã bắt đầu ngờ ngợ và cảm nhận được là đau khổ diễn ra trong tâm, có nghĩa là mặc dù nó có thể được những yếu tố bên ngoài kích hoạt, nhưng nguyên nhân thực sự của đau khổ phải nằm bên trong. Và điều này có nghĩa là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là làm việc trực tiếp trên tâm mình. Chắc chắn các xã hội dân chủ đã cố gắng tạo ra một môi trường nơi các công dân không phải trải nghiệm rất nhiều điều kiện vỏ ngoài thường hay gây ra đau khổ hay kích hoạt đau khổ. Có nhiều người lớn lên trong một xã hội dân chủ đã sống cả đời mà không phải trải nghiệm những loại tình huống vật lý khắc nghiệt đó. Thế nhưng nhiều người vẫn đau khổ. Họ đau khổ mặc dù họ không có lý do vật lý nào để đau khổ, nhưng họ có một lý do tâm lý gây ra đau khổ.

Các nền dân chủ đã chứng minh là cho dù người dân được cung cấp những điều kiện vật chất lý tưởng, điều này vẫn không loại bỏ được đau khổ. Giờ đây đã rõ ràng là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là phải làm việc trên tâm. Và như con cũng biết, đó chính là điều ta đã nói cách đây 2500 năm. Đó là điều Giê-su đã nói cách đây 2000 năm. Và đó cũng là điều mà Khổng Tử và Lão Tử cùng bao nhiêu vị sứ giả tâm linh khác đã nói rất nhiều lần trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thường người ta đã không lắng nghe các vị đó, bởi vì mặc dù người ta có thể nghe được lời dạy vỏ ngoài nhưng người ta không thể hoàn toàn thể nhập được lời dạy. Nhưng ngày nay chúng ta đã tiến gần hơn đến một thời đại khi càng ngày sẽ càng có nhiều người có khả năng nắm bắt lời dạy, nắm bắt nội dung thực sự của lời dạy, và đó là: Chìa khóa để vượt qua đau khổ nằm trong tâm con người.

Con có thể toan tính tạo dựng một xã hội không tưởng, và con có thể toan tính tạo dựng một xã hội lý tưởng, nhưng con sẽ không bao giờ giảm thiểu được đau khổ. Con thấy được điều gì trong một xã hội dựa trên vũ lực với một chính quyền dựa trên vũ lực? Con thấy đau khổ ở một mức cao trong loại xã hội đó. Người dân trong Liên bang Sô viết rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào thời đó. Người dân ở Nga trước cuộc xâm lược rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào lúc đó. Người dân ở Nga sau cuộc xâm lược rõ ràng đang đau khổ hơn người dân tại Tây Âu.

Con thấy đó, trong một xã hội dựa trên vũ lực, với một chính quyền dựa trên vũ lực, người dân đau khổ hơn. Trong một quốc gia dân chủ, người dân đau khổ ít hơn, nhưng họ vẫn đau khổ. Và đau khổ của họ cũng khác. Họ không đau khổ do hệ quả của những điều kiện vỏ ngoài, nhưng giờ đây càng ngày họ sẽ càng đau khổ do những điều kiện tâm lý. Chúng tôi đã từng giải thích nguyên nhân của sự thể này, rằng những ai đã từng trải qua chấn thương trong tiền kiếp sẽ có xu hướng muốn đầu thai, nếu có thể, trong một quốc gia dân chủ nơi họ có cơ hội tốt hơn để giải quyết tâm lý chấn thương của họ.

Con không thể loại bỏ đau khổ bằng vũ lực

Nhưng dù sao thì điểm ta muốn nói ở đây là con cần tự hỏi, chủ yếu tại các nước dân chủ nhưng cũng ở mọi nước khác: Đâu là mục đích của xã hội chúng ta? Con có thể nhìn vào các chế độ độc tài và thấy được mục đích của độc tài là để cung cấp cho nhà độc tài cùng thiểu số thượng lưu quyền lực đang ủng hộ ông ta tất cả những gì mà họ thèm khát – cảm giác quyền lực, cảm giác mình cao trội, cảm giác mình đặc biệt, cảm giác mình giàu có, cảm giác mình có nhiều đặc quyền, bất kỳ … Nhưng toàn bộ xã hội đó đặt trên nền tảng sự tước đoạt bằng vũ lực mà thiểu số độc tôn quyền lực này đã áp đặt lên dân chúng.

Rõ ràng là khi con có một xã hội dựa trên vũ lực nơi đa số dân chúng gần như làm nô lệ cho một thiểu số thượng lưu, thì dân chúng sẽ phải khổ đau. Sẽ không thiếu gì những điều kiện bên ngoài khiến cho dân chúng khổ đau vì họ sẽ cảm thấy là chuyện đó không phải phép, rằng đúng ra họ phải có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đúng ra họ không được bị kềm kẹp đến như vậy, đúng ra họ không được bị chà đạp, vân vân. Nhưng như ta vừa giải thích, thật sự không có ai đau khổ bằng chính nhà độc tài cùng nhóm tay sai của ông ta. Họ mới là những người đau khổ nhiều nhất.

Con có thể nói được như thế này: Một xã hội dựa trên vũ lực không phải là một xã hội có mục đích chấm dứt, hay ngay cả giảm thiểu, đau khổ của con người, và cho dù nó có muốn biết mấy thì nó cũng sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu đó. Con không thể loại trừ đau khổ bằng vũ lực. Vũ lực sẽ chỉ tạo thêm đau khổ. Và tất nhiên, đau khổ cũng tạo thêm vũ lực, bởi vì những người có tư duy đó sẽ nghĩ rằng nếu họ đang đau khổ thì hẳn phải có một nguyên do vỏ ngoài nào đó, và nếu họ dùng vũ lực để tiêu diệt nguyên do đó thì họ sẽ hết đau khổ. Thế nhưng nỗ lực tiêu diệt nguyên do sẽ chỉ gây ra thêm nhiều khổ đau, và như thế họ rơi vào cái vòng xoắn ốc không bao giờ ngừng lại mà sẽ chỉ ngày càng cuồng nhiệt hơn, cho tới khi họ không thể sống còn về mặt tâm lý, thậm chí cả về mặt vật lý.

Con không thể loại bỏ đau khổ qua phúc lợi vật chất

Khi con nhìn vào các nền dân chủ, con có thể nói được điều gì về dân chủ? Con có thể nói đó là những xã hội có mục đích giảm thiểu tối đa đau khổ con người, giảm thiểu tối đa đau khổ của quần chúng nói chung. Thậm chí con có thể nói rằng mục đích cao hơn của một nền dân chủ là loại bỏ đau khổ con người. Nhưng điều chúng tôi đang chỉ ra cho con qua loạt bài giảng này là điều đó không thể nào thực hiện được, bất kể xã hội vỏ ngoài mà con tạo dựng có tốt đẹp đến đâu. Bất kể các điều kiện vật chất có tốt đẹp thế nào, bất kể người dân có tự do chừng nào, bất kể cuộc sống có dễ dàng biết mấy, thì điều đó cũng không loại bỏ được khổ đau bởi vì nguyên nhân đau khổ nằm trong nội tâm. Như chúng tôi đã có nói, bước lô-gíc kế tiếp cho các nền dân chủ tân tiến là cần chú tâm vào sức khỏe tâm lý, phúc lợi tâm lý, thay vì phúc lợi vật chất.

Đây rõ ràng là thêm một bước tiến, một bước lô-gíc và tự nhiên trong tiến trình mà các nền dân chủ hiện đại đi qua – ít ra là các nền dân chủ đã phát triển cao nhất trong tiến trình dân chủ. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là họ phải công nhận một giáo lý tâm linh hay sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, nhưng họ thực sự cần khám phá ra một số nguyên lý phổ quát về tâm lý con người rồi đem ra áp dụng.

Con có thể nói giống như các thày cũng đã nói, vấn đề quan trọng thực sự cho dân chủ là con người, chứ không phải là tư tưởng, hay lý thuyết, hay chủ nghĩa. Điều thực sự quan trọng cho dân chủ là quần chúng nói chung, chứ không phải một thiểu số thượng lưu. Và một bước cao hơn trong mục đích của dân chủ chính là giảm thiểu nỗi khổ đau của dân chúng. Hiển nhiên, đây là một điểm mà càng ngày sẽ càng có nhiều người xét đến, nắm bắt, công nhận, rồi họ sẽ nói đến, sẽ viết lách. Là học trò trực tiếp của chúng tôi, các con là một thành phần của tiến trình này khi các con nâng cao tâm thức của mình, khi các con đọc thỉnh đọc chú, khi các con tu học giáo lý, nhưng ngoài các con ra thì còn rất, rất nhiều người khác.

Tạo vòng xoáy hướng thượng cho mọi người

Như chúng tôi có giảng mấy lần trong các đợt truyền pháp trước, học trò của chúng tôi đã có nhu cầu cảm thấy chỉ có mình mình đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain. Nhưng như con đủ trưởng thành để nhận ra, đó chỉ là một cái nhìn ngây thơ. Muốn thay đổi thế giới phải cần đến rất, rất nhiều người. Con có thể là người đi tiên phong, là mũi nhọn của ngọn giáo, nhưng con không thể làm chuyện đó một mình. Thật là ngây thơ mà nghĩ như vậy. Cho nên mấy lần rồi chúng tôi đã yêu cầu các con xoay chuyển, tức là các con không làm những gì con đang làm để nâng mình lên thành người đặc biệt, vì khi con mang tư duy đó thì con sẽ rất dễ dàng mở cửa ra cho chất độc tâm linh của ganh tị và ghen ghét. Chất độc này khiến con làm gì? Con muốn chỉ có mình con thực hiện một điều gì tích cực cho Saint Germain. Con không muốn mọi người ở ngoài kia hoà điệu với tư tưởng của các chân sư rồi đem ra áp dụng vì họ sẽ tước mất công lao của con. Trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã có lối tư duy như thế, cũng như trong nhiều phong trào tôn giáo lẫn tâm linh.

Nhiều đạo sư vẫn còn mong muốn nâng cao bản thân mình và họ truyền mong muốn đó cho đệ tử của họ. Chúng tôi yêu cầu các con hãy bước lên một mức trưởng thành cao hơn, buông nó ra để nắm lấy viễn kiến rằng tất cả những ai có tiềm năng hòa điệu với các ý tưởng nói trên, tiềm năng đem vào thực hiện và thay đổi thế giới, sẽ ra tay làm chuyện đó. Họ sẽ đạt được thành công tối đa như trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Bởi vì thật sự, con yêu dấu, khi con đạt đến một mức cao hơn của quả vị Ki-tô, con sẽ thấy việc người khác hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của họ hiển nhiên không thể ngăn trở chính sứ vụ thiêng liêng của con. Ngược lại là đằng khác, người khác càng thành công bao nhiêu thì chính con cũng thành công bấy nhiêu, vì con là một phần của tổng thể, và chỉ bằng cách nâng cao tổng thể đó thì con mới nâng cao chính con một cách tối đa. Điều này con sẽ thấy là chuyện đương nhiên một khi con đạt đến một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Con hiểu ra cái quan trọng nhất không phải là con như một sinh thể tách biệt. Cái quan trọng nhất là cái ta rộng lớn hơn của tất cả những ai đã bước vào vòng xoáy hướng thượng. Nói cho cùng, đó là toàn bộ nhân loại, vì tất cả mọi người đều có thể được vòng xoáy hướng thượng đó kéo lên, ngay cả khi họ chưa tích cực neo chặt và chưa gia tốc vòng xoáy đó.

Thành công to lớn của hội nghị này

Hội nghị này – và ta không nói điều này để khiến con cảm thấy mình đặc biệt, nhưng con xứng đáng nhận được một sự lượng định thực tiễn – hội nghị này đã có một tác động đáng kể do thời điểm của nó. Do sự xoay chuyển, sự thức tỉnh mà liều thuốc gây sốc của Putin đã kích hoạt, hội nghị này, các bài truyền đọc của chúng tôi, những lời kêu gọi của các con, nỗ lực thể nhập và lắng nghe bài truyền đọc của các con, đã có một tác dụng to lớn hơn rất nhiều so với bình thường.

Con có thể nói: “Nhưng các thày đã có thể, nói chung, ban ra cùng những bài giảng này cách đây sáu tháng.” Các con đã có thể đọc, không cùng những bài thỉnh nhưng những bài thỉnh quyền năng hơn, và chúng ta đã có thể tổ chức một hội nghị về dân chủ và quả vị Ki-tô vào mùa thu [Bắc bán cầu]. Nhưng bởi vì tâm thức tập thể lúc đó ở trong một tình trạng bế tắc cho nên một hội nghị vào thời điểm đó sẽ không thể nào có được tác dụng mà nó có bây giờ. Trong hội nghị này, các con đã tác dụng thật to lớn để định hướng một tâm thức tập thể bị lâm vào rối loạn – một tâm thức tập thể chứa đựng rất nhiều năng lượng nhưng lại thiếu sót một hướng đi. Tuy đã có một đường hướng nào đó vì như chúng tôi có nói, quả thật các quốc gia dân chủ đã phản ứng ở mức độ cao hơn là chúng tôi chờ đợi, nhưng hướng đi vẫn thiếu sót và các con đã cống hiến được một lực đẩy. Lực đẩy này, nếu người ta chịu nắm lấy, có thể sẽ kết tụ thành những viễn quan mới, những đường hướng mới và một niềm quyết tâm mới. Về điểm này, các con xứng đáng được chúng tôi biết ơn.

An bình đến từ thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được”

Có lẽ con đã nhận diện ra chúng tôi là những sinh thể uyển chuyển, linh hoạt tột bậc. Điều này sẽ khiến cho một số hoc trò của chúng tôi ngạc nhiên vì họ tưởng chúng tôi bất biến. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi bình đẳng ở mức tâm thức của mình mặc dù vẫn luôn luôn tự thăng vượt như chúng tôi đã có nói. Nhưng chúng tôi uyển chuyển một cách vô biên trong việc giúp đỡ loài người trên địa cầu. Bất kỳ trong hoàn cảnh nào, bất kỳ chuyển đổi nào trong các điều kiện trên địa cầu, chúng tôi cũng luôn luôn tìm cách tận dụng để khởi xướng tăng triển. Chắc chắn chúng tôi sẽ ưa thích hơn nếu cuộc chiến này đã không xảy ra. Nhưng giờ đây nó đã xảy ra thì chúng tôi không nhìn cuộc chiến với chút tiếc nuối nào. Chúng tôi nói:”Làm thế nào giúp được mọi người tiến tới tử điểm này? Làm thế nào biến nó thành một cái gì tích cực, biến nó thành một cơ hội tăng triển sẽ thực sự đem lại tăng triển, để đưa hành tinh và những xã hội có thiện ý đó xích lại gần hơn với Thời đại Hoàng kim của Saint Germain?”

Tất nhiên đây cũng là một thái độ mà các con là học trò của chúng tôi có thể khoác vào. Vị sứ giả này, như ông có chia sẻ, đã bị chấn động khi cuộc chiến bùng nổ, nhưng ông đã làm việc trên bản thân cùng tâm lý của ông, và ông đã thay đổi thái độ. Một ý tưởng đã giúp cho ông là khi con nhìn vào trái đất ngày nay, con có thể thấy các điều kiện hiện hữu trên hành tinh kém xa những gì sẽ hiện hữu trong Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Chúng tôi đã ban ra nhiều lời dạy về Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, đủ để con thấy được là các điều kiện hiện hữu trên điạ cầu ngay bây giờ rất, rất thấp kém so với Thời Hoàng kim, và điều này có nghĩa là những cuộc thay đổi to lớn sẽ cần diễn ra trước khi thời đại đó có thể thực sự bắt đầu thị hiện.

Sứ giả này đã hiểu ra là cho tới giờ, ông đã có thái độ, có tư duy, ông đã hy vọng, đã mong mỏi, đã cầm giữ viễn kiến rằng những thay đổi đó sẽ diễn ra lần hồi và tuần tự, để không có những biến động quá lớn, chẳng hạn như chiến tranh, như bệnh dịch corona, như một sự sụp đổ kinh tế hay những biến cố khác giống như vậy. Ông cứ hy vọng sẽ được thấy cùng một loại tăng trưởng như ông đã chứng kiến gần như suốt đời và hầu hết các con cũng đã chứng kiến gần như suốt đời trong thế giới dân chủ tân tiến – tức là một sự phát triển lần hồi và ổn định không có cú sốc lớn.

Ông hy vọng như vậy. Nhưng khi ông xem xét tư duy đó, ông mới nhận ra: “Nhưng nếu sự thay đổi lớn lao cần thiết đó chỉ diễn ra thật tuần tự, thì chẳng phải là nó sẽ tốn rất nhiều thời gian trước khi thời hoàng kim có thể thị hiện hay sao?” Điều này đã khiến ông xoay chuyển tư duy, và ông nói: “Nếu vậy thì tôi có thể chấp nhận một số biến động to lớn, một số biến cố dữ dội có khả năng xoay chuyển tư duy, hầu chúng ta có thể biểu hiện thời hoàng kim sớm sủa hơn.” Tất cả các con đều có thể làm giống như vậy, không những vì nó sẽ gia tốc sự tăng triển bởi con không mang một viễn kiến khuyến khích sự tăng triển chậm chạp, mà cũng vì chính con có thể đạt được một niềm an bình lớn hơn khi các biến cố đó xảy ra.

Ta hoàn toàn không có ý giảm thiểu nỗi đau khổ của người dân Ukraine. Ta không đang nói rằng nếu con sống tại Ukraine thì con phải giữ được an bình giữa tất cả những gì đang xảy ra. Nhưng có rất nhiều các con, hầu hết các học trò của chân sư đang sống tại các quốc gia hòa bình hơn, các con có thể chọn lấy một trạng thái tâm an bình hơn. Các con chọn lấy thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được” thay vì lòng sợ hãi: “Ồ, chuyện này không được xảy ra, hay chuyện kia không được xảy ra.” Có nghĩa là khi một biến động lớn xảy đến, con sẽ không bị mất an bình. Con sẽ không bước vào trạng thái nhiễu loạn khi con nghĩ, giống như ngay cả sứ giả này trong những ngày đầu của cuộc chiến cũng nghĩ: “Ồ, chuyện này đúng lý không được xảy ra. Làm sao nó đã xảy ra được? Chuyện này không được xảy ra.” Thay vào đó, con bước vào thái độ: “Vậy à, chuyện đó đã xảy ra, làm thế nào chúng ta có thể dùng nó một cách tối ưu? Làm thế nào chúng ta có thể biến nó thành một bước tăng triển?” Làm như vậy sẽ giúp con đối mặt dễ dàng hơn với thời gian còn lại của con trong kiếp hiện thân.

Lời đề nghị của Gautama

Có thể sẽ có những sự xoay chuyển rất mãnh liệt. Chúng tôi không bao giờ nói rằng những cuộc xoay chuyển như vậy sẽ không xảy ra. Nhưng chúng tôi đã cố làm việc để đạt đến một nhịp tăng triển đều đặn hơn không đòi hỏi những cú sốc quá lớn trong Trường đời Cay đắng. Các con là những học trò trực tiếp, các con không ở trong Trường đời Cay đắng, cho nên các con có thể cố gắng đạt được một trạng thái tâm không bị xáo trộn khi người khác phải nhận chịu những cú giáng đó. Tâm này, ta mong muốn con có được. Ta hy vọng hội nghị này đã giúp con xích lại gần hơn với trạng thái an bình đó. Nếu không, ta trao cho con Ngọn lửa An bình Toàn vũ của ta sẽ dẹp yên những ý nghĩ lăng xăng đó. Con hãy đọc bài chú của ta, hay con có thể chỉ đọc đoạn lặp lại, gồm có bốn câu. Con có thể học thuộc lòng đoạn này rất nhanh chóng và con hãy đọc khi cảm thấy nhiễu loạn. Con hãy đọc khi con nằm trên giường vào buổi tối và thấy mình khó ngủ. Con chỉ cần lặp lại đoạn điệp khúc trong bài chú của ta:

Gautama, Lửa Hoà bình Hoàn vũ,
Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng,
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
Cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Ta giữ viễn kiến cho con là biển luân hồi sẽ được yên lắng trong tâm con. Và như vậy, ta niêm con trong Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta cũng như ngọn lửa biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên mà con đã lắng nghe hay đã cầu thỉnh trong suốt dịp hội nghị tuyệt vời này.

Thử thách của con là giải quyết bí ẩn của quyền tự quyết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 31/12/2021. Đăng ngày 3/1/2022.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui cho tất cả các thày, các chân sư thăng thiên, được dõi nhìn các con, các đệ tử trực tiếp của các thày, trong suốt năm vừa qua. Rất nhiều người trong số các con đã sử dụng giáo lý của các thày và đã có những tiến bộ vượt bực trên đường tu. Thường khi, có thể thày không là người đầu tiên ban lời khen ngợi, nhưng dù sao thì thày muốn ghi nhận bước tiến này – bước tiến đã rất đáng kể đối với nhiều người trong số các con đã dùng những lời dạy này.

Khi thày nói tiến bộ tâm linh, tất nhiên là thày muốn nói đến sự tiến bộ trong việc giải quyết tâm lý của con, là tâm lý đang buộc chặt con lại với địa cầu, bởi vì đó chính là mục đích của tiến bộ tâm linh. Trước đây các thày đã có đề cập đến một tình thế oái oăm mà các thày gặp phải khi làm việc với con người trên trái đất. Thày Giê-su có nói là các thày giống như những nhân viên bán xe cũ, sử dụng kỹ thuật “nhử hàng thấp, mời hàng cao”. Để khiến con bước qua ngưỡng cửa, các thày phải đưa cho con một lời dạy hấp dẫn đối với con, sau đó các thày hy vọng là con sẽ có thể tiến xa hơn, tự điều chỉnh và nhận diện được mục đich thực sự của đường tu tâm linh.

Tất nhiên khi con nhìn địa cầu trong tổng thể, có một số đáng kể những người tự xem mình là tâm linh nhưng họ vẫn bước đi trên con đường vỏ ngoài, con đường công truyền. Họ nghĩ đó chỉ là chuyện sử dụng một kỹ thuật tâm linh, tìm hiểu một giáo lý tâm linh, học hỏi nó một cách trí thức, đi theo một vị đạo sư, thì một ngày kia họ sẽ tự động đạt đến cái mà họ xem là mục tiêu, cho dù mục tiêu đó là gì. Như các thày đã giải thich rất nhiều lần, tất nhiên chuyện đó không phải vậy. Đó là một ảo tưởng được khởi xướng bởi sa nhân, các thày giả muốn giam giữ con người kẹt lại địa cầu, kẹt lại dưới quyền kiểm soát của chúng.

Điều gì cho phép một thế lực nào đó – cho dù là con người hay những sinh thể ngoài hiện thân – nắm quyền kiểm soát trên con? Phải, ngoại trừ một nhà độc tài kiểm soát được thân xác của con thì đó chỉ có thể là một sự kiểm soát tâm lý. Vậy điều gì cho phép một ai đó kiểm soát tâm lý của con? Đó là một cái gì trong chính tâm lý con mà họ có thể sử dụng để kiểm soát con. Ông hoàng của thế gian nắm được trong con một cái gì đó để y sai khiến con. Y có thể bắt con làm những điều y muốn con làm. Y có thể khiến con phản ứng, giống như lũ quỷ Mara đã mưu toan khiến thày phản ứng lại khi thày sẵn sàng nhập Niết bàn.

Tại sao con không sẵn sàng bước vào Niết bàn chứ? Vì lũ quỷ Mara nắm được một phản ứng nơi con mà chúng có thể dùng để kéo con vào vở tuồng, như thày đã giảng dạy hồi năm ngoái. Điều gì lôi kéo và khiến con tập trung vào vở tuông đang được trình diễn trên địa cầu? Có một dính mắc nào đó. Nhiều người trong các con đã nghe nói về “dính mắc”, có người đã nghe nói nhiều năm rồi, nhưng liệu con đã nắm bắt được dính mắc thật sự là gì chăng?  

Thế nào là một dính mắc? Con thử lấy tình cảnh được mô tả trong kinh Tân ước. Có một thanh niên kia đến với Giê-su, nói: “Thưa thày, con thực sự muốn đi theo thày, nhưng trước tiên xin thày cho phép con đi chôn cha con đã.” Giê-su nói với anh: “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Rồi có một tình cảnh khác khi Giê-su bước đến các môn đồ tương lai của thày đang vá lưới đánh cá, và thày nói: “Hãy bỏ lưới lại và đi theo ta.” Chàng thanh niên kia muốn chôn cha mình thì bị dính mắc vào một loại phong tục tập quán. Và nếu các môn đồ kia không chịu rời bỏ lưới cá của họ ngay tức khắc thì đó cũng là vì họ có dính mắc.

Nói cách khác, vị thày tâm linh luôn luôn tìm cách thực hiện điều gì? Đó là giúp con chuyển dời từ tầng tâm thức của con ngay bây giờ để bước lên tầng tâm thức cao hơn một bậc. Cho nên vị thày sẽ luôn luôn đến và nói: “Con hãy bước với thày lên tầng kế tiếp.” Nếu trong con có cái gì đó mà con dính mắc, con sẽ trả lời: “Ồ, con sẽ đi theo thày, nhưng trước tiên con phải làm xong việc này hay việc nọ cái đã.” Con không thể theo thày được, và có thể con sẽ nói: “Nhưng chắc hẳn con sẽ có thể theo thày sau đó.” Tất nhiên là con có thể, các thày không bảo là hoặc có hoặc không – phải ngay bây giờ hay không bao giờ.

Nhưng mặt khác, liệu con có xét xem con có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng? Liệu con có xét xem trong Sứ vụ Thiêng liêng đó, khi con hoạch định kiếp đầu thai sắp tới của con – tức kiếp này đây – chính con đã có một viễn quan cao hơn. Con đã định ra một muc tiêu, và con thấy được là để đạt mục tiêu mà con định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phải kinh qua một tiến trình, vì con sẽ phải chuyển từ mức tâm thức sẵn có khi con bước vào hiện thân, để vươn lên mức tâm thức cần thiết cho việc hoàn thành mục tiêu trong Sứ vụ của con.

Con cũng định ra một mốc thời gian, và con nói, lý tưởng nhất con muốn đạt mục tiêu trước khi con mãn kiếp đầu thai này, hoăc ở một thời điểm nhất định nào đó, một độ tuổi nào đó. Cho nên con không có nhiều thì giờ để do dự lần lữa, đi lạc đường hay chui vào ngõ cụt đâu con. Con đã có một thời khóa biểu mà con định ra cho chính mình. Khi vị thày đến với con, thày không đến bởi thày muốn ép uổng gì con. Thày đến là vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã muốn thày đến nhắc nhở cho con là đã tới lúc con cần bước đi. Cho nên nếu bấy giờ con nói: “Ồ, xin thày để yên con một lúc, con đang bận đây,” không phải là con đang thất hứa với thày mà con thất hứa với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên đó là tại sao tất cả các con sẽ được ích lợi rất nhiều nếu các con ghi nhớ rằng: “Tôi đã định ra những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Tôi đã muốn thực hiện những điều gì trong kiếp này?”  

Khi đó, con có thể nhìn vào bản thân và nói: “Tôi thấy là trong hai ba năm vừa qua, tôi đã trở nên dính mắc với một số quan điểm, một số vấn đề đã chiếm mất quá nhiều sự chú ý của tôi. Thực sự chúng đã hút mất một khối năng lượng đáng kể, cả về lý trí lẫn tình cảm, vì tôi đã nghĩ ngợi quá nhiều về các vấn đề này rồi cứ nghiền đi nghiền lại, duyệt qua đủ loại kịch bản trong tâm trí mình và cố thuyết phục người khác là mình đúng. Tôi mang quan điểm thật dứt khoát về các vấn đề đó.” Nếu con nhận thấy tâm trạng này trong con, con có thể nói: “Liệu chuyện này sẽ giúp hay sẽ ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Liệu chuyện này sẽ giúp mình tiến gần hơn đến mục tiêu, hay nó sẽ khiến mình bị kẹt lại một mức tâm thức nào đó? Vậy đây có phải là một dính mắc hay không?”

Và rồi có lẽ con sẽ có một căn bản tốt hơn để quyết định: “Bây giờ đã đến lúc tôi buông nó ra. Bởi vì so với Sứ vụ Thiêng liêng, liệu vấn đề này sẽ quan trọng lắm không, cho dù là nó thế này, thế kia hay thế nọ? Nó quan trọng thế nào? Liệu tôi sẽ nói được với Giê-su: Chuyện này có là gì đâu đối với con, vì con sẽ bước theo thày.”

Liệu con sẽ nói được với vị thày: “Con sẽ đi theo thày. Con sẽ bỏ lại lưới cá của con. Con sẽ để yên cho những người chết đi chôn người chết. Con sẽ để yên cho những kẻ chết bàn cãi, tranh luận về vấn đề này hay vấn đề nọ. Con sẽ chỉ BUÔNG nó ra và chuyển bước đi tiếp.”

Đây là điểm khác biệt giữa những người có thể tận dụng một vị thày tâm linh và những người không thể. Đó là điểm khác biệt giữa những ai sẽ đạt được mục tiêu và những ai không đạt được. 

Nếu con so sánh đợt truyền pháp này mà các thày đã ban truyền qua sứ giả này, với đợt trước qua tổ chức Summit Lighthouse, con sẽ thấy là nhiều người trong Summit Lighthouse đã ý thức rõ ràng hơn nhiều rằng cốt yếu của đường tu tâm linh là kỷ luật, là đi theo vị thày, tuân lời đạo sư, nhắm theo một hướng nhất định nào đó. Họ đặt trọng tâm nhiều hơn vào mục tiêu.

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã không đặt áp lực nào lên các con. Các thày đã để yên cho con tự ý chọn cách thi hành lời dạy, định ra tốc độ thăng tiến của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là cách tiếp cận này hay hơn cách trước. Chỉ là hai cách tiếp cận khác nhau mà thôi, vì khi con nhìn vào Summit Lighthouse, con sẽ thấy rất nhiều thành viên có mục tiêu rõ ràng, họ rất kỷ luật, rất quyết chí trong tâm vỏ ngoài để dành ra rất nhiều giờ đọc chú mỗi ngày, để thi khảo hạch và nhiều thứ khác. Nhưng họ đã không thực sự tinh tiên nhiều lắm vì họ vẫn còn dính mắc. Họ dính mắc với cách thức làm việc, họ cũng dính mắc với một số quan điểm cứng nhắc, kể cả quan điểm về tầm quan trọng của bản thân họ trong vai trò đệ tử tâm linh đang đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain theo cách nhìn của họ.

Phương pháp mà các thày sử dụng thật không quan trọng mấy, vì không có gì bảo đảm là học viên sẽ đáp ứng. Chuyện này tùy thuộc vào học viên có đáp ứng hay không. Con thấy chẳng hạn, sứ giả này đã không tự xưng mình là đạo sư, ông đã không quy tụ một nhóm tín đồ chung quanh ông và bảo họ rằng: “Phải làm cái này, phải làm cái kia.” Nhưng ông đã làm gương cho con. Ông rất chuyên chú nhắm đến mục tiêu. Khi ông khám phá con đường tâm linh, khi ông tìm ra các giáo lý, ông đã tỏ ra rất chuyên cần. Cách đây rất lâu rồi, ông đã tới điểm là ông quyết định làm việc trực tiếp trên tâm lý của ông. Ông rất kỷ luật, rất sẵn lòng xem xét tâm lý mình, học tập giáo lý cùng sách vở. Ông rất sẵn lòng nắm lấy các giáo lý được ban truyền qua trung gian chính ông và ông không lý luận: “Ồ, lý do tại sao các chân sư truyền giáo lý này xuyên qua tôi là vì tôi đã vượt xong tất cả các khai ngộ đó rồi.” Ông đã không cho phép mình suy luận như thế. Trái lại, ông nắm lấy các lời dạy, soi vào gương và nói: “Những lời này áp dụng cho tôi như thế nào?”

Tất nhiên, tất cả các con đều có cùng tiềm năng như vậy. Các thày không đang tâng ông lên mà thật sự các thày muốn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng làm được.” Liệu con quyết tâm như thế nào để hoàn thành những mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này? Con cảm thấy mình đã hoàn thành được tới đâu? Liệu con có sẵn lòng tự hỏi, hay hỏi một chân sư, hay hỏi một vị Thượng sư? Vào ngày 2 tháng 1 tới đây, các con sẽ tiếp tục khóa canh thức với các Thượng sư, liệu con có sẵn lòng hỏi thày Lanto và sau đó các Thượng sư kia rằng: “Xin thày chỉ cho con thấy con đang ở điểm nào trên đường tu. Liệu con có bị trễ trong Sứ vụ Thiêng liêng hay con đang đồng hành với Sứ vụ? Xin thày chỉ cho con thấy con còn thiếu sót chỗ nào, và dính mắc nào đang kìm hãm con lại?” Với khoá canh thức này, đây là một cơ hội to lớn cho các con trong cương vị một cộng đồng. Nó có thể đem lại sự tăng triển vượt bực cho những ai trong số các con thật chuyên cần.

Như thày vừa nói, sứ giả này đã sẵn lòng thực hành các lời dạy, xem xét tâm lý của mình, không những để giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ khi ông mới đến địa cầu, mà còn để nhận ra một điều mà các thày chưa đề cập nhiều lắm – đó là sự kiện ông đã không đến địa cầu với một tâm lý đã giải quyết xong xuôi hoàn toàn. Khi ông đến địa cầu, ông chưa sẵn sàng thăng thiên. Ông đến địa cầu với một thái độ nào đó, một tư duy nào đó, và như ông đã sẵn lòng nhận ra, tư duy đó đã khiến ông nghĩ mình đến đây là để giúp nâng cao địa cầu, giúp giải thoát người khác.

Kỳ thực, ông đến đây là để tự giải thoát chính ông khỏi tư duy đã cầm chân ông lại trên một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên điều này cũng đúng với tất cả các con là avatar. Tại sao chúng ta đã đến địa cầu chứ? Không phải như con nghĩ bởi vì chúng ta là những người xấu ác hay ích kỷ chỉ biết lo lợi cho mình, và do đó chúng ta đã xứng đáng đi xuống một hành tinh như thế này. Không phải vậy đâu con. Chúng ta xuống đây là để giúp nâng cao địa cầu bằng cách có một trạng thái tâm thức cao hơn đa số mọi người trên trái đất, hầu chúng ta có thể kéo tập thể đi lên. Nhưng chúng ta cũng không đến đây với một mục đích nhất định để đem lại một số thay đổi nhất định và để thay đổi một số người nhất định.

Nói cách khác, trước khi thày đến địa cầu như một avatar, thày đã không có ý định đặc biệt gì để sáng lập một tôn giáo có tên là Phật giáo. Trước khi Giê-su đến địa cầu như một avatar, thày cũng không có ý định đặc biệt trở thành Ki-tô hiện thân cũng như sáng lập một tôn giáo toàn cầu. Ngược lại với các tín đồ của các thày muốn tin là các thày thật đặc biệt, các thày không có gì là đặc biệt so với tất cả mọi avatar khác đã đến địa cầu. Các thày mang cùng tiềm năng y như mọi avatar khác, nhưng tiềm năng này chỉ có thể trải bày ra khi các thày đáp ứng với sự có mặt của mình trên địa cầu, là khi các thày bắt đầu khắc phục phản ứng ban đầu, chấn thương nhập đời và những phản ứng của mình đối với địa cầu, cũng như khắc phục chính cái tâm lý đã đưa các thày tới đây.

Đâu là tầng giáo lý kế tiếp mà các thày muốn trao truyền trong khuôn khổ công việc tiết lộ tuần tự về các avatar? Đó là sự kiện trong cương vị một avatar, con đã nhập thế gian trên một hành tinh tự nhiên, có nghĩa là ở đó không có sa nhân, không có chuyện phần lớn dân cư bị rơi vào nhị nguyên và tách biệt. Có tiềm năng là con sẽ rơi vào tâm thức tách biệt, tương tự như ở địa cầu trước khi nó biến thành một hành tinh phi tự nhiên, nhưng chuyện này không có gì là chắc chắn.

Con khởi sự trên một hành tinh tự nhiên cũng gần giống như các thày đã nói về địa cầu, nghĩa là con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Nhưng khác với địa cầu, trên một hành tinh tự nhiên con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất có mặt trên hành tinh đó (vì chỉ trên hành tinh phi tự nhiên con mới bắt đầu ở tầng 48 và có nhiều tầng khác ở dưới mức này). Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất mà hành tinh đó được thiết kế, xong con lần hồi vươn lên cao hơn cho tới tầng cao nhất có mặt trên hành tinh đó.

Tất nhiên, điều xảy ra trên một hành tinh tự nhiên là sẽ có một số dòng sống đi qua tiến trình này nhanh hơn một số dòng sống khác. Một số chuyên cần hơn, họ tận dụng những vị thày mà họ có, nghĩa là họ đạt tới tầng tâm thức cao nhất hiện diện trên hành tinh đó.

Vấn đề đặt ra là khi đó họ sẽ làm gì đây? Bởi vì chẳng có lý do gì mà họ ở lại trên hành tinh đó, ít ra là không quá một thời hạn nào đó. Trong một thời gian, con có thể phụng sự trong một tư cách lãnh đạo, nhưng sẽ tới một điểm con khao khát một việc làm khác hơn. Con biết là con sẽ cần tiến lên bước kế tiếp. Đối với các avatar đã đạt đến mức này, có hai chọn lựa mở ra cho họ. Một là có những hành tinh tự nhiên khác đang ở tâm thức cao hơn hành tinh nơi con đã khởi sự, và con có thể chuyển sang một hành tinh như thế. Và chọn lựa thứ hai là con có thể di đến một hành tinh phi tự nhiên.

Là một sinh thể đã đạt đến tầng tâm thức cao nhất có thể có trên một hành tinh tự nhiên, vì lý do gì con lại muốn chọn đến một hành tinh phi tự nhiên chứ? Điều này tùy thuộc phần lớn vào trình độ tâm thức của con lúc đó. À, thày vừa nói là trên mỗi hành tinh tự nhiên (vì hiển nhiên các con không đều đến từ cùng một hành tinh tự nhiên) thì trên hành tinh đó có một tầng tâm thức cao nhất. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã sẵn sàng thăng thiên. Không phải là khi con đi mút tíến trình tăng trưởng trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ tự động sẵn sàng thăng thiên để trở thành chân sư đâu.

Lý do là vì để trở thành chân sư thăng thiên, con phải giải quyết xong toàn bộ bí ẩn của quyền tự quyết. Con cần thực sự thể nhập và hiểu rõ quyền tự quyết là gì và mang ý nghĩa như thế nào. Con cần giải được tại sao đó là một quyết định kỳ tài, một tuyệt tác của Đấng Sáng tạo khi ngài ban quyền tự quyết cho mọi sinh thể tự nhận biết. Sự thật là tất nhiên, đấng Sáng tạo đã không phát minh ra khái niệm đó, và quyền tự quyết đã được sử dụng trong nhiều cuộc sáng thế khác – nhưng không trong mọi cuộc sáng thế, vì đã có một số Đấng Sáng tạo đã thử nghiệm một quyền tự quyết không hoàn toàn tự do, và tất cả các Đấng ấy đều đã học được bài học là việc hạn chế quyền tự quyết không mấy thành công. Thật sự cách duy nhất để sáng thế, để sáng tạo một thế giới hình tướng bền vững là ban cho nó quyền tự quyết toàn diện.

Để thăng thiên từ một bầu cõi phi tự nhiên, con cần giải quyết bí ẩn đó. Một số các con sẽ nói: “Được rồi, tôi sẽ cố làm vậy trên một hành tinh tự nhiên.” Nhưng cũng có một số khác – thành thật mà nói, đó là những người có can đảm bảo rằng: “Tôi không nghĩ tôi hiểu được chuyện này. Tôi không nghĩ tôi hiểu được quyền tự quyết. Tôi không hiểu tại sao Đấng Sáng tạo của chúng ta lại ban cho mọi người quyền tự quyết.” Và số đó trong các con sẽ nhìn về các hành tinh phi tự nhiên và nói: “Khi tôi nhìn một hành tinh phi tự nhiên, tôi thật sự không hiểu nổi tại sao Đấng Sáng tạo lại ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng tôi muốn nắm bắt lý do tại sao như vậy. Tôi muốn nắm bắt nó và đó là lý do tôi sẵn lòng đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Tôi sẵn lòng trải nghiệm trong chính bản thể của mình thực tế của những con người bị kẹt vào nhị nguyên và tôi thì không thể nào thuyết phục họ. Tôi muốn trải nghiệm thực tế của những sinh thể sa ngã bị mắc kẹt trong nhị nguyên đến độ họ không thể được thuyết phục, mà ngược lại họ còn cố bịt miệng tôi hay chứng minh là tôi sai, hoặc thậm chí họ cố cải tạo tôi để tôi cũng rơi vào trạng thái tâm của họ.”

Nói cách khác, có một số sinh thể trên hành tinh tự nhiên sẽ nói: “Tôi thực sự muốn giải quyết vấn đề này và có lẽ cách hay nhất là tôi đi đến một hành tinh phi tự nhiên nơi quan điểm mà tôi đã tạo dựng về cuộc sống và tiến trình sáng tạo, về quyền tự quyết trên hành tinh tự nhiên ấm cúng này của tôi, sẽ bị thách thức. Hay nói cách khác nữa, con nói: “Tôi muốn quan điểm của tôi bị thách thức. Tôi muốn đi đến một chỗ nơi tôi không thể tìm ra lý lẽ nào sẽ thuyết phục được người khác, như tôi vẫn từng quen làm trên một hành tinh tự nhiên.” Khi con là người lãnh đạo, khi con ở một tầng tâm thức cao trên một hành tinh tự nhiên, con quen nghĩ rằng con có khả năng đưa ra một tiến trình suy luận sẽ giúp cho những ai ở một tầng tâm thức thấp hơn thấy được là “con có lý”, và do đó họ sẽ đi theo con, họ sẽ nghe theo lời khuyên nhủ và hướng dẫn của con.

Đó là cách vận hành trên một hành tinh tự nhiên nơi ai nấy đều cởi mở học hỏi điều mới, học hỏi những điều mà họ chưa biết. Nhưng trên hành tinh phi tự nhiên thì không như thế, như chắc chắn các con sẽ đều đồng ý như vậy. Đó là tại sao trong số chúng ta có những người – mà thày không nhất thiết gọi là tinh tiến hơn, hay hăng hái hơn, hay can đảm hơn – nhưng chúng ta đã quyết định: “Chúng ta muốn tự thách thức mình bằng cách đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên.”

Đối với đệ tử nào đã sẵn sàng cho lời dạy này, điều có thể ích lợi cho con là con bắt đầu một cách rất chậm, rất lần hồi, xét xem con sẽ nhìn vấn đề tự quyết như thế nào, và con sẽ giáp mặt với nó như thế nào. Quan điểm của con về vấn đề đó là gì? Đâu là phản ứng cố hữu, phản ứng tức thì từ ruột gan – nếu có thể gọi như vậy. Khi con chứng kiến tình trạng thảm hại mà con người đã tạo ra trên địa cầu, khi con thấy sa nhân đã lạm dụng quyền tự quyết của chính họ lẫn của người khác như thế nào, phản ứng của con ra sao? Từ đó con có thể bắt đầu xét xem thái độ nào, tin tưởng nào đứng đằng sau phản ứng đó, phản ứng từ ruột gan đó. Con nghĩ gì trong đầu về quyền tự quyết? Sau đó con có thể đi vào tầng bản sắc và khởi sự xem xét: “Tôi tự nhìn mình như thế nào trong cương vị một sinh thể có quyền tự quyết đang tương tác với người khác cũng có quyền tự quyết? Tôi tự nhìn mình thế nào như một sinh thể ít ra đã bắt đầu vươn lên khỏi nhị nguyên, đang tương tác với những người ở trong nhị nguyên và do đó họ không thực sự sử dụng ý chí tự do vì ý chí của họ chưa tự do?”

Rồi con có thể bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề này, và như vậy con có thể nhìn ra bài toán về quyền tự quyết mà con chưa giải quyết trên hành tinh tự nhiên. Rồi con có thể bắt đầu nhìn vào địa cầu và thật sự xem xét: “Làm thế nào tôi giải quyết được đây?” Các thày đã ban ra nhiều lời dạy có thể hữu ích cho con, và con có thể xem các lời dạy này. Nhưng trong tương lai các thày sẽ ban ra nhiều hơn nữa, vì tất nhiên đây chỉ là bước khởi đầu của một cấp giảng dạy mới.

Cảm nhận của con về quyền tự quyết như thế nào? Con nghĩ quyền tự quyết vận hành thế nào và nó có thể vận hành cách khác hay không? Con tự xem mình ra sao như một sinh thể có quyền tự quyết trong quan hệ với người khác? Con nghĩ làm thế nào con sẽ thoát ra khỏi hành tinh này – hành tinh điên đảo này như một số chúng ta thường cảm thấy, kể cả chính thày ở một giai đoạn nào đó? Điều gì sẽ giải quyết được vấn đề tự quyết, và con có những dính mắc nào về quyền tự quyết đang níu giữ con ở lại đây? Không phải vì con bị bó buộc ở đây, nhưng vì con không muốn rời nơi đây trước khi con thực hiện được mục đích của con khi đến đây. Con không muốn rời nơi này cho tới khi con giải quyết được bí ẩn đã đem con tới đây, đã khiến con quyết định tới đây.

Điều con có thể khởi sự là có lẽ con bắt đầu xoay chuyển thái độ của con đối với sự hiện diện và trải nghiệm của mình trên địa cầu, kể cả chấn thương nhập đời, kể cả toàn bộ nỗi bực dọc khi con thấy người ta tự gây tổn thương cho họ mà vẫn không muốn ngừng tự gây tổn thương. Họ không muốn biết họ đang làm hại chính họ. Họ không muốn lắng nghe con là người hiểu biết hơn lại có khả năng giúp họ thoát khỏi khổ đau. Họ cứ muốn sống tiếp trong đau khổ, và không những họ phớt lờ con, họ còn tích cực bác bỏ, hạ thấp, chế giễu con, thậm chí tra tấn hay giết hại con để bịt miệng con. Làm sao con đương đầu với sự thể này? Con nhìn chuyện đó như thế nào?

Đấy, điều con có thể làm là làm như sứ giả này. Con có thể nói: “Liệu tôi có là một tên ngu ngốc khi tôi chọn đến hành tinh này hay không? Liệu tôi có đáng chịu tất cả mọi chuyện xảy ra cho tôi? Liệu tôi phải cảm thấy tội lỗi về hành vi của mình trên hành tinh này, vế cách ứng xử của mình?” Hiển nhiên, có lẽ con có thể bắt đầu xoay chuyển tâm trạng đó và nói: “Không, thật ra tôi đã rất tỉnh trí, rất chín chắn, rất mong muốn tăng triển, và đó là tại sao tôi đã quyết định đến đây.” Quyết định đó của con dựa trên mong muốn tăng triển. Con không hề bị bó buộc. Không phải là con không thể tiến xa hơn trên hành tinh tự nhiên nên con đã phải hiện thân trên địa cầu. Không, con ở đây là vì con đã quyết định đây là cơ hội tăng triển tối đa cho con.

Khi đó, con có thể bắt đầu xét đến một điểm khác nữa sẽ giúp con ứng phó với sự có mặt của con trên địa cầu, và điểm đó như sau. Như các thày có nói, khi con đến địa cầu như một avatar, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 để hiện thân. Đương nhiên, với mỗi bước đi xuống từ tầng 144, con khoác vào một ảo tưởng. Ảo tưởng này trở thành cái phin lọc nhận thức sẽ che khuất tầm nhìn của con cũng như ký ức về thời con ở trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng điều này không có nghĩa là con không đem theo con một số hành trang.

Không phải là một ký ức rõ mồn một về thời con từng ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con đem theo với con một thái độ nào đó về cuộc sống, một thái độ nào đó về bản thân như một avatar, kể cả khi con ở tầng tâm thức 48. Dĩ nhiên, khi con nâng tâm thức lên thì điều này trở nên càng rõ ràng hơn. Một lần nữa con có thể lấy ví dụ của sứ giả này, và tuy mỗi người mỗi khác, nhiều người trong số các con sẽ nhận ra điều thày nói ở đây. Sứ giả này đã cảm thấy có một số lỗi lầm trên địa cầu mà ông không nên mắc phải. Có một số việc trên địa cầu mà ông không nên làm, một cấp độ nào đó mà ông không nên hạ mình xuống, và ông nên đứng trên một số hỗn tạp mà ông tìm thấy ở đây. Trong suốt kiếp này cũng như những kiếp trước đi ngược trở về kiếp đầu thai đầu tiên của ông, ông đã luôn luôn vô cùng khó tính với bản thân mình.

Nhiều người trong số các con sẽ nhận ra mình cũng như vậy. Con có thể vô cùng dễ tính đối với người khác, nhưng con không tha thứ được chính con, vì con đã đến đây với một thái độ nhất định về cuộc sống dựa trên cách sống trên một hành tinh tự nhiên. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tạo ra một chuẩn mực cho bản thân về cách cư xử, về những gì con phải làm hay không được làm. Và nếu con đi ngược lại chuẩn mực đó, con cảm thấy mình đã làm chuyện tồi tệ nhất có thể có trong toàn thể vũ trụ.

Các thày đã nói gì về sa nhân, rằng chúng đã làm gì cho tan nát mọi chuyện trên trái đất? Phải, chúng đã tạo ra một chuẩn mực và phóng chiếu khiến mọi người phải đánh giá mọi chuyện dựa theo tiêu chuẩn đó. Sự khác biệt ở đây là chuẩn mực do sa nhân tạo ra là một chuẩn mực nhị nguyên phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Là một avatar trên một hành tinh tự nhiên nơi con đã đạt đến mức tâm thức cao nhất ở đó, con không ở trong tình trạng nhị nguyên. Con đã không tạo ra một chuẩn mực dựa trên nhị nguyên.

Nhưng con thấy đó, điều này nghĩa là gì? Giờ đây con đến một hành tinh nơi mọi chuyện bị thấm đẫm, bị ô nhiễm bởi nhị nguyên, vậy mà con lại cho rằng có những chuyện con không được làm trong nhị nguyên, và cũng có những chuyện con phải làm. Con không nhận ra – bởi vì con không thể nhận ra điều này cho tới khi con đạt đến một mức tâm thức và một trình độ phân biện Ki-tô nào đó – rằng con không thể nào thấy sự khác biệt giữa chuẩn mực của con và chuẩn mực của sa nhân.

Con cho rằng nếu con không hành xử theo đúng tiêu chuẩn của con thì con đã làm chuyện gì đó xấu xa, sai trái. Trên một hành tinh tự nhiên, con đã từng có một chuẩn mực để đánh giá cách cư xử của mình, nhưng con không xét đoán theo tiêu chuẩn đúng-sai, con không đánh giá chủ quan bởi vì đó là nhị nguyên. Nhưng bây giờ con ở trên một hành tinh thấm đẫm nhị nguyên, và con bắt đầu áp dụng cách đánh giá chủ quan đúng-sai nhị nguyên đó đối với bản thân con. Đó là tại sao con cảm thấy: “Vì tôi đã hành xử như vậy, liệu tôi có khá hơn bọn sa nhân chút nào không, hay là tôi cũng xấu như sa nhân?”

Tất nhiên, sa nhân sẽ khai thác điểm này một cách không thương tiếc. Đâu là cách thoát ra? Con không thể lật ngược những gì con đã làm. Con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ. Điều con có thể làm là nói: “Được rồi, tôi đã làm chuyện đó, nhưng chuyện tôi đã làm, cho dù chỉ mới năm phút trước, cũng không còn đó nữa. Đó không phải là một thực tế đang hiện thực vật lý. Trong hành vi đó, điều ảnh hưởng đến tôi chính là phản ứng của tôi. Vậy thì phản ứng của tôi xuất phát từ đâu – từ sự kiện tôi đã tạo ra những cái ngã tách biệt.”

Như vậy con có thể xem xét những ngã tách biệt này, con có thể dùng các dụng cụ của các thày để giải hóa chúng, nhưng con cần đi xa hơn nữa. Thật sự con cần nói: “Nhưng một số ngã này không phải là ngã tách biệt được tạo ra trên địa cầu. Đó là một thái độ mà tôi đã đem theo tôi từ một hành tinh tự nhiên và tôi cần giải hóa nó. Tôi cần buông nó ra và nói: Tuyệt đối không có nghĩa lý gì mà tôi áp dụng một chuẩn mực từ một hành tinh tự nhiên khi tôi đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Những gì tôi đã làm trên hành tinh dày đặc hỗn tạp này có quan trọng lắm không? Nếu tôi đã lầm lỗi nơi đây, điều đó có quan trọng hay không? Ngay cả việc đánh giá xem đó là lỗi lầm hay không lỗi lầm, liệu nó có ích gì không? Những hành vi của tôi phát xuất từ một mức tâm thức nào đó với một số ngã tách biệt nào đó. Nếu tôi vượt qua được thì tôi sẽ giải thoát khỏi nó. Nếu tôi sẵn sàng tự giải phóng khỏi nó thì tôi phải được giải thoát khỏi nó.”   

Nói cách khác, điều thày muốn nói là như sau. Tất cả chúng ta đã làm y hệt như con đã làm. Chúng ta đã đến với một chuẩn mực, rồi đã làm gì đó trên địa cầu này mà mình cảm thấy không đúng với chuẩn mực. Chúng ta bị rơi vào vực thẳm, rơi vào hố đen của tự trách, của tủi hờn và tiếc nuối, chúng ta ghét bỏ và oán giận bản thân vì chúng ta đã không toàn hảo, không luôn luôn tự chủ mọi phản ứng của mình.

Gần như là do trên hành tinh tự nhiên chúng ta đã luôn luôn “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng”, cho nên chúng ta cũng chờ đợi là khi bước xuống tình trạng hỗn loạn toàn diện của hành tinh địa cầu, chúng ta cũng sẽ vẫn giữ được thái độ “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng” đó, chúng ta sẽ luôn luôn hoàn toàn tự chủ.

Thế nhưng, con yêu dấu, đó là một chuẩn mực hoàn toàn không thực tế. Chưa từng có ai thực hiện được điều đó. Chưa từng có ai, bất kể trình độ tâm thức, đã làm tròn được một chuẩn mực như vậy. Là Phật, thày đã không làm được. Là Ki-tô, Giê-su đã không làm được. Thày Maitreya cũng đã không làm được – không một ai đã từng hiện thân nơi đây làm được. Chuyện đó không thể làm được – vì con phải đi xuống tầng tâm thức 48 và phản ứng dựa theo mức tâm thức ở tầng 48. Làm sao khác được? Đó chính là cơ chế của việc hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên.

Trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ phản ứng một cách khác. Ở đây, con không thể giữ bình tĩnh, nhưng tại sao con lại cần bình tĩnh? Tại sao con phải bình tĩnh? Tại sao con phải đặt ra tiêu chuẩn đó cho con? Điều thày muốn nói là như thế này. Tất cả chúng ta đều đã làm vậy, chúng ta đều đã rơi xuống vực thẳm của tự trách móc. Chúng ta đều đã phải bò ra khỏi vực thẳm đó từng bước một, bằng cách bám chặt vào cái thang dây mà các chân sư thăng thiên đã hạ xuống cho chúng ta, rồi chúng thày đã trèo lên bằng cả tay lẫn chân, từng bước một. Chúng ta đã leo đến bờ vực thẳm, nhưng cách duy nhất để rời khỏi vực thẳm là nhìn vào chuyện này và nói: “Tại sao tôi lại tự trách mình chứ? Tại sao tôi cảm thấy có lỗi? Tại sao tôi lại giận mình? Tại sao tôi nghĩ mình phải toàn hảo, rằng đáng lẽ mình đã không được phản ứng lại? Tại sao tôi lại nghĩ ngợi kiểu đó? Có thật sự hợp lý hay không, có nghĩa lý gì hay không?”

Thế rồi con đạt tới một điểm, không phải là một quyết định vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ nhìn thấy nó. Con nhìn thấy cái ngã mà con đã mang trên một hành tinh tự nhiên. Vì trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển, làm thế nào con có thể tăng triển? Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở mức tâm thức thấp nhất trên hành tinh đó. Nghĩa là gì? Đúng vậy, có một số ảo tưởng mà con chưa giải hóa. Bởi vì ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có ảo tưởng, nếu không thì làm thế nào có nhiều tầng tâm thức được? Làm thế nào tăng triển được nếu không có những tầng tâm thức? Con tăng triển như thế nào chứ? Các thày đã dạy con điều gì, làm thế nào con học hỏi được chứ?

Con là một sinh thể đồng-sáng tạo, con học hỏi bằng cách đồng-sáng tạo. Làm thế nào con đồng-sáng tạo? Con tạo ra một tâm ảnh, con phóng chiếu tâm thức và năng lượng qua tâm ảnh đó lên trên vật chất, và nó khoác một hình tướng. Xong con lượng định. Nhưng khi con đồng-sáng tạo, con làm gì chứ? Các thày vừa nói là con tạo ra một tâm ảnh, đúng vậy, nhưng kỳ thực con đang tạo ra một cái ngã, con đang tạo ra một ý niệm bảo rằng: “Đây là con người mà tôi là, đây là bản sắc của tôi, đây là trí thể của tôi, đây là cảm thể của tôi và đây là cơ thể vật lý của tôi. Đây là con người mà tôi là.” Và cái đó trở thành một cái ngã mà con đang phóng chiếu qua.

Khi con tiến lên những tầng tâm thức cao hơn, con sẽ để cho một cái ngã chết đi, con tạo ra một cái ngã khác, y hệt như con làm trên địa cầu. Sự khác biệt, tất nhiên, là con không đi vào nhị nguyên, nhưng con vẫn tạo ngã, con vẫn tạo những cái ta. Lần lần khi con vươn lên cao hơn trên một hành tinh tự nhiên, càng ngày con càng tạo ra ý niệm bản ngã tinh xảo hơn. Như các thày đã nói, y như con làm trên điạ cầu giữa tầng 48 với 96. Đây chỉ là một tiến trình tăng trưởng trong tâm thức.

Nhưng làm thế nào con thăng thiên? Phải, con thăng thiên bằng cách khắc phục những cái ngã đó. Đối với những sinh thể đã đạt đến tầng trên cùng ở hành tinh tự nhiên của họ và chuyển sang một hành tinh tự nhiên cao hơn, họ đem theo những cái ngã mà họ đang có, và ngã này trở thành điểm khởi đầu của họ trên hành tinh thứ hai. Lẽ tự nhiên đối với con khi con quyết định đến một hành tinh phi tự nhiên, con cũng đem theo những ngã này, và ở một mức nào đó, chúng trở thành khởi điểm cho thái độ của con đối với bản thân con ở nơi đây, thậm chí cả thái độ của con đối với địa cầu.

Vậy con cần làm gì để thăng thiên? Đối với các thày là những con người đã thăng thiên từ địa cầu, tất cả các thày đã cần làm gì? Các thày đã cần xem xét những ngã đó và buông chúng ra. Chúng dễ buông bỏ hơn vì chúng không xuất phát từ nhị nguyên, chúng không là cùng một loại ảo tưởng. Nhưng mặt khác, con chỉ có thể buông chúng ra khi con nhìn thấy chúng, và trên một hành tinh phi tự nhiên dày đặc như trái đất, con khó nhìn thấy chúng hơn rất nhiều, con khó lòng nhìn ra những cái ngã con đã đem theo từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là tại sao trước tiên, con cần giải quyết chấn thương nhập đời và nhiều cái ngã mà con đã tạo ra nơi đây trên địa cầu trước khi con có thể bắt đầu xét đến những gì đã đưa con tới đây. Nhưng trong số các con, có khá nhiều người đã sử dụng giáo lý mà các thày ban ra về avatar, về việc chữa lành các chấn thương tâm linh và nhiều hơn thế, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng tiến lên bước kế tiếp và bắt đầu xem xét những cái ngã mình đã đem theo với mình, giải hoá chúng đi, hầu con đạt tới điểm khi con nhìn lại địa cầu và bảo: “Không có gì ở đây có thể níu kéo tôi lại.” Nhưng con cũng có thể nhìn vào toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên và nói: “Thật chẳng có một hành tinh tự nhiên nào khác lôi kéo được tôi nữa. Tôi đã sẵn sàng thăng thiên. Tôi sẵn sàng bỏ lại đằng sau nguyên bầu cõi chưa thăng thiên này.” Đó là cách con trở thành một chân sư thăng thiên.

Với lời này, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong bài giảng dịp Tân niên này. Các thày sẽ nhìn xem có lời dạy nào khác các thày mong muốn trao truyền về đề tài này trong năm sắp tới hay không. Thày muốn cảm ơn các con đã sử dụng những giáo lý trước đây, vì các con là những người tiên phong đã khai mở tâm thức của tập thể đến mức bài giảng này có thể được ban ra trong cõi vật lý. Một lần nữa, con hãy nhận lòng biết ơn sâu xa của thày. Lòng biết ơn này sẽ còn tiếp tục vì tất nhiên, bất cứ lời truyền đọc nào mà các thày ban ra cũng chỉ là một trong chuỗi dài những tiết lộ liên tục.

Thày biết, đôi khi một số trong các con có thể có cảm giác – và ngay cả sứ giả này cũng có cảm giác rằng: “Bài truyền đọc hôm nay thật đặc biệt, nó ở một tầng cấp cao hơn và tự thân nó gần như trọn vẹn.” Thật tốt lành thay khi con có cảm giác như thế, nhưng tất nhiên, bất kỳ bài truyền đọc nào cũng chỉ là một viên ngọc quý trong một chuỗi ngọc trải dài về tương lai, và hiện không có cách nào nói trước được nó sẽ kéo dài đến bao giờ. Nhưng chắc chắn các thày dự kiến một chuỗi liên tục thật dài sẽ đem lại những hòn ngọc nhận thức cao hơn.

[Hình tư tưởng của Phật được sử dụng trong năm 2022 sẽ là cùng hình tư tưởng về Mặt trời giống như năm ngoái:

  • “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”
  • “Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”
  • “Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”]

[Bạn cũng có thể đọc thêm bài vấn đáp do chân sư thăng thiên Saint Germain: “Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên”]

Bước ra khỏi cơ chế vận hành tự ti và tự đại

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Sanat Kumara qua trung gian Kim Michaels ngày 2/10/2021, nhân Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là Cánh cửa mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 20/10/2021.

TA LÀ chân sư thăng thiên Sanat Kumara. Ta đến đây với lòng biết ơn đối với các con đã đọc bài thỉnh vừa rồi cũng như đối với rất nhiều người đã thỉnh ta suốt nhiều năm trời, không những trong đợt truyền pháp này mà các đợt khác nữa. Việc này đã cho phép ta nhập cuộc và truyền rải nhiều năng lượng cùng một số ý tưởng đến địa cầu mà nhiều người đã tiếp nhận được. Nhiều người trong số này không nhất thiết là học trò của chân sư thăng thiên. Và một trong những đóng góp thực sự mà các con có thể làm trong tư cách là học trò của chân sư là nhận ra thời đại hoàng kim cần có rất nhiều ý tưởng được nhân loại hiện đang đầu thai tiếp nhận, đem ra áp dụng và thực hiện.

Và nhiều khi các con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, sẽ không ở trong cương vị tốt nhất để nhận hay để thực hiện một ý tưởng. Và do đó con không thể bị dính mắc là liệu con có là người nhận được ý tưởng cùng với niềm vinh dự, hay có người khác nhận được. Khi con mang viễn quan làm đệ tử của chân sư thăng thiên, con có thể trau dồi lòng sẵn sàng cầu thỉnh, nâng cao tâm thức mình và tu học các giáo lý, và đồng thời con cũng có viễn quan là những ai có khả năng nhận được một số ý tưởng quả nhiên sẽ nhận được, sẽ áp dụng và sẽ theo đó mà hành động, rồi từ đó có thật nhiều người hơn chấp nhận ý tưởng giúp nó lan truyền. Đây chính là một phần của viễn quan mà con cầm giữ, một phần của việc phụng sự của con.

Vượt qua mặc cảm tự ti-tự đại

Điều này gắn liền với chủ đề đầu tiên mà ta muốn nêu lên. Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? À, con phải vượt qua cái thường được gọi là mặc cảm tự ti-tự đại. Suốt nhiều thập niên trao truyền giáo lý trực tiếp, các thày đã và đang nhìn thấy hai xu hướng rõ rệt trong số học trò của mình.

Một số học trò rất, rất sốt sắng áp dụng giáo lý, học hỏi giáo lý. Họ đưa ra bộ mặt là những học trò rất chăm chỉ, rất háo hức. Nhưng họ thường làm vậy vì họ mang một mặc cảm tự tôn. Họ mong muốn là người tốt đẹp hơn người khác, là học trò cao cấp hơn học trò khác, cho nên họ bị thôi thúc bởi mong muốn sử dụng giáo lý để nâng cao bản thân và đạt được một cảm giác vượt trội nào đó.

Xu hướng kia mà các thày nhận thấy là có nhiều học trò, thường là đa số, chấp nhận giáo lý, học hỏi giáo lý, thực hành các bài chú bài thỉnh, nhưng họ không thực sự chấp nhận là mình có thể liên lạc trực tiếp với các thày, nhận được ý tưởng hay xung lực từ các thày, hay làm được gì đó đáng kể cho các thày. Họ thỏa mãn với chuyện theo chân tổ chức, theo chân một sứ giả hay một đạo sư, làm những gì họ được chỉ bảo và họ sẽ thành tâm làm việc đó nhưng họ không thực sự chuyển tâm để nghĩ rằng có lẽ họ không phải luôn luôn là những kẻ theo chân.

Con thấy đó, có những người muốn lãnh đạo và có những người muốn đi theo, và tiếc thay điều này thường tạo ra một tình trạng rất không lành mạnh và không quân bình trong tổ chức. Ta không chỉ nói đến các tổ chức của chân sư thăng thiên, và con có thể thấy cùng tình trạng này trong rất nhiều tổ chức khác khắp thế giới. Điều ta muốn chú trọng nói đến ở đây chính là cách vận hành đó, cơ chế tự ti-tự đại.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là không có mặc cảm tự đại mà chỉ có mặc cảm tự ti. Thật không phải là vấn đề người ta cảm thấy tự đại hay tự ti, bởi vì trong rất nhiều kiếp sống mọi người đã phải giáp mặt với sa nhân trên hành tinh này, đã bị chúng khuynh loát và dồn vào thế cảm thấy tự ti. Thật không phải vấn đề người ta cảm thấy tự ti hay tự đại – vì họ đều cảm thấy tự ti – mà là vấn đề ứng phó như thế nào. Một số ứng phó bằng cách chấp nhận sự thua kém của mình, khiến họ trở thành kẻ đi theo. Một số khác ứng phó bằng cách chối bỏ sự thua kém của mình, cố gắng dựng lên một vẻ mặt cao trội để có thể cảm thấy cao trội bề ngoài, và như vậy họ phủ nhận cái mặc cảm tự ti vẫn nằm đó sâu bên trong tâm lý họ.

Thêm vào đó tất nhiên là có các sa nhân đang đầu thai. Dĩ nhiên có một số ít sa nhân đã bị thu hút hay được gửi vào tham gia các giáo lý cùng tổ chức của chân sư thăng thiên, và con có thể nói khi con nhìn những sa nhân đó, chắc chắn họ mang một mặc cảm tự tôn. Họ cho là họ thật sự cao trội hơn người khác, nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy là ngay cả các sa nhân này cũng mang một mặc cảm tự ti ở sâu bên dưới, được che lấp bởi quá nhiều lớp phủ nhận đến độ họ cũng cảm thấy mình thua kém. Và họ là ví dụ điển hình của những người phản ứng lại sự thua kém của mình bằng cách che lấp nó đi và tìm cách dựng lên một cảm giác cao trội trong thế gian này qua những vật của thế gian.

Tìm lại quân bình

Điều các thày mong nhìn thấy nơi học trò của mình tất nhiên là các con tìm được một trạng thái cân bằng. Và các thày đã thấy, chẳng hạn trong một đợt truyền pháp trước – đợt chót mà các thày đã có thể trao truyền trong Thời đại Song ngư – là có một nhóm học trò khá đông cảm thấy mình cao trội. Trong tổ chức có một nét văn hóa cho rằng: “Chúng ta có giáo lý tâm linh tinh tiến nhất trên hành tinh, chúng ta là những người tiên phong cho Thời Hoàng kim của Saint Germain, chúng ta giống như các tông đồ của Giê-su và do đó rõ ràng chúng ta là những đệ tử cao cấp nhất trên hành tinh.” Hiển nhiên, điều này không đến nỗi phổ biến trong đợt truyên pháp này vì các thày đã cho con bao nhiêu lời dạy để các con khắc phục xu hướng này. Nhưng ta vẫn muốn bàn đến cảm giác tự ti.

Con cũng hiểu là mục tiêu chính của sa nhân trên trái đất là kiểm soát loài người, kiểm soát các avatar, kiểm soát các cư dân nguyên thủy của địa cầu. Chúng muốn kiểm soát mọi người. Như các thày có giảng nhiều lần, điều này khó lòng thực hiện qua sự kiểm soát vật lý, cho nên phải có một yếu tố kiểm soát tâm lý. Và yếu tố kiểm soát tâm lý quan trọng nhất chính là mặc cảm tự ti.

Khi con có thể khiến người ta cảm thấy thua kém, khi con khiến số đông quần chúng cảm thấy thua kém một nhóm nhỏ thượng lưu, thì con có thể kiểm soát đại bộ phận dân chúng. Thiểu số thượng lưu có thể kiểm soát quần chúng qua cảm giác tự ti này. Con thử nhìn lại biết bao nền văn minh khắp thế giới trong quá khứ và nhận thấy là đã có một niềm tin cho rằng có một tầng lớp thượng lưu với phẩm chất đặc biệt, khả năng và quyền uy đặc biệt. Một cách nào đó, họ khác biệt mọi người. Họ mang máu mủ đặc biệt, họ mang gốc gác khác thường, họ mang dòng dõi khác thường, cho nên họ thật xuất chúng. Họ có thể làm những chuyện không ai khác làm được.

Con chỉ cần nhìn quá biên giới sang Bắc Hàn, và ở đó người ta tin gì về lãnh tụ của họ? Một lần nữa, một con người xuất chúng từ một dòng dõi đặc biệt, đặc biệt ngay từ khi sinh ra, và vì vậy lời nói của ông ta luôn luôn thập toàn. Ông ta không thể nào sai lầm, không thể nào phạm lỗi, vân vân. Con thấy được niềm tin vô cùng lâu đời vào chủ nghĩa tinh hoa cho rằng có một nhóm nhỏ thượng tôn, cho nên tuyệt đại đa số dân chúng phải thấp kém hơn.

Nhưng này, có một tiến trình để leo ra khỏi tình trạng thấp kém này. Để leo ra khỏi thấp kém, một số người sẽ bơi sang đối cực ngược lại và cố dựng lên một cảm giác cao trội. Đây thực chất là tại sao các thày đã cho phép nét văn hóa cao trội kia hình thành trong đợt truyền pháp trước, bởi vì các thày thấy rõ là có những người ở cuối Thời đại Song ngư cần đến cảm giác cao trội này, trải nghiệm cao trội này, để tìm đường trở lại trạng thái quân bình nơi họ không cần cảm thấy cao trội nữa nhưng cũng không xem mình là thấp kém. Các thày đã cho phép họ tạm thời có cảm giác cao trội để họ có thể khắc phục tự ti.

Điều các thày mong thấy trong đợt truyền pháp này là con tìm được một cách tiếp cận quân bình hơn, qua đó con không cần bước vào cảm giác tự đại mà con lần hồi đạt được một thế cân bằng biết mình là ai. Và ta muốn nói gì qua từ “cân bằng”? À, tất nhiên ta muốn nói đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô.

Trải nghiệm nhận biết thuần khiết

Như các thày có nói, quả vị Ki-tô có một số giai đoạn. Có giai đoạn quả vị Ki-tô nơi con bắt đầu vươn lên trên tâm thức tập thể. Như các thày cũng nói, có một con quái vật  tập thể, một lốc xoáy tập thể vô cùng mạnh mẽ cuốn hút con người vào cảm giác thua kém. Và để bước chân trên đường tu tâm linh và vượt lên trên tầng tâm thức thứ 48, con phải tách mình ra khỏi lực kéo hướng hạ của tâm thức tập thể. Có nghĩa là cuối cùng con sẽ hiểu biết nhiều hơn một người trung bình, con có kỷ luật tự giác cao hơn một người trung bình, con có một số sáng ngộ nội tâm vượt quá một người trung bình, và do đó con có thể nói là con đạt được một sự vượt trội nào đó – nếu con muốn dùng thuật ngữ này.

Khi con bước từ tầng 48 đến tầng 96, con xây dựng một cảm nhận là con khác biệt hầu hết mọi người – không nhất thiết là cao trội, nhưng đối với nhiều đệ tử, cảm nhận này biến thành một cảm giác cao trội. Ở giai đọan này thì điều đó chấp nhận được. Nhưng để đi xa hơn tầng 96, con sẽ cần bắt đầu vượt quá trạng thái này. Con không thể tiến xa hơn tầng 96 nếu con còn một cảm nhận cao trội mạnh mẽ hay một cảm nhận thua kém mạnh mẽ. Con cần tìm ra một cách tiếp cận quân bình hơn, và cách tiếp cận quân bình này chỉ có thể tìm được bằng một cách: qua trải nghiệm.

Con không thể tìm được một cách lý thuyết. Con không thể tìm được một cách trí thức. Con không thể tìm được chỉ qua hiểu biết. Sẽ đến một điểm con không thể thoát khỏi thế bí này trừ khi con trải nghiệm cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, khi nó bước ra ngoài bốn thể phàm của con và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Con yêu dấu, con không thể làm được, chưa có ai có thể làm được bằng trí năng. Con có thể làm được một số chuyện bằng trí năng, con có thể khiến mình tin rằng mình không thua kém hay không cao trội, nhưng tâm thức con sẽ không xoay chuyển cho đến khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Tại sao như vậy?

Vì như các thày mô tả rất nhiều lần, nhận biết thuần khiết vượt khỏi nhị nguyên. Không có phân cực, không có những đối cực nhị nguyên. Và khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con cũng nghiệm thấy là tất cả mọi phân rẽ hay phân cực nhị nguyên đơn giản tan biến mất. Chúng trở thành lỗi thời, chúng trở nên vô nghĩa. Chúng không còn quan trọng gì với con. Và khi con chán chê các trải nghiệm này, kết quả sẽ là một xự xoay chuyển trong tâm thức khi con bắt đầu chuyển dần ra khỏi cảm nhận đó.

Việc con cao trội hơn người có quan trọng gì không? Trong nhận biết thuần khiết, nó có giá trị gì không? Việc con thua kém người khác có quan trọng gì không? Trong nhận biết thuần khiết, nó có quan trọng gì không? Con trải nghiệm trực tiếp là có một mức tâm thức vượt khỏi mức con người, và ở đó tất cả những chuyện quan trọng biết mấy cho con người sẽ hoàn toàn và tuyệt đối không quan trọng gì nữa. Chúng chỉ tan biến mất.

Bước vào tâm bình đẳng

Đây là một trong những đặc tính của giác ngộ. Con nhìn vượt khỏi cái mà Phật gọi là “những cặp” khi luôn luôn có hai đối cực. Và con thấy là không có chuyện đối cực này đúng, đối cực kia sai. Cả hai đều lỗi thời, đều vô nghĩa, đều không thực. Không phải là chuyện đúng hay sai, tốt hay xấu, mà là chuyện thực hay không thực. Và khi con kinh nghiệm nhận biết thuần khiết, con trải nghiệm một thực tại vượt khỏi tâm thức con người, vượt khỏi tâm thức tập thể, vượt khỏi cả mức tâm thức hiện thời của con. Và thực tại này, con trải nghiệm nó thực hơn là trạng thái tâm thức bình thường của con.  

Đây thật là điều duy nhất sẽ xoay chuyển con ra khỏi tự đại lẫn tự ti. Vì khi con đến với trải nghiệm đó và kinh qua nó nhiều lần, con nhận ra là chuyện hơn thua người khác chẳng quan trọng gì nữa. Giản dị là nó không quan trọng gì nữa đối với con. Ngay cả việc lượng định xem mình đứng ở đâu trên thang điểm ai cao ai thấp, cũng không quan trọng gì. Ta không bảo là điều này sẽ xảy ra trong một giây phút giác ngộ huy hoàng mà nó xảy ra lần hồi trên một khoảng thời gian. Nhiều người trong các con đã bắt đầu kinh qua điều này, và tất cả các con đều có tiềm năng kinh qua như vậy khi con ngộ ra là nếu mọi con người đều đến từ cùng một nguồn cội thì ai có thể thấp hơn, ai có thể cao hơn được đây?

Những khái niệm đó, những phân chia đó, những phân cực đó chỉ đơn giản là vô hiệu lực. Chúng chỉ hiệu lực cho một mức tâm thức nào đó. Nhưng khi con nếm được nhận biết thuần khiết, tâm thức nhị nguyên sẽ tự thân nó trở nên vô giá trị. Và khi chính tâm thức nhị nguyên vô giá trị thì tất cả mọi phân chia khởi lên từ tâm thức nhị nguyên cũng vô giá trị y như vậy. Còn quan trọng gì nữa?

Con thử nhìn xem tất cả những kịch bản kia, tất cả những nền văn hóa kia do loài người tạo ra suốt các thời đại. Con hãy trở ngược lại và đọc sách lịch sử, đọc xem người ta tin gì về các nền văn minh bao ngàn năm về trước với lãnh tụ xuất chúng biết mấy so với dân chúng bình thường. Con sẽ tìm thấy những chuyện như thế khắp mọi nơi, ở mọi quốc gia, ở mọi vùng thế giới, con sẽ tìm thấy. Xong con nhìn xem nền văn hiến kia có thể đã vĩ đại và hưng thịnh 5 ngàn năm về trước, liệu nó có liên quan gì đến con người ngày nay không? Có ai còn quan tâm nữa không? Trong một vài trường hợp thì có thể, nhưng trong đa số trường hợp chẳng ai quan tâm gì nữa. Đế chế La Mã ư? Ngày hôm nay có ai quan tâm đến đế chế La Mã? Dân tộc Inca, dân tộc Aztec, một vài nền văn mình cổ ở châu Á như Trung quốc, Hàn quốc, Nhật bản? Có ai lo lắng gì về họ? Liệu có quan trọng gì không?

Khi con nhìn những gì xảy ra cho các đế chế vĩ đại đó trong lịch sử, con chẳng thấy được hay sao, con chẳng phóng chiếu được vào tương lai hay sao? Như các thày đã nói, khi con hiểu các xu hướng của quá khứ, con sẽ có thể phóng chiếu vào tương lai, cho nên con chẳng thấy hay sao là trong một hai ngàn năm nữa, hay năm ngàn năm nữa, nền văn minh của con cũng sẽ không quan trọng y như vậy đối với con người tương lai? Điều này có nghĩa là các con, trong tư cách đệ tử chân sư thăng thiên, có thể nhìn vào nền văn minh của mình, nhìn vào nền văn hóa của mình và nói: “Chuyện này có quan trọng gì với tôi? Chuyện này có quan trọng gì với tôi? Nó có là gì đối với tôi? Tôi sẽ theo chân Giê-su bước vào tâm thức Ki-tô.”

Con có thể nhìn nền văn hóa của con, xã hội của con, văn minh của con và thấy là ngay cả ở các nước dân chủ cũng có một hệ thống tin tưởng vô cùng vi tế cho rằng có một số người cao trội, còn số đông thì thấp kém. Có một số người thông minh hơn mọi người. Có một số người được trang bị tốt hơn để lãnh đạo các tập đoàn khổng lồ, lãnh đạo chính phủ hay bất cứ gì khác. Vẫn có một nét văn hóa hơn thua vô cùng vi tế. Người ta phải biết vị trí của mình và chấp nhận vị trí này trong xã hội. Văn hóa này, mọi quốc gia đều có. Ngay cả những quốc gia dân chủ hiện đại nhất cũng mang một phiên bản của nó. Nó thường không được nói đến vì nhiều nước dân chủ vẫn muốn tạo ra bộ mặt là ai ai cũng bình đẳng, và vì vậy họ không muốn thừa nhận điều này. Nhưng họ vẫn mang cái đó. Con vẫn thấy cái đó trong mọi nền văn hóa cho dù con có ở đâu trên địa cầu. Con đã được lập trình để mang mặc cảm thua kém này so với giới lãnh đạo.

Trung hòa để trở thành cánh cửa mở

Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? À, con cần xem xét điều này. Con cần khắc phục nó. Bởi vì nếu không, rất có thể con sẽ mang trong tiềm thức niềm tin vi tế chưa được nhận diện, bảo rằng: “Ồ, tôi sinh trưởng trong một gia đình tầm thường. Tôi chỉ là một người tầm thường. Tôi không giỏi gì đặc biệt khi đi học. Làm sao tôi có thể nhận được từ Saint Germain một ý tưởng sẽ giúp đem lại thời hoàng kim? Làm sao tôi có thể xứng đáng được như vậy? Cho nên tôi sẽ ngồi yên đây và đọc thỉnh đọc chú, nhưng tôi không dám nghĩ đến chuyện nhận được một gợi ý nào đó.”      

Đối cực ngược lại với thái độ trên là những học trò háo hức quá đáng cho mình là người đặc biệt, mình là người xứng đáng nhận được gợi ý. Và họ luôn luôn chú mục vào việc nhận được những ý tưởng sẽ đem lại vẻ vang và vinh dự cho họ, sẽ khiến họ được người khác khâm phục. Và dù thế nào đi nữa, dù con có xem mình là cao trội hay thua kém, thì chính cái cảm giác cao trội hay thua kém này, chính sự phán xét giá trị này mà con áp đặt lên chính mình sẽ đóng cánh cửa của con lại. Nó sẽ ngăn cản không cho con làm cánh cửa mở.

Các thày đã nói điều gì rất nhiều lần? Sứ giả này đã nói gì rất nhiều lần? Con phải cần có gì để nhận bài truyền đọc từ các chân sư thăng thiên? Con phải ở trong một tâm thái trung hòa. À, điều này nghe có vẻ tốt thôi, nhưng tương đối chỉ ít người có thể nắm bắt được thế nào là tâm thái trung hòa. Nhưng tất cả các con đều có tiềm năng trau dồi, lần hồi trau dồi khả năng đó, là khả năng không những bước ra ngoài sự hơn thua, mà còn bước ra ngoài mọi định kiến về những gì nên làm, những gì có thể làm, những gì không thể làm – và con chỉ trung hòa tiếp nhận ý tưởng.

Con sẽ thấy là nhiều khi con tìm hiểu khoa học, chẳng hạn khi một nhà khoa học đã nỗ lực nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong lãnh vực của mình. Ông đã làm việc ráo riết và đã tập trung tất cả chú ý vào đó. Ông biết là có một điều gì ông chưa thể hiểu nhưng ông không thể nắm được. Tâm trí ông không thể nắm lấy nó. Thế rồi ông nghỉ ngơi một chặp, ông đi đâu khác, ông làm gì đó hoàn toàn khác, và bỗng nhiên ý tưởng nảy ra trong tâm ông. Và ông nhìn thấy nó trong một trải nghiệm trực giác nội tâm.

Và điều này cũng tương tự với mọi người. Con cần nhìn nhận là việc tiếp nhận một ý tưởng đòi hỏi một sự thay đổi bên trong. Trước hết con tập trung. Con tìm hiểu một đề tài. Con suy nghĩ về đề tài. Con đặt chú tâm vào nó, nhưng sẽ tới một điểm khi đơn giản con cần buông nó ra. Thế là có một khoảng trống, rồi có một khe hở để ý tưởng đi vào tâm con. Con có thấy tại sao không? À, đó là vì khi một nhà khoa học chẳng hạn nghiên cứu một đề tài, ông ta đã có sẵn một giả thuyết về những gì phải xảy ra, những gì cuộc thử nghiệm phải chứng minh và bước đột phá mới phải là gì. Cái gì đã đóng chặt tâm ông? Định kiến. Ông không cởi mở. Ông không trung hòa. Ông muốn một kết quả nhất định được thể hiện.

Con có hiểu điều này liên quan thế nào với con trong tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên? Nếu con mang lớp phủ cao trội này thì con đang muốn một kết quả nào đó thể hiện. Nếu con mang lớp phủ thua kém kia, con cũng muốn một kết quả nào đó không thể hiện. Nhưng con vẫn có định kiến. Giê-su đã nói gì rất, rất nhiều năm trước đây? “Ta không thể tự mình làm gì cả.” Đây là một cách khác để đối phó với mặc cảm tự ti-tự đại khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên. Các thày đã dạy con điều gì?

Hành động và phản ứng

Các thày đã dạy con là con có bốn thể phàm. Các thày đã dạy con là trong bốn thể phàm này không những có những cái ngã tách biệt mà còn có rất, rất nhiều những niềm tin, rất nhiều ý tưởng cùng khuôn nếp mà con đã dựng lên suốt nhiều kiếp sống về cách tương tác với trái đất, với môi trường nơi con hiện thân. Điều này cũng tốt thôi – ta không bảo tất cả là sai trái, mà ta chỉ ra cho con là con đang mang cơ chế này trong bốn thể phàm, nó cho con một cái nhìn về bản thân, về con người mà con là, về hành tinh và cách con tương tác với hành tinh cũng như người khác. Và những thứ này hình thành một lớp phủ. Các thày đã gọi đó là một phin lọc nhận thức.

Cái đó, như các thày đã giảng cho con nhiều lần, không phải là con người thực của con. Đó chỉ là một cái gì con đã khoác vào khi liên hệ với trái đất, liên hệ với việc đầu thai trên trái đất. Toàn bộ giá trị của giáo lý về cái Ta Biết nằm ở chỗ là trong bản thân con có một thành phần – mà con có thể gọi bất cứ tên gì con muốn – nhưng có một thành phần của con có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, bước ra ngoài cái tâm và nhân cách bình thường của con. Giáo lý này đã có mặt trong mọi giáo lý thần bí được biết đến trên trái đất, nó đã mang nhiều tên khác nhau và không nhất thiết gọi là cái Ta Biết, nhưng trong mọi giáo lý thần bí đều có khái niệm là trong con có một thành phần có khả năng bước ra ngoài cái con bình thường gọi là “cái tôi”, là nhân cách, là cá tính của con hay bất kỳ tên gọi nào khác.

Khi con trải nghiệm điều này, rằng con là nhiều hơn tâm vỏ ngoài, thì con có thể nhận ra là tâm vỏ ngoài này có thể làm nhiều chuyện – hay đúng hơn, con có thể làm nhiều chuyện xuyên qua tâm vỏ ngoài. Nhưng con cũng bắt đầu thấy là thường thường những gì con có thể làm bị giới hạn. Khi con hành động qua tâm vỏ ngoài, con thường tạo ra một số hậu quả không còn là những gì con muốn. Và đây là điều Giê-su đã cố giảng giải, Phật đã cố giảng giải và nhiều vị thày tâm linh khác đã cố giảng giải, là sẽ có một điểm trên đường tu tâm linh khi con bắt đầu tách mình ra khỏi sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài.

Con hướng chú ý vào bên trong. Con hướng chú ý vào cốt lõi sinh thể của con là Hiện diện TA LÀ của con. Là một con người, con có hai cách hành động: con có thể hành động xuyên qua nhân cách vỏ ngoài, hay con có thể bước ra ngoài nhân cách vỏ ngoài và cho phép Hiện diện TA LÀ hành động xuyên qua con. Như Giê-su nói, chính Cha trong tôi, Hiện diện TA LÀ trong tôi, làm mọi việc. Đây là những chọn lựa, những chọn lựa cơ bản mà con có. À, hầu hết mọi người không có chọn lựa này vì họ không có hiểu biết hay nối kết với Hiện diện TA LÀ của họ. Nhưng con là học trò của chân sư thăng thiên, con càng bước lên cao hơn trên đường tu thì con sẽ càng có nhiều chọn lựa. Liệu con sẽ hành động xuyên qua nhân cách vỏ ngoài? Hay liệu con sẽ bước qua bên và để cho Hiện diện TA LÀ hành động xuyên qua con?

Con có thể nói ở đây có một bí ẩn, là sẽ tới một điểm con bắt đầu nắm bắt được những lời dạy này, cho dù một lời dạy thần bí hay một lời dạy khác. Nhưng hãy thử lấy cách trình bày của các thày trong đợt truyền pháp này. Con đang bắt đầu nắm bắt là có một phần cốt lõi của con là cái Ta Biết. Con đã bắt đầu trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Và con đã bắt đầu trải nghiệm là con có khả năng tách mình ra khỏi nhân cách vỏ ngoài và không hành động qua nhân cách đó. Con không phản ứng lại – nếu có thể nói như vậy, vì nhân cách vỏ ngoài thật ra không thể hành động mà chỉ có thể phản ứng. Con có thể nói chọn lựa cơ bản mà con có là: Liệu con sẽ phản ứng xuyên qua nhân cách vỏ ngoài hay con sẽ hành động bằng cách để cho Hiện diện Ta LÀ chảy xuyên qua con? Lý do nhân cách vỏ ngoài chỉ có thể phản ứng là vì nó đã được tạo ra trong sự phản ứng đối với các điều kiện con gặp trên trái đất. Nó được tạo ra như một phản ứng và do đó nó luôn luôn phản ứng. Đây chính là lời dạy về các ngã tách biệt được lập trình giống như một máy tính. Bất cứ khi nào chúng bị kích hoạt thì lần nào như lần nấy, chúng sẽ phản ứng lại theo một cách nhất định.

Tôi là ai?

Nhưng tới một thời điểm, sự bối rối sẽ xuất hiện, và sẽ có một giai đọan con cần sẵn lòng kinh qua nỗi bối rối huy hoàng này là câu hỏi: Ai đang là “tôi” trong lúc này? Con có một giai đoạn, và hầu hết mọi người vẫn còn trong giai đoạn này, khi con bị hoàn toàn đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài. Khi con bảo “tôi” thì cái đó là nhân cách vỏ ngoài. Sau đó sẽ đến giai đoạn khi con bắt đầu nhận ra con là nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài. Nhưng khi đó, “tôi” là ai chứ?

Tôi có phải là Hiện diện TA LÀ? Không, vì Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Tôi có phải là cái Ta Biết? Cái Ta Biết là gì? Các thày đã nói đó là nhận biết thuần khiết. Gần như các thày đã mô tả như thể nó không là gì cả. Nó giống như một cái chấm. Nó là gì? Tôi là ai ngay lúc này? Và con yêu dấu, đây chỉ là một giai đoạn cần thiết và con cần sẵn lòng đi xuyên thấu nỗi bối rối này. Tất cả những ai đã từng hiện thân và đã thăng thiên đều đã phải đi xuyên thấu nỗi bối rối này. Đôi khi nó có thể kéo dài nhiều năm, thậm chí mấy chục năm trời.

Tôi là ai khi tôi bảo “tôi”? Tôi biết tôi không phải là nhân cách vỏ ngoài, nhưng nếu vậy thì tôi là ai hay tôi là gì? Không có lời dạy nào các thày có thể cho con sẽ giải quyết được bí ẩn này tức thì. Điều thật sự cần xảy ra là con đạt đến một điểm khi câu hỏi đó trở nên vô hiệu lực. Sự kiện tôi là ai hay là gì thật không quan trọng, bởi vì tôi chỉ là. Từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc sau, tôi chỉ là, cho dù tôi có là gì. Trong khoảnh khắc này tôi có thể hành động cách này, và trong khoảnh khắc sau tôi có thể hành động cách kia. Nhưng dù tôi có là gì thì tôi vẫn là. Con không cần phân tích, con không cần suy tư, con không cần mang ý tưởng là con luôn luôn phải là cùng y như vậy.

Hành động không cần có lý do

Sau đây là yếu tố chót ta muốn trao cho con trong bài giảng này vì ta biết ta đã cho con một số khái niệm rất tinh tế, phức tạp. Nhưng nhiều người trong các con đã sẵn sàng để bắt đầu suy ngẫm. Yếu tố chót này là khi con nhìn thế giới, các thày đã nói trong những bài giảng trước ở nơi đây là trong tâm thức tập thể có những rào cản, có những con xoáy, có những cơn lốc tìm cách lôi kéo con vào, nhưng cũng có những rào cản ngăn chặn những gì con người có thể thấy và có thể nghĩ. Và một trong những rào cản này, trong số những rào cản thực sự vi tế, thực sự gian xảo, thực sự làm tổn thương và tê liệt, là ý tưởng cho rằng con luôn luôn phải có một lý do để làm những gì con đang làm. Và con phải nhất quán trong những gì con làm.  

Nói cách khác. con quyết định phản ứng lại một tình huống nào đó theo một cách nào đó, và con phải có khả năng đưa ra một cách giải thích hợp lý, đường thẳng, lô-gíc về lý do con hành xử như vậy. Xong một khi con đã hành xử như vậy trong một tình huống thì con luôn luôn phải hành xử theo cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Đây là điều mà văn hóa của con đòi hỏi con làm. Đây là điều xã hội của con đòi hỏi con làm, là điều mọi người chung quanh con sẽ đòi hỏi con làm. Họ đòi hỏi con phải có lý do. Họ đòi hỏi một sự nhất quán.

Đằng sau tất cả sự thể này cuối cùng là sa nhân, chúng muốn kiểm soát con. Bởi vì chúng bảo, con luôn luôn phải có một lời giải thích hữu lý về lý do con làm những gì con làm. Nhưng điều này thực sự nghĩa là gì? Nghĩa là con cần có một lời giải thích có thể chấp nhận được ở đây trên trái đất, trong xã hội và nền văn hóa đặc thù của con. Và nếu xã hội và văn hóa này bị sa nhân chi phối thì con sẽ chỉ có thể hành xử theo những cách được chấp nhận bởi chuẩn mực và quy định của chúng. Và sau đó tất nhiên, một khi con đã làm vậy một lần thì con sẽ phải đi theo đường rày này cho đến mãn kiếp. Con sẽ phải luôn luôn làm cùng một chuyện như vậy.

À, con yêu dấu, trong Kinh thánh có nói gì về Thánh linh? Rằng Thánh linh thổi nơi nào nó muốn. Có nghĩa chăng là Thánh linh không tuân theo quy tắc nào? Ấy, chúng ta có thể bàn cãi liệu Thánh linh có theo quy tắc nào hay không, nhưng điều chắc chắn chúng ta có thể nói là Thánh linh không tuân theo quy tắc nào do con người đặt ra. Thánh linh không tuân theo quy tắc do sa nhân quy định.

Sa nhân muốn đóng chặt Tánh linh để Tánh linh không thể tuôn chảy. Đây là mục đích chính của chúng. Mối đe doạ lớn nhất đối với chúng là có người đạt đến một mức tâm thức khi có gì từ cõi tâm linh tuôn chảy xuyên qua họ. Đây là mối đe dọa chủ yếu và cũng là điều chúng muốn ngăn cản bằng mọi cách có thể. Chúng muốn mọi chuyện phải tiên đoán được, phải kiểm soát được, và tất nhiên điều này không ảnh hưởng chút nào đến Tánh linh.

Đây là một trong những bước đột phá to lớn con có thể ngộ được trên đường tu tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, khi không những con hiểu bằng trí năng mà con còn thấy được. Con thấy được là Tánh linh hoàn toàn độc lập và không bị tác động bởi các lý thuyết cùng tin tưởng của con người trên trái đất – và tất nhiên của sa nhân. Không một niềm tin nào trên trái đất có bất kỳ ảnh hưởng nào trên Tánh linh. Nếu con muốn một minh họa về điểm này thì con hãy lấy một chiếc búa thật lớn, chiếc búa lớn nhất mà con có thể cầm trong tay, con đi xuống bãi biển một hôm đẹp trời và con lấy búa đập vào đại dương với tất cả sức bình sinh của con. Đồng ý, nước sẽ bắn tung tóe, nhưng chỉ vài giây sau, đại dương sẽ làm gì? Đại dương sẽ êm đềm lại như cũ. Đấy, điều này phần nào minh họa cho Tánh linh, ngoại trừ điểm khác biệt là dù con có chế tạo một chiếc búa vĩ đại đến chừng nào trên trái đất thì con vẫn không thể khiến cho Tánh linh bắn tung tóe. Tánh linh hoàn toàn không bị tác động bởi hành động con người.

Sa nhân có một niềm tin vô cùng lâu đời mà nhiều người đã hấp thu. Chúng nghĩ là những gì chúng làm, hay con người làm ở đây trên trái đất có thể ảnh hưởng được cõi tâm linh, ảnh hưởng các thiên thần, ảnh hưởng Thượng đế. Sa nhân muốn tin là chúng có thể thay đổi quan điểm của Thượng đế và được giao phó việc cai quản tạo vật của ngài. Nhiều người muốn tin là Thượng đế chú ý đặc biệt đến họ, ban cho họ ân huệ. Tất cả chỉ là chuyện hư cấu, con yêu dấu. Tất cả đều là hư cấu. Các thày đã từng nói rồi đó. Các thày là chân sư thăng thiên chứ không phải là thần thánh đáp ứng lời cầu của con. Các thày ở đây để giúp con tự giải thoát khỏi tâm thức con người chứ không để ban cho con những ân huệ mà con nghĩ là quan trọng trong tâm thức con người.

Tánh linh hoàn toàn thản nhiên trước quan điểm và tin tưởng của con người. Điều này nghĩa là gì? Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho Tánh linh? Bằng cách, ở mức độ cao nhất mà con có thể, giải phóng tâm con khỏi tất cả những quy tắc, luật lệ do con người đặt ra. Đây là điều các thày gọi là đi vào tâm thái trung hòa. Điều này đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau trong các giáo lý thần bí: Hồng ân lắng nghe, tâm thức thuần khiết lắng nghe, sự nhận biết thuần khiết. Còn nhiều tên gọi nữa, nhưng tên gọi không quan trọng. Điều quan trọng là con, tất cả các con, có thể vun bồi một cách ý thức khả năng bước vào tâm thái trung hòa và đơn giản mở cửa ra cho Tánh linh.

Tôi buông, tôi buông, tôi buông

Chắc chắn sẽ có những người không làm được chuyện này vì tâm họ mở ra quá lớn với cõi cảm xúc hay cõi lý trí. Nhưng các con là đệ tử của chân sư thăng thiên, con đã thực tập các bài chú của các thày để tự bảo vệ tâm linh, con đã thỉnh gọi Astrea, đã đọc các bài thỉnh, đã nỗ lực giải quyết tâm lý của mình, thì hầu hết các con đều có thể được lợi lạc – một khi con đã giải quyết phần nào tâm lý của mình và không bị buộc vào các thế lực thấp kém kia – con có thể được lợi lạc dành ra một chút thì giờ để ngồi xuống trong một tư thế thoải mái, hay con nằm xuống, và con chỉ bước vào tâm thái trung hòa này. Ta biết là ta đang nói “con chỉ bước vào”, nhưng kỳ thực đây là một trong những việc khó làm nhất do có quá nhiều áp lực từ ngoại cảnh trên tâm con cứ muốn kéo con ra khỏi tâm trung hòa. Nhưng dẫu vậy, ít nhất con có thể bắt đầu tiến trình này.

Con có thể dành ra một chút thời gian. Và một cách là con thực hiện một đợt canh thức (novena) như các thày ta đã có bàn đến. Các thày có một canh thức cho Đại chỉ đạo Thiêng liêng khi con đọc bài chú Đại chỉ đạo Thiêng liêng 9 lần (hay 14 lần – có hai bài chú cho Đại chỉ đạo Thiêng liêng, và cho canh thức thì con dùng bài nào cũng được). Sau đó con ngồi lại đó với một tờ giấy trắng và một cây bút, và con ghi xuống bất cứ gì khởi lên trong con. Tương tự như vậy, con cũng có thể làm canh thức cho ta bằng cách đọc bài chú của ta 9 lần, xong con ghi xuống bất cứ gì đến với con mà không có phán xét, không có định kiến gì hết.

Nhưng chuyện này cũng không cần nghi thức đến vậy. Con có thể chỉ đơn giản bước vào một trạng thái lắng nghe. Con không cần ghi xuống, nhưng đôi khi việc ghi xuống có thể giúp con vô hiệu hóa tâm mình. Nhưng nếu con có thể, con chỉ đi vào một tâm thái trung hòa. Điều có thể giúp con là con nằm xuống, hay con nhắm mắt, con ngồi thẳng nhắm mắt, và con chỉ chú ý đến ý tưởng của mình. Nhiều hình thức thiền định bảo con chú ý đến hơi thở, và nếu điều này hữu ích cho con thì cũng tốt thôi, nhưng con hãy chú ý đến ý tưởng của mình. Và bất cứ khi nào một ý tưởng hiện ra, con thầm nói trong tâm: “Tôi buông, tôi buông nó” [surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại]. Con không cần suy nghĩ. “Tôi không cần suy nghĩ về chuyện này. Tôi không cần giải quyết bất cứ gì. Tôi chỉ buông nó ra. Tôi để cho nó ra đi. Tôi buông, tôi buông, tôi buông.” Con có khả năng làm được.

Vị sứ giả này đã làm như vậy rất nhiều lần trong đời ông và ông vẫn tiếp tục làm vậy. Con có thể làm vậy một cách thường xuyên, chỉ cần một vài phút, hay con có thể làm lâu hơn, bất cứ gì con muốn. Nhưng con chỉ buông. Con không có ý là chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con chỉ đi vào trung hòa. Con không có ý là một chân sư thăng thiên phải hiện ra trước mặt con và cho con một ý tưởng huy hoàng nào đó. Con không có định kiến về điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy lưu ý điều ta vừa nói: “điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra”. Con không có ý tưởng là không gì được xảy ra, hay con không xứng đáng được nhận ý tưởng nào. Nhưng con cũng không có ý tưởng là con muốn như vậy.

Nếu con có thể trau dồi khả năng lắng nghe nội tâm này, con có thể thấy như các thày có nói là lúc đầu con nhận được một số sáng ngộ về những gì con cần giải quyết trong tâm lý. Và nếu con sẵn lòng thì với thời gian, con sẽ bắt đầu xoay chuyển và con nhận được những ý tưởng khác nữa về những gì con có thể làm – những gì con có thể làm trong đời mình, làm cho các chân sư thăng thiên, làm cho Saint Germain.

Để yên cho Tánh linh làm việc xuyên qua con

Và làm sao con có thể nói được với tâm thái hiện thời của con là chuyện này sẽ dẫn con xa đến đâu? Con hiểu là ngay bây giờ, ngay ở đây, con đang lắng nghe bài truyền đọc này, hay con đang đọc bài giảng này. Ngay bây giờ con đang ở một tầng nào đó trong số 144 tầng tâm thức. Cho dù tầng tâm thức của con là gì, con nhìn nhận là khi con cứ tiếp tục tiến bước trên đường tu tâm linh và thực hành các giáo lý mà các thày đã cho con, con sẽ lần hồi nâng cao tâm thức. Nhưng các thày đã nói gì với con? Khi con khởi sự ở tầng 144 và đi xuống, con khoác vào một ảo tưởng để bước xuống tầng 143. Và con cứ khoác thêm từng ảo tưởng như vậy để đi xuống tầng tâm thức hiện thời của con. Có nghĩa là nếu con đang ở tầng 80 chẳng hạn, con vẫn còn mang khá nhiều ảo tưởng ngăn cản con nhìn thấy rõ.

Con cần nhìn nhận ở đây là ở tầng tâm thức hiện thời của con, con không thể nào thấy được con sẽ như thế nào khi con ở 10, 20 hay 30 tầng cao hơn bây giờ. Con cần phải nhìn ra và chấp nhận với tâm ý thức là khi con tiếp tục bước chân trên đường tu, con sẽ đi lên cao hơn và một ngày kia con sẽ ở 20 tầng cao hơn ngày hôm nay.

Điều gì quan trọng với con bây giờ? Là con không cho phép tâm vỏ ngoài, hay bất kỳ thế lực nào đang lôi kéo tâm con, khiến con tin rằng có sự giới hạn trong những gì con có thể làm. Thật vô cùng quan trọng con nhìn nhận là ở mức hiện thời, con đang có một viễn quan nào đó. Và ở mức này thì đúng vậy, có những điều con không thể làm được. Nhưng cũng thật quan trọng con nhận ra là khi con nâng cao tâm thức, viễn quan hiện thời của con sẽ không còn hạn chế con nữa. Và do đó, con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ làm được chuyện này.” Suốt các thời đại, quá nhiều người đã nhìn vào Giê-su, chẳng hạn, cùng toàn bộ câu chuyện về những phép lạ của thày và nói: “Tôi sẽ không bao giờ đi bộ được trên mặt nước.”

Nhưng này con, trong thời đại hôm nay chuyện đi bộ trên nước thật không có ý nghĩa gì mấy, cho nên ta không yêu cầu con nuôi dưỡng ý tưởng là một ngày kia con sẽ có thể đi bộ trên nước, và nếu con không thể thì con là một kẻ thất bại. Con hãy để cho ý tưởng đó tàn lụi, vì có nhiều cách khác để con biểu hiện quả vị Ki-tô. Và thật vô cùng quan trọng là con đừng nhìn vào Ki-tô rồi thần tượng hóa, đừng rơi vào sự sùng bái thần tượng đã được xây đắp chung quanh Giê-su hay chung quanh Phật, để rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi không thể nào làm được những gì Giê-su hay Phật đã làm.” Trên thực tế, điều thật quan trọng là con không tìm cách so sánh mình với các vị đó để mà nghĩ rằng nếu con đạt được quả vị Ki-tô hay quả vị Phật thì con phải làm được y như họ đã làm.

Bởi vì với mức tâm thức hiện giờ của con, làm sao con biết được những gì Tánh linh sẽ thực hiện xuyên qua con khi con bước lên 20 tầng cao hơn? Làm sao con thấy được? Thực tế là con không thể nào thấy được do những ảo tưởng mà con chưa giải quyết. Nhưng có những người – và người ta làm chuyện này thường xuyên – vẫn có thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi không thể nào làm được. Không bao giờ tôi sẽ làm được.” Ấy, con không bao giờ nên nói “không bao giờ”, vì khi con quyết định vỏ ngoài như vậy, thật ra con có thể hạn chế những gì tâm vỏ ngoài của con có thể chấp nhận. Và điều này có nghĩa là giờ đây có thể có tình huống là con đã thực sự bước cao hơn 20 tầng trên đường tu và Tánh linh có khả năng làm gì đó xuyên qua con mà trước đó nó không thể làm, nhưng tâm vỏ ngoài của con thì không thể chấp nhận. Tâm vỏ ngoài không thể chấp nhận sự chứng đạt của con, cho nên điều này ngăn chặn Tánh linh làm việc qua con.

Sứ giả này vào thời Summit Lighthouse khi ông ngồi đó lắng nghe hàng trăm bài truyền đọc do bà Elizabeth Clare Prophet trao truyền, một số bài truyền đọc rất cao siêu, rất dũng mãnh, thì ông đã có thể nói: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ làm được như vậy.” Nếu con nhìn lại và so sánh, con có thể nói là một số bài truyền đọc của bà ấy rất khác với những gì sứ giả này đang trao truyền. Có người sẽ bảo là chúng cao hơn, có người sẽ bảo là chúng nhiều uy lực hơn, nhưng liệu so sánh như vậy có nghĩa lý gì không? Sứ giả này không có mục đích làm giống y như bà Elizabeth Clare Prophet mà ông chỉ có mục đích cho phép Tánh linh làm việc xuyên qua ông theo cách Tánh linh muốn làm việc xuyên qua ông.

Không ích gì mà so sánh những gì Tánh linh làm qua một người với những gì Tánh linh làm qua một người khác. Tánh linh thổi nơi nào nó muốn. Thật không ích gì con tự so sánh với Giê-su, với Phật hay với một vị thày tâm linh nào khác, hay với sứ giả này. Những loại so sánh như vậy chẳng ích lợi gì hết. Con không biết được Tánh linh sẽ làm gì xuyên qua con trong tương lai. Và quan trọng hơn, con không biết được Tánh linh sẽ không làm gì, cho nên con đừng quyết định với tâm vỏ ngoài là Tánh linh phải làm gì hay không được làm gì xuyên qua con. Đây là một trong những cách thông thường nhất mà người tâm linh giới hạn những gì Tánh linh có thể làm xuyên qua mình.

Con hãy sẵn lòng nhận bài truyền đọc này, nhận những bài truyền đọc khác từ hội nghị này, và nhìn xem: “Tôi đang giới hạn Tánh linh như thế nào?” Sứ giả này nhiều năm trước đây đã đi đến kết luận đó. Ông đã có thể hòa điệu và nhận được ý tưởng đó, và như vậy ông đã bắt đầu xem xét: “Tôi đang giới hạn Tánh linh như thế nào? Tôi đang giới hạn cách Tánh linh chảy qua tôi như thế nào?” Và việc quán chiếu này đã là một trong những yếu tố chủ yếu dẫn ông vào tâm thái qua đó Giê-su đã có thể khởi sự huấn luyện ông cho sứ mạng đặc thù hiện nay của ông. À, sứ mạng của con sẽ khác, nhưng điều quan trọng là con xem xét những giới hạn con đang áp đặt lên Tánh linh như thế nào, hay con đang tìm cách hướng dòng chảy của Tánh linh đi về đâu để đem lại một số kết quả mà tâm vỏ ngoài của con mong muốn.

Giai đoạn vô vi

Sứ giả này trước khi ông bắt đầu luyện tập với Giê-su, đã chứng được sáng ngộ là quá nhiều nỗ lực của mình trên đường tu tâm linh đã bị sai khiến bởi tự ngã. Ông đã mong muốn trở thành một đệ tử tinh tấn với dáng vẻ một đệ tử cao cấp. Quá nhiều chuyện ông làm đã bị thúc đẩy bởi động cơ này. Và như các thày có nói, chuyện này cũng thật hợp lẽ giữa tầng 48 và 96 vì con cần vươn lên khỏi tâm thức tập thể. Nhiều các con sẽ có cảm nhận tương tự, cảm giác tương tự như vậy, và con sẽ có thể nhìn ra điều này nếu con sẵn lòng, và con sẽ làm được những gì sứ giả này đã làm – con chỉ buông bỏ, con chỉ để cho nó ra đi và con ngộ: “Không có gì mà tôi muốn làm trên hành tinh này.”    

Và khi không có gì mà con – cái nhân cách vỏ ngoài – muốn làm trên hành tinh này thì đó là lúc Tánh linh có thể nói: “Vậy con có cho phép ta làm gì đó xuyên qua con hay chăng?” Giờ đây, con không cần đạt tới điểm buông bỏ mọi thứ, mọi mong muốn của con người. Nhưng con cần có một khe mở để Tánh linh làm việc xuyên qua con theo những cách con không đoán trước được hay không cố gắng kiểm soát.

Con yêu dấu, sa nhân đang mưu toan kiểm soát Tánh linh. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con thật sự không muốn làm cùng chuyện đó. Thánh linh thổi nơi nào nó muốn. Có nghĩa là để cho Thánh linh thổi xuyên qua con, con phải sẵn lòng để yên cho nó thổi theo những cách con không thể tiên đoán, không thể dự trù, không thể điều khiển. Nếu con muốn kiểm soát trước dòng chảy của Tánh linh thì Tánh linh sẽ phải đứng lui lại và đợi cho đến khi con mở cửa ra. Không thể nào khác được, con yêu dấu, vì Thánh linh sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con, ý chí tự do của con. Vậy con có thể hỏi: “À, thế khi sứ giả này khởi sự vào năm 2002 hay 2001, liệu ông có biết ông sẽ làm gì ngày hôm nay không? Ông có biết trước việc gì sẽ xảy ra không?” Không, ông không biết. Vậy thì làm thế nào ông đã tự do chọn lựa? Nhưng ông đã tự do chọn lựa là ông sẽ bỏ sang bên các mong muốn cùng tham vọng của con người phàm. Ông sẽ mở rộng ra với Tánh linh và nói: “Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra, Tánh linh cứ việc tuôn chảy xuyên qua tôi.” Đó cũng là một chọn lựa tự do đó con.

Chỉ có tâm vỏ ngoài mới muốn kiểm soát kết quả, muốn tiên đoán kết quả. Nó muốn biết trước kết quả sẽ ra sao, nó muốn một sự đảm bảo. Nhưng không có gì là đảm bảo. Ác quỷ sẽ cho con một hợp đồng. Tánh linh không cho con hợp đồng nào. Con có rộng mở ngay bây giờ hay chăng? Nếu thế thì Tánh linh sẽ chảy qua con. Nếu ngày mai con không rộng mở thì ngày mai Tánh linh sẽ không chảy qua con. Nếu 10 năm sau con lại rộng mở, Tánh linh sẽ lại chảy qua con một lần nữa – bất cứ khi nào có sự cởi mở. Không có hợp đồng, không có nghĩa vụ, không có bó buộc. Quá nhiều người cho rằng để là cánh cửa mở cho chân sư thăng thiên, con như thể phải mặc vào một bộ áo tù khóa chặt chân tay. Giờ đây con phải làm mọi chuyện cho thật chỉnh. Các thày đã nói gì chứ? Câu hỏi duy nhất đặt ra là liệu sự cởi mở có mặt hay không, có một khe mở hay không, có một cửa mở hay không? Khi đó Tánh linh có thể và sẽ tuôn chảy. Thường khi vấn đề không phải là con phải làm một điều gì đó, mà là không làm một điều gì đó.

Điều nghịch lý tất nhiên là hầu hết mọi người khi cất bước trên đường tu tâm linh đều có quá nhiều năng lượng tha hóa trong cảm thể và trí thể, quá nhiều ảo tưởng đến độ họ cần phải dọn dẹp đi phần nào, cho nên trong một thời gian họ sẽ phải làm một điều gì đó. Con phải đọc chú, đọc thỉnh để giải tỏa các năng lượng, con phải làm việc trên các ngã tách biệt và ảo tưởng của con, con phải học tập các giáo lý. Con phải nỗ lực một thời gian để dọn sạch những rác rưởi trong bốn thể phàm sẽ đóng chặt tâm con, vì đó cũng là một cách đóng tâm con lại. Nhưng một khi con đã làm công việc này, vấn đề không phải là làm nữa mà kỳ thực là không làm.

“Vô vi nhi vô bất vi” – không làm nhưng cũng không không làm – là một khái niệm trong đạo Phật mà con có thể quán chiếu. Vô vi nhi vô bất vi. Một số các con đã sẵn sàng để bắt đầu quán chiếu bí ẩn này. Một số thì chưa hẳn như vậy cho nên con có thể bỏ qua điểm này, nhưng sẽ tới một điểm khi con không còn là tác nhân nữa. Nhưng dẫu sao con cũng nhìn nhận là có một số công việc phải được chăm sóc trong đời sống thực tế, và con hãy chăm sóc chúng, rồi sau đó con hãy tập trung vào các hoạt động tâm linh của con. Nhưng phần nào con luôn luôn mở ra, con luôn luôn lắng nghe, luôn luôn trong tâm con có một khoảng trống, một khe mở. Có thể con đang chú tâm vào một số vấn đề trong cuộc sống, nhưng vẫn có một phần trong con mở ra để tiếp nhận một sáng ngộ mới, một ý tưởng mới. Nhiều khi giữa sinh hoạt hàng ngày, con vẫn có thể nhận được một sáng ngộ nào đó, một xung lực nào đó.

Đây là điểm các thày muốn con đạt được, là khi con bắt đầu có được hồng ân lắng nghe – nếu các thày có thể gọi như vậy – là sự cởi mở nội tâm mở ra phần nào với Tánh linh, với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên. Và ai nói được Tánh linh có thể làm gì xuyên qua con? Chắc chắn không người nào khác nói được là Tánh linh có thể hay không thể làm gì xuyên qua con. Ta có ý gì khi ta bảo là không người nào khác có thể nói cho con? À, bốn thể phàm, nhân cách vỏ ngoài của con là gì chứ? Đó là một con người, cho nên chính nhân cách vỏ ngoài của con không thể nói cho con Tánh linh có thể hay không thể làm gì xuyên qua con.

Với lời này, ta đã trao cho con những ý tưởng mà ta muốn trao. Ta cũng biết – nếu có thể nói vậy – đây là một bài truyền đọc thật huyền bí hay thần bí, đòi hỏi nơi con rất nhiều suy ngẫm. Đối với một số các con, có thể nó sẽ không vang dội trong con vì con chưa ở mức cần đến nó. Nhưng với một số khác, nó đúng là điều con đang cần để bước lên thêm một tầng nữa trên đương tu. Ta để con tùy tiện sử dụng thế nào cũng được. Nhưng như ta có nói, nếu con nỗ lực tập trung vào Bản thể của ta, vào Hiện diện của ta, thì ta sẽ làm mọi cách để cho con những sáng ngộ mà con cần hầu bước lên một mức độ phụng sự và hòa điệu cao hơn. Với lời này, ta niêm con trong ngọn lửa vui mừng mà TA LÀ.

Cách giao tiếp không ép buộc

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Tiến tới các Quan hệ của Thời Hoàng kim. Đăng ngày 9/10/2021.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia sáng thứ Năm. Tia thứ Năm thường được xem là Tia của Sự thật, hay Tia của Chữa lành. Đâu là mối liên hệ giữa sự thật và chữa lành? Nghĩ cho cùng, con cần chữa lành cái gì chứ? Con cần chữa lành khỏi tâm lý mà con chưa giải quyết. Nhưng tâm lý chưa giải quyết đến từ đâu? Nó dựa trên gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Ảo tưởng là sự vắng mặt của sự thật. Khi con đem lại sự thật thì con thực hiện việc chữa lành.

Chính xác điều này có nghĩa là gì trong lãnh vực các mối quan hệ? À, chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói gì? Con hãy lấy một mối quan hệ điển hình trên địa cầu. Cả hai người đều mang tâm lý chưa giải quyết. Con có thể định ra một cách đo lường hay một cái thang khi nhìn con người. Con có thể nói là ở đầu bên này là những người mà toàn bộ hành động, toàn bộ cảm xúc, toàn bộ ý nghĩ và toàn bộ ý niệm bản sắc của họ đều là sản phẩm của một tâm lý chưa giải quyết. Đây là điều mà con nhận thấy nơi các sa nhân ở gần tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên địa cầu. Và ở đầu bên kia của cái thang, của quang phổ tâm thức, là những người chỉ còn rất ít tâm lý chưa giải quyết, đến độ họ tự do hơn rất nhiều để không những chọn lựa hành động của mình, mà chọn lựa cả phản ứng của mình. Nói cách khác, họ chọn lựa cảm xúc của họ, chọn lựa ý nghĩ của họ, chọn lựa ý niệm bản sắc của họ.

Khi con nhìn vào tuyệt đại số con người trên địa cầu, con sẽ thấy là hầu hết mọi người ở một mức không hoàn toàn bị tâm lý chưa giải quyết chế ngự, nhưng họ vẫn bị tâm lý đó tác động rất, rất mạnh mẽ. Con nhìn vào mối quan hệ điển hình thì con sẽ thấy gần như mọi chuyện trong quan hệ đó hoặc là hệ quả, hoặc bị ảnh hưởng và bị tô màu một cách vô cùng sâu đậm bởi tâm lý chưa giải quyết của cả hai người. Như thày Serapis có nói, nó tương tự như ngã tách biệt này đang tương tác với ngã tách biệt khác. Những ngã tách biệt của một người tương tác với ngã tách biệt của người kia, quy định cách họ hành xử với nhau và phản ứng lẫn nhau.

Lẽ tự nhiên, trong cương vị một người tâm linh, con đã bắt đầu khắc phục được phần nào vấn đề nói trên. Và lẽ tự nhiên, con cũng nhận ra, hay con có khả năng nhận ra nhanh chóng, là toàn bộ mục tiêu của con đường tâm linh là đạt tới điểm khi các mối quan hệ của con không còn bị chế ngự và không còn bị hoàn toàn chi phối bởi tâm lý chưa giải quyết của con. Như chúng tôi có nói, trong bất kỳ quan hệ nào, con đừng nên tập trung vào người kia, vào đối tác, vào người bạn đường của con. Con hãy tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi, mà cái đó chính là bản thân con, là tâm lý của con. Khi nói đến các mối quan hệ, đấy có thể được xem là sự thật cao nhất. Con không có khả năng thay đổi người bạn đường của con nhưng con có khả năng thay đổi chính con. Cho nên nếu con muốn được nội lực, nếu con muốn tăng triển, con phải tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi.

Tuy nhiên, ta cũng muốn nói với con là việc thay đổi tâm lý của mình không hoàn toàn là một tiến trình nội tâm. Nếu con lấy các giáo lý mà chúng tôi đã ban ra thì con đã có thể nói: “Bây giờ tôi nhận ra những gì các thày đã dạy về tâm lý của tôi. Nếu tôi lấy tất cả những lời giảng dạy đó thì tôi phải có thể rút về một hang đá trên núi Himalaya, sử dụng các giáo lý đó để xem xét tâm lý mình, rồi với thời gian, lần lần tôi sẽ giải quyết hết mọi tâm lý chưa giải quyết cho tới khi tôi sẵn sàng thăng thiên. Cá nhân tôi phải làm được chuyện đó mà không cần tương tác chút nào với người khác, vì như các thày có nói, tôi có trọn vẹn quyền năng trên tâm lý của tôi. Tôi hoàn toàn có khả năng thay đổi ngã tách biệt của tôi, tháo gỡ chúng ra, buông bỏ mọi ảo tưởng và chuyển hóa mọi năng lượng.”

Điều đó đúng, con có thể làm như vậy. Có những người đã làm được như vậy, đã rút về ở ẩn nơi hang đá trên núi Himalaya, rồi nhiều năm sau họ bước ra khỏi hang sau khi đã thực hiện một số tiến bộ tâm linh. Tuy nhiên đó không phải là cách nhanh nhất để phát triển tâm linh. Và nếu con đang sống kiếp đầu thai chót của con và con muốn hội đủ tư cách để thăng thiên, đó không phải là cách hiệu quả nhất để đạt tới thăng thiên. Bởi vì chúng tôi đã nói gì chứ? Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã tự đặt mình vào mối quan hệ với một số người nhất định chính vì con đã thấy được đây là cách nhanh nhất để mà tinh tấn.

Trên lý thuyết thì con có thể ngồi đó, và trong tâm con có thể hoàn toàn giải quyết tâm lý của con, nhưng điều này sẽ tốn rất nhiều thời gian, vì với một tiến trình hoàn toàn nội tâm như vậy, con không có cùng khung tham chiếu, con không nhận được sự phản hồi, con không có tương tác nào với người khác để mà có được một tầm nhìn về bản thân mình, hay để nó bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, rồi chính cách phản ứng này làm lộ ra cái ngã tách biệt mà con cần thấy.

Có những người, thật ra có khá nhiều người, đã rút vào một khung cảnh tu viện, cho dù họ theo đạo Cơ đốc, đạo Phật hay bất kỳ tôn giáo nào khác. Họ rút hẳn khỏi thế giới để ẩn mình trong tu viện nơi mọi chuyện đều có luật lệ nghiêm ngặt rõ ràng. Họ dành ra một phần thời gian để làm việc, một phần thời gian để tu tập, và có thể một phần thời gian để nghiên cứu. Tất cả mọi thứ đều tuân theo luật lệ. Và khi họ chấp nhận bước vào sống trong một môi trường như thế, thường khi tự ngã của họ sẽ thở phào nhẹ nhõm, bởi vì giờ đây họ sẽ sống trong một khung cảnh kềm chế nơi họ không phải phản ứng lại bất cứ điều gì, và như thế tự ngã mới có chỗ để lẩn trốn. Có nhiều người tưởng mình đã tinh tấn, nhưng đó là vì tự ngã đã luôn luôn tìm được cách lẩn tránh. Họ không thấy được tự ngã vì không có gì đẩy nó ra ngoài cho nó lộ diện.

Chính con đã chọn tự đặt mình vào một số mối quan hệ vì con nhận ra đây là cách nhanh nhất. Điều này không có nghĩa là con phải ở lại trong quan hệ đó mãi mãi, mà chỉ cho tới khi con giải quyết được những gì con cần giải quyết trong quan hệ đó. Nhưng bằng cách tham gia năng động vào xã hội, có nhiều quan hệ khác nhau, nhận sự phản hồi của người khác và giám sát cách phản ứng của mình đối với người khác, đó thật là cách nhanh nhất để con tăng triển tâm linh. Đối với tuyệt đa số mọi người, cách này hiệu quả hơn hẳn một lối sống ẩn dật.

Điều này có thể hơi khác cho những ai đã làm công việc này trong tiền kiếp, nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo, cuộc sống năng động và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn rất nhiều. Điều này có nghĩa gì? Như ta vừa nói ở trên, điều này có nghĩa là cách hữu hiệu nhất không phải là một tiến trình hoàn toàn nội tâm, và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn.   

Và tất nhiên, nó có nghĩa trước hết là con nói chuyện với người kia. Thày Lanto có bảo là con hãy bước ra lãnh vực thế tục và tìm hiểu các nghiên cứu về quan hệ, và nếu con làm việc đó, con sẽ thấy đa số các chuyên gia về quan hệ đều chỉ ra rằng vấn đề hàng đầu trong mọi quan hệ, đặc biệt các mối quan hệ trục trặc, là sự thiếu giao tiếp – không có dòng giao tiếp chảy tự do. Có thể trong một số trường hợp dòng giao tiếp có mặt, nhưng là một dòng trục trặc.

Nói cách khác, trong các mối quan hệ không diễn ra tốt đẹp, con thường thấy hai thái cực. Một thái cực là hai người không còn nói chuyện với nhau nữa. Hoàn toàn không có giao tiếp xảy ra, hoặc là họ không giao tiếp, hoặc họ chỉ giao tiếp về một số đề tài vô hại như thời tiết, hàng xóm, con cháu hay bất kỳ chuyện gì khác. Đây là thái cực đầu, người ta không nói chuyện với nhau.   

Có một thái cực thứ nhì là họ có nói chuyện với nhau, nhưng thay vì nói chuyện về mối quan hệ, họ lại nói về những chuyện khác, hay họ chỉ trích lẫn nhau, cằn nhằn với nhau, tìm cách ép buộc nhau phải nhìn theo cách của mình. Nói cách khác, họ dùng một dạng giao tiếp ép buộc nơi họ tìm cách kiểm soát, hay có lẽ thay đổi người kia.

Dù sao thì trong cả hai cách đều có sự ép buộc, có vũ lực, vì cách duy nhất để hai người không thể nói chuyện với nhau là ép buộc mình, là đè nén xuống. Hoặc khi hai nguời cãi nhau và tìm cách lấn át nhau, thì hiển nhiên cả hai cũng đang dùng lực.

Món quà dựa trên Tia thứ Năm mà ta muốn tặng cho con là con có khả năng thiết lập một dạng giao tiếp khác hơn. Chúng ta có thể gọi đó là dạng giao tiếp không ép buộc, giao tiếp không dựa trên lực. Bình thường con sẽ có thể hỏi: “Nhưng giao tiếp chẳng phải là một con đường hai chiều hay sao? Tôi có thể học một cách giao tiếp tiến bộ mới mẻ và tôi có thể nói điều gì đó cho người bạn đường của tôi, nhưng nếu người ấy chỉ lạnh lùng nhìn tôi, hay nhún vai bước ra khỏi phòng, hay nổi giận và bắt đầu la hét thì sao?”

Nhưng chúng tôi đã nói gì? Con cần giành lại uy quyền trên những gì con có quyền năng thay đổi, và cái đó là chính con, là tâm lý của con, phản ứng của con. Con sẽ thấy nhiều người trên thế giới mang thói quen lạm dụng giọng nói của mình. Họ lạm dụng quyền năng của lời nói bằng cách miệt thị, tranh cãi, xúc phạm, mỉa mai, chế nhạo người khác, hay bằng những cách khác như la hét, chửi mắng người khác. Nhiều người có rất nhiều khí lực và họ không ngần ngại dùng khí lực đó trong giao tiếp.

Nhưng đa số các con là người tâm linh, các con không thuộc loại người đó. Con thuộc loại người không muốn lạm dụng giọng nói của mình, và do đó trong đa số trường hợp, con có xu hướng giữ im lặng. Con có xu hướng không nói lên những gì mình cảm thấy, những gì mình suy nghĩ, những gì mình trải nghiệm. Điều ta muốn gợi ý cho con, trong tư cách là người tâm linh thuộc loại này, thì con cần làm việc trên bản thân để con đạt tới mức con không bị hạn chế trong những điều con có thể bày tỏ với người khác, hay với người bạn của con trong quan hệ. Ngay trong bản thân, con có tự do nói ra bất cứ gì con cảm thấy mình cần nói ra.

Và điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều người trong số các con bỏ ra một số nỗ lực. Con cần nỗ lực nắm bắt toàn bộ khái niệm này. Con cần nhìn xem tại sao con cảm thấy miễn cưỡng làm chuyện đó, tại sao một số các con lại sợ làm chuyện đó. Có khi là vì con sợ phản ứng của người kia. Nhưng rất nhiều các con mang một nỗi sợ phát biểu mà con không thật sự nhận diện được. Và đối với nhiều người trong các con, vấn đề này đi trở ngược về thuở chấn thương nhập đời của con khi con từng lên tiếng chống lại sa nhân, xong con bị chúng đánh gục tàn bạo đến độ con quyết định là mình sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Nhưng con chẳng thấy hay sao là con đang dùng vũ lực chống lại chính mình? Và con không thể vừa làm vậy mà vừa thăng thiên. Khi con ở tầng 144 hay gần tới đó, con tự do nói lên bất cứ gì. Không có hàng rào nào trong tâm con ngăn cản con bày tỏ bằng lời nói những gì con có trong tâm. Tất nhiên là có rất nhiều thứ không nằm trong tâm con, nhưng dù sao đi nữa…

Điều con cần nhìn nhận ở đây là sa nhân mơ ước chúng là thẩm quyền tối thượng mà không ai có thể phản bác. Không ai có thể nói gì về chúng để thách thức uy quyền của chúng, hay để chất vấn chúng, hay để nói lên những điều chúng không muốn nghe. Chắc chắn con không thể nói ra bất cứ gì khiến chúng có vẻ sai trái, hay khiến chúng cảm thấy bối rối xấu hổ, cho dù một sa nhân thường không thể cảm thấy như vậy. Chúng muốn bịt miệng mọi người, bịt miệng mọi sự chống đối, và do đó chúng đã thiết lập một loạt cơ chế rất đa diện để bưng bít mọi người và khiến mọi người phải ngừng nói.

À, con sẽ có thể hỏi: “Làm thế nào chuyện đó có thể thành công?” Nó có thể thành công vì con đã từng có trải nghiệm lên tiếng rồi đã gặt hái hậu quả đau đớn. Con đã quyết định – con đã tạo ra một cái ngã tách biệt quyết định – là con sẽ không bao giờ lên tiếng kiểu đó nữa, hay bất cứ kiểu nào khác nữa. Con đang mang những ngã tách biệt đó, và trong khuôn khổ sự phát triển của con, con cần giải quyết chúng đi, con cần để cho chúng chết đi và được tự do.

Con có thể tự theo dõi, tự giám sát mình. Con có thể tự xem xét mình trong những hoàn cảnh quá khứ, hay ngay cả những hoàn cảnh hiện tại, và con có thể tự hỏi một số câu hỏi giản dị: “Liệu tôi có thể nhận diện những tình huống mà tôi không muốn lên tiếng hay không? Tôi có thể nhận diện những tình huống khi tôi muốn nói điều gì đó nhưng lại nhịn không nói? Tôi có thể nhận điện những tình huống khi tôi có lên tiếng, nhưng giọng nói của tôi đượm một nỗi cảm xúc tạo ra phản ứng tức thì nơi người kia trong quan hệ?”

Con cũng có thể cân nhắc xem con có bị rơi vào khuôn nếp sau đây hay không. Rất nhiều người tâm linh kinh qua một số tình huống với một đối tác nhất định trong quan hệ khi không chịu lên tiếng. Họ có một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một số điều mà họ muốn nói nhưng họ lại không nói. Kết quả là một sự căng thẳng bắt đầu chồng chất trong cảm xúc. Năng lượng xúc cảm bắt đầu tích tụ lại nơi cảm thể, một số ý nghĩ bắt đầu tích tụ nơi trí thể, và lần hồi sau một thời gian, cường độ của nó cứ thế dâng tràn.  

Bấy giờ nó trở nên dữ dội đến độ con không thể chịu đựng được nữa, con không thể cầm giữ nó lại, thế là con lên tiếng với người bạn đường của con. Nhưng con lên tiếng một cách rất cường độ, mất cân bằng. Con nổi giận, con bực tức, con đổ lỗi cho người kia, con chỉ ra lầm lỗi của họ, những gì họ đã làm sai trái và những gì đáng lý họ phải làm. Và con phóng chiếu theo một cách mà chính con cũng nhận thấy là quá cường độ. Nếu người kia đã cư xử với con như con đang cư xử với họ thì chính con cũng sẽ không phản ứng tich cực được. Và vì thế, người bạn đường của con sẽ phản ứng tiêu cực, và cuối cùng hai con sẽ cãi nhau. Và cho dù con có cố giải quyết hay bước ra khỏi tình huống đó và phần nào giải tỏa căng thẳng, nhưng vấn đề vẫn không thực sự được giải quyết. Thế tương tác giữa hai con vẫn y nguyên, thế là hai con lại bắt đầu một chu kỳ mới, lại thêm một vòng xoáy mới dồn nén năng lượng và gia tăng cường độ cho tới khi con không thể kiểm soát được nữa. Và một lần nữa, con lại lên tiếng hùng hổ quá trớn, và vân vân.      

Nếu con có thể nhận diện bất kỳ xu hướng nào giống như vậy, con cần nhận ra nguyên nhân ở đây chính là những cái ngã tách biệt tác động lên cách con phát biểu. Con không đang tự do phát biểu – có thể nói con không tự do phát biểu từ trái tim, và vì vậy con phát biểu từ ngã vỏ ngoài, từ những cái ngã tách biệt. Và hiển nhiên – tất cả các con đều thấy được điều này – đó không phai là hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người.

Điều ta muốn nói là một trong những mục tiêu con cần đạt đến trong quan hệ là khả năng phát biểu từ một trạng thái tâm trung hòa. Con không mang một nỗi niềm động cảm nào cả. Con không cảm thấy mình bị bó buộc phải nói ra điều đó, và người kia phải bắt buộc hiểu ra, phải chấp nhận điều đó, và phải thay đổi. Con chỉ nói lên từ một trạng thái trung hòa và con chia sẻ: “Đây là cách tôi nhìn sự thể. Đây là những gì tôi cảm nhận về sự việc. Đây là những cảm xúc mà cách hành xử và lời nói của bạn – hay của anh, của em – khơi lên trong tôi.” Nhưng con không nói vậy khi trong lòng con chất chứa một động cảm muốn đổ lỗi, con không làm vậy với nỗi sợ hãi phản ứng của người kia. Con chỉ đơn giản có khả năng phát biểu một cách trung hòa.

Đây là một mục tiêu mà con có thể quyết định trong ý thức là con sẽ sẵn lòng hướng tới. Một lần nữa, trong xã hội thế tục có những lời dạy nói về sự giao tiếp giữa con người mà con sẽ được ích lợi học hỏi, nhưng điểm học hỏi chính yếu không phải là kiến thức trí thức mà là những phản ứng nó khởi lên trong con. Nó sẽ làm rõ, làm lộ ra những cái ngã tách biệt trong con đang ngăn chặn sự giao tiếp của con. Và nếu con áp dụng điều này vào mối quan hệ nồng nàn nhất của mình thì nó sẽ tác động tích cực lên tất cả mọi mối quan hệ của con. Thực tế là nó sẽ chuyển đổi đáng kể các mối quan hệ của con.

Trong nhiều năm qua, sứ giả này đã tu tập về vấn đề này, và mặc dù ông chưa hoàn toàn điều ngự được, ông đã tinh tấn đáng kể so với lúc đầu. Ông đã đạt tới một điểm khi ông nhận ra là ông có xu hướng lo sợ cách phản ứng của người khác vì ông không muốn làm họ phiền lòng – không hẳn là ông sợ phản ứng của họ nhưng ông không muốn làm họ phiền lòng, vì ông sẽ tự trách mình đã làm cho người khác phiền lòng. Ông không muốn làm tổn thương cảm xúc của họ vì ông sẽ cảm thấy mình đáng trách, cho nên – nếu có thể nói như vậy – ông cứ cố đoán trước phản ứng của họ.

Và tất nhiên, ông đã thu hút về phía ông một số người rất dễ giận hờn bởi lời nói của người khác về mình. Người đầu tiên trong trường hợp này là chính cha ông – cha ông có một số “nút bấm” nhất định mà nếu có ai nhấn vào thì ông sẽ nổi giận tức khắc. Sứ giả này đã học được điều này ngay từ tuổi thơ ấu. Nhưng rồi đến một thời điểm khi ông vừa thành niên, ông nhận ra là khi ông nói chuyện với cha một cách nào đó, chủ yếu với một giọng nói trung hòa, thì ông có thể nói ra một số điều mà ông không thể nói được trong động cảm, bởi vì cha ông sẽ phản ứng lại sự động cảm thay vì lắng nghe lời ông nói. Nhưng nếu ông phát biểu không động cảm thì, ít ra thỉnh thoảng, cha ông sẽ sẵn sàng lắng nghe ông nói. Nói cách khác, cảm xúc đã che lấp mất thông điệp. Và sau này trong đời sống, khi ông ngày càng biết cách phát biểu trung hòa, chính ông đã ngạc nhiên thấy mình có thể nói rất nhiều thứ với người khác mà không gây ra phản ứng tiêu cực.

Một số các con sẽ nhận xét thấy là khi các con nói chuyện với sứ giả này, thỉnh thoảng ông phát biểu một cách rất trung hòa không làm con khó chịu, mặc dù ông đang nói ra một số điểm rất thẳng thắn về chính con hay tâm lý của con. Một số khác trong các con cũng có thể nhận xét thấy những khi con bị phiền lòng bởi lời đó của ông, nhưng con không dám nói ra vì con cho ông là người thẩm quyền và con không muốn nói ngược lại thẩm quyền, thì điều này có nghĩa là con mang một số ngã tách biệt con chưa giải tỏa được.

Điểm ở đây là nếu con nỗ lực đạt khả năng giao tiếp trung hòa, khi con có thể lên tiếng một cách trung hòa, thì con sẽ kinh ngac nhìn thấy các mối quan hệ của mình cải thiện đến chừng nào. Nhưng con cũng sẽ kinh ngạc là trong tiến trình tu tập dẫn tới điểm đó, con nhìn thấy nhiều điều hiện rõ ra trong tâm lý mình. Tất nhiên, ta không đang bảo là giờ đây con cần đem tất cả những lời dạy này, rút vào hang đá kia rồi nói: “Tôi sẽ làm việc trên tâm lý của tôi cho tới khi tôi có khả năng phát biểu một cách hoàn toàn trung hòa. Và cho tới khi đó, tôi sẽ không nói gì hết.” Đó không phải là điều ta muốn nói. Trong tiến trình tu tập hướng đến mục tiêu trên, con sẽ phải có can đảm nói lên những gì trước đó con không dám nói. Và bằng cách phát biểu trong khả năng phát biểu của con vào thời điểm đó, con sẽ nhận được phản ứng từ người kia trong quan hệ. Và bằng cách giám sát phản ứng của mình, con sẽ có thể tự nhủ: “Tôi đang có ngã tách biệt nào đang đứng đằng sau cách phản ứng này của tôi?” Và một lần nữa, con sẽ tiến nhanh hơn là nếu con chỉ ngồi một mình trong hang đá. Đây là cách mà con có thể, trong một thời gian tương đối ngắn, đạt tới điểm con có thể giao tiếp trung hòa hơn hẳn.          

Ta đã bắt đầu bài giảng này với câu nói rằng sự thật dẫn đến chữa lành. Có một số vết thương mà con đã nhận lãnh trong tiền kiếp khi con bị hà hiếp nhưng lại không lên tiếng phản đối, và chúng tôi có nói là con cần nhận diện ngã tách biệt đó, tách rời ra khỏi nó, nhìn thấy nó không phải là mình và để cho nó ra đi. Nhưng có một số ngã tách biệt đó liên quan đến phát biểu mà con không thể buông bỏ được nếu con không lên tiếng. Con không thể buông ngã đó ra mà không nói lên những gì con chưa nói. Nếu con chưa đứng lên quả quyết thì con cần đứng lên quả quyết trước khi con có thể cho ngã đó ra đi. Nếu con chưa vạch ra lằn ranh và nói: “Điều này, tôi sẽ không chấp nhận”, thì con cần vạch ra lằn ranh đó để hoàn toàn buông bỏ nó đi.

Sự thật – là sự thật mà con nói lên như con đang thấy – có thể đem lại chữa lành, vì khi con đạt tới điểm con có thể phát biểu mà không sợ phản ứng, thì đó là lúc con nhận ra: “À, sự lên tiếng không đến nỗi nguy hiểm như mình vẫn tưởng, vậy tại sao mình lại lo lắng về chuyện đó? Tại sao mình lại cảm thấy miễn cưỡng, lo sợ, tại sao trong tiềm thức mình lại gánh nguyên cái khối khổng lồ của sự lên tiếng?” Gần giống như một số các con sợ bóng tối khi còn nhỏ. Đến một lúc nào đó, con đã phải bước vào một căn phòng tối đen hay bước ra ngoài trời tối để đối đầu với bóng tối. Và khi con thấy không có ma quỷ nào ở đó để vồ lấy con, thì cuối cùng con đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi. Như sứ giả này đã từng mô tả, ông đã tự nhốt mình trong một phòng tối với một bộ xương người, và bằng cách sống sót qua trải nghiệm đó, ông đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi những bộ xương.

Con hãy sẵn lòng tập tành như vậy. Hãy sẵn lòng nói ra sự thật như con đang thấy. Hãy để ý phản ứng, làm việc trên phản ứng cho tới khi con có thể tự do lên tiếng, nhưng con lên tiếng một cách trung hòa. Thật ra con không phát biểu để thay đổi người kia hay khiến họ buồn phiền. Như chúng tôi có nói nhiều lần, con chỉ đơn giản chia sẻ ý nghĩ và cảm xúc của con với họ. Và khi con có thể tự do nói ra điều đó thì con cũng giải thoát cho họ tự do phản ứng theo cách họ muốn. Và nếu họ không tiếp nhận những điều con nói một cách tích cực, nếu họ nổi giận, nếu họ phản bác hay phớt lờ, thì chuyện đó cũng chẳng quan trọng với con. Nó không quan trọng với con vì con đã tăng triển, con đã trở nên tự do. Và điều tất phải đến là tới lúc người kia sẽ không còn nắm được gì nơi con làm cho con phiền hà nữa. Không có gì về người kia làm cho con phiền hà vì họ không có quyền năng gì trên phản ứng của con, trên cảm xúc, ý nghĩ và trạng thái tâm con. Thật sự, khi con không có phản ứng tiêu cực nào đối với họ thì con đâu có vấn đề gì mà có quan hệ với họ? Nếu đó là một người thân thiết trong gia đình mà con cảm thấy không thể cắt đứt mọi liên lạc, con vẫn có thể tiếp tục quan hệ với người đó mà không đặt vấn đề gì cho con. Nhưng trong nhiều trường hợp, điều xảy ra là con có thể sẽ rời khỏi quan hệ đó. Con tìm được những người mà con có thể có quan hệ cởi mở tự do hơn, mà con có thể giao tiếp dễ dàng tốt đẹp hơn.

Điều hoàn toàn có khả năng xảy ra là con kinh qua tiến trình tăng triển này và con thay đổi, nhưng người kia thì không thay đổi. Bây giờ thử lấy ví dụ này, là có hai người trong một mối quan hệ cho dù là bạn bè, tình yêu, kinh doanh hay bất cứ gì khác. Và mặc dù cả hai có thể không phải là học trò chân sư thăng thiên, nhưng cả hai đều sẵn lòng cải thiện chính mình lẫn tâm lý của mình, sẵn lòng nỗ lực cải thiện quan hệ.    

Điều các con có thể làm là dành ra một thời gian để ngồi xuống nói chuyện với nhau: “Bây giờ chúng ta sẽ giao tiếp một cách không rủi ro. Chúng ta sẽ hứa với nhau là mình sẽ cho phép người kia tự do phát biểu và mình sẽ không phản ứng lại tiêu cực.” Một người sẽ bắt đầu nói, dành ra một thời gian để bày tỏ những gì mình muốn bày tỏ, và người kia không phản ứng lại. Sau khi một người đã nói xong phần mình, có thể dành ra một chút thời gian để suy ngẫm hay có thể để người kia đặt câu hỏi. Có thể ngay sau đó hay trong một buổi khác, đến lượt người thứ hai bày tỏ một cách tự do, nhưng sự giao tiếp vẫn cần xảy ra một cách không rủi ro. Làm như vậy, các con sẽ có thể giúp nhau cùng tiến tới điểm mình dám phát biểu tự do – tự do phát biểu một cách trung hòa.   

Vừa rồi là một số ý nghĩ mà ta muốn trao cho con từ nhãn quan Tia thứ Năm. Ta không đang bảo là con nên cố gắng biểu đạt những sự thật tối thượng, mà con nên biểu đạt những gì con thấy ngay lúc này, và tất nhiên con cũng nhận thức là con đang ở một tầng tâm thức nơi con chỉ thấy được những gì con thấy, và khi con tiếp tục nâng cao tâm thức thì con sẽ thấy nhiều thứ con chưa thấy được hôm nay. Điều này có thể cho con một góc nhìn hoàn toàn khác lạ, và do đó con không cần bám giữ ý tưởng sai lầm là con hiện đã nắm được sự thật cao nhất, hay quan điểm cao nhất, hay sự hiểu biết cao nhất có thể có về một vấn đề. Kỳ thực, con không thể thật sự giao tiếp trung hòa nếu con nghĩ là có một hiểu biết tối thượng và con đang nắm giữ sự thật hay hiểu biết tối thượng này.

Và như vậy, ta niêm con trong Tia sáng Sự thật màu xanh lục bảo mà TA LÀ.  

Không ai đã từng làm con điều gì

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/9/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Mỹ châu – Tiến tới quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư, thường được gọi là Tia Thanh tịnh, nhưng ta ưa gọi là Tia Gia tốc.

Từ góc nhìn của Tia thứ Tư, ta mong muốn trao cho con điều gì? Các thượng sư khác đã trình bày về điều gì? Chúng tôi đã nói về sự kiện tất cả mọi người trên địa cầu đều mang những nét tâm lý chưa giải quyết. Trong sứ vụ thiêng liêng của con, con đã ghi vào mục đích là sẽ giải quyết một số khía cạnh đặc thù của tâm lý mình. Đa số những vấn đề này đã được tạo ra trong những kiếp trước, có lẽ từ nhiều tiền kiếp trước đây, trở ngược về tới tận chấn thương nhập đời của con. Chúng tôi cũng có nói rằng con đã tự đặt mình vào những mối quan hệ với một số người cũng mang tâm lý chưa giải quyết như vậy, và đó là tại sao họ đã hành xử theo cách của họ, và điều này đã khơi lên những tâm lý chưa giải quyết nơi con và khiến con phản ứng lại.    

Khi con nhìn vào thế giới rộng lớn, con sẽ thấy là mỗi con người đều có một số tâm lý chưa giải quyết, và nhiều người có một số rất lớn tâm lý chưa giải quyết. Điều này thực sự nghĩa là gì? Trong một nghĩa nào đó, rằng mọi công việc mà con người làm đều là kết quả, hay ít ra bị ảnh hưởng bởi những vấn đề tâm lý chưa giải quyết.   

Con là một học trò tâm linh, con có nhận thức khá tốt về đường tu tâm linh và con nhìn ra, như chân sư More có nói, rằng tinh túy của con đường tâm linh là nâng cao tâm thức bằng cách vượt qua tâm lý chưa giải quyết ở trình độ hiện tại của con.

Khi con lùi lại một bước và nhìn kỹ điều này, con có thể nhận thấy trong đời mình có bao nhiêu việc đã làm là kết quả của tâm lý chưa giải quyết. Nhìn lại đời con, con có thể thấy một số thời điểm khi con đã phản ứng một cách nào đó, đã lấy những quyết định nào đó, đã có những hành động nào đó đã đưa tới những hậu quả mà con không mong muốn. Nhưng con cũng thấy được là nguyên do con đã hành xử như vậy là bởi tâm lý chưa giải quyết của con.

Sau đây là điểm đầu tiên ta muốn trao cho con. Từ góc độ của các chân sư thăng thiên và đặc biệt từ Tia thứ Tư là tia gia tốc, con hoàn toàn không có gì phải xấu hổ nếu con có tâm lý chưa giải quyết. Ta biết rõ là hầu hết mọi người sẽ hơi sốc khi nghe câu nói vừa rồi. Bởi vì suốt nhiều kiếp sống, con đã bị lập trình, con đã bị tẩy não bởi sa nhân khiến con nghĩ rằng đáng lý ra con phải toàn hảo. Và nếu con không toàn hảo thì con phải cảm thấy mình có lỗi. Đây là một trong những cách thức chủ yếu mà sa nhân sử dụng để kiểm soát, kềm giữ, hạ thấp và tiêu diệt con. Chúng muốn con nghĩ rằng sự kiện con đang mang tâm lý chưa giải quyết cho thấy nơi cốt lõi của con có điều gì đó sai trái, tồi tệ, xấu xa, đáng xấu hổ.    

Ta xin con hãy lùi về một bước và nhìn xem địa cầu này là loại hành tinh như thế nào? Như chúng tôi đã nhắc con nhiều lần, đây không phải là một hành tinh lý tưởng. Hãy nhìn những chuyện đang diễn ra, nhìn xem con người đang đối xử với nhau như thế nào. Làm sao con có thể hiện thân trên một địa cầu như thế này suốt nhiều kiếp sống mà không phải gánh chịu những vết thương và chấn thương tâm lý? Làm sao con có thể không có vấn đề tâm lý chưa giải quyết? Thật chúng tôi đã nói gì? Rằng con cần phải giải quyết hết vấn đề tâm lý này đến vấn đề tâm lý khác cho đến khi con lên tới tầng thứ 144. Và khi con không còn tâm lý nào chưa giải quyết thì con sẽ không thể cầm giữ xác thân vật lý này của con nữa và con sẽ thăng thiên. Chỉ duy sự kiện con còn hiện thân trên địa cầu cũng đủ để cho thấy con còn tâm lý chưa giải quyết.  

Cho nên nếu có những chuyện con không thể tránh được thì đâu có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ? Có lý do gì mà con phải tự trách thân? Thế con có tự trách thân là mình có màu da hay màu mắt của mình hay không? Chuyện đó chỉ giản dị xảy ra như vậy. Con sống trên một hành tinh đầy những chuyện xảy ra như vậy và thật là không có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi.

Tại sao các sa nhân lại muốn con cảm thấy xấu hổ, tội lỗi? Bởi vì nó sẽ ngăn chặn con thực sự xem xét tâm lý của con. Và nếu con không thể xem xét phần tâm lý chưa giải quyết thì con sẽ không bao giờ giải quyết nó được. Muốn giải quyết thì phải nhìn vào tâm lý, nhìn thấu qua các ảo tưởng, hóa giải các năng lượng, hóa giài các tin tưởng giả trá. Nếu con không thể nhìn vì con quá xấu hổ hay sợ hãi hay tội lỗi, con sẽ không giải quyết được và con sẽ bị kẹt lại. Và ta có thể cam đoan với con rằng chúng tôi là những sinh thể phụng sự trên tia sáng thứ tư cuả gia tốc, chúng tôi không muốn con bị kẹt lại. Chúng tôi muốn con gia tốc. Kẹt lại là đối nghịch của gia tốc. Đúng là con mang tâm lý chưa giải quyết nhưng đó chỉ là một chuyện đang xảy ra. Không có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ. Con có thể nói, đấy chỉ là một chuyện cỏn con. Đấy là một chuyện mình sẽ giải quyết cho xong để mình bước đi tiếp.   

Bây giờ hãy nhìn sâu sắc hơn. Suốt rất nhiều kiếp, con đã bị lập trình, bị rửa não là nếu con đã làm điều gì bị người ta xem là sai trái, đã nói điều gì bị xem là sai trái, đã không làm điều gì đáng lý con phải làm, hay đã không nói điều gì đáng lý con phải nói, thì chính con là người sai trái do hành xử như vậy.

Giả dụ con đã làm chuyện gì đó trong đời con mà con xem là sai trái và hầu hết mọi người cũng xem là sai trái. Chẳng hạn, con đã làm hay nói điều gì khiến cho người khác bị tổn thương, buồn phiền. Nhưng tại sao con làm vậy? Con làm vậy vì con có tâm lý chưa giải quyết. Tâm lý chưa giải quyết nghĩa là gì? Đúng vậy, trong giáo lý mà chúng tôi đã ban cho con, nó có nghĩa là con có một cái ngã tách biệt đã khiến con làm điều con đã làm.  

Nhưng chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Đâu là ý tưởng chủ yếu đằng sau giáo lý về cái Ta Biết? Rằng nơi cốt lõi của chính con là sự nhận biết thuần khiết. Có nghĩa là gì? Rằng cái Ta Biết không có đặc tính nào nằm trong thế gian, nó không thể sai trái. Nó cũng không thế đúng đắn – trong nghĩa nhị nguyên. Bởi vì trong tinh túy của nó, cái Ta Biết không thể làm bất cứ điều gì trên địa cầu. Để làm được gì trên địa cầu, cái Ta Biết phải tự biểu đạt qua một cái ngã tách biệt.

Đó là cách thức con hành động qua bốn thể phàm của con. Ai là người hành động, ai là người làm? Ai đã làm nhưng điều con làm mà con coi là sai trái? Thật không phải là cái Ta Biết đâu, mà là một cái ngã tách biệt. Ngã tách biệt đó chính là người làm. Ngã tách biệt đã làm cái mà con đã làm. Ai là người coi đó là sai trái? Có phải cái Ta Biết không? Cũng không luôn, bởi vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nó không vận hành trong đúng và sai. Ai nghĩ điều con làm là sai trái? Phải, một cái ngã tách biệt nghĩ đó là sai trái.

Vậy thì ở đó đang có một ngã tách biệt khiến con làm một chuyện gì đó, và đang có một ngã tách biệt khác khiến con cảm thấy tội lỗi về chuyện đó. Nhưng cả hai không phải thực sự là con. Làm thế nào con sẽ vượt qua đây? Cuối cùng con sẽ chỉ vượt qua được bằng cách nhìn thấy đó không phải là con.

Đó là một cái ngã. Nó mang một tin tưởng, nó mang một cái khuôn năng lượng nào đó. Nhưng nó chỉ là một cái ngã. Nó không thực, và chắc chắn nó không phải là con. Khi con nhìn ra điều này, con có thể buông bỏ tin tưởng đó, con có thể giải phóng năng lượng đó, và con có thể để cho ngã đó chết đi, bởi vì con không còn nuôi dưỡng nó nữa. Nói cách khác, con đã làm điều mà con làm vì tâm lý chưa giải quyết của con.   

Bây giờ con hãy nhìn vào người khác mà xem. Con thấy rất rõ là họ cũng có tâm lý chưa giải quyết. Tại sao họ đã làm chuyện đó? Tại sao họ đã làm con những chuyện đó? Cũng vì tâm lý chưa giải quyết của họ. Có nghĩa là gì? Rằng họ cũng có một cái Ta Biết nằm trong cốt lõi của chính họ. Và cái Ta biết của họ thực sự đã không làm chuyện đó đến cái Ta Biết của con. Chỉ có ngã tách biệt của họ đã làm chuyện đó đến ngã tách biệt của con. Có nghĩa là gì?

Và đây là món quà ta muốn tặng cho con từ Tia sáng thứ Tư, là điều này đây: Không có ai đã từng làm con một điều gì. Không có ai thực sự hiện hữu đã từng làm bất cứ điều gì đến cái ta thực của con. Chỉ có hai ngã tách biệt tương tác với nhau mà thôi. Ngã tách biệt của người kia đã khiến họ tức giận đối với con, khiến họ tố cáo con, khiến họ phóng chiếu ý tưởng rằng con phải cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi bởi hành vi của con. Tất cả chì toàn là ngã tách biệt với nhau mà thôi.

Cũng đúng là người kia có thể đã đối xử rõ ràng là tồi tệ. Nhưng có phải điều họ làm đã tác động trên con? Thực tế là không. Phải, ở đây ta cũng biết cần phân biệt giữa sự ngược đãi vật lý trực tiếp với sự ngược đãi thiên về tâm lý, tình cảm hay tinh thần. Đương nhiên, nếu có ai đánh đập, hành hung con, thì đấy là một hành động vật lý. Nhưng một hành động vật lý chỉ gây tác động trên xác thân vật lý, và nó sẽ không tác động trực tiếp trên các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Sự ngược đãi xác thân có thể vượt quá một lằn ranh nào đó, nhưng nó vẫn vận hành trên cùng một căn bản như sự ngược đãi tâm lý, bởi vì điều tác động trên con không phải là hành vi vật lý hay lời nói của người kia, mà điều tác động trên con là những gì diễn ra bên trong tâm lý của con, bên trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Chính phản ứng của con đã tác động trên con. Nó tác động trên con như thế nào? Bằng cách khiến cho con tạo ra một cái ngã tách biệt, hoặc nó khiến con củng cố hay khuấy động một cái ngã tách biệt sẵn có.

Tại sao điều này lại quan trọng? Vậy Tia sáng thứ Tư bản chất là gì? Phải rồi, là gia tốc. Nhưng làm thế nào con gia tốc? Sự thật là ta có quyền năng rất lớn. Ta có thể truyền rải những lượng ánh sáng to lớn. Ngay cả trong tư cách là thượng sư, với lượng ánh sáng it hơn các bậc Đại thiên thần và Elohim, ta vẫn có khả năng gia tốc tức thì hành tinh này lên một mức cao hơn. Chắc chắn ta có thể rải truyền đủ ánh sáng đề gia tốc tức thì bất cứ người nào lên một mức cao hơn. Nhưng làm như vậy hiển nhiên sẽ vi phạm quyền tự quyết. Ta không thể gia tốc cho con. Sinh thể duy nhất có khả năng gia tốc cho con là chính con. Nhưng sinh thể nào, thành phần nào trong con có thể được gia tốc? Không phải những cái ngã tách biệt đâu, bởi chúng không có khả năng tự nhận biết. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể tự gia tốc mà thôi – bằng cách con hiểu ra rằng con không phải là ngã tách biệt và con quyết định tự gia tốc để vượt khỏi nó. Con vượt khỏi cái khuôn đúc, vượt khỏi những tin tưởng và những năng lượng của ngã tách biệt.

Nhưng làm thế nào con thực hiện được chuyện này? Chỉ khi nào con giành lại được quyền năng của con. Và tại sao con phải giành lại quyền năng? Bởi vì các sa nhân đã tìm được cách tước lấy quyền năng khỏi con. Tất cả mọi con người đều đã bị chúng tước đi quyền năng, ít hay nhiều. Điều này không sao tránh khỏi. Con không thể hiện thân trên địa cầu này mà không bị lấy mất quyền năng – bởi vì có quá nhiều những phóng chiếu nhắm vào con hầu tước đi quyền năng của con. Chẳng hạn con lấy lời dạy mà ta vừa cho con. Đa số người ta sẽ nói: “Kẻ này đã làm gì tôi, kẻ kia đã làm gì tôi.” Có nghĩa là gì? Rằng kẻ đó đã có quyền năng trên con. Làm thế nào con lấy lại quyền năng từ người kia đây?  

Chỉ khi nào con nhìn nhận điều ta vừa nói. Không ai đã từng làm con một điều gì cả. Có nghĩa là không ai có quyền năng gì trên những phản ứng của con trong tâm lý của con. Tất nhiên là câu “Không ai đã từng làm con điều gì” có thể được thay đổi bởi vì, trong một nghĩa nào đó, trong một kiếp trước đã có kẻ làm điều gì đó thật hung bạo và dữ tợn đến độ nó khiến con phải tạo ra một cái ngã tách biệt.

Ta biết là ta hơi khắt khe khi nói rằng không ai từng làm con điều gì, nhưng ta nghĩ con cũng đã hiểu ý. Cuối cùng thì không ai đã từng làm con điều gì, và ngay cả khi sa nhân đã giáng cho con cái chấn thương vũ trụ nhập đời, thì cũng chính là con đã tạo ra ngã tách biệt đó, và ngã này từ đó đã không ngừng nhào nặn cách phản ứng của con. Có thể nói là người khác có quyền năng trên con, nhưng họ chỉ có quyền năng qua trung gian những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây là điểm thiết yếu.

Bởi vì nếu con nghĩ rằng sa nhân, hoặc người khác, có quyền năng ảnh hưởng tâm lý của con và tạo ra ngã tách biệt trong tâm con, thì họ sẽ có quyền năng trên con và con không thể giành lại quyền năng của con. Con chỉ có thể giành lại bằng cách nhìn nhận chính con đã tạo ra ngã tách biệt này. Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì chỉ có người đã tạo ra ngã tách biệt mới có thể giải thể ngã tách biệt. Chỉ khi nào con chấp nhận là con đã tạo ra cái ngã tách biệt đã khiến con phản ứng một cách nào đó đối với người khác, thì con mới có thể chấp nhận rằng con là người duy nhất có khả năng giải thể ngã đó.

Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì đó chính là cách con giành lại quyền năng của con. Hãy tưởng tượng con quan hệ với một người. Đây là mối quan hệ yêu thương với một người phối ngẫu mà con đã chung sống suốt nhiều năm. Trong quan hệ này có một khuôn nếp khiến con hay rơi vào một cách phản ứng nào đó. Nếu con cho rằng để con thoát khỏi mô thức phản ứng này, người kia phải thay đổi, thì quả là con đã không lấy lại quyền năng của con, mà ngược lại con đã trao một phần quyền năng đó cho người kia. Chỉ khi nào con nhìn nhận rằng con là người duy nhất có quyền năng tạo ra và giải thể ngã tách biệt, thì con mới thực sự lấy lại quyền năng của con – bởi vì con có khả năng tự thay đổi cho dù người kia không sẵn lòng thay đổi.

Chúng tôi đã nói gì? Rằng con đã tự đặt mình vào những mối quan hệ với những người có một tâm lý đặc thù nào đó sẽ bắt buộc con phải giải quyết các vấn đề tâm lý của con. Một số những người này mang tâm lý rất nan giải, một số còn là sa nhân với rất ít hy vọng sửa đổi. Có lẽ tất cả các con đều quen biết một số người có rất ít hy vọng sửa đổi khi con nhìn vào chính họ và quá khứ của họ. Làm thế nào con có thể tự thay đổi, làm thế nào con có thể tự giải thoát khi họ sẽ không thay đổi?

Đúng vậy, con sẽ chỉ tự do được khi con nhìn nhận là con có khả năng tự thay đổi cho dù người khác không thay đổi, bởi vì con có quyền năng giải thể những ngã tách biệt mà con đang mang. Chính những ngã tách biệt này đã khiến con phản ứng lại người kia, và do đó, chính ngã tách biệt này đã khiến con bị quấy nhiễu bởi người kia. Và cách duy nhất để vượt qua cảm giác này, vượt qua phản ứng này, là giải quyết ngã tách biệt.

Đâu là phép lạ của lời dạy này về ngã tách biệt? Phép lạ đó là như sau: Không hề có vấn đề gì mà con cần phải giải quyết. Trong lối suy nghĩ của thế gian, nếu có ai đó gần gũi với con đang làm khổ con, con sẽ nghĩ: “Vấn đề này nằm ở cách cư xử của người kia, cho nên cách duy nhất để tôi thoát ra là phải thay đổi người kia. Tôi phải giải quyết vấn đề cư xử của người kia.”

Phép lạ của lời dạy về ngã tách biệt chỉ giản dị là con có khả năng lấy lại quyền năng của con và nói: “Tôi không cần phải thay đổi người kia hầu thoát khỏi các khuôn nếp phản ứng của tôi. Tôi có thể tự thay đổi, tôi có thể để cho ngã chết đi. Hoàn toàn không có một điều gì, không có một vấn đề gì mà tôi cần phải giải quyết. Tôi chỉ cần đơn giản nhìn ra rằng phản ứng của tôi bắt nguồn từ một cái ngã tách biệt. Và khi tôi để cho ngã này chết đi, phản ứng sẽ không còn đó nữa, và do đó vấn đề cũng được giải quyết.” Bởi vì một lần nữa, vấn đề của con là gì chứ nhỉ? Có thật là vấn đề của con là cách cư xử của người kia hay không? Không đâu, vấn đề của con là phản ứng của con, bởi vì chính phản ứng này mới tác động trên con.  

Con có thể giải quyết vấn đề phản ứng của con mà không giải quyết vấn đề cư xử của người kia. Đây là một lời dạy cách mạng, một lời dạy thần diệu so với những gì đã được giảng dạy trong ngành tâm lý học hay các giáo lý tâm linh.  Nhiều người trong số các con đã áp dụng được rồi và đạt được kết quả đáng kinh ngạc. Nhiều người trong số các con cũng sẽ kinh ngạc khi các con thấy nó hiệu nghiệm như thế nào. Và tất cả các con đều có thể kinh nghiệm điều này. Thật là có một phép thần diệu ở đây. Chúng ta có thể gọi đó là phép thần diệu của gia tốc.

Đây là khi con nhìn nhận, như các thượng sư khác có dạy, rằng con đã cố tình tự đặt mình vào một mối quan hệ với một người vô cùng khó khăn. Con đã làm như vậy để buộc bản thân con, buộc ngoại tâm của con, phải công nhận rằng con có những điều mà con cần vượt qua trong tâm lý mình, trong bản thân mình. Con tự buộc con phải giải quyết nó, phải cải sửa nó, hầu con tự giải thoát khỏi nó. Con giải thoát khỏi nó để con có thể phụng sự cao hơn và hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con trong kiếp này và những kiếp sau, hoặc để con được tự do mà thăng thiên.    

Nhưng ta cũng biết, sự gia tốc có thể dễ dàng bị hiểu lầm. Thực tế là trong nhiều đợt truyền pháp trước đây, nhiều học trò đã hiểu lầm điểm này. Rồi họ xem Serapis Bey là một vị thày vô cùng nghiêm ngặt, luôn luôn có giọng nói nghiêm khắc – y như ta đang làm ngay bây giờ đây, con có nghĩ vậy không? Và hình như ta luôn luôn đòi hỏi kỷ luật sắt đá từ học trò của ta. Sự thật là ta chỉ muốn gia tốc. Đó là tại sao ta nói năng mạnh mẽ. Hầu ta cắt xuyên qua mọi kháng cự. Tuy nhiên ta không hề có ý định thúc ép học trò gia tốc, và ta cũng không muốn học trò của ta sử dụng vũ lực.     

Ta vẫn biết là khi con lái một chiếc xe cần gia tốc, làm thế nào con cho nó gia tăng tốc độ đây? Con phải đạp mạnh chân ga để chiếc xe nhận thêm sức mạnh phóng tới đằng trước. Nhưng trên phương diện tâm linh, đó không phải là cách mà con gia tốc. Tại sao không? Bởi vì gia tốc trong ý nghĩa tâm linh không phải là chuyện vận dụng sức mạnh. Ngược lại, đó là chuyện lấy đi sức mạnh, là cái sức mạnh đang giữ con buộc chặt vào địa cầu, là cái sức mạnh khiến con giảm tốc, kéo con xa hơn Hiện diện TA LÀ và gần hơn với trái đất. Khi con loại bỏ sức mạnh này đang giữ con lại địa cầu, con sẽ tự động gia tốc về phía Hiện diện TA LÀ và sự thăng thiên.

Không một ai đã từng thăng thiên mà lại vận dụng quyền năng vật lý to lớn đó, sức mạnh vật lý khổng lồ đó. Mà trái lại, thăng thiên xảy ra do sự buông bỏ, là đối nghịch của vũ lực – hay đúng hơn, là sự thăng vượt hoàn toàn mọi vũ lực. Con buông ra, con đầu hàng, con bỏ lại. Và khi đó, sinh thể đã từng đi xuống từ thiên đàng sẽ tự động được gia tốc và thăng trở lên thiên đàng, là nơi không còn một sức mạnh nào sẽ buộc nó vào trái đất. Đây là cách con thăng thiên. Đây là những gì ta giảng dạy trong khóa nhập thất của ta tại Luxor cho những học trò nào đã sẵn sàng, và tất nhiên điều này cần một chút thời gian.

Trên căn bản, con cần lên cao hơn tầng tâm thức thứ 124 trước khi con thể nhập được hoàn toàn điều này, nhưng ta vẫn đưa ra cho con hôm nay để ít ra con sẽ giữ nó trong ngoại tâm của con. Rồi đôi khi con có thể suy ngẫm về điểm này, và chắc chắn con có thể đem ra áp dụng hầu ngộ được sự thật rằng việc vượt qua ngã tách biệt không phải là chuyện vận dụng sức mạnh.

Chúng tôi đã chứng kiến một số học trò, đặc biệt là học trò từ các lần truyền pháp trước, đã từ lâu quen thói đem bài chú ra đọc mỗi khi họ cần vượt qua một vấn đề nào đó. Và họ cho rằng để thật sự khắc phục được trở ngại, họ cần sử dụng càng nhiều sức mạnh càng tốt. Tất nhiên là việc đọc chú với một khí thế nào đó cũng rất hữu ích. Tuy nhiên như chúng tôi đã từng trình bày, nhiều người lại tạo thêm nghiệp quả khi họ phú cho bài chú một rung động phát xuất từ sợ hãi, và họ không gia tốc được. Sự sợ hãi sẽ giảm tốc, trong khi tình thương sẽ gia tốc. Con thấy không, mặc dù chúng tôi đã nói với con rằng con đọc chú để làm tan năng lượng, nhưng chúng tôi không muốn con đọc chú trong sự sợ hãi. Con không nên nghĩ rằng con cần phải sử dụng sức mạnh to lớn đó, và nếu con không đạt được kết quả con muốn qua đọc chú thì con phải đọc to hơn, nhanh hơn, nhiều hơn, lâu hơn nữa. Nhưng con yêu dấu, con không đang chạy đua tại Thế vận hội. Con không phấn đấu để luôn chạy xa hơn.      

Nếu con khôn ngoan, con sẽ nỗ lực tìm ra một cách tiếp cận nào khác, một cách tiếp cận sự phát triển tâm linh không phát xuất từ vũ lực. Vũ lực sẽ không bao giờ đưa con vào thiên đàng. Không một vũ lực nào sẽ đưa con vào thiên đàng. Nếu có thể làm được chuyện đó thì từ lâu các sa nhân đã vào được thiên đàng rồi, và chúng đã tung hoành khắp cõi tâm linh và làm hỏng mọi chuyện. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Nói giản dị, đây là cơ năng an toàn của cõi tâm linh, và chỉ có tình thương và phi vũ lực mới giúp con trở thành một sinh thể quyền năng như một chân sư thăng thiên, một đại thiên thần, một elohim, hay thậm chí cả những sinh thể ở những tầng cao hơn của đại đoàn vũ trụ.

Ta đã vừa trao cho con điều ta muốn trao trong lần giảng dạy này. Ta tin rằng nó sẽ ích lợi cho một số trong các con. Lẽ tự nhiên, mỗi chúng tôi là thượng sư của bảy tia sáng sẽ trao cho con một số ý tưởng. Con không nhất thiết phải chú ý đồng đều đến mỗi ý tưởng được ban ra, mà con cần nhập vào câu hỏi: Tôi đang ở mức nào trong hiện tại? Tôi cần làm gì ngay bây giờ? Sau đó con hãy tập trung vào một tư tưởng từ một vị thày, trong số những giáo lý con nhận được trong webinar này, và con tận dụng tối đa tư tưởng đó. Rồi sẽ tới một điểm trong tương lai khi con sẽ sẵn sàng xem đến những ý tưởng kia. Nhưng chắc chắn chúng tôi hy vọng rằng bảy chiếc chìa khóa mà chúng tôi đang trao cho con sẽ quý giá đối với con ở những giai đoạn khác nhau trên hành trình tâm linh của con, cũng như cuộc hành trình mà con đang đi hầu giải quyết thái độ của con trong quan hệ. Với lời này, ta niêm con trong ngọn lửa trắng, nóng và gia tốc của tia sáng thứ tư mà TA LÀ.       

31 | Bất cứ gì cứ việc xảy ra!

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Giê-su vừa nói đến sự kiện có quá nhiều tín đồ đạo Cơ đốc không thấy được mối liên hệ nào giữa Giê-su và công nghệ hiện đại. Chắc chắn một điều tương tự cũng có thể nói về rất nhiều Phật tử không thấy mối liên hệ nào giữa sự thị hiện rất “phi công nghệ” của thày cách đây 2500 năm và một xã hội phương Tây hiện đại thời nay với một nền công nghệ rất cao. Nhưng thày đang giữ một trách vụ tâm linh cho hành tinh này, là Chủ tể của Thế giới. Vậy chức năng của trách vụ này là gì?

31.1. Nạn nghèo đói và ý thức hệ

Hiển nhiên, đó là nâng cao tâm thức loài người, và thày hỗ trợ hoàn toàn mục tiêu xóa nghèo. Và tất nhiên thày biết rõ, như các thày Saint Germain và Giê-su đã có trình bày, để cho điều này xảy ra, để mức sống vật chất của con người được nâng lên, chúng ta cần đến những hình thức công nghệ mới, bởi vì vấn đề này chỉ có một giải pháp công nghệ.

Chắc con cũng nhận thấy khi thày thị hiện 2500 năm về trước, toàn bộ dân số trên địa cầu rất, rất ít so với ngày nay. Do đó hầu hết mọi người vào thời đó, ít ra trong khu vực thày thị hiện, có một mức sống tương đối thoải mái dựa trên một xã hội nông nghiệp. Con có thể thấy trên thế giới đã có những thời kỳ xã hội nông nghiệp khi cuộc sống con người tuy không mấy sung túc, nhưng người ta cũng không đến nỗi chết đói, không đến nỗi phải lo lắng bữa cơm tới của mình sẽ đến từ đâu. Cái giá mà họ phải trả, dĩ nhiên, là họ phải bỏ ra phần lớn thời gian làm lụng để duy trì một mức sống vật lý, một đời sống vật lý nào đó.

Rõ ràng là trong những xã hội này, cách duy nhất để con người có thể tập trung vào việc tăng triển tâm linh là rút về một tu viện hay một chỗ ẩn cư nơi họ không phải bỏ ra toàn bộ thời gian lo việc nuôi thân. Đây là một mô thức khá thực tế cho thời đó, nhưng kể từ đó tất nhiên với sự gia tăng dân số mạnh mẽ trên địa cầu, con gặp phải tình trạng một xã hội nông nghiệp không còn khả năng cung ứng mức sống tốt đẹp cho số đông được nữa. Và cũng vậy, xã hội vật chất hay công nghệ cũng không có khả năng cung ứng mức sống đó. Tuy vậy, phải nói là nếu các nguồn tài nguyên sẵn có được phân phối đồng đều hơn, thì nạn nghèo đói, ít ra là trong những dạng cùng cực nhất, chắc chắn có thể được giảm thiểu đáng kể.

Như luôn luôn, vấn đề không chỉ là công nghệ, mà vấn đề là tư duy, là ý thức hệ, và đặc biệt là ý thức hệ đã khoác vào nhiều dạng cụ thể, và tất cả những dạng này đều hỗ trợ cho sự hiện hữu của một lớp thiểu số thượng tôn với mức sống khác hẳn mức sống của quần chúng rộng lớn. Con có cái mà thày gọi là những ý thức hệ thường tình phổ quát, vượt ra khỏi các dạng hệ tư tưởng và chủ nghĩa ưu tú đặc thù hơn. Và sự phân chia xã hội thành những tập đoàn hay giai cấp tách biệt chính là một trong những ý thức hệ tiềm ẩn đó. Tất nhiên, đây phần nào là vấn đề mà thày đã cố giúp xã hội và dân chúng thời đó vượt lên khỏi. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu, xã hội thời đó là một xã hội nông nghiệp bị Ấn giáo chi phối, và Ấn giáo chủ trương phân chia con người thành bốn giai cấp thật rõ ràng, và ngay cả ngày nay con vẫn thấy hệ thống giai cấp này được Ấn giáo tiếp nối và hỗ trợ. Đương nhiên, điều thày đã cố làm là thành lập một tôn giáo không chấp nhận, hay không dựa trên một sự phân chia con người như thế.   

Khi con nhìn đạo Phật, con thấy là tất nhiên, tâm thức phân rẽ đã len lỏi vào được trong đó, cho nên mới có sự phân biệt giữa người đạo Phật và người không đạo Phật, người thuộc môn phái này hay biến thể nọ của đạo Phật. Một số tự xem mình là cao trội và các môn phái khác là thua kém, vân vân. Và lại có cả những người xem giai cấp tu sĩ đạo Phật phần nào đứng cao hơn quần chúng, nhưng ngay cả quần chúng thì vẫn cao hơn những kẻ chưa sẵn sàng nhận được bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Một lần nữa, con tìm thấy những phân chia như vậy trong xã hội, và đó tất nhiên là điều mà thày đã cố giúp con người vượt qua bằng cách khắc phục tâm thức nhị nguyên.

31.2. Vấn đề kiểm soát

Bởi vì dĩ nhiên, chính tâm thức nhị nguyên là nền tảng và cũng là phương pháp mà cách phân chia như thế được tạo ra. Ở đây thày muốn giảng cho con một số điều tiếp nối những gì các thày đã trao cho con trước đây, nhưng đi xa hơn một chút. Con có thể xem một số lời dạy của các thày về sa nhân, là những kẻ đã thực sự đưa hành tinh địa cầu vào vòng xoáy đi xuống khi họ đem đến đây một cách hiểu cực đoan hơn về nhị nguyên. Các thày có nói là các xã hội trên địa cầu đã rơi vào nhị nguyên trước đây nhưng không đến nỗi những hình thức hung bạo của nhị nguyên, vì đây chính là điều sa nhân đã đem đến đây. Các thày có nói là các sa nhân hình thành một nhóm thượng tôn quyền lực khi họ đầu thai, và họ lập ra nhiều nhóm khác nhau ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Các thày cũng có nói là mục đích của họ là nắm quyền kiểm soát địa cầu, kiểm soát loài người trên địa cầu, trong âm mưu rộng lớn hơn là chứng minh Thượng đế sai lầm.

Điều thày muốn bàn đến ở đây là chủ đề kiềm soát. Có vẻ như trên địa cầu có một số xã hội bị kiểm soát gần như hoàn toàn bởi một thiểu số thượng tôn. Đó có thể là chế độ độc tài, như các nước cộng sản chẳng hạn, Liên xô dưới Stalin, Đức dưới Hitler, Trung quốc dưới Mao và nhiều ví dụ khác nữa. Bắc Hàn dưới chế độ hiện thời cũng vậy. Dựa trên đó, con có thể nghĩ là sa nhân có khả năng áp đặt một độ kiểm soát rất cao trên các xã hội. Có người cho rằng sa nhân cũng kiểm soát chặt chẽ một số xã hội đã trở thành dân chủ và các xã hội này thực sự là những chế độ độc tài, nhưng thực tế là ngay cả ở một nước nghiêm ngặt như Liên xô, sa nhân cũng không nắm được kiểm soát toàn diện.

Họ chưa bao giờ toàn quyền kiểm soát được địa cầu, và họ sẽ không bao giờ làm được chuyện đó; tại sao vậy? Bởi vì sa nhân là những nạn nhân của chính tâm lý của họ. Các thày nói sa nhân đã làm gì? Họ đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên, họ đã hoàn toàn bị bao trùm, bị khống chế, bị đui mù, bị giam hãm, bị đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều gì xảy ra trong tâm thức nhị nguyên chứ?

Trong tâm thức đó, con lấy toàn bộ chiều rộng của nhận thức con người, xong con tập trung vào một lãnh vực nhất định và con nâng nó lên vị thế tuyệt đối của một chân lý – như một ý thức hệ siêu đẳng, một tôn giáo siêu đẳng hay bất cứ gì khác. Và con dùng cái đó để bảo, đây là chuẩn mực để đánh giá mọi thứ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Và con có thể nghĩ là những kẻ đã chiếm đặc quyền định nghĩa vấn đề là gì thì họ đã nắm được quyền kiểm soát, vì một khi họ kiểm soát được chuẩn mực để đo lường mọi thứ thì họ phải kiểm soát được sự suy nghĩ của mọi người.

Tuy nhiên trong nhị nguyên, con không bao giờ có thể kiểm soát hoàn toàn, vì lý do giản dị là khi con lấy ra một đơn vị khỏi tổng thể và nâng nó lên vị thế cao trội, con bắt buộc sẽ tạo ra một sự mất cân bằng cơ bản. Các thày đã có nói về định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ đưa mọi vật trở về trạng thái năng lượng thấp nhất có thể, nhưng các thày cũng có thể bảo đó thực sự chỉ là sự minh hoạ của định luật cân bằng của vũ trụ. Không phải là luật cân bằng, hay ngay cả định luật thứ hai của nhiệt động học, cố đưa mọi thứ vào một trạng thái không phân biệt, mà quy luật vũ trụ được thiết lập để đảm bảo mọi thứ tăng trưởng đến những trạng thái ngày càng cao hơn, nhưng là một sự tăng trưởng bền vững, liên tục và tuần tự.

Điều con làm trong nhị nguyên là con tách mình ra khỏi sự tăng trưởng vững bền liên tục đó, và con tạo ra một trạng thái mất cân bằng khi thay vì tăng trưởng tổng thể, con lại muốn sự tăng trưởng cục bộ của một ý thức hệ, của một nhóm người đặc thù hay một tầng lớp thượng lưu, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tước đi một cái gì đó từ tổng thể. Nói cách khác, một nhóm ít người tước đoạt một cái gì đó từ tổng thể, và chính điều này vi phạm quy luật cân bằng của vũ trụ, vì khi tổng thể mất cân bằng thì quy luật vũ trụ sẽ kéo nó trở về cân bằng.

Luôn luôn sẽ có một đối cực kéo bất kỳ sự mất cân bằng nào trở về trạng thái cân bằng. Đây là điều các thày đã mô tả là một đặc tính của nhị nguyên, nghĩa là khi con tạo ra một đối cực nhị nguyên, đồng thời con cũng tạo một đối cực nhị nguyên trái ngược. Đây là điểm mà triết gia Hegel đã mô tả là phép biện chứng, nghĩa là khi một tư tưởng hay một lý thuyết trở thành luận đề tạo ra phản đề, thì sẽ có một cuộc đấu tranh giữa hai lực, dẫn đến kết quả một trạng thái mới gọi là tổng hợp, tuy nhiên chính tổng hợp này lại trở thành luận đề kế tiếp tạo ra một phản đề mới nữa, rồi lại có một cuộc đấu tranh, vân vân và vân vân cho đến vô tận. Hegel tin đó là cách thức tiến bộ xảy ra và là cách duy nhất tiến bộ có thể xảy ra. Đó là sự giới hạn trong cái nhìn của Hegel.

Thật ra đó chỉ là cách vận hành trong một trạng thái mất cân bằng, bởi vì khi con có cân bằng thì con vẫn tăng trưởng nhưng không có đấu tranh, không có đối nghịch, không có căng thẳng giữa hai cực. Tất cả những gì xảy ra trong một trạng thái cân bằng trên một hành tinh tự nhiên đều nhắm vào việc nâng cao tổng thể. Chỉ khi con tìm cách nâng cao một thành phần của tổng thể qua việc hạ thấp phần còn lại của tổng thể, thì con mới có mất cân bằng, mới có đối nghịch và đấu tranh biện chứng. Điều mà Hegel và Marx đã làm là nhìn vào một trạng thái mất cân bằng xuất hiện trên địa cầu, rồi cố dùng nó để tạo ra một xã hội lý tưởng hơn không còn xung đột mâu thuẫn. Hiển nhiên chuyện này không bao giờ có thể làm được, vì một dạng mất cân bằng không thể dẫn đến hài hòa và trọn vẹn, mà chỉ dẫn đến một dạng mất cân bằng khác mà thôi.

Tại sao thày nói là sa nhân không nắm quyền kiểm soát? Bởi vì mỗi khi họ lấy một tư tưởng, một nhóm người hay một tôn giáo và nâng lên vị thế cao trội, họ cũng tạo ra một đối nghịch. Nghĩa là họ sẽ không bao giờ có thể đạt đến trạng thái mà họ mơ ước, một quyền kiểm soát vĩnh viễn không thể nào bị đe dọa. Luôn luôn sẽ có một sự đối lập, hay đe doạ, cho quyền kiểm soát của họ. Tất nhiên, điều này họ không thể nào chịu được, cho nên họ bắt buộc phải tìm cách tiêu diệt đối lập. Đó là vì sao con thấy tất cả những ý thức hệ loại đó luôn luôn chứa đựng ý tưởng là có phải và trái, có đúng và sai. Có những người theo phe đúng, có những người theo phe sai, và những ai theo phe đúng phải tiêu diệt những ai theo phe sai. Vì thế mới có đấu tranh liên tục. Đây là một đặc tính được cài sẵn trong nhị nguyên.

31.3. Không có an bình trong phản ứng  

Nhưng bây giờ con hãy nhìn vào tâm lý của sa nhân. Chuyện gì xảy ra trong tâm lý của một sa nhân? Như các chân sư khác đã nói, khi con là avatar mới đến địa cầu, con đã phải nhận chịu một chấn thương gọi là chấn thương nhập đời. Còn sa nhân thì sao? Nơi bầu cõi họ bị sa ngã, khi họ phải đối mặt với các chân sư thăng thiên, đối mặt với sự thật là có một quyền uy lớn hơn quyền năng của họ, thì họ cũng nhận chịu một chấn thương hay họ tạo ra một chấn thương, như kỳ thực chính con cũng từng làm vậy.

Kể từ đó trở đi, sa nhân đã luôn tìm cách bù đắp cho chấn thương mà cảm giác mất mát đó gây ra. Họ đã toan giành kiểm soát hầu tìm cầu một tâm trạng bình an, không bị phân rẽ, không bị tổn thương và đau đớn bởi chấn thương. Nhưng tất nhiên, điều này họ không thể làm được vì họ cố làm qua trung gian tâm thức nhị nguyên, mà nhị nguyên thì bắt buộc phải tạo ra đối nghịch. Luôn luôn phải có một cặp đối nghịch. Vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là một sa nhân, một sa nhân nào đó, sẽ bắt đầu tìm cách nâng cao, chẳng hạn, một tôn giáo nào đó thành tôn giáo siêu đẳng. Y sẽ tin là nếu y có thể tạo ra một tình trạng trên địa cầu nơi ai ai cũng đi theo tôn giáo đó và không có ai thách thức, không có ai chống đối, thì hẳn là y sẽ vô cùng yên trí. Y sẽ nắm quyền kiểm soát. Và y cảm thấy là y nắm toàn quyền, vì đó là cách duy nhất mà một sa nhân có thể mường tượng sự yên trí. Không hẳn là sa nhân tìm cầu sự yên trí, mà y tìm kiếm một thế cân bằng nào đó nơi y có thể cảm thấy mình làm chủ tình hình, và cách duy nhất y có thể nghĩ ra là nắm quyền lực mà không có ai thách đố. Nhưng cho dù sa nhân có phấn đấu đến đâu, y cũng sẽ không bao giờ đạt được trạng thái tâm lý nơi y cảm thấy mình làm chủ và mình nắm quyền lực tuyệt đối.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, như các thày đã có nói, tâm lý của một sa nhân thật sự là định nghĩa chính xác nhất về chứng rối loạn đa nhân cách (split personality disorder), chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Một sa nhân có vẻ như kiểm soát được tình hình, chẳng hạn như Stalin – nếu nói về sự kiểm soát trong cõi vật lý thì Stalin hoàn toàn kiểm soát Liên xô vì ông muốn gì thì người ta răm rắp làm theo. Nhưng nhìn vào tâm lý của Stalin, con sẽ thấy ông hoàn toàn không kiểm soát được trạng thái tâm ông, vì ông luôn luôn cảm thấy mình bị đe dọa, luôn luôn sợ hãi, luôn luôn tìm cách triệt hạ mọi tiềm năng đe dọa bằng cách sát hại ngay cả những cộng tác viên thân cận nhất của mình. Mao, Hitler cũng tương tự như thế. Điều con thấy ở đây là sa nhân bị mắc kẹt trong nhu cầu ám ảnh cưỡng chế đó, luôn tìm cách tạo ra một trạng thái – có thể nói là – yên tâm, hay ít ra không bị đe dọa, nhưng y lại làm vậy bằng cách tiêu diệt một cái gì khác.

Hiển nhiên, không một sự an bình hay một thế cân bằng nào có thể đạt được qua hủy diệt, nhưng sa nhân sẽ không bao giờ nhìn ra được chuyện này từ tâm thức nhị nguyên. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là sa nhân có vẻ như kiểm soát được ngoại cảnh, nhưng trong nội tâm, sa nhân không ngừng phản ứng, và tất nhiên, khi con phản ứng lại những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của mình, làm sao con có thể giữ được kiểm soát? Không thể nào được. Sa nhân không bao giờ kiểm soát được chính tâm lý của mình. Họ luôn luôn phản ứng lại những mối đe dọa, cho dù là thực hay là tưởng tượng.

Khi thày nói “thực”, tất nhiên là thày dùng dấu ngoặc kép, mặc dù con có thể bảo là có một số đe dọa hiện hữu trong cõi vật lý, và có một số đe dọa khác thì do sa nhân bịa đặt trong tâm. Kỳ thực, khi con trong tư cách là một học trò tâm linh nhận ra điều này, đương nhiên con sẽ nhận ra là về mặt cơ bản, tâm lý của sa nhân cũng không khác gì tâm lý của con người. Sa nhân chỉ cực đoan hơn mà thôi. Con là một học trò tâm linh, chừng nào con còn mang chấn thương nhập đời thì con cũng sẽ ở trong tâm trạng phản ứng lại những sự kiện có vẻ vượt khỏi tầm kiểm soát của con, và con cũng làm vậy để tạo ra một cảm giác cân bằng, an tâm, yên trí nào đó.

31.4. Con đường nội tâm đến an bình

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra đây là một tâm thức vô cùng xưa cũ trên hành tinh địa cầu, một động lượng đã có từ rất lâu, thậm chí một con quái vật tập thể luôn khiến con người tạo dựng một cảm giác an tâm qua nhiều phương cách. Một phương cách, chẳng hạn, trong cõi vật lý là xây thành lũy kiên cố với tường dày đến độ không một kẻ thù nào có thể đâm thủng, rồi con tích trữ lương thực để cố thủ trong đó thật lâu, chẳng khác gì cách phản ứng sợ hãi của những kẻ gọi là lãnh đạo xã hội thời trung cổ. Hay con cũng có thể dùng nhiều phương cách khác, qua khoa học, qua công nghệ, hay con mua bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ hay bất kỳ loại bảo hiểm nào con có thể nghĩ ra. Hay con cũng có thể tích trữ nhiều tiền bạc đến độ con nghĩ mình có thể tung tiền mà thoát khỏi mọi khó khăn. Nhưng phương cách của con cũng có thể là tôn giáo hay giáo lý tâm linh. Con thấy Giê-su đã nói gì về những tín đồ Cơ đốc chui vào một trạng thái mà họ tưởng là cân bằng do họ tin chắc là họ sẽ được cứu rỗi khi Giê-su tái lâm, và họ tin chắc là họ chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời thoải mái và có lẽ đóng góp một chút tiền bạc cho từ thiện.

Con thấy trong đạo Phật có bao nhiêu người, ngay cả những Phật tử sống trong tu viện, cũng đã tạo ra một trạng thái tương tự như thế, có vẻ rất cân bằng và yên ổn vì họ cho là mình chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời tu hành, tuân thủ mọi yêu cầu tụng niệm, cầu nguyện, tu tập, thiền định và điều này điều nọ. Nói cách khác, đây là con đường vỏ ngoài, con đường tự động mà qua đó con nghĩ con có thể đắc đạo hay nhập niết bàn mà không cần xem xét đến tâm thức của mình và chuyển đổi tâm thức.

Tất nhiên như các thày đã nói nhiều lần, có những học trò tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã cố làm y như thế với giáo lý của chân sư, và hiển nhiên đó là chuyện khả thi. Chuyện này dễ hơn trong những đợt truyền pháp trước, khó hơn hẳn trong đợt truyền pháp này, vì lần này – lần đầu tiên ít ra là trong lịch sử được ghi chép – các thày đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để phơi bày các cơ chế tâm lý, hầu con chỉ có thể ở lại với giáo lý trong khi xây đắp một cảm giác yên ổn, bằng cách con bỏ qua hay phủ nhận một phần đáng kể của giáo lý. Nếu con là người cởi mở, tất nhiên con nhận ra là con không thể là một cánh cửa mở hoàn toàn nếu con dùng giáo lý theo cách đó. Con cần bước vào một trạng thái – và đa số các con đã bước vào rồi – nơi mình sẵn lòng xem xét tâm lý của mình một cách liên tục, sẵn lòng giải quyết những gì cần giải quyết, rồi vươn lên cao hơn hầu thực sự trở thành một cánh cửa mở.

Tất nhiên, điều con cũng gặt hái được qua cách này là một trạng thái an bình chân thực hơn. Các thày có nói là luôn luôn sẽ có những ảo tưởng mà con cần vượt qua cho tới khi con thăng thiên, nhưng các thày cũng có nói là điều này không có nghĩa là con phải sống hết kiếp này trong một tâm trạng thiếu sót, cảm thấy như mình luôn luôn bất cập, khiếm khuyết, như luôn luôn có điều gì mình chưa làm hay cần phải làm. Điểm mà con cần thực sự đạt đến là sự chấp nhận. Con chấp nhận chính mình như một học trò sẵn lòng bước đi trên đường tu, luôn luôn tìm xem mình có cần nhìn ra điều gì trong tâm mình, trong tâm lý mình. Một khi con vượt qua được điểm đó, là điểm mà các thày gọi là điểm kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý mình, thì con sẽ có được một cảm giác an bình nội tâm nào đó, vì không có điều gì trong tâm mà con sợ nhìn vào, không có gì trong tâm lý của con mà con không thể khắc phục, không có gì trong thế gian mà con cần sợ hãi.

31.5. Điều kiện ngoại cảnh có mục đích gì

Tại sao con người lại sợ ngoại cảnh? Họ có nhiều lý do. Họ nói, tôi sợ đau ốm, tôi sợ đau đớn, tôi sợ này sợ nọ. Phải, điều này có thể thông cảm được. Nhưng dù sao đi nữa, tại sao họ lại sợ một điều kiện bên ngoài chưa thị hiện? Bởi vì họ sợ nó sẽ tác đông đến tâm lý của họ như thế nào. Như các thày đã có trình bày, không phải là điều kiện vỏ ngoài khiến con đau đớn. Nỗi đau hiện hữu trong tâm con. Ngay cả đau đớn thể xác cũng hiện hữu trong tâm con, hay ít nhất nó khơi ra một phản ứng trong tâm con. Đó là điều khiến nó không chịu đựng nổi. Kỳ thực con luôn luôn lo sợ phản ứng của con đối với một điều kiện bên ngoài thay vì chính điều kiện đó. Nhưng nếu con biết là con có thể khắc phục phản ứng đó bằng cách nhìn vào phản ứng cũng như ngã tách biệt đằng sau nó, thì tại sao con lại cần lo sợ phản ứng? Và nếu con không lo sợ phản ứng thì tại sao con lại cần sợ điều kiện đó?

Thật sự, điều một số các con đã bắt đầu sẵn sàng nhìn nhận là con không có lý do gì để sợ hãi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu. Phần nào đây cũng là điều Giê-su đã chứng tỏ khi thày chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập tự giá. Con có thể nói là nếu việc bị đóng đinh và chịu đựng nỗi đau đớn tạm thời đó đã giúp cho thày đủ tư cách thăng thiên, thì liệu việc trải qua nỗi đau nhất thời đó chẳng đáng lắm hay sao? Con thử nhìn xem Giê-su sau khi thày thăng thiên và thày có thể nhìn lại những giờ phút đau đớn đó, nhưng chuyện đó còn hề chi nữa? Trong trạng thái thăng thiên, bất cứ gì đã xảy ra trên địa cầu có còn quan trọng gì nữa không?

Các thày đã nói gì về mục đích thực sự của địa cầu, của trải nghiệm của con trên địa cầu? Đó là để nâng cao tâm thức. Một phần công việc nâng cao tâm thức là con phải vượt qua một cái gì đó nơi bản thân con – những cái ngã tách biệt hay bất cứ gì khác. Và để vượt qua cái đó, con phải nhìn thấy nó. Và để nhìn thấy nó, chuyện gì cần xảy ra? Phải, đôi khi con có thể nhìn thấy nó qua một tiến trinh nội tâm. Nhưng có những thứ mà con không thể nhìn thấy, hoặc ít ra con sẽ nhìn thấy nhanh chóng hơn nếu nó được các điều kiện ngoại cảnh kích hoạt cho hiển lộ ra.

Đâu là mục đích của bất kỳ trải nghiệm nào mà con có thể có trên địa cầu? Đó là để làm hiện lộ trong nội tâm của con một số điều kiện đang hạn chế con – đó chính là tại sao con mới có một phản ứng khó chịu – hầu con có thể nhìn thấy điều kiện đó, giải quyết nó và được giải thoát khỏi nó. Và một khi con đã giải thoát khỏi điều kiện đó trong chính con, thì điều kiện bên ngoài hoàn toàn vô can, không dính dáng gì đến con nữa. Nếu con không có phản ứng tiêu cực nào đối với điều kiện, thì nó có quan trọng gì nữa không? Nó không kìm hãm được sự tăng trưởng tâm linh của con.

Một khi con bắt đầu suy ngẫm điều này, con có khả năng đạt đến một điểm khi con xoay chuyển một cách ý thức, và con nói: “Tại sao tôi lại sợ tất cả những điều kiện đó có thể xảy đến? Tại sao tôi lại cần sợ tất cả những điều kiện đó? Bất cứ gì xảy ra cũng sẽ tạo ra phản ứng. Khi tôi nhìn thấy phản ứng, đó là cơ hội cho tôi tìm kiếm những ảo tưởng, những ngã tách biệt đã gây ra ảo tưởng, hóa giải những ảo tưởng đó, để cho ngã tách biệt chết đi, và khi đó tôi được tự do. Tại sao tôi lại sợ những chuyện xảy ra cho mình khi thật sự chúng sẽ giúp mình đạt được giải thoát tối hậu và thăng thiên? Tại sao tôi cần phải sợ bất cứ điều kiện nào? Liệu tôi có thể nói, “Chuyện gì xảy ra cũng được! Bất cứ gì cứ việc xảy ra!”?

31.6. Hết sợ hãi

Một lúc nào đó con hãy thử ngồi xuống trong một khung cảnh yên lắng, nhắm mắt lại, tập trung vào trái tim rồi nói: “Bất cứ gì cứ việc xảy ra.” Xong con dõi nhìn xem phản ứng đến từ bên ngoài tim con, đặc biệt từ những luân xa bên dưới, từ cảm thể của con. Con nhìn xem con có phản ứng thế nào. Thử theo dõi phản ứng. Thử nhìn xem con có nhận diện được một ngã tách biệt nào hay không. Nhìn xem cái tin tưởng đứng đằng sau nó. Con đang thực sự sợ hãi điều gì? Tại sao con lại nghĩ, đây là một chuyện khủng khiếp mình cần phải tránh? Cái gì ở trong điều kiện đó mà con thực sự sợ hãi, và con sẽ thấy đó là phản ứng bên trong con, nhưng một phản ứng bên trong thì con có khả năng ảnh hưởng. Con có thể bó tay không làm gì được đối với điều kiện bên ngoài, nhưng con có thể làm gì đó với phản ứng của con. Không phải đây chính là cốt lõi lời dạy của các thày hay sao?

Tại sao con thực sự sợ nó? Tại sao con nghĩ là con cần sợ nó? Điều này sẽ lần hồi dẫn con – đồng ý, tất cả các con sẽ cần thời gian để đạt tới đó – nhưng nó sẽ dẫn con đến một điểm khi con có thể nói: “Ừ nhỉ, bất cứ gì mà tôi gặp trên địa cầu chỉ là một thử nghiệm. Nó không có gì thực, theo nghĩa là nó không có quyền năng gì trên tôi để có thể quy định được tôi.” Và khi con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra cho mình chỉ là thêm một thử nghiệm trong số muôn vàn thử nghiệm khác, thì con sẽ có khả năng vượt qua nỗi sợ hãi mà biết bao người gán ghép cho tương lai, là nỗi sợ những chuyện có thể xảy ra.

Khi thày hiện thân trên địa cầu, trong sáu năm trời thày đã sống trong rừng, thày đã ngồi đó và bỏ đói thân mình, thày đã đối mặt với đủ loại điều kiện trong thể xác. Qua đó thày đã học được điều này, rằng không một điều kiện nào của thể xác có quyền lực đối với tâm mình trừ khi thày cho nó quyền lực. Qua đó thày đạt được một sự thản nhiên nào đó đối với thân xác mình và những gì có thể xảy ra cho thân xác, và hơn thế nữa, đối với những gì có thể xảy đến cho thày trong cõi vật lý. Trong phần còn lại của cuộc đời phụng sự, chắc chắn là sau khi thày trở về giảng dạy, thày không có sợ hãi nào về tương lai. Con có thể nói: “Nhưng chuyện đó quá dễ, thày đã có một cuộc đời quá dễ dàng.” Đúng, nhưng thày vẫn đang là người đầu thai giữa tâm thức tập thể của loài người, và tâm thức này luôn luôn tác động lên thày y như mọi người khác. Chỉ vì thày không phản ứng lại lũ quỷ của Mara mà thày mới thoát ra được thôi.

31.7. Giải phóng khỏi ngoại cảnh

Cho dù chuyện gì có xảy ra trong điều kiện bên ngoài, con vẫn mang sẵn tiềm năng thoát ra khỏi phản ứng của mình, và do đó, con không thể bị quỷ Mara cám dỗ. Điều gì gây ra phản ứng chứ? Tại sao con lại phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh mà không phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh khác? Đó là vì trong tâm con có một cái chuẩn bảo rằng: “Chuyện này phải xảy ra cho tôi, chuyện kia không được xảy ra cho tôi.”

Khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “những chuyện phải xảy ra”, con có một cảm giác tích cực. Con có một phản ứng tích cực. Nhưng khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “không được xảy ra”, con rơi vào phản ứng tiêu cực, và con cho đó là cách phản ứng duy nhất. Nhưng tại sao đó là cách duy nhất? Đó chỉ là cách duy nhất trong tâm thức nhị nguyên mà thôi, nơi con có một tiêu chuẩn và một phán xét giá trị. Nhưng khi con giải thoát khỏi nhị nguyên, nó sẽ phai nhạt đi. Tại sao lại có hoàn cảnh tích cực và hoàn cảnh tiêu cực? Tại sao một cái dẫn đến phản ứng hân hoan mất cân bằng, còn cái kia dẫn đến phản ứng tiêu cực cũng mất cân bằng? Tại sao có bất cứ gì con cần phải tránh né? Cho dù chuyện gì có xảy ra thì đó là một trải nghiệm, và bất kỳ chuyện gì xảy ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là điều thích hợp để phơi bày ra một điểm nào đó trong tâm lý của con mà con chưa nhìn thấy. Vậy không tích cực lắm hay sao?

Có thể con sẽ nói: “Nhưng vẫn có những trải nghiệm trên địa cầu mà con không muốn có.” Điều này có thể hiểu được. Nhưng có một sự khác biệt giữa (1) sợ hãi và muốn tránh né một cái gì đó, và (2) quyết định là mình thật sự không muốn có trải nghiệm đó. Khi con làm điều thứ hai, con sẵn sàng nói: “À, vậy thì tôi cần làm gì để tránh loại trải nghiệm này? Tôi cần tim xem trong tâm lý mình có điều gì sẽ được đưa ra ánh sáng bởi trải nghiệm này, rồi tôi cần giải hóa điều kiện tâm lý đó hầu tôi không cần phải trải nghiệm điều kiện bên ngoài.”

Không có sự trừng phạt ở đây. Không có cưỡng ép, theo nghĩa là mọi chuyện xảy ra là để giải quyết vấn đề tâm lý. Mà nếu con giải quyết được tâm lý thì con không cần phải có sự cố bên ngoài xảy ra cho con. Trừ khi con làm vậy để chịu một gánh nặng nào đó cho người khác – luôn luôn có ngoại lệ cho mọi quy luật – nhưng đối với đa số các con, nếu con giải quyết được điều kiện tâm lý thì con sẽ không cần trải nghiệm điều kiện bên ngoài. Giản dị như vậy thôi.

Dựa trên đó, con thấy được là đối với số đông các con đã thực hành lời dạy này trong một thời gian, việc đạt được trạng thái cân bằng, an bình đó là một điều khả thi và thực tế. Nhưng nó không dựa trên sự phủ nhận. Thày có nói là nhiều Phật tử có được một cảm giác cân bằng, nhiều tín đồ Cơ đốc cũng có được cảm giác cân bằng, nhưng đó là vì họ phủ nhận một điều gì đó trong tâm lý họ. Họ làm ngơ. Họ từ chối nhìn vào, và do đó họ mang ảo giác yên tĩnh mà không thực sự an bình. Nhưng con có khả năng áp dụng các lời dạy của các thày để đạt được trạng thái đó nơi tâm – là khi những chuyện ngoại cảnh không làm phiền con, con không phản ứng, con có thể nhìn quỷ Mara diễn hành trước mặt mình mà không phản ứng. Có nghĩa là khi đó con đạt được tự do tư duy để thực sự tự vấn: “Tôi thực sự muốn những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của kiếp này?” Và nhiều người trong số các con sẽ có khả năng xoay chuyển và nhận ra: “Chính những gì đang xảy ra là những trải nghiệm mà tôi muốn có, bởi vì trải nghiệm này nằm gọn trong tiến trình tăng trưởng của tôi. Đây là mong muốn mà tôi có, và bằng cách kinh qua và trải nghiệm nó, tôi có thể tự giải phóng mình khỏi mong muốn đó.”

Nhiều người trong các con sẽ thấy mình đạt tới điểm này khi mình tự dưng biết rõ là đã đến lúc mình cần thay đổi cuộc sống, cho dù đó là gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con có thể thực hiện thay đổi đó và con có thể có một trải nghiệm khác xa những gì con đã sống qua trước đây. Và trải nghiệm này là một phần của tiến trình tăng trưởng của con. Nó cũng có thể là một phần của món quà mà con muốn mang lại qua Sứ vụ Thiêng liêng của con.

31.8. Ngoại cảnh tự nhiên thay đổi

Một số các con có thể tự hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào? Chẳng hạn tôi muốn trải nghiệm việc bày tỏ một ý tưởng nào đó.” Nhưng để làm điều này, con cần một số thay đổi, rồi con phải thực hiện những thay đổi này. Thày sẽ không nói chi tiết những thay đổi cần thiết là gì. Chính con, tất nhiên, sẽ nhận thấy khi nào con sẵn sàng thay đổi. Đây không phải là một điều mà con áp đặt bằng tâm vỏ ngoài, mà nó sẽ xảy đến khi nào con đã đạt được trạng thái an bình nội tâm một khi con giải quyết tâm lý của mình. Khi đó con sẽ tự hỏi một cách ý thức: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào trong giai đoạn kế tiếp của đời tôi?”

Rất nhiều các con sẽ nhận thấy là một khi con sáng rõ, một khi con không bị phân rẽ trong tâm nữa, thì hoàn cảnh cuộc sống sẽ tự nhiên ăn khớp vào nhau và con thấy mình sống trong một tình cảnh đổi mới. Đây là tình huống mới được thị hiện một cách không khó nhọc. Nó xuôi chảy với Dòng sông sự Sống khi con không kháng cự lại bất cứ gì. Con không đang tìm cách gò ép cho điều gì xảy ra – có thể nói là con chỉ quan sát nó xảy ra. Con quan sát mọi sự trải bày ra.

Liệu thày có đang bày đặt một chuyện huyễn tưởng gì đó ở đây? Liệu chuyên này chỉ xảy ra cho một số ít người? Không đâu con, nó áp dụng cho tất cả những ai sẵn lòng thực hành lời dạy và giải quyết tâm lý của mình. Tại sao nó lại có thể xảy ra? Tại sao khi con thay đổi trạng thái tâm mình thì hoàn cảnh vỏ ngoài cũng có thể thay đổi theo? Đây không phải là hiện tượng mà người ta thường gọi là “tâm làm chủ vật chất”. Con thấy đó trên thế giới, có cả một phong trào những kẻ cố sức đạt được quyền năng lấy tâm điều khiển vật chất, ép buộc vũ trụ phải ban cho họ những gì họ muốn. Họ muốn ép buộc chì phải biến thành vàng, hoặc thế này thế nọ – bất cứ gì mà họ mơ ước. Nhưng đó là sa nhân đang tìm cách sử dụng điều mà các chân sư gọi là ma thuật để thị hiện một số kết quả nào đó.

Điều thày đang nói đến ở đây là thị hiện mà không chút cố gắng, cũng không dùng đến sức lực hay quyền lực. Con thấy không, khi tâm lý của con đã giải quyết, con không cần phải gò ép gì nữa, bởi vì con không tìm cách tránh né bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách bất cứ gì lên bất cứ ai, hoặc xua đuổi bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách nó đến với con hay bay xa khỏi con. Tại sao khi con xoay chuyển trong tâm thì các tình huống bên ngoài lại có thể ăn khớp vào nhau như vậy?

31.9. Tất cả đều nối kết

Phải, điều này xảy ra được là do một nguyên lý mà thày đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước, đó lý duyên khởi (interdependent originations). Đây là một khái niệm vô cùng thâm sâu. Các thày đã có đề cập rồi và đã khuyến khích con nên suy ngẫm, và một lần nữa, thày lại khuyên con nên suy ngẫm và từ từ chiêm nghiệm nguyên lý này. Con cần nhìn nhận là con đã lớn lên trong thế giới hiện đại, là môt thế giới chủ yếu dựa vào không những một nhân sinh quan dựa trên sức mạnh, một hệ tư tưởng dựa trên sức mạnh, mà cả một hệ tư tưởng dựa trên tách biệt. Thày đã nói gì về tâm thức nhị nguyên? Trong nhị nguyên, con nhìn vào toàn bộ tấm thảm của sự tồn hữu con người, xong con lấy ra một phần, con nâng nó lên, đồng thời con cũng kéo thấp những phần khác xuống. Con tạo ra một sự mất cân bằng. Nhưng trong lý duyên khởi không hề có mất cân bằng, tất cả đều nối kết với nhau.

Nhưng con đã lớn lên và được dạy dỗ cái nhìn cho rằng tất cả mọi thứ đều không nối kết với nhau. Tất cả đều là những thực thể tách biệt. Chúng hiện hữu riêng rẽ. Chúng là những thứ riêng rẽ bị tác động bởi những nguyên nhân riêng rẽ. Khi con nhìn khoa học, khoa học hiện đại, con sẽ thấy khoa học đặt nên tảng trên cái nhìn tách biệt này. Con cho rằng con có thể nhìn vào tấm thảm của vũ trụ và lôi ra một sự kiện nào đó, một điều kiện nào đó, cô lập nó ra và bảo: “Đây là một hiệu ứng biệt lập, và hiệu ứng biệt lập này là do nguyên nhân biệt lập kia. Hiệu ứng này hoàn toàn được gây ra bởi nguyên nhân kia, và nguyên nhân kia là nguyên nhân độc quyền gây ra hiệu ứng này.” Đây là cái nhìn tách biệt mà khoa học phương Tây vẫn tiếp tục cổ võ, cho dù nó đã bị chính khoa học phương Tây – vật lý lượng tử – bác bỏ.

Có lẽ con cần bỏ ra thì giờ để suy ngẫm về điều này và nhận ra cách nhìn về nguyên nhân tách biệt và hệ quả tách biệt chỉ hữu ích cho một giai đoạn nào đó. Đó là một giai đoạn cần thiết khi loài người cần chuyển từ thế giới quan tôn giáo thời trung cổ sang thế giới quan khoa học, thuần lý, hiện đại hơn. Không phải là cách nhìn này sai – nó không sai khi xã hội cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng đó chỉ là một giai đoạn, hay ít nhất, đó là một giai đoạn mà xã hội phải đi qua nhưng nó không thể đưa xã hội hay loài người quá một trình độ nào đó.

Là học trò tâm linh, con sẽ muốn suy ngẫm xem làm thế nào con có thể giải thoát tâm con khỏi niềm tin đó. Một lần nữa con có thể hỏi, tại sao mình lại sợ một tình huống nào đó? Phải chăng là vì con cho rằng có nguyên nhân tách biệt kia sẽ tác động đến con là một sinh thể tách biệt, và con như một sinh thể tách biệt sẽ phản ứng lại nguyên nhân đó? Và con như một sinh thể tách biệt sẽ muôn tránh né nó, muốn tránh né nguyên nhân đó?

Nhưng con đang nhìn bản thân mình như một sinh thể hiện hữu trong một tổng thể rộng lớn hơn. Con biết rõ điều này. Con đang sống trên một hành tinh với bảy tỷ người khác, với đủ loại điều kiện vật lý khác nhau, có cả những chuyện như thời tiết, và nếu trời mưa và con ra ngoài đường thì con sẽ bị ướt. Con biết là con đang sống trong cái tổng thể đó, nhưng thay vì nhìn vào tổng thể, con lại tập trung vào một số khía cạnh đặc thù của tổng thể, và con xem mình như một sinh thể tách biệt đang hiện hữu trong tổng thể, và con nghĩ đối với sinh thể tách biệt này, có những chuyện phải xảy ra cho nó và những chuyện khác không được xảy ra cho nó.

Xong con tìm cách làm thị hiện những chuyện phải xảy ra và xua đuổi những chuyện không được xảy ra, dựa theo tiêu chuẩn của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói con là một sinh thể cá biệt với quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không nhận ra là con hiện hữu trong một tổng thể với bảy tỷ cá nhân khác cũng có quyền tự quyết. Có nghĩa lý gì mà lại cho rằng con có thể tự cô lập khỏi tổng thể đó và không bị tác động bởi những chọn lựa tự quyết của người khác? Nghĩ như vậy có thực tế hay chăng?

Nhiều người nghĩ như vậy. Như thày vừa nói, có những người xây thành lũy với tường thật dày để cố cách ly, tưởng là mình có thể tự cô lập khỏi tổng thể, nhưng tất nhiên là họ không thể. Họ có thể tạm thời tạo cảm tưởng là họ có thể, nhưng thực tế là họ không thể. Toàn bộ ý tưởng cho rằng mình có thể cách ly khỏi tổng thể để che chở bản thân khỏi một số điều kiện – và hấp dẫn một số điều kiện khác – là một ảo tưởng. Dù con có ưa hay không ưa, con vẫn là một phần của tấm thảm nhân loại. Điều thày gợi ý cho con ở đây, và cũng là điều xảy ra cho những ai đã vươn lên một mức tâm thức Ki-tô nào đó và đã bắt đầu khoác vào tâm thức Phật, là con có khả năng xoay chuyển cách nhìn của mình về cuộc sống.

Con có thể khởi sự suy ngẫm là có một cách khác để nhìn cụôc sống hơn là nhìn từ quan điểm một cá nhân tách biệt đang cố tránh né một số chuyện và tìm cầu một số chuyện khác. Con có thể nhận ra là với tư cách một cá nhân tách biệt, thật chẳng nghĩa lý gì mà muốn cái này và không muốn cái kia. Bởi vì thực tế là mọi thứ đều nối kết với nhau, và rất có thể điều gì con muốn có sẽ khiến cho ai khác không có được, và điều gì con tránh né sẽ khiến cho ai khác không tránh được. Nói cách khác, nếu mọi sự đều là một tổng thể liên kết và con ở trong tổng thể đó, con không thực sự là một thành phần (a part) của tổng thể vì con không hề tách rời (apart) khỏi tổng thể. Mà giản dị, con là một khía cạnh trọn vẹn và không thể thiếu của tổng thể. Thật không có nghĩa lý mà nói: “Tôi muốn gì đây như một cá nhân tách biệt?”

Có một cách nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống, và đó là nhìn cuộc sống từ một cá nhân nối kết, một người nối kết với tổng thể. Tức là thật chẳng nghĩa lý gì mà bảo: “Liệu tôi có thể tự nâng mình lên và trở thành tỷ phú bằng cách lấy tiền của người khác hay không?” Con có thể làm vậy như một số người đã từng làm, nhưng kỳ thực con không tách rời khỏi tổng thể. Khi con tạo ra một sự mất cân bằng thì con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng trong chính con. Khi con tạo một sự mất cân bằng tác động lên người khác, con sẽ tạo một sự mất cân bằng tâm lý tác động lên chính con. Con cũng sẽ tạo ra một đối nghịch vật lý có thể sẽ tác động đến con trong tương lai. Vì tác động này có thể bị trì hoãn tới một kiếp sau cho nên con không thấy được, nhưng con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng tâm lý. Chẳng hạn như con thấy đó, tất cả những ai làm giàu qua việc gây tổn hại cho người khác cũng đều hứng chịu những mất cân bằng tâm lý sẽ liên tục gây tổn hại cho họ.

31.10. Mục đích là nâng cao tổng thể

Có một cách nhìn cuộc sống khác hẳn cái nhìn tách biệt mà con đã được giáo dục, được lập trình và đã phải tiếp cận suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ cần trang bị lại tâm trí để có thể xoay chuyển, nhưng ở đây thày đang chỉ ra cho con những giai đoạn khởi đầu của tiến trình đó. Con có thể bắt đầu suy ngẫm và chuyển dời tâm thức. Con có thể bắt đầu trau dồi nhận thức là con không thực sự ở đây để tự nhấc mình lên, ít ra là không tạo sự mất cân bằng sẽ làm hại đến người khác. Con ở đây để nâng cao tổng thể.

Điều này khớp với đường tu tâm linh dẫn đến quả vị Ki-tô như thế nào – vì các thày đã có nói là ở những chặng đầu của đường tu, công việc quan trọng nhất của con là tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng? À, có vẻ như con cần tách ra khỏi một cái gì đó, và theo một nghĩa nào đó, con đang tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng. Nhưng tâm thức đại chúng là gì? Đó là tâm thức tách biệt. Khi con tách mình ra khỏi tâm thức tách biệt, liệu con đang tách ra khỏi một cái gì đó, lánh xa một cái gì đó, hay con đang bước vào tâm thức hợp nhất, tâm thức nối kết? Con không thể thực sự tách ra khỏi sự tách biệt. Con chỉ có thể đi vào tâm thức vượt khỏi tách biệt, tức là đi vào hợp nhất. Con nhận ra là để nâng cao tổng thể, con cần tách mình ra khỏi tâm thức tập thể hầu con có thể nâng cao tâm thức cá nhân của mình, và khi con làm vậy, con tạo ra một lực kéo theo cả tập thể đi lên.

Sự khác biệt vi tế nằm ở chỗ một số đệ tử sẽ tìm cách làm vậy với động lực nâng mình lên như một cá nhân tách biệt. Đây là điều các thày từng đề cập là ở tầng thứ 96, con cần tìm ra đáp số cho bí ẩn là con không còn cố nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, mà con nhìn ra sự nối kết với tổng thể. Đây là tâm thức Ki-tô, không phải mức cao nhất nhưng chắc chắn là chặng khởi đầu của tâm thức Ki-tô. Khi con xoay chuyển, con nhận ra là tất cả mọi thứ đều tương kết với nhau. Theo một nghĩa, con có thể nói là tâm lý của mọi người trên địa cầu tương kết với nhau. Có những ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có. Có một vài ngã tách biệt mà mọi người đều có, và có rất rất nhiều ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có.

Vậy sẽ cần gì để nâng cao nhân loại? Sẽ cần gì để nâng cao tâm thức tập thể? Đó là cần giải quyết những ngã tách biệt. Nhưng làm thế nào? Điều này không thể xảy ra trên bình diện tập thể, vì hiện không có một nhận biết tập thể và mọi người đang bị những ngã tập thể phân rẽ. Không có hy vọng nào khơi lên ý thức này, ít ra là trong tương lai gần, vì mọi người đều có ngã tách biệt và cần khắc phục cái đã. Tuy nhiên, con có thể thấy một số chuyển đổi tập thể đang diễn ra, nhưng những chuyển đổi này khởi lên là do một số cá nhân đã bắt đầu xoay chuyển bản thân, và điều này tạo ra động lượng khiến cho nhiều người khác cũng chuyển đổi theo.

Nhân loại được nâng lên là nhờ một số người đã sẵn lòng xem xét và giải quyết ngã tách biệt của riêng mình. Điều này tạo ra một khuôn mẫu, một khung sườn, một đường khai thông cho người đi sau, một cái trớn cho tập thể. Nếu có một người nhìn thấu qua một ngã tách biệt nào đó, thì sẽ có một người khác khắc phục ngã tách biệt đó dễ dàng hơn do người kia đã làm được trước đó. Rồi sẽ có một người thứ ba cũng thấy dễ dàng hơn nữa, và nó sẽ lan rộng ra giống như vòng tròn trên mặt nước cho tới khi tập thể được xoay chuyển, và bỗng nhiên nó gần như trở thành một loại kiến thức phổ thông, hay ít nhất một câu chuyện đầu môi cho nhiều người. Ngay cả chỉ trong một đời người, con đã thấy trong lãnh vực xuất bản sách tự cải tiến (self-help) đã xảy ra những chuyển đổi khiến cho một vấn đề nào đó bỗng nhiên trở nên thời trang và được nhiều người nói tới. Chẳng hạn ngay giờ đây, con có thấy đề tài về những người ái kỷ (narcissist) đang trở nên phổ biến hay không? Tất cả đã bắt đầu là do có một vài người sẵn sàng tự cải sửa rồi kéo theo mọi người đi lên.

31.11. Không còn kháng cự

Như vậy có nghĩa là bây giờ con có thể trở về khái niệm thày đề cập ở trên, là có một số điều kiện mà con muốn tránh né, nhưng giờ đây con nói: “Phải, có một điều kiện này mà tôi không muốn xảy ra nhưng nó vẫn xảy ra như thường, vậy có nghĩa gì?” À, có lẽ có nghĩa là: “Cho dù tôi có muốn tránh né với tâm vỏ ngoài, nhưng trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, chính tôi đã hứa là mình sẽ tiếp nhận điều kiện đó để nó giúp mình giải quyết cái tâm lý ở đằng sau, và nhờ vậy tôi sẽ nâng cao tổng thể.” Nói cách khác, những gì xảy ra cho con không phải là điều gì nhằm đánh phá con, không phải là điều gì con cần kháng cự lại. Trái lại, đó là một điều con cần đón nhận và nói: “Tôi có thể học được gì từ chuyện này? Có gì trong bản thân mà tôi cần nhìn thấy qua chuyện này? Làm thế nào tôi có thể giúp giải quyết một điều gì đó trong tâm thức tập thể và nhờ đó nâng cao tập thể?”

Một lần nữa, cách suy nghĩ này nằm trong câu “Bất cứ gì cứ việc xảy ra”. Khi con nói “Bất cứ gì cứ việc xảy ra”, nó không có nghĩa là chỉ có những thứ dễ chịu mới được quyền xảy ra. Mà nó có nghĩa là “bất cứ gì”. “Dù bất cứ gì xảy ra, tôi cũng sẽ gặp gỡ nó với tâm tích cực, tôi sẽ tìm cách tận dụng nó tốt nhất, và tôi sẽ hài lòng vì những gì tôi đã chịu đựng đều đã đóng góp nâng cao tổng thể.”

Điều này sẽ xoay chuyển trạng thái tâm con, khiến con không cưỡng lại bất cứ gì nữa. Và tất nhiên, con không thể an bình nội tâm khi con cưỡng lại hay tìm cách tránh né bất cứ gì. Làm sao an bình được? Và điều này ăn khớp thế nào với chủ đề trở thành cánh cửa mở? Thật hiển nhiên là khi con càng giải quyết được tâm lý của con thì con sẽ càng sẵn sàng nói “Bất cứ gì cứ việc xảy ra” và con càng trở thành một cánh cửa mở. Khi còn đầu thai trong cõi vật lý, con luôn luôn gặp thử thách mình bị mù quáng bởi toàn bộ hoàn cảnh mà mình đang trải qua, bởi tâm thức tập thể, bởi chính bốn thể phàm của mình, và con không thấy rõ trong tâm ý thức những gì con đã thảo ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con không nhìn thấy sự nối kết rộng lớn với công cuộc nâng cao tổng thể mỗi khi con trải qua một tình huống. Nhưng tư duy mà con có thể trau dồi là không những con sẽ cởi mở đón nhận những ý tưởng tuyệt vời từ cõi tâm linh, mà con cũng sẽ cởi mở để trải nghiệm tất cả những tình huống mà con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng, là những trải nghiệm mà con muốn kinh qua và đương đầu hầu giúp nâng cao tập thể. Thậm chí có cả những bệnh tật mà con muốn chuốc lấy.

31.12. Làm hòa với sự đầu thai trên địa cầu

Điều thày cố trao cho con ở đây là ý tưởng con có khả năng làm hòa với sự đầu thai của con trên địa cầu, cho dù hành tinh này có đày đặc và khó khăn như hiện giờ. Điều này không có nghĩa là thày yêu cầu con phủ nhận những điều kiện hiện hành trên trái đất. Khi con nâng cao tâm thức, con nhìn mọi điều kiện rõ hơn. Nhưng con cũng nhìn những điều kiện đó mà không có phán xét nào về giá trị, là sự phán xét của tâm thức nhị nguyên, và đây là điểm mà một số người đã không hiểu. Một số người đã đi qua giai đoạn mà Saint Germain đã giải thích rất tỉ mỉ là những giai đoạn khởi đầu trên con đường quả vị Ki-tô, khi con vẫn con suy nghĩ mọi chuyện theo đen và trắng. Con vẫn cho rằng cái này đúng, cái kia sai. Nếu cái này đúng thì cái đối nghịch phải sai. Đấy là cách con suy nghĩ ở một giai đoạn nào đó. Đó là khởi đầu của phân biện nhưng đó chưa thực sự là quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là khi con bước lên cao hơn một chút, và con bắt đầu nhìn vượt khỏi mọi phán xét giá trị. Khi nào con còn ở trong tâm trạng trắng đen này thì con sẽ vẫn phán xét giá trị, con sẽ vẫn cho rằng cái gì sai là xấu, là ác, là cần tránh né, là không có quyền tồn tại.

Khi con bước lên cao hơn trong tâm thức Ki-tô, con nhận ra là bất cứ gì đang hiện hữu cũng chỉ là quyền tự quyết của con người đang trải bày ra. Khi con lên cao hơn nữa vào những mức tâm Phật, con bắt đầu bỏ lại toàn bộ ý thức lượng định là một điều gì đó phải hiện hữu hay không được hiện hữu. Khi con nối kết với bản chất duyên khởi của tổng thể cũng như với quyền tự quyết đang trải bày ra, con nhận ra là theo một nghĩa nào đó, từ một quan điểm nào đó, hoàn toàn không có gì mà không được hiện hữu – bởi vì bất cứ gì hiện hữu cũng là sự trải bày của tâm thức con người sống trên địa cầu, và tâm thức này đang trải bày nó ra để khiến nó lộ diện. Khi con thấy được cách vận hành của bộ máy giả thực tại này, và thấy được loài người đã bước vào nhị nguyên như thế nào, thì bất cứ gì hiện hữu cũng hiện hữu như sự trải bày của một cái gì đó khó nhìn thấy và bây giờ được hiển lộ cho con thấy. Nhìn từ góc độ này, nó phải hiện hữu.

Con thử lấy tất cả những sự đánh giá mà nhiều người khoác vào trên hành trình tu tập, thì con có thể nói tiến trình đi tới quả vị Ki-tô và quả vị Phật là khi con bắt đầu nối kết với tổng thể, cho nên con trải qua một giai đọan khởi lên lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Con nhìn thế giới ngày nay, nhìn rất, rất nhiều người mà xem. Có thể họ đi theo hay không theo tôn giáo nào, nhưng con thấy là rất nhiều người – mà chúng ta có thể gọi là người tiến bộ, thiện tâm – được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn. Họ có lòng thương xót đối với nỗi đau khổ của người khác, và với lòng thương xót đó, họ nói: “Ồ, điều kiện tệ hại này không được có mặt ở đây. Người ta phải đau khổ như thế này thì thật là sai trái. Những chứng bệnh này không được hiện hữu, tình trạng nghèo đói này không được hiện hữu, tra tấn, bạo lực, chiến tranh này không được hiện hữu.”

Hiển nhiên, con có thể lấy quan điểm đó và bảo rằng theo nguyên tắc lý tưởng, theo cách vận hành của một hành tinh tự nhiên, thì những chuyện như vậy sẽ không có mặt ở đây nếu địa cầu là một hành tinh tự nhiên. Nhưng một lần nữa, mục đích của chúng ta trên địa cầu là gì chứ? Phải, cuối cùng là để đưa địa cầu trở về trạng thái của một hành tinh tự nhiên, nhưng đó vẫn chưa phải là mục đích thật sự. Mục đích thật sự là nâng cao tâm thức. Các chân sư thăng thiên không ngồi đây bảo: “Ồ, địa cầu là một hành tinh đen tối thật, và các thày phải cố gắng hết sức hồi phục địa cầu về vị thế một hành tinh tự nhiên càng sớm càng tốt, bất chấp điều gì xảy ra.”

Không, thật ra các thày nói: “Với tình trạng hiện nay của địa cầu, trong những điều kiện hiện tại, làm thế nào các thày có thể nâng cao tâm thức loài người bằng cách làm hiển lộ cái tâm thức đã tạo ra những điều kiện đó?” Khi con nối kết với điều này, con có thể tránh bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn, bởi vì kỳ thực, nhiều người thiện tâm và nhạy cảm bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn. Chính sứ giả này cũng từng bị mắc kẹt như vậy trong những năm đầu của kiếp này, ngay cả những năm đầu sau khi ông cất bước trên đường tu, thậm chí sau khi ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Rất nhiều các con có thể nhận thấy một điều tương tự nơi chính mình. Con cảm thấy một lòng trắc ẩn mãnh liệt đối với sự khổ đau của mọi người đến độ con sẵn sàng sử dụng vũ lực để loại bỏ khổ đau.

Các chân sư thăng thiên cũng muốn xóa bỏ đau khổ của loài người, nhưng tại sao các thày đã không dùng quyền năng lớn lao của mình để xóa bỏ nạn nghèo đói trên trái đất? Phải, bởi vì như vừa nói, mục đích chủ yếu của các thày không phải là xóa bỏ nghèo đói, xóa bỏ cách thể hiện vỏ ngoài của nghèo đói, mà các thày muốn giúp con người thăng vượt cái tâm thức đã làm thị hiẹn tình trạng nghèo đói. Các thày tìm cách dùng nghèo đói để khiến cho tâm thức đó hiển lộ ra hầu mọi người có thể nhìn thấy và giải quyết. Đó là mục đích các thày. Đó là cách các thày làm việc. Nhiều người trong số các con đã không hiểu điều này, nhưng khi con hiểu ra thì con cũng sẽ xem xét và chấp nhận là con không cần khiến cho lòng trắc ẩn của mình trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, khi con luôn bị thôi thúc phải làm gì đó để giảm bớt một dạng đau khổ nào đó, và con không thể an bình cho tới khi điều này xảy ra.

Rất nhiều người thiện tâm mà thày đang nói tới, ngay cả một số đệ tử của chân sư thăng thiên, bị rơi vào trạng thái ám ảnh cưỡng chế này khi họ không thể an bình cho tới khi vấn nạn này hay vấn nạn kia vẫn còn hiện hữu. Sứ giả này đã sống qua một thời kỳ ở tổ chức Summit Lighthouse khi ai nấy đọc bài chú trong những buổi canh thức kéo dài hàng giờ nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hay đem lại một số thay đổi nào khác. Không phải là những công việc đó vô ích và vô giá trị. Nhưng sứ giả này đã nhận ra là mình ở trong một trạng thái tâm thức ám ảnh cưỡng chế, và ông thấy nhiều người khác cũng giống như ông. Con không an bình khi con ở trong trạng thái tâm thức đó.

Chắc chắn các thày mong muốn đệ tử của mình thỉnh gọi sự thay đổi trong một số điều kiện trên thế giới, nhưng có bao giờ các thày bảo các con phải làm vậy trong tâm trạng ám ảnh cưỡng chế đâu? Tại sao các thày lại muốn đệ tử của mình hành động với tâm mất cân bằng trong khi các thày luôn cân bằng? Các thày muốn đệ tử có những gì các thày có – tâm cân bằng. Con có thể nói là trong trạng thái thăng thiên, các thày nào cần đến tâm cân bằng vì ở đây không thể có sự mất cân bằng. Nhưng con đang sống trong một môi trường khác, nơi tâm mất cân bằng là chuyện khả dĩ, và có rất, rất nhiều thế lực tác động lên tâm con để lôi kéo con vào những phản ứng mất cân bằng.

Các thày cố giúp con đạt được trạng thái tự do khỏi tất cả những thế lực đó, những con quỷ của Mara, hầu con cũng có thể ngồi dưới cây bồ đề mà không mảy may bị quỷ Mara ảnh hưởng, hay bị phiền hà bởi ông hoàng của thế gian tới đòi phần ăn của y. Các thày đã trao cho con những dụng cụ để con đạt được điều đó. Con sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách nhận biết điều đó một cách ý thức và đặt nó làm mục tiêu ý thức, con sẽ đạt được nhanh chóng hơn rất nhiều.

Nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng, nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng.

Như các thày đã nói: “Hãy hỏi thì con sẽ nhận được”. Con hãy hỏi chân sư gần gũi nhất với con, hãy yêu cầu thày giúp con nhìn ra trong thái độ của con có điều gì đang kéo con ra khỏi an bình. Nhưng cũng đừng quên hỏi sứ giả này, vì ông đã đạt được một mức độ bình an rất cao và sẵn lòng làm việc với con để con cũng đạt được như vậy. Một lần nữa, con sẽ cần đến gì để con cũng trở thành cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? Hãy hỏi và sẵn sàng nhận.

Và một nhận xét chót – thày muốn gửi đến tất cả các con lòng biết ơn sâu xa của các thày khi con đã sẵn lòng tham gia vào tiến trình buổi hội thảo này. Rất đông các con đã hòa điệu để cùng nhau đọc bài thỉnh, các con đã thực sự hoàn thành một công việc tuyệt vời để nâng cao tâm thức tập thể. Các con đã vượt quá chỉ tiêu ban đầu của các thày, đã vượt quá mục đích đó, và các con hãy nhận lòng biết ơn của các thày. Các thày hy vọng là chính các con cũng cảm thấy hội nghị này đã nâng tâm thức mình lên cao hơn cả kỳ vọng ban đầu của mình.

Chắc chắn bây giờ sứ giả này có thể thư giãn, như ông thường làm sau những buổi hội thảo như thế này, và ông kinh ngạc nhìn vào số lượng giáo lý mới mà các thày trao truyền. Đôi khi ông cảm thấy rất nhiều lời dạy đã được đưa ra, và ông tự hỏi, không hiểu làm sao các thày lại có thể đưa thêm nhiều nữa như vậy, nhưng ông luôn vui mừng khi được trải nghiệm nhiều bài giáo lý mới và các thày thì luôn luôn sẵn lòng đưa ra nhiều hơn. Các thày hy vọng các con đã có cùng trải nghiệm đó, đã vui mừng được chiêm nghiệm dòng chảy của Tánh linh và sự trải bày của những ý tưởng này. Thày hy vọng một số các con có thể đã cảm thấy là mình vừa nhận được một điều gì đó mà mình không yêu cầu. Nhưng con đã chỉ nhận được những gì con không yêu cầu một cách ý thức, chứ trong tiềm thức, chắc chắn là con đã yêu cầu. Và điều đó, một lần nữa, các thày thật biết ơn. Và như vậy, thày niêm các con, thày niêm hội nghị này trong sự an bình vui mừng của Phật.

Hãy buông cái cũ!

Bài giảng của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 1/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. 

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava.

Ta là Phật PadmaSambhava. Ta là Vajra Guru PadmaSambhava. Có thực tế, có huyền thoại. Có sự thật, có hư cấu. Có một sự tạo dựng công phu trong Phật giáo Tây tạng và các dạng khác của Phật giáo chung quanh PadmaSambhava – danh tính của PadmaSambhava, PadmaSambhava là ai, làm gì, hiện ra lúc nào, hiện ra như thế nào, khoác lấy những thị hiện nào, vân vân và vân vân.

Lần xuất hiện của PadmaSambhava

Nếu con nhìn vào khối tài liệu công phu, rất công phu này, con phải nói rằng phần rất lớn đều là hư cấu, là huyền thoại. Điều này không có nghĩa là nó hoàn toàn vô dụng theo nghĩa là xuyên qua các thời đại, đã có những người đã dùng được tài liệu đó một cách xây dựng. Nhưng cũng có rất nhiều người, thật ra là tuyệt đại đa số đã bị mắc kẹt trong hình dạng vỏ ngoài của tài liệu, rồi đã tập trung vào hình dạng vỏ ngoài này và không thể nhìn xa hơn.

Tất nhiên, đây là thách đố mà chúng tôi là các chân sư thăng thiên, những sinh thể tâm linh, phải đối diện, đã từng và sẽ phải đối diện trên một hành tinh phi tự nhiên. Chúng tôi sẽ phải đối diện với điều này chừng nào địa cầu còn là một hành tinh phi tự nhiên, bởi vì khi đó sẽ còn có rào cản, còn có khoảng cách khiến cho con không thể nhận thức được trực tiếp rằng vật chất là một dạng năng lượng và cõi vật chất không tách biệt khỏi cõi tâm linh, mà là sự biểu hiện của cõi tâm linh, sự nối dài của cõi tâm linh, sự hiện thân của cõi tâm linh.

Vì thế con mới tìm đến một số huyền thoại cùng ý tưởng đã được tạo dựng, và con thấy có một truyền thống bảo rằng đức Phật Gautama – hay Thích ca Mâu ni như danh tính được sử dụng trong các truyền thống này – đã thấy trước sự xuất hiện của PadmaSambhava. Một số truyền thống cho rằng Gautama thấy trước sự xuất hiện của một vị Phật tương lai còn giác ngộ hơn cả chính mình. Nhưng khi các truyền thống đó cũng nói rằng Gautama đã hoàn toàn giác ngộ thì làm sao có ai có thể giác ngộ hoàn toàn hơn được, cho nên đó không thể là ý nghĩa thực sự. Nhưng đó cũng cho thấy PadmaSambhava quan trọng như thế nào trong tâm của đức Phật. Đây là một ví dụ điển hình của cái tâm đường thẳng khi nó chụp lấy những khái niệm tâm linh rồi cố biến thành sự thật đường thẳng để tâm có thể nắm bắt và điều khiển.  

Đâu là sự thật? Sự thật là Gautama là một sinh thể đã khoác lấy hiện thân vật lý. Con là đệ tử của chân sư thăng thiên đã được dạy rằng Gautama đã đầu thai lần đầu trên địa cầu cách đây rất lâu, rằng thày đã bước xuống tâm thức nhị nguyên, đã bị mắc kẹt và chìm đắm trong nhị nguyên, nhưng sau nhiều kiếp đã bắt đầu thức tỉnh khỏi nhị nguyên. Sau thêm nhiều kiếp nữa, thày đã đạt được mức tâm thức hội mọi điều kiện để thày đầu thai lần chót và trở thành Phật – vì trong kiếp đó, thày đã đắc quả vị Phật. Như vậy, Gautama là một tấm gương cho tất cả nhân loại noi theo, là tấm gương chứng tỏ mọi người đều có khả năng giác ngộ. Tại sao như vậy? Vì mọi thứ đều mang sẵn Phật tánh nơi mình. Cho nên mỗi người đều có tiềm năng đạt được trạng thái tâm thức mà Gautama gọi là quả vị Phật, hay niết bàn, hay giác ngộ.  

Như vậy thì Gautama đúng ra phải là một tấm gương. Nhưng tâm đường thẳng đã biến Gautama thành gì? Phải, tâm đường thẳng muốn so sánh. Không một tôn giáo nào xuất hiện trong hư không, cho nên Phật giáo cũng đã xuất hiện trong một quốc gia, trong một truyền thống tâm linh, trong một vùng nằm dưới ảnh hưởng của Ấn giáo và đã từng bị tư duy Ấn giáo chi phối từ rất lâu. Đối với Ấn giáo, Gautama cống hiến một chọn lựa mới, nhưng tâm đường thẳng của những người sau này tự xưng mình là tín đồ của Gautama lại muốn so sánh Phật giáo với Ấn giáo. So sánh nghĩa là gì? Là phải tốt hơn, phải cao hơn, phải tiến bộ hơn Ấn giáo.

Vì thế họ mới tạo ra huyền thoại rằng Gautama không chỉ là một người đã vươn lên đến quả vị Phật sau nhiều kiếp đầu thai. Gautama phải thật đặc biệt ngay từ khi sinh ra, thậm chí có thể là chưa từng đầu thai bao giờ như người ta vẫn nói, mà đã sẵn hiện thân như một đấng giác ngộ.

Và Gautama vô cùng đặc biệt trong cách chào đời, có cả phép lạ chung quanh ngày đản sanh của thày, y như những phép lạ đã bao quanh ngày Giê-su ra đời và nhiều chuyện như thế. Vậy thì tâm đường thẳng đã làm gì với tấm gương của Phật? Nó đã khiến cho tấm gương này trở nên vô giá trị và vô hiệu lực, bởi vì giờ đây Gautama đặc biệt đến độ không ai còn có thể noi gương và sánh bước được với thày. Hoặc là con phải sinh ra sẵn như vậy, hoặc con không thể hy vọng đạt được cùng tâm thức như Gautama.

Thế là do muốn đạo Phật cao trọng hơn đạo Ấn – thậm chí là tôn giáo tối hậu – Gautama nhất định phải là đấng giác ngộ tối thượng, nhất định phải hoàn toàn giác ngộ. Cho nên khi chính Gautama nói rằng có một người đến sau sẽ giác ngộ hơn mình, tâm đường thẳng không thể nào chấp nhận lời tuyên bố đó, vì nó chỉ biết nhìn vào giác ngộ duy một cách mà thôi. Trong cách nhìn này, nếu đức Phật là vị thày tâm linh tối thượng thì bắt buộc thày đã phải đạt mức tâm thức cao nhất. Nhưng sự thật, tất nhiên, là trong cách giải thích giản dị nhất, giác ngộ có nghĩa là một người đã đạt đến mức tâm thức cao nhất có thể có trên địa cầu, và ở trên mức này hiển nhiên là cõi thăng thiên.

Nơi cõi thăng thiên có một chuỗi rất dài, trải ra từ các hành tinh liên hệ với bầu cõi chưa thăng thiên hiện nay, cho đến những bầu cõi cao hơn từng có trước đây mà chúng tôi đã có nói đến. Cho nên có rất, rất, rất, rất nhiều, thật ra là có vô số sinh thể trong cõi thăng thiên với tâm thức cao hơn nhiều và do đó cao hơn hẳn mức giác ngộ mà Gautama đã chứng đạt trong kiếp chót của thày – hay mức chứng đạt của Giê-su trong kiếp chót của Giê-su. Chuỗi này trải mãi lên tới tận mức tâm thức viên mãn của Đấng Sáng tạo, và cao hơn nữa, tâm thức vẫn còn có khả năng thăng vượt lên. Và như thế, ngay từ buổi đầu của huyền thoại về sự xuất hiện của PadmaSambhava, đã có một sự hiểu lầm len lỏi vào cách diễn giải.

Vậy đâu là sự thật? Sự thật là mọi thứ đều có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Omega mà các chân sư có thể thực hiện từ cõi tâm linh là qua trung gian một sự hiện thân trong kiếp đầu thai. Sau khi đã đạt tới một mức tâm thức cao trong tiền kiếp, một người có thể đầu thai, và trong kiếp đầu thai chót, người đó chứng ngộ mức tâm thức cao nhất có thể được chứng ngộ trên địa cầu, hay ít ra một mức tâm thức vô cùng cao, và sau đó thì người đó thăng thiên. Đây là khía cạnh Omega, và đúng thật có một sự đầu thai vật lý.

Khía cạnh Alpha có nghĩa là trong một số hoàn cảnh, một số điều kiện, một chân sư thăng thiên có thể được phép hiện ra trước mặt loài người đang đầu thai. Đây không phải là đầu thai. PadmaSambhava là một sự xuất hiện chứ không đầu thai. Ta đã không đầu thai trong một thân xác vật lý. Ta đã không khoác vào một cơ thể vật lý (như một số chân sư thăng thiên đã làm trong một số dịp hiếm hoi). Sự xuất hiện của ta hoàn toàn tâm linh – nghĩa là sao? Nghĩa là không thể nhìn thấy bằng mắt thịt. Hầu hết những ai đã từng tiếp xúc với ngoại hình của ta sẽ không thể nhìn thấy ta. Có thể có hai người đứng ngay cạnh nhau, nhưng một người sẽ không thấy điều gì lạ trong khi người kia sẽ thấy được – hay đúng hơn, chiêm nghiệm được – sự xuất hiện của PadmaSambhava.

Mục đích là để làm gì? Để trưng bày sự tiến bộ tâm linh xảy ra như thế nào trên địa cầu. Tiến bộ xảy ra qua sự hiện thân vật lý, qua trung gian tiến trình mà ngày nay gọi là sự tiết lộ tuần tự, hay tiết lộ liên tục. Nếu con xem kỹ những gì Phật đã nói, thì Phật nhìn nhận sự cần thiết của một tiến trình truyền pháp tuần tự và liên tục. Thày đã đến để đem lại một giáo lý, một chân lý nhất định, nhưng sẽ có một vị thày cao hơn đến sau, một chân sư thăng thiên sẽ đến để đem lại một chân lý cao hơn cả những gì mà Gautama đã được phép đưa ra trong hoàn cảnh tâm thức tập thể thời đó. Sự truyền pháp đã luôn luôn xảy ra như vậy.

Cho nên, sự thật ở đây là ta là PadmaSambhava, ta đã từng là và hiện đang là một chân sư thăng thiên. Sự kiện ta đã thăng thiên ở đâu và vào thời nào không liên quan gì đến cuộc thảo luận hôm nay, nhưng nó đã xảy ra cách đây rất lâu nơi một thiên hà xa, rất xa. Và ta đã xuất hiện trên địa cầu như một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Thời đó chưa dùng cách gọi này nhưng đó là điều đã xảy ra.

Nhu cầu đổi mới mọi lãnh vực xã hội

Khái niệm mà ta đã đến để truyền giảng là sự kiện có một số giáo lý bí truyền (terma) chỉ có thể được khám phá bởi những đệ tử đã tự dọn mình để mà tìm thấy (tertons). Thời nay, người ta sẽ diễn tả như sau: Có những giáo lý được tiết lộ từ cõi thăng thiên nhưng chưa đi xuống cõi vật lý, không được viết ra thành chữ, không được thốt ra thành lời bởi một vị sứ giả đang đầu thai. Những giáo lý này tuyệt đối chỉ hiện hữu nơi cõi bản sắc, và chỉ những ai đã nâng tâm thức mình lên tới mức đó và đã hòa điệu trực tiếp thì mới có thể nắm bắt mà thôi.

Vậy có một vị thày giác ngộ xuất hiện trong một hình dạng vật lý, giảng dạy một số giáo lý. Mục tiêu của giáo lý này có hai khía cạnh. Trước hết như trong trường hợp của Giê-su giảng dạy cho số đông qua ngụ ngôn, một số giáo lý được đưa ra cho quần chúng rộng lớn chưa sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn, để cho họ một cái gì đó mà nhắm hướng, để họ sử dụng hầu nâng cao tâm thức nếu họ muốn. Nhưng song song còn có một giáo lý cao hơn, như Giê-su đã giải thích mọi điều cho môn đồ khi thày gặp riêng, và cũng vậy, Gautama đã giải thích mọi điều cho đệ tử của thày khi thày ngồi riêng với họ và chỉ có mặt những người sẵn sàng tiếp nhận giáo lý cao hơn. 

Nhưng xa hơn, cả Giê-su lẫn Gautama đều công nhận là sẽ có những vị thày khác cao hơn, như Giê-su có nói, “Ta sẽ cầu nguyện Cha để ngài gửi xuống một vị An ủi khác,” vân vân. Cho nên tiến trình tiết lộ tuần tự và liên tục này đã luôn luôn hiện hữu cho những ai có khả năng và sẵn lòng nâng cao tâm thức mình để nắm bắt lấy.

Đâu là kết quả mà chúng tôi muốn nhìn thấy qua sự tiết lộ mà chúng tôi đã trao truyền qua sứ giả này? Phải, chúng tôi muốn thấy ít nhất có những đệ tử sẽ lấy các giáo lý vỏ ngoài được ban truyền, rồi vượt xa hơn để nắm bắt những gì chúng tôi trao trực tiếp từ cõi thăng thiên hầu họ không cần đến trung gian của một sứ giả nữa.

Có thể nói đây là một cơ hội có một không hai, vì trong suốt bao nhiêu thời đại, đa số sứ giả đã bám mắc vào địa vị của mình, bám mắc vào giáo lý vỏ ngoài mà họ truyền đạt và muốn nó có vẻ như cao nhất. Nhưng vì sứ giả này đã thăng vượt nhu cầu đó, cho nên chúng tôi có thể nói công khai và rõ ràng rằng hiển nhiên, mục đích của chúng tôi là mọi đệ tử sẽ không phải lệ thuộc vào sứ giả này trong cõi vật lý khi họ muốn tiếp xúc với chúng tôi, các chân sư thăng thiên. Chúng tôi mong muốn đệ tử, càng nhiều càng tốt, có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi.

Điều này không có nghĩa là tất cả các con sẽ bắt đầu nhận bài truyền đọc hay đưa ra giáo lý cạnh tranh với sứ giả này, vì như vậy sẽ chỉ gây lộn xộn, mà nó có nghĩa là rất nhiều người trong số các con có tiềm năng nhận được trực tiếp điều gì đó từ chúng tôi, mà con có thể sử dụng để khai sáng một lãnh vực đặc thù nơi con có kinh nghiệm và hiểu biết chuyên môn. Chẳng hạn, điều này áp dụng cho mọi tôn giáo, vì mọi tôn giáo đang đều có nhu cầu đổi mới to lớn. Nếu con lấy Phật giáo, con sẽ thấy đạo Phật nói chung đã đi qua cùng một tiến trình giống như đạo Ấn, nghĩa là đã trở nên mê mải, cuốn hút vào trong những dạng vỏ ngoài của giáo lý. Hiển nhiên, đây không bao giờ là ý định. Sự tập trung vào hình tướng vỏ ngoài không phải là mục đích của giáo lý – sự thăng vượt hình tướng vỏ ngoài mới là mục đích của giáo lý. 

Và như vậy, một số các con đã kinh nghiệm đạo Phật cùng một số dạng của đạo Phật, như Thiền tông và một số nữa, và các con có tiềm năng đem lại sự đổi mới. Giáo lý mà sứ giả này trao cho con có thể giúp con mở tâm ra, nhưng một số các con có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về Phật giáo hơn sứ giả này rất nhiều. Cho nên con có khả năng bày tỏ, có khả năng tiếp nhận từ chúng tôi những tư tưởng cùng lời dạy mà sứ giả này không thể nhận được trừ khi ông bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm hiểu, và điều này thì chúng tôi không thật sự muốn ông làm. Tất nhiên, vấn đề cũng tương tự như vậy đối với đạo Cơ đốc, đạo Ấn, đạo Hồi, hay nhiều lãnh vực khác trong xã hội.

Hiển nhiên cũng phải nói tới khoa học, nơi nhu cầu đổi mới cũng rất lớn, và một số các con đã được đào tạo làm nhà khoa học. Các con có tiềm năng nhận được từ chúng tôi. Điều này không có nghĩa là giờ đây con sẽ đứng ra nói: “Tôi là một nhà vật lý nhưng tôi tin vào chân sư thăng thiên.” Không, con chỉ cần đưa ra các ý tưởng đó như thể là ý tưởng của con, đến từ cảm hứng của con. Bởi vì điều quan trọng là phải đưa ra được ý tưởng. Điều này cũng sẽ nhẹ nhõm hơn cho hầu hết các con, vì hiện nay có một sự chống đối, kháng cự, đối với ý tưởng chân sư thăng thiên cũng như việc làm sứ giả cho chân sư, như vị sứ giả này đã phải đối phó ngay từ buổi đầu. Và cũng sẽ dễ dàng hơn cho con vì con không phải nói rõ ý tưởng đến từ đâu – con chỉ việc trình bày và để yên cho ý tưởng làm công việc của ý tưởng. Cho nên quả thực là trong mọi lãnh vực của xã hội, giáo dục, chữa bệnh, văn hóa, triết lý, bất cứ khía cạnh nào của xã hội cũng đều mang tiềm năng đó.

Cách đây rất lâu, ta đã đưa ra khái niệm về một số người làm thợ săn châu báu. Họ đi tìm những kho báu ẩn tàng này. Nhiều người trong đạo Phật đã diễn giải là những kho báu trong cõi vật lý mà người ta có thể phát hiện ra, hay thậm chí là một quyển kinh cụ thể được khám phá trong một hang động bí mật trên núi Himalaya và bỗng nhiên mở ra trước mặt họ. Kho báu hoàn toàn không có nghĩa là vậy. Đó là một lời dạy, một lời dạy được nhận thẳng từ cõi thăng thiên, thường không nói thành lời nhưng đôi khi cũng được nói thành lời. Đây là vai trò mà chúng tôi muốn nhìn thấy nơi đệ tử của chúng tôi, càng nhiều càng tốt.

Sẽ không có nghĩa là con cần phải tách ra khỏi sứ giả này, coi thường sứ giả này, tấn công ông, chứng minh là ông sai, hay này kia nọ. Mà sẽ chỉ có nghĩa là con nhận ra ở đây có một tiềm năng để con bước vào bên trong, sử dụng giáo lý vỏ ngoài để thiết lập sự kết nối nội tâm và nhận được một điều gì đó từ chúng tôi.

Vậy chính xác có nghĩa là gì? Chúng tôi chẳng đã có sáng kiến như vậy trong các đợt truyền pháp trước hay sao? Tất nhiên là có. Nhưng tiếc thay, nhiều người trong các đợt trước đã diễn giải điều này theo một cách riêng. Họ diễn giải là họ đã sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng đó, và mỗi khi họ nghe về một ý tưởng thì chắc hẳn là vì họ đã sẵn sàng tiếp nhận ý tưởng này. Cho nên họ cho rằng họ chỉ cần đọc bài chú, hay học hỏi bài truyền đọc, hay nghe bài truyền đọc rồi hoà điệu với chân sư thì họ sẽ nhận được ý tưởng.

Nhưng con yêu dấu có thấy không, làm thế nào sứ giả này đã trở thành được sứ giả? Điều này ít khi nào con nghĩ tới, và ngay cả vị sứ giả này cũng ít khi nào nhận ra. Đâu là những xung lực đầu tiên mà ông đã nhận được từ các chân sư thăng thiên? Đó không phải là điều tiết lộ gì, hay sáng ngộ gì, hay giáo lý gì cao siêu lắm đâu. Đó là những sáng ngộ về tâm lý của chính ông cùng những điều mà ông cần giải quyết trong tâm lý của ông. Giai đoạn này đã kéo dài hơn 15 năm trước khi ông sẵn sàng bước vào khóa huấn luyện trực tiếp với Giê-su và trở thành người sứ giả mà ông đã trở thành, và tất nhiên ngày nay ông đã vượt xa hơn nữa.

Buông bỏ cái cũ

Vậy thì đâu là tiết lộ đầu tiên mà con sẽ nhận được từ cõi thăng thiên? Đó sẽ là một số gợi ý, hướng dẫn, cảm giác, khải tượng, ấn tượng về những điều mà con cần chữa lành trong chính tâm lý của con. Đó là khoá huấn luyện. Đó là điều mà mọi người phải kinh qua. Con có nghe rõ không – ta nói, mọi người. Không ai được miễn. Nếu con nghĩ là con được miễn thì con đang tự lừa dối con và con sẽ đi vào ngõ cụt, và rất có thể con sẽ tiếp xúc với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo, là những kẻ sẽ mừng rỡ khen con là tuyệt vời xuất chúng, với dụng ý giữ con trong ngõ cụt đó cho tới cuối kiếp đầu thai này của con.

Tất cả các con sẽ phải kinh qua giai đoạn này. Rất nhiều các con đã khởi sự tiến trình này rồi, đã nhận được nhiều ấn tượng từ chúng tôi và đã sử dụng một cách xây dựng để nâng cao tâm thức. Ta không nói là ngay bây giờ, mọi người đều phải khởi đầu từ mức thấp nhất, nhưng tất cả các con đều phải sẵn lòng nhìn vào một điều gì đó trong tâm lý của mình. Nếu con không sẵn lòng làm chuyện này, thì đúng vậy, con đang chặn nghẽn cánh cửa tâm con. Cánh cửa tâm con chưa mở ra.

Chúng tôi muốn nói gì qua câu “cánh cửa tâm con”? Hiển nhiên, cánh cửa tâm con có thể bị chặn lại ở tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng tình cảm, hay ở tầng vật lý, tức là cái mà chúng tôi gọi là tâm ý thức. Cuối cùng hết, để con có thể chuyển dời tâm thức, con cần có một sáng ngộ ý thức. Con cần quyết định là con sẵn lòng buông bỏ những cái cũ và ôm lấy một hiểu biết cao hơn, một viễn kiến cao hơn, một nhận thức cao hơn. Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ. Con có nghe ta nói không, con yêu dấu? Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ.

Đây là hạn chế lớn nhất mà các chân sư phải đối mặt – là khi đệ tử không chịu buông bỏ cái cũ. Con người hay bám mắc vào quá nhiều thứ và không chịu buông nó ra. Chúng tôi đều sẵn sàng, đều sẵn lòng trao cho con sáng ngộ cao hơn đó. Con đã chuẩn bị bản thân, và trong bản sắc thể, trí thể và cảm thể của con đã có một khoảng trống. Nhưng ở mức tâm ý thức, tâm vỏ ngoài của con vẫn còn bám mắc vào một cái gì đó mà con không muốn buông ra, cho nên con không thể neo trụ một cách ý thức điều sáng ngộ mà chúng tôi trao cho con. Một ví dụ: quan điểm kiên cố, cứng nhắc.

Suốt trong năm qua, một số các con đã bày tỏ những quan điểm thật cứng nhắc về dịch COVID, chích ngừa, đeo khẩu trang. Một số đã bày tỏ những quan điểm cứng nhắc về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ và một vị tổng thống nào đó. Ta không ở đây để tranh luận với con về những quan điểm đó. Ta chỉ đơn giản chỉ ra cho con là bất cứ khi nào con có ý kiến cứng nhắc, thì con không đang sẵn lòng nhìn xa hơn, con không sẵn lòng tra vấn, con không sẵn lòng chấp nhận là có thể có một cái nhìn cao hơn.

Bất cứ khi nào con như vậy thì con đang chặn nghẽn dòng chảy. Con không phải là một người đi tìm, một terton, con không là một kẻ săn kho báu vì con nghĩ con đã có kho báu rồi, tức là quan điểm của con. Đó là kho báu của con. Con cảm thấy “chuyện này đúng tuyệt đối, chuyện này vô cùng quan trọng đối với tôi”. Đây là khó báu của con và con ôm chặt lấy nó. Con nắm chặt ý tưởng trong tay, như nhà Thiền tông sẽ nói. Dù cho kho báu của con là gì, con yêu dấu, thì chúng tôi cũng sẽ chấp nhận quyền tự quyết của con, cũng như quyền con nắm giữ nó cho tới khi con còn cần trải nghiệm này.

Ta không đang bảo con phải làm gì hay không làm gì. Ta chỉ đơn giản chỉ ra là con không thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên cái bánh. Con không thể cầm giữ bất cứ gì trên địa cầu mà nhận được tư tưởng cao hơn từ cõi thăng thiên. Chuyện đó . không . thể . xảy . ra.

Có lẽ một số các con đã chán nghe mấy chuyện này lắm rồi. Có lẽ con nghĩ chúng tôi đã lặp đi lặp lại chuyện này nhiều lần suốt hai năm qua.

Đó là vì chúng ta đang ở một thời điểm nhất định là có nhiều đệ tử đã sẵn sàng vượt trên mức những giáo lý được ban truyền cho tới giờ, nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được đủ túc số những đệ tử đó. Do đó chúng tôi không thể nâng lên một cấp và ban truyền một trình độ giáo lý cao hơn. Sứ giả này có khả năng và cũng sẵn lòng làm chuyện đó. Nhưng chúng ta cần đến khía cạnh Omega, tức là có đủ túc số những đệ tử sẵn sàng nhìn xa hơn những ý tưởng cũ, chứ không cầm giữ, nắm chặt ý tưởng cũ.

Nhiều người trong số các con hiểu khá rõ các chân sư thăng thiên là ai, dạy những gì, vũ trụ vận hành làm sao. Con hiểu tất cả tiến trình tạo dựng các bầu cõi trước, các sa nhân cùng tất cả những vấn đề đó. Nhưng chúng tôi có nhiều điều hơn nữa để ban truyền cho con. Vậy câu hỏi là như sau, đến bao giờ sẽ có đủ số đệ tử mong muốn nhiều hơn hầu chúng tôi có thể trao cho họ? Một lần nữa, chúng tôi không bảo con phải làm gì hay không làm gì. Chúng tôi chỉ đơn giản nói rõ tình hình cho con thấy.

Nhưng song song chúng tôi cũng nói, nếu trong số các con có ai đã mở tâm ra những lời dạy cao hơn thì hãy đừng chờ đợi người khác. Hãy đi thẳng vào bên trong và chụp lấy lời dạy đó. Những gì chúng tôi có thể đem vào hình dạng vật lý qua sứ giả này chỉ giới hạn, nhưng những điều mà mỗi đệ tử có thể nhận được trong nội tâm thì vô hạn. Giới hạn duy nhất là sự rộng mở của tâm con.

Và như vậy, thực tế tình hình trên trái đất là tuyệt đại đa số con người đang đầu thai đều mang trong tâm mình một số ý tưởng gọi là “cấm kỵ”, tức là những điều mà họ cầm giữ, bám chặt và không thể nào buông bỏ. Đây là điều đang ngăn chặn tâm thức dời chuyển vào thời hoàng kim. Như Phật Gautama đã giải thích thật kỹ lưỡng nhân dịp cuộc hội thảo trên web về ý thức hệ, có quá nhiều người bị vướng mắc vào những loại ý thức hệ không phải là ý thức hệ truyền thống mà là những ý tưởng mà họ tin là không thể tra vấn. Và như Quan Âm đã bày tỏ trong bài giảng tuyệt vời của thày, có quá nhiều sự hiểu lầm, giới hạn, rào cản trong tâm con người về vật chất, về bản chất của vật chất vật lý, và về những gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi.

Hãy để ta nói cho con cái gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi. Tất cả mọi thứ đều có thể được thay đổi. Tất cả . đều . có thể . được . thay đổi. Không có gì là không thể thay đổi. Bởi vì nếu con nâng vật chất lên cho bớt dày đặc đi, thì những chuyện bây giờ tưởng chừng là bất khả thi sẽ tức khắc trở thành khả thi. Tại sao con nghĩ dưới lòng đất có nhiều nguồn tài nguyên hơn là đã từng được khám phá cho tới giờ? Phải, con có thể nói là vì loài người giờ đây có công nghệ để khám phá tài nguyên, như các loại cảm biến và radar xuyên đất hay cái này cái nọ. Nhưng câu hỏi thực sự là: tại sao loài người lại có công nghệ như vậy ngày nay mà không có cách đây 50 năm về trước? Là vì tâm thức tập thể đã nâng lên, và khi tâm thức tập thể nâng lên thì kết quả là vật chất bớt dày đặc đi.

Điều này có nghĩa là công nghệ hiện hành đang có mặt, trong khi 50 năm trước đây, công nghệ đó đã không thể có mặt vì vật chất dày đặc hơn và các tia sáng đó không thể đâm xuyên qua vật chất vào thời điểm đó. Những ý tưởng như thế này thật là quá nhiều, quá vi tế và mang những hệ quả sâu rộng đến độ chúng tôi biết hầu hết mọi người sẽ bị choáng ngợp. Đối với các đệ tử như các con, chắc các con cũng bị choáng ngợp. Nhưng một lần nữa, con không cần hiểu biết tất cả mọi thứ về mọi lãnh vực trong xã hội. Bao nhiêu lần chúng tôi đã nói điều gì? Con hãy chọn lấy một lãnh vực mà con thực sự ưa thích trong tim con, hãy tập trung vào đó và học hỏi để trở thành một nhà chuyên môn.

Con không nhất thiết cần phải (cho dù ta không nói là con không nên) đi học đại học và lấy bằng tiến sĩ trong ngành đó. Nhưng con hãy trở thành một nhà chuyên môn để con hiểu biết, tài giỏi hơn một người trung bình trong lãnh vực này. Và như vậy, con sẽ ăn nói với sáng ngộ sâu sắc hơn và khiến cho mọi người phải suy ngẫm. Con yêu dấu, đây không phải là chuyện đi thuyết phục hay cải đạo người khác, mà là khiến cho họ suy ngẫm.

Nếu con chưa biết rồi thì con nên tìm hiểu các cuộc đối thoại của Socrates, tìm hiểu cái gọi là phương pháp Socrates. Socrates không hề có mục đích thuyết phục một ai tin vào một triết lý, một tôn giáo hay một lý thuyết nào đó. Ông chỉ muốn khiến người ta suy ngẫm xa hơn tư tưởng mà mình hiện có. Cho nên ông không bảo họ phải nghĩ làm sao, mà ông tra vấn các niềm tin và tư tưởng hiện thời, chỉ ra những điểm mâu thuẫn, thiếu sót, không nhất quán, và như vậy ông khiến cho một số người phải suy ngẫm. Cũng có những người đã nổi giận, muốn bác bỏ ông và rốt cuộc kết án ông tử hình, nhưng chuyện này khó lòng xảy ra cho con trong thế giới ngày nay. Cho nên con hãy hăng hái lên, hãy sẵn sàng đặt lại vấn đề, và bằng lòng khiến người ta tra vấn quan điểm.

Con yêu dấu, đối với người tâm linh thì điều tối quan trọng là con cần từ bỏ tâm thức cho rằng mọi nỗ lực của con phải đạt được kết quả vật lý có thể đo lường được. Trong các cõi vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc thấp, có một tâm thức vô cùng mạnh mẽ do sa nhân tạo ra cho rằng trừ khi con đạt kết quả có thể thấy và đo được thì nỗ lực của con đã thất bại. Nhưng chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Rằng yếu tố thực sự quyết định sự tiến bộ của địa cầu là việc nâng cao tâm thức tập thể. Dù con có làm gì, như tự giáo dục, mở tâm ra một ý tưởng mới mẻ hay học hỏi một bộ môn mới, thì con cũng đang nâng cao tâm thức của con, và như vậy con đang nâng cao cả tổng thể. 

Thật là con đã có tác động rồi đó. Đọc bài chú và bài thỉnh có một tác động, nhưng có thể con không thấy được kết quả trực tiếp trong cõi vật lý. Chúng tôi thừa hiểu là con đã lớn lên trong một nền văn hóa, đặc biệt là những ai đã lớn lên tại phương Tây, cho rằng trong nhân và quả, con phải có khả năng tách riêng ra một kết quả duy nhất và một nguyên nhân duy nhất. Nhưng trong những năm qua, chúng tôi đã dạy con về lý nhân duyên, qua đó tất cả mọi thứ đều được nối kết trong mạng lưới cực kỳ phức tạp của sự sống. Trong thế gian liên kết chặt chẽ này, con không thể chỉ ra một nguyên nhân tách biệt cũng như một hệ quả tách biệt. Điều này không có thật, điều này là hư cấu. Nó cũng hư cấu y như bảo rằng PadmaSambhava hay Gautama là những đấng cực kỳ đặc biệt. Đó là một huyền thoại khoa học thay vì là một huyền thoại tôn giáo, nhưng vẫn hư cấu y như vậy.

Không hề có nguyên nhân nào tách biệt, không hề có hệ quả nào tách biệt. Điều mà con có thể làm được là nói: “Đâu là kết quả trên tâm thức của tôi? Liệu tôi có thấy được việc học hỏi và thực hành giáo lý cũng như việc sử dụng các dụng cụ tâm linh, đã có nâng cao tâm thức của tôi hay không?” Đấy, con có một kết quả mà con có thể đo lường được, và đó là kết quả duy nhất mà con cần đến. Nhưng tất nhiên, con cần biết là khi con nâng cao tâm thức của con thì con cũng nâng cao tâm thức của người khác. Con có thể thấy được là khi con nói chuyện với người khác, có lẽ con đã giúp, đã tạo cảm hứng cho họ. Nhưng một lần nữa, đừng bị bận tâm khi con nói chuyện với họ là con phải cải đạo họ để họ tin vào các chân sư, hay tin vào mọi điều con tin về các chân sư, hay họ phải bắt đầu đọc bài chú, phải làm cái này hay cái nọ.

Ta không bảo con làm điều đó. Ta chỉ bảo con hãy trở thành vị đại sứ cho ý tưởng, để con quảng bá ý tưởng. Nếu có ai đó muốn biết ý tưởng đó từ đâu đến thì tất nhiên, con có thể nói cho họ biết, tuy nhiên mục đích của con không phải là đi quảng bá chân sư thăng thiên hay giáo lý của chân sư thăng thiên, quảng bá vị sứ giả này hay quyển sách nọ. Sứ giả này hoàn toàn bằng lòng sống hết kiếp này càng ẩn danh càng tốt với tương đối ít người biết đến mình. Cá nhân ông không cần mấy chuyện đó, và chính con cũng không cần đến chuyện đó khi con bỏ được những cái ngã tách biệt khiến con nghĩ là con cần.

Thế nào là không dính mắc

Giản dị là con chỉ cần ở nơi đây, nâng cao tâm thức, và đóng góp bằng cách tốt nhất mà con có thể. Nhưng con yêu dấu, câu sau đây chính là phương châm cho tất cả các chân sư thăng thiên mặc dù chúng tôi thật chẳng cần đến phương châm nào: “Khi món quà đã trao thì công việc đã hoàn thành.” Vấn đề không nằm ở chỗ món quà có được người ta nhận lấy hay không, vì đó không phải là trách nhiệm của con. Bởi vì định luật tối hậu của vũ trụ này là gì? Là quyền tự quyết. Con thật không muốn tạo nghiệp khi con cố kiểm soát cách người khác phản ứng lại món quà mà con trao cho họ. Con cần để họ tự do, để yên cho họ là như họ là. Con hãy bằng lòng là con đã gieo hạt giống, có thể một ngày nào đó nó sẽ mọc thành cây, nhưng đó không phải là trách nhiệm của con. Đó là trách nhiệm của người kia, là quyền tự quyết của họ. Con chỉ nên quan tâm tới một chuyện mà thôi, là trao món quà, làm cánh cửa mở.

Chuyện gì xảy ra không thành vấn đề. Con là cánh cửa mở, có nghĩa là ánh sáng và tư tưởng tuôn chảy qua tâm thức con đi vào hệ thống năng lượng của địa cầu. Một khi nó đã rời khỏi cánh cửa của con, trách nhiệm của con đã xong. Không có vấn đề phải đạt được một kết quả nào đó, hay nhận được một điều gì trở ngược về con. Nhiều người đã quá quen sống với một số tin tưởng ẩn náu không bao giờ được chất vấn, và họ muốn nhận được sự phản ứng khi mình làm bất cứ điều gì.

Như chúng tôi đã có nói, nếu con không nhìn thấy hậu quả của chọn lựa của con thì làm sao con biết được con đã có chọn lựa đó? Nhưng đó chỉ là vấn đề khi con còn ở một mức tâm thức thấp hơn, khi con chưa bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì khi con thể hiện quả vị Ki-tô, con sẽ hoàn toàn bằng lòng một khi con đã cho ra, và khi con đã trao món quà thì con không còn quan tâm gì nữa đến kết quả. Phần nào, quả vị Ki-tô nghĩa là như vậy.

Thế nhưng chúng tôi đã chứng kiến nhiều đệ tử đã bám mắc vào kết quả suốt hàng mấy chục năm trời. Hiện có một số đệ tử từ những đợt truyền pháp trước vẫn còn mơ mộng về ngày mà giáo lý cùng vị sứ giả của họ sẽ được công nhận là khuôn mặt tâm linh nổi bật nhất của Thời đại Bảo bình. Còn họ thì sẽ được công nhận là những môn đồ cao trọng nhất, y như tông đồ của Giê-su vậy. Chính họ mới là những người đã đột phá, đã giải cứu hành tinh này cho Saint Germain, và còn bao nhiêu giấc mơ khác nữa. Nhưng khi nào con nghĩ như vậy thì con sẽ còn bị kẹt lại ở một mức tâm thức nhất định – vì con mong muốn phản hồi từ địa cầu.

Chúng tôi đã nói gì? Con phải vượt qua các bám mắc của mình. Con cần đạt đến một điểm khi ông hoàng của thế gian này và ma quỷ của Mara không còn nắm được gì nơi con khi chúng cố cám dỗ con vào phản ứng. Vậy thì đâu là phản ứng cơ bản nhất của con? Đó là khi con muốn một phản ứng từ thế gian, từ cõi vật lý, từ người khác. Cho tới khi nào con còn vướng mắc đó, ma quỷ của Mara sẽ vẫn nắm được con. Vì thật là quá dễ khuynh loát người ta để họ chối bỏ con. Nhưng cho dù con có thể khiến cho mọi người ủng hộ một quan điểm cứng nhắc của con thì ngay cả chuyện này cũng sẽ đánh bẫy con. Cho nên cho dù con có được ủng hộ hay bị bác bỏ thì con vẫn sẽ bị mắc kẹt trong trò chơi phản hồi. Con muốn một sự phản hồi.

Hành động và phản ứng. Con làm một hành động và con chờ đợi một phản ứng từ vũ trụ. Chuyện đó tự nhiên thôi, chúng tôi hiểu. Chúng tôi đã nói gì bao nhiêu lần rồi? Và con có thể nói, ta đang mâu thuẫn với những gì các chân sư vẫn nói, rằng vũ trụ là một tấm gương, rằng bất kỳ điều gì con gửi ra sẽ được phản chiếu ngược về cho con. Phải, con yêu dấu, điều đó hoàn toàn đúng ở một mức tâm thức nào đó. Nhưng khi con đạt tới những mức tâm thức cao hơn, những mức cao hơn của quả vị Ki-tô và quả vị Phật, và con vượt qua mọi bám mắc, con sẽ hoàn toàn thản nhiên cho dù có phản hồi hay không phản hồi. Con không quan tâm đến phản ứng. Con không đang tìm một sự xác nhận của ai đó hay đạt được một kết quả nào đó. Đây là không vướng mắc.

Đồng ý, thật là quá dễ cho ta nói ra những lời này vì ta không còn đầu thai trên địa cầu. Nhưng ta đã từng đầu thai trong cõi vật lý ở những hành tinh khác, và ta biết rõ dính mắc dễ xảy ra đến chừng nào. Dù sao thì chuyện dễ dính mắc cũng không thay đổi được thực tế cơ bản. Con chỉ có thể giải thoát khỏi vật một khi con giải thoát khỏi sự dính mắc vào vật. Không có cách nào khác. Chưa từng có và sẽ không bao giờ có cách nào khác.

Nếu con thấy mình có những quan điểm kiên cố, cứng nhắc về bất cứ điều gì, con hãy xét xem tại sao con lại có quan điểm cứng nhắc và tin tưởng kiên cố như vậy. Tại sao đề tài đó lại quan trọng với con đến vậy? Tìm hiểu xem con đang cố tạo ra phản ứng gì từ thế gian trên đề tài này. Con có đang tìm sự xác nhận, sự chứng thực từ ai đó? Con có đang cố khiến người ta đồng ý với con, yêu mến con, xem con là thông minh, thông minh hơn họ, hay cái gì khác? Những ngã tách biệt của con sẽ được hưởng lợi gì khi con dính mắc vào chuyện trên địa cầu? Luôn luôn có một cái ngã được hưởng lợi lạc. Con cần phải tỉnh giác về điểm này và tự hỏi: “Có phải đây thật sự là lợi lạc mà tôi muốn để nó tiếp tục khống chế đời tôi, hay là tôi chỉ đơn giản muốn ngã này chết đi?”

Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở? Đúng vậy, cửa của con phải mở ra, tâm con phải mở ra. Đâu là tinh túy giáo lý của Phật? Là làm thế nào giữ cho tâm mình mở rộng. Đâu là tinh túy giáo lý của Giê-su? Là làm thế nào giữ tâm mình mở rộng cho dòng chảy của tánh linh. “Chuyện kia liên hệ gì đến con? Con hãy theo ta.” Không có cách nào khác, thật là quá giản dị. Quá cơ bản nhưng lại quá khó nắm bắt đối với biết bao người tâm linh, quá khó khăn. Con nhìn vào thế gian, nhìn vào lịch sử của người tâm linh trên hành tinh này, và con thấy khó khăn làm sao để người ta hiểu được đúng một điều này thôi, đúng một yếu tố này trên đường đạo.

Tinh túy của tăng trưởng tâm linh

Con hãy nhìn vào thời kỳ của đức Phật dưới sự thống trị của đạo Ấn. Đạo Ấn đã trở thành gì? Ấn giáo đã khởi sự với một số kinh sách, một số truyền thống được truyền miệng, và bình thường kinh Veda là một sự tiết lộ trực tiếp. Nhưng lần hồi nó bị trộn lẫn với nhiều thứ khác. Lần hồi nó trở thành một cấu trúc tạo dựng ngày càng phức tạp hơn. Thế là bỗng nhiên hiện ra những lý thuyết mâu thuẫn lẫn nhau, và các nhà Bà la môn bắt đầu cãi nhau về điều này điều nọ – như cõi tâm linh ra làm sao, cách này là thực hay cách kia mới là thực, và như vậy đủ kiểu tranh luận trí thức, học thuật, khởi lên.

Đức Phật nhìn thấy vậy mới nói: “Với tất cả những quan điểm khác nhau như thế này thì làm thế nào giải quyết được đây? Làm thế nào ta có thể đem lại một giáo lý giải quyết được toàn bộ vũng lầy này, toàn bộ tình trạng hỗn tạp này với đủ loại quan điểm, đủ loại phe phái đang tranh cãi và giao chiến với nhau?”

“Ta có thể làm được gì đây?” Gautama tự hỏi, “Ta có thể làm gì để thay đổi được tình thế chứ không chỉ lại tạo thêm một nguyên nhân chia rẽ, tranh luận và cãi vã?” Và như vậy, thày nhận được sự sáng ngộ – nhân tiện cũng xin nói, sáng ngộ này đến từ chính ta và các chân sư thăng thiên khác – rằng mình cần đem lại một giáo lý không nhằm giải quyết các tranh chấp trong đạo Ấn, mà tránh hẳn vấn đề cốt lõi, là “có chăng một Thượng đế và cõi tâm linh như thế nào?” Thay vào đó, thày nói: “Chúng ta hãy thực tế, chúng ta hãy tập trung vào những gì có khả năng thay đổi tâm thức con người, nâng cao tâm thức con người. Một khi chúng ta đã nâng cao tâm thức thì có lẽ chúng ta sẽ có khả năng nhìn xa hơn tất cả những mối chia rẽ đó.” Và đây là mục đích của Phật giáo trong dạng thuần khiết.

Nhưng tất nhiên khi con nhìn vào Phật giáo bây giờ thì con lại thấy một cấu trúc phức tạp đã được tạo dựng lên, và yếu tố nguyên thủy kia đã phần lớn bị quên lãng. Tuy nhiên, hẳn là nó có thể được tái khám phá bởi những ai quan tâm đến Phật giáo, là những người có cái nhìn sâu sắc lẫn kinh nghiệm, con có nghĩ vậy không?

Vậy thì con không thấy hay chăng một điều tương tự như vậy cũng xảy ra với giáo lý của các chân sư thăng thiên? “Ồ, đợt truyền pháp này mới là đợt chân chính nhất, sứ giả này mới là sứ giả cao nhất, không thể có một sứ giả nào khác và không thể có sứ giả nào sau sứ giả này.” Đủ thứ lập luận như thế, chia rẽ như thế. Chỉ có một cách để vượt lên trên mà thôi, đó là cá nhân mỗi người hãy hòa điệu vào cõi thăng thiên. Bởi vì chúng tôi vượt lên trên mọi vũng lầy nhân thế. Chỉ khi nào con tiếp xúc với chúng tôi thì con mới trải nghiệm được một cái gì không những vượt lên trên vũng lầy nhân thế mà cũng vượt lên trên ngoại tâm của con.

Ngoại tâm của con có thể bám mắc vào quan điểm một cách dữ dội. Nhưng đó chỉ là một quan điểm trên trái đất. Con chỉ có thể bám mắc vào nó khi nào con chưa trải nghiệm được một tâm thức cao hơn hẳn, nơi quan điểm đó chẳng có gì là hệ trọng giữa vô số quan điểm khác. Cho nên, điều duy nhất sẽ thay đổi tình thế của con là con cần có trải nghiệm đó. Con trải nghiệm được cái mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sự nhận biết thuần khiết không hề bị lôi kéo vào tất cả những sự chia rẽ, quan điểm và bám mắc đó. Đây là giải pháp duy nhất, sự tiến bộ duy nhất.

Chúng tôi mong muốn tất cả các con có được chứng nghiệm này. Một số các con đã có được rồi, và con biết chính xác ta đang nói về điều gì. Nhưng con cũng sẽ thấy là những ai đã có được chứng nghiệm đó sẽ không là kẻ đứng ra hô hào quan điểm cứng nhắc về bất cứ chuyện gì. Cho nên đối với những ai đang bám mắc vào quan điểm của mình, đang thèm khát được người ta chứng thực mình, các con cần xét xem mình muốn làm gì với phần còn lại của đời mình. Liệu con có sẵn lòng đưa đường tu của mình lên một mức cao hơn? Bởi vì chúng tôi đã giải thích cho con bằng đủ mọi cách là con hiện không đang ở mức cao đó. Vậy liệu con có chịu chuyển vọt hay không?

Chúng tôi đã truyền cho con bao nhiêu giáo lý và dụng cụ để giúp con làm điều đó. Nếu con làm được thì nó sẽ trao uy lực cho con. Hãy lắng nghe! Lắng nghe những lời dạy một lần nữa. Lắng nghe thực sự. Hãy mở tâm ra để lắng nghe và thôi tìm cách chứng minh một quan điểm có sẵn. Làm sao khác con có thể trở thành một cánh cửa mở đây? Nhiều người trong số các con mơ ước mình sẽ nhận được ý tưởng cao siêu sẽ đem lại danh vọng hay của cải cho mình. Nhưng làm sao con nhận được nếu tâm con không có một lỗ mở? Và làm sao tâm con có lỗ mở nếu con cứ bám mắc vào những thứ vỏ ngoài đó? Điều đó không thể xảy ra, con yêu dấu. Con đang cố làm chuyện bất khả thi. Con đang có một giấc mơ bất khả thành. Thế rồi con lại cho phép con nghĩ thế này: “Đáng lý tôi đã phải đạt được một số kết quả rồi chứ. Nếu giáo lý thực sự hiệu nghiệm thì tôi đã phải đạt được kết quả. Nhưng vì tôi không thấy kết quả nào, nhất định phải có điều gì không ổn với người sứ giả, không ổn với giáo lý, thậm chí cả chân sư thăng thiên cũng có thể không có thật”, vân vân và vân vân.    

Không phải là giáo lý không hiệu nghiệm, mà chính con đã không hiệu nghiệm khi sử dụng giáo lý. Con không đang áp dụng giáo lý.  Con không đang lắng nghe. Con giống như lời mô tả của Mẹ Mary: “nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy.” Nhưng không chỉ có con mà thôi. Hãy nhìn vào 99,9% loài người trên trái đất, họ đều nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy. Lấy tất cả các Phật tử đã theo học giáo lý này, và lấy một số Phật tử đã vô cùng nhiệt tình với PadmaSambhava trong tâm họ. Liệu họ có nghe được những gì ta đang cố nói với họ trong nội tâm của họ? Không, vì họ quá bám mắc vào hình tướng. Hình tướng vỏ ngoài. Hình tướng vỏ ngoài. Đừng chiều theo hình tướng vỏ ngoài. Nếu con là một terton, một người đi tìm kho báu, nếu con tìm kiếm các chân lý terma – con hãy đừng chạy theo hình tướng vỏ ngoài.

Con yêu dấu, nhiều khi con có thể tự hỏi tại sao chúng tôi cứ nhắc đi nhắc lại cùng một chuyện hoài. Con có thể tự hỏi liệu chúng tôi có kỳ vọng một kết quả nào khác hơn hầu hội đủ định nghĩa của Einstein về sự điên rồ. Nhưng kỳ thực, chúng tôi không mong đợi kết quả. Chúng tôi truyền rải một giáo lý từ một góc độ nào đó, với một năng lượng nào đó, và nó sẽ chạm được một số người. Lời dạy mà ta vừa trao cho con hôm nay đã chạm được một số người mà lời dạy trước đã không thể với tới. Đó là cách vận hành của tiết lộ tuần tự. Lời dạy này sẽ vẫn chưa chạm được nhiều người, và điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi.

Nhưng có một tiềm năng thật lớn cho các đệ tử tâm linh, không chỉ đệ tử của chân sư thăng thiên mà nhiều người tầm đạo tâm linh khác, nếu họ trở nên ý thức hơn và sẵn sàng lùi lại một bước để xem xét: “Đường tu tâm linh thật sự là gì, liệu tôi đã thực sự hiểu thấu nó hay chưa, liệu tôi đã nắm bắt được ý nghĩa của sự tự thăng vượt, sự nâng cao tâm thức, sự chuyển vọt tâm thức? Liệu tôi đã thực sự nhìn ra sự cần thiết phải thấy được những gì tôi chưa thấy? Liệu tôi có thực sự nắm được ý nghĩa? Rằng đó không phải là chuyện đạt được sáng ngộ tối thượng mà liên tục nhìn thấy một tiết lộ cao hơn rồi cao hơn nữa? Đây là một tiến trình liên tục cho tới khi nào tôi còn đầu thai trong cuộc đời này. Liệu tôi đã chấp nhận điều đó hay không? Hay là tôi vẫn còn đang mơ mộng mình sẽ đạt được trạng thái tối hậu, và khi đó người đời sẽ phải quỳ lạy và thờ phượng mình?”

Rất nhiều người trong số các con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình với mục tiêu đạt mức tâm thức cao hơn rất nhiều những gì mình đã đạt được cho tới giờ. Nhưng con sẽ không đạt được mức đó nếu con không chịu lùi lại một bước và tái cứu xét, đặt ra những câu hỏi để con nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy bây giờ. Con ở mức hiện tại của con là vì con không thể thấy xa hơn một rào cản nào đó. Con sẽ chỉ vượt qua được một khi con nhìn thấy xa hơn. Và điều này có nghĩa là con sẵn lòng mở tâm con ra và đặt ra một số câu hỏi mà con chưa đặt.

Vị sứ giả này, như ông đã viết và kể lại, đã khởi sự với một hiểu biết vô cùng ngây thơ về sự tăng triển tâm linh cũng như về ý nghĩa của tăng triển tâm linh. Làm sao ông có thể làm khác được khi ông đã lớn lên trong một xã hội Tây phương chối bỏ mọi sự thật tâm linh? Nhưng rồi ông tới một điểm khi ông nhận ra rằng tinh túy của đường tu tâm linh là nhìn vào trong bản thân mình và thấy được một cái gì đó cho dù là nó vô cùng khó chịu và tự ngã gạt bỏ nó. Tự ngã gạt bỏ ý tưởng đó ra và kháng cự lại. Nhưng nếu con sẵn lòng nhìn nó, thấy nó, nỗ lực đi muốt qua nó, vượt qua nỗi đau của nó, thì bỗng nhiên con thấy là thực sự con đã thay đổi. Con đã chuyển vọt. Con ở một mức cao hơn trước đây, có lẽ là một mức cao hơn cả những gì con chờ đợi.

Đây là tinh túy của sự tăng triển tâm linh. Không có gì là vẻ vang mà là một công việc nặng nhọc. Đó là từng bước nhỏ một ở mỗi lúc. Không có những đột phá to lớn và chứng ngộ huy hoàng. Ừm… đột phá và chứng ngộ có thể xảy ra, tuy nhiên khi con càng đi lên cao hơn trên đường đạo, thì những trải nghiệm chứng ngộ này sẽ ngày càng ít vẻ vang hơn vì sự tương phản càng ít rõ rệt hơn. Cho nên niết bàn không hẳn giống như những gì con chờ đợi – hoặc để dùng một cách mô tả phổ biến, niết bàn được đánh giá quá cao bởi những ai cho rằng đó là một trạng thái cực lạc tối hậu nào đó. Nhưng so với trạng thái tâm thức phân cực, nhị nguyên mà hầu hết mọi người đều kinh nghiệm, thì niết bàn là một trạng thái tâm thức hoàn toàn trung hòa. Không có điểm cao hay điểm thấp, không có vui lòng hay buồn lòng. Không có đau khổ. Nhưng cũng không có cảm giác thích thú và thành đạt giả tạo mà con có trên địa cầu. Tất cả đều trung hòa, ít ra là khi so sánh với những gì con người trải nghiệm trên trái đất. Tất nhiên là có một niềm vui không dứt, một cảm giác thỏa nguyện, là những cảm giác không có đối cực.

Trong trạng thái thăng thiên, tâm thức của con không hề có đối cực. Không có tương phản. Không có chuyện đu đưa giữa trạng thái này rồi trạng thái kia, và đây là một trong những thứ mà con phải bỏ lại. Con phải bỏ lại kịch tính – kịch tính rằng con xuất chúng, rằng con làm được những chuyện thật đặc biệt.

Hôm nay ta đã trao cho con rất nhiều điều để con suy ngẫm nếu con sẵn lòng đọc lại hay nghe lại bài giảng này. Có rất nhiều điều ẩn giấu đằng sau lời nói. Ẩn giấu giữa những dòng chữ. Và nếu con sử dụng bài truyền đọc này cùng với băng thâu âm của câu thần chú mà ta đã cho con trước đó, con có thể hòa điệu với ta.

Con có khả năng tìm thấy kho báu ẩn tàng mà ta mong mỏi sẽ trao cho con. Con có thể trở thành một người terton của ta, một số các con đã là terton rồi đó, vậy thì các con hãy tiếp tục nỗ lực thật tốt, bởi vì ta không giữ lại bất cứ điều gì khỏi con. Chính con mới giữ lại một điều gì đó khỏi ta. Nhưng tất nhiên đó là chọn lựa của con. Là quyền của con chọn lựa như vậy. Một lần nữa ta chỉ hỏi: “Con muốn cái này hay con muốn cái kia?” Vì con không thể có cả hai, đây chính là tinh túy của cuộc sống trên địa cầu, vì có một số thứ loại bỏ lẫn nhau. Tâm đóng kín và tăng trưởng tâm linh là hai thứ loại bỏ lẫn nhau. Bám mắc vào quan điểm và tăng trưởng tâm linh cũng loại bỏ lẫn nhau.

Vậy thì con yêu dấu, tới đây ta sẽ niêm con trong ngọn lửa vui mừng mà Ta Là. Vì Ta Là PadmaSambhava. Ta Là Vajra Guru, có nghĩa là “Ta sử dụng quyền thị hiện trên địa cầu qua trung gian những ai có thể hòa điệu với Hiện diện của ta, Bản thể của ta.”

Mối quan hệ trực tiếp của con với các chân sư thăng thiên

Bài truyền giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Hướng tới các quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

TA LÀ với an bình. TÀ LÀ trong an bình. TA LÀ sự an bình. Ta truyền giảng từ an bình. Làm sao có thể có vũ lực trong Phật? Điều này thật không thể, vì Phật vượt khỏi vũ lực. Phật không phản vũ lực mà vượt lên trên vũ lực.

Phật biết gì về các mối quan hệ? Chẳng phải là khi ta còn hiện thân, ta đã bỏ lại vợ hiền cùng con thơ, bỏ lại mọi người để ra đi sống trong rừng giữa thú hoang lẫn con người hoang dại? Đúng vậy, nhưng Phật đã làm gì trong cuộc đời sau đó? Chẳng phải là ta đã thiết lập một cộng đồng và quy tụ các đệ tử đến học từ Phật?

Cho nên ít ra Phật cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa thày và đệ tử. Và tất nhiên trong tư cách một chân sư thăng thiên, ta cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa chân sư thăng thiên và những sinh thể chưa thăng thiên trên địa cầu. Chúng ta hãy bàn về mối quan hệ này. Bởi vì như các thày đã có nói, các thày không hẳn mong con tìm thấy một vị đạo sư trong cõi vật lý, mà hơn thế các thày mong muốn con có khả năng nhận được sự hướng dẫn ngay trong nội tâm của con từ các chân sư thăng thiên.

Việc khám phá mối quan hệ tốt nhất với các chân sư thăng thiên sẽ đòi hỏi nơi con những gì? À, trước hết, con cần suy ngẫm rào cản lớn nhất cho một mối quan hệ trực tiếp với chân sư thăng thiên là việc sùng bái thần tượng. Thần tượng hóa là khi con đặt một ai đó lên làm thần tượng, ở một địa vị cao hơn con đến độ nhân vật đó vượt khỏi tầm với của con.

Vị sứ giả này sống ở vùng quê và khi ông lái xe ra thành phố, ông thường đi ngang một cơ sở Phật giáo, một trong vài cơ sở hiện diện trên đất Đan mạch này. Sau nhiều năm lái xe ngang qua đó, một hôm ông quyết định tra cứu trên mạng internet xem cơ sở này như thế nào. Ông ngạc nhiên tìm ra là cái nhìn của họ về Phật rất khác với những gì ông thường nghĩ người Phật tử nhìn Phật. Họ có cái nhìn rất sùng bái về ta. Không những họ nghĩ rằng ta thật đặc biệt ngay từ lúc sinh ra đời mà ta còn đặc biệt trước cả khi sinh ra đời. Ta thuộc về một hạng người hoàn toàn cách biệt khỏi mọi người khác trên địa cầu, và đó là tại sao ta đã có thể là vị thày độc nhất vô nhị này, tại sao Phật giáo là tôn giáo độc nhất vô nhị sẽ dẫn con người đến một cõi cao siêu hơn.

Sứ giả này thấy rõ chính cách nhìn thần tượng hóa này đã ngăn chặn các Phật tử đó có được một mối quan hệ cá nhân với đức Phật đích thực, vì họ chỉ có thể tương tác với thần tượng mà họ đã tạo ra trong tâm họ. Làm sao họ có thể thực sự bước theo lời dạy chân chính của Phật, và lời dạy chân chính của Phật là gì chứ? À, chẳng phải là ta đã dạy mọi thứ đều là Phật tánh hay sao? Tất cả mọi thứ đều mang Phật tánh ở bên trong. Mỗi con người đều có Phật tánh trong bản thân mình, và điều này có nghĩa là mỗi người đều có tiềm năng trở thành Phật.

Nhưng làm thế nào con trở thành Phật đây? Bằng cách học hỏi và nhận linh hứng, bằng cách đi theo tấm gương của Phật cho tới khi con trở thành một với Phật. Nhưng làm sao con có thể trở thành một với Phật nếu con nghĩ Phật ở quá cao trên con đến độ Phật thuộc về một phạm trù hoàn toàn riêng biệt?

Con thấy đó, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời sùng bái thần tượng kiểu đó. Tất nhiên, nó do sa nhân tạo dựng. Sa nhân là những kẻ muốn tự đặt mình vào một phạm trù mà trong cơ bản khác hẳn mọi người khác trên địa cầu. Theo một nghĩa nào đó, đúng là chúng khác mọi người vì tâm thức của chúng thấp hơn hẳn mọi người trên trái đất, nhưng điểm này không khiến chúng đặc biệt mà chỉ khác biệt mà thôi. Chắc chắn nó không khiến chúng cao trội hơn, mặc dù chúng tin là chúng có trí tuệ và hiểu biết cao siêu hơn, hay ngay cả trong một số trường hợp, một số khả năng vượt trội do chúng đã có nhiều thời gian hơn để rèn luyện các khả năng này.

Con thấy sự thần tượng hóa này – được tìm thấy trong biết bao tôn giáo – thật ra là điều mà sa nhân mơ ước. Chúng mới là kẻ mơ ước được thờ phượng y như nhiều người thờ phượng Thượng đế vậy. Chúng là những kẻ muốn trở thành thần thánh trên trái đất, thậm chí loại thần thánh ở cõi bản sắc được con người tôn thờ như những kẻ tự thân đã siêu đẳng – một hạng người đặc biệt mà không ai có thể với tới. Điều này khiến chúng cảm thấy chúng thật đặc biệt, trong khi một chân sư thăng thiên thì không hề có mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, không có nhu cầu cảm thấy đặc biệt, thậm chí còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt hay có gì đặc biệt nhiều hay ít.

Là học trò của chân sư thăng thiên, con có thể quán chiếu những ý tưởng này. Con có thể nhìn vào bất cứ tôn giáo nào mà con đã lớn lên trong kiếp sống này. Con có thể nhìn vào những tôn giáo mà con đã tiếp cận trong tiền kiếp và nhận diện hiện tượng sùng bái đó. Con có thể nhìn ra làm thế nào những tôn giáo gọi là độc thần (monotheistic) tuyên bố Thượng đế của họ mới là cao trội, và đồng thời họ gán cho Thượng đế này một số đặc tính kỳ thực chỉ phản ánh cái tâm lý chưa giài quyết của chính họ. Con người phóng chiếu ra là Thượng đế cũng giống như họ vậy, cho nên đó là một thượng đế nóng giận ở trên trời, đó là thượng đế thù hằn có ý muốn đập tan mọi kẻ thù và đày đọa những ai cả gan chống đối vào nỗi thống khổ triền miên nơi địa ngục.

Rõ ràng một số những điều trên phát xuất từ sa nhân vì chúng là kẻ muốn tiêu diệt hay trừng phạt bất cứ ai chống lại chúng. Con thấy được ở đây, con có thể bắt đầu nhận diện ở đây ảnh hưởng của sa nhân trên các tôn giáo trên địa cầu to lớn đến chừng nào, ngay cả trên nhiều khía cạnh của đạo Phật. Khi con làm vậy thì con có thể khởi sự giải tỏa những ảo tưởng đó khỏi tâm mình. Con còn có khả năng nhận ra là trong những kiếp trước, con đã từng tiếp xúc với hình thức tôn giáo này, với hậu quả là con đã gây dựng một số ngã tách biệt.

Có một thời điểm sứ giả này đã nhận biết là mình mang một cái ngã tách biệt – mà vào thời đó ông chưa gọi là ngã tách biệt – nhưng ông mang trong tâm lý của ông một khía cạnh sợ hãi xúc phạm Thượng đế. Ông sợ mình có thể nói ra hay thậm chí nghĩ ngợi một số chuyện sẽ khiến cho Thượng đế phật lòng. Khi đó ông đã là một đệ tử của chân sư thăng thiên trong một đợt truyền pháp trước, nhưng ông đã bỏ ra một thời gian khá dài vật lộn với ảo tưởng này trước khi ông nhận ra thượng đế đó không thể nào là Thượng đế đích thực. Cái đó bắt buộc phải là một thượng đế giả, vì thực sự, làm thế nào Thượng đế đích thực lại có thể bị xúc phạm bởi bất cứ điều gì trên trái đất?

Thế rồi ông chứng nghiệm được Thượng đế đích thực, Đấng Sáng tạo đích thực vượt khỏi mọi hinh tướng như ông từng mô tả trong một số bài viết của ông. Lý do ông mở tâm ra với sự chứng nghiệm này là vì ông đã vật lộn với hình ảnh Thượng đế đó. Ông đã từng vật lộn với hình ảnh một Thượng đế nóng giận xét đoán, một Thượng đế xa vời ở trên trời muốn được thờ phượng và có khả năng bị con người làm tổn thương. Ông ngộ ra là một sinh thể ở cõi tâm linh không thể nào thực sự bị bất cứ hành vi nào của con người trên trái đất làm cho tổn thương. Làm sao chuyện này có thể hữu lý được khi sinh thể đó vượt khỏi mọi điều trên trái đất? Cho nên ông ngộ ra vị thượng đế có thể bị xúc phạm đó cũng chỉ là sự phóng chiếu của một tâm lý chưa giải quyết, mà nói cho cùng là tâm lý của sa nhân và cũng là tâm lý dễ bị xúc chạm của rất nhiều người trên địa cầu.

Nếu con nhìn sự kiện các tôn giáo độc thần đều bắt nguồn ở vùng Trung Đông, con có thể thấy là ngay cả ngày nay, rất nhiều người ở Trung Đông rất dễ bị xúc chạm. Họ vô cùng nhạy cảm và dễ bị nhục mạ khi có ai đó nói điều gì mà họ cho là không được nói ra. Họ nổi giận, trở nên hằn học và mong muốn trừng phạt những ai làm nhục họ như vậy. Đây là những đặc điểm của một nhóm người đặc thù được chính họ phóng chiếu lên hình ảnh của họ về Thượng đế.

Một khi con nhận ra vấn đề này trong các tôn giáo lớn, con có thể bắt đầu xem xét mối quan hệ của con với các chân sư thăng thiên. Con có thể nhận ra thử thách lớn nhất mà các thày phải đối mặt trong tư cách chân sư thăng thiên là các đệ tử của mình không phải là những tờ giấy trắng tinh khi họ đến với giáo lý. Các con đều đến với một loại gốc tích, một loại hành lý nào đó, các con đã tiếp xúc với một hay nhiều tôn giáo khác nhau, cả trong kiếp này lẫn các kiếp trước. Con đến với một số kỳ vọng và định kiến, con đến với một cái nhìn nhất định về một sinh thể tâm linh là như thế nào và phải như thế nào.

Và nếu con sẵn lòng, con có thể nhận ra là các quan điểm mà con đã khoác vào về Thượng đế cùng các sinh thể tâm linh là sự phản ánh của chính tâm lý chưa giải quyết của con. Con có thể nhận ra hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối mặt khi cố giúp con phát triển tâm linh, tất nhiên, là sự phóng chiếu đó đến từ tâm lý chưa giải quyết của con.

Khi con mang một tâm lý chưa giải quyết mà con phóng chiếu lên các thày, và khi một khía cạnh của tâm lý chưa giải quyết đó là con cho rằng các thày toàn hảo và do đó cái nhìn của con về các thày cũng toàn hảo, thì làm thế nào con có thể giải thoát mình khỏi điều này đây? Đó là một thế tiến thoái lưỡng nan. Có hai quan điểm đang khóa sừng chống chọi nhau trong bài toán nan giải này, vì làm thế nào con có thể nhận ra rằng quan điểm của mình về chân sư thăng thiên là giới hạn nếu con nghĩ các thày toàn hảo và cái nhìn của con cũng toàn hảo, hoặc nếu con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về chân sư thăng thiên? Nhiều các con mang cảm nhận vi tế là con không thể chất vấn cái nhìn của mình về chân sư thăng thiên vì con nghĩ đó không phải là một cái nhìn, mà con nghĩ các thày là y như vậy, và con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về các thày.

Một lần nữa, con yêu dấu, các thày đã thăng thiên. Các thày không hề bị xúc phạm bởi bất cứ gì trên trái đất. Không có gì con làm, nói, nghĩ hay cảm thấy có thể xúc chạm được các thày. Điều duy nhất các thày có thể làm nếu con ở trong một tâm thái khiến các thày không thể giúp con ngay lúc này là để yên cho con một mình. Nếu đệ tử của các thày cần nhận thêm nhiều cú giáng từ Trường đời Cay đắng, thì đôi khi các thày phải để yên họ một thời gian cho tới khi họ nhận đủ những cú giáng rồi mở tâm ra để các thày lại có thể giúp được họ trực tiếp hơn.

Nhưng điều này không có nghĩa là các thày bị xúc chạm. Các thày không bị xúc chạm khi bị con từ chối hay làm ngơ. Các thày không thể bị bất cứ gì xúc chạm. Con có thể nghĩ các thày có thể bị như vậy, con có thể phóng chiếu ra là các thày có thể bị như vậy, con có thể cảm thấy là mình đã xúc chạm các chân sư và do đó con không xứng đáng được tiếp xúc với chân sư. Cho nên con chui vào cái hang nhỏ nơi con cảm thấy buồn rầu tủi thân, và con phóng chiếu lên các thày rằng các thày mới là kẻ đang trừng phạt con vì con đã hư đốn chất vấn một tâm ảnh do chính con tạo ra về các thày. Nhưng các thày nhìn thấy rất rõ các tâm ảnh của con. Và làm sao các thày có thể bị xúc phạm khi con chất vấn một hình ảnh không liên quan gì đến bản thể thực của các thày – ngay cả trong trường hợp không thể xảy ra là các thày có thể bị xúc phạm?

Một lần nữa con thấy đó, các thày không thể giận hờn. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là như đã nói nhiều lần, các thày ở trong một trạng thái tâm thức khác hẳn trong bản chất so với tâm thức của con người chưa thăng thiên. Ta cũng biết đây là một khái niệm thật trừu tượng, ta biết là con không thể nắm bắt được hoàn toàn khi con vẫn con đầu thai, nhưng ít nhất nhiều người trong số các con có thể bắt đầu hé thấy, bắt đầu có một trải nghiệm nào đó về trạng thái tâm thức của các thày, giống như sứ giả này đã trải nghiệm khi ông nhận bài truyền đọc, hay giống như con có thể trải nghiệm khi con lắng nghe bài truyền đọc hay con thiền quán về các thày trong tim con. Và một khi con có trải nghiệm đó, con có thể đạt đến một chứng nghiệm, và ta sẽ cho con chứng nghiệm này từ bên ngoài, nhưng nó sẽ chỉ thực sự có giá trị đối với con khi nào nó cũng đến từ bên trong.

Chứng nghiệm đó là như sau – mối quan hệ của con với chân sư thăng thiên sẽ không giống như mối quan hệ của con với con người. Hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối diện khi thiết lập mối quan hệ trực tiếp với con là sự kiện con chụp lấy cách nhìn của con về quan hệ con người rồi chuyển nó sang các thày. Cho nên ví dụ, nhiều các con có thái độ là nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, nếu con muốn quan hệ trực tiếp với các thày, thì có một số điều con phải làm hay không được làm, một số điều con phải nói hay không được nói, một số điều con phải cảm thấy hay không được cảm thấy, một số chuyện con phải nghĩ hay không được nghĩ.

Các thày đã chứng kiến, đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, các đệ tử có thể trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn khi cố sức đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi mà họ phóng chiếu ra là các thày đang phóng chiếu lên họ. Họ cứ tưởng chính các thày đang phóng chiếu tất cả những yêu cầu đó lên họ. Nhưng những yêu cầu này dựa trên những quan hệ giữa con người bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã, những cái “phải làm” và những cái “không được làm”, ý thức nghĩa vụ và bổn phận, ý thức mình phải trung thành với người khác, vân vân và vân vân.

Nhưng các thày không mang tâm lý của người phàm, các thày không có tâm lý sa ngã. Tại sao con lại cho rằng các thày phản ứng giống như sa nhân hay cư xử giống như con người? Điều này không hữu lý, không lô-gíc chút nào, và khi con bắt đầu suy ngẫm thì con sẽ có khả năng lần lần thoát mình ra khỏi nó, có nghĩa là ít ra con có thể khởi sự đáp ứng được yêu cầu duy nhất để bắt liên lạc với các thày, đó là một tâm cởi mở, một tâm trung hòa.

Trong tâm con phải có khoảng trống để các thày bước vào, và nếu con cứ mang những cái “phải” và những cái “không được”, những quan điểm cố định, cái nhìn sùng bái thần tượng nói trên, thì đâu là khoảng trống đây? Các thày sẽ không cưỡng ép con, các thày sẽ không hiện ra trong một dạng thị hiện không thể nào chối cãi, ngoại trừ trong một số trường hợp thật hiếm hoi khi việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là một điều mà con đã quyết định trước khi đầu thai trong kiếp này.

Các thày sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của con người, cho nên các thày sẽ chỉ bắt liên lạc với một sinh thể chưa thăng thiên khi trong tâm con có khoảng trống để các thày bước vào, và điều này không có nghĩa là con phải có một ý định ý thức muốn liên lạc với các thày. Các thày đã chứng kiến nhiều đệ từ tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên rồi họ quyết định: “À, tôi muốn một trải nghiệm trực tiếp, một sự tiếp xúc trực tiếp với các chân sư, tôi muốn nhận được một thông điệp cá nhân từ chân sư,” thế rồi họ nghĩ họ phải làm chuyện này chuyện nọ, phải đọc bài chú, phải cầu nguyện, phải thỉnh gọi các thày. Họ trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn làm những chuyện mà họ nghĩ họ cần phải làm để có liên lạc trực tiếp đó.

Nhưng họ đang làm gì chứ? À, họ đang chất đầy tâm họ với tất cả những hoạt động đó, tất cả những ý nghĩ đó, tất cả những lời cầu đó, tất cả những hình dung đó khi họ tưởng tượng việc liên hệ trực tiếp với các thày sẽ tuyệt vời đến chừng nào, khi các thày ban cho họ những khả năng đặc biệt như thế nào, và giờ đây họ trở thành đặc biệt đến làm sao, họ sẽ thực hiện bao điều kỳ diệu mà ai nấy đều ngưỡng mộ, hay bất kỳ mơ tưởng nào mà con người có thể nghĩ đến. Và như vậy, càng ngày họ càng lấp đầy tâm họ với nhiều tiếng ồn ào hơn. Đâu là sự tĩnh lặng, đâu là khoảng trống để các thày bước vào? Cho nên các thày phải lui lại, chờ cho tới khi có lẽ họ sẽ mệt mỏi, sẽ chán ngán tất cả những hoạt động cuồng nhiệt đó, cho tới khi một khoảnh khắc tĩnh lặng hiện ra và đột nhiên mối liên lạc với chân sư thăng thiên xảy đến.

Bây giờ, một thử thách lớn khác mà các thày phải đối diện trong quan hệ với một đệ tử chưa thăng thiên là, tất nhiên, nhiều người chờ đợi việc tiếp xúc với chân sư thăng thiên phải là một trải nghiệm tột đỉnh tuyệt vời, ấn tượng, siêu phàm. Và đúng thế, một số đã có trải nghiệm như vậy, nhưng rất, rất hiếm hoi trải nghiệm đó đến từ chân sư thăng thiên. Họ đã có một cảm giác kịch tính dữ dội như vậy là do, như các thày đã giảng, sự tương phản to lớn giữa trải nghiệm đó và trạng thái tâm thức bình thường của họ. Nhưng thực tế là các thày không hề tìm cách cho con những trải nghiệm ngoạn mục tuyệt vời.

Các thày cố gắng cho con một khung tham chiếu để con thẩm định trạng thái tâm thức hiện thời của con. Các thày cố gắng cho con một sự hướng dẫn có thể giúp con bước lên bước kế tiếp. Cho nên nếu con đang ở tầng tâm thức thứ 60, các thày sẽ cố cho con một xung lực giúp con vươn lên tầng 61. Các thày không tìm cách cho con một loại trải nghiệm tột đỉnh ngoạn mục nào đó mà con có thể có ở những tầng tâm thức cao hơn vì con chưa sẵn sàng nhận lấy, và hầu hết mọi người nếu họ kinh qua trải nghiệm này sẽ cảm thấy choáng ngợp. Sứ giả này đã có được trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng vì ông đã sẵn sàng, nhưng ông vẫn tốn nhiều năm trời để suy nghiệm và thể nhập trải nghiệm đó.

Cho nên nói chung, con thường không có trải nghiệm ấn tượng, siêu phàm đó khi tiếp xúc trực tiếp với các thày. Thật ra nhiều người đã nhận được một sự hỗ trợ trực tiếp từ các thày mà không hay biết nó đến từ đâu vì nó có vẻ quá bình thường, nó quá tầm thường đối với họ. Vì vậy con có thể bắt đầu nhìn xem kỳ vọng của con là gì trong việc quan hệ với chân sư. Con có thể bắt đầu xem xét liệu con có mang những kỳ vọng thiếu thực tế đó, những mong muốn trải nghiệm đặc biệt khiến mình cảm thấy mình là đặc biệt, và cũng khiến người khác cảm thấy con là người đặc biệt vì họ đã không có được trải nghiệm đó. Xuyên qua các đợt truyền pháp khác nhau, nhiều đệ tử đã ấp ủ giấc mơ này – là ảo giác mình vĩ đại cao quý khi mơ ước đạt được những khả năng đặc biệt sẽ khiến người ta nể phục, ngưỡng mộ mình. Và không cứ tất cả các đệ tử đó đều là sa nhân mặc dù một số là sa nhân.

Ta đoán con cũng biết là khi một sa nhân đang hiện thân tìm được một giáo lý của chân sư thăng thiên, sa nhân đó chỉ nhìn vào giáo lý cùng các chân sư với ý định: “Làm thế nào cái này có thể giúp tôi ra vẻ là người đặc biệt? Làm thế nào nó khiến tôi cảm thấy đặc biệt? Tôi có thể dùng giáo lý này như thế nào để cất mình lên cao hơn?” Tất nhiên, đó không phải là động lực mà hầu hết các con đều có, nhưng chắc hẳn con có mang một số ngã từ tiền kiếp khi con hứng chịu sự hiếp đáp của sa nhân khiến con tạo ra một số ngã muốn đền bù bằng cách nâng mình lên cao, bằng cách tỏ ra đặc biệt hơn người, hay bằng cách đạt một khả năng nào đó hầu chứng minh sa nhân sai trái. Có thể có những cái ngã đủ loại giống như vậy, và khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên thì những ngã này sẽ muốn dùng giáo lý để thực hiện kỳ vọng của chúng – nhưng tất nhiên đây là một kỳ vọng rỗng tuếch. Cácc thày sẽ không bao giờ cho con cái đó, vì nếu các thày cho con thì chuyện gì xảy ra chứ? Ngã sẽ càng được củng cố, và con sẽ càng đồng hóa nhiều hơn với ngã, khiến con càng khó lòng tách ra khỏi nó và cho nó chết đi.

Cho nên con nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên, không cảm thấy mình đặc biệt. Tại sao vậy? Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải các chân sư đặc biệt lắm hay sao? Chẳng phải các chân sư ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn con người chưa thăng thiên hay sao?” Và đúng thế, các thày có như vậy thật, nhưng vì sao các thày lại ở trong trạng thái tâm thức cao hơn đó chứ? Bởi vì các thày đã thăng vượt nhị nguyên. Cảm nhận mình đặc biệt có thể có mặt ở đâu chứ? Chỉ có thể trong cõi nhị nguyên, vì khi có ai đặc biệt thì điều này ngụ ý một sự so sánh giữa những người đặc biệt và những người không đặc biệt, và đó chính là cốt lõi của nhị nguyên – cái thang điểm đó, sự tương phản đó, sự xét đoán giá trị đó.

Các thày đã thăng vượt cái đó rồi. Thậm chí các thày còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt. Các thày không nhìn thấy con là người kém cỏi, thiếu sót hay tội lỗi. Các thày không tìm cách trừng phạt con dù bằng cách nào đi nữa, các thày không tìm cách khiến con cảm thấy xấu hổ. Các thày không tìm cách khiến con phải nhận tội hay khai tội. Các thày chỉ cố giúp con thăng vượt tất cả cái tâm thức phàm phu đó. Cho nên các thày chỉ có một mục đích, một mong muốn thôi là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng thiên. Không hề có một mong muốn nào khác.

Ta cũng biết là trong các đợt truyền pháp trước đã có trọng tâm đặt vào việc phụng sự thày Saint Germain và đem lại thời hoàng kim, và ở đây con cũng có thể nói là các thày có đặt một chút trọng tâm vào công việc này. Tất nhiên là các thày mong muốn con phụng sự, nhưng chỉ khi nào đó là một việc con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày không tìm cách ép buộc con làm vậy. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là mình bắt buộc phải làm, mình có bổn phận đối với chân sư. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là con phải làm chuyện này và không được làm bất cứ gì khác, nhất là bất cứ gì thú vị.

Con thấy là trong tôn giáo, trong các giáo lý tâm linh, có một truyền thống rất lâu đời cho rằng thế giới tự thân nó xấu xa, rằng các sinh hoạt thế tục là tội lỗi, rằng chúng khiến con xao lãng mà xa rời việc tăng triển tâm linh, vân vân và vân vân. Và điều này đã tạo ra cái tư duy mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên bị lạc vào, kể cả sứ giả này trong những năm đầu. Con nghĩ, bây giờ con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên thì con phải tập trung tất cả chú ý của mình vào chuyện này, con phải chú tâm vào việc phụng sự, dù là qua các bài chú hay một cách nào khác, và con không được làm bất cứ gì khác, bất cứ gì đem lại thú vị cho con. Con phải làm tối thiểu để kiếm kế sinh nhai hay làm tròn bổn phận đối với gia đình, nhưng con không được làm bất cứ gì để tìm niềm vui thú.

Đấy như các thày đã nói, con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng từ một mức tâm thức cao hơn mức hiện tại của con. Nếu con đã quyết định là có một số trải nghiệm con muốn kinh qua vì các thày sẽ giúp con sạch hết lỗi lầm để sẵn sàng bước tới, thì không những đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng mà đó còn là một hoạt động vô cùng tâm linh cho con. Chúng sẽ chỉ thúc đẩy chứ không cản trở sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên con không thể mang thái độ trắng đen đó mà cho rằng mọi sinh hoạt thế gian đều là phản tâm linh và con phải kềm chế chúng lại. Đặc biệt con không nên có thái độ đó.

Ta nhận thấy là ta đang sử dụng các từ “phải” với “không được”, nhưng dù sao đi nữa, thật sẽ không xây dựng cho con nếu con mang thái độ là các thày đang áp đặt con phải làm gì hay không được làm gì, rằng các thày đang bắt con không được cho phép mình hưởng thụ mà chỉ được sống tối thiểu cuộc đời thế gian, và con không được thực sự hưởng thụ vì như vậy sẽ chứng tỏ con không phải là người tâm linh. Con yêu dấu, con không cần chứng tỏ cho các thày rằng con là người tâm linh, và con không cần chứng tỏ điều đó qua hoạt động vỏ ngoài. Các thày đã chứng kiến những người tìm ra giáo lý chân sư, gia nhập một tổ chức rồi bỏ ra không biết bao nhiêu giờ đọc chú, tham dự hội nghị, tham dự các buổi lễ và tất cả những thứ đó. Họ tuân thủ tất cả những thứ vỏ ngoài đó nhưng họ không vui thú. Không có niềm vui nào trong việc làm đó mà họ chỉ làm do bổn phận.

Đâu là cái tư duy đằng sau cách hành xử như vậy? Đó là điều các thày đã từng đề cập, là sự kiện nhiều người mộ đạo tìm cách mặc cả với Thượng đế. “Chúa ơi, con đang thờ phượng ngài như một tín đồ ngoan đạo. Con đang xưng tội với ngài đây. Con không đang làm gì thú vị cả. Con đang sám hối. Con đang làm đúng tất cả mọi điều quy định, và Chúa ơi, khi nào con làm vậy đủ lâu, khi nào con đã khiến mình bị đau đớn đủ nhiều, thì đương nhiên ngài sẽ phải cho con lên thiên đàng.” Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày: “Khi nào con đọc xong tất cả các bài chú này để cứu nguy thế giới, khi nào con tự chế không làm tất cả những chuyện kia, thì thày phải cho con thăng thiên,” hoặc “thày phải biến con thành một người đặc biệt,” hoặc “thày phải cho con một chứng ngộ gì đó.”

Con yêu dấu, con không thể mặc cả với chân sư thăng thiên. Tại sao con không thể? Trước hết vì như các thày có nói, con không thể dùng vũ lực để xông lên thiên đàng. Nhưng thêm vào đó, vì các thày không muốn thấy con tìm cách dùng vũ lực xông lên thiên đàng, vì các thày biết rõ cách duy nhất để thăng thiên là buông bỏ. Một lý do nữa là muốn mặc cả, phải có điều gì đó mà cả hai bên đều mong muốn. Nhưng trên địa cầu liệu có điều gì mà một chân sư thăng thiên có thể mong muốn hay chăng?

Biết bao nhiêu các con đã bị cái nhìn tôn giáo truyền thống kia ảnh hưởng và cho rằng Thượng đế, đấng Thượng đế tối cao của vũ trụ, cần được thờ phượng bởi những con người trên hành tinh nhỏ bé này, và do đó họ phải đến nhà thờ mỗi chủ nhật, phải quỳ gối và lẩm nhẩm những lời cầu nguyện đã được định sẵn, như thể Thượng đế cần chuyện đó, như thể ngài cần sự chú ý hay năng lượng của con người. À, ai mới là kẻ cần đến chú ý và năng lượng của con người? Sa nhân, tà lực, là những kẻ không có khả năng tự mình nhận được năng lượng từ một nguồn cao hơn.

Các thày đã thăng thiên là vì các thày nhận năng lượng trực tiếp trong bản thể mình từ một nguồn cội cao hơn. Các thày tự đủ. Các thày không cần bất kỳ năng lượng nào từ ngoài mình. Các thày không cần sự chú ý từ ngoài mình. Các thày có cần gì nữa hay muốn gì nữa chăng? Không gì nữa, tuyệt nhiên không có gì nữa. Một khi đã thăng thiên thì không cần gì nữa từ địa cầu. Các thày không cần con chú ý. Các thày không cần ai thờ phượng, cho nên làm sao con có thể mặc cả với các thày đây? Làm sao con có thể cống hiến điều gì để các thày nói: “Ừ há, người này đã cho ta điều ta muốn, cho nên ta sẽ cho người đó thăng thiên?” Làm sao các thày có thể cho con thăng thiên? Làm sao các thày có thể cho phép con thăng thiên? Đây hoàn toàn là sự chọn lựa tự quyết của con dựa trên sự buông bỏ mọi dính mắc với địa cầu.

Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là không có một khối lượng bài chú nào mà con có thể đọc để hội đủ tư cách thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con không cần đọc chú để biến hóa năng lượng, nhưng tự thân bài chú không thể đưa con lên cõi thăng thiên, vì trong tâm con cần có một sự giải quyết, là buông bỏ mọi dính mắc, buông bỏ mọi ham muốn và đạt tới điểm con có thể ngoái nhìn lại trái đất mà không còn gì níu kéo con trở xuống đó. Con có thể ngồi dưới cây Bồ đề, con có thể nhìn tất cả ma quỷ của Mara, tất cả mọi thế lực của thế gian này diễn hành trước mắt, và cho dù chúng có làm gì, nói gì, bày ra những gì, cho dù chúng có làm gì với nhau, có làm gì tới con người, thì không có gì ở đây, không có gì trong đó mà con phản ứng lại.

Điều này không thể thực hiện được bằng vũ lực, không thể đạt được bằng bài chú, và không thể làm được bằng học tập. Con chỉ có thể đạt được qua một sự nhận biết nhạy bén giúp con nhìn ra các ảo tưởng và từ bỏ chúng. Đó là sự buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ sau khi buông bỏ sau khi buông bỏ. Có lúc nào sự buông bỏ sẽ ngừng lại chăng? Có, sau khi con thăng thiên, nhưng ngay cả khi đó, con vẫn buông bỏ cái ý niệm bản sắc giới hạn như một chân sư thăng thiên để đạt đến một bản sắc cao hơn nữa như một chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là con thăng thiên trong tư cách Ki-tô, nhưng sau khi thăng thiên một thời gian, con có thể đạt đến mức quả vị Phật. Nhưng con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ ý niệm bản sắc giới hạn để vươn lên một ý niệm bản sắc cao hơn.

Mối quan hệ các thày mong muốn là như thế nào? À, các thày mong muốn một mối quan hệ mà trước hết, con cởi mở để nhận được một điều gì đó từ các thày. Con mở tâm ra để nhận những gì các thày thấy sẽ giúp con vươn lên từ tầng tâm thức hiện thời của con lên tầng kế tiếp. Điều này có nghĩa là nếu con muốn như vậy từ các thày, con cần nhìn vào các kỳ vọng của con. Làm đệ tử của chân sư thăng thiên có nghĩa là gì, và quan hệ với các thày có nghĩa là gì? Con có thể nhận được gì từ các thày? Con muốn điều gì từ các thày? Con chờ đợi những gì? Liệu con chờ đợi như ta đã nói, một loại trải nghiệm siêu phàm nào đó khi con gặp chân sư? Liệu con chờ đợi các thày sẽ hiện ra trước mắt con và trao cho con những chỉ dẫn cụ thể sẽ khiến con cảm thấy mình thật đặc biệt, đặc biệt hơn người khác?

Nếu con có những kỳ vọng như thế thì chúng sẽ chặn nghẽn khả năng của các thày để giao tiếp với con một cách trực tiếp hơn, vì kỳ thực con sẽ làm ngơ hay bác bỏ những điều các thày nói. Con sẽ nghĩ: “Ồ, cái này không thể đến từ chân sư thăng thiên. Nó không đúng với kỳ vọng của tôi về những gì một chân sư thăng thiên phải nói với tôi, cách chân sư phải phát biểu như thế nào và phải hiện ra như thế nào.”

Một lần nữa, ở những mức sơ khởi trên đường tu, nhiều khi các thày sẽ không cho con một sự giao tiếp trực tiếp vì con không cởi mở với nó, cho nên các thày sẽ cố giao tiếp với con qua những người khác. Đó là vì sao nếu vị sứ giả là một con kiến thì con hãy lắng nghe nó, vì con chưa sẵn sàng nghe thấy các thày trực tiếp.

Nhưng vấn đề tệ nhất cho các thày, trở ngại khó khăn nhất cho các thày là loại đệ tử có thành kiến rất cố định về mối quan hệ của họ với các thày phải như thế nào. Trong một số môn phái Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, người ta có khái niệm “nắm chặt, giữ chặt lấy quan điểm của mình.” Đó là vì các vị thày Phật giáo đó nhận thấy nhiều người đến tu tập với quan điểm và niềm tin có sẵn, và họ cứ nắm chặt lấy như thể đó là chuyện sinh tử. Các vị thày đó đã nhận ra là loại học trò này không cởi mở.

Các thày đã nói điều này nhiều lần và ta sẽ nói lại một lần nữa, nếu con thực sự muốn có quan hệ với các thày, con hãy xem xét bản thân mình. Hãy xem xét quan điểm của mình. Liệu con có một số quan điểm thật kiên cố? Những quan điểm mà con bám lấy rất chặt? Mà con cảm thấy nhu cầu phải bênh vực? Mà con cảm thấy phải bác bỏ bất cứ ai chất vấn hay không chia sẻ quan điểm của mình? Liệu con có một ý tưởng rất, rất kiên cố về những gì một chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói? Trong trường hợp đó, nếu con sẵn lòng thành thật với chính mình, con sẽ biết là con không cởi mở với một sự tương tác trực tiếp với các chân sư thăng thiên.

Suốt nhiều năm trời với những đợt truyền pháp khác nhau của chân sư thăng thiên, các thày đã chứng kiến một khuôn nếp nhất định cứ diễn đi diễn lại hoài hoài. Chẳng hạn các thày thấy một nhóm học trò – có thể là một nhóm học trò từ một quốc gia nào đó – và dựa trên văn hóa cùng lịch sử của quốc gia này, họ mang sẵn một quan điểm mà họ vô cùng gắn bó. Nó vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của họ. Họ giữ chặt ý tưởng là nó phải đúng, do đó vì chân sư là bậc cao siêu chắc chắn phải biết rõ sự thật, cho nên chân sư không bao giờ được nói gì sẽ chất vấn điều họ tin là cái nhìn tối hậu về một sự việc nào đó.

Khi các thày nói ra một điều gì chất vấn niềm tin đó thì các thày từng thấy nguyên nhóm học trò xác quyết: “Ồ, sứ giả này không phải là sứ giả đích thực, bởi vì một chân sư thăng thiên đích thực không thể nào nói ra lời này.” Thế là họ rút ra khỏi giáo lý. Các thày từng thấy những cá nhân cũng hành xử tương tự bởi nhiều lý do khác nhau. Thường là vì trong tâm lý của họ, họ chạm trán với một điều gì mà họ không sẵn sàng xem xét hay từ bỏ, mà các thày thì lại nói ra những lời chất vấn cái đó, cho nên họ phải gạt bỏ lời nói của các thày. Có một số học trò đến với giáo lý của chân sư thăng thiên với một số ngã tách biệt mà họ không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng buông bỏ. Họ đã tạo ra một ngã tách biệt khác bảo rằng: “Tôi không phải từ bỏ điều này.” Họ không phải xem xét nó vì họ nghĩ người ta có thể thăng thiên mà không cần xem xét khía cạnh này của tâm lý mình. Họ tin rằng họ có thể làm những chuyện khác, chẳng hạn như nếu họ thỉnh đủ số lượng lửa tím thì họ sẽ không cần nhìn vào điều này trong tâm lý họ mà vẫn có thể thăng thiên.

Rất nhiều lần các thày đã nói gì? Con không thể thăng thiên với một tâm lý chưa giải quyết. Một chân sư thăng thiên không có tâm lý chưa giải quyết. Con thấy có những người bị phật lòng vì điều này. Đó là những người trong một đợt truyền pháp trước – khi có lời dạy được đưa ra là con có thể thăng thiên sau khi cân bằng 51% nghiệp chướng của mình – đã hiểu lời đó theo nghĩa đen, nghĩa là nếu có ai cân bằng được 51% nghiệp của mình thì người đó có thể thăng thiên, và một khi họ thăng thiên thì họ trở thành một chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con biết một số người đã băng qua tấm màn cuộc đời sau khi được sứ giả đợt truyền pháp đó cho biết là họ đã cân bằng 51% nghiệp chướng, thì con sẽ dễ dàng thấy được là họ vẫn còn một số tâm lý chưa giải quyết. Điều mà họ không sẵn lòng xem xét là liệu họ có thể thực sự trở thành chân sư thăng thiên khi họ vẫn còn tâm lý chưa giải quyết? Hiển nhiên là không.

Có thể có ai đó đã cân bằng hơn 51% nghiệp của mình và không phải trở lại đầu thai, nhưng người đó vẫn phải bỏ ra một thời gian trước khi trở thành chân sư thăng thiên, vì trước tiên họ phải giải quyết xong tâm lý cái đã. Như Mẹ Mary có giảng, phần 51% nghiệp chướng là nghiệp con mang với người khác và phần 49% là nghiệp con mang với chính con dưới dạng tâm lý chưa giải quyết, nhưng phần này thì con có thể cân bằng mà không đầu thai. Đối với hầu hết mọi người, nếu họ ở trong hiện thân thì họ sẽ cân bằng nhanh hơn là khi đứng ngoài hiện thân. Nhưng đối với một số người, họ đã chọn làm vậy và do đó họ sẽ tốn một số thời gian.

Có người bám quá chặt vào những điều được nói trong các đợt truyền pháp trước đến độ họ đã chối bỏ khi các thày chất vấn điều đó trong đợt truyền pháp này. Họ chối bỏ sứ giả này. Họ chối bỏ các thày vì các thày không nói những điều mà họ nghĩ các thày phải nói.

Nhiều người khác trong các đợt truyền pháp khác nhau có cùng những dính mắc đó vào một số quan điểm, một số góc nhìn đến độ họ đến với giáo lý cốt yếu là để xác chứng các niềm tin kiên cố của họ. Và khi không nhận được xác chứng thì họ tìm ra một lý cớ nào đó để chối bỏ giáo lý.

Nhiều người bị rơi vào một khuôn nếp đặc trưng là họ tìm thấy một lời dạy, họ chấp nhận sứ giả là vị sứ giả của đợt truyền pháp đó, và họ tin đó là vị sứ giả đích thực nhận được lời truyền đọc từ chân sư thăng thiên. Nhưng rồi xuyên qua sứ giả, các thày chất vấn một trong những quan điểm mà họ không sẵn sàng từ bỏ hay tra vấn.

Thế là họ lý luận: “Ồ hỏng rồi, chuyện gì đã xảy ra cho sứ giả rồi. Khi chúng ta bước vào tổ chức này, chúng ta đã không sai lầm nhận định sứ giả này là vị sứ giả chân chính. Nhưng giờ đây có chuyện gì đã xảy đến và sứ giả này không còn là sứ giả chân chính nữa. Ông ấy hay bà ấy đã bị tước mất trách vụ và hiện đang liên lạc với hàng ngũ thày giả hay những kẻ mạo danh. Cho nên chúng ta phải rời tổ chức và bác bỏ bất cứ lời dạy nào từ một thời điểm nào đó trở đi.” Các thày đã chứng kiến sự kiện này mấy lần trong mấy đợt truyền pháp, mỗi lần đại khái với cùng những lập luận như thế. Và tại sao chứ? Bởi vì đó là cùng cái tâm lý chưa giải quyết nơi đệ tử khiến họ phải bác bỏ sứ giả hầu họ không phải nhìn vào cái đà trong mắt họ.

Đây là một điểm con có thể cảnh giác nơi chính mình, con có thể nhìn xem: “Liệu tôi có một niềm tin nào mà tôi bám chặt đến độ tôi không muốn các chân sư thăng thiên thách đố?” Và nếu con có mang loại niềm tin đó thì con có thể nói: “À, không thể nào chính tôi trong tư cách cái Ta Biết đang bám chặt lấy quan điểm đó, bởi vì cái Ta Biết không thể bám vào bất cứ quan điểm nào trên địa cầu, cho nên đây chỉ có thể là một cái ngã tách biệt. Và nếu tôi muốn tinh tiến, tôi sẽ phải xem xét ngã tách biệt này và đạt tới điểm có thể buông nó ra, buông cho nó chết đi, buông quan điểm đó và ngộ ra là phải có một cách hiểu biết cao hơn. Và tôi muốn hiểu biết cao hơn này thay vì cứ bám giữ cái hiểu biết giới hạn kia.”

Nói cho cùng, điều gì sẽ giúp con hội đủ tư cách để thăng thiên? Phải chăng là bám giữ ý tưởng của mình, ôm chặt lấy ý tưởng, hay là buông nó ra? Chỉ bằng cách buông bỏ thì con mới có thể trở về trạng thái mà cái Ta Biết đã đi xuống thế gian và do đó cũng sẽ thăng lên. Như Giê-su đã diễn tả thật hùng hồn cách đây 2000 năm: “Chỉ duy nhất con người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng trở lại lên thiên đàng.”

Con muốn gì từ một mối quan hệ, từ mối quan hệ của con, mối quan hệ cá nhân của con với các chân sư thăng thiên? Con muốn gì? Không phải cái mà sa nhân muốn hay cái mà sa nhân muốn con muốn. Không phải cái mà người đời muốn hay cái mà họ muốn con muốn. Không phải cái mà tự ngã hay ngã tách biệt của con muốn hay cái mà nó muốn con muốn. Không, con muốn gì chứ? Ở mức tâm thức hiện thời của con, với mức nhận biết hiện thời của con, mức nối kết hay không nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, trải nghiệm hiện thời hay thiếu trải nghiệm của con về sự nhận biết thuần khiết, con muốn gì chứ? Con có muốn bước lên bực thang kế tiếp trên cái thang 144 bực? Nếu con muốn vậy thì cái cơ chế, cơ học của chuyện này thật giản dị. Ngay bây giờ con đang mang một ảo tưởng mà con không thể nhìn thấy. Chỉ bằng cách nhìn ra ảo tưởng đó và đón nhận một tầm nhìn cao hơn – cao hơn một chút thôi – thì con mới có thể vươn lên bước kế tiếp. Con không thể nhảy từ nơi con đang đứng lên thẳng tầng 144. Con phải đi qua tất cả mọi bước, từng bước một.

Con muốn gì chứ? Nếu con muốn sự tăng triển này thì con không thể nắm chặt vào các ý tưởng của mình. Con không thể nắm chặt vào ảo tưởng đã ngăn con vươn lên bước kế tiếp mà đồng thời lại vươn lên được bước kế tiếp. Con không thể ăn hết bánh mà lại vẫn còn bánh. Con không thể có được đức Phật của con mà lại thần tượng hóa đức Phật. Con không thể có được các chân sư thăng thiên của con mà lại phóng chiếu những đặc tính nhân phàm hay sa ngã lên chân sư thăng thiên. Đơn giản là có những thứ không thể đi đôi với nhau.

Các thày thấy có một số đệ tử không tin như vậy. Họ không chấp nhận điều đó, vì họ cả tin vào lời dối gạt của sa nhân rằng họ có thể tìm cách gian lận để lên thiên đàng. Một số sa nhân vẫn tin là chúng có thể tìm ra cách thay đổi quan điểm của Thượng đế vì chúng xem đó là quan điểm của Thượng đế, là sự phán xét của Thượng đế đối với chúng. Chúng nghĩ là ngài đã phán xét chúng, ngài đã cưỡng ép chúng phải sa ngã, và chúng phóng chiếu ra là một sinh thể bên ngoài đã gây chuyện đó cho chúng. Và do đó để quay trở về trạng thái cũ, chúng phải thay đổi sinh thể bên ngoài đó, phải thay đổi quan điểm cùng sự phán xét của sinh thể đó đối với chúng. Và chúng vẫn nghĩ là chúng có thể tìm ra cách làm chuyện này vì chúng vẫn chưa nhìn nhận là chính những chọn lựa của chúng mới khiến chúng sa ngã, và sự thay đổi duy nhất mà chúng cần làm là thay đổi các chọn lựa đó đi, thay đổi cái tâm lý đó đi.

Cho nên chính chúng mới cần thay đổi. Đây là một sự thay đổi nội tâm cần phải xảy ra, và không một nỗ lực gian lận hay khuynh đảo nào sẽ đem chúng lên thiên đàng. Và đối với các con cũng vậy, các đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể khuynh loát các thày, con không thể đánh lừa các thày, con không thể mặc cả với các thày. Con không thể khiến các thày thương hại con. Tại sao như thế? Vì các thày không muốn con lên thiên đàng trong tư cách một con người – nếu giả dụ điều này có thể xảy ra.

Các thày muốn con trở thành chân sư thăng thiên như các thày đang là, và con chiêm nghiệm sự tự do cùng niềm vui không sao tưởng tượng nổi mà các thày đang cảm thấy, vì nó vượt khỏi mọi cảm giác mà con có được trên địa cầu. Các thày không thể nào truyền đạt được cảm giác này cho con, chắc chắn là không thể qua ngôn từ. Nhưng các thày hy vọng có thể trao cho con một hé thoáng là trên cõi thăng thiên có một điều gì đó mà con mong muốn hơn bất cứ gì trong tâm thức nhân phàm. Và làm thế nào con đạt được chứ? Bằng cách từ bỏ tâm thức nhân phàm. Yêu cầu chỉ có vậy thôi. Các dính mắc đều đến từ tâm thức nhân phàm. Chúng phải được buông bỏ. Con thử nhìn xem con có đang bám giữ cái gì không. Đâu là cách duy nhất để giải thoát khỏi cái đó? Nếu con cứ nắm chặt một cái gì trên địa cầu thì con cũng buộc chặt con vào địa cầu. Đâu là cách duy nhất để được tự do? Có phải đó là thay đổi một cái gì trên địa cầu hay là đơn giản buông tay ra và để cho nó rơi xuống?

Chính sự buông tay này sẽ giải thoát con khỏi dính mắc. Chừng nào con còn nắm chặt ý tưởng của mình, làm sao con có thể thoát khỏi chúng đây? Điều này không thể. Cho dù con có tìm cách thao túng thế giới, thao túng người khác, Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đến chừng nào, thì con cũng không thể thoát ra được. Chỉ có một cách mà thôi, và để giúp con tìm đường trở về, các thày cống hiến cho con một mối quan hệ trực tiếp với các thày. Nhưng các thày không thể cưỡng ép con, các thày sẽ không cưỡng ép con. Con mới là người phải đáp ứng các yêu cầu bằng cách tiếp nhận lời dạy của các thày, đem ra áp dụng và buông những gì ngăn cách con với các thày.

Con không thể có một mối quan hệ trực tiếp với các thày xuyên qua tự ngã của con hay các ngã tách biệt, mà chỉ bằng cách vượt khỏi ngã tách biệt và ngộ ra sự nhận biết thuần khiết của con. Nhận biết thuần khiết là một tâm thái trung hòa. Nó không mang đặc tính những quan điểm kiên cố, quan điểm đối cực hay cảm xúc mãnh liệt. Ta là Phật. Ta trụ trong một tâm thái trung hòa so với tâm thái nhị nguyên. Đề mô tả nó đầy đủ, ta có thể dùng những từ khác, nhưng những từ này sẽ ích gì cho con? Ta sẽ mô tả là nó khác biệt với tâm thái của con để con có thể nhìn ra đây thực là cái con muốn. Trong số các con có ai là avatar thì đang mong mỏi trở về với tâm thái tự nhiên hơn mà con từng có trên một hành tinh tự nhiên. Và con có khả năng có được tâm thái này, con có thể có nó ngay trên hành tinh này nhưng chỉ khi nào con buông bỏ những gì đang ngăn cách con khỏi nó.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài truyền giảng này. Ta có thể nói nhiều hơn nữa, và rất nhiều điều hơn nữa sẽ được ban truyền. Sứ giả này đã nỗ lực tu tập trong một thời gian dài để sẵn sàng nhận được một lời dạy trực tiếp hơn từ ta, nó có thể sẽ được ban truyền trong một tương lai không quá xa. Ta có rất nhiều điều để trao cho con cùng những ai trên địa cầu cởi mở với một lời dạy trực tiếp từ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Giờ đây ta cũng gửi lời cảm tạ của ta cũng như tất cả các thày đến tất cả các con đã tham dự buổi hội nghị này. Một lần nữa, các thày đã đạt được những gì các thày mong muốn đạt được, các thày đã vượt quá mức tối thiểu mà các thày mong muốn đạt được, qua số người cùng sự sẵn lòng của các con mở tâm ra, buông bỏ định kiến để nhận được lời dạy.

Các thày rất biết ơn điều đó. Một lần nữa, nó đã xoay chuyển tâm thức tập thể, nó đã giải thoát nhiều người là những con người sáng tạo hơn, cởi mở với các ý tưởng mới về quan hệ. Và với thời gian, nó sẽ tỏa rộng giống như những vòng tròn trên mặt nước và thực sự mở ra khả năng càng ngày càng có nhiều người hòa điệu với mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Họ có khả năng mở tâm ra để thử nghiệm mối quan hệ này, và trải nghiệm một dạng quan hệ mới hơn và cao hơn không dựa trên vũ lực, mà dựa trên dòng chảy tự do của năng lượng sáng tạo của Thượng đế. Với lời này, ta biết ơn và niêm các con trong sự an bình hoan hỉ của đức Phật mà ta là.

Từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ cá nhân

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Mỹ quốc – Tiến tới Quan hệ Thời đại Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Nada, Thượng sư của Tia sáng thứ Sáu. Đặc tính của Tia thứ Sáu mà ta muốn đặt trọng tâm ở đây là sự an bình.

Nhiều người trong số các con nhìn vào các quan hệ của mình và có thể thấy được trong rất nhiều quan hệ, con không an bình. Trong quan hệ không có an bình. Nhiều người nhìn vào một số quan hệ cụ thể với những người khó tính và tự hỏi: “Liệu có bao giờ tôi sẽ được an bình trong quan hệ với người này hay không?” Chắc chắn điều này sẽ tùy thuộc vào câu hỏi, liệu con đang tìm an bình vỏ ngoài hay an bình nội tâm?

Thật vậy, có nhiều người mà con không thể đạt được an bình vỏ ngoài với họ, vì họ vẫn còn những phần tâm lý chưa giải quyết. Họ không sẵn lòng thay đổi tâm lý của họ. Họ không sẵn lòng khắc phục cái khuôn nếp cứ phóng ra ý tưởng con luôn luôn là người có lỗi, và họ không nhận trách nhiệm về bất cứ điều gì. Con không thể có an bình vỏ ngoài với những người như thế, có thể là cho tới hết kiếp này, hay ít ra hết kiếp này cho một trong hai người. Nhưng như các Thượng sư khác đã trình bày, cho dù người đó có làm gì đi nữa thì con vẫn có thể có được an bình nội tâm. Con có thể có an bình trong quan hệ của con. Nhưng con cần làm gì để đạt được kết quả đó?

Tất nhiên như các Thượng sư khác có nói, con cần nhận diện ra những cái ngã tách biệt đặc thù đã tước mất sự an bình của con bằng cách khiến con phản ứng lại người kia một cách không an bình. Cả hai đều có những cái ngã tách biệt đặc thù từ những kiếp trước, nơi con cảm thấy khi ai đó làm gì con thì con chỉ có thể phản ứng bằng một cách mà thôi, tức là một cách không an bình. Con yêu dấu, cách duy nhất để con gỉai quyết chuyện này là con tự hỏi: “Ai là kẻ cảm thấy không thể phản ứng an bình trong tình huống này? Phải chăng đó là cái Ta Biết hay một ngã tách biệt?”

Các chân sư đã nói gì về cái Ta Biết? Đó là sự nhận biết thuần khiết. Có nghĩa là gì? Chắc chắn đây là một khái niệm trừu tượng, nhưng trong cách diễn giải trần trụi và thẳng thừng nhất, nó có nghĩa là cái Ta Biết không có cảm xúc. Con thử suy nghĩ câu này. Cái Ta Biết không có cảm xúc, ít ra là những cảm xúc trong quan niệm thường tình của con người. Chúng ta có thể nói cho câu trên nhẹ bớt và bảo rằng cái Ta Biết không có cảm xúc xuất phát từ sợ hãi. Nhưng điều này cũng không hẳn chính xác. Tuy vậy, chúng ta cứ dùng tạm xem sao.

Những cảm xúc phổ biến nhất mà con thấy nơi con người là cái mà chúng tôi gọi là cảm xúc phát xuất từ sợ hãi. Nhiều người trong các con sẽ nói: “Nhưng khi người ta giận dữ, họ đâu có vẻ gì là sợ hãi? Vì nếu thật sự họ sợ hãi thì tại sao họ lại hung hãn đến thế?” Thực tế là họ hung hãn chính là vì họ sợ hãi. Hầu kìm nén nỗi sợ của mình, họ khoác lấy cái tư thế nóng giận hung hăng kia để hung hăng khiến con phải khuất phục họ, để cố kềm giữ nỗi sợ của họ. Những kẻ hung hãn nhất thực sự cũng là những kẻ sợ hãi nhất.

Cái mà con thường gọi là cảm xúc con người – tất cả – đều dựa trên sợ hãi. Kỳ thực, cái mà nhiều người gọi là tình yêu, như các thày đã giảng, là một trò chơi kiểm soát lẫn nhau, và nó cũng dựa trên sợ hãi. Tự ngã người đó sợ đánh mất cảm giác nó làm chủ tình hình. Do đó, nó sử dụng tình yêu như một phương thức để khuynh loát, để khiến người kia phải phục tùng mình, hầu tự ngã cảm thấy nó vẫn nắm quyền kiểm soát và không bị đe dọa.

Rất nhiều cảm xúc mà người ta có như vậy phát xuất từ lòng sợ hãi. Nhưng vì cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, nó không thể cảm thấy sợ hãi. Cái Ta Biết không bao giờ có thể sợ hãi bất cứ điều gì. Chỉ một cái ngã tách biệt mới có thể sợ hãi. Tại sao vậy? Bởi vì cái Ta Biết, khi nó hòa điệu với con người mà nó là, với cái mà nó là, biết rằng nó không thể chết. Nó là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, mà Hiện diện TA LÀ thì là một sinh thể bất tử. Cái Ta Biết không thể chết. Con không thể chết. Nhưng ngã tách biệt biết rõ nó có thể chết, và nó sợ chết.

Khi con bắt đầu vật lộn với những khái niệm trên, mặc dù chúng có thể trừu tượng lúc ban đầu, nhưng con có thể đạt tới điểm khi con khởi sự trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết đó, ý niệm vượt khỏi sợ hãi đó, sự gia tốc đó, cảm giác im lặng hay an bình nội tâm đó. Và nó cho con một tầm nhìn khác hẳn, có thể là về mọi thứ trong cuộc sống, nhưng chắc chắn là về mọi thứ trong tâm lý của con cũng như trong các quan hệ của con.

Bây giờ giả dụ con đang có một mối quan hệ khó khăn với một người nào đó. Con phần nào e ngại nói năng một cách thoải mái với họ vì đã quá nhiều lần con gặp phải phản ứng tiêu cực của họ. Điều này có nghĩa là đối với con, họ đã đạt được một vị thế nào đó trong tâm con. Theo một nghĩa nào đó, con sợ họ. Và qua lòng sợ hãi đối với họ, con đã gán cho họ một tầm quan trọng nào đó. Người kia chiếm giữ một địa vị, và một phần lượng chú ý của con bị kéo hút về phía họ. Giống như là trong tâm con, người kia đã nhận được một ngôi vị lớn hơn thực tế. Điều này có nghĩa là gì? Rốt cuộc ra, nó có nghĩa là con có một số ngã tách biệt đang nhìn người đó một cách đặc biệt nào đó.

Hẳn một số trong các con đã nhìn thấy điều này nhiều năm trước đây, khi sứ giả này có đưa cho con xem một hình vẽ minh họa các trung tâm thần kinh trên cơ thể vật lý con người. Và hình vẽ cho thấy một số bộ phận trong cơ thể có nhiều dây thần kinh hơn và do đó nhạy cảm hơn. Và các bộ phận này được vẽ lớn hơn bình thường, lớn hơn kích thước vật lý của chúng. Nói cách khác, chẳng hạn cái lưỡi có rất nhiều thụ quan cảm giác, nên nó được vẽ lớn hơn cánh tay, vì trên cánh tay không có nhiều thụ quan thần kinh bằng.

Nếu con nhìn vào tâm lý, nhìn vào tâm tiềm thức của mình, con sẽ thấy người khó tính kia hiện hữu ở đó, là người mà con có quan hệ khó khăn. Và trong tâm con, họ to lớn hơn hẳn kích thước vật lý thật của họ. Có thể là trong vòng quen biết của con, có một người nào đó hiện ra to lớn hơn mọi người khác. Điều này cho thấy là người này vô cùng quan trọng đối với con. Con phải lắng nghe họ nói gì. Có lẽ họ có ảnh hưởng lớn trên con, hay có lẽ đơn giản là con chỉ sợ nói chuyện thoải mái với họ. Làm thế nào con đối phó với sự thể này đây?

Đúng vậy, bằng cùng phương thức mà con dùng để khắc phục nỗi sợ bóng tối. Con phải lên tiếng và nhận ra là việc lên tiếng sẽ không giết con chết. Nhưng để có thể làm vậy, con hãy tự giúp mình và khiến cho công việc mình nhẹ nhàng hơn bằng cách giảm thiểu kích thước của người đó trong tâm con. Để mượn một thành ngữ quen thuộc, con có thể đặt họ lại đúng vị thế, để họ không quá to lớn trong tâm con và vượt khỏi kích thước bình thường của họ. Làm thế nào con làm được chuyện này? Con phải nhìn tình huống từ một góc độ khác. Con phải điều chỉnh lại tỷ lệ, vì con đang nhìn họ và tầm quan trọng của họ với một con mắt bóp méo tầm vóc thật của họ.

Gần đây, sứ giả này vừa làm một chuyện mà cả đời ông chưa từng làm. Ông ngủ ngoài trời dưới những vì sao. Ông đã từng ngủ trong lều, nhưng ông chưa bao giờ ngủ mà không có gì che chắn bầu trời. Và ông nằm ngửa ở đó trong một tư thế thoải mái, nhìn thẳng lên trời ngắm dải ngân hà. Tất nhiên là ông vẫn biết, và cũng đã từng trải nghiệm nhiều lần, rằng mọi thứ trên địa cầu không có tầm quan trọng tối hậu nào. Nhưng khi ông ngẩng mặt nhìn lên khoảng mênh mông của dải ngân hà, và ngắm xem có bao nhiêu tinh tú trên trời, ngắm xem chúng xa xôi đến chừng nào, vũ trụ vĩ đại đến chừng nào, và trái đất nhỏ nhoi đến chừng nào, thì ông nghiệm ra là thật sự, trên địa cầu chẳng có gì là quan trọng lắm đâu so với vũ trụ bát ngát đó. Điều gì trong tình cảnh cá nhân của mình có thể thực sự quan trọng trong khoảng vũ trụ rộng lớn đó?

Và ông ngộ ra là so với vũ trụ rộng ngút ngàn, tất cả mấy chuyện cá nhân mà mình phải kinh qua trong cuộc sống trên trái đất thật sự không thể quan trọng lắm. Chúng không thể quan trọng như tầm vóc mà chúng hiện ra trong tâm mình. Nhưng ai đã khiến cho chúng trở nên quan trọng đến thế? Có phải là cái Ta Biết? Không, bởi vì chính cái Ta Biết vừa trải nghiệm sự kinh ngạc kỳ diệu trước vũ trụ vô biên. Vậy thì cái gì đã khiến cho mấy chuyện kia quan trọng? Chỉ có thể là một cái ngã tách biệt.

Hiển nhiên, sứ giả này đã nhiều lần, đặc biệt là khi ông nhận bài truyền đọc, trải nghiệm được tâm của các chân sư thăng thiên. Ông trải nghiệm được sự khác biệt to lớn so với cái nhìn của mình trong kiếp đầu thai. Và so với tầm nhìn của chân sư, ông trải nghiệm được tầm nhìn của mình trong tư cách một con người hiện thân thật sư không quan trọng lắm đâu. Và tất nhiên, điều này đã giúp ông có đủ uy lực để có một tầm nhìn khác hẳn về chính đời mình cũng như những gì mình trải nghiệm trong cuộc sống. Điều này không có nghĩa là ông không còn quan tâm, mà có nghĩa là ông không rơi vào ám ảnh cho rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng cực kỳ quan trọng.

Nói cách khác, ta đang nói về cái gì đó? Ta đang nói về một tiến trình mà tất cả các con đều có thể đi qua. Ta không đang tìm cách tâng bốc sứ giả này, mà chỉ dùng ông ta như là một ví dụ về những gì tất cả các con đều có thể thực hiện. Và đó là tiến trình buông bỏ ý thức cá nhân trong các mối quan hệ cá nhân của mình, hay thậm chí bỏ cả ý thức cá nhân trong đời sống cá nhân của mình.

Làm thế nào con có thể đạt được an bình trong mối quan hệ với một người bất an nếu con không bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ đó, hầu con không còn xem những gì họ nói hay làm nhắm vào cá nhân con? Tất nhiên, người kia sẽ coi đó là chuyện cá nhân. Nhưng con yêu dấu, có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu có ai xem điều con nói và làm là những chuyện nhắm vào cá nhân họ, thì con cũng phải hành xử tương tự như họ? Có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu họ nóng giận với con, thì con phải cảm thấy bực bội? Rằng con phải phản ứng lại? Rằng con phải xem đó là chuyện hệ trọng, rồi con cho là con cần phải làm gì đó để họ khuây khỏa? Có định luật tự nhiên nào phán như vậy? Không. Thế có định luật tâm linh, vũ trụ nào phán như vậy? Cũng không.

Vậy thì nó đến từ đâu? Nó đến từ các sa nhân, chúng muốn con cảm thấy con phải phản ứng lại chúng. Con phải xem chúng là hệ trọng. Con phải xem những gì chúng làm hay nói về con là nhắm vào cá nhân con, vì khi con coi đó là chuyện cá nhân thì chúng sẽ kiểm soát được con. Vì khi con coi đó là chuyện cá nhân, con trao cho nó một tầm quan trọng trong tâm con.

Điều tồi tệ nhất mà con có thể làm đối với một sa nhân là con hoàn toàn an bình cho dù chúng có nói hay làm gì, hoàn toàn không dính mắc, hoàn toàn vô phản ứng. Chúng không thể chịu nổi khi chúng bị phớt lờ. Chúng không thể chịu đựng được những ai không nghĩ là chúng quan trọng. Chúng không thể chịu đựng được khi chúng không nhận được sự chú ý mà chúng thèm khát hơn hầu hết mọi thứ khác. Hiện đang có một con quái vật tập thể vô cùng dũng mãnh phóng chiếu vào mọi người ý tưởng là con phải xem người khác là chuyện cá nhân. Khi con bắt đầu khắc phục được nó, rất có thể là sẽ có những người trách cứ con là con không quan tâm đến họ. Rằng con không thương họ. Rằng con không xem họ là hệ trọng. Vì họ cảm được là họ không còn quyền kiểm soát mà họ vẫn có trên con. Chuyện này, con cũng không được dính mắc. Và con làm vậy bằng cách, một lần nữa, chú tâm vào câu: “Điều gì mới thực sự quan trọng cho tôi? Tôi là ai? Tôi là một sinh thể tâm linh. Tôi là một học trò tâm linh. Tôi là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Tôi nỗ lực hội đủ mọi điều kiện để thăng thiên. So với việc thăng thiên của tôi, liệu còn gì trên địa cầu quan trọng nữa không?”

Phải, ngay bây giờ con chưa ở tầng tâm thức 144, cho nên có thể có một số điều còn quan trọng đối với con vì con chưa sẵn sàng thăng thiên. Và do đó, ngay bây giờ có thể có những điều quan trọng hơn là việc thăng thiên. Nhưng nói cho cùng, không thể có gì trên trái đất quan trọng hơn việc thăng thiên của con đối với con. Bởi vì nếu có, thì con không thể thăng thiên. Một lần nữa, con cần ngoái lại nhìn địa cầu một lần chót đi. Và nếu có điều gì trên địa cầu quan trọng hơn là được bước qua cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên, thì hiển nhiên con không thể bước qua cổng đó. Con phải trở lại địa cầu và trải nghiệm những gì quan trọng đối với con cho tới khi nó hết còn quan trọng nữa.

Con có thể nói, như các chân sư cũng đã từng nói, rằng làm thế nào con vươn từ tầng tâm thức này lên tầng kế tiếp? Đúng, bằng cách vượt qua ảo tưởng mà con đang có. Nhưng con cũng có thể nói là con đã nhìn ra những gì trước kia quan trọng ở tầng đó, nhưng bây giờ chúng không còn quan trọng nữa. Và vì vậy, con vươn lên tầng kế tiếp là nơi có điều gì khác quan trọng hơn. Và sau một thời gian, con lại thấy chính cái này cũng hết quan trọng, và con bước lên tầng cao hơn nữa. Và cứ như vậy khi con đạt đến tầng 144, thì không còn gì trên địa cầu quan trọng đối với con nữa. Bấy giờ, điều quan trọng là con bước qua cánh cổng đó để nhập vào cõi thăng thiên.

Nhưng ngay cả trước khi con tới được tầng 144, con có thể sử dụng một cách ý thức những ý tưởng mà ta vừa trao cho con. Con có khả năng bỏ đi ý thức cá nhân trong đời con. Và con có khả năng đạt tới điểm khi con có sự an bình nội tâm về các mối quan hệ của mình. Cho dù người kia có bất an đi nữa, con vẫn có thể an bình. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là đối với một avatar, đây là thử thách tối hậu. Bởi vì như chúng tôi đã giảng, đã có một thời điểm khi sa nhân được phép đầu thai trên địa cầu và một số avatar đã tình nguyện hiện thân trên trái đất để cầm giữ thế cân bằng, hầu sa nhân không thể chiếm hữu và tàn phá địa cầu.

Điều này có nghĩa là với tư cách một avatar, con đã gặp gỡ sa nhân trong những kiếp trước, rất có thể là ngay kiếp đầu thai đầu tiên của con. Và do đó theo một nghĩa nào đó, các sa nhân biểu tượng cho thử thách chủ yếu của con trên mặt quan hệ, vì chúng chính là những kẻ đã hung hăng tìm cách tiêu diệt con. Thử thách tối hậu của con là con quan hệ thế nào với sa nhân.

Và thử thách thực sự là giờ đây con đã tới một điểm khi con có thể đối mặt với sa nhân, và cho dù chúng có làm gì hay nói gì, dù chúng có ném gì vào con rồi đổ lỗi cho con, thì con vẫn hoàn toàn bình an. Con không có mong muốn thay đổi chúng. Con không có mong muốn tự biện hộ, chứng minh là chúng sai trái hay chứng minh là con đúng và rốt cuộc con là người có lý.

Và con có thể trau dồi sự an bình nội tâm đó, không từ giây phút này tới giây phút khác, mà con thực sự trau dồi nó. Và con sẽ thấy khi con đạt được an bình nội tâm phi cá nhân đó, tất cả mọi quan hệ của con sẽ đều hưởng lợi. Khi con đến được điểm này của an bình nội tâm, con sẽ có những quan hệ xây dựng hơn hẳn, hài hòa hơn hẳn, vì giờ đây, không còn gì mà con muốn từ người khác sẽ khiến con muốn ép buộc họ nữa. Và cũng không có gì mà con cảm thấy phải làm sẽ khiến cho người khác có thể ép buộc được con. Điều con đã thực hiện được qua an bình nội tâm là con đã lấy vũ lực ra khỏi các mối quan hệ của con.

Ta nghĩ hầu hết các con đều mường tượng được thế nào là một quan hệ không dựa trên vũ lực. Có lẽ con đã kinh nghiệm được điều này với một số người, những bạn thân của con, khi không có bất kỳ ý muốn nào để ép buộc lẫn nhau. Các con chỉ vui hưởng tình bạn bè với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Và quan hệ này, con cũng có thể có với nhiều người khác – không phải với tất cả, nhưng khi đó thì hoặc con có thể tiếp tục mối quan hệ với những người khó tính đó vì họ không còn quấy rầy an bình nội tâm của con nữa, cho nên quan hệ với họ có vấn đề gì đâu? Hoặc đơn giản là con sẽ trôi xa khỏi họ, con quyết định là con sẽ không dành thời gian cùng sự chú ý cho họ, và như vậy con bước lên một mức phụng sự cao hơn. Tất nhiên, Tia sáng thứ Sáu cũng là tia sáng của phụng sự. Nhưng con phải cần gì để cống hiến phụng sự tối hậu? Con cần một tâm lý đã phần nào được giải tỏa, bởi vì phụng sự tối hậu không dựa trên vũ lực. Và nếu không dựa trên vũ lực thì nó dựa trên gì? Nó dựa trên an bình.

Nhiều người trong số các con khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, đã quyết định tự đặt mình vào những mối quan hệ khó khăn vào tuổi thơ ấu và tuổi mới trưởng thành, với mục đích cụ thể là giải quyết tâm lý mình càng nhanh càng tốt hầu còn được tự do phụng sự sau này trong đời. “Sau này trong đời” là một cách nói uyển chuyển. Ta không muốn con cảm thấy mình đáng trách nếu mình đã đứng tuổi mà vẫn chưa đạt được sự an bình mà mình mong muốn. Ta không trao cho con những lời dạy này để con tự trách móc.

Ta ban cho con lời dạy này để giúp con nhận ra là con có khả năng vươn lên một mức độ an bình cho phép con khởi đầu phụng sự dựa trên an bình. Và điều này sẽ đem lại thỏa nguyện cho con nhiều hơn hẳn so với những việc con đã làm cho tới nay, vì trước đây có thể con đã tự ép mình phải phuc vụ vì con coi đó là bổn phận phải làm. Và có thể con cũng nhận ra là con đã tự ép mình vào những quan hệ với một số người vì con cảm thấy đó là điều cần làm vì lý do nào đó.

Nhưng sẽ tới một điểm khi con đã từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ của mình, khi con nhận ra là con không bị ép buộc phải quan hệ với bất cứ ai. Con không có bổn phận phải ở lại trong quan hệ với bất cứ ai. Có thể con đã chọn tự đặt mình vào một gia đình, một số người thân. Con đã chọn lựa như thế và tất nhiên, con nên nỗ lực học hỏi bài học mà con mong muốn học hỏi từ những người đó. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cảm thấy đã học xong bài học, con đã đạt được một an bình nội tâm nào đó, và con có thể tự do chọn lựa: “Liệu tôi có muốn tiếp tục quan hệ này hay không khi tôi không còn cảm thấy tôi phải ở lại trong quan hệ đó?”

Có thể nói, an bình đích thực có nghĩa là con không còn những chữ “phải” trong tâm thức của con nữa. Bây giờ chỉ là chuyện con muốn gì, con thực sự muốn gì. Và chủ đề này, ta sẽ nhường lại cho bài giảng của thày Saint Germain vì nó gần hơn với ngọn lửa tự do của thày.

Với câu này, ta niêm con trong ngọn lửa an bình sống động nồng nhiệt. Bởi vì đây không phải là an bình thụ động. Đây là an bình sống động mà ta là. TA LÀ Nada.

Con đang chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2020.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Địa cầu là gì? Địa cầu là gì? Địa cầu, tất nhiên, có thể mô tả bằng nhiều cách, nhưng một cách là coi địa cầu là một cuộc trình diễn như khi con đi xem phim hay xem kịch vậy. Nhiều người thời nay có internet, có truyền hình và phim ảnh, hiếm khi nào đi xem một vở kịch biểu diễn sống, và một số bạn trẻ thì chưa bao giở. Trong số các con nếu đã đi xem kịch nghệ đều biết rằng có những lúc diễn tiến vở kịch thay đổi đột ngột, có biến chuyển bất thần xảy ra trên sân khấu và bỗng nhiên con nghe thấy khắp cử tọa ồ lên một tiếng vì mọi người đều phản ứng đồng loạt với nhau.

Điều này cho con thấy tất cả khán giả đều bị lôi cuốn vào vở kịch đến độ họ quên bẵng mất là chỉ trước đó không lâu, họ đã sửa sọan ở nhà, tắm gội sạch sẽ, cạo râu chải đầu, mặc quần áo, lái xe đến rạp hát, đậu xe bước vào, đưa áo choàng cho người ta giữ, ngồi vào ghế, nhìn quanh xem có ai cũng đang đi xem kịch như mình, và vẫn tiếp tục lo nghĩ đến những công chuyện khác trong ngày. Nhưng khi vở kịch bắt đầu, mặc dù họ biết mọi diễn biến trên sân khấu đều là giả bộ, rằng đó chỉ là một câu chuyện gì đó do một kịch gia nào đó viết ra có thể là hàng trăm năm trước – họ vẫn từ từ bị lôi cuốn vào, rồi họ dồn hết tập trung tâm trí vào buổi trình diễn đến nỗi họ quên mất tất cả mọi chuyện khác. Họ quên hẳn lý do nào đã khiến họ vào đây ngồi, quên hẳn cuộc đời của họ ở ngoài rạp, và bây giờ họ bị cuốn hút vào những gì xảy ra trên sân khấu, và đó là lý do tại sao khi có biến chuyển ly kỳ trong vở kịch, họ đều phản ứng đồng loạt như thể một người.   

Con yêu dấu, đó là địa cầu đấy con. Ở khởi thủy, tất cả các con đều biết mình bước vào nơi đâu, tại sao các con bước vào đây để làm gì, các con biết rõ đây chỉ là cái máy giả thực tại, như ta đã từng gọi là như thế. Nếu con nhìn hành tinh hôm nay, con sẽ thấy là hầu hết mọi người, tuyệt đại đa số mọi người, đều giống như những khán giả kia ngồi trong rạp hát, quên hẳn họ đến từ đâu, quên hẳn là có một thế giới khác ở ngoài rạp hát. Họ quên mất là đang có những sự kiện khác đang xảy ra, rằng điều mà họ theo dõi chỉ là một câu chuyện đang biểu hiện ra trên sân khấu. Họ đã bị cuốn hút vào vở kịch, vào buổi trình diễn. Thay vì xem buổi trình diễn là một cái gì có thể giúp họ thăng tiến trong hiểu biết và chuyển vọt tâm thức mình, thì họ xem đó là sự thực, là thế giới thực, và mọi diễn biến trên sân khấu là những sự cố có thực.

Phải, ta biết là khi ta nói như vậy, và dĩ nhiên là ta cố tình nói vậy, nhiều người trong số các con sẽ có phản ứng. Họ sẽ nói, “Thày bảo con là thế gian không có thật, nhưng hàng triệu người đã bị nhiễm vi-rút corona trong năm vừa qua, nhiều người đã chết, không lẽ tất cả đều không thực hay sao?” Dĩ nhiên là không phải vậy! Khi con trong rạp hát, đó là một sân khấu, và trên sân khấu có người ta. Những người này đều thực. Họ có thể đang mặc trang phục trình diễn và hóa trang, nhưng họ là những người thực đang đóng một vở kịch.

Khi ta bảo những người kia đã quên là nó không thực, ta muốn nói họ đã quên là họ không phải là những con người, mà là sinh thể tâm linh. Các con hiện diện ở đây để trải nghiệm một cuộc trình diễn đang được biểu hiện trên địa cầu. Những gì xảy ra trên hành tinh có thể thực từ một góc cạnh nào đó, nhưng con không là một con người, con là một sinh thể tâm linh, con đang ở đây để có một trải nghiệm hầu chuyển đổi tâm thức mình. Tất cả mọi thứ xảy ra trên địa cầu chỉ là chuyện xoay chuyển tâm thức của con.

Khi Shakespeare ngồi vào bàn viết kịch, ông không có ý muốn giải trí người ta đâu. Ý của ông là xoay chuyển tâm thức người xem. Ông không đang tìm cách khiến cho người ta tin là có một Hoàng tử xứ Đan Mạch tên là Hamlet vì ông thừa biết là không bao giờ có người này. Ông chỉ muốn dẫn cử tọa qua một cốt truyện có khả năng chuyển đổi tâm thức của họ, và trái đất này cũng thế, trái đất chỉ là vậy thôi. Ta biết, điều này nghe có vẻ vô cảm khi nhiều người coi năm 2020 vừa qua là một năm đầy khó khăn.

Đương nhiên là năm qua đã vô cùng khó khăn cho nhiều người – các thày đâu có đui mù. Nhưng có điều, cái gì đây sẽ làm giảm bớt nỗi khó khăn của mọi người? Cái gì sẽ giúp cho mọi người đương đầu dễ dàng hơn? Có phải chỉ là chuyện an ủi và nói với họ là năm rồi quả là một năm tồi tệ? Hay là phải cho họ một góc nhìn khác? Vì các thày là chân sư thăng thiên, vai trò của các thày là gì? Vai trò các thày là cho mọi người một góc nhìn khác, đó là lý do duy nhất mà các thày có mặt trên hành tinh này. Các thày có mặt ở đây là để nhắc nhở mọi người rằng mặc dù các con sinh sống trên hành tinh trái đất, mặc dù các con đều có một xác thân vật lý bị tổn thương do những gì đang xảy ra, nhưng các con không thể bị định nghĩa bởi cõi vật chất, bởi xác thân vật lý, bởi ngoại tâm của con. Con là nhiều hơn tất cả những thứ đó.     

Điều này thực sự có nghĩa là gì? Thực sự có nghĩa là trong bản chất, con là cái mà ta gọi là tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cho con vượt lên trên những trải nghiệm vỏ ngoài. Đâu là cốt lõi của tiềm năng này? Là cái phần của tâm con mà ta gọi là cái Ta Biết, hoặc con có thể gọi bằng bất kỳ tên nào con muốn, nhưng trong tâm con có một thành phần cho con cái khả năng, cho con quyền năng dừng lại và nói: “Tất cả những ý tưởng quấy phá đó, hãy ngừng lại.”  

  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình trạng ngoại cảnh trên địa cầu.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình cảnh của riêng tôi.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi xác thân tôi và mọi điều làm nó tổn thương.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi cảm thể của tôi và mọi rối loạn ở đó.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi trí thể của tôi và mọi ý tưởng về những điều tôi phải nghĩ, phải hiểu, phải biết.

Tôi sẽ lùi ra khỏi bản sắc thể của tôi và mọi xu hướng tự xem mình là một con người do ngoại cảnh định đoạt.

Tôi sẽ lùi ra cho tới khi tôi chiêm nghiệm – tôi kết nối được với cái phần của chính tôi, Hiện diện TA LÀ của tôi, cái ta tâm linh của tôi, là phần biết rõ và chưa bao giờ quên là nó không do trái đất này định đoạt.

Đây là bản chất nhân bản cốt yếu của con, cái thực chất nhân bản mà qua đó con có thể lùi lại một bước, có thể kết nối, có thể chiêm nghiệm rằng:

  • Tôi là nhiều hơn thế này.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trên địa cầu.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trong xác thân tôi.
  • Tôi là nhiều hơn sự rối loạn trong cảm thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn những ý tưởng trong trí thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn ý niệm bản sắc vỏ ngoài hay bản sắc làm người của tôi.
  • Ta là.

Và con không cần thêm bất cứ gì sau hai chữ “ta là”. Con có thể chứng nghiệm TA LÀ. Tôi có cái là. Tôi có nhận biết. Tôi có tự nhận biết.

Tự nhận biết có nghĩa là gì? Đối với rất nhiều người, nó có nghĩa là tôi nhận biết rằng tôi hiện hữu trong bản sắc này, rằng tôi có những ý tưởng này đang chạy trong tâm tôi, những cảm xúc mà tôi cảm thấy, thân xác mà tôi đang có, tình huống ngoại cảnh mà tôi đang trải. Đó là sự tự nhận biết của tôi. Tôi là một con người đang đau khổ trên địa cầu, đó là sự tự nhận biết của tôi. Nhưng sự tự nhận biết thực sự, cốt lõi của tự nhận biết, chỉ đơn giản là “ta là”. Tôi ý thức. Tôi nhận biết.    

Triết gia René Descartes nổi tiếng với lời nhận định: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhiều người đã hiểu lầm câu này của ông. Ông chỉ muốn nói là ông đã nhìn vào tất cả mọi thứ mà ông có thể đặt vấn đề hay xem là giả trá, thì chỉ có một điều mà ông không thể chối cãi được, đó là ông có sự suy nghĩ. Nhưng thực sự đây không phải là sự suy nghĩ trong ý nghĩa một sinh hoạt của trí thể. Điều ông ngộ ra là điều duy nhất mà ông không thể chối cãi là sự kiện ông đang ý thức, ông đang nhận biết. Đó là điều duy nhất ông không thể chối cãi. Đó cũng là điều duy nhất mà con có thể nối kết để nhận ra rằng con không chỉ là ngoại vật. Khi con lùi về khỏi ngoại cảnh và chiêm nghiệm con là sự nhận thức, sự hiện diện, sự chiêm nghiệm, sự nhận biết, thì con không còn bị lôi cuốn vào vở kịch đang diễn ra trên sân khấu, sân khấu của thế gian. Con không còn tự đồng hóa với nó nữa. Con không còn bị nó định nghĩa là gì.

Thế nào là một con người? Trong cốt lõi, là cái này đây, là ta là, tôi đang nhận biết, tôi đang nhận biết rằng tôi là cái gì đang là. Trong cốt lõi của nhận biết, không cần thêm bất cứ gì khác, ít ra là không cần thêm bất cứ gì khác của điạ cầu bởi vì con không là tất cả những ngoại vật đó trên địa cầu. Tất nhiên hầu hết mọi người đều không nhận thấy như vậy, họ nghĩ họ là ngoại vật. Nhưng tính nhân bản cốt yếu có nghĩa là con có thể đứng riêng ra và chiêm nghiệm mình là nhiều hơn những ngoại vật, rằng chúng không thể định nghĩa được mình là ai. Khi con chiêm nghiệm điều này, đó là chiêm nghiệm thực. Và con biết là vở tuồng đang diễn ra trên sân khấu không thực được như thế.

Nhưng ngay giây phút con bước ra khỏi kinh nghiệm “ta là” đó và bước vào bản sắc vỏ ngoài của con, vào trí thể, cảm thể cùng xác thể của con, thì lập tức những gì con kinh nghiệm qua bốn thể phàm này sẽ có vẻ là thực đối với con. Chính điều này cho con cảm giác thực tế. Mọi lời dạy của các thày muốn hướng con về đâu? Hướng con về sự chứng nghiệm này đây, rằng có một thực tại vượt khỏi cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể phàm. Có một sự cảm nhận thực tại lớn hơn cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể. Do đó con không bị định hình bởi trải nghiệm của con trong bốn thể. Con tự định mình khi con là cái mà con là, khi con kết nối với cảm nhận “ta là”.  

Đây là điều đã giúp ta vượt qua thử thách khi đương đầu với quỷ Mara. Hẳn con cũng biết câu chuyện được kể lại trong đạo Phật rằng khi ta sẵn sàng nhập Niết bàn, ta đang ngồi thiền dưới cây bồ đề. Tất cả những con quỷ của Mara diễn hành trước mặt ta để lôi kéo ta nhập vào với chúng. Chúng đang diễn một vở tuồng và muốn ta bị cuốn hút vào đó, muốn ta tin rằng vở tuồng có một thực thể nào đó, có quyền lực nào đó trên ta, có quyền lực nào đó trên thế gian, có quyền lực nào đó trên người khác.       

Làm thế nào ta vượt qua được thử thách? Bằng cách nối kết với chứng nghiệm TA LÀ. Khi không có chữ nào đi theo sau hai chữ TA LÀ thì không có gì mà quỷ Mara có thể giao tiếp được. Như Giê-su đã diễn tả: “Không có gì trong ta mà ông hoàng của thế gian có thể nắm lấy.” Cho nên đây là cốt lõi giáo lý của ta. Tất cả mọi điều mà ta đã dạy con chỉ có một mục đích dẫn con đến điểm này mà thôi. Những lời này không chỉ là lý thuyết. Đây không phải là một giáo lý công truyền mà con có thể hiểu được bằng lý trí mà là một điều con phải chiêm nghiệm. Hầu hết các con đã chiêm nghiệm được rồi, một số đã chiêm nghiệm mà không ý thức, nhưng nhiều người trong số các con đã có chiêm nghiệm.  

Một khi con đã chiêm nghiệm được thực tại đó, con có thể sử dụng nó, bồi đắp nó, con có thể dùng các dụng cụ tu tập của các thày nhằm giải quyết những chấn thương sâu xa, đi ngược trở về chấn thương đầu tiên, và ngay cả trước đó nữa khi con là avatar giáng thế từ hành tinh khác. Và con có thể đạt tới một điểm khi bất kể chuyện gì xảy ra trên địa cầu, bất kể việc gì con đang làm, con cũng nhận biết liên tục rằng con là nhiều hơn thế, rằng con đang (phần nào) chứng kiến những gì đang diễn ra thay vì phải đứng ngay giữa cơn bão lốc. Hoặc ít nhất, con cũng nhận biết rõ rằng con có thể, bất cứ lúc nào, dời chuyển vào trong sự nhận biết TA LÀ nơi con không còn hoàn toàn tập trung vào cơn bão nữa.

Con người là gì? Ta đã từng nói: “Theo một nghĩa nào đó, con người là sự chú tâm, là sự nhận biết rằng mình chọn cách mình tập trung. Có thể nói, vượt ngoài tất cả mọi thứ đang xảy ra chung quanh, con là sự tỉnh giác, là sự nhận biết. Một số người nhận biết rất hạn hẹp, một số người khác nhận biết rộng rãi hơn. Một số thì rất chú tâm vào chính mình, trong khi một số khác có sự nhận biết toàn cầu hơn. Nhưng bất kể nhận biết hẹp hay rộng, con là sự nhận biết. Chọn lựa căn bản của con, có thể nói là chọn lựa duy nhất mà con có thể có, là chọn đối tượng cho sự chú tâm của con. Nhiều năm trước, Saint Germain có nói: “Anh đó là nô lệ sự chú tâm của anh ta”, và tất nhiên câu này cũng áp dụng cả cho phái nữ.  

Cho nên vấn đề là như sau: con đang chú tâm vào điều gì? Một lần nữa trong thời buổi này, ta không có ý bảo con phải chú tâm vào điều gì đó. Đã có những thời trước đây, và ngay cả bây giờ trong số học trò của các chân sư, khi người ta hay nghĩ rằng thế giới này không có gì là tâm linh, và do đó con không được chú tâm vào những chuyện trần thế. Con phải rút sự tập trung ra khỏi những chuyện trần tục và đặt trọng tâm vào những chuyện tinh thần. Rất nhiều người ở mọi thời đã làm điều này, họ đã rút lui khỏi thế giới để sống ẩn dật nơi một tu viện, một cái am Phật giáo, một nhà tu Cơ đốc giáo, hay bất cứ một khung cảnh, môi trường nào được tạo ra để họ triệt thoái khỏi thế gian, và khi họ chú tâm học hỏi kinh sách, cầu nguyện và làm lễ và hát và tụng, thì họ nghĩ, “À, tôi thật là tâm linh vì tôi đang tập trung vào những chuyện này.”        

Nhưng con yêu dấu thấy đó, rất nhiều người trong số đó thật ra không khác gì người đời. Người đời có sẵn một ý tưởng nào đó trong đầu về cuộc sống, về họ phải làm gì hay không làm gì, và họ sống theo cái tâm ảnh đó. Những người tâm linh rút khỏi xã hội cũng có một tâm ảnh về cuộc sống mà họ muốn sống, chỉ khác là tâm ảnh của họ không giống người đời. Thành thử một bên, chúng ta có đa số mọi người sống theo một tâm ảnh trần tục, và bên kia một thiểu số sống theo một tâm ảnh mà họ nghĩ là tâm linh. Nhưng con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một tâm ảnh và tâm ảnh này sẽ giam giữ họ y như nó giam giữ người trần tục.

Thật không có bao nhiêu người, thời xưa cũng như thời nay, đã đạt được sự tinh tấn khi họ chỉ thay đổi tâm ảnh mà thôi, bởi vì tâm ảnh vẫn còn đó. Nếu con tập trung chú tâm của con đến độ con nghĩ: “Tôi là người thế này, tôi thật là tâm linh vì tôi đang làm tất cả những điều vỏ ngoài này” thì con đang làm gì? Con đang ban thêm sức mạnh cho tâm ảnh. Trong khi đó thì những người sống trong thế gian và tự đồng hóa với thế gian, khi họ trải qua một năm 2020 thật tồi tệ do dịch corona, thì họ làm gì? Họ cũng tăng thêm sức mạnh cho tâm ảnh của họ.     

Khi con chú tâm vào điều gì thì con tạo ra một luồng năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con hướng về tâm ảnh đó. Con củng cố tâm ảnh cho nó mạnh hơn, cả trong tâm con lẫn trong tâm tập thể. Con củng cố cấu trúc mà tâm ảnh này đã tạo ra. Con càng củng cố nó thì năng lượng sẽ hình thành một lực từ trường càng mạnh hơn để thu hút sự chú tâm của con. Con càng đặt chú tâm vào một đề tài nào thì càng có nhiều năng lượng xối vào đó. Càng nhiều năng lượng xối vào thì nó càng thu hút chú tâm của con, và tất cả trở thành một vòng xoáy triền miên, tự nó nuôi nó cho ngày càng lớn mạnh.    

Đó là lý do tại sao người ta đi xem kịch bị cuốn hút vào vở kịch và tưởng đó là thực. Tâm trí họ bị cuốn hút vào vòng xoáy mà chính họ đã tạo dựng, và song song cũng có sự tạo dựng tập thể đến độ nhiều người không thể gỡ mình ra do họ đã cho phép vòng xoáy cuốn tâm trí họ vào. Cũng vậy với nhiều người tự xem mình là tâm linh, họ đã tạo ra một vòng xoáy tuy có khác hầu hết người trần tục, nhưng vẫn kéo tâm trí họ vào một cách mãnh liệt. Giáo lý của ta chủ ý là gì và luôn luôn vẫn là gì? Giáo lý trong đợt truyền pháp này đã nói rõ ràng và rành mạch những gì? Rằng mục tiêu là để giúp con dời chuyển sự chú tâm của con khỏi tâm ảnh và chiêm nghiệm được “ta là”. “Tôi là nhiều hơn những tâm ảnh vỏ ngoài, nhiều hơn tâm ảnh mà tôi có về chính tôi và bốn thể phàm của tôi. Tôi nhiều hơn thế. Cho nên tôi không có nhu cầu bị lôi cuốn vào những gì đang xảy ra trên thế giới.”   

Ta đã có dịp giảng về khái niệm “giữ quân bình tâm linh”. Đã có những lời dạy đề cập đến khái niệm này, về một nhóm người tiến hóa cao độ trên dãy núi Himalaya mà chưa ai được gặp, chưa ai được nghe biết. Một số người đã có nghe về vị thày Babaji chưa thăng thiên, và một số khác nữa. Người ta bảo rằng các vị này cầm giữ quân bình tâm linh cho địa cầu. Giữ quân bình tâm linh nghĩa là gì? Là các vị ấy tập trung chú ý vào “là hơn nữa”. Mình biết mình là “hơn nữa”, và bằng cách duy trì một trạng thái tĩnh lặng toàn hảo, một nội tâm hoàn toàn an bình, mình có thể giữ được sự quân bình vì vẫn hiện thân trong xác thân vật lý. Tuy nhiên, mặc dù ta không muốn giảm bớt công sức phụng sự của những vị đó, điều mà ta mong muốn, và Saint Germain cũng mong muốn cho Thời Hoàng kim, là có thật nhiều người có khả năng giữ được quân bình tâm linh trong khi vẫn tích cực tham gia vào cuộc sống.   

Theo một nghĩa nào đó, việc giữ quăn bình sẽ dễ dàng hơn nếu con ngồi trong hang động và không bao giờ bị quấy rầy, bị thử thách. Và lẽ tự nhiên, sẽ khó giữ quân bình hơn nếu con sống một cuộc đời năng động. Nhưng con yêu dấu, điều sẽ thực sự hiệu quả, sẽ thực sự đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain nhanh chóng hơn, là có thật nhiều người sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, làm lụng những công việc mà họ thường làm, mà vẫn nhận biết rằng đây không phải là con người thực của mình. Nói cách khác, con ngồi trong rạp hát, con quan sát vở tuồng trên sân khấu, và thay vì hoàn toàn chú tâm vào sân khấu, con vẫn nhận biết rằng “tôi là nhiều hơn buổi trình diễn này”. Con tỉnh giác rằng mọi người khác trong rạp đều hoàn toàn bị cuốn hút vào vở kịch, nhưng con vẫn giữ được cái phần tỉnh giác nằm ngoài vở kịch. Con trải nghiệm vở kịch như là một vở kịch, chứ không như một cái gì thực, như hầu hết mọi người khác. Đó là cách con giữ sự quân bình tâm linh, là thái cực Omega cho những ai đang giữ thái cực Alpha khi họ rút lui khỏi xã hội.

Đây chính là điều đã thiếu sót từ hàng ngàn năm nay. Đã có những vị sống ẩn dật và giữ được quân bình tâm linh, nhưng chưa có những vị để cầm giữ thái cực Omega của những người có thể sống trong thế gian, ở trong thế gian nhưng lại không thuộc về thế gian. Điều này sẽ đem lại sự khác biệt lớn lao trong thời đại này, là thời đại mà chúng ta đang bước vào khi ngày càng có nhiều người đạt tới mức có thể nhìn thế giới và nói: “Tôi nhiều hơn thế này. Tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn hút vào cái đang cuốn hút người khác. Tôi không cần tham dự vào đó, nó sẽ nuốt hết sự chú ý của tôi, và cuối cùng tôi sẽ chỉ vứt thêm năng lượng mình vào để nuôi cho vòng xoáy kéo mình vào thêm.”   

Trên thực tế, con có thể đạt tới một điểm khi con biến nó thành một quyết định ý thức. “Tôi sẽ không để cho bất kỳ vòng xoáy tập thể nào lôi kéo bốn thể phàm của tôi”. Nhân tiện, đây cũng là một cách để nâng cao sức khỏe thể chất của con, khi con không để cho các vòng xoáy tập thể ảnh hưởng đến xác thể, hay cảm thể, trí thể, bản sắc thể. Con không bị kéo vào. Cho nên con có khả năng đứng ngoài các khuôn nếp phản ứng mà đa số người ta bị cuốn vào. Con có thể ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Con có thể ngồi dưới gốc cây bồ đề, nhìn bọn ma quỷ của Mara diễn hành trước mắt nhưng con không hề tham dự với chúng. Sau khi con để cho chúng làm trò chán chê, con sẽ đặt tay xuống mặt đất và nói: “Vajra, Vajra, Vajra, nay ta xác nhận quyền làm Ki-tô của ta, quyền làm Phật của ta trên địa cầu.”  

Đó là những gì ta mong muốn cho tất cả các con là học trò trực tiếp của các chân sư, để con khỏi bị lôi kéo. Các chân sư hoàn toàn không trách móc gì các con. Các thày hiểu rõ năm qua đã là một năm khó khăn. Các thày biết nhiều vòng xoáy tập thể to khủng khiếp đã được tạo ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Một phần là vì đại dịch corona, phần khác vì nền kinh tế, phần khác nữa vì một số điều kiện chính trị như cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Các thày hoàn toàn không muốn con buồn rầu về cách phản ứng của mình nếu chẳng may con đã bị lôi cuốn vào những vòng xoáy đó – đành chịu thôi. Nhưng con có cơ hội bước lùi lại, nối kết với cái TA LÀ, để con nhận ra rằng con là nhiều hơn thế, và có lẽ để con nhìn vào “điều gì trong bốn thể phàm của tôi đã khiến tôi bị cuốn hút”.    

Sau đó nếu con dùng cac dụng cụ tu tập để giải quyết chấn thương, con sẽ thấy là cuối cùng, tất cả đều liên quan đến cái chấn thương nhập đời vũ trụ, và cả những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra sau trải nghiệm nhập đời này. Con sẽ luôn luôn nhận thấy mỗi lần con bị lôi cuốn vào một phản ứng, thì y rằng sẽ có một cái ngã hiện diện, có khi nhiều hơn là một, nhưng tất cả những ngã này đều không thực. Chúng không thực trong ý nghĩa mà ta vừa mô tả. Chúng nằm trong bốn thể phàm của con – không nghi ngờ gì cả. Chúng có một sự hiện hữu nào đó vì chúng được tạo ra từ năng lượng, chúng dựa trên một tin tưởng nào đó của con và do đó đã trở thành như một sinh thể sống trong lòng bốn thể phàm của con, tương tự như một con thú sống trong nhà con vậy. Nhưng chúng không thực trong ý nghĩa là chúng không phải là con, và con không phải là chúng.

Khi con kết nối với nhận biết TA LÀ, Hiện diện TA LÀ, con có thể nhận ra: “À, đây chỉ là một cái ngã, đây không thực là tôi, tôi không là ngã đó. Hoàn toàn không phải là tôi. Chưa bao giờ nó là tôi. Trước kia tôi tưởng nó là tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy nó chỉ là một cái ngã. Tôi thấy nó hạn chế tôi. Tôi thấy nó bắt nguồn từ một tin tưởng nào đó mà bây giờ tôi không chấp nhận nữa.” Và điều này đưa con đến một điểm khi con có, không phải một quyết định vỏ ngoài của ngoại tâm, mà một sự giải tỏa tự phát: “À, tôi sẽ để cho mi chết. Mi không phải là tôi. Tôi để cho mi chết đây.” Đây là điều mà ta mong muốn thấy tất cả các con làm được nếu con chưa làm trong năm 2021 này.  

Con yêu dấu, điều đó sẽ khiến ta vui mừng làm sao. Và nó cũng sẽ khiến con vui mừng. Nó sẽ đem vui mừng cho mọi người chung quanh con, ít ra là đa số, cho dù là một số người sẽ không bằng lòng khi thấy con không gần gũi như trước, và do đó họ không thể ảnh hưởng con được như trước nữa. Nhưng đành thôi, đành thôi. Con không thể tiến bước trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật mà không làm phật lòng một số người.  

Bây giờ, con yêu dấu, năm 2021 sẽ như thế nào? Nhiều người cho rằng đây sẽ là một năm khó khăn, một phần vì đại dịch sẽ không được giải quyết nhanh chóng như mong muốn. Thành thật mà nói, ta đã mong có thể giải quyết sớm hơn nhưng điều này đòi hỏi nhiều người phải xử sự một cách khác, mà nhiều người thì không chịu thay đổi và đại dịch cứ thế tiếp diễn. Nhưng tất nhiên, thử thách lớn nhất cho năm 2021 là nền kinh tế vì kinh tế đã bị đại dịch làm tổn thương, cho nên đối với rất nhiều người, năm 2021 sẽ là một năm rất khó khăn, không khó khăn bằng 2020 nhưng trên một vài phương diện sẽ khó khăn hơn.

Nhưng tại sao sẽ khó khăn cho mọi người? Bởi vì mọi người tự đồng hóa với vở kịch. Ta vẫn biết là hầu hết không có khả năng tách mình ra khỏi vở kịch, nhưng có một điều ta muốn con ghi nhớ và cầu gọi, là có những người tuy không có nhu cầu biết đến các chân sư và họ cũng chưa từng nghe đến các chân sư, nhưng họ lại cởi mở với ý tưởng đặc biệt này. Ý tưởng đó, ta đã từng giảng dạy cách đây 2500 năm, rằng toàn bộ thế gian là một tổng thể tương kết. Ý tưởng này trong đạo Phật thường có tên là Lý Duyên khởi. Không có sự kiện riêng rẽ nào tự dưng xảy ra mà trái lại mọi sự kiện đều xảy ra do vô số những nguyên nhân, một chuỗi nguyên nhân dài dằng dặc và phức tạp vô cùng – phần nào cũng giống như thuyết hỗn mang mà khoa học đưa ra.  

Và như vậy, nhiều người trong đó có những thành phần cấp tiến, sáng tạo nhất, đã trở nên thực sự cởi mở và nhận ra điều này, với tiềm năng dẫn đến nhiều hệ quả tích cực khi người ta bắt đầu xét lại cách nhìn cố hữu của mình về xã hội. Một điều có thể xảy ra là người ta bắt đầu đặt nghi vấn: “Ơ kìa, cái gì đã gây ra đại dịch corona? Phải chăng chỉ vì đúng một con dơi ở Trung quốc đã tiếp xúc với con người? Hay là vì bất kỳ nguyên nhân đơn lẻ nào khác mà người ta có thể nghĩ tới? Liệu chỉ có một nguyên do duy nhất hay là có nhiều nguyên do sâu xa hơn? Phải chăng một số điều kiện trong xã hội, trong cách chúng ta nhìn xã hội, cũng đã góp phần vào toàn cảnh? Phản ứng của chúng ta đối với đại dịch nói lên điều gì về những điều kiện đó, và như vậy chúng ta có thể xem xét, phân tích, học hỏi và thay đổi điều gì? Chúng ta có thể rút tỉa điều gì tích cực từ đại dịch để giúp đưa xã hội về một hướng tốt đẹp hơn?”

Con yêu dấu, hiển nhiên là rất, rất nhiều điều người ta có thể nêu lên, có thể học hỏi từ khủng hoảng này, và ta không có ý liệt kê ra hết bởi vì có quá nhiều và cũng quá rộng lớn. Nhưng có một điều nổi bật ở đây mà ta muốn đặt trọng tâm là kinh tế. Thật là dễ mà nói rằng: “Ồ, kinh tế có xuống dốc thật nhưng chỉ là do đại dịch. Chỉ vì người ta không thể đi du lịch, ra tiệm mua sắm, đi ăn nhà hàng mà dân chúng bị mất việc, và đó là lý do kinh tế phải đi xuống”.    

Con yêu dấu, kinh tế không chỉ là kinh tế, kinh tế không là một hiện tượng biệt lập. Kinh tế là một thành phần của lý duyên khởi của toàn thể xã hội, của tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể chúng ta đang ở đâu? Nếu con nhìn kinh tế từ một góc độ rộng lớn hơn, con thấy gì? Con sẽ thấy như một số kinh tế gia và ký giả đã thấy được, là kẻ giàu, giới thượng lưu, đã không bớt giàu đi trong cơn đại dịch, trong cơn khủng hoảng.

Mặc dù kinh tế có suy thoái nhưng người giàu đã trở nên giàu có hơn. Đầu tư của họ trị giá nhiều hơn, thị trường chứng khoán tăng vọt. Nhưng những ai đã nghèo hơn? Phải, những người tầm thường. Những người bình thường, những người dân hàng ngày phải gánh chịu hậu quả lớn nhất của đại dịch, do bị nhiễm bệnh, do phải trông nom người bị nhiễm bệnh, do phải ở nhà mà thiếu hụt ngân sách, do mất nguồn lợi thu nhập. Đúng vậy, những người bình thường, dân chúng nói chung.  

Con hãy nhìn quanh thế giới. Những nước nào đã bị tác động nặng nhất? Chắc chắn rất nhiều nước nghèo đã bị ảnh hưởng nhiều hơn, nhưng không phải tất cả. Con cũng thấy một nước như Hoa Kỳ có tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong do đại dịch cao hơn. Vậy con hãy tự hỏi: “Tại sao như thế, tại sao lại thấy những những chuyện như thế?” Con sẽ thấy nguyên do nằm bên dưới tất cả là sự chú tâm vào chính mình, chỉ chăm sóc cho chính mình, chỉ quan tâm đến cái tâm ảnh của mình, làm sao cố giữ tâm ảnh đó cho bằng được.   

Con hãy nhìn ở ngay khởi đầu của đại dịch, Trung quốc biết rõ có một loại vi-rút mới đang lan rộng. Nhưng họ giấu giếm thông tin cho ngay cả công dân của họ và đối với thế giới. Có nghĩa là khi người ta biết đến, vi-rút đã lan vượt ra ngoài biên giới của Trung quốc đến độ không thể kiềm chế được nữa. Có thể nào ngăn chặn ngay từ đầu không? “Có, có thể lắm chứ”, nếu giới chức trách Trung quốc kể cả đỉnh cao của lãnh đạo sẵn sàng có những biện pháp cần thiết. Nhưng tại sao họ lại không sẵn sàng có biện pháp cần thiết? Bởi vì họ đang cố, với tất cả sức bình sinh, bám giữ cái tâm ảnh mà họ có về Trung quốc là một quốc gia toàn hảo, một xã hội toàn hảo, một xã hội cộng sản toàn hảo, là xã hội thực sự cộng sản duy nhất còn sót lại? Tại sao vi-rút đã lây lan? Tại vì tâm ảnh của giới lãnh đạo Trung quốc. Hiển nhiên con có thể hỏi thêm: “Tại sao vi-rút lại xuất hiện tại Trung quốc?” Một lần nữa, phần nào là vì lãnh đạo, và phần khác cũng vì người dân Trung quốc, vì cái tâm ảnh mà người dân ôm giữ về một nước Trung quốc vượt trội hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Thế những nước khác thì sao? Họ cũng có một tâm ảnh nào đó về Trung quốc, và họ đã chưa quyết định là họ muốn quan hệ thế nào với Trung quốc, họ muốn làm gì với Trung quốc. Như ta đã có nói, các nước có thể nào thực sự tiếp tục buôn bán với Trung quốc, một nước đàn áp chính dân mình và không tôn trọng lý tưởng dân chủ mà các con mong muốn? Liệu con có thể chấp nhận để cho các tập đoàn ở Tây phương kiếm những số tiền khổng lồ do sản xuất rẻ tiền tại Trung quốc rồi bán lại với lợi nhuận lớn hơn là nếu họ sản xuất tại xứ họ? Liệu con có thể cho phép sự thể này tiếp tục rồi bảo: “Các thày sẽ bỏ qua những vi phạm nhân quyền của Trung quốc, bỏ qua những diễn biến tại Hồng Kông nơi họ đang bóp nghẹt dân chủ. Các thày sẽ không đứng ra hỗ trợ dân chủ vì Trung quốc quá lớn. Các thày thật sự không muốn nhúng tay vào, không muốn có quyết định về Trung quốc”. Không phải đây là lý do vi-rút đã lây lan khắp các nước hay sao? Là vì các nước đã không chịu lấy quyết định họ muốn làm gì với Trung quốc và mối quan hệ với Trung quốc.

Bây giờ con hãy nhìn sang Hoa Kỳ, một trong những nước bị thiệt hại lớn nhất về tỷ lệ nhiễm bệnh COVID-19 cũng như tỷ lệ tử vong. Điều này cho con thấy gì? Nhìn một cách thực tế, con có thể thấy rõ Hoa Kỳ đã đáp ứng kém hơn hẳn những quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng. So với Âu châu, cho dù ở đó cũng có một số nước bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng vẫn đỡ hơn Hoa Kỳ. Điều này cho con thấy gì? Đúng vậy, Hoa Kỳ có thể nào tiếp tục là quốc gia giàu mạnh duy nhất trên thế giới không có một hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng? Sự thể này có bền vững không? Và Hoa Kỳ xem mình là quốc gia vĩ đại nhất, là xã hội tốt đẹp nhất thế giới, điều này có bền vững không?     

Con hãy nhìn vào kinh tế và thấy bao người bị mất việc làm. Có bền vững hay chăng một nên kinh tế nơi người giàu đã giàu hơn rất nhiều và sẽ còn giàu hơn nữa? Người giàu tại Hoa Kỳ đã kiếm tiền giữa cơn khủng hoảng này nhiều hơn là họ có thể kiếm được khi không có khủng hoảng. Con có thể chấp nhận một nền kinh tế mất cân bằng đến độ ngày càng đổ thêm nhiều tiền vào túi người giàu mặc dù các nghiên cứu cho thấy sự thể này đã tiếp diễn suốt bốn thập niên qua? Có bền vững không? Liệu điều này có phần nào giải thích tại sao Hoa Kỳ lại bị đại dich đập nặng đến như vậy? Không phải là nguyên hệ thống đã trở thành quá thiên vị cho người giàu hay sao? Có bền vững không?

Nay con hãy nhìn sang nước Nga, là một nước khác nữa cũng rất quyết tâm duy trì một tâm ảnh nào đó. Hóa ra số người bị chết bởi đại dịch lớn hơn rất nhiều các con số tử vong chính thức. Tại sao như vậy? Bởi vì giới lãnh đạo cho tới Putin ở tột đỉnh đều thèm muốn, thèm muốn giữ lấy tâm ảnh về sự vĩ đại của nước Nga, về khả năng kiểm soát và giải quyết mọi vấn đề. Nhưng họ có làm được không? Có thể nào một lãnh tụ nắm hết quyền hành đảm đương được mọi chuyện? Có phải chăng là một hệ thống tập trung quyền lực không thể thực sự là một xã hội bền vững, đặc biệt trong thời đại này?     

Xong hãy trở lại với nước Mỹ và nhìn xem đại dịch đã ảnh hưởng tiến tình bầu cử như thế nào. Tại sao Tổng thống Trump ở giai đoạn đầu của đại dịch lại chọn chiến lược coi nhẹ đại dịch? Đúng vậy, chỉ vì ông muốn duy trì một tâm ảnh về chính ông cùng khả năng cầm quyền của ông. Một khi đã phóng tâm ảnh này ra công chúng, ông không chịu thay đổi nó, nhưng đáng lý ông phải chấp nhận thay đổi khi đại dịch không diễn biến như ông chờ đợi. Điều này có khiến ông thất cử? Đúng vậy, con yêu dấu. Nếu không có đại dịch thì Trump đã tái đắc cử. Nhưng vì cách ông phản ứng trước đại dịch, và vì có nhiều người thấy được điều đó, cho nên ông không thắng cử một lần thứ hai.

Ông đã làm gì sau bầu cử? Ông vẫn cố giữ nguyên cái tâm ảnh rằng ông không thua, rằng ông không là một người thua cuộc, rằng người ta đã đánh cắp chiến thắng của ông. Bầu cử đã gian lận, một sự gian lận to lớn, với những lời tố cáo được lặp đi lặp lại, nhưng không thấy bằng chứng nào được đưa ra trước tòa án. Ông phải cố giữ cái tâm ảnh.

Vậy chúng ta có thể mong mỏi những gì trong năm nay? Chúng ta mong thấy trên thế giới có những người, những chính phủ, những người sáng tạo, những người với tỉnh giác cao độ, sẽ sẵn sàng suy ngẫm xem cơn đại dịch, nền kinh tế, phản ứng của chúng ta trước đại dịch, phản ứng của chúng ta đối với kinh tế, tất cả những thứ đó nói gì về chúng ta? Chúng ta cần thay đổi thế nào, chúng ta đã mất quân bình như thế nào, chúng ta đã trở nên thiếu bền vững như thế nào. Để giúp các con trong tiến trình suy ngẫm này, ta sẽ cho các con một hình tư tưởng cho năm tới đây. 

Đây là một hình tư tưởng rất giản dị. Trong năm nay 2021, mặt trời sẽ là một tấm gương phản chiếu. Ta có hỏi ý Helios và Vesta là những chân sư thăng thiên, những sinh thể vũ trụ đứng đầu mặt trời của các con. Các thày đã nghĩ ra một cơ chế vô cùng giản dị có mặt trời làm tấm gương. Khi con tập trung nhìn vào mặt trời, các hình ảnh trong tâm trí con sẽ được phản chiếu lại để con dễ thấy hơn, và con cũng khó lòng bỏ qua hơn. Không chỉ có cá nhân mới dùng được cách này mà cả toàn thể xã hội.

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội. Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù là nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu”.    

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Điều này có thể tác động mạnh mẽ, đồng thời với các bài cầu của con vì ta sẽ hướng dẫn con đọc các bài cầu, và tất nhiên, cả xã hội cũng cần suy ngẫm về toàn bộ tình thế hôm nay và những bài học có thể rút tỉa. Ta đã nói gì ở đầu bài giảng, địa cầu là gì? Là một cuộc trình diễn. Mục đích để làm gì? Để chuyển đổi tâm thức con người. Vậy thì kết quả cao nhất của đại dịch corona và cuộc khủng hoảng kinh tế hôm nay là gì? Là nó chuyển đổi tâm thức con người, nó chuyển đổi sự nhận biết của con người, con người bắt đầu nhìn lại chính mình, nhìn vào xã hội mình và nói: “Đây là những điều mà chúng ta có thể thay đổi. Đây là những điều chúng ta cần thay đổi bởi vì nếu không, mọi thứ sẽ tan rã – khi chúng ta đặt trọng tâm vào của cải, cho phép một tầng lớp thượng lưu nhỏ xíu tiếp tục điều khiển xã hội mà chỉ mang lại lợi ích cho họ trong khi người dân phải trả giá.

Sự thể này không còn bền vững được nữa, không thể kéo dài được nữa. Đây là sự nhận thức có thể bắt đầu đột phá trong năm 2021 nhiều hơn là cho đến nay, rằng có nhu cầu, một nhu cầu tuyệt đối và cấp bách, tạo ra những xã hội quân bình hầu lớp thượng lưu không thể bóc lột người dân được nữa. Nhu cầu này cấp bách hơn rất, rất nhiều cuộc khủng hoảng khí hậu, hay đại dịch, hay kinh tế, hay bất cứ khủng hoảng nào khác. Đây là khủng hoảng thực sự, khủng hoảng duy nhất trên địa cầu như đã kéo dài từ hàng bao thế kỷ. Nhưng bây giờ chúng ta mới đến một mức mà ngày càng có nhiều người sẵn sàng nhìn thấy, ngày càng có nhiều xã hội sẵn sàng làm cái gì đó để giải quyết, nhiều hơn là cho tới nay, và mặc dù cũng có nhiều quốc gia dân chủ đã tiến bộ đáng kể để cải biến xã hội cho bớt độc quyền, nhưng Hoa Kỳ không có trong số đó, và Anh quốc cũng không có trong số đó. Cần nhiều tiến bộ hơn, đặc biệt là trên bình diện toàn cầu.

Và điều này kết thúc những nhận xét mà ta mong muốn đưa ra cho các con ở đây. Ta sẽ rút về, niêm phong các con trong sự bình an tuyệt đối của Phật, và nhường lời cho Mẹ Mary trao cho các con thái cực Omega của bài giảng này. TA LÀ Gautama.       

Trải nghiệm sự nhận biết quả cầu ở các tầng cao của quả vị Ki-tô

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/12/2020, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật biết gì vể quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? À, làm thế nào con trở thành Phật chứ? Bằng cách vượt qua giai đoạn phân biện Ki-tô và quả vị Ki-tô. Như chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giải thích cho con, có một số tầng tâm thức và măc đù trên địa cầu có 144 tầng như thế, trên cõi tâm linh còn có nhiều tầng hơn nữa. Trước tiên con vươn lên tầng quả vị Ki-tô, xong từ đó con có thể vươn lên tầng quả vị Phật. Con không cần phải đạt đến quả vị Phật để thăng thiên nhưng con có thể.

Chúng tôi đã cố trao truyền cho con ở đây một số lời dạy về một số yếu tố ngăn cản con có được sự phân biện Ki-tô. Yếu tố mà ta muốn lưu ý con trong bài này là khi con đạt đến tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ nhất định. Chúng tôi có nói là ở tầng 96, con đối diện với một ngã ba đường khi con có thể, hoặc thăng vượt trọng tâm của con vào bản thân con, hoăc rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khi con ngày càng tập trung vào chính mình. Một trong những yếu tố sẽ quyết định con đi lên hay đi xuống ở tầng đó là vấn đề mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây. Đây là một vấn đề đã được các giới tâm lý học hiện đại bàn cãi và thường được gọi là “những vấn đề kiểm soát”.

Kiểm soát và quyền tự quyết

Một lần nữa nếu trở lại với các sa nhân và nhìn vào tình trạng của chúng, chúng tôi đã có trình bày về bầu cõi thứ tư khi có những sinh thể đã tự xưng làm kẻ cai trị tuyệt đối ở một số hành tinh. Con cần điều gì để chiếm địa vị nắm mọi quyền lực mà không ai có thể phản kháng? Hiển nhiên con cần giành lấy quyền kiểm soát trên hành tinh đó và kiểm soát tất cả mọi cư dân đầu thai ở đó. Con tìm cách tạo dựng cho mình một vị thế hay một cảm nhận cao trội qua sự kiểm soát. Một đằng, con tìm cách tự kiểm soát mình, kiểm soát tâm mình, cho nên con rất tự chủ, kỷ luật và không bao giờ mất cảnh giác, nhưng con cũng tìm cách kiểm soát người khác.

Sau khi các sa nhân bị sa ngã, tất nhiên chúng đã tiếp tục trên cái trớn kiểm soát đó. Một số đã tìm cách kiểm soát toàn bộ vũ trụ, thậm chí kiểm soát cả Thượng đế. Nhưng đương nhiên, chúng không bao giờ có thể đạt được mục tiêu đó vì không có cách chi chúng hiểu được Đấng Sáng tạo đích thực là như thế nào. Tuy vậy con cũng có thể thấy chuyện trớ trêu là có những kẻ lại muốn kiểm soát một vũ trụ nơi định luật tuyệt đối duy nhất là Định luật Tự quyết.

Làm thế nào con có thể kiểm soát thật sự khi quyền tự quyết là định luật tuyệt đối? Làm thế nào con có thể kiểm soát được chọn lựa của mọi người? Tất nhiên như con thấy sau khi sa nhân đến địa cầu, chúng đã mưu toan kiểm soát toàn thể dân chúng bằng rất nhiều cách. Chúng đã làm vậy trên bình diện vật lý bằng cách giết hại hay cầm tù những ai không chấp nhận kiểm soát. Chúng đã làm vậy trên bình diện tình cảm bằng cách cuốn hút con người vào những cơn lốc động cảm nơi họ rơi vào vòng kiểm soát của tác giả cơn lốc, tức là chính các sa nhân. Chúng đã làm vậy ở mức lý trí bằng cách lôi kéo con người tin vào một loạt những hệ thống tín ngưỡng, từ tôn giáo cho đến chủ nghĩa duy vật cùng những ý thức hệ chính trị đủ loại.

Và tất nhiên chúng cũng đã làm vậy ở mức bản sắc bằng cách xui khiến mọi người trên hành tinh chấp nhận rằng mình chỉ là những con người bị muôn vàn giới hạn gò bó – duy có một số ít người thật đặc biệt có khả năng vượt ra ngoài giới hạn đó, vì thế cho nên con phải nhắm mắt đi theo những người có tầm nhận thức cao trội đó. Hiển nhiên, các sa nhân đều mang động lượng kiểm soát người khác, cho nên chúng phóng ý muốn kiểm soát này ra ngoài và chúng sẵn sàng kiểm soát người khác. Không phải tất cả mọi sa nhân đều sẵn sàng giết hại để mà kiểm soát – vì một số sẽ cố làm một cách ít bạo lực hơn – nhưng chúng vẫn phóng chiếu nó ra ngoài.

Con không được lầm lẫn, nhiều sa nhân cũng có một đặc tính mà người ta thường gọi là sự tự chủ. Chúng có thể vô cùng kỷ luật, vô cùng kiên quyết, nhắm thẳng đến mục tiêu, và đó là tại sao chúng thường rất thành công trong chính trường hay thương trường. Chúng khao khát kiểm soát người khác và chúng rất hung hãn khi ra tay vì chúng cảm thấy được quyền làm như vậy. Lẽ tự nhiên, con có thể nói là chúng ở trong một tâm trạng vô cùng bị động, đe dọa, vì chúng luôn luôn nhận ra là việc kiểm soát quần chúng thật là khó khăn, đặc biệt khi phải kiểm soát tất cả mọi người, vì ngay cả trên một hành tinh như địa cầu cũng có xu hướng là thỉnh thoảng sẽ hiện ra một số cá nhân từ chối để cho chúng kiểm soát, từ chối đi theo tâm thức đại chúng, đi theo đường lối của đảng hay mệnh lệnh của giáo hoàng hoặc bất cứ ai khác.

Cho nên mới có những người nổi loạn, và đôi khi kẻ nổi loạn lại chính là những sa nhân khác hình thành một lớp tự tôn quyền lực thay thế, nhằm lật đổ lớp tự tôn quyền lực đang nắm quyền. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, những con người từ chối bị kiểm soát đó thực sự là những sinh thể đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô cao, và do đó họ đứng nổi bật ra hầu chứng tỏ cho mọi người, chứng tỏ cho quần chúng thấy là có cách giải tỏa được vòng kiểm soát.

Một số trong những người đó đã đạt tới mức quả vị Ki-tô tương tự như Giê-su, tức là họ có khả năng đem lại sự phán xử Ki-tô trên một số sa nhân.

Đối với sa nhân, thật là khó lòng duy trì được cảm giác rằng mình luôn luôn nắm kiểm soát. Cho nên nhiều sa nhân đã dựng lên trong tâm một số cấu trúc phức tạp hầu duy trì cảm giác là mình vẫn nắm kiểm soát bất kể sự việc xảy ra bên ngoài có là gì. Chúng có một thế giới quan luôn luôn đặt mình ở trung tâm vũ trụ, và chúng có nhiều cách khác nhau để giải thích tại sao sự việc xảy ra lại không thể kiểm soát, không thể tránh được.

Nhu cầu giải thích mọi sự

Vậy hành tinh địa cầu là gì chứ? Như chúng tôi đã trình bày mấy lần, địa cầu có thể được ví như một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Khi con đầu thai trên địa cầu, con bước vào bộ máy giả thực tại đó với khả năng mô phỏng nhiều loại môi trường khác nhau. Một phần trong cách mô phỏng là khi con người, đặc biệt là tâm thức tập thể, đè chồng một số hình ảnh, một số niềm tin, một số thế giới quan lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật, rồi qua đó bộ máy giả thực tại sẽ trải bày những thứ đó ra.

Chúng tôi đã có nói là ở ban đầu, hành tinh này đã được sinh tạo trong một trạng thái cao hơn khi không một ai phải đổ mồ hôi lao động để nuôi tấm thân vật lý. Sau cuộc sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, giờ đây các con phải làm lụng vật lý để nuôi thân. Cho nên điều con thấy ở đây là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại, nhưng đồng thời cũng có một cơ chế an toàn khiến cho mọi người khó lòng nghĩ rằng môi trường mô phỏng này là thực tại tuyệt đối bất di bất dịch. Tất nhiên có một vài cách để tạo ra cơ chế an toàn này, trong số đó có định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ làm tan vỡ bất cứ gì do nhị nguyên tạo ra. Và một cách khác nữa là sự đa dạng của loài người, khiến cho việc bắt mọi người phải hành xử giống hệt nhau thật khó xảy ra.

Cho nên thỉnh thoảng sẽ có một sinh thể Ki-tô đứng lên thách thức những quy định bảo con người là gì và phải cư xử ra sao. Đấy, con thấy được động cơ là thế đấy: Sa nhân sẽ muốn nắm quyền kiểm soát môi trường của chúng, nhưng trên địa cầu sẽ có một số yếu tố khiến cho một sa nhân gần như không thể nào đạt được kiểm soát tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ngay từ lúc sa nhân bị sa ngã, ngay từ lúc chúng đến địa cầu, chúng đã phải đối mặt với thực tế đó, là sự kiện chúng muốn nắm kiểm soát vật lý tuyệt đối trên hành tinh nhưng thực sự chúng không bao giờ có khả năng làm được chuyện đó.

Vậy thì sa nhân sẽ đối phó như thế nào? Cách đối phó của chúng là tạo ra một cách giải thích nào đó trong tâm của chúng. Đó có thể là một sự giải thích ở mức cá nhân mà chúng sẽ không bao giờ chia sẻ với ai. Đó cũng có thể là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một tôn giáo, một lý thuyết khoa học, một lý thuyết chính trị, bất kể. Nói cách khác, sa nhân có một nhu cầu ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) phải giải thích những gì chúng không thể kiểm soát một cách tuyệt đối trong cõi vật lý. Chúng cố tạo ra một hệ thống nhằm giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà chúng không thể tiên liệu hay mong muốn. Đây quả thực là một động lượng rất lâu đời trên địa cầu, và đã có những con quái vật tập thể khổng lồ được dựng lên để thực hiện chuyện này. Bởi vì lẽ tự nhiên, không chỉ có sa nhân bị tác động mà hầu hết loài người trên địa cầu cũng bị tác động.

Vì như con thấy, người bình thường chứ không cứ sa nhân cũng có vấn đề cần giải thích như vậy. Họ trải nghiệm quá nhiều chuyện trên địa cầu mà họ không muốn xảy ra cho mình, và họ phải giải thích tại sao lại như vậy. Một số người phải tìm cách giải thích vì họ đi theo một lãnh tụ sa ngã hứa hẹn sẽ dẫn họ đến một Xã hội Không tưởng nếu họ cứ đi theo – cho nên họ cần giải thích tại sao có những chuyện xảy ra không đúng như lời hứa, hầu họ có thể tiếp tục cắm đầu đi theo do không chịu tự quyết định cho bản thân mình. Một số người lại tin lời hứa của một tôn giáo và họ cũng có nhu cầu giải thích tại sao tôn giáo đó không thể thực hiện toàn bộ lời hứa. Cho nên con có thể nói chung chung, mọi người trên địa cầu đều có vấn đề giải thích nói trên. Họ cần phải giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà mình không muốn hay không chờ đợi.

Đây chính là nguồn gốc của cơ chế tâm lý mà các nhà tâm lý học đã bắt đầu nhìn ra, và cho tới nay họ gọi đó là “những vấn đề kiểm soát”. Tâm lý học nhận ra là mặc dù một số người có vấn đề kiểm soát lớn hơn người khác, nhưng trên cơ bản, mọi người ở một mức tâm thức nào đó đều có những vấn đề kiểm soát.

Cho nên con thấy gì khi một người tìm ra các giáo lý tâm linh, kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên? Đấy, như ta vừa nói, con đã lớn lên trên một hành tinh mang tâm thức muốn kiểm soát, muốn giải thích. Con không phải xấu hổ nếu con mang khuynh hướng này. Tất cả các con đã đều có khuynh hướng này khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên. Điều này có thể đã xảy ra trong một tiền kiếp, nhưng khi lần đầu tiên con khám phá ra đường tu tâm linh thì con đã mang sẵn vấn đề kiểm soát này rồi.  

Dùng giáo lý để kiểm soát

Vậy con sẽ làm gì đây? Phải, con làm điều duy nhất mà con có thể làm. Con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của con để giải quyết nhu cầu cần giải thích, để giải thích những gì đang diễn ra trên trái đất, tại sao một số chuyện lại xảy ra mà con không chờ đợi, không mong muốn, và tại sao mặc dù những lời hứa hẹn mà giáo lý hay tôn giáo hay lãnh đạo tâm linh của con có thể đã đưa ra, con vẫn không thể tránh khỏi những chuyện mình không muốn. Nói cách khác, con cũng có nhu cầu giải thích tại sao con không thể kiểm soát môi trường và hoàn cảnh của con, và bây giờ con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của mình để làm chuyện đó.

Điều mà sa nhân thường làm là chúng chỉ định một con dê tế thần, và do dê tế thần không chịu tuân theo chân lý duy nhất và tuyệt đối mà mọi chuyện mới tồi tệ như vậy. Một lần nữa, ví dụ điển hình là Hitler với con dê tế thần là người đạo Do Thái – và vì họ là kẻ mang trách nhiệm gây ra tất cả mọi vấn nạn của nước Đức cho nên họ cần bị diệt chủng để vấn nạn được giải quyết. Đó không phải là lần đầu tiên người ta tạo ra ý tưởng đó để giết người hàng loạt. Lẽ tự nhiên, khi con là một người tâm linh và đã đạt được một trình độ trưởng thành nào đó cho phép con nhận diện một giáo lý của chân sư thăng thiên, thì con cũng đã khắc phục được mong muốn kiểm soát của sa nhân – miễn là con không phải là một sa nhân đã tìm ra giáo lý của chân sư, nhưng ngay cả một sa nhân tìm được giáo lý của chân sư cũng đã khắc phục được xu hướng dùng bạo lực. Con không còn muốn giết hại người khác, con không còn muốn hung hãn vật lý để kiểm soát người khác. Thật ra có thể nói là nhiều người tâm linh, ít ra những người tìm thấy giáo lý của chân sư, đã vượt qua nhu cầu muốn kiểm soát người khác. Nhưng không phải mọi người đều đã vượt qua nhu cầu đó, như con có thể thấy trong các đợt truyền pháp trước của chân sư và ngay cả trong những năm đầu của đợt truyền pháp này. Có một số người có mong muốn kiểm soát người khác – họ không dùng những phương tiện vật lý mà những phương tiện tâm lý.

Điều ta thực sự muốn đề cập ở đây là vấn đề con có ý muốn giải thích tại sao con không thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Con tìm cách sử dụng một giáo lý của chân sư thăng thiên để giải thích. Tất nhiên, chúng tôi cho phép chuyện đó vì chúng tôi biết con không thể làm khác được ở những tầng tâm thức giữa 48 với 96. Chúng tôi cũng đã thiết kế khóa giảng về bảy tia sáng để con có thể lần hồi khắc phục mong muốn kiểm soát này và thoát dần ra khỏi vòng kềm toả của ý muốn kiểm soát. Bởi vì như chúng tôi đã có nói nhiều lần, con không thể tìm cách kiểm soát người khác trừ khi chính con bị kiểm soát bởi cái tâm lý ở đằng sau, bởi các tà thể tập thể hay thậm chí bởi cả sa nhân.

Cho nên giờ đây tới điểm con đạt đến tầng 96. Điều đầu tiên con cần khắc phục là mong muốn kiểm soát người khác bằng những phương tiện tâm lý. Nếu con không trực diện với nó, nếu con không chịu nhìn vào những cái ngã đã thúc đẩy con muốn kiểm soát người khác một cách ám ảnh cưỡng chế, thì con sẽ không thể vươn lên cao hơn tầng 96. Và do đó con sẽ phải bước vào vòng xoắn ốc hướng hạ, và con sẽ kiểm soát người khác ngày càng chặt chẽ hơn trong một thời gian.  

Vì vậy, nếu con có thể khắc phục ý muốn kiểm soát này đối với người khác, cho dù bằng những phương tiện tâm lý hay bằng cách sử dụng giáo lý của chân sư, thì con sẽ có thể vươn lên cao hơn tầng 96. Điều này không có nghĩa là con đã khắc phục mọi vấn đề kiểm soát. Trong một thời gian ngay cả trên tầng 96, con sẽ vẫn phải đối phó với nó trong phiên bản vi tế hơn của nó. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con sẽ phải đối phó với nó tuốt mãi cho tới tầng 144 và điểm thăng thiên. Một lần nữa, con có ý muốn sử dụng giáo lý của chân sư để giải thích mọi sự việc xảy ra trên địa cầu, mọi sự việc xảy ra cho con. Vậy con có thể làm gì để vượt qua nó? Hay là chúng ta cần hỏi: Tại sao con lại cần vượt qua nó? Có gì sai trái khi con dùng giáo lý chân sư để cố giải thích mọi chuyện?

À, cái sai trái là con có một số ngã tách biệt giờ đây đang sử dụng giáo lý của chân sư, và do đó các ngã tách biệt này đang tự xưng là chúng nhận được thẩm quyền từ giáo lý chân sư, có nghĩa là con không được chất vấn chúng. Nhưng chúng tôi có dạy: Nếu con không chất vấn một cái ngã thì làm thế nào con có thể khắc phục được nó, làm thế nào con thăng vượt được nó? Cho nên điều này có nghĩa là nếu con cho phép những ngã đó sử dụng giáo lý kiểu đó, con sẽ bị kẹt lại ở một tầng nào đó.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải trực diện với lòng mong muốn kiểm soát qua việc sử dụng giáo lý chân sư để giải thích tất cả mọi khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con lẫn trong đời sống. Làm thế nào con có thể bắt đầu đương đầu với nó một khi các chân sư đã chỉ nó ra cho con một cách công khai? Nhiều người trong số các con đã tinh tấn đáng kể mà không thực sự ý thức mình đang làm gì, nhưng các con đã có tinh tấn. Một số các con đã bỏ được một số vấn đề từng khiến con quan tâm cách đây 10, 20, 30 năm về trước. Cho nên chúng ta hãy thử nhìn rộng xem những phương pháp nào thường được sử dụng để giải thích mọi chuyện.

Ý muốn giải thích có nhiều tầng cấp

Ý muốn giải thích một chuyện nào đó có mấy mức độ khác nhau. Nó có một thành phần cảm xúc, là nơi con muốn giải thích ở mức cảm xúc. Đây là nơi con có thể, chẳng hạn, bị ảnh hưởng bởi một lãnh tụ cứng cỏi dựng lên một thế giới quan tự nhận là sẽ giải thích được mọi chuyện. Quần chúng bị lôi cuốn vào đó vì khi họ đi theo lãnh tụ đó, họ nhận được một cảm giác như thể mình có quyền năng, mình nắm quyền kiểm soát. Trong thế giới hiện đại, đặc biệt là ở phương Tây, điều xảy ra khá phổ biến là người ta dùng tâm phân tích, lý luận đường thẳng để giải thích mọi chuyện. Tâm đường thẳng làm gì? Nó nhìn thấy một quan hệ đường thẳng giữa nhân và quả. Tâm đường thẳng tin rằng mọi sự xảy ra trên địa cầu đều có một nguyên nhân, rằng mọi sự con nhìn thấy đều là một hậu quả và có một nguyên nhân đã sản xuất ra hậu quả đó.

Theo một nghĩa nào đó và ở mức chung chung như vậy thì điều đó không sai. Có nguyên nhân và có hậu quả. Không có gì trong vũ trụ vật chất mà không có một nguyên nhân nào đó. Nhưng cái giới hạn của tâm đường thẳng là nó dựa trên phân tích, mà phân tich thì làm gì? Nó lấy một tổng thể, chia tổng thể ra làm nhiều thành phần riêng rẽ, xong nó bảo: “Đây là một hậu quả tách biệt mà bây giờ chúng ta có thể tìm hiểu hiểu riêng rẽ, và hậu quả tách biệt này phải có một nguyên nhân tách biệt đã gây ra hậu quả một cách đường thẳng.” Nói cách khác, một hậu quả nào đó luôn luôn phải đến từ cùng một nguyên nhân và chỉ nguyên nhân đó thôi. Khi một quả táo từ trên cây rơi xuống thì quả táo đó có thể được tìm hiểu như một đơn vị riêng rẽ. Nhất định phải có một nguyên nhân đã khiến nó rơi xuống: đó là trọng lực tác dụng lên quả táo. Cho nên có một hậu quả là quả táo rơi, và có một nguyên nhân là trọng lực. Không một yếu tố nào khác cần được xét tới bởi vì bây giờ chúng ta đã có một cách giải thích gọn ghẽ và đường thẳng về nhân quả. Xong tâm đường thẳng suy luận rằng mặc dù có rất nhiều chuyện hỗn độn xảy ra trên địa cầu, vẫn phải có cách chia chúng ra thành từng thành phần đơn giản và tìm ra một nguyên nhân riêng biệt cho mỗi hậu quả, và như vậy chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao mọi sự vận hành.

Con sẽ thấy là xuyên qua mọi thời đại, con người đã tìm cách dựng lên đủ loại hệ thống giải thích. Thuở trước, một số nền văn minh tin rằng mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều có một nguyên nhân và nguyên nhân này là một vị thần cai quản hiện tượng đó. Có một thần nông nghiệp, một thần săn bắn, một thần mưa, một thần gió, vân vân. Từ rất xưa, người ta cũng đã dùng khoa chiêm tinh để giải thích rằng chuyển động của tinh tú trên trời hình thành một nguyên nhân gây ra một hậu quả nhất định trên trái đất, cho dù tinh tú ở rất xa.

Nói cho thực tế thì vào thời đó, người ta không hiểu là các vì sao xa đến chừng nào vì họ tưởng bầu trời gần hơn rất nhiều. Ngày nay, người ta biết rõ các vì sao xa đến chừng nào nhưng họ vẫn tin là có một nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến cá nhân họ, rồi dựa theo đó họ đặt ra những giới hạn trên những gì họ có thể làm hay không được làm trong đời mình. Con yêu dấu, con không thể biểu hiện tâm Ki-tô nếu con tin là con bị giới hạn bởi lá số tử vi của con và con không có khả năng vươn lên cao hơn lá số. Cho nên con thấy điều ta muốn nói, có đủ loại ví dụ cho thấy là con người cứ đi tìm mối quan hệ quá giản dị như thế giữa nhân và quả.

Tất nhiên, nhiều người đi tìm cái đó vì họ muốn dùng hiểu biết của mình về nhân quả để tiên đoán tương lai. Như chúng tôi đã có nói, nếu con không thể tiên đoán chuyện gì có thể xảy ra thì làm thế nào con có thể kiểm soát nó được? Cho nên để thực sự kiểm soát hiện tại, con cũng cần quan tâm đến những gì có thể xảy ra trong tương lai, và con nghĩ là nếu con biết được tương lai thì con sẽ có thể tiên đoán, và con có thể điều chỉnh để sự thể diễn ra không đến nỗi tồi tệ, hoặc ít ra không vượt ngoài dự đoán của con. Cho nên con mới thấy trong một số thành phần của cộng đồng tâm linh trên thế giới, cộng đồng Thời Mới và ngay cả cộng đồng tôn giáo, người ta đã dùng đủ loại phương thức bói toán để tìm cách biết trước một sự cố. Và thường thường phương thức đó dựa trên hên xui may rủi – lá bài tarot, cầu cơ, lời sấm đủ loại, mổ bụng một con thú để xem nội tạng như thế nào – và người ta tin những cách đó là chỉ dấu cho sự việc sẽ xảy ra trong tương lai.  

Nói cách khác, con có thể thấy được sự thiếu ăn khớp, sự bất nhất về nhận thức. Đây con có một người tìm cách kiểm soát tương lai của mình qua một lời tiên đoán, nhưng phương thức người đó dùng để tiên đoán tương lai lại dựa trên một yếu tố hên xui may rủi, không thể tiên đoán trước trong bản chất. Có lý gì mà lại nghĩ rằng việc bói toán dựa trên may rủi có thể nói trước tương lại một cách chính xác? À, điều con cũng có thể nói được là phương pháp may rủi này cũng chính xác không kém một số phương pháp bói toán khác mà người ta đã tìm ra, trong đó có một số phương pháp tiên đoán khoa học.

Cho nên khi con vượt trên tầng 96 và bắt đầu tu đến những tầng cao hơn đó, sẽ rất hữu ích nếu con xem xét toàn bộ động cơ vừa kể. Con có thể nỗ lực nhìn xem con có mang bất kỳ cái ngã nào không, là những cái ngã dựa trên ý muốn kiểm soát. Con có thể khá dễ dàng học cách nhận diện chúng khi có chuyện bất ngờ xảy đến cho mình và con nhận xét cách phản ứng của con. Liệu con có cảm thấy phiền hà, bực tức khi có chuyện bất ngờ xảy đến? Liệu con có cảm giác đó là chuyện bất công, không phải lẽ? Liệu con có xu hướng tự hỏi tại sao Thượng đế lại cho phép nó xảy ra cho mình, vì con đã làm mọi thứ mà con nghĩ Thượng đế mong muốn, vậy thì tại sao nó vẫn xảy ra cho con? Hay tại sao các chân sư thăng thiên đã không ngăn cản chuyện đó xảy ra cho con?  

Cho nên trong số những người tâm linh, có một giấc mơ cho rằng nếu con tuân thủ và chuyên cần áp dụng một giáo lý tâm linh chân chính, thì con phải có khả năng nắm được quyền kiểm soát trên đời mình để không thể xảy ra bất cứ gì mà con không chờ đợi hay không mong muốn.

Nhưng con hãy nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Liệu thày có phải là một kẻ bị ám ảnh bởi khả năng kiểm soát mọi khía cạnh trong đời mình? À, nếu thày là một người như thế thì tại sao thày lại cho phép mình bị đóng đinh trên thập tự giá? Thày có muốn bị đóng đinh hay không? Liệu thày có nghĩ: “Ồ, đây có thể là một kinh nghiệm thú vị được nếm mùi việc đóng đinh trên cây thập tự?” Dĩ nhiên là không. Nhưng thày vẫn cho phép nó xảy ra vì thày tự cho phép mình bước vào một tình huống hoàn toàn hỗn độn và không thể tiên đoán trước, nơi thật sự không một ai có thể biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Thực tế của hành tinh địa cầu là hành tinh này hỗn độn, dày đặc đến độ không một ai, và ngay cả một chân sư thăng thiên, cũng không thể nào tiên liệu mọi chuyện trong mọi tình huống.        

Lý duyên khởi

Tại sao như thế chứ? À, điều ta muốn trao cho con ở đây là một sự hiểu biết sâu sắc hơn về một khái niệm mà ta từng giảng dạy 2500 năm về trước. Đó là khái niệm mà trong đạo Phật vẫn được biết tới như là lý duyên khởi – như chúng tôi cũng có đề cập rồi. Điều quan trọng khi con đạt đến những tầng cao hơn tầng 96 là con bắt đầu suy ngẫm về điểm này. Ta không nói là con cần đạt được một hiểu biết sắc sảo về động cơ vận hành của nó, nhưng con cần hiểu khái niệm và ý nghĩa của nó, đặc biệt liên quan đến vấn đề kiểm soát.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có nói là quyền tự quyết là định luật tối thượng, và không một sinh thể nào ở cõi thăng thiên sẽ can thiệp vào quyền tự quyết của con người. Do đó, bất cứ nguyên nhân nào mà con đã kích hoạt, chúng tôi sẽ để yên cho con trải nghiệm hậu quả của nó, trừ khi con thay đổi tâm thức của mình trước khi hậu quả ập vào cõi vật lý. Chúng tôi cũng có nói rằng tất cả mọi thứ đều kết nối với nhau. Mọi sự sống đều là một, toàn bộ vũ trụ là một khối liên kết. Điều này thực sự có nghĩa là gì? Trong bối cảnh những gì ta đang trình bày ở đây, điều này có nghĩa là ảo tưởng của tâm đường thẳng cho rằng nó có thể chia tổng thể ra thành nhiều thành phần tách biệt… đúng là một ảo tưởng.    

Tất nhiên con có thể nhìn vào một tổng thể, chia nó ra thành từng thành phần tách biệt và tìm cách nghiên cứu từng phần nhỏ, nhưng làm như thế con sẽ không giải thích được chuyện gì đang xảy ra, vì tất cả là một tổng thể nối kết. Cho nên ngay lúc con quyết định chú tâm vào một khía cạnh đặc thù của tổng thể và coi đó là một vật tách biệt, thì ngay lúc đó con đã bỏ rơi mọi khả năng hiểu được điều gì xảy ra. Bởi vì khi tất cả là một tổng thể nối kết, thì làm sao có thể có khái niệm một vật tách biệt, làm sao có thể có một vật tách biệt với một nguyên nhân tách biệt? Chuyện đó không thể xảy ra. Và cũng không thực tiễn. Đồng ý, ở một tầng cấp nào đó có thể có một mối quan hệ nhân quả. Chắc chắn nếu trong ly nước con uống có một loại vi khuẩn nhất định thì con sẽ mắc bệnh tả. Nhưng điều này vẫn không thực sự giải thích tại sao vi khuẩn đó lại hiện hữu trên điạ cầu, tại sao có chứng bệnh gọi là bệnh tả hay nhiều chứng bệnh khác, và tại sao hai người uống cùng ly nước mà chỉ có một người mắc bệnh còn người kia thì không. Cho nên con thấy ở đây là con có thể sử dụng tâm phân tích đường thẳng để dựng lên những chuỗi nhân quả sẽ vận hành ở một mức rất cục bộ, nhưng chúng chỉ có thể giải thích một số hiện tượng trong một khoảng rất hạn chế, và vẫn còn một bầu cõi khổng lồ mà chúng không thể giải thích được.  

Vì vậy cũng có thể nói là khi con dùng tâm đường thẳng để tìm kiếm hiện tượng tách biệt, hậu quả tách biệt và nguyên nhân tách biệt, thì con sẽ không bao giờ thành tựu được giấc mơ kiểm soát mọi chuyện. Chẳng phải điều đó đã được khoa học chứng minh hay sao khi khoa học duy vật cố thu nhỏ con người thành một sinh thể cơ học nơi mọi chuyện xảy ra trong tâm chỉ là hậu quả của điều kiện vật lý trong bộ não? Và mặc dù đã cố kiểm soát bộ não, khoa học vẫn không thể kiểm soát được hành vi và tâm lý con người. Mặc dù đã vận dụng công nghệ để kiểm soát thiên nhiên hay khí hậu hay nguyên cả hành tinh nói chung, thì khoa học vẫn không thể kiểm soát được mọi chuyện. Khi con là một học trò tâm linh đạt đến những tầng tâm thức cao hơn đó, điều con có thể làm là con hãy bắt đầu suy ngẫm về lý duyên khởi, suy ngẫm về sự liên kết của mọi thứ trên địa cầu.

Một lần nữa, chúng tôi hiểu là điều này sẽ khiến con thắc mắc. Vì chúng tôi đã có dạy: Có một giai đoạn giữa tầng 48 và 96 khi con nỗ lực nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, và con làm vậy bằng cách xây dựng một bản sắc cá biệt. Cho nên lẽ tự nhiên điều này có nghĩa là con sẽ suy nghĩ theo chiều hướng “tôi có thể làm gì để nâng tâm thức mình lên? Tôi có thể làm gì để đảm đương và cải thiện hoàn cảnh vỏ ngoài của mình?” Ở mức tâm thức đó thì điều này chính đáng. Nhưng khi con bắt đầu tiến xa hơn tầng 96, con đang làm gì chứ? Như chúng tôi đã nói, con đang tháo gỡ cái ngã cá biệt mà con đã tạo dựng. Ngã đó chỉ là một cỗ xe đưa con tới một mức nào đó, và giờ đây nó không thể đưa con lên cao hơn. Nó cần được gỡ bỏ.    

Làm thế nào con gỡ bỏ nó chứ? Con cần gỡ bỏ bằng cách xem xét toàn bộ khái niệm tách biệt, và con khắc phục điều chúng tôi đã có đề cập, là ảo tưởng tách biệt do tâm thức nhị nguyên tạo dựng. Khi con tiến đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, càng ngày con càng ngộ ra tính duy nhất nằm bên dưới mọi sự sống. Con nhìn thấy mọi sự sống được nối kết như thế nào, con thấy chính con nối kết với Hiện diện TA LÀ, nối kết với các chân sư thăng thiên cùng mọi người khác, thậm chí nối kết cả với hành tinh, với vật chất. Một khi con bắt đầu trải nghiệm sự nối kết rộng lớn này với tất cả, con cũng bắt đầu trải nghiệm và nhận ra tất cả đều liên kết với nhau – đó là lý duyên khởi. Nói cách khác, không có gì khởi lên mà đứng riêng biệt, không có nguyên nhân nào riêng biệt. Bởi vì không một hiện tượng nào trên địa cầu là một hiện tượng riêng lẻ mà là một phần của tổng thể, và do đó nó cũng bước đồng bộ với tổng thể.

Bây giờ để ta cho con một ví dụ hiển nhiên. Con có thể – ít ra là trước khi có cuộc đại dịch – đến một nơi gọi là phi trường. Con mua vé, bước vào một thiết bị công nghệ gọi là máy bay. Chiếc máy bay cất cánh lên không trung và nó bay rất, rất nhanh so với mặt đất. Con khởi đầu hành trình ở một nơi và chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, con đã tới một nơi khác ở rất xa. Cho nên con có thể nói là máy bay chuyển động một cách độc lập đối với địa cầu vì nó không bị buộc chặt vào mặt đất. Nó bay trên không trung với tốc độ cao và thậm chí nó có khả năng bay nghịch cả hướng quay của trái đất.  

Do đó nếu con nhìn máy bay từ mặt hành tinh này, con sẽ thấy một chiếc máy bay cao trên trời như một vật tách biệt đang chuyển động độc lập đối với những gì xảy ra trên mặt đất. Nếu con ở trong máy bay, con cũng nghĩ mình đang ngồi trong một vật tách biệt chuyển động độc lập với mặt đất. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con đi vào không gian vũ trụ và nhìn ngược lại trái đất? Con có đem theo một chiếc ống nhòm để theo dõi chiếc máy bay kia. Con có thể nói, đúng vậy, ở một mức rất cục bộ nhỏ bé, nó đang di chuyển độc lập đối với mặt đất, nhưng khi con điều chỉnh ống nhòm để nhìn nguyên hành tinh thì con thấy nó di động trong trọng trường của hành tinh. Và nếu con có thể nhìn cả hành tinh quay trên một quỹ đạo xung quanh mặt trời, con sẽ nhận ra là nó đang đồng hành với hành tinh trên quỹ đạo đó, và nó không hề di chuyển độc lập đối với quỹ đạo đó hay độc lập đối với mặt trời.

Thuyết hỗn mang và sự buông bỏ ý muốn kiểm soát

Trên đây là một ví dụ rất thô thiển về lý duyên khởi. Tất cả là một tổng thể nối kết. Con biết thuyết hỗn mang (chaos theory) cũng nói về sự nối kết của tất cả mọi vật, và từ đó mới có câu nói quen thuộc bảo rằng “cái vỗ của một cánh bướm ở một nơi trên trái đất khởi động nguyên một chuỗi những nguyên nhân liên kết với nhau có khả năng kích hoạt sau đó một trận bão lớn ở một nơi khác trên trái đất.” Mặc dù có lẽ đó không là ví dụ thực tế nhất nhưng đó vẫn là một ví dụ có giá trị, theo nghĩa là địa cầu không phải là một hệ thống cơ học đường thẳng như khoa học đã muốn con tin trước đây do sự thiếu hiểu biết. Với thuyết hỗn mang, một cách hiểu biết sâu sắc hơn đã mở ra, cho thấy là không có nguyên nhân nào là đường thẳng giản đơn, vì mọi thứ đều nối kết với nhau đến độ một hiệu ứng rất nhỏ nơi một điểm trong hệ thống, hay một nguyên nhân nhỏ bé nơi nột phần của hệ thống, có thể đem lại một hậu quả to lớn nơi một phần khác của hệ thống.       

Điều này có ý nghĩa gì cho con trên đường tu đến quả vị Ki-tô? Phải, khi con tiến bước ngày càng cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ có khả năng nhiều hơn để buông bỏ mong muốn kiểm soát hoàn cảnh cá nhân của mình. Một cách nào đó, con gia tăng khả năng đồng sáng tạo, khả năng điều khiển vật chất và do đó điều khiển một số khía cạnh của hoàn cảnh vỏ ngoài, nhưng điều này cũng có thể trở thành một cái bẫy, một ngõ cụt. Có những người đã thực sự tinh tấn trên đường tu tâm linh, đã khắc phục các dạng vị kỷ thấp kém và vươn lên cao hơn tầng 96. Họ đã bắt đầu chứng được cái mà chúng tôi gọi là khả năng của tâm điều ngự vật chất, như con cũng thấy Giê-su từng thể hiện.

Nhưng có một số người sau đó đã mê mải chuyện này đến độ họ muốn dùng khả năng của tâm điều ngự vật chất đó để kiểm soát mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình hầu không một sự kiện trái ý nào sẽ xảy đến cho mình. Họ phải được đúng những điều kiện mà họ muốn, cho dù đó là một căn nhà đẹp đẽ nơi một vùng xinh đẹp của thế giới với thời tiết luôn luôn tuyệt hảo, hay tiền bạc dồi dào, hay bất kỳ giấc mơ nào khác mà họ từng có ở những mức thấp hơn của đường tu nhưng chưa buông bỏ được. Thế là giờ đây họ có được chút ít khả năng điều ngự thì họ đem ra sử dụng để tạo hoàn cảnh mình từng mơ ước.      

Làm như vậy có thể chính đáng trong một thời gian, nhưng sẽ tới một điểm khi con cần bỏ nó lại đằng sau để có thể biểu hiện các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô mà Giê-su đã chứng tỏ. Giê-su đã không dùng khả năng điều ngự của thày để tạo cho mình một đời sống thoải mái. Đó là vì sao thày đã không bao giờ sở hữu đất đai, không bao giờ xây nhà, không bao giờ thiết lập một cộng đồng biệt lập bao quanh mình nơi thày cùng các môn đồ của thày sẽ được bảo vệ. Trái lại, thày đi lang thang khắp mọi nơi mà không thuộc về bất cứ nơi nào, không sở hữu bất cứ gì, tương tự như chính ta vào thuở ta hiện thân là Phật – mặc dù trong những năm chót ta đã có thiết lập một đạo tràng.   

Cho nên con thấy được là tới một điểm con sẽ nhận biết rõ hơn về lý duyên khởi. Con đang khắc phục những cái ngã muốn con kiểm soát môi trường của mình, kiểm soát cuộc đời của mình, và điều này nghĩa là gì? Nghĩa là càng ngày con càng buông bỏ nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Càng ngày con càng buông bỏ mong muốn kiểm soát, con từ bỏ các kỳ vọng, con từ bỏ ngay cả những ý tưởng, những giấc mơ, những hình ảnh về đời con phải như thế nào trên địa cầu. Tại sao con lại cần làm vậy? À, quả vị Ki-tô là gì chứ? Đó là tiến trình sẽ dẫn con đến thăng thiên. Thăng thiên là gì? Là điểm con buông hết mọi thứ của địa cầu. Con ngoảnh nhìn lại địa cầu. Khi con đứng đó ở tầng 144, con ngoảnh nhìn lại: “Còn gì nữa có thể níu tôi lại ở đó?” Nếu còn thì con sẽ phải quay trở lại và giải quyết nó. Nhưng nếu không còn gì nữa thì con sẽ có thể bước qua cánh cổng vào cõi thăng thiên.

An bình phụng sự

Điều con làm khi con đến gần tới tầng 144, là con buông bỏ những cái mà ta gọi là dính mắc, nhưng con cũng buông bỏ những giấc mơ, những ý tưởng về đời con phải trải ra như thế nào. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu, con cần buông hết mọi chờ đợi là đời con phải ra sao hay không được ra sao. Con cần đạt tới điểm nhận ra là những giai đoạn chót trên đường tu của con có thể đòi hỏi con trải nghiệm một số sự việc, phải kinh qua một số tình huống mà con thà muốn tránh ở những tầng thấp hơn. Nhưng con đã tới điểm con có khả năng buông bỏ chúng, kinh qua các trải nghiệm đó trong sự an bình nội tâm. Con không bị bận tâm. Con không đổ lỗi cho Thượng đế. Con không đổ lỗi cho các chân sư thăng thiên. Con không đổ lỗi cho chính con. Con chấp nhận đời con trải ra theo cách như vậy. Con cho phép nó trải ra vì con biết là khi con đạt đến những mức này của quả vị Ki-tô, đời con không còn là câu chuyện về con nữa, nó cũng không là chuyện con muốn gì trong cương vị một sinh thể độc lập. Đời con là chuyện con sẽ phụng sự như thế nào.

Con có thể phụng sự tha nhân như thế nào? Con có thể phụng sự các chân sư thăng thiên như thế nào? Con có thể phụng sự con đường phát triển của hành tinh như thế nào? Đây không phải là điều có thể định nghĩa dễ dàng. Có rất, rất nhiều cách để làm điều đó. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người đã phải trải qua trong kiếp đầu thai chót những tình huống dường như vô cùng tủi nhục. Nhưng đó là một phần trong công việc phụng sự rộng lớn hơn mà họ có thể cống hiến. Bởi vì khi sống qua tình huống đó, họ đã kích hoạt một số nguyên nhân, một chuỗi nhân và quả vô cùng phức tạp, phức tạp hơn tất cả những gì tâm vỏ ngoài có thể hiểu được, và chuỗi nhân quả này đã tác động lên tâm thức tập thể.

Điều thật sự xảy ra là ở những mức thấp hơn của đường tu, con sử dụng tâm vỏ ngoài phân tích, đường thẳng, để hiểu mọi chuyện. Cho nên ở những mức đó khi có sự cố bất ngờ xảy đến cho con, lập tức con muốn có một cách giải thích. Như con có thể thấy qua một số câu hỏi được đặt ra trên trang mạng này, người ta muốn giải thích mọi chuyện dù nhỏ nhặt nhất trong đời mình. “Tại sao chuyện đó lại như vậy? Tại sao nó lại xảy ra? Tôi đã có thể làm gì để tránh khỏi nó?” Điều này có thể thông cảm được ở một mức nào đó, nhưng khi con đạt đến các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần bắt đầu suy ngẫm về những giới hạn của tâm đường thẳng. Con cần nhận ra là do lý duyên khởi, do sự nối kết của tất cả mọi thứ, cho nên tâm đường thẳng không thể nào hiểu và giải thích được mọi chuyện. Sẽ có những chuyện xảy ra cho con mà không có cách chi giải thích đường thẳng, ít ra là không có cách giải thích nào mà tâm đường thẳng có thể hiểu được.

Cái nhìn quả cầu

Nếu con nhìn thuyết khoa học gọi là thuyết hỗn mang, con sẽ nhận ra là nền khoa học duy vật đã đeo đuổi cùng một mục tiêu như thế hầu giải thích mọi chuyện. Mọi chuyện phải có một nguyên nhân đơn giản, người ta phải có khả năng lập ra một phương trình toán học để giải thích, hay ít ra một cách thử nghiệm khoa học nào đó để mô phỏng nguyên nhân. Trong tinh túy của nó, thuyết hỗn mang đề ra là khoa học – nền khoa học duy vật đường thẳng – sẽ không bao giờ có thể giải thích được mọi chuyện, vì sẽ có những hậu quả không mang nguyên nhân đường thẳng, vì không có nguyên nhân duy nhất nào, mà trái lại trong hệ thống nối kết đó có thể có biết bao nguyên nhân khác nhau, biết bao chuỗi sự cố phức tạp.    

Đó là tại sao thuyết đó mới có tên là thuyết hỗn mang. Bởi vì cho đến khi thuyết hỗn mang ra đời thì hầu hết các nhà khoa học vẫn tin rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ khám phá ra tất cả mọi nguyên nhân cùng mọi phương trình toán học phức tạp, và như vậy mọi chuyện sẽ có thể được tiên đoán. Nhưng thuyết hỗn mang đặt lên câu hỏi là liệu việc tiên đoán như vậy sẽ khả dĩ hay chăng, liệu sẽ có một số sự kiện mà khoa học không thể nào giải thích hay tiên đoán được. Thế là các nhà khoa học chọn một cái tên thật hấp dẫn – “hỗn  mang” – bởi vì suốt nhiều thế kỷ, khoa học đã dựa trên mẫu đồ cơ học xem thế gian như một bô máy khổng lồ, và nếu con biết các điều kiện tiên khởi cùng những định luật vận hành bộ máy, thì con sẽ có thể tiên đoán tất cả mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Đó là trật tự, sự trật tự tuyệt đối, và như vậy cái tên “hỗn mang” được chọn ra để chỉ điều ngược lại, rằng thế gian kỳ thực không phải là một hệ thống trật tự mà một hệ thống hỗn loạn.

Nhưng tất nhiên, ý tưởng một hệ thống hỗn loạn phần nào là một cái tên nghịch lý, vì làm thế nào một hệ thống lại có thể hỗn loạn và làm thế nào sự hỗn loạn có thể được hệ thống hóa? Tuy vậy, dĩ nhiên con vẫn có thể tìm kiếm một số xu hướng trong sự hỗn loạn. Khi con đạt đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, đây chính là điều con bắt đầu tìm kiếm. Con tìm kiếm một cách hiểu quả cầu hơn (spherical understanding) về sự sống thay vì một cách hiểu đường thẳng. Con nhận ra là có một số giới hạn trong những gì có thể được giải thích. Hay đúng hơn, con nhận ra là một hậu quả đặc trưng nào đó không có một nguyên nhân duy nhất mà một loạt những nguyên nhân vô cùng phức tạp đã dẫn đến hậu quả đó.

Trong một số trường hợp, điều này vượt khỏi khả năng lãnh hội của tâm vỏ ngoài. Con tới mức làm hòa với nó. Con nhận ra là con không phải hiểu mọi chuyện xảy ra trong đời con. Con không phải hiểu tại sao nó lại xảy ra. Thật ra con đạt tới điểm con làm hòa với một số sự kiện mà con không tiên đoán được, hay con không chờ đợi, hay con không nhất thiết mong muốn ở một mức nào đó của đường tu.

Cho nên một lần nữa, điều này có thể hiện ra như một nghịch lý hay một bí ẩn, bởi vì chúng tôi đã khuyến khích con làm gì chứ? Chúng tôi đã khuyến khích con nhìn vào đời mình. Chúng tôi đã dạy rằng bất cứ gì xảy ra trong cõi vật lý đều có một nguyên nhân nơi ba cõi cao hơn. Nghĩa là nếu con phát hiện nguyên nhân trong chính tâm lý của con và giải quyết cái ngã đó, thì con có thể thay đổi các điều kiện vỏ ngoài. Lời dạy này vẫn đúng – không phải là ta đang đặt lại vấn đề. Nhưng nó chỉ đúng cho cái ngã của con, đúng cho tâm con – con có khả năng nắm lấy quyền điều khiển, hay đúng hơn quyền điều ngự trên bốn thể phàm của con, và do đó con có thể kiểm soát màu sắc hay hình dạng của ánh sáng khi ánh sáng đi xuống từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc để đi vào cõi vật lý. Chuyện này, con có khả năng điều khiển. Và con có thể được ích lợi khi con áp dụng phương pháp tìm xem cái gì trong tâm lý mình đang thị hiện ra một điều kiện nào đó.

Nhưng con phải nhìn nhận (và con sẽ bắt đầu trải nghiệm điều này khi con đạt đến quả vị Ki-tô) là con nhìn thấy được sự nối kết. Đúng là con vẫn có thể điều ngự, con vẫn có thể hiểu rõ những gì trong ba thể cao đã gây ra một số hiện tượng vật lý trong đời con, và con có thể cải sửa tất cả những thứ ấy. Nhưng con không đang sống như một đơn vị lẻ loi trên hành tinh này nữa, mà con sống như một phần của hệ thống rộng lớn hơn có sự tham gia của nhiều người khác. Do đó khi con vươn lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con không tìm cách xây dựng cho mình một cuộc sống thoải mái, mà con tìm cách phục vụ tổng thể. Và đây chính là lúc con cần từ bỏ mong muốn, hay niềm tin, rằng con có thể kiểm soát mọi khía cạnh trong đời con.

Con vẫn biết là con có thể kiểm soát tâm mình cùng bốn thể phàm của mình. Con vẫn có thể tìm cách phát hiện cái ảo tưởng ở tầng tâm thức kế tiếp hầu vươn lên tầng đó. Cho nên con có thể leo đến tầng 144 bất kể những gì xảy ra trong hoàn cảnh vỏ ngoài. Sự tiến bộ trên đường tu của con không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài khi con đạt đến những tầng này. Kỳ thực, nó cũng không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài ở những tầng thấp hơn, nhưng con cứ tưởng là nó tùy thuộc. Vì vậy sẽ tới một điểm khi con nhận ra là con đã nhìn vào tâm lý mình và đã giải quyết một số vấn đề trong tâm lý. Và con có thể thấy là có những điều xảy ra trong đời con không phải là hệ quả của một tâm lý chưa giải quyết, mà là hệ quả của sự kiện con là một phần của hệ thống rộng lớn đó, và chính để con có thể phụng sự tha nhân, để con giúp đỡ một số người, để con phục vụ một nghĩa vụ cao hơn, mà con mới cần kinh qua trải nghiệm đó. Con làm hòa với điều này. Con kinh qua trải nghiệm đó và nó không phiền hà gì con, nó không ngăn cản con tiến bước trên đường tu và tiến tới những tầng cao hơn trực chỉ tầng thứ 144.

Không phải ý con mà ý Cha

Vì vậy có thể nói là ở những tầng thấp hơn của đường tu, có vẻ như con bước trên đường tu để đạt một khả năng điều ngự lớn hơn mà con xem là một khả năng kiểm soát chặt chẽ hơn. Ở giai đoạn đó, đúng là con cần làm vậy, theo nghĩa là con cần nâng mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng rồi ở trên tầng 96, con nhận ra cái đó thực sự là gì – đó là một ảo tưởng khi con nghĩ rằng đường tu tâm linh sẽ trao cho con quyền kiểm soát. Đó là một ảo tưởng khi nghĩ rằng việc hiện thân Ki-tô sẽ cho con sự kiểm soát toàn diện trên tình huống vỏ ngoài. Bởi vì để biểu hiện những tầng cao của quả vị Ki-tô, con cần buông mọi mong muốn kiểm soát, cả mong muốn kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Con nói: “Làm thế nào tôi có thể phục vụ sự sống?” Con nói – như Giê-su đã nói khi thày ngồi trong Vườn Gethsemane, dư biết rằng mình sẽ bị bắt giữ vào ngày hôm sau và rất có thể mình còn bị tra tấn và đóng đinh – và Giê-su đã nói: “Lạy Cha, nếu đây là ý Cha, xin hãy lấy chén này khỏi con. Dầu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con.” Thậm chí, con còn đạt tới điểm không cần phải làm vậy. Thày Giê-su đã làm vậy một phần là để chứng tỏ tiến trình, nhưng khi con tới điểm đã làm hòa với điều này thì con luôn luôn ở trong trạng thái: “Không phải ý con mà ý Cha được thành. Cho dù con có phải kinh qua điều gì để phục vụ một sứ mạng nào đó thì con vẫn sẵn lòng kinh qua. Con không cần biết sứ mạng đó là gì. Con không cần một chân sư thăng thiên hiện ra trước mặt giải thích cặn kẽ cho con với giọng nói oang oang tại sao nó cần xảy ra. Con không cần biết vì con tin tưởng. Con tin tưởng là con đã quy hàng bản thân mình cho một mức phụng sự cao hơn, cho nên bất cứ gì xảy ra cũng nằm trọn trong công việc phụng sự đó. Con không cần biết mọi chuyện. Con không cần dùng tâm vỏ ngoài đường thẳng để hiểu mọi chuyện.”    

Nhưng chính ở điểm này con cũng sẽ bắt đầu nhận được một cái gì vượt khỏi một lời giải thích đường thẳng. Con bắt đầu có trải nghiệm nội tâm. Có thể gọi đó là một trải nghiệm trực giác hay thần bí, nhưng kỳ thực đó là một trải nghiệm quả cầu. Đó là lúc con bắt đầu có cái mà thày Maitreya đã để cập ở cuối bài truyền đọc vừa rồi, là giờ đây con không cần đến một vị sứ giả vỏ ngoài làm trung gian giữa con và các chân sư thăng thiên, vì con đang xây dựng một mối quan hệ nội tâm cá nhân với các chân sư.

Điều chúng tôi trao cho con không phải là một lời giải thích đường thẳng dựa trên dữ kiện. Chúng tôi cho con một cái gì phức tạp hơn rất nhiều. Nhiều hơn cả một khải tượng. Nhiều hơn cả một cảm nhận. Đó là một cái gì con không thể giải thích bằng lời nói. Chúng tôi cho con một trải nghiệm nội tâm giúp con nhìn ra đâu là bước kế tiếp trên đường tu của mình. Con thu hoạch ý thức rằng đây là một phần của tấm thảm sự sống đang trải bày ra một cách vô cùng phức tạp, là lý duyên khởi, là một phần của sứ mạng phụng sự của con. Nó cho con cảm nhận an bình rằng đây chính là điều cần xảy ra cho mình. Cho nên con kinh qua nó mà không bị động tâm như trước đây khi con vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Bởi vì vào thời đó, nếu có chuyện gì xảy ra mà con không muốn, con sẽ vô cùng bận tâm, phiền hà, do con phải đối diện với nỗi sợ bị mất kiểm soát. Nhưng ở những mức cao hơn này của quả vị Ki-tô, con đã buông bỏ nỗi sợ đó, con đã để cho cái ngã đó chết đi, là cái ngã mang lòng sợ hãi đó.    

Con không sợ là mình không nắm quyền kiểm soát, vì con đã làm hòa với sự kiện là Thượng đế đang cai quản, các chân sư thăng thiên đang cai quản, Hiện diện TA LÀ của con đang cai quản. Con không cần phải luôn luôn biết điều đó với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ cần có ý thức nội tâm là mình đang nối kết. Con nối kết với cái tâm rộng lớn đó là Hiện diện TA LÀ của con, là các chân sư thăng thiên, là tâm Ki-tô. Cho nên con an bình. Con có thể nhìn lại cuộc đời của Phật và thấy ta đã đạt một mức tâm thức cao. Ta đã nhập Niết bàn, và ta đã quyết định trở lại. Xong ta bỏ ra nhiều năm trời giảng dạy, giảng dạy những lời dạy cao cấp và thiết lập đạo tràng. Thế rồi chuyện xảy ra vào cuối tuổi 81 là ta đến thăm một vị cho ta ăn thức gì đó ô nhiễm, khiến xác thân ta từ trần.      

Và con có thể tự hỏi: “Nhưng đức Phật chẳng có khả năng tiên đoán được chuyện đó hay sao, để thày không ăn thức ăn đó và thày không đến thăm nơi đó? Tại sao thày lại cho phép nó xảy ra khi thày đã đạt tới mức chứng đạt như vậy?” Đó, bây giờ con có lời giải thích rồi đó. Điều đó đã cần xảy ra như một phần của việc phụng sự của ta. Tại sao nó cần xảy ra? Con yêu dấu, không có lời giải thích đường thẳng nào mà ta có thể ban cho con qua ngôn từ. Có thể con sẽ trải nghiệm được điều này khi con đạt đến mức đó, khi con có khả năng tiếp nhận cái ma trận (matrix) phức tạp hơn đó. Nhưng tâm đường thẳng thì sẽ không thể hiểu nổi. Cho nên ở những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, phân biện Ki-tô có nghĩa là gì? Nó không có nghĩa là con luôn luôn biết được cái gì đúng, cái gì sai, con luôn luôn có thể giải thích được mọi chuyện, con có kiến thức về mọi chuyện, và tại sao chuyện này đã xảy ra và tại sao nó là như vậy.

Không, nó có nghĩa là con có một tầm nhìn rộng lớn hơn, một sự nhận biết quả cầu không cách chi chuyển thành ngôn từ, hay chuyển thành bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta tìm thấy trong tâm đường thẳng. Nhưng con có một sự thấu hiểu vượt khỏi mọi hiểu biết. Con có một viễn quan vượt khỏi mọi viễn kiến. Đó là cái cho con cảm nhận an bình tối hậu mà con có thể có được trên địa cầu – vì con an bình với bất cứ gì xảy ra, bất cứ gì trải bày ra.

Ta cũng biết lời giảng dạy này ở một mức cao hơn tâm thức của hầu hết các con, cho nên con sẽ khó lòng bắc được nhịp cầu với nó. Nhưng lời giảng vẫn được ban ra vì có một số người đã được hưởng lợi rồi đó. Tất cả các con tiếp tục bước tới trên đường tu, sẽ đạt tới điểm được hưởng lợi từ lời dạy này – nó có thể không xảy ra ngày mai hay tuần tới, nhưng đối với rất nhiều người trong số các con, nó có thể xảy ra trong kiếp này. Cho nên giờ đây lời dạy đã được ban ra, nó đã đi vào bát cung vật lý nơi con có thể tìm thấy nó, có thể suy ngẫm về nó, và do đó con có thể vươn lên tới điểm đó, là điểm con không còn cần đến giáo lý vỏ ngoài nữa vì con đã nhận được trực tiếp từ bên trong cái ma trận phức tạp hơn gấp bội, cái ma trận không thể nào ban ra bằng ngôn từ qua một lời dạy vỏ ngoài.

Con nhận thấy là rất, rất nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo, tư tưởng chính trị, khoa học hay triết lý trên địa cầu được diễn tả qua lời nói. Rất nhiều lời dạy như vậy – kỳ thực, tuyệt đại đa số các lời dạy đó – đều tự xưng là chứa đựng Lời của Thượng đế, rằng Thượng đế đã ban ra lời đó và vì vậy lời đó mô tả thực tại một cách trọn vẹn, chính xác. À, đấy là một ảo tưởng do các sinh thể sa ngã dựng lên trong mong muốn kiểm soát con người. Bởi vì nếu chúng có thể khiến mọi người tin rằng kinh thánh là lời đúng từng chữ của Thượng đế, rằng họ không bao giờ được chất vấn lời đó, hay đúng hơn không bao giờ được chất vấn cách diễn giải mà sa nhân đã đưa ra, thì họ sẽ bị mắc bẫy. Con nhận thấy là đợt truyền pháp hiện nay là một trong những giáo lý hiếm hoi trên địa cầu công khai nói rằng có sự giới hạn trong những gì có thể diễn tả bằng ngôn từ, rằng sẽ tới một điểm khi con phải vượt khỏi ngôn từ để chứng được điều gì đó trực tiếp từ cõi thăng thiên. Đây là thực tế. Đây là một lời dạy trung thực và thẳng thắn nhằm giải thoát con thay vì khiến con kẹt lại ở một mức nào đó, rồi bị lệ thuộc vào một vị đạo sư, một nhà lãnh đạo hay một khuôn mặt thẩm quyền vỏ ngoài nào đó.

Chúng tôi không hề có mong muốn hạn chế con, hay đánh bẫy con, hay ràng buộc con vào một giáo lý vỏ ngoài hay vị sứ giả này. Chính sứ giả này cũng không có mong muốn làm rào chắn giữa con và các chân sư thăng thiên hay ngăn cản bước tiến của con. Đó là tại sao chúng tôi mới có thể trao cho con một lời dạy như thế này. một lời dạy không thể trao cho một người vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Nó không thể trao cho một nhóm học trò vẫn bị mắc kẹt, không sẵn sàng nhìn xa hơn những vấn đề kiểm soát đó. Ta không nói ra điều này để khơi lên bất kỳ lòng kiêu hãnh nào, vì khi con đạt tới mức con cởi mở với lời dạy này thì cái đó cũng đã hết là vấn đề. Đây chỉ đơn giản là một lượng định thực tiễn rằng sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng bất kỳ giáo lý nào được trao qua ngôn từ chỉ có thể dẫn con đến một tầng nào đó – nếu con nhất định cứ mãi trung thành với một giáo lý thì con sẽ cản trở sự tinh tấn của mình – và con cần đạt tới điểm con thăng vượt ngôn từ, thu hoạch tầm nhìn quả cầu và nắm bắt ma trận của hoàn cảnh của mình như nó được thiết kế để trải bày ra.

Ta không muốn nói là chúng tôi đã trao truyền cho con trong hội nghị này mọi điều có thể được trao truyền về quả vị Ki-tô hay phân biện Ki-tô. Tất nhiên chúng tôi đã đưa ra rất nhiều giáo lý khác về đề tài này, và rất có thể chúng tôi sẽ đưa ra thêm nữa trong tương lai. Nhưng những gì chúng tôi đã đưa ra, chúng tôi cảm thấy đó có thể là hữu ích nhất cho cộng đồng đệ tử. Không chỉ có các con đang theo dõi đợt truyền pháp này mà còn có cả một tập thể học trò rộng lớn hơn, là những người có thể sẽ bước vào tìm giáo lý này trong một tương lai không xa lắm.

Cho nên đây hoàn toàn không phải là giáo lý tối thượng, vì quả vị Ki-tô vốn là một tiến trình tuần tự, và không một giáo lý tối thượng nào có thể được đưa ra. Nhưng đó là lời dạy mà chúng tôi cảm thấy hữu ích nhất dựa trên hiện trạng của lý duyên khởi trên hành tinh này. Cho nên chúng tôi tin tưởng lời dạy, tin tưởng con sẽ dùng lời dạy này để khởi lên cái vỗ cánh của bướm sẽ kích hoạt một chuỗi tác động liên kết mà với thời gian sẽ ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể cũng như trên lý duyên khởi đang dẫn dắt sự sống trải bày ra trên hành tinh.

Và với lời này, ta muốn gửi lời cảm tạ của tất cả các chân sư đến các con, vì có biết bao người đã sẵn lòng tham gia hội nghị này, đã đặt hết chú tâm vào đề tài phần nào khó khăn này, và cho phép luân xa của mình được sử dụng để phát sóng thông điệp này vào tâm thức tập thể. Ta đã có thể dùng hình ảnh một chiếc cánh bướm. Nhưng tác dụng của một hội nghị như thế này với bao nhiêu người hòa điệu vào, hiển nhiên lớn hơn gấp bội cái vỗ của một cánh bướm. Ta không mong muốn gán bất kỳ hình ảnh nào lên đó. Hội nghị này tất nhiên đã có một tác dụng to lớn, mà với thời gian sẽ đưa hành tinh này vào một hướng đi cao hơn, một hướng đi quyết định. Cho nên vì lý do đó chúng tôi vô cùng biết ơn. Ta niêm các con và ta niêm hội nghị này trong niềm an bình hoan hỉ và luôn luôn tự thăng vượt của Phật.

Quả vị Ki-tô là sự buông bỏ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/12/2020. Bài này được truyền đọc trong Webinar 2020 – Tăng triển khả năng phân biện Ki-tô của bạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Chúng ta đã bàn về bốn tầng của tâm, là bốn thể phàm của con, và các sa nhân đã nỗ lực như thế nào để ngăn chặn khả năng phân biện Ki-tô của con ở các thể này bằng cách lôi kéo con vào những cơn lốc xoáy, những khuôn nếp phản ứng khác nhau. Nhưng tại sao chúng lại làm được điều đó? Tất nhiên, chúng làm được là vì con có cái xà trong chính mắt con, con có một số tâm lý chưa giải quyết – là điều hoàn toàn bình thường trên đường tâm linh. Chúng ta đã bàn về các cấp độ khác nhau trên đường tu, về 144 tầng tâm thức, và rõ ràng khi con lần đầu tiên tìm thấy đường tâm linh – bất kể lúc đó con đang ở tầng tâm thức nào trong kiếp đầu thai này – con cũng không thể nắm hết được những khai ngộ và ảo tưởng ở những tầng cao hơn, con không thể nhìn xa hơn tầng tâm thức bấy giờ của con.     

Cho nên, một khi con đã học cách nhận diện phần nào những gì sa nhân đang cố làm từ bên ngoài để phá hoại khả năng phân biện Ki-tô của con, thì con cần bắt đầu xem tới, đâu là những điều kiện bên trong đã khiến con dễ bị chúng thao túng đến thế. Và điều này, tất nhiên, có nghĩa là con cần bắt đầu xem xét tâm lý mình. Và ở đây con cần phân biệt một số chuyện. Ta biết nhiều người trong số các con đã theo học đợt truyền pháp này từ khá lâu và đã vượt qua chướng ngại này, nhưng ta vẫn muốn đưa ra cho những ai lần đầu đọc lời dạy này mà chưa theo dõi những bài dạy trước đây.

Ta đã từng so sánh chúng tôi, các chân sư, với những nhân viên bán xe cũ, chuyên môn nhử mồi xong đánh tráo. Chúng tôi quảng cáo một chiếc xe rẻ mạt, xong một khi con đã vào trong tiệm rồi, chúng tôi mới cố bán cho con một chiếc xe mắc tiền hơn. Nói cách khác, để khiến con đoái nhìn vào giáo lý của chúng tôi, chúng tôi phải đưa ra một cái gì hấp dẫn đối với mức tâm thức hiện tại của con cho dù mức đó là gì. Xong một khi con đã bắt đầu học hỏi giáo lý, chúng tôi cần đưa con lên tầng cao hơn của đường tu nơi con thực sự bắt đầu tinh tấn, là sự tinh tấn đặc trưng của một người đang mặc lên chiếc áo của quả vị Ki-tô cá nhân. Cho nên khi con nhìn vào cộng đồng tâm linh Thời mới nói chung, con sẽ thấy mỗi người đang ở một trình độ tâm thức khác nhau, mỗi người có một trọng điểm khác nhau, ý tưởng và kỳ vọng khác nhau về những điều mình có thể gặt hái trên đường tu tâm linh.

Rồi sẽ đến một điểm khi để tiến xa hơn trong phân biện Ki-tô, con sẽ cần xem xét: “Đâu là động lực đã khiến tôi đi theo con đường tâm linh? Tại sao tôi đã cất bước? Tại sao tôi đã đi cho tới điểm này? Tôi đã chờ đợi những gì từ đường tu?” Có lẽ con chưa từng tự hỏi như thế một cách ý thức – đa số hành giả tâm linh thì không. Thường họ tìm thấy một phong trào tâm linh, rồi phong trào đó, giáo lý đó vang dội với cái gì bên trong họ, và họ không nhận thức rõ ràng rằng sở dĩ họ đi theo như vậy là vì phong trào đã hứa hẹn là họ sẽ thỏa mãn được bất cứ kỳ vọng nào của họ về đường tu. Nói cách khác, đường tu sẽ đem lại gì cho họ? Phong trào hay giáo lý đã vang dội trong họ có hứa ở đâu đó là các kỳ vọng của họ sẽ được thỏa mãn. Cho nên điều rất quan trọng là con phải lui lại và xét xem kỳ vọng của con về đường tu là gì.

Đại đa số hành giả, và các con đã theo đợt truyên pháp này từ khá lâu, sẽ có thể nhìn ngược lại thời con lần đầu tiên ý thức đường tu và sẽ nhận diện được điều này trong tâm mình. Hầu hết các con đều có một kỳ vọng rõ rệt là đường tu sẽ làm gì đó cho mình, sẽ đem lại điều gì đó mà mình muốn hay cần trên địa cầu. Có những lợi lạc liên quan tới đời sống ở đây trên điạ cầu mà con sẽ có được, và con mong mỏi đời con sẽ trải ra như thế nào trong tương lai. Điều này không có gì sai trái – con không thể tránh khỏi đã suy nghĩ như thế, nhất là đối với những ai đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, dù đó là xã hội tôn giáo hay phi tôn giáo. Các con đều đã được dạy dỗ, được lập trình để coi trọng trên hết đời sống trong vũ trụ vật chất.

Các sa nhân đã từ hàng ngàn năm cố gắng lập trình nhân loại để con người đặt trọng tâm trên hết vào cuộc sống thế gian. Tất nhiên, các tôn giáo cũng đưa cho con một lối thoát khỏi thế giới này, đoán chừng là con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Nhưng vì chuyện đó xảy ra sau kiếp này, đó không phải là điều mà hầu hết người theo đạo sẽ bỏ thời gian ra mà nghĩ đến – đâu là những yêu cầu để vào được Nước Trời, dù người ta định nghĩa Nước Trời là gì? Và một lần nữa, họ sẽ chỉ tập trung vào những gì tôn giáo họ có thể làm cho họ trong cuộc sống ngay đây trên trái đất. Khi con nhìn vào người tâm linh nói chung, con sẽ thấy họ có rất nhiều kỳ vọng khác nhau về những gì đường đạo sẽ đem lại cho họ. Chẳng hạn, một số người kỳ vọng họ sẽ chữa lành bệnh tật thể chất, một số kỳ vọng sẽ thị hiện rất nhiều tiền để mua sắm bất cứ gì mình muốn, một số kỳ vọng sẽ đạt được tâm hồn thanh thản và đời sống an lạc, có thể nơi một tu viện hẻo lánh. Một số sẽ kỳ vọng cả điều ngược lại là họ sẽ có quyền năng bước ra thế giới và tác động mạnh mẽ trên xã hội và người chung quanh.

Có rất nhiều kỳ vọng dưới nhiều hình thức khác nhau như vậy đối với mỗi người, và như ta vừa nói, chuyện đó không có gì sai trái. Con phải khởi sự ở một mức nào đó, mức tâm thức hiện tại của con. Thật là lô-gíc khi con sẵn sàng bước trên đường tu ở tầng tâm thức thứ 48, con cởi mở hơn với con đường tâm linh để thực sự phát triển tâm thức. Con sẽ có những kỳ vọng này và chúng sẽ theo con cho tới tầng 96. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần cứu xét kỳ vọng đó và bắt đầu tự hỏi: “Đi theo Ki-tô sẽ đòi hỏi tôi phải làm gì?”

Nếu con nhìn ngược lại cuộc đời của ta cách đây 2000 năm, nếu con đọc được giữa những hàng chữ, con sẽ thấy điều mà ta thực sự giảng dạy cho các đệ tử của ta và dân chúng nói chung là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Đi theo Ki-tô có nghĩa là đi theo một vị thày ở một mức tâm Ki-tô cao hơn mình, và như vậy con mới lần hồi khoác lên tâm Ki-tô. Con có thể đọc lại một số lời ta giảng thời đó và con thấy ta nói đến sự cần thiết phải sẵn sàng mất sự sống để theo Ki-tô. Con phải không bám mắc vào Mammon, con cần để cho những người chết đi chôn người chết. Nói cách khác sẽ tới một lúc, để bước theo Ki-tô con phải buông bỏ một cái gì đó. Điều này thực sự có nghĩa là tạm thời trên đường tâm linh, từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng đường tâm linh chỉ là chuyện hoàn thành một cái gì đó trong đời sống trên trái đất.

Ta không nói rằng đường tu sẽ không thực hiện được điều gì cho con. Điều ta muốn nói là giữa hai tầng 48 và 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng động lực chủ yếu khi theo đường tu là con kỳ vọng sẽ đạt được lợi lạc gì đó trong đời sống của con nơi vũ trụ vật chất. Bây giờ khi con tiến đến gần mức 96, con cần giải quyết kỳ vọng này bởi vì nó sẽ không đưa con xa hơn mức 96 đâu. Tới một điểm con phải bắt đầu nhìn nhận rằng mục đích thực sự của đường tu không phải là đạt được một lợi thế tạm thời trong thế gian này. Mục đích thực sự là đạt được sự sống vĩnh hằng vượt khỏi thế gian, và đây là một vấn đề rất khác với cái nhìn khi con mới khởi sự. Nó rất khác với cái nhìn mà hầu hết những ai theo tôn giáo đều có về sự cứu rỗi, hay thế nào là vào Thiên đàng cho dù mỗi tôn giáo có định nghĩa Thiên đàng là gì. Và sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng những tầng cấp cao hơn của tâm Ki-tô, những tầng tâm Ki-tô có ý thức hơn, sẽ đòi hỏi con bỏ lại mọi thứ.

Thật ra để bước lên những tầng mức cao đó của tâm Ki-tô, con sẽ phải đi qua một giai đoạn nơi con bỏ lại hết thứ này rồi tới thứ khác. Con lần lượt buông bỏ một ý niệm nào đó về sự sống, một kỳ vọng nào đó, một quan điểm nào đó, và một trong những điều con phải buông bỏ là sự mong đợi rằng đường tu sẽ đem lợi lạc gì cho con. Đó là tại sao con cần xem xét các kỳ vọng của con rằng đường tu sẽ làm gì cho mình, và mình sẽ có được gì nhờ nó. Nếu con chờ mong, chẳng hạn, là con sẽ thị hiện được vô số của cải, sẽ tới lúc con phải nhìn lại và tự hỏi tại sao con cần của cải bất tận như thế, con mong thực hiện được điều gì với nó, con sẽ có cảm giác thế nào khi con có của cải? Và con cần bắt đầu tự hỏi: “Ừ nhỉ, ngay cả nếu tôi có số tiền bất tận đó, nó có sẽ nhất thiết cho tôi cảm giác mà tôi đang tìm?”

Con hãy nhìn rất nhiều người giàu có đến độ họ không thể tiêu hết tiền, họ đang cảm thấy thế nào? Tâm trạng tâm lý của họ ra sao? Hầu hết đều không cảm thấy thoải mái, an bình, vì họ lo lắng kiếm tiền nhiều hơn cho dù họ không cần, hay họ lo lắng làm sao không bị mất tiền. Họ vẫn căng thẳng. Họ không an lạc. Họ không dùng tiền của họ để làm gì cho tha nhân, một điều mà bao nhiêu người tâm linh đều mơ ước làm được. Con nhìn thấy vậy và con nghĩ: “Chà, chắc chắn mình sẽ làm tốt hơn vì mình là người tâm linh.” Con sẽ làm tốt hơn nếu con bước lên cao hơn và nhận xét đơn giản: điều mà con đang tìm kiếm – cho dù đó là sự thay đổi vật lý, thành quả vật lý nào đó mà con mong có được do bước chân trên đường đạo – động lực khiến con đi tìm cái đó chỉ là để sản xuất ra một cảm giác nào đó trong tâm con.

Con cần bước lên và nhận ra rằng khi con đạt được những điều kiện vỏ ngoài như thế, con sẽ không tự động sản xuất được cám giác con tìm, bởi vì cảm giác xảy ra trong tâm lý con, mà tâm lý con, ít ra là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, thì không lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Cảm giác bên trong, sự trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm sống của con, tất cả được định đoạt bởi những gì xảy ra trong bốn thể phàm của con. Vì vậy, dù con có nghĩ rằng sự giàu có sẽ sản xuất ra cảm giác bên trong mà con muốn, nhưng nó không thể làm được. Chỉ khi nào con làm việc trực tiếp với tâm lý của mình, giải quyết những gì đang chặn nghẽn cảm giác bên trong thì con mới có được cảm giác đó. Con có thể kỳ vọng là một ngày kia con sẽ đạt khả năng đi thuyết phục, truyền đạo cho người khác, sẽ cải thiện hành tinh và phục vụ mục tiêu của các chân sư. Đó có thể chỉ là những gì ngoại tâm con nhìn thấy, là cách ngoại tâm con nhìn thấy. Nhưng khi con nhìn vào sâu hơn, có một cảm giác ở đằng sau mà con đang mong có được, và cảm giác này sẽ không do khả năng vỏ ngoài đem lại. Nó chỉ có thể đạt được sau khi con giải quyết những yếu tố tâm lý đang ngăn chặn cảm giác, nếu đó là cảm giác thanh cao chứ không là cảm giác nào đó dựa trên sợ hãi.

Đấy, có một khúc rẽ trên đường đạo mà con sẽ không thể vượt qua cho tới khi con hoàn toàn nhìn nhận rằng bước kế tiếp của con là phải đặt trọng tâm vào việc giải quyết tâm lý của con. Một số người sẽ nhận ra điều này trước tầng 96, nhưng con cần phải nhận ra thì mới bước xa hơn tầng 96. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tới chỗ nhìn nhận rằng con phải buông bỏ mọi kỳ vọng, những kỳ vọng mà con đã ôm giữ từ khi con mới cất bước, những kỳ vọng đã là động cơ khiến con bỏ công sức ra cho đến mức này. Tất cả phải được bỏ lại.

Nhiều hành giả tâm linh, tuy tiếng là người chân thành tu tập theo một giáo lý hay một pháp môn, không sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng của mình. Họ bám chặt vào những kỳ vọng này và không thể buông ra. Tại sao như thế? Tại vì cái mà ta gọi là ngã gốc (primal self). Như các chân sư đã giải thích cặn kẽ trong sách “Healing your spiritual traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) và những quyển khác trong cùng bộ, đã có một thời điểm khi lần đầu tiên con gặp gỡ sa nhân và phải đối mặt với ý muốn vô hạn của chúng nhằm tiêu diệt con như một sinh thể tâm linh. Sự kiện đó đã khiến con bị cú sốc, bị tổn thương sâu sắc, và để đối phó với chấn thương này hầu tiếp tục sống và sinh hoạt trên hành tinh, con đã tạo ra một cái ngã gốc. Ngã gốc đó có chức năng chủ yếu là để kìm nén, che giấu nỗi đau của cái gọi là chấn thương nhập đời, chấn thương vũ trụ nguyên thủy. Ngã gốc được con tạo ra để phản ứng lại những gì xảy ra cho con trên điạ cầu khi con đối diện với sa nhân.

Đối với một vài người, sự kiện này đã xảy ra trên một hành tinh khác, nhưng dù sao thì lần đầu tiên con gặp sa nhân, con đã bị cơn sốc khi nhận ra là có ai đó đang hoàn toàn sẵn sàng tiêu diệt mình nếu họ có thể. Con cảm thấy đau đớn vô cùng vì con không thể tưởng tượng nổi có ai muốn tiêu diệt mình, bởi vì con là một người tích cực luôn muốn giúp mọi người và đưa hành tinh lên một tầm cao hơn. Con không thể tưởng tượng có ai cảm thấy bị đe dọa đến độ phải hủy hoại con. Và con đứng đó, con gặp sự kiện đó, con bị choáng váng, ngập tràn đau khổ khi sa nhân không ngừng tấn công con, buộc con đủ mọi thứ tội vạ trong đủ mọi hoàn cảnh vỏ ngoài khác nhau.

Ngã gốc được tạo ra để bù đắp cho cơn sốc, cho cảm giác mất mát – mất mát sự trong trắng của con – và trên hết để che giấu mất mát đó hầu con không phải sống lại nỗi đau đã trải qua, và hơn nữa để tạo lên niềm kỳ vọng là một ngày kia con sẽ tìm lại được tâm trạng trinh nguyên mà con đã mất. Con có khả năng trở lại cái tâm trinh nguyên ấy, nhưng con thấy không, ngã gốc đã sinh ra từ tình huống này. Nó không sinh ra từ tâm trinh nguyên của con. Ngã gốc thực sự không thể hiểu nổi tâm con trước khi chấn thương xảy ra, nó chỉ có thể đối tác với tâm trạng của con sau đó mà thôi. Ngã gốc không thể cảm thông được tâm Ki-tô, không thể cảm thấu được sự trong trắng chân thực là tâm của con trước sự cố. Ngã gốc định ra những mục đích mà dường như con phải đạt, nhưng đó không phải là mục đích thật, không là mục đích thực tế, không là muc đích có giá trị. Ngã gốc cũng không thể nhìn xa hơn cái tầng tâm thức nơi nó được sinh tạo, tất nhiên là gắn liền với địa cầu, cho nên nó không thể hiểu được tâm Ki-tô  Nó không thể hiểu rằng chỉ bằng cách vượt lên tâm thức cao hơn thì nó mới tìm được sự an bình nội tâm thực sự và lấy lại sự trong trắng.

Ngã gốc chỉ có thể đối tác với trái đất, và bởi vì nó nghĩ rằng một số điều kiện trên trái đất đã khiến con đánh mất trạng thái trinh nguyên, thì bắt buộc phải có những điều kiện khác trên trái đất sẽ giúp con lấy lại được trạng thái đó. Thế là nó bị kẹt cứng trong một vòng luẩn quẩn khiến nó đi tìm một trạng thái của tâm, một điều kiện nào đó trên địa cầu, dựa trên sự kỳ vọng rằng điều kiện này sẽ sản xuất ra một cảm giác không hề có trên địa cầu.

Tâm trong trắng nguyên thủy là cái mà con đã đem theo con trước khi con gặp sa nhân, tâm này không xuất phát từ những điều kiện trên địa cầu. Con đánh mất nó không phải vì con đã thực sự đánh mất nó, mà con chỉ đánh mất sự nhận biết về nó. Bởi vì cái Ta Biết bị cơn sốc nặng nề đến nỗi nó sinh tạo ra những cái ngã tách biệt này, khiến con bây giờ đứng trong ngã tách biệt, con nhìn ra ngoài qua phin lọc của ngã tách biệt, và đây là lý do con không thể thấy được là con chưa bao giờ đánh mất sự trinh nguyên, con chưa bao giờ đánh mất cái gì hết. Là sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con không thể mất gì được cả. Tâm trong trắng là sự kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, và sự kết nối này không thể nào đánh mất. Nó chỉ có thể bị bao phủ bởi những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tách biệt. Con không làm sao thấy được nối kết của con với Hiện diện TA LÀ chỉ vì con đứng trong ngã mà nhìn ra. Cách duy nhất để con lấy lại sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là đứng ra ngoài ngã.

Nhưng để đứng ra ngoài ngã, con phải nhìn ngã. Ngã gốc không thể hiểu nổi tiến trình này. Nó nghĩ là trên địa cầu có một số điều kiện đã khiến con mất một cái gì đó. Nó không biết rõ cái đó là gì, nhưng nó biết đại khái con đã mất gì đó. Nó đang cố giúp con lấy lại cái con đã mất. Nhưng nó nghĩ cách duy nhất là con phải có được một số điều kiện nào đó trên trái đất. Và đó là lý do tại sao khi lần đầu tiên con gặp đường tu tâm linh cho dù dưới hình thức nào – một lời dạy của chân sư hay bất cứ gì khác – thì ngã gốc có kỳ vọng rằng bằng cách theo đường tâm linh này, bất kể con định nghĩa đó là gì, con sẽ đạt được khả năng, quyền năng thay đổi hoàn cảnh bên ngoài để nó sản xuất ra cái điều kiện bên trong mà ngã gốc cho là mục đích cần đạt. Nhưng tiếc thay, trong cốt lõi, cái điều kiên mà ngã gốc thấy được đó không phải là một điều kiện thực tế. Điều mà con thực sự cần lấy lại là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và cái này thì không nằm trên trái đất và do đó không thể được sản xuất bởi bất cứ điều kiện nào trên trái đất.

Con có thể nhìn thấy rất, rất nhiều người đã đi theo một phong trào tâm linh nào đó rồi rút lui khỏi xã hội, ẩn cư nơi vùng hẻo lánh xa xôi nơi họ được che chắn khỏi sự nhộn nhịp hối hả của cuộc sống hàng ngày, và con có thể thấy nhiều người trong số họ tu tập những pháp môn thật khắc khổ suốt hàng chục năm trời trong khung cảnh đó. Nhưng rất, rất ít người đạt được sự tinh tấn mà họ mơ ước. Tại sao vậy? Bởi vì đa số giáo lý và phương pháp tâm linh trên địa cầu thường hứa hẹn những kết quả tự động, hứa rằng nếu con theo học giáo lý, thực hành những tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ đạt được mục tiêu mà không cần xem xét tâm lý của mình.

Con hãy để ý câu vừa rồi. Đa số giáo lý tâm linh hứa hẹn con sẽ đạt được bất kỳ mục đích nào con mong muốn mà không cần xem xét đến tâm lý của mình. Các chân sư đã đưa ra những lời dạy vô cùng thâm sâu và chi tiết về ngã gốc cũng như về những cái ngã tách biệt khác tuôn ra từ đó, và lời dạy này trong tinh túy thật đơn giản. Ngã tách biệt, ngã gốc và mọi cái ngã riêng biệt khác luôn luôn phóng chiếu ra ý tưởng là con có một số vấn đề mà con phải giải quyết, một số điều kiện mà con phải đạt được. Nhưng kỳ thực, đây là một ảo tưởng. Khi nào con còn tin rằng có những điều mà con phải làm, những điều mà con phải đạt, hay những điều mà con phải giải quyết, thì con sẽ vẫn còn kẹt trong ngã đó. Và đây, cái chìa khoá để đi xa hơn một mức nào đó của tâm Ki-tô thực sự là phải giải hóa ngã gốc. Nhưng con không thể làm điều này chừng nào con còn cố giải quyết những vấn đề do ngã gốc định ra, hay có thể nói, giải quyết cái vấn đề đã định ra ngã gốc. Con cần bước tới điểm khi con có thể, trong tư cách cái Ta Biết, bước ra khỏi ngã gốc, nhìn thẳng vào nó và hỏi: “Đây có thực sự là một vấn đề không? Vấn đề này có bao giờ giải quyết được không? Và ngay cả khi giải quyết được thì tôi sẽ đạt được gì?”

Và con ngộ ra, con chiêm nghiệm ra sự thật rằng đó không phải là một vấn đề có thật, và con không hề được gì khi giải quyết nó. Ở điểm này, con sẽ tách ra khỏi ngã đó. Như các chân sư đã chỉ cho con cách thực hành và tu tập, con có thể để cho nó chết đi. Thay vì cố giải quyết vấn đề, con chỉ đơn giản để cho nó chết đi. Nói cách khác, điều mà ngã cũng như sa nhân phóng chiếu vào con chỉ là ý tưởng rằng con có thể đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi bằng cách giải quyết vấn đề vỏ ngoài. Nhưng các chân sư nói với con, con sẽ không bao giờ đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi cho tới khi nào con buông bỏ sự tìm cầu cách giải quyết vấn đề, tìm cầu cách sản xuất điều kiện vỏ ngoài. Con buông nó ra. Con để cho ngã chết. Con không tìm cách giải quyết bất cứ gì, bù đắp cho bất cứ gì hay đạt được bất cứ trạng thái nào. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết.

Con hãy đọc lại câu ta nói trước kia: “Can hệ gì tới ngươi? Còn con, hãy theo ta”. Ý nghĩa thật của câu này là sẽ có rất, rất nhiều điểm trên đường tâm linh khi con phải đối mặt với một ảo tưởng, một khai ngộ nào đó. Ảo tưởng là khi có những điều mình phải làm, những chuyện mình phải giải quyết. Nhưng thực sự điều con cần làm là nhận ra cái đó xuất phát từ một ngã tách biệt, và thay vì cố giải quyết, con từ bỏ mọi nỗ lực giải quyết. Con để yên cho ngã chết vì con đã ngộ được rằng việc bước theo chân Ki-tô quan trọng hơn gấp bội chuyện sản xuất một thành quả vỏ ngoài trên địa cầu.

Bây giờ, ta trở lại những gì ta đã nói về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Nếu con quan sát một cách vô tư những người tuyên bố theo Trump, con sẽ thấy họ bị xúc động mạnh mẽ. Họ dính mắc với Trump và hình ảnh mà ông phóng ra. Cái mà họ thật sự dính mắc là cái cảm giác mà ông đã cho họ, và họ tin rằng cách duy nhất để có được cảm giác này là qua Trump, qua việc ông là tổng thống, ông là người lãnh đạo. Những người này đang cố làm gì? Họ đang cố sản xuất ra một cảm giác, nhưng họ làm vậy qua trung gian một điều kiện trên địa cầu, và bây giờ họ phải đối diện với sự kiện điều kiện này có thể sẽ thay đổi và Trump sẽ không còn là tổng thống nữa. Làm sao thoát khỏi sự thể này? Chỉ bằng một cách là nhận ra có một cái gì hơn thế nữa, quan trọng hơn điều kiện vỏ ngoài đó đối với con. Nếu con là học trò của chân sư và con tin vào Trump, làm thế nào con sống tiếp được khi ông rời Nhà Trắng? Phải, chỉ bằng một cách là sẵn sàng tự nhủ: “Chuyện đó can hệ gì tới tôi? Vì tôi đi theo Ki-tô”.

Con nhận ra việc nâng cao khả năng phân biện Ki-tô của mình quan trọng hơn bất kỳ điều kiện nào bên ngoài, cho dù tổng thống có là ai. Quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc ai làm Tổng thống Hoa Kỳ. Nếu con nghĩ là nó tùy thuộc thì con chưa thực sự hiểu tâm Ki-tô là gì, và con cần học hỏi rất nhiều lời dạy của ta về tâm Ki-tô. Vậy làm thế nào con sống tiếp được từ điểm này trở đi? Chỉ bằng một cách là buông bỏ một cái gì đó, chỉ bằng cách nhận ra rằng cảm giác mà con mong muốn không thể phát xuất từ điều kiện bên ngoài mà từ sự kiện con làm việc trực tiếp với tâm lý của con. Đây là cốt lõi của giáo lý các chân sư trong đợt truyền pháp này. Nếu con đã đến mức không thể áp dụng những giáo lý này, đó là chọn lựa của con, và con hãy ra đi bình an, hoặc con cũng có thể ra đi không bình an nếu con muốn như vậy. Nhưng các chân sư không thể giúp những ai không sẵn lòng buông bỏ một cái gì.

Ta chỉ dùng sự kiện trên như một ví dụ, bởi vì dĩ nhiên có rất nhiều ví dụ khác. Con nhìn vào những người tâm linh nói chung, con nhìn học trò của chân sư trong các đợt truyền pháp trước hay ngay cả trong đợt này, con sẽ thấy rất nhiều người tới một điểm sẽ đụng phải một điều gì đó mà họ không sẵn lòng buông bỏ. Rồi hoặc là họ ngừng tiến bước trên đường tâm linh, hoặc họ bước vào con đường tay trái, con đường công truyền, nơi họ từ chối thay đổi một điểm gì đó trong tâm lý họ, họ từ chối từ bỏ một cái gì đó để theo Ki-tô. Họ đã không nói được: “Chuyện này can hệ gì tới tôi? Tôi đi theo Ki-tô, tôi sẽ đi theo Ki-tô,” mà ngược lại họ đã như người thanh niên kia nói với ta rằng: “Con muốn theo Giê-su lắm chứ, nhưng trước tiên con có thể đi chôn cha con được không?” Nói cách khác, họ có một việc gì đó trong thế gian mà họ phải làm trước khi đi theo Ki-tô, và như thế họ không thể nào theo Ki-tô vì lúc nào cũng sẽ có những công việc trong đời phải làm trước. Ta đã nói gì với thanh niên đó? “Hãy để cho kẻ chết đi chôn người chết”. Hãy để cho những ai bị kẹt trong tâm thức chết đối phó với mọi vấn đề mà họ tưởng họ phải cần đối phó. Con có thể từ chối đối tác với tất cả những vấn đề này, buông chúng đi, rồi cất bước cùng Ki-tô đi tới những tầng cao hơn của đường tu. Nhưng tất nhiên, tại sao họ không làm được? Bởi vì họ chưa chịu nhìn vào cái ngã gốc luôn nghĩ rằng nó phải sản xuất ra một cảm giác nào đó bằng cách sản xuất những điều kiện cụ thể ở đây trên địa cầu.

Có thể nói, đây là ảo tưởng ngàn đời. Đây chính là bí mật của con đường tâm linh nếu chẳng qua có một bí mật. Đây là bí mật vì có rất ít giáo lý nào thật sự tiết lộ với những lời thẳng thắn, rõ ràng như thế. Lý do một phần là vì, thực tế mà nói, việc nâng cao tâm thức tập thể trên địa cầu là một tiến trình chậm chạp, lần hồi. Không có ích gì đưa ra một giáo lý khi chưa có một số người sẵn sàng nắm lấy và đem ra thực hành. Nhưng dù sao đi nữa, cốt lõi của vấn đề là như sau: “Khi bảo rằng con người chưa sẵn sàng áp dụng giáo lý thì điều này có nghĩa gì?” Có nghĩa là con người chưa sẵn sàng nhìn vào bản thân mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình. Bao nhiêu tín đồ đạo Cơ đốc tự nhận là họ sùng tín ta, nhưng liệu họ có sẵn lòng đoái nhìn đến những lời ta đã dạy, chẳng hạn như phải nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì phán xét người khác theo cái giằm trong mắt người? Đây thực sự là một điều mà con phải buông bỏ, một trong những điều khó bỏ nhất khi con lên cao hơn tầng thứ 96. Con thấy không, các sa nhân là một ví dụ rõ ràng nhất của tình trạng tư duy này. Chúng từ chối nhìn vào bản thân, vào cái xà nơi mắt chúng, để chỉ tập trung vào cái giằm trong mắt người khác, luôn luôn vạch ra cái giằm đó, luôn luôn hướng ra bên ngoài và nghĩ rằng vấn đề nằm ở bên ngoài, rằng người khác có lỗi và cần phải thay đổi.

Các sa nhân bị mắc bẫy trong tâm thức này và không thể vượt ra ngoài cho đến khi chúng quyết định quay đầu lại. Nhưng dù quay đầu thì chúng cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để vượt qua được. Chúng đã tạo ra trên hành tinh này một con quái vật tập thể vô cùng hùng mạnh luôn cuốn hút mọi người vào tâm thức đó. Vì thế mà con luôn phán xét người khác. Có bao nhiêu trường hợp như thế, như khi con dựng lên ai đó thành con dê tế thần, đổ tội cho họ là nguyên nhân những vấn đề của con, và con tin rằng nếu con có thể loại trừ hay thay đổi con dê thì vấn đề của con sẽ giải tỏa. Vấn đề sẽ tự nhiên biến mất như trong phép lạ. Đây là một con quái vật tập thể vô cùng kiên cố, và một lần nữa, khi con lần đầu tiên gặp giáo lý của chân sư, con vẫn bị nó ảnh hưởng vì con đã lớn lên trong một môi trường lấy chuyện phê phán người khác làm chuẩn. Nó hoàn toàn tự nhiên và ta hoàn toàn thông cảm. Ta nói như vậy bất kể con đã lớn lên ở đâu với rất, rất ít ngoại lệ.

Trong xã hội có một chuẩn mực, một cách cư xử gọi là bình thường. Đó là cách cư xử tại Đan Mạch, người Đan Mạch là như thế, người Mỹ là như thế, người Pháp, người Đức, người Anh cũng là như thế, vân vân. Mọi quốc gia đều có chuẩn mực này, chuẩn mực mà một người tiếng là tốt lành trong xã hội phải tuân thủ, và con được nuôi nấng lớn lên để phê phán chính mình lẫn người khác dựa theo chuẩn này. Con có tuân thủ hay không tuân thủ? Có những áp lực và biện pháp được áp đặt lên những ai không tuân thủ. Cho nên thật là không thể tránh được khi con tìm thấy giáo lý các chân sư, con đã mang sẵn nguyên cái tâm thức này trong bốn thể phàm của con. Con mang những cái ngã đã được tạo ra để đáp ứng tình trạng đó, và có lẽ suốt nhiều kiếp đầu thai, rất có thể con đã củng cố cho nó lớn mạnh hơn. Những cái ngã này không ngừng lượng giá chính con, lượng giá người khác và mọi sự xảy ra chung quanh, nó phán xét tất cả. Cho nên chuyện gì xảy ra khi lần đầu con gặp giáo lý chân sư dạy về quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? Đúng vậy, những cái ngã này đồng loạt kêu lên: “Hoan hô! Đây hẳn là miền đất hứa, vì nếu chúng ta có thể đạt được quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô, chúng ta sẽ có một chuẩn mực tuyệt đối để phán xét mọi người”.

Trong hầu hết người tâm linh, có một cơ chế tâm lý vận hành. Con đã lớn lên trong một xã hội chắc là bị chi phối bởi một tôn giáo nào đó, hoặc cũng có thể bởi tôn giáo của chủ nghĩa duy vật khoa học. Con đã luôn cảm thấy con không thực sự muốn là một người duy vật, nhưng con cũng không làm sao theo được tôn giáo đang chiếm ưu thế. Cho nên con có cảm tưởng mình là một người đứng bên lề, bị ruồng bỏ. Con đã luôn cảm thấy mình bị phán xét bởi người ngoan đạo lẫn người duy vật, thậm chí cả người cộng sản tùy theo con lớn lên ở đâu. Con cảm thấy mình là người ngoài cuộc. Con bị người ta đánh giá vì con không theo một chuẩn mực nào. Cho nên để đối phó với sự thể, rất có thể vào thời thơ ấu hay trong những kiếp trước, con đã tạo ra những cái ngã, và những cái ngã này mong muốn bù đắp cho sự kiện con bị đánh giá.

Ngã thực hiện sự bù đắp bằng cách cố đạt một ấn tượng, một tin tưởng rằng cho dù con bị người ta đánh giá thì chính họ mới sai lầm vì chỉ có con là đúng vì con là một người tâm linh. Con hoàn toàn có lý khi là người tâm linh, và đây, có cả giáo lý của chân sư thăng thiên xác minh con có lý khi con là người tâm linh. Thật không tránh nổi những cái ngã này sẽ bắt đầu sử dụng giáo lý chân sư để phán xét người khác. Nếu họ không tin ý kiến này thì họ sai rồi. Họ không tin vào luân hồi thì họ phải sai thôi. Họ không tin điều này, không tin điều kia mà các chân sư giảng dạy, do đó họ ở một mức tâm thức thấp hơn mình. Một lần nữa, ta không trách móc ai cả. Chính ta cũng như vậy khi ta còn ở những mức thấp kém của đường tu, không phải trong kiếp đầu thai chót mà những kiếp trước đó. Tất cả chúng ta đều đã trải qua vấn đề này, đó là một phần không thể thiếu của đường tu tâm linh. Nhưng vấn đề là khi một số người tâm linh, thậm chí một số học trò của chân sư, không thể đứng riêng ra khỏi vấn đề. Họ không thể nhận diện cái ngã tách biệt này trong họ, những ngã tách biệt muốn phê phán mọi thứ, lại dùng cả giáo lý của chân sư để thiết lập, dưới mắt họ, một cái chuẩn tối hậu để phán xét mọi người.

Đây là một sự thể con thấy khắp mọi nơi, một phần của cái mà chúng ta có thể gọi là thân phận làm người. Con phớt lờ cái xà trong mắt mình và tim giằm trong mắt người, và con phê phán người khác một cách vô cùng khắc nghiệt dựa trên một chuẩn mực mà con coi là tuyệt đối. Có điều, hầu hết người tâm linh và nhiều học trò của chân sư chắc chắn mang kỳ vọng có thể tạo dựng một cộng đồng tâm linh dựa trên tình thương và tốt thiện. Cho nên con có trực giác là có thể có một cộng đồng tâm linh nơi sự phê phán sẽ vắng bóng. Bao nhiêu người kỳ vọng là khi họ tìm thấy giáo lý của chân sư, những ai theo giáo lý này sẽ không hề xoi mói mà sẽ hiền hòa, tương thân tương ái. Ta hiểu được con có kỳ vọng như thế, nhưng điều này không thực tế.

Vị sứ giả này, nhiều năm trước đây, có nghe tin về tổ chức Summit Lighthouse khi ông sống ở Đan Mạch. Dĩ nhiên ông đã dựng lên một kỳ vọng về cuộc sống tại Summit Lighthouse cũng như về những thành viên ở đó, dựa trên một cái nhìn từ xa, thấy được lý tưởng của giáo lý và nghĩ rằng mọi người theo giáo lý chắc hẳn là yêu thương và hiền hòa. Khi ông đến trụ sở của Summit Lighthouse tại Montana năm 1987, ông bàng hoàng. Chỉ sau ba ngày, giống như ba ngày mà – theo kinh sách – ta đã từng trải nơi địa ngục, ông ngồi xuống và phải lấy một quyết định. Hoặc ông phải ra đi, hoặc ông sẽ ở lại và tìm một giải pháp ổn thỏa. Một ý nghĩ đến với ông, mà ông nhận được trong ngoại tâm, là “Nhưng khoan đã, khi tôi bước qua cánh cổng này, làm gì có tấm bảng nào nói là phải bỏ tự ngã trước khi vào? Cho nên tôi đã không bỏ tự ngã của tôi ngoài cửa, và rất có thể mọi người khác cũng không ai bỏ tự ngã của họ ngoài cửa. Có nghĩa là mọi người trong đây vẫn đều mang tự ngã, tôi cũng vẫn mang tự ngã, vậy thì có lẽ kỳ vọng của tôi hơi thiếu thực tế đó. Có lẽ tôi thiếu thực tế khi tôi chờ đợi mọi người bước qua cánh cửa này bỗng nhiên trở thành toàn hảo, và chính tôi cũng trở thành toàn hảo khi tôi bước vào.” Đây chính là ý tưởng đã cho phép ông ở lại với cộng đồng và tinh tấn vượt bực trong thời gian 10 năm ông sống ở đó.

Một số ý tưởng tương tự cũng đã hữu ích cho nhiều người khác, nhưng cũng có những người không nhận ra được điều này, họ phản ứng một cách khác và bắt đầu phán đoán, hay họ tiếp tục phán đoán người khác và ngay cả chính họ mà không hề hay biết. Vì vậy con có thể thấy tại Summit Lighthouse, hồi đó cũng như bây giờ, có một không khí phán xét mà qua đó họ sử dụng các giáo lý của chân sư để tạo ra hình ảnh về một đệ tử lý tưởng của chân sư. Họ phán xét lẫn nhau dựa trên tiêu chuẩn đệ tử có tuân thủ các đòi hỏi vỏ ngoài này hay không: bạn là nhân viên à? Bạn là nhân viên của bộ phận nào? Bạn có đọc đủ số bài chú hay không? Có là người giao tiếp? Có đóng góp tài chánh cho nhà thờ? Có cư ngụ ở Glastonbury? Lái xe hiệu gì? Màu gì? Mặc áo màu gì? Ăn thức gì? Có kiêng ăn gì không, và vô số những chuyện khác. Cái gì đứng đằng sau khuynh hướng phán xét đó? Chính là ý tưởng cho rằng việc tuân thủ các nghi lễ và luật lệ vỏ ngoài sẽ tự động đưa con tới trạng thái tâm Ki-tô.  

Cho tới giờ, các chân sư đã ban cho con nhiều lời dạy để chất vấn ảo tưởng đó cho nên con phải đủ khả năng thấy được rằng sẽ tới lúc con sẽ không thể tiến bước cao hơn trong quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô cho tới khi con nhìn nhận một cách toàn diện và ý thức rằng quả vị Ki-tô không phải là sản phẩm của các điều kiện ngoại cảnh trên địa cầu. Quả vị Ki-tô không phải là chuyện đã đạt được gì, đã làm được gì, sở hữu cái gì, tu tập pháp môn nào, đọc được bao nhiêu bài chú. Những thứ đó không sản xuất ra quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô chỉ là một điều duy nhất mà thôi – nó không phải là những gì con đã thu được mà là những gì con đã bỏ lại. Con đã bỏ lại bao nhiêu cái ngã tách biệt? Bao nhiêu ảo tưởng con đã bỏ lại? Bao nhiêu kỳ vọng con đã bỏ lại? Bao nhiêu lần con đã đương đầu với một kỳ vọng, một vướng mắc, và đã tự nhủ một cách hoàn toàn chân thành: “Cái này can hệ gì đến tôi? Tôi sẽ đi theo thày!” Đó là chìa khóa duy nhất cho quả vị Ki-tô.

Con có thể là thành viên của một tổ chức tâm linh. Con có thể nhiệt thành tuân thủ một pháp môn tu tập suốt nhiều năm hay nhiều thập niên. Các chân sư đã thấy điều này rất nhiều lần rồi, nhưng con vẫn không tiến một bước nào về phía tâm Ki-tô chính vì con không chuyển dời tâm thức để nhận ra tâm Ki-tô là gì. Đây không phải là chuyện bám giữ vào cái này hay cái kia trên địa cầu, không là chuyện hoàn thiện cái này hay cái nọ, mà là chuyện buông bỏ. Rất, rất nhiều hành giả khi họ tìm thấy một con đường tâm linh, tập trung rất nhiều vào ý niệm chứng đạt tâm linh cũng như một số khả năng. Nhiều người mơ ước có được quyền năng thần thông, và thật tiếc thay, cuộc đời của ta đã phần nào kích động mơ ước này bởi vì ta đã thực hiện một số phép siêu phàm. Cho nên một số người cũng muốn làm giống thế, hoặc họ muốn chứng đạt được gì đó tùy theo định nghĩa của tổ chức hay giáo lý của họ, và tất cả là để biến cái mà họ đang có thành một cái gì hoàn hảo và tốt đẹp đến nỗi các chân sư phải trầm trồ: “Ồ, có đệ tử kia đã thật sự chứng đạt được cả bảy tia sáng, người ấy đã sẵn sàng thăng thiên rồi đấy.”

Con có thấy không, đường tu thật sự không phải là đạt được một khả năng nào đó, hay ngay cả kiến thức và sự hiểu biết, bởi vì con đường giả trá do các sa nhân phóng chiếu ra – và được nhiều hành giả ở một cấp bậc nào đó chấp nhận vì họ không biết làm gì khác hơn – chính là con đường nâng cao một khía cạnh nào đó của tự ngã, nâng cao một ngã tách biệt nào đó. Vì chúng ta đang bàn về phân biên Ki-tô, con có biết con có một cái ngã tách biệt rất mạnh mẽ khi con tìm thấy một con đường đã được thiết lập suốt nhiều kiếp sống do văn hóa phán xét gây ra? Như vậy, con có một cái ngã tách biệt với khả năng phán xét người khác, và bây giờ ngã này cảm thấy nó có thể áp dụng lời khuyên răn của ta là phải “phán xét theo lẽ công bình” bởi vì nó đinh ninh là nó không phán xét theo chuẩn mực của con người mà theo một chuẩn mực cao hơn. Thế là khi con tìm được giáo lý của chân sư, ngã này liền nói: “À, đây là cơ hội quá tốt cho tôi, tôi sẽ lấy lời dạy này, học tập thật kỹ, đem ra áp dụng, tôi sẽ hoàn thiện khả năng phán xét của tôi. Tôi sẽ chứng đạt chuẩn mực cao nhất của phán xét là phân biện Ki-tô, và tôi sẽ có khả năng phán xét như một chân sư phán xét.”

Nhiều học trò của chân sư tin rằng chỉ có chuyện hoản chỉnh cái ngã này, và khi họ có được sự phán xét tối thượng đó thì họ sẽ chứng đạt quả vị Ki-tô. Đây là quả vị Ki-tô, họ nghĩ như thế. Nhưng con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã. Nó sẽ không bao giờ lên được Thiên đàng. Dù cho khả năng phán xét của con có cao siêu biết mấy, nó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng. Con sẽ không bao giờ vào được Thiên dàng khi nào con còn lôi cái ngã này theo con. Nó không thể chui qua cánh cửa. Làm thế nào con vào được Thiên đàng? Chỉ bằng cách bỏ cái ngã này lại. Có nghĩa là gì? Nhiều học trò tâm linh mà chân sư đã thấy, trong đợt truyền pháp này cũng như những đợt trước, vẫn còn rơi vào cạm bẫy mà nghĩ rằng tâm Ki-tô là chuyện nhìn thế giới, nhìn hành động, nhìn ý nghĩ, nhìn mọi thứ hiện ra và xét đoán chúng dựa trên tiêu chuẩn là chúng đúng hay sai.

Các chân sư đã từng nói gì? Các sa nhân đã phải làm gì để phá nát cuộc sống trên hành tinh này? Chúng phải phóng chiếu ra một chuẩn mực về những gì phải xảy ra hoặc không được xảy ra, khiến loài người phải lượng định mọi thứ dựa trên giá trị đúng hay sai, thật hay giả. Những người này nghĩ rằng bằng cách lấy một lời dạy của chân sư rồi áp dụng và học tập, họ sẽ có thể hoàn thiện cái ngã phán xét ấy để nó nhìn vào mọi chuyện xảy ra trên địa cầu mà xét đoán. Cái này đúng hay sai? Là Ki-tô hay phản-Ki-tô? Nhưng đây là một ảo tưởng và ở tầng tâm thức thứ 96, con sẽ cần phải đương đầu với nó nếu con muốn bước lên những tầng cao hơn. Nếu không, con sẽ rơi vào vòng xoáy đi xuống của sự xét đoán và sẽ ngày càng xét đoán nhiều hơn, trong khi cứ đinh ninh mình là đấng Ki-tô Hằng sống đang xét đoán.  

Ta sẽ minh họa cho con thấy. Giả sử con đang ở một phi trường sầm uất. Đó là trước nạn dịch corona và phi trường đầy nghẹt người. Ai ai cũng nói năng, có loa phóng thanh, có nhạc, có đủ mọi loại tiếng động. Con bước vào đó và nghĩ: “Công việc của tôi là xét đoán xem những tiếng động này là của Ki-tô hay phản-Ki-tô”. Con sẽ làm gì? Con sẽ chú tâm lắng nghe từng tiếng động và con nghĩ rằng bằng cách phát triển khả năng phán xét tiếng động, con sẽ biểu hiện tâm Ki-tô. Nhưng tâm Ki-tô thực sự là gì? Tâm Ki-tô không phải là nghe và phán xét tiếng động đâu. Người có tâm Ki-tô là người nghe được sự im lặng vượt ngoài mọi tiếng động. Con có thể đứng giữa nơi ồn ào nhất cả hành tinh nhưng đằng sau tiếng động vẫn có im lặng. Tiếng động cần có không gian để hiện hữu, là không gian mà đức Phật cầm giữ cho địa cầu. Không gian này – tánh nhận biết im lặng đằng sau tiếng động – đó chính là tâm Ki-tô là phân biện Ki-tô tối hậu.

Đã có một thời, như ta có giải thích, khi con nhìn vào các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc, con sử dụng khả năng của mình để phân biện giữa những gì là ảo tưởng, là sự thao túng, là cơn lốc xoáy và tất cả những thứ đó. Ở cấp độ đó, có thể nói là con vẫn còn phán xét. Ít ra là còn lượng giá và phân tích. Đấy là một phần của tâm Ki-tô ở những bước đầu. Nhưng ta nói với con, sẽ tới một lúc khi con có thể bước lên những tầng cao hơn của tâm Ki-tô, hay con có thể đi xuống những tầng thấp hơn vì con tưởng rằng tâm Ki-tô chỉ là chuyện phán xét. Hãy trở lại ví dụ con đang đứng ở phi trường, với tiếng động khắp nơi và người ta qua lại thật náo nhiệt. Con sực nhớ ra là con đang đeo một cặp tai nghe chống ồn, úp chặt vào hai tai. Trên tai nghe có cái nút bật nhỏ xíu, và nếu con vặn nút đó lên, tai nghe sẽ khiến cho mọi tiếng ồn biến mất và con sẽ chỉ nghe thấy im lặng. Đấy, đó là những tầng cao của tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô. Đó là con đang đặt tâm con trong sự im lặng đằng sau tiếng động.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là con nhận ra điều quan trọng nhất cho con là lắng nghe im lặng. Làm sao con nghe được im lặng? Bằng cách lấy chú tâm ra khỏi tiếng động. Khi nào con còn tập trung vào tiếng động thì con không thể nghe thấy im lặng. Đâu là yếu tố hàng đầu lôi kéo con tập trung vào tiếng động? Đó là sự tin tưởng rằng con cần phải xét đoán xem tiếng động nào là tốt hay xấu, tiếng động nào là phải hay trái. Nhưng đến mức này, con sẽ nhận ra là sự phán xét một ý tưởng nào, một hiện tượng nào là đúng hay sai, không còn quan trọng nữa. Quan trọng hơn là chiêm nghiệm được sự im lặng, tâm Ki-tô. Một khi con bắt đầu chiêm nghiệm im lặng đó – mà đối với hầu hết mọi người sẽ không xảy ra thường xuyên trước khi con hóa giải được ngã gốc, và tuy nhiều người thoáng nghe được im lặng trước khi họ hóa giải ngã gốc, họ không có khả năng giữ vững được lâu – và sau khi con hóa giải ngã gốc, con sẽ chứng nghiệm im lặng đó, và bỗng nhiên nó trở thành điều quan trọng nhất, quan trọng hơn mọi sự xét đoán là ai sẽ là tổng thống hay đủ mọi chuyện khác mà người đời thường đem ra xét đoán.   

Và đây là lúc con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn tất cả những loại quan điểm vỏ ngoài. Như ta đã trình bày, có thể có hai học trò của chân sư đều tin rằng mình có một khả năng phân biện Ki-tô nào đó, và một người thì muốn Trump làm tổng thống và người kia ủng hộ một người khác làm tổng thống. Nhưng nếu cả hai bước lên một tầng cao hơn của tâm Ki-tô, họ sẽ bắt đầu thấy ai làm tổng thống không còn quan trọng gì nữa. Có nhiều thứ khác quan trọng hơn. Chẳng hạn, một điều quan trọng hơn là nếu họ đạt tới một sự hợp nhất nào đó nơi họ không còn bị ngăn cách bởi vấn đề ai sẽ làm tổng thống. Đây là một ví dụ hành giả có thể khắc phục cái ngã chỉ muốn phê phán tất cả. Đây là cách duy nhất cho con hay bất cứ ai kiến tạo được một cộng đồng mà nhiều người tâm linh vẫn mơ ước, một cộng đồng dựa trên tình thương, nhân ái và tương trợ.

Làm sao một cộng đồng có thể tương trợ nếu ai ai cũng luôn phê phán nhau? Làm thế nào có thể ngừng phê phán nhau nếu không ai chịu nhìn vào chính mình và nhìn vào cái ngã đang khiến mình phê phán mọi thứ, kể cả chính mình? Con phải đương đầu với ngã này, con phải nhận ra rằng không phải là chuyện đạt được khả năng phê phán tuyệt hảo, mà là chuyện để cho ngã chết đi hầu sánh bước với Ki-tô bước vào trong im lặng. Con muốn gì? Con muốn quả vị Ki-tô hay muốn sự phán xét của con người? Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Con hãy chọn sự sống nếu con muốn bước tiếp với ta. Còn không thì ta sẽ phải bỏ con lại đằng sau, và con có thể đi theo bất cứ đường nào mà con định ra dựa trên cái ngã phán xét đúng hay sai, Ki-tô hay phản-Ki-tô. Cái ngã này sẽ phê phán bất cứ gì đứng ra chất vấn thẩm quyền của ngã.

Con hãy chân thật với chính mình. Ta đã có nói, con tự nhận là học trò của chân sư, con đã bỏ thời gian học hỏi giáo lý của chân sư. Con thực sự muốn gì? Con muốn tinh tấn hay muốn bào chữa cho cái ngã không bao giờ vào được Nước Trời? Cái ngã xét đoán sẽ xét đoán bất kỳ giáo lý nào đứng ra tra vấn nó, kể cả giáo lý của chân sư, và nó sẽ xét định rằng giáo lý này không phải là của Ki-tô.

Các chân sư đã từng thấy những nhóm người đã tự thuyết phục mình và thuyết phục cả người khác rằng sứ giả này hay sứ giả kia không còn là sứ giả nữa bởi vì các chân sư sẽ không bao giờ nói ra điều đó. Họ đã rời bỏ tổ chức này hay tổ chức kia để đi theo đường riêng, tin chắc là họ biết rõ hơn cả vị sứ giả là sứ giả có nhận được thông điệp chính xác từ chân sư hay không. Nhưng đằng sau tất cả, họ nghĩ rằng – cái ngã xét đoán của họ nghĩ rằng – họ biết rõ hơn cả chân sư những gì chân sư muốn nói. Nhưng nếu lời ta nói phải phù hợp với sự xét đoán của ngã xét đoán, thì làm sao ta giúp được con thoát khỏi ngã tách biệt đây?    

Ngã nghĩ rằng nó có thể vào được Thiên đàng một khi nó biết phán xét tuyệt hảo, nhưng con yêu dấu, ta là một chân sư thăng thiên và ta biết ngã đó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng, và con cũng không vào được nếu con cứ bám víu vào nó. Cơ hội duy nhất cho ta giúp con thăng hoa là khiến con nhận ra ngã đó hầu con buông nó ra. Nhưng nếu con cho phép nó thuyết phục con rằng khi ta tra vấn nó thì không phải một chân sư đang nói chuyện với con, thì con tiêu rồi. Đối với ta, con đã tiêu mất. Ta không thể giúp con. Ta chỉ có thể tôn trọng quyền tự quyết của con và nói rằng, một lần nữa hành giả này đã chọn con đường tay trái tôn vinh ngã thay vì để cho ngã chết đi mà đi theo Ki-tô. Đối với những ai trong số các con làm điều này trong kiếp này, ta có thể cam đoan rằng con đã làm chuyện đó trong nhiều kiếp đã qua. Con sẽ tiếp tục chọn lựa làm như thế đến bao giờ nữa đây, cứ theo ngã tách biệt mà không theo Ki-tô? Con sẽ cần tới bao nhiêu lần nữa để chiêm nghiệm chuyện này không thể thành được? Vì thế mà cuối cùng con sẽ phải trở lại cuộc đời này trong một kiếp đầu thai nữa và một kiếp nữa và một kiếp nữa, trong khi những ai chịu buông bỏ ngã xét đoán sẽ thăng hoa. 

Ta phải làm gì thêm nữa đây để xuyên thủng những lớp phòng thủ kiên cố mà ngã tách biệt đã xây đắp chung quanh cái Ta Biết của con? Và con cần gì thêm nữa đây? Con hãy suy ngẫm câu hỏi này. Đâu là những rào cản mà ngã tách biệt đã dựng lên hầu cái Ta Biết không thể nghe thấy ta, hầu con không có tai để mà nghe, không có mắt để mà nhìn, khiến con không thể chiêm nghiệm được cái vượt khỏi tầm của ngã là sự im lặng vượt khỏi mọi tiếng động? Có sự sống vượt khỏi tầm của sự chết. Đó là tâm Ki-tô vượt khỏi cái mà con nghĩ là tâm Ki-tô, cái tâm thức phản-Ki-tô, tâm thức của cái chết, tâm thức của Sa-tăng.

Hôm nay con hãy chọn, chọn đi theo Ki-tô hay phản-Ki-tô. Ta cho con tự do hoàn toàn bởi vì nay ta đã làm tất cả những gì ta có thể nghĩ được để giúp con chọn sự sống, và vì vậy ta sẽ buông bỏ, bởi vì là một chân sư thăng thiên thì ta không vướng mắc liệu ta có cứu vớt được con hay không. Nhưng tất nhiên, ta sẽ cương nghị và tung ra ngọn lửa để giúp đâm thủng những phòng thủ bao trùm quanh cái Ta Biết của con.

Các chân sư có dạy rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Thật vậy, nó đi song song với sự im lặng. Chứng nghiệm im lặng là chứng nghiệm tỉnh giác thuần khiết, là sự chứng nghiệm rằng con là cái gì nhiều hơn tất cả những cái ngã bên ngoài. Cho nên con có thể bỏ chúng lại mà sẽ không chết, con sẽ không biến mất bởi vì con là, cái Ta Biết là, sinh thể nguyên thủy đã giáng thế từ Thiên đàng – và ta nói gì nhỉ? – không một người nào có thể thăng lên trở lại Thiên đàng ngoại trừ đó là người đã giáng thế từ Thiên đàng.  

Cái Ta Biết đã đi xuống trong sự tỉnh giác thuần khiết mà không có bất kỳ ngã tách biệt nào, vậy thì chỉ có cái Ta Biết mới thăng lên trở lại, và làm thế nào nó thăng trở lại? Bằng cách để cho tất cả ngã tách biệt chết đi. Bằng cách buông bỏ chúng hết. Tất cả bọn chúng phải chết đi để con có được sự sống vĩnh hằng.   

TA LÀ con đường, sự thật và sự sống vì TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con có quyền không thập toàn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Con có thể tự hỏi: Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ? Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ Tây phương hay phụ nữ đang sống trong các nước dân chủ tân tiến? À, các con yêu dấu, ta không có dính dáng trực tiếp. Nhưng chắc chắn là ta có dính dáng gián tiếp, vì ta có thể cung cấp một tầm nhìn có thể giúp phụ nữ thoát khỏi một yếu tố đang giới hạn họ, đang giam họ trong những khuôn nếp cũ. Các thày đã nói là các sa nhân đã lấy quyết định là: “Chúng ta sẽ khiến phái nam trở thành phái tính cao cấp trên Trái đất, chúng ta sẽ dìm phái nữ xuống để họ phải lệ thuộc phái nam. Qua đó chúng ta sẽ tạo ra một xung đột mà nhân loại sẽ không bao giờ giải quyết được”. Tại sao họ lại làm vậy? Các thày cũng đã giải thích là họ nghĩ phái nam dễ nghe theo tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cần phải được thực hiện.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là một người đàn ông sẽ dễ nói: “Tôi phải bỏ qua một bên quyền lợi cá nhân của mình, ước muốn của mình, đời sống thường nhật thực tiễn của mình. Tôi phải bước ra biểu tình nơi hàng rào chắn lối hay phải gia nhập quân đội để tranh đấu cho đại nghĩa này. Bất kể chuyện gì xảy ra cho gia đình tôi, tôi phải làm việc này”. Người Mỹ có câu nói: “Một người đàn ông phài làm những gì người đàn ông phải làm”. Phụ nữ không dễ bị tu duy cuồng đại quyến rũ bằng. Phụ nữ không dễ dàng chịu bỏ qua một bên đời sống thường nhật thực tiễn của mình để phục vụ một đại nghĩa. Dĩ nhiên đó là vì phụ nữ là các bà mẹ, và làm sao một bà mẹ đang có con nhỏ lại có thể nói: “Tôi cần phải bỏ con cho nó tự lo liệu lấy và ra đi tham gia cuộc chiến này, vì cuộc chiến này quan trọng hơn con của tôi”.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là các sa nhân đã rất khôn ngoan khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp, vì điều này đã tạo ta bao hình thức ngược đãi phụ nữ và xung đột giữa hai phái suốt mấy ngàn năm qua. Nhưng như các thày cũng đã nói: “Trong tâm thức nhị nguyên, việc gì cũng có giá phải trả”. Giá mà sa nhân phải trả khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp và dìm phái nữ xuống, là họ không ngờ là họ đã tạo ra tiềm năng giúp nhân loại thoát ra khỏi tâm thức nhị nguyên, ngay cả mối xung đột giữa hai phái. Bởi phụ nữ có tiềm năng nâng chính họ lên, nâng phái nam lên và do đó nâng cả hành tinh vượt lên trên tư duy nhị nguyên. Chắc chắn là đàn ông cũng có thể nhận ra các thiếu xót và mâu thuẫn của tư duy nhị nguyên. Nhưng trên một bình diện rộng lớn, chính phụ nữ là những người có thể nhìn vào các ý tưởng đựơc đề ra trên thế giới và nói: “Ý tưởng này không đúng nếu nó có thể làm hại con của tôi. Dẹp đời sống hàng ngày và việc nuôi con qua một bên để theo đuổi các ý tưởng trừu tương này là điều không phải. Con tôi là sinh thể có thực, có sự sống, trong khi ý tưởng này là một cái gì trừu tượng, không có sự sống. Sự sống phải ở trên các ý tưởng trừu tượng, chết.” Đó là điều có thể giúp phụ nữ khắp thế giới đứng lên giải thoát mình khỏi cuộc đấu tranh cuồng đại đã và đang diễn ra trên hành tinh này và nói: “Hãy để lưỡi cày thắng đao kiếm, hãy quên đi những đại nghĩa cuồng đại và chú tâm vào việc cải thiện đời sống hàng ngày của mọi người trong xã hội.”

Nhiều người trong các nền dân chủ tân tiến đã nhiều phần nâng họ ra khỏi tư duy cuồng đại và các đại nghĩa cuồng đại, Họ không còn thấy là họ phải đi chinh phục thế giới hay làm cảnh sát cho toàn thế giới, và họ không còn thấy các chuyện này quan trọng hơn đời sống thường nhật của công dân nước họ. Nước Hoa Kỳ hiển nhiên là một thí dụ một nước dân chủ đã không làm được bước chuyển tiếp này. Vì vậy Hoa Kỳ vẫn thấy cần duy trì khả năng quân sự lớn nhất toàn cầu để lúc nào cũng sẵn sàng cấp tốc phóng quyền lực đến bất cứ nơi nào trên hành tinh. Do đó, phụ nữ có tiềm năng thúc đẩy cuộc chuyển đổi này. Nhưng điều mà thày muốn cống hiến ở đây là để thúc đẩy cuộc chuyển đổi này, phụ nữ cần vượt qua một khía cạnh của tư duy cuồng đại mà các sa nhân, đàn ông và nhiều nền văn hóa và xã hội đã áp đặt trên phái nữ.

Có nhiều khía cạnh tinh tế của vấn đề này. Có nhiều cách để giải thích vấn đề, nhưng các con hãy cho thày bắt đầu bằng cách đưa ra một lối giải thích. Phụ nữ đã từ rất lâu bị dìm trong nhiều dân tộc. Nhưng chúng ta hãy chú tâm vào tình trạng ở các nước dân chủ tiên tiến nhất. Nếu các con nhớ lại thời kỳ trước khi các nước này trở nên dân chủ, thì lúc đó phụ nữ bị dìm, phải chịu một địa vị xã hội thấp kém so với đàn ông. Các nước này trải qua một cuộc chuyển dời và họ chuyển qua thể chế dân chủ, nhưng trong nhiều thập niên, phụ nữ vẫn không được quyền bầu phiếu, họ bị coi là không có khả năng hiểu chuyện thế giới, tức là, mở ngoặc, đóng ngoặc, hiểu tư duy cuồng đại, và do đó họ không nên có quyền bầu phiếu vì như vậy sẽ gây hỗn loạn. Một điều tương tự xảy ra trong thương trường. Phụ nữ bị ngăn không cho giữ các chức vụ có quyền quyết định. Trong một thời gian rất dài, phụ nữ còn không được đi làm, ngoại trừ ở một số công việc được coi là hợp với phụ nữ. Vậy chuyện gì đã xảy ra khi các nước dân chủ tân tiến này trở nên tân tiến hơn và bắt đầu cho phụ nữ bình quyền và bình cơ hội? Chuyện xảy ra là đã có một khía cạnh rất tinh tế của tư duy cuồng đại khởi ra mà các nền dân chủ tân tiến không nhận ra. Chúng ta hãy lấy thí dụ một người phụ nữ gia nhập thương trường và đạt tới một địa vị thường do đàn ông nắm giữ. Điều gì người ta, trong tiềm thức hay ít ra là không nói ra, chờ đợi nơi người phụ nữ này? Người ta chờ đợi là họ sẽ thất bại, cũng có khi đồng nghiệp nam của họ mong họ thất bại. Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là người ta chờ đợi người phụ nữ phải chứng tỏ khả năng của mình bằng cách làm việc giởi hơn là những gì một người đàn ông đã làm và có thể làm.

Như vậy việc này đã tạo ra hậu quả gì trong các nước dân chủ tân tiến được coi là tiến bộ và đã cho nam nữ bình quyền? Nó đã tạo ra một tư duy rất tinh tế, và tư duy này đã tạo ra một tà thể quần chúng rất mạnh mẽ, một quái thể quần chúng tìm cách đút những vòi của nó vào từ trường các phụ nữ. Nó là một quái thể, mà chúng ta có thể gọi là quái thể cầu toàn, hay là tà thể cầu toàn. Nó cũng ảnh hưởng nam nhân, nhưng từ sau phong trào giải phóng phụ nữ, nó đã có một ảnh hưởng rất lớn trên ba thể cao – là cảm thể, trí thể và bản sắc thể – của nhiều phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến. Nó đã phóng chiếu tới các phụ nữ khiến họ bị lập trình để tin, nhưng chính họ cũng đã chấp nhận, là họ cần phải thập toàn.  Họ cảm thấy họ cần phải giống như Mary Poppins, tức là phải toàn hảo trên mọi phương diện để có thể được chấp nhận, dù họ đang sống trong những nước dân chủ tân tiến tiến bộ đáng lý phải cho phụ nữ đồng quyền và đồng cơ hội.

Các con có thể thấy là trong các xã hội tân tiến này, phụ nữ đã được bình quyền bề ngoài trên các mặt chính trị, kinh tế, luật pháp, nhưng họ chưa được bình quyền tâm lý. Vì các xã hội này vẫn chấp nhận, có thể là mặc nhiên nhưng vẫn là chấp nhận, là một người đàn ông không giỏi lắm vẫn được quyền giữ chức vụ của mình. Nhưng một phụ nữ thì cần phải gần như toàn hảo trong công việc của mình. Người phụ nữ không thể phạm lỗi như một người đàn ông vì sẽ bị ngược đãi, hay ít ra thì cũng sẽ bị coi là đã không làm tròn bổn phận vì họ là phụ nữ. Nhiều phụ nữ đã chấp nhận điều này, và họ đã tự tạo sự chờ đợi là họ sẽ làm được như vậy, tức là họ sẽ trở thành một siêu nhân. 

Khi con là một phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến và tiến bộ thì người ta chờ đợi con sống ra sao? Con phải là người vợ toàn hảo cho chồng, là người mẹ toàn hảo cho các con, là người nhân viên toàn hảo trong công việc. Con cũng có thể phải là người lo cho cha mẹ toàn hảo, người con gái toàn hảo, và làm sao có ai sống được như vậy? Nếu con lấy bất cứ người đàn ông nào trong các nước dân chủ tân tiến này và đặt họ vào địa vị của đa số phụ nữ, ít nhất là các phụ nữ được coi là thành công, thì các vị đàn ông này sẽ bị xụm về mặt tâm lý vì không chịu nổi áp lực mà các phụ nữ kia phải đương đầu. Đàn ông giản dị là sẽ không đương nổi. Họ sẽ bị khủng hoảng tâm thần, hay họ sẽ cởi bỏ yếm làm bếp và vừa chạy ra khỏi nhà bếp vừa la làng.

Điều mà phụ nữa phải gánh chịu trong các nước dân chủ tân tiến quả thực là vô nhân đạo. Đây là một vi phạm quyền làm người. Theo chuẩn mực mà các sa nhân đã phóng chiếu lên nhân loại, một chuẩn mực nhị nguyên, thì không ai toàn hảo. Chưa một ai đã từng toàn hảo theo chuẩn mực này, kể cả chính các sa nhân, và không một ai sẽ có thể toàn hảo theo chuẩn mực đó. Các thày đã nói điều gì? Mẹ Mary trong bài truyền đọc mở đầu hội nghị đã nói đến hậu quả của lý luận đường thẳng và suy nghĩ nhị nguyên. Điều mà tâm nhị nguyên tạo ra là một chuẩn mực. Nó phóng chiếu ra rằng con người phải sống đúng theo chuẩn mực đó. Nếu các con nhìn vào nhân loại nói chung, không chỉ riêng phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, thì con thấy là đa số người trên hành tinh đã bị ảnh hưởng. Bất kể con sống trong xã hội nào, lúc nào cũng có một chuẩn mực, một sự phóng chiếu rất mạnh là con phải sống đúng theo chuẩn mực đó.

Vậy đa số con người phản ứng ra sao trước tình trạng này?  Đã có hai phản ứng chính. Nhiều người, đúng hơn là ở đa số các nơi trên thế giới số đông nhìn nhận là họ không thể sống đúng theo chuẩn mực đã được đề ra. Vậy họ phản ứng ra sao? Họ phản ứng theo chuẩn mực, theo nền văn hóa nơi họ sống: họ cảm thấy tội lỗi, họ cảm thấy nhục nhã, họ cảm thấy không xứng đáng, họ cảm thấy bất lực. Nhưng họ khuất phục sự kiện là họ sẽ không bao giờ theo đúng được chuẩn mực. Ngoài ra có một số người, con số tùy quốc gia, sẽ làm một số điều khiến họ cảm thấy là: “Tôi đang làm đúng theo chuẩn mực”.  Làm sao họ nói vậy được? Bằng cách dùng tâm nhị nguyên. Tâm nhị nguyên làm được gì? Nó có khả năng tạo ra một phiên bản riêng của chuẩn mực đã được lọc lựa theo những gì nó muốn. Nói cách khác, khi con đi vào tư duy này, con cho rằng vì con thực thi một số yêu cầu của chuẩn mực giỏi hơn người khác, con đã thực thi tất cả mọi yêu cầu. Nói cách khác, con chối là mình không thực thi tất cả mọi yêu cầu. Không ai có thể thực thi mọi yêu cầu, sẽ không có một ai làm được điều này, nhưng có một số người đã trong tâm chối bỏ là họ không làm theo đúng chuẩn mực. Họ tin rằng vì họ đã thực thi một số yêu cầu, vì họ đã làm được một số điều, vì họ là trường hợp đặc biệt vì lý do này hay lý do khác, nên họ đã làm đúng theo chuẩn mực. Do đó, họ cho rằng họ thật sự toàn hảo trên mọi phương diện, trong khi người khác thì không. Đó là lý do họ nghĩ họ phải lãnh đạo và các người kia phải phục tùng và tuân lời họ.

Nhưng đó chỉ là một chuẩn mực đã được lựa lọc và cá nhân hóa dựa trên sự chối bỏ một số điều, từ chối không thấy một số điều. Chuẩn mực lựa lọc do sa nhân tạo ra, chính sa nhân bị giam trong đó, nhưng họ đã khai thác nó khiến rất nhiều người không phải là sa nhân cũng bị giam trong đó.  Hậu quả của chuẩn mực sa ngã này là gì? Nó tạo ra một thái độ rất phán xét, thích chỉ trích nghiêm khắc. Đây là điều các con có thể quan sát, là có rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, phải gánh chịu thái độ phán xét nặng nề này. Nếu họ làm một lỗi lầm nhỏ, họ cảm thấy là họ phải hổ thẹn. Nhiều người trong các con là phụ nữ trong các nước dân chủ, nhiều người trong các con không sống trong các nước dân chủ, đều có thể thấy là mình đã lớn lên với chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải phản ứng khi người khác phán xét con dựa theo chuẩn mực này.

Các con hãy cho thày lặp lại, vì thày biết là có nhiều người khó chấp nhận và hiểu được điều này. Không một ai có thể làm đúng theo chuẩn mực. Không một ai đã từng làm được, không một ai sẽ làm được. Nếu con chấp nhận được điều thày nói, thì con sẽ nhận ra là chuẩn mực này không thể làm được. Sự toàn hảo không có. Như một con người, một trong những quyền làm người căn bản là quyền không toàn hảo dựa trên bất cứ chuẩn mực nào. Ta có quyền không toàn hảo. Ta không cần phải toàn hảo trên Trái đất. Các con nghĩ coi, có hợp lý chăng là ta sống trên hành tinh lôi thôi và hỗn loạn này mà ta lại phải toàn hảo? Điều này có hợp lý chăng? Khi con suy nghĩ một chút thì sẽ thấy là hoàn toàn không hợp lý. Dĩ nhiên là đa số con người không suy nghĩ về điều này. Họ còn không có khả năng đặt câu hỏi, họ còn không nhận ra là có một chuẩn mực. Khi con bắt đầu nhận ra nó, thì con có thể tự nói với mình: “Không, không, không, sa nhân không thể lừa tôi nữa. Họ sẽ không thể kiến tôi sống phần còn lại cuộc đời tự phán xét mình đựa theo chuẩn mực này. Tôi chán việc này lắm rồi. Tôi sẽ nhìn vào những cái ta đang bị việc này ảnh hưởng, những cái ta và tôi đã tạo ra để phản ứng lại việc này. Tôi sẽ tuần tự loại trừ chúng ta khỏi bốn thể phàm của tôi và để cho chúng chết đi, vì tôi muốn được giải thoát khỏi tính cầu toàn này, khỏi ý niệm phải tự phán xét mình dựa trên chuẩn mực này. Tôi có thể không thoát khỏi bị phán xét bởi người khác, vì họ có quyền tự quyết của họ. Nhưng ít nhất tôi có thể tự giải thoát mình, để khi người khác phán xét tôi, thì ông hoàng thế gian tới nhưng không nắm được gì nơi tôi cả. Chuyện này không ảnh hưởng được tôi. Tôi cho họ quyền tự do tha hồ phán xét tôi, nhưng tôi cũng có quyền tự quyết không để sự phán xét của họ ảnh hưởng tôi và cách tôi sống cuộc đời mình.”

Nhiều phụ nữ đã là người đi tiên phong thách đố chuẩn mực thập toàn này, dù có khi họ không nhận ra hay không làm một cách ý thức. Họ từ chối không sống theo chuẩn mực của cha mẹ họ, những gì cha mẹ họ chờ đợi, xã hội chờ đợi, những tiêu chuẩn của xã hội đã được gán lên họ. Họ từ chối các điều này. Có khi họ làm vậy chỉ giản dị vì họ không thể sống theo chuẩn mực được. Nhưng cũng có phụ nữ hành động một cách có ý thức bằng cách thách đố những chuẩn mực quy định thế nào là phụ nữ trong xã hội họ sống. Vậy, thày là Phật thì thày có thể cống hiến gì cho những phụ nữ sống trong thế giới tân tiến khi họ nhận ra là có chuẩn mực thập toàn đã được gán lên họ? Thày có thể cống hiến khái niệm mà thày đã cống hiến 2,500 trước, tức là khái niệm không dính mắc. Các con cũng có thể nói là Bát Chánh Đạo mà thày đã giảng mấy ngàn năm trước có thể coi là một cách để vượt qua chuẩn mực thập toàn.

Thày biết là có nhiều Phật tử đã bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên. Họ đã lấy Bát Chánh Đạo và nói rằng: “Bát Chánh Đạo quy định một chuẩn mực thập toàn. Nếu ta theo Bát Chánh Đạo, nếu ta thực hành chánh mạng, chánh ngữ và các chi phần khác, thì ta sẽ là người toàn hảo.” Nhưng Bát Chánh Đạo hoàn toàn không dạy điều này. Bát Chánh Đạo nói lên điều phải. Thày biết là thời nay, nhất là trong nền văn hóa Thiên chúa giáo, phải và trái có nghĩa hoàn toàn khác, có hàm ý hoàn toàn khác 2,500 trước đây.

Chữ chánh được dùng trong chánh nghiệp, chánh mạng không có nghĩa đúng đối ngược với sai. Chuẩn mực thập toàn do sa nhân đề ra nói rằng: “Nếu bạn sống đúng theo chuẩn mực, thì bạn đúng, nếu không thì bạn sai.” Mục đích của thày khi giảng pháp là để giúp con người thoát ra đối đãi, đối cực nhị nguyên.  Do đó thày không dạy cái đúng đối ngược với cái sai. Điều thày dạy là đạt không dính mắc, tức là theo trung đạo, tức là không cố gắng làm đúng đối ngược với sai. Cái con muốn đạt là vượt lên trên cả tâm thức này, đạt không dính mắc đến đúng và sai, đến các đối cực nhị nguyên. Do đó, con làm điều đúng dựa trên một viễn quan cao hơn, viễn quan bất nhị, viễn quan của Phật. Chữ “chánh” có một ý nghĩa khác, một hàm ý khác vào thời đó, bằng không thày đã dùng một chữ khác. Ngay cả chữ “trung đạo” cũng có một hàm ý khác ý nghĩa trong thế giới Tây phương ngày nay. Đó là lý do vì sao có nhiều người Tây phương tưởng họ là Phật tử, nhưng họ không hiểu ra ý nghĩa thực của trung đạo. Trung đạo không phải là ở giữa, là một thỏa hiệp giữa hai cực. Trung đạo là vượt lên trên các cực đối đãi.

Đó là gì các thày đã truyền dạy, không phải chỉ riêng mình thày, mà tất cả các chân sư nữ, và một số các chân sư nam. Các thày đã truyền cho các con các bài giảng về tư duy cuồng đại, về chấn thương nhập đời, về cái ngã gốc, về các ngã tách biệt và làm sao khắc phục được chúng. Nếu các con dùng các bài giảng này và ghi nhớ những gì thày nói ở đây về chuẩn mực thập toàn, thì con sẽ đạt được tiến bộ rất lớn. Các con là đệ tử trực tiếp của các thày có thể đạt tiến bộ rất lớn trong việc giải thoát mình khỏi chuẩn mực đó. Các con có thể thoát khỏi ý niệm phải là một phụ nữ thập toàn, mà là một “chánh” phụ nữ, một phụ nữ không dính mắc. Các con có thể là một phụ nữ tự do, một phụ nữ đã vượt lên trên chuẩn mực xét đoán và tâm thức xét đoán. Các con đã có những dụng cụ tâm linh để làm chuyện này. Khi con áp dụng cho chính mình, sau đó dùng tự do của mình để kêu gọi cho các phụ nữ khác, thì sẽ có một nhóm phụ nữ khác, một tầng lớp phụ nữ khác hiện đang đầu thai có khả năng làm việc này. Sau đó, sẽ có thêm người khác theo sau, và việc này sẽ lan ra như những vòng sóng trên mặt nước. Thực sự là nếu các nước dân chủ tân tiến tự coi là tiên tiến nhìn nhận quyền này – quyền không cần phải toàn hảo – như một nhân quyền thì đó là điều rất lợi ích, nhưng quyền này cần phải được công nhận đặc biệt cho phụ nữ. Phụ nữ đã được bình quyền trên mặt pháp lý và vật lý nhưng họ không được bình quyền trên mặt tâm lý vì họ không được làm những lỗi mà đàn ông vẫn thường được làm. Đã bao lần con nghe câu nói bình dân này: “Ồ, đây chỉ là điều đàn ông vẫn làm, hắn chỉ là một người đàn ông, trai trẻ lúc nào cũng là trai trẻ.”? Nhưng có bao giờ con nghe người ta nói: “Ồ, không sao đâu, vị này là phụ nữ, vị này không sống theo đúng chuẩn mực, nhưng không sao cả, con gái lúc nào cũng là con gái.”? Con không bao giờ nghe người ta nói vậy, vì ý niệm này không có mặt trong xã hội. Hiện nay vẫn còn khuynh hướng phán xét tâm lý phụ nữ. Đã đến lúc điều này phải được mang ra giải quyết, được nói lên, được mang ra anh sáng, để người thẩm quyền giải quyết.

Đương nhiên là đã có phụ nữ nhận ra điều này, sẽ có hơn nhiều phụ nữ nhận ra điều này, và như vậy sẽ tạo ra một lực đẩy. Các con có thể đứng lên và nói: “Phụ nữ phải được quyền tự do không toàn hảo giống như đàn ông, và đàn ông cũng phải được quyền tự do không toàn hảo. Tất cả mọi người phải được quyền tự do bắt đầu ở một mức nào đó và dần dần cải thiện chính mình.” Chuẩn mực thập toàn đã có hậu quả gì? Nó đã tạo ra một con đường giả, giống như những gì trước kia được gọi là tà đạo. Tức là như sau: “Đây là một con đường, có một số yêu cầu, có một số điều mà bạn phải làm. Nếu bạn chịu phục tùng con đường này, theo từng bước và từng giới luật, và khi bạn đỗ kỳ thi khảo hạch cuối cùng, thì bạn trở nên toàn hảo.” Đó là con đường tà đạo mà các sa nhân đã hứa hẹn. Nếu bạn theo đúng từng bước, thì bạn sẽ trở thành một thày cấp 33 trong hội các thày tạc đá, bạn là người thập toàn, bạn đứng trên mọi chỉ trích.

Cũng đã có đệ tử chân sư thăng thiên trong các đợt truyền pháp trước đã tin rằng: “Nếu ta tuân thủ tất cả các yêu cầu của tổ chức này, nếu ta đọc tất cả các bài chú, nếu ta làm Người Giữ Lửa, nếu ta làm Người Hiệp Thông, nếu ta vào ban nhân viên, nếu ta thành một người trưởng ban nhân viên, nếu ta thành thư ký riêng của sứ giả, và vân vân và vân vân, thì ta sẽ trở nên toàn hảo. Lúc đó, ta sẽ hơn tất cả các đệ tử bất toàn mới gia nhập, ta sẽ ở đia vị quyền lực. Ta có quyền, ta còn có bổn phận phải phán xét các người đó và cho họ biết là cọn còn bất toàn, để họ bắt đầu tiến theo con đường mà ta đã đi theo.” Những người đó đã và vẫn tin chắc rằng họ theo con đường của các chân sư thăng thiên, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô.

Nhưng những vị đó theo con đường nào? Những vị đó ở trong một tổ chức được các chân sư thăng thiên bảo trợ, họ dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để biện hộ cho hành động của họ, nhưng họ đang theo tả đạo hay con đường của sa nhân. Con sẽ không thể vào thiên đường nếu chỉ theo một chuẩn mực thập toàn được quy định trên Trái đất. Nếu các sa nhân có thể quy định một chuẩn mực giúp họ vào thiên đường, thì tại sao họ lại không có ở đó? Thể nào họ cũng muốn vào Thiên đường và làm những chuyện họ muốn làm ở đó? Vậy, nếu các sa nhân không vào được thiên đường bằng cách theo chuẩn mực của họ, thì làm sao con lại nghĩ một đệ tử chân sư thăng thiên lại làm được điều này? Đây là một nhận thức hoàn toàn phi lý, hoàn toàn sai lạc.

Nhưng ở đây thày không muốn chỉ xoáy riêng vào các đệ tử chân sư thăng thiên tuy rằng ai cũng hy vọng họ sẽ dùng giáo lý này để tự giải thoát khỏi tư duy sa ngã và tả đạo. Các con có thể nhìn các tín đồ tôn giáo và các người tâm linh trên thế giới, trong hầu như tất cả mọi tổ chức, kể cả Phật giáo, ít ra là trong nhiều giáo phái của Phật giáo, để thấy rằng họ đi theo cùng một chiều hướng. Họ đã tạo ra một chuẩn mực, nhiều khi bất thành văn, có khi chỉ mặc nhiên, hoặc chỉ được nói ra từng phần đơn lẻ: “Bạn phải làm điều này, bạn phải làm điều kia”. Một áp lực tâm lý được tạo ra là khi bạn là một tín đồ Công giáo, Phật tử, Hồi giáo vân vân tốt, thì bạn phải sống theo chuẩn mực này. Có người tuân theo, và cũng có người không tuân theo. Những người tuân theo cảm thấy là họ đã tự nâng mình lên một địa vị cao và có quyền phán xét người khác: “Đúng là Giê-su đã nói rằng – đừng phán xét nếu con không muốn bị phán xét, nhưng điều này không áp dụng tới chúng ta. Chúng ta là linh mục, là linh mục Công giáo.”

Nhiều tín đồ Công giáo nghĩ gì về các linh mục của họ? Khi họ nói: “À, vị ấy là một người của Thiên chúa” thì họ có ý gì? Ý họ là: “Vị ấy sống đúng theo chuẩn mực do đạo Công giáo quy định, và do đó vị ấy không thể bị chỉ trích. Chúng ta là người thường không có quyền phán xét vị ấy. Chúng ta không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Đúng là con tôi có về nhà và nói rằng vị linh mục dẫn nó đi cắm trại và sờ mó nó một cách không thích nghi. Nhưng tôi không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Có thể là con tôi chỉ tưởng tượng vậy thôi. Có thể là nếu tôi lờ chuyện này thì nó sẽ biến đi.”

Các con có thể thấy là cái cơ chế, cái chuẩn mực đã dẫn tới thái độ phán xét của những người tự coi là họ đang sống đúng theo chuẩn mực, cũng đã dẫn tới tình trạng bạo hành rộng lớn không những chỉ trong đạo Công giáo, mà trong nhiều tôn giáo khác nữa. Cái chuẩn mực đó là gì nếu không phải là biểu hiện của tư duy cuồng đại, là bản chất của tư duy cuồng đại: “Có người tốt, có người xấu, ta đúng, họ sai, Do đó ta có quyền phán xét họ.”? Đó chính là tư duy cuồng đại, mà ai là những người bị nó ảnh hưởng nhiều nhất? Chính là đàn ông. Có đúng chăng là tất cả linh mục Công giáo đều là đàn ông? Nhiều nhà lãnh đạo các phong trào tâm linh hay tôn giáo, phong trào chính trị, quân đội, vân vân, là đàn ông.

Các con hãy nhìn vào quân đội và thấy là họ có chuẩn mực riêng của họ. Con hãy nhìn binh chủng Thủy quân lục chiến của Hoa Kỳ, họ có một chuẩn mực rất khe khắt quy định thế nào là một người lính Thủy quân lục chiến, và những ai không tuân theo sẽ bị ngược đãi, bị áp lực tâm lý vĩ đại. Vậy, ai có thể giải thoát hành tinh này ra kỏi tư duy phán xét? Có lẽ không phải là đàn ông. Các con yêu dấu, vậy còn lại ai? Đương nhiên là phụ nữ là những người có cơ hội, một cơ hội xuất chúng tại thời điểm lịch sử này, để nhận ra cơ chế này, và bắt đầu giải thoát chính mình và các con mình, và sau đó là chồng mình và xã hội chung quanh của mình.

Thày biết rất rõ là nhiều phụ nữ đã được giáo dục là họ phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực. Mẹ họ, cha họ đã phán xét họ như vậy. Bây giờ thì họ đã trưởng thành và lập gia đình thì người chồng của họ cũng phần nào phán xét họ. Ta có thể hiểu vì sao một số phụ nữ không chịu được sự căng thẳng này và đối chọi lại chồng họ. Họ muốn tự giải thoát khỏi tình trạng này, và người muốn tự giải thoát có khi phải qua một giai đoạn xa lánh người đang hành hạ mình. Họ cần nhìn nhận là người kia đang hành hạ mình, và như vậy khiến họ khó có liên hệ với người đó. Nhưng nếu phụ nữ có thể dùng bất cứ phương tiện tâm lý nào mà họ tìm ra để tự giải thoát khỏi chuẩn mực, thái độ, tư duy phán xét, thì bước tới của họ là giúp những người đàn ông trong đời họ cùng làm như vậy.

Các con có thể quan sát nhiều xã hội trong đó đàn ông có thái độ rất phán xét đối với phụ nữ, trong đó có tất cả các xã hội dân chủ tân tiến, tuy họ không phán xét nhiều bằng một số thành phần khác, tỷ dụ như đàn ông Hồi giáo. Con có thể nghĩ rằng đàn ông là những người đang có thái độ phán xét. Nhưng nếu con nhìn kỹ thì con sẽ thấy là cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị dính vào đó. Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể làm gì cho người khác mà không làm cho chính mình trước. Nếu con phán xét phụ nữ, thì có thể con đang hướng tâm phán xét về phụ nữ, nhưng con đã tự phán xét mình trước rồi. Con đã tự nhốt mình vào một cái hộp trong đó con không có chỗ xoay xở. Do đó, nếu một phụ nữ đã tự giải thoát được khỏi con quái thể cầu toàn, thì bước tới họ sẽ giúp giải thoát chồng mình. Họ cũng có thể nhìn vào các con và nói: “Tôi chắc chắn không muốn con tôi lớn lên với cái chuẩn mực bất khả thi và thái độ phán xét này.”

Nếu người phụ nữ giải thoát được chồng mình, thì có thể người chồng đó sẽ giúp giải thoát được các đàn ông khác. Một lần nữa, con thấy là đầu mối xảy ra trong gia đình, đầu mối là một nguời đứng lên tỏ thái độ, và sau đó mọi chuyện lan dần ra. Khi có đủ cá nhân trong xã hội đứng lên tỏ thái độ ở cương vị cá nhân, là một điều thoạt trông không có gì đáng kể, nhưng tiếp theo đó sẽ có một chuyển dời, túc số đã hội đủ và đã có đủ số người để nâng tâm thức đại chúng lên. Đó là khi một chuyển dời sẽ xảy ra, là khi xã hội bắt buộc phải giải quyết vấn đề. Họ phải trực diện sự việc là tuy họ nghĩ họ sống trong một xã hội dân chủ tiến bộ đã trao bình quyền cho phụ nữ, nhưng thực sự họ chưa bắt đầu trao bình quyền cho phụ nữ.

Bởi vì, khi chúng ta còn cái chuẩn mực phán xét này thì làm sao chúng ta trao được tự do cho phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được đàn ông? Làm sao chúng ta có thể là một xã hội tự do khi vẫn bị giam trong cái chuẩn mực phán xét này? Tự do và phán xét có thể sống chung được chăng? Do đó, họ có thể thấy là họ đã có những bước tiến tới một xã hội tự do, nhưng họ chưa phải là một xã hội tự do thực sự. Bởi vì, tuy họ đã cho quyền tự do pháp lý, chính trị, kinh tế cho người dân, nhưng họ chưa cho người dân quyền tự do tâm lý. Ta chỉ cần vào các bệnh viện tâm thần và các khóa phục hồi để thấy rằng con người không thể hưởng được quyền tự do chính trị và kinh tế nếu không có tự do tâm lý. Mục đích của thày là gì khi thày truyền pháp cách đây 2,500 năm? Thày muốn cho con người tự do tâm lý. Thày Giê-su muốn gì khi thày bước đi trên những con đường bụi bặm ở Palestine 2,000 trước đây? Thày muốn đem lại tự do tâm lý cho con người. Tất cả các vị thày tâm linh chân chính muốn làm gì? Các chân sư thăng thiên muốn làm gì hiện nay? Đương nhiên là đem lại tự do tâm lý. Các thày muốn trao quyền này cho tất cả mọi người, nhưng các thày nhận ra là chưa thể làm được điều này, ít nhất là ở thời điểm này. Các thày có thể cố gắng ban cho những ai đã mở tâm đón nhận, chịu tu tập để đạt được nó, chịu theo một con đường tuần tự dẫn đến giải thoát, giải thoát bốn thể phàm, giải thoát ba thể cao khỏi các mưu mô của sa nhân chỉ có một mục đích là tước đoạt quyền tự do tinh thần của con người. Con có thể nghĩ việc tước đọat quyền tự do chính trị trong một thể chế độc tài nhằm một mục đích vất chất. Không phải vậy đâu. Đằng sau các việc này là sa nhân, và sa nhân chỉ có một mục đích, đó là tước đoạt quyền tư do tâm lý của nhân loại trên Trái đất.

Tất cả mọi việc khác, tất cả mọi chuyện con thấy bên vỏ ngoài chỉ là phương tiện đưa tới cứu cánh này. Chỉ là phương tiện để đạt cứu cánh tước đoạt tự do tâm lý của nhân loại. Rất nhiều người trong các xã hội dân chủ tân tiến đã sẵn sàng nhận ra điều này. Họ đã sẵn sàng nhận ra là có một con đường dẫn tới tự do tâm lý. Và họ đầu thai để khám phá và theo con đường này, và qua đó nâng tâm thức đại chúng lên để kéo xã hội ra khỏi mưu mô tước đọat tự do tâm lý của con người. Các con đã khám phá ra con đường, đã theo con đường và cất tiếng kêu gọi. Các con có thể tạo một xung lực sẽ lan tỏa ra, giải thoát vòng đầu tiên, và vòng sau đó, và vòng sau đó, và vòng sau đó. Con chưa kịp nhận ra thì đã đủ túc số, một chuyển dời xảy ra, và sau đó túc số khác lại hội đủ, một chuyển dời khác lại xảy ra, và cứ như vậy sẽ tiếp tục tăng trưởng giúp xã hội thể hiện các sắc thái càng ngày càng cao của thời Hoàng kim của Saint Germain.

Đúng như các thày đã nói, các con hãy nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, tiến trình nâng cao nhận thức. Các con đã thấy gì nơi các nền dân chủ tân tiến? Một khuynh hướng tiến tới tự do, nhưng cũng bắt đầu có bước tiến tới tự do tâm thần, tự do tâm lý. Bây giờ con hãy quay mặt nhìn về tương lai, khuynh hướng này sẽ đi về đâu? Phải chăng là các nền dân chủ tân tiến này sẽ dần dần cho nhiều quyền tự do tâm lý hơn cho người dân xứ họ? Người dân sẽ giành quyền tự do tâm lý, sẽ đòi hỏi quyền này, họ sẽ nâng các người khác lên, và xã hội sẽ phải tới điểm nhìn nhận mục đích cao nhất của một nước dân chủ tự do là tạo ra điều kiện tốt nhất để mỗi người dân giành tự do tâm lý ở mức cá nhân. Điều này tất nhiên sẽ xảy ra. Đây không phải là một lời tiên đoán. Điều này đã được viết trong lịch sử nhân loại, vạch rõ khuynh hướng tương lai.

Mọi phát triển tích cực mà các con thấy trong lịch sử đều đẩy xã hội tới điểm nhìn nhận quyền tự do tâm lý là mục đích tối hậu. Tất cả mọi việc đều chỉ tới hướng đó. Khi các con thấy nó, khi nó hiện ra rõ ràng, thì các con là đệ tử trực tiếp của các thày, các con có thể chuyển dời tâm thức và thấy nó chăng? Các con có thấy tính tất nhiên của nó chăng? Do đó, các con hãy vững tin, hãy can đảm, hãy được khích lệ và nhận ra là mình đang ở hàng đầu của làn sóng. Nếu dùng một lối nói cũ, thì có thể nói đó là làn sóng lịch sử tất yếu. Thật ra thì đây không phải là một tất yếu lịch sử, vì nó xảy ra khi có rất nhiều người đứng lên đáp ứng lực kéo lên của cả vũ trụ. Do đó, đây không phải là một tất yếu lịch sử, mà là một tất yếu do chọn lựa, nhưng quả thật nó là một điều tất yếu. Câu hỏi không phải là “sẽ có xảy ra không” mà là “khi nào sẽ xảy ra”.

Vậy thì các con có thể nào vượt thăng các nghi ngờ, sợ hãi, băn khoăn: “Xã hội đi về đâu? Ta làm việc này có kết quả gì? Sẽ có thời Hoàng kim không?” Các câu hỏi này sẽ mờ nhạt đi khi các con nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, phóng các khuynh hướng này tới tương lai, thì các con sẽ thấy là 100 năm, 200 năm nữa sẽ có những phát triển vĩ đại, một chuyển dời vĩ đại của tâm thức đại chúng. Những gì các con đã nhận ra bây giờ, đa số con người, ít nhất là trong các nước phát triển, sẽ nhận ra lúc đó. Điều đó sẽ trở nên đương nhiên với họ, như nó đã là đương nhiên cho con. Không có gì thần bí về các con cả. Các con chỉ trưởng thành hơn, phát triển hơn người trung bình trong xã hội các con một chút.

Đó là lý do vì sao con thấy được một số điều mà họ chưa thấy. Nhưng khi con nâng họ lên, khi họ tự phát triển, họ sẽ thấy những điều mà con đã thấy bây giờ. Vì sao con lại thấy được các điều này? Con có khả năng đặc biệt gì chăng? Không đâu. Con đã đả thông được một số bế tắc trong tâm thức của mình khiến cho điều đó trở nên hiển nhiên. Khi người khác cũng làm như vậy, thì điều này cũng sẽ trở nên hiển nhiên với họ. Không có gì thần bí cả. Khi con ở trong một phòng tối, thì tại sao nó lại tối? Phòng tối vì các cửa sổ bị lấp kín bởi một lớp bụi dày đặc. Khi con đục một lỗ thủng trong lớp bụi này đi thì chuyện gì xảy ra? Ánh sáng sẽ vào căn phòng, và khi có một tia ánh sáng lọt vào căn phòng, thì con nhận ra rằng bên ngoài căn phòng có ánh sáng. Vì nếu không thì làm sao lại có tia sáng lọt vào căn phòng?  Do đó, nếu ta đục thủng một lỗ lớn hơn, thì phải chăng ta sẽ có thêm ánh sáng rọi vào? Và nếu ta rửa sạch cả cửa sổ, phải chăng là ta sẽ có toàn thể ánh sáng tràn vào? Không có gì thần bí cả. Không ai có khả năng gì đặc biệt cà, một người làm được thì mọi người đều làm được. Do đó, con nên nhớ rằng khi con đi con đường của mình, người khác sẽ được nâng lên để làm giống như vậy, và việc đó sẽ lan dần ra, lan dần ra, lan dần ra và thời Hoàng kim sẽ là thực tại thể hiện, có thể không trong kiếp sống này của con, nhưng nó sẽ thành sự thực.

Vậy con có thể nào không được khích lệ chăng? Con hãy buông bỏ mọi sợ hãi, nghi ngờ, băn khoăn, và nhận ra rằng con thuộc một trào lưu đi lên của hành tinh này. Con thuộc về đại đòan chân sư thăng thiên và trào lưu mà các thày đã tạo ra trên Trái đất. Con là phần nối dài của các thày. Các thày biết là sống kiếp đầu thai ở một hành tinh dày đặc như thế này rất khó khăn. Nhưng con có thể nào giữ chặt theo viễn quan của các thày khi các thày nhìn về lịch sử một cách rất thực tế, phóng chiếu tới tương lai, và qua đó, thấy một cách rất rất rất rõ ràng là thời Hoàng kim sẽ tất nhiên xảy ra trên hành tinh này? Sa nhân sẽ không cản được điều này, nhân loại sẽ không cản được điều này. Những ai cản trở nó, những ai chưa thấy nó, họ sẽ không cản được nó vì túc số những người đã chuyển dời đã được hội đủ. Không phải chỉ có các con là những đệ tử trực tiếp của chân sư thăng thiên mà còn nhiều người khác đã chuyển dời tâm thức, và do đó sẽ không có gì ngăn trở thời Hoàng kim được.

Trong hội nghị vừa qua và hội nghị này, các thày đã trao truyền nhiều giáo pháp rất dũng mãnh, rất thâm sâu, cùng dụng cụ để giúp phụ nữ tự giải thoát và làm động lực thay đổi, một thay đổi cần xảy ra bây giờ trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt nơi các nền dân chủ tân tiến. Đúng thật là các dụng cụ đã có mặt, giáo pháp đã có mặt. Bất cứ ai dùng các dụng cụ này một cách chân thành sẽ đạt được kết quả, không những cho chính mình, mà họ còn ảnh hưởng xã hội bằng cách giải phóng người khác. Đó là mục đích của các thày. Các thày mong được thấy những gì sẽ xảy ra trên lãnh vực giải phóng phụ nữ trong 10 năm sắp tới. Các thày cảm ơn các con đã tham dự các hội nghị này, đã làm đầu mũi giáo chọc thủng màn ngăn trở của tâm thức đại chúng không muốn thấy giải phóng tâm linh thực sự nơi phụ nữ.

Bây giờ thày niêm các con. Thày niêm hội nghị này trong ánh sáng đức Phật mà TA LÀ. Ánh sáng không thể nói tới, không thể mô tả nhưng toàn thắng, không thể ngăn chặn. Có lẽ chính vì nó không thể mô tả mà không có gì ngăn chặn được nó, vì nó không phân biệt. Nó không phải là một vật và không thể hiểu bằng lý trí đường thẳng, cũng như thày không thể hiểu được bằng lý trí đường thẳng, và pháp của thày cũng không thể hiểu trọn vẹn được bằng lý trí đường thẳng. Lý trí đường thẳng có thể tạo ra một hình tư tưởng của giáo lý Phật. Nhưng hình tư tưởng sẽ không bao giờ giúp con tiếp cận được Phật, và chỉ khi con tiếp cận được Phật thì con mới hiểu được giáo pháp của Phật.

Ta là Phật, ta là Chủ tể Thế gian của Trái dất. Bất cứ ai trên Trái đất đều có thể tiếp cận ta nếu họ chấp nhận vượt thăng không những giáo lý Phật giáo vỏ ngoài, và tất cả giáo lý vỏ ngoài, tất cả chuẩn mực vỏ ngoài. Vì ta không bị giới hạn bởi bất cứ gì trên Trái đất. Do đó, nếu con muốn tiếp cận ta, con cũng không được giới hạn chính mình. Tất cả các con đều có tiềm năng đó, các con có giáo lý, các con có dụng cụ. Các con có gương của sứ giả này, đã tiếp cận ta nhiều lần, và hiện đang tiếp cận ta ngay lúc này vì ông đang cảm thấy Hiện diện không thể mô tả của Phật, Hiện diện quả cầu của Phật. Một số trong các con đang cảm được nó. Tất cả các con đều sẽ cảm được nó. Ta không ngăn các con tiếp cận ta. Tại sao các con lại tự ngăn không cho mình tiếp cận ta?

Đã đến lúc bước lên một nhận biết cao hơn về chức năng làm mẹ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và ta đến để gửi cho con một số ý nghĩ về chức năng làm mẹ.

Các chân sư từng nói nhiều lần là mỗi thay đổi trên địa cầu khởi sự ở cõi ether nơi tầng bản sắc. Thay đổi xảy ra ở đó trước tiên, rồi từ đó chuyển xuống cõi lý trí, rồi cõi cảm xúc, và sau khi đi qua cõi cảm xúc, cuối cùng nó đi xuống cõi vật lý. Ta muốn chia sẻ với con một vài cảm nghĩ về những gì các chân sư đã làm trong một thời gian rất dài để đem lại một số ý tưởng và hiểu biết xuyên qua ba cõi cao hầu những ý tưởng này có thể sẵn sàng đi xuống cõi vật lý. Qua đó ta muốn nói là đa số phụ nữ sẽ nhận ra những ý tưởng này. Hiển nhiên nhiều phụ nữ đã nhận ra rồi, và nhiều phụ nữ với thiên hướng tâm linh hay mức nhận biết cao hơn cũng đã nhận ra. Nhưng chúng ta đang ở một điểm khi trong thập niên tới, những ý tưởng này sẽ được quần chúng rộng lớn nhìn nhận, có lẽ chưa là đa số, nhưng chắc chắn một túc số đủ để kích hoạt những thay đổi.  

Chúng ta hãy nhìn vào hoàn cảnh của một phụ nữ trên địa cầu đang có mang. Dù đây là lần đầu hay một lần sau, con đang mang thai một đứa bé. Con sắp trở thành mẹ, và tất nhiên con mang niềm hy vọng và mường tượng con mình sẽ lớn lên, trưởng thành và sống một cuộc đời dài lâu. Là mẹ, con muốn thấy gì nơi con mình? Nhìn chung quanh hành tinh, con thấy người mẹ trong nhiều hoàn cảnh đời sống khác nhau. Họ sống trong nhiều nền văn hóa, có những góc nhìn và tin tưởng khác nhau về cuộc sống. Họ mong muốn những điều khác nhau cho con mình tùy theo hoàn cảnh họ đã lớn lên và họ chờ đợi con mình cũng sẽ lớn lên ở đó. Nhưng hãy chưa đi vào chi tiết vội, hảy nhìn chung chung trước cái đã.       

Một người mẹ muốn gì cho con mình? Điều căn bản là muốn con mình có một cuộc sống tốt đẹp. Mỗi người ở trong hoàn cảnh khác nhau có thể định nghĩa “tốt đẹp” không giống nhau, nhưng dù sao thì mọi người mẹ đều muốn con mình có cuộc sống tốt đẹp. Có nghĩa là họ không muốn một số điều xảy ra cho chúng. Họ không muốn chúng chết sớm. Họ không muốn chúng nghiện ma túy, không muốn chúng trở thành tội phạm, không muốn chúng bị gọi đi nghĩa vụ quân sự và bỏ mạng hay bị tàn phế nơi chiến trường. Họ không muốn chúng mắc phải những chứng bệnh nan y chết người, không muốn chúng bị tàn tật hay tổn thương tâm lý đến độ không thể sống hữu ích, không thể học hành, đi làm hay lập gia đình. Chắc chắn có nhiều điều mà một người mẹ không muốn cho con mình.  

Bây giờ hãy nhìn vào tâm trạng của một người sắp làm mẹ. Khi cô ấy nhìn về tương lai và dự kiến điều gì có thể xảy ra – hay không xảy ra – cho con mình, làm thế nào cô ấy xử lý được đây? Như thày Portia có nói, con có thể nhìn lại lịch sử khắp thế giới, có những hoàn cảnh nơi phụ nữ phải sống vô cùng bấp bênh, có thể một đời nghèo khó, hay sống trong vùng xung đột. Cho nên nói chung có nguy cơ con mình phải đối diện với bạo lực và rủi ro. Thời nay ở những nước tương đối trù phú thanh bình, có những phụ nữ có thể mong đợi con mình có cuộc sống khá tốt. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, người mẹ không thể biết được liệu con mình sẽ bị bệnh tật, bị những vấn đề tâm lý ngăn cản chúng được hưởng một cuộc sống bình thường, hữu ích, hoặc bất kỳ những vấn đề nào khác có thể xảy ra. Khi con nhìn dưới mắt người mẹ, con có thể tự hỏi: “Điều gì sẽ định đoạt cuộc sống của con tôi, điều gì sẽ định đoạt đời nó sẽ có đóng góp xây dựng hay là sẽ trắc trở, đau buồn, sầu thảm, hung bạo? Điều gì sẽ quyết định cuộc đời con tôi? Tôi muốn đời nó tốt đẹp nhưng điều gì sẽ định đoạt những nét chính trong đời nó?”                 

Ở điểm này, nhiều người mẹ sẽ nhìn ra một cách ý thức một điều mà họ vốn đã biết nhưng thường chưa nhìn nhận. Khi họ ngẫm nghĩ về tương lai con mình, họ cảm thấy phần nào bất lực không làm gì được. Họ cảm thấy mình rất ít quyền hạn để định đoạt cuộc đời con mình sẽ hữu ích hay không. Hiển nhiên nhiều người mẹ không dám nghĩ đến tương lai con mình chính vì cảm hấy mình không có khả năng làm được gì, và họ tránh không nghĩ tới. Nhưng nếu con suy nghĩ, phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau trên thế giới có những tin tưởng gì về các yếu tố sẽ ảnh hưởng tương lai con mình? Phải chăng là định mệnh? Là số mạng? Là sự may mắn? Là những chuyện ngẫu nhiên hên xui may rủi? Là ý muốn của Thượng đế như một số phụ nữ tin như vậy, dù đó là Thượng đế này hay Thượng đế kia? Đó có phải là nghiệp chướng như một số phụ nữ, rất nhiều phụ nữ đặc biệt là tại phương Đông, tin như vậy? Điều gì sẽ định đoạt vận mạng, cuộc sống của nó? Nếu thật là tất cả những điều ở trên, cho dù đó là ý muốn của Thượng đế hay nghiệp quả hay sự may rủi, thì với tư cách người mẹ con quả là không thể làm được gì. Nếu con tin rằng ý muốn Thượng đế sẽ ảnh hưởng đến con mình, con có thể cầu nguyện và tin tưởng lời cầu của con sẽ thay đổi ý định của ngài đối với nó, nhưng ngoài chuyện đó ra thì phụ nữ cảm thấy bất lực ở nhiều mức độ khác nhau.

Tuy nhiên trên bình diện rộng lớn của tâm ý thức loài người trong cõi vật lý, hiện đang có một sự khai ngộ sắp sửa đột phá, rằng cảm giác bất lực này nơi người mẹ là một ảo tưởng. Nó phát xuất từ một số tin tưởng sai lạc được truyền bá trong tâm thức tập thể. Thậm chí nó phát xuất từ một số tin tưởng đã được cố tình cài đặt vào phụ nữ trong một số bối cảnh văn hóa khác nhau. Cho nên trong thập niên sắp tới, nhiều phụ nữ sẽ có khả năng nhận ra là trong vai trò người mẹ, quả thực là có những điều mà họ có thể làm được để định đoạt cuộc sống mà họ mong muốn cho con mình. Chắc chắn nhiều người sẽ hỏi ngay: “Tôi có thể làm gì được trong cõi vật lý?” Và tại một số nước nghèo hay đang lâm vào cảnh chinh chiến, nhiều phụ nhữ sẽ cảm thấy mình chẳng làm được gì nhiều trên phương diện vật lý bởi vì tương lai thật quá bất định. Tại các nước trù phú hơn, một số phụ nữ sẽ cảm thấy là họ đã làm đủ tất cả những gì họ có thể làm rồi. Họ có cuộc sống vật chất tốt đẹp, bảo đảm, họ sẽ cho con đi học những trường tốt nhất, họ sẽ giúp cho con học hành đến nơi đến chốn rồi có công ăn việc làm trên mức trung bình. Và họ cảm thấy như thế là đủ. Con họ sẽ có một tương lai tương đối bảo đảm, sung túc.  

Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, nếu con nghĩ xa hơn, làm sao chắc chắn đứa con ra đường không bị xe đụng? Không thể biết được, phải không? Cho nên điều con cần nhận ra là cho dù con cảm thấy bất an hay vững tin về tương lai, vẫn có những điều mà con có thể làm để bảo đảm nhiều hơn cho cuộc sống con mình. Có những việc mà con có thể làm để cải thiện cuộc sống của nó bất kể những điều kiện nơi xứ con, bất kể số mạng hay may mắn hay rủi ro hay bất cứ con gọi là gì. Yếu tố này bảo đảm sẽ cải thiện cuộc sống đứa con của con. Vậy yếu tố sẽ cho con quyền năng cải thiện cuộc sống đó là gì?   

Đúng vậy, như chúng tôi đã có nói, đó là sự thừa nhận rằng con người là những sinh thể tâm lý. Hẳn nhiên, đứa con của con sẽ lớn lên trong một số hoản cảnh vỏ ngoài. Sẽ có một số điều kiện vỏ ngoài ảnh hưởng đời sống của nó, và những điều kiện này có thể con sẽ không thay đổi được. Nhưng khi con nhìn cuộc đời một cách thực tế – có thể chính đời con hay đời người khác – con sẽ thấy hai đứa trẻ có thể lớn lên trong những hoàn cảnh rất tương tự, thế nhưng một đứa sống hữu ích còn đứa kia thì không. Con thấy nhiều đứa trẻ lớn lên tại các nước giàu có với đầy đủ mọi thứ, với cả cái thìa bằng bạc ngậm trong miệng như câu thành ngữ quen thuộc vẫn nói. Thế nhưng một số đứa không có khả năng có một cuộc đời xây dựng, hữu dụng. Tại sao như vậy? Tại vì tâm lý của chúng mà thôi. Đâu là sự khác biệt giữa một đứa trẻ lớn lên và trở thành hữu ích với một đứa không làm được vậy? Tất cả là trong tâm lý, trong cách nó tiếp cận cuộc sống, thái độ của nó với cuộc sống, cách nó nhìn cuộc sống, cách nó nhìn chính nó. Đó hoàn toàn là vấn đề nó đã đi vào hiện thân trong những điều kiện tâm lý như thế nào.          

Và đây là điểm mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn nhận. Tại nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đã được dạy dỗ, đã được lập trình để tin rằng mình không có khả năng làm gì nhiều để ảnh hưởng tâm lý của mình lẫn tâm lý con mình – đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn một tâm lý nào đó rồi và con không làm gì được nhiều. Nhưng đó là lời dối gạt, đó là ảo tưởng mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn thấu. Sự nhìn nhận này có thể khởi sự trên bình diện rộng lớn tại các nước giàu có, nhưng ngay cả tại những nước nghèo hơn, nhiều phụ nữ hiện đang đầu thai đã sẵn sàng chuyển dời tâm thức và nhận ra rằng tâm lý có tầm ảnh hưởng trên mọi lãnh vực cuộc sống. Sự chuyển vọt tâm thức mà phụ nữ có thể làm được là nhìn nhận rằng: “Tâm lý con tôi không hề được tạc vào đá. Con tôi sinh ra với một tâm lý nào đó, nhưng có những điều tôi có thể làm để giúp nó phát triển tâm lý hầu nó có cái nhìn xây dựng hơn về cuộc sống.”

Khi suy ngẫm điều này, thật là không khó khăn gì cho các bà mẹ thấy được rằng những ai có thái độ và cách nhìn xây dựng tich cực về cuộc sống thường có một cuộc đời tốt đẹp hơn thật, ngay cả trên phương diện vật lý. Nhưng đặc biệt họ có một cuộc đời tốt đẹp hơn trên phương diện tâm lý, trong hạnh phúc tâm lý. Có bà mẹ nào mà không muốn con mình hạnh phúc tâm lý? Có bà mẹ nào không muốn con mình hạnh phúc, bình an, bằng lòng với cuộc sống? Sự thật là một số bà mẹ không dám muốn điều này vì chính họ đã lớn lên với những vết thương tâm lý sâu đậm đến độ họ không thể mang ước vọng đó cho con mình. Nhưng đại đa số bà mẹ đều mong muốn con mình sống hữu ích, hạnh phúc. Cho nên không phải là điều quá xa vời – mà ngược lại rất gần kề – khi rất nhiều bà mẹ, một túc số đủ các bà mẹ nơi các nước giàu có, thực hiện một cuộc đột phá, chuyển vọt tâm thức và nhận ra rằng: “Có một điều mà tôi có thể làm cho con tôi sẽ tác động lên từng khía cạnh cuộc sống của nó, đó là giúp cho nó chữa lành và phát triển tâm lý của nó.”  

Và điều này có nghĩa là phụ nữ có thể cởi mở hơn để tìm kiếm những phương cách giúp đỡ tâm lý con mình. Ta cũng biết có một số phụ nữ, đặc biệt tại các nước giàu có hơn, đặc biệt những người bận rộn nghề nghiệp, bận rộn công việc và quen trả tiền cho đủ loại dịch vụ để mình khỏi phải bận tâm, sẽ nói: “Ô, có nghĩa chăng là tôi sẽ đưa con tôi đi chữa bác sĩ tâm lý và bác sĩ đó sẽ lo cho nó?” Nhưng sẽ có rất nhiều phụ nữ khác sẽ nắm lấy trách nhiệm và nói: “Nếu tôi muốn con tôi cải sửa tâm lý, ai sẽ là người làm chuyện đó? Có phải là cha nó? Chắc là không rồi. Liệu tôi sẽ có đủ tiền đưa nó đi chữa trị tâm lý và liệu một nhà tâm lý học sẽ thực sự giúp được nó không? Cũng chắc là không luôn.” Ngón tay con sẽ chỉ tiếp vào ai đây? Ngón tay sẽ chỉ vào ai và bảo: “Đây là người sẽ giúp được con tôi”? Đúng vậy, tất nhiên, ngón tay sẽ chỉ vào chính con. Và một câu hỏi hợp lý sẽ nảy ra ở điểm này: “Nếu tôi muốn giúp tâm lý con tôi, tôi sẽ làm thế nào đây? À ra vậy, tôi phải giúp chính tâm lý của tôi trước tiên cái đã, bởi vì nếu tôi đang mang những thương tích tâm lý thì thứ nhất tôi sẽ không có khả năng giúp con tôi, và thứ nhì, rất có thể tôi sẽ truyền những vấn đề tâm lý của tôi cho nó.”        

Nếu con nhìn vào lịch sử hay ngay cả gia đình của con, mẹ của con, cha của con, con thấy được bao nhiêu trường hợp cha mẹ truyền lại tâm lý tổn thương cho con cái, hay ít nhất cũng tác động sâu xa tâm lý con mình. Vậy thì điều hợp lý để giúp con cái, hay thậm chí để tránh làm hại nó, cách hay nhất có phải chăng là con cần tìm cách giải quyết tâm lý của chính con? Nhưng khoan đã. Đứa con của con có phải là người duy nhất sẽ được hưởng lợi từ việc con giải quyết tâm lý của con? Không, tất nhiên con cũng sẽ hưởng lợi, vì khi con giải quyết tâm lý, con sẽ thỏa nguyện hơn với cuộc sống, và ta trong vai trò Mẹ Thiêng liêng cho địa cầu, ta rất mong muốn điều này cho mọi người mẹ. Hơn thế nữa kìa, ta mong muốn cho tất cả mọi người. Cần có sự tỉnh ngộ là mặc dù các yếu tố ngoại cảnh có thể ảnh hưởng cuộc sống, yếu tố chủ yếu vẫn là tâm lý của mình. Và sự tỉnh ngộ tiếp ngay sau là tâm lý con người không hề được tạc vào đá. Và sự tỉnh ngộ kế tiếp, mỗi con người ngoại trừ một số rất ít bị tổn thương vô cùng trầm trọng, đều có chọn lựa nắm lấy quyền cai quản tâm lý của mình, có những biện pháp chữa lành vết thương và giải quyết những bế tắc đủ loại đang ngăn cản mình có một cuộc sống tâm lý lành mạnh.        

Và điều này có thể dẫn tới một sự tỉnh ngộ nữa, nằm trong cái mà chúng tôi gọi là tính nhân bản căn bản và cốt yếu. Tính nhân bản cốt yếu giúp con nhận ra rằng nhiều người có cuộc sống rất khó khăn do tâm lý của họ, rằng con có khả năng thay đổi tâm lý và con có thể hành động ý thức để thay đổi tâm lý. Đây là tiềm năng mà nhiều người sẵn sàng nhìn nhận như là một nhu cầu tự hiện thực (self-actualisation). Đây cũng là một điều mà đa số các nền dân chủ hiện đại cần nhìn nhận là bước tiến bộ cần thiết sắp tới, là vượt xa hơn phúc lợi vật chất để đem lại phúc lợi tâm lý.

Nhưng còn thêm một điều tỉnh ngộ nữa, dựa trên sự lượng định về nhân loại. Quốc gia nào, xã hội nào hiện có sức khỏe thể chất cao nhất? Các con đều biết rõ. Người ta đã đặt ra một chỉ số để đo đạc chuyện này. Người dân nước nào khỏe mạnh nhất? Nước nào có hệ thống chăm sóc sức khỏe, hay cả một cách tiếp cận sức khỏe phát triển cao nhất và do đó chăm sóc người dân tốt nhất? Rồi con có thể hỏi khác đi một chút: “Chỉ nhìn vào sức khỏe thể xác liệu có đủ hay chăng?” Hiển nhiên là không rồi. Phải cần xét cả sức khỏe tâm lý nữa chứ. Các nước đang làm gì trong lãnh vực này? Liệu các nước đã nhìn ra đây là một vấn đề vĩ đại? Liệu họ đã tìm hiểu và thực sự nhìn nhận tầm quan trọng của sức khỏe tâm lý? Mọi nước cho tới giờ đều đã nhìn nhận sức khỏe thể xác là quan trọng để có cuộc sống tốt đẹp, hữu ích. Nhưng gần như chưa có quốc gia nào công nhận trọn vẹn rằng sức khỏe tâm lý con quan trọng hơn gấp bội. Và đây là một sự thay đổi có thể xảy ra nếu giới phụ nữ lên tiếng đòi hỏi do quan tâm cho con em của mình. Phụ nữ sẽ nói: “Chúng ta phải thay đổi. Chỉ lo điều kiện vật lý cho con cái thật là không đủ nữa. Quan trọng hơn hẳn là phải lo những điều kiện tâm lý.” Ở một mức nào đó, tiến trình này đã bắt đầu xảy ra tại một vài nước, nhưng vẫn chưa có sự chuyển vọt cần thiết hầu trở thành một ưu tiên hàng đầu của xã hội.

Vậy cái gì có thể thúc đẩy thay đổi này? Phải, lực thúc đẩy chính là cá nhân mỗi người phụ nữ chuyển vọt tâm thức mình và nói: “Đâu là những dụng cụ tâm lý hiện có để tôi áp dụng trước tiên trên bản thân tôi và sau đó áp dụng trên con tôi?” Nhìn vào tình hình ngay cả tại các nước dân chủ tiên tiến nhất, hầu hết phụ nữ sẽ nhanh chóng đi đến kết luận là hiện không có nhiều phương tiện để họ sử dụng. Chắc chắn đã có một số it được tìm thấy trong sách và khoá huấn luyện và này kia nọ, nhưng thật là không nhiều, và chắc chắn là ít hơn nhu cầu. Và điều này có thể dẫn đến một sự tỉnh thức, ngay cả một đòi hỏi: “Chúng tôi muốn những phương tiện tâm lý tốt hơn. Chúng tôi muốn hiểu biết cao hơn về tâm lý so với những gì chúng tôi đã nhận được từ ngành tâm lý truyền thống và ngành tâm lý trị liệu truyền thống.”

Nhìn vào vấn đề này một cách thực tế ngay cả tại những nước giàu có nhất, liệu phụ nữ sẽ có đủ phương tiện tài chánh để bỏ ra nhiều năm đi khám bác sĩ tâm lý mỗi tuần, trả khoản phí rất cao cho một tiếng đồng hồ trị liệu với kết quả giới hạn? Người mẹ nào có khả năng chi trả cho con mình đi trị liệu như vậy? Vậy có thực tế lắm không nếu phụ nữ phải đi theo con đường trị liệu truyền thống hầu giúp con mình có cuộc sống tâm lý tốt đẹp? Thưa không. Vậy thì giải pháp thực tế duy nhất là gì? Đó là tìm ra một số cách tiếp cận tâm lý mới mà mỗi cá nhân có thể tự áp dụng lấy. Con không cần sự giúp đỡ của một nhà trị liệu đã học năm năm đại học, đã tìm hiểu tâm lý học mà nhiều khi vẫn chưa giải quyết được tâm lý chính mình.

Điều con cần là một người có kinh nghiệm thực tiễn, một sự chín chắn sành sỏi, có khả năng nói với con: “Tôi đã tự cải sửa bản thân tôi. Tôi đã nỗ lực hiện thực bản thân, đã chữa lành tâm lý, đã phát triển khả năng lẫn tiềm năng cá nhân suốt nhiều năm. Tôi đã tìm ra những dụng cụ này, những giáo lý này. Những phương tiện này đã giúp được tôi, tôi nghĩ nó cũng sẽ giúp được bạn.” Và cả một phong trào mới có thể khơi dậy khi ngày càng nhiều phụ nữ tìm học một phương thức thực tiễn để trị liệu và phát triển tâm lý mà họ có thể áp dụng trước hết trên bản thân xong trên con cái mình, một phương thức thiết thực, rẻ tiền và thích hợp với cuộc sống hàng ngày. Khi mức cầu đã có thì mức cung sẽ phải theo, và con sẽ thấy nguyên một công nghiệp hoàn toàn mới trồi dậy. Một phong trào hoàn toàn mới có thể lan rộng. Hiện nay ở một mức độ nào đó, đã có phong trào tự cải thiện bản thân, thiền tỉnh thức và một số phương pháp tự nhận biết, nhưng phong trào này có thể mở rộng ra các lãnh vực tâm lý, liệu pháp tâm lý, phát triển cá nhân. Tất nhiên một số phụ nhữ sẽ ưa thích một cách tiếp cận tâm linh, nhưng nhiều người khác sẽ muốn một phương thức phổ thông hơn, không liên quan đến tâm linh trực tiếp hay lộ liễu.     

Đây là một hướng phát triển rất quan trọng. Con có thể đọc cầu thỉnh, có viễn kiến về hướng phát triển đó, và con cũng có thể bắt đầu thực hiện, tạo ra nhu cầu và đáp ứng nhu cầu. Một số trong các con đã có kinh nghiệm trong các loại dịch vụ huấn luyện, tự cải tiến, hay trong ngành tâm lý truyền thống, cho nên nhiều người có khả năng tham gia bằng nhiều cách. Không những phụ nữ mà phái nam cũng có thể nhập cuộc trong các vai trò trị liệu, huấn luyện, viết lách và nhiều nữa. Đầu tiên, trọng tâm có thể là sự phát triển bản thân với tư cách là một người mẹ muốn giúp con mình phát triển thành những cá nhân hữu dụng. Dài hạn hơn, rõ ràng là nhu cầu này cần tăng trưởng tới mức trở thành một ưu tiên của xã hội và một dịch vụ bình thường của hệ thống sức khỏe thể chất, và nhiều hơn nữa. Thẳng thắn mà nói, có rất nhiều phụ nữ nay đã mở tâm ra để nhìn nhận: “Tôi không thể chờ cho xã hội làm điều này vì khi đó con tôi đã quá tuổi trưởng thành rồi. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ, cần làm gì đó ngay bây giờ. Cho nên tôi sẽ xông ra làm.”        

Giới phụ nữ có thể tụ họp lại, lập thành đoàn nhóm, những nhóm hỗ trợ cho nhau để giúp nhau phát triển tâm lý mình và cũng phát triển con mình. Có rất nhiều phương cách. Ở nhiều quốc gia và nền văn hóa khác nhau, con sẽ cần thử nghiệm để tìm ra phương cách thích hợp nhất cho mỗi nơi. Ta không nói là chỉ có một cách thực hiện, hay cách thực hiện của chân sư là cách hay nhất. Sáng kiến cần nẩy ra từ khắp toàn cầu. Một số ý tưởng hiện đã có mặt rồi nhưng cần được góp lại thành những phương pháp, những pháp trị liệu, những cách tiếp cận thiết thực. Đây là một sự phát triển vô cùng quan trọng. Chắc chắn nó sẽ khởi đầu tại các nước giàu có vì ở đó người ta có nhiều thời gian rảnh rỗi và được tự do quan tâm. Người ta có tiền bạc và tài nguyên, cho nên nó có thể lan rộng như những vòng nước trên mặt hồ.

Trên dài hạn sẽ phát triển tới đâu? Như chúng tôi đã có đề cập, nó sẽ phát triển tới mức khi con bắt đầu nhận ra các nhu cầu tự hiện thực của mình, và con mở tâm ra với nhiều hình thức tư tưởng tâm linh. Đến một lúc, để tự hiện thực một cách trọn vẹn, con sẽ cần nhận ra là con không phải là một sinh thể vật lý, một sinh thể vật chất. Vì nếu không, con sẽ không thể có tiềm năng tự hiện thực. Một con bò hay một con khỉ không thể nào tự hiện thực mà chỉ một con người mới có thể tự hiện thực. Và điều này sẽ mở rộng cửa cho rất nhiều phụ nữ bước vào cái nhìn tâm linh. Một số phụ nữ đã sẵn cởi mở như vậy rồi, nhưng trong thập niên tới đây, rất, rất nhiều phụ nữ hơn nữa sẽ mở ra với nhiều cách tiếp cận tâm linh mới. Một lần nữa, sẽ không chỉ có một phương cách chiếm ưu thế mà sẽ có nhiều nguồn tư tưởng phổ quát mà giới phụ nữ sẵn lòng xem đến.

Đầu tiên là ý tưởng về luân hồi. Chúng tôi đã có đề cập điểm này rồi. Ý tưởng này vô cùng quan trọng hầu giải đáp một số câu hỏi mà các bà mẹ đặt ra. Chẳng hạn như ta đã nói, khi con suy tính tương lai của con cái, con biết chúng luôn luôn có rủi ro gặp tai nạn hay gặp khó khăn khả dĩ đưa đời chúng vào một đường rày tiêu cực, thậm chí đẩy chúng kết liễu cuộc đời. Nếu con hiểu rằng chúng đã từng sống và tạo ra nghiệp quả trong nhiều kiếp sống, thì đó chính là nguyên nhân kết lại thành những sự kiện tiêu cực hôm nay. Con có thể tự hỏi: ”Vậy thì tôi có thể làm gì với nghiệp chướng của con tôi từ tiền kiếp?” Theo nhiều truyền thống tâm linh, dĩ nhiên con có thể làm nhiều điều để hoán chuyển nghiệp này trước khi nó thị hiện trong cõi vật lý. Học trò của các chân sư thăng thiên trong nhiều đợt truyền pháp đã làm như vậy từ nhiều năm qua, như đọc bài chú, thỉnh ngọn lửa tím để biến hóa nghiệp quả của con cái. Nhưng nhiều phụ nữ hơn nữa có thể mở tâm ra: “Tôi có thể sử dụng một số dụng cụ tâm linh để biến hóa nghiệp quả của con tôi trước khi nghiệp đi vào cõi vật lý và thị hiện thành sự cố bất hạnh”.

Có một câu hỏi khác mà nhiều phụ nữ đặt ra mặc dù không hoàn toàn ý thức hay không nói ra, đó là câu hỏi giản dị: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Ở đây chúng ta không chỉ nói đến các đặc điểm ngoại hình. Đa số bà mẹ đều nhận thấy quan hệ của mình vời con cái tùy thuộc rất nhiều vào cá tính của đứa con, hay nói cách khác, tâm lý của nó. Nhiều bà mẹ nhận thấy quan hệ với một đứa con, hay ngay cả với mọi đứa con, có sự giới hạn trên phương diện gần gũi, cởi mở. Tại sao vậy? Một lý do quan trọng là tâm lý mà nó đã tạo ra trong tiền kiếp và mang theo trong kiếp này, nhưng không chỉ có vậy, vì quan hệ với đứa con cũng tùy thuộc vào tâm lý của người mẹ. Cho nên khi con chấp nhận ý tưởng luân hồi, con thấy được là trong tiền kiếp của con, con cũng đã có một số trải nghiệm mà con hiện đem theo trong kiếp này – một số điều kiện tâm lý, bế tắc, vết thương hay xu hướng. Con có một khuôn nếp phản ứng khiến con luôn luôn phản ứng một cách nhất định, và đứa con biết rõ là nó có thể nhấn nút nào để kích động phản ứng đó nơi con.

Cho nên con có thể khởi sự nắm lại chủ quyền của mình với ý nghĩ: “Được rồi, tôi nhìn thấy quan hệ của tôi với nó đang theo một khuôn nếp, và nguyên nhân những khuôn nếp trong tâm lý nó cũng như những vết thương, bế tắc và khuôn nếp trong tâm lý tôi. Vậy liệu tôi có bắt buộc phải sống mãi với những khuôn nếp này? Liệu khuôn nếp sẽ hạn chế quan hệ của tôi với nó cho đến khi một trong hai người qua đời? Hay là tôi có thể làm gì khác?” Và tất nhiên, con nhận ra là con có khả năng làm cái gì khác. Con có khả năng thay đổi nền tảng quan hệ, nhưng chỉ khi nào cả hai người đều thay đổi tâm lý mình. Đôi khi tâm lý đứa con có thể khó lòng thay đổi, nhưng với xã hội ngày càng tiến bộ, sự nâng cao ý thức sẽ khiến cho tiến trình này ngày càng dễ dàng hơn. Trẻ con sẽ được học ngay ở lớp mẫu giáo rằng chúng có khả năng đương đầu với tâm lý của chúng. Con sẽ thấy là bắt đầu từ thập niên tới và sau đó, xã hội sẽ ngày càng chấp nhận ý tưởng rằng mọi quan hệ giữa con người đều tùy thuộc vào tâm lý của các đương sự. Đó là một yếu tố trong tầm khả năng của con. Ngay cả khi con không thay đổi được tâm lý con mình, nhưng nếu con thay đổi tâm lý của con thì con vẫn thay đổi được quan hệ của con với nó.  

Ta công nhận là sẽ có một số đứa trẻ khó lòng được giúp đỡ khi chúng còn nhỏ vì chúng cần phải trưởng thành. Chúng cần phải ra đời và trải nghiệm cuộc đời trước khi sẵn sàng và sẵn lòng nhìn vào tâm lý của chúng. Một số sẽ cảm thấy mẹ mình đang cố áp đặt tiến trình thay đổi lên chúng, cho nên dĩ nhiên là con cần không được cưỡng ép chúng. Tuy nhiên, hầu hết mọi đứa trẻ đều có thể được giúp đỡ một khi người mẹ đã giải quyết được bế tắc của mẹ trước khi cố giúp con mình. Khi con đã giải quyết các khuôn nếp tâm lý của con, con sẽ bớt mong muốn cưỡng ép đứa con bởi vì bây giờ con không còn cố giải quyết vấn đề của nó hầu tránh né đương đầu với vấn đề của con – ngược lại với nhiều bà mẹ thời nay chưa hiểu được chuyện này. Con có thể nhìn vào khuôn nếp, có lẽ ngay cả khuôn nếp của chính mẹ của con khi con còn bé và đã khiến cho bà tức giận, và vì bà không thích tức giận cho nên bà đã cố ép buộc con phải thay đổi cách cư xử để bà không phải tức giận.

Tất nhiên đây không phải là mô thức mà con muốn lặp lại với con của con. Con muốn tiếp cận một cách khác và nói: “Trước tiên, hãy để tôi cải sửa tâm lý của tôi trước khi tôi tìm cách thay đổi tâm lý nó, để tôi chắc chắn là tôi không đang cố ép uổng bất cứ gì lên nó hầu tôi né tránh đương đầu với chính tôi. Nói cách khác, tôi sẽ gỡ bỏ cái xà trong mắt tôi trước khi lo đến cái giằm trong mắt con tôi.” Trong một số trường hợp, có khi con chỉ cần gỡ bỏ cái giằm trong mắt con trước khi xem đến cái xà trong mắt nó, bởi vì không phải lúc nào đứa con cũng có ít bế tắc tâm lý hơn cha mẹ. Ngược lại là đằng khác, thời nay rất nhiều trẻ con bị vấn đề tâm lý nhiều hơn là cha mẹ. Lý do phần nào là vì như chúng tôi có mô tả, lịch sử địa cầu trong mấy trăm năm gần đây đã đầy rẫy chiến tranh và xung đột, khiến cho rất nhiều linh hồn bị tổn thương trầm trọng trong tiền kiếp. Và họ bước vào kiếp sống hôm nay với mong muốn hàn gắn vết thương tâm lý của họ, và họ tự hỏi: “Tôi sẽ muốn đầu thai ở đâu đây?”

Phải, rất nhiều người sẽ muốn đầu thai tại một nước giàu có nơi họ có nhiều xác suất hơn để cải sửa tâm lý, nhưng họ cũng sẽ cố tìm bậc cha mẹ thích hợp và họ nghĩ: “Tôi muốn làm con của người cha người mẹ không mang quá nhiều vết thương tâm lý như tôi, để cha mẹ còn dư ra một ít tự do mà giúp tôi.” Đương nhiên đây không phải là trường hợp của mọi người bởi vì cũng có nhiều đứa trẻ tâm linh như các con đây có ít vấn đề hơn cha mẹ mình, và như vậy chính các con lại có tiềm năng giúp đỡ cha mẹ các con, hoặc it ra các con có thể thoát ly khỏi cha mẹ để không cho các vấn đề tâm lý của cha mẹ định đoạt đời mình. Nhưng nói chung, có một xu hướng rõ ràng tại các nước giàu có là nhiều trẻ em sinh ra với những bế tắc tâm lý trầm trọng từ tiền kiếp với hy vọng tìm được bậc cha mẹ có khả năng tạo cơ hội cho chúng hàn gắn và chữa lành.  

Và như vậy, đó cũng là một cách thể hiện tính nhân bản cốt yếu khi phụ nữ bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của câu hỏi: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Hỏi như thế thì sẽ dễ chấp nhận ý tưởng luân hồi nhiều hơn, bởi vì luân hồi có khả năng to lớn để giải thích tại sao một đứa trẻ lại như vậy, tại sao nó mang một số vết thương tâm lý không có cách giải thích nào khác. Chúng ta đã có bàn tới xu hướng hiện thời trên thế giới dựa trên hiểu biết của khoa tâm lý, là khi xã hội và thậm chí cả thân nhân trong gia đình thường hay đổ lỗi cho cha mẹ về các vấn đề tâm lý của trẻ con. Tức là nếu đứa con không biết tự lo lấy hay học hành thành đạt, thì đó phải là lỗi của cha mẹ – hoặc gen của cha mẹ không được tốt lắm, hoặc là cách dạy dỗ tồi tệ. Nhưng như đã nói, điều đó không phải lúc nào cũng đúng mà ngược lại là đằng khác. Con nhìn vào một đứa trẻ và con thấy rõ nó mang vết thương tâm lý rất sâu. Một vết thương thật sự sâu sắc chỉ có thể phát xuất từ một chấn thương vật lý trầm trọng tạo ra chấn thương tâm lý. Con dõi nhìn cuộc sống của nó thì thấy nó lớn lên trong một quốc gia trù phú, một gia đình khá giả với đời sống ổn định, và con không thấy có lúc nào trong suốt buổi thơ ấu nó đã từng gặp phải chấn thương to tát đến như vậy. Thế nhưng vết thương thì nằm chình ình ở đó, ngăn cản nó có được một cuộc đời hữu dụng. Giải thích làm sao đây? Đúng vậy, chỉ có luân hồi mà thôi.   

Vì vậy, chức năng làm mẹ và một nhận thức sắc bén nơi người mẹ sẽ là hai yếu tố giúp cho phụ nữ mở tâm ra với nhiều ý tưởng tâm linh phổ quát. Bây giờ con có thể hỏi: “Nhưng thưa Mẹ Mary, tại sao thày lại giảng bài học này cho con?” Bởi vì, ít ra là trong phần thế giới theo đạo Cơ đốc, người ta biết ta là mẹ của Giê-su. Và tất nhiên khi con mở tâm ra với luân hồi, có lẽ con cũng mở ra với ý tưởng là ta đã hiện thân làm người mẹ vật lý của Giê-su cách đây 2000 năm, và từ đó ta đã thượng thăng và trở thành một chân sư thăng thiên. Bây giờ khi con ngẫm nghĩ về tính nhân bản cốt yếu của con người, các chân sư có nói rằng tinh thần nhân bản không những là sự công nhận các quyền căn bản – những gì được quyền hay không được quyền xảy ra cho một đứa trẻ trong cõi vật lý – mà cả những cơ hội, cơ hội của con người, cơ hội của trẻ nhỏ. Vậy khi con nâng cao nhận thức về vai trò người mẹ, con cũng nhìn vào: “Đâu là những cơ hội cho con tôi? Làm thế nào tôi có thể cải thiện cơ hội cho con tôi?” Chắc chắn con sẽ cải thiện cơ hội cho nó bằng cách giúp nó chữa lành tâm lý, nhưng liệu còn điều gì khác nữa mà con có thể làm đề cải thiện cơ hội cho con mình, để ảnh hưởng “phẩm chất” của những đứa con mà mình sắp có? Hẳn sẽ có những phụ nữ trên thế giới có thể học được từ tấm gương của ta.

Nếu con vượt lên trên mọi chi tiết cùng các tín điều quen thuộc và nếu con bỏ sang một bên những gì con nghĩ về Giê-su và về đạo Cơ đốc, có một điều con có thể chắc chắn, đó là Giê-su đã là một đứa trẻ với tiềm năng phi thường. Nó có một cơ hội phi thường để làm điều gì đó trong đời sẽ tác động thế giới một tích cực, một cách lớn lao. Vậy nếu con là một người mẹ có sự nhận thức nhạy bén hơn trung bình, liệu con có muốn là mẹ của một đứa trẻ, hay của mấy đứa trẻ, với cơ hội tác động tích cực lên thế giới? Và con sẽ nghĩ: “Làm thế nào để được như vậy? Làm thế nào tôi trở thành mẹ của một đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt và một tiềm năng to lớn?” Phải rồi, con sẽ phải làm như ta đã làm cách đây 2000 năm, và điều này tất nhiên đã không được ghi lại trong kinh sách. Con sẽ phải sẵn lòng tự cải sửa chính mình, không những tâm lý của con, bởi vì đó không chỉ là vấn đề chữa lành vết thương tâm lý và những khuôn nếp phản ứng. Đó là vấn đề phát triển tâm lý của mình để nâng nó lên những tiềm năng cao hơn của tâm lý con người. Trong thuật ngữ mà chúng tôi sử dụng, điều đó có nghĩa là con sẽ phải bước đi trên đường tu tâm linh, và con sẽ phải nỗ lực một cách cố tình và ý thức để tự nâng mình lên một trạng thái tâm thức cao hơn mức bình thường của mọi người. Cách đây 2000 năm, một phụ nữ trung bình sẽ không sinh được đứa bé Giê-su đâu con. Nếu điều đó xảy ra thì quả là một tai họa cho cả người mẹ đó lẫn cho Giê-su. Người mẹ đó cần phải có một tâm lý đã được giải quyết ở một mức độ nào đó rồi. Vậy mức giải quyết đó là gì?  

Thật vậy, ta đã phải giải quyết tâm lý của mình rốt ráo đến độ không còn một điểm nào có thể tác động tiêu cực đến Giê-su. Ta phải giải quyết rốt ráo đến độ ta có thể hoàn toàn chú tâm vào sự hòa điệu với tiềm năng của Giê-su và làm tất cả những gì cần thiết để hỗ trợ cho tiềm năng đó. Điều này ta phải quyết định trước khi có thể sinh ra Giê-su, và có những quyết định đã xảy ra trong cả những tiền kiếp trước đó nữa. Hiện có rất nhiều phụ nữ đã từng cải sửa tâm lý của mình trong kiếp này và đạt được một trình độ giải quyết nào đó, cho nên sứ vụ thiêng liêng của họ trong kiếp này là sinh ra một đứa trẻ với một tiềm năng nhất định, một tiềm năng cao hơn. Nhiều phụ nữ đó đang sinh sống tại các nước giàu có, nhưng không phải tất cả. Vì thế hiện có một số lớn phụ nữ chưa ý thức được điều này, nhưng họ có khả năng tỉnh ngộ và tự hỏi: “Vậy tôi có thể làm gì để chuẩn bị sinh ra một đứa trẻ như thế?”       

Câu trả lời hiển nhiên vượt khỏi cả vấn đề giải quyết tâm lý. Con hãy nâng cao tâm thức, hãy cất bước trên con đường tâm linh, hãy đạt tới mức hiểu được một con người cần phải làm gì để nâng cao tâm thức và phát huy tiềm năng tâm linh của mình. Có những phụ nữ có khả năng làm được chuyện này trong vòng thập niên tới và có những phụ nữ khác sẽ làm được trong một tương lai xa hơn. Thực sự là có hẳn một lớp phụ nữ có khả năng lần hồi vươn tới mức này. Con đã tiến lên một bước để nhận ra tiềm năng tâm linh này, tiềm năng phát triển tâm linh. Con có thể cầu thỉnh điều này. Một số các con có thể giúp đỡ những phụ nữ khác qua việc tư vấn, huấn luyện, trị liệu, hội thảo, bất cứ điều gì mà con có thể làm để hoàn thành tiềm năng đó. Cho nên có rất nhiều việc mà con có thể làm. Rất, rất nhiều việc có thể được thực hiện trong 10 năm tới đây để khởi lên một sự đột phá, mà qua đó các bà mẹ sẽ mở tâm ra, nhìn xa hơn các quan điểm truyền thống, các niềm tin truyền thống, các hệ tư tưởng truyền thống và nhìn vào điều này: “Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của con tôi, và tất nhiên cùng lúc cũng cải thiện cuộc sống của tôi? Tôi có thể làm gì để cải thiện quan hệ của tôi với con tôi, hay quan hệ của những đứa con tôi với nhau?” 

Đã có bao nhiêu bà mẹ sinh con đầu lòng được tận hưởng những giây phút thần tiên chỉ có hai mẹ con và dành trọn sự chăm soc cho đứa con đó. Và họ mong có đứa con thứ hai để hai đứa chơi với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, thương yêu nhau. Ngờ đâu rất nhanh chóng, hai đứa bắt đầu cãi lộn, đánh nhau, cạnh tranh với nhau. Và kết quả là những xung đột rất sâu sắc giữa anh chị em.

Làm sao con có thể hiểu được chuyện đó nếu con không biết về luân hồi? Con không nhận ra rằng hai linh hồn này rất có thể đã có những xung đột gay gắt trong một kiếp trước mà chúng đã đem theo mặc dù là anh chị em trong cùng một gia đình, là con của cùng một người mẹ và đáng lý phải thương yêu nhau. Nhưng trong tiền kiếp, chúng ta đã thù ghét nhau, và bây giờ con lại rơi vào hoàn cảnh là liệu con sẽ chịu đựng tình trạng này cho tới khi chúng rời mái ấm gia đình, hay con sẽ tìm cách giải quyết? Con sẽ làm gì được đây? Được chứ, con có thể dùng các phương tiện tâm lý để chữa lành tâm lý hai đứa con, con có thể dùng dụng cụ tâm linh để tiêu hủy nghiệp quả giữa hai đứa và đưa chúng vào một con đường tích cực, qua đó chúng có thể vượt khỏi các khuôn nếp mà chúng đã mang theo từ tiền kiếp, nghĩa là trên căn bản, hoặc chúng sẽ tự gỡ nhau ra khỏi mối quan hệ và đi con đường riêng, hoặc chúng sẽ giải quyết các mối bất đồng và tạo dựng một quan hệ xây dựng với nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, chúng sẽ thoát khỏi cảnh xung đột triền miên có nguy cơ tàn phá cuộc đời của chúng trong mấy kiếp tới.    

Một lần nữa con có thể hỏi: “Là một phụ nữ, tôi có thể làm gì để bảo đảm tôi không có những đứa con như vậy?” Như ta đã nói, con hãy nâng cao tâm thức, hay ít ra nâng cao tâm thức đến một mức mà nếu con có đứa con như vậy, con sẽ giúp được nó và tránh không phản ứng tiêu cực. Cho nên con thấy đó, con yêu dấu, thông điệp căn bản mà ta phóng chiếu vào tâm thức tập thể ở đây là trong chức năng làm mẹ có rất nhiều điều mà người ta không nhìn thấy. Đã đến lúc con người bước lên một nhận thức cao hơn về chức năng làm mẹ. Và khi ta nói rằng trong chức năng làm mẹ có nhiều điều mà con mắt vật lý không thấy được, thì ta cũng nói thêm rằng có nhiều điều mà ý thức bản ngã của người mẹ không nhìn thấy được.

Chức năng làm mẹ không chỉ có cái “tôi”. Làm mẹ nhiều hơn cái tôi. Thông thường, nhiều phụ nữ bước vào vai trò làm mẹ từ quan điềm coi mình là trung tâm. Có hai trường hợp có thể xảy ra. Một là họ đã không tính có thai, cho nên khi họ rơi vào tình cảnh có con, họ cảm thấy như bị cưỡng bách rồi trở nên vị kỷ do phải đối phó với một tình huống ép buộc. Hai là họ có kế hoạch có con nhưng lại mang ý muốn vị kỷ rằng con mình phải như thế này hay như thế kia. Nhiều người trong số các con đã sống trong một khung cảnh gia đình như vậy khi người mẹ có định kiến cứng nhắc về cuộc đời của con mình, về những chuyện nó phải làm hay không được làm. Đó chỉ là vì đối với người đó, chức năng làm mẹ không là gì hơn bản ngã, cái ngã tách biệt, cái cá tính vỏ ngoài.  

Khi con nhìn vào lịch sử và đi trở ngược về quá khứ, ngay cả tại các quốc gia dân chủ hiện đại, con sẽ thấy người mẹ từng có những kỳ vọng lớn hơn về con mình, đặc biệt là về con gái. Các bà mẹ thường có nhiều kỳ vọng cho con gái hơn là cho con trai và vì vậy họ thường cho con gái ít tự do hơn. Cho nên trong quá khứ, cuộc đời đứa con gái thường phải theo đúng kỷ cương, phải đạt được kỳ vọng của mẹ mình, thậm chí kỳ vọng của gia đình họ hàng và cả nền văn hóa. Ngược lại tại các nước giàu có và tiến bộ hơn, phụ nữ đã đạt được không những sự tự do thể chất hay kinh tế, mà cả tự do tâm lý, tức là họ có quyền sống đời mình không theo khuôn mẫu hay sự chờ đợi của mẹ mình. Nhiều phụ nữ đã tự giải phóng khỏi các kỳ vọng này, và nhiều bà mẹ cũng đã giảm bớt những kỳ vọng truyền thống để con mình được tự do hơn.

Con thử nhìn sang các nước khác như các xứ Hồi giáo vùng Trung đông, cả Ấn độ, Trung quốc và nhiều nước khác. Thậm chí Nam hàn là một quốc gia dân chủ hiện đại, nhưng trong sự lượng định của chúng tôi, vẫn có những kỳ vọng mạnh mẽ từ phía cha mẹ, đặc biệt là người mẹ, đối với con mình và đặc biệt là con gái. Ở những nước này, con cái phải sống theo sự trông chờ đó mà phụ nữ rất khó lòng thoát ra khỏi. Một lần nữa, đây là một vấn đề mà con có thể đọc bài thỉnh để giải hóa.    

Về điểm này, phụ nữ tại các nước Tây phương có thể kết nối với phụ nữ tại các nước khác hầu giúp họ vượt qua vấn đề này. Hãy giúp họ tăng trưởng tới mức họ nhận ra tính nhân bản cốt yếu của mình và nói: “Tôi có quyền đi xa hơn sự chờ đợi của mẹ tôi, của cha tôi, của gia đình và xã hội của tôi, và sống cuộc đời của mình. Tôi có quyền đưa đời mình tới một nơi mà cha mẹ tôi và thế hệ của cha mẹ không thể tưởng tượng hay hình dung được. Tôi có quyền đưa xã hội của tôi vượt ngoài những gì xã hội có thể tưởng tượng hay hình dung. Đây là tính nhân bản cao hơn, tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cao hơn của tôi.”

Con thấy có quá nhiều điều mà con có thể làm được chứ? Con có thể viết sách. Rất, rất nhiều phụ nữ khắp thế giới có thể viết sách về tình trạng của mình, về tiến trình tăng triển, về kinh nghiệm bản thân, về các thử thách mình phải vượt qua. Người vợ của vị sứ giả này vừa đọc được một quyển sách do một phụ nữ tại Ả-rập Xê-út viết về câu chuyện cô ấy đã làm vỡ tung một số điều cấm kỵ. Cô ấy lái xe rồi bị bắt bỏ tù, cuối cùng cô phải rời xứ ra đi nhưng cô vẫn ghi lại những bước mình đã trải qua hầu nhiều phụ nữ khác có thể học hỏi. Nhưng tại các nước giàu có, phụ nữ cũng có thể viết lại câu chuyện từng trải của mình, và làm cách nào họ đã khắc phục giới hạn để mà vượt qua. Mà cũng không cứ là phải viết sách. Họ có thể viết blog hay đăng bài trên internet. Họ có thể làm phim điện ảnh, thực hiện chương trình truyền hình. Rất nhiều điều có thể khởi lên từ đó vì con có thấy chăng là trong mấy thập niên qua, ngày càng có nhiều phụ nữ lên tiếng, không cứ là về những đề tài chính trị hay triết lý to lớn – cho dù là họ cũng có thể làm vậy – mà về hoàn cảnh riêng của họ và những phương thức để vượt qua đủ mọi loại hạn chế? Con có thấy chăng đây sẽ là nguồn cảm hứng lớn lao cho giới phụ nữ? Đây là một việc vô cùng cần thiết!    

Cũng cần có những loại báo chí khác hơn là loại tạp chí phụ nữ truyền thống không hơn gì những công cụ quảng cáo cho cái nhìn truyền thống về phụ nữ, về vai trò của phụ nữ, về cách trang phục bề ngoài, cách trang điểm sắc đẹp để quyến rũ tình dục phái nam và những thứ như thế. Cần có những phương tiện phát biểu cho người phụ nữ đích thực để họ kể những câu chuyện thật về sự phấn đấu cũng như sự khắc phục các hạn chế mà họ phải chịu đựng. Đây sẽ là nguồn cảm hứng to lớn cho mọi phụ nữ khác, không những tại các vùng giàu có trên thế giới mà ở cả những vùng khác nơi phụ nữ có thể tìm đọc. Ngày nay, truyền hình đã đến với hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở nên rất sáng giá ngay cả tại các nước nghèo hơn nơi phụ nữ có khả năng xem truyền hình. Và nếu con xem các bộ phim truyền hình về phụ nữ do các hãng lớn tại Hollywood sản xuất, con sẽ phải nói rằng những bộ phim này hoàn toàn xa rời đời sống thực sự của phụ nữ cũng như hoàn cảnh của họ nơi các xứ nghèo. Và tất nhiên con nói rất đúng.          

Tuy nhiên đối với phụ nữ tại xứ nghèo, việc theo dõi các bộ phim truyền hình như thế cũng không hoàn toàn vô ích bởi vì họ có thể thấy được cuộc sống của phụ nữ ở các nước kia khác xa đời sống của họ như thế nào. Phụ nữ trong phim sao mà quá đầy đủ sung túc đến độ họ không cần bỏ thì giờ ra để lo lắng tới đời sộng vật chất. Hình như họ chỉ lo lắng về bạn trai của họ và liệu họ sẽ có đủ quan hệ với phái nam mà thôi. Và phụ nữ ở xứ nghèo xem thấy vậy thì hiểu ra là người ta có thể có cuộc sống vật chất đầy đủ mặc dù nhân vật trong phim thật sự chẳng có gì là thông minh hay tinh tế, mà ngược lại còn vô cùng ích kỷ. Và họ nghĩ, tại sao chúng tôi không thể có được cuộc sống như vậy ở xứ chúng tôi?

Và đây là ích lợi của truyền thông, vì mặc dù chương trình chì là văn hóa đại chúng không có chất lượng cao gì đặc biệt, nhưng nó vẫn đưa ra một góc nhìn khác biệt. Cho nên phụ nữ cần phải chia sẻ những câu chuyện thật của mình, không phải là loại chuyện đã được Hollywood đánh bóng, mà những chuyện thật của con, những phấn đấu thật của con. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã lớn lên trong một xã hội với nhiều thuận lợi và chắc chắn tôi chưa phải nếm mùi nghèo khổ thiếu thốn. So với các điều kiện mà phụ nữ phải sống tại Ả-rập Xê-út hay Ấn độ và Bangladesh, câu chuyện của tôi có giá trị gì cho họ?” Nhưng họ vẫn có thể rút tỉa cảm hứng từ sự kiện con đã phải đối đầu với một số giới hạn của riêng con mà con đã khắc phục được, và điều này sẽ thúc đẩy họ suy nghĩ: “Ừ nhỉ, tôi cũng có khả năng khắc phục các giới hạn của tôi cho dù không giống hẳn.”

Bởi vì con đã khắc phục giới hạn của con như thế nào? Bằng cách con tự cải sửa, con cải sửa tâm lý của con, và con yêu dấu, con có thể hỏi làm thế nào một phụ nữ sống trong cảnh nghèo khó có thể cải sửa tâm lý? Nhưng thực tế là nếu con hiểu chút đỉnh về tâm lý, liệu việc tự cải sửa có tốn một đồng xu nào hay không? Con chỉ cần dành ra một chút thời gian đây đó trong ngày và con sẽ tinh tấn. Cho nên con không nên có quan điểm tiêu cực rất phổ biến là cho rằng con không thể làm gì được, hay dù con có làm gì thì cũng không có tác dụng nào cả. Con cần ghi nhớ lời của đức Phật khi thày ra khỏi niết bàn và bị bọn quỷ Mara thử thách. Chúng bảo rằng không ai sẽ hiểu được giáo lý của Phật, nhưng thày trả lời như con cũng biết: “Vẫn có một số người sẽ hiểu được, vẫn có một số người sẽ được lợi.” Cho nên có một số phụ nữ sẽ nhận được cảm hứng từ con, vậy liệu có đáng để con lên tiếng và góp mặt với đời?     

Hơn nữa, con sẽ học hỏi khi con góp mặt, khi con đóng góp những câu chuyện của con và con quan sát cách con phản ứng trước sự phản hồi của người khác. Đây là một cơ hội để con tăng triển. Khi con nhìn lại lịch sử thời phong trào phụ nữ đòi quyền đi bầu, hay thời phong trào giải phóng phụ nữ, con sẽ thấy phụ nữ đã không thể đạt được những thành quả đó nếu họ đứng riêng từng cá nhân. Họ chỉ đạt được khi họ hội tụ lại, hỗ trợ lẫn nhau, cộng tác với nhau, không phải như phái nam khi phái nam cộng tác, mà như phái nữ trong cách cộng tác đặc biệt của phái nữ. Sự tác động trên thế giới đã vô cùng to lớn nhưng tiềm năng tác động thì lại to lớn hơn, là tiềm năng gần như vô hạn khi phụ nữ hội tụ lại và làm việc chung với nhau.  

Phái nam thường tập trung nhiều hơn vào vẻ ngoài, vào các điều kiện vỏ ngoài như tôn giáo, đảng phái chính trị, xuất xứ chủng tộc, màu da, những thứ như vậy. Còn phái nữ có tiềm năng nhìn xa hơn tất cả những thứ vỏ ngoài đó để nối kết ở mức con tim, ở mức trực giác, và như vậy họ có thể hình thành một tình chị em vượt khỏi mọi lằn ranh vỏ ngoài. Phái nam không thể làm được điều đó, ít nhất là không trong một tương lai gần kề. Nhưng phải nữ thì có thể làm được. Một số các con đã làm được rồi, nhiều phụ nữ cũng làm được rồi, nhưng trong 10 năm tới đây, điều này sẽ có tiềm năng đột phá rộng lớn, vượt qua rất nhiều lằn ranh khác chưa từng được vượt qua. Đây là một trong những tiềm năng lớn nhất để thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Chắc chắn nam giới cũng sẽ có vai trò trong việc thị hiện Thời Hoàng kim nhưng trong thực tế của những vấn đề thực tiễn hàng ngày, phụ nữ mới là lực chuyển đổi, vì nếu không thì sẽ không có sự chuyển đổi. Vậy thì liệu các con sẽ chỉ lái xe tại xứ Ả-rập Xê-út, hay các con sẽ lái sự chuyển đổi tại Ả-Rập Xê-út? Và tại Iran, tại Ấn độ, Bangladesh, Trung quốc, Đan mạch, Hoa kỳ, Nam Mỹ, châu Phi và tại bất cứ đâu nữa? Các con là phụ nữ sẽ lái chiếc xe chuyển đổi hay không? Đó là câu hỏi, thậm chí là thách thức mà ta đưa ra cho các con. Ta không muốn các con cảm thấy tiêu cực về vấn đề này, mà ta muốn các con nhìn vào cơ hội rồi nói: “Tôi có thể làm được gì? Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của con tôi?” Nếu con không có con cái hay nếu con cái đã lớn khôn, con có thể tự hỏi: “Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của những đứa trẻ khác cũng như mẹ của chúng? Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của phụ nữ khắp thế giới?”

Con có thể làm được một cái gì. Có một lời gian dối nữa mà sa nhân luôn luôn phóng chiếu vào con và con sẽ nhận thấy nếu con nhìn vào chính mình một cách trung thực. Khi con nghe hay đọc những bài truyền đọc này, con có thể cảm thấy vô cùng hứng khởi, phấn chấn, nhưng chỉ một thời gian sau có một phản ứng sẽ đến với con: “Ồ, tôi chẳng làm gì được đâu. Tôi là cái gì? Tôi nghĩ tôi là cái gì? Tôi làm được gì đây?” Nhưng con có thể nói lên cùng với Phật Gautama: “Có những việc mà tôi làm được.” Và dù con có làm gì thì vẫn tốt hơn là không có gì, bởi vì thế giới có thay đổi là do có người làm gì, và nhiều cái làm nhỏ quả thật đã và sẽ thay đổi thế giới. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên vốn tìm kiếm một sự thay đổi nhảy vọt lớn lao và bây giờ thì chúng ta đang nói tới Thời Hoàng kim. Nhưng Thời Hoàng kim sẽ đến được nhờ rất nhiều những bước nhỏ, rất nhiều thay đổi nhỏ ở đây và ở đó. Và 500 năm nữa sẽ vẫn còn có người ngồi chờ Thời Hoàng kim bởi vì họ chưa nhận ra là thời đó đã đến và có mặt. Ngày hôm nay cũng có những người không công nhận những tiến bộ to lớn đã được hoàn thành trong 500 năm qua, ít ra là tại một số nước, vì họ không nhìn ra. Họ đã không thay đổi trong tâm họ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là 500 năm nữa đây, con sẽ khó lòng nhận ra hành tinh này của chúng ta, bởi vì khi đó, Thời Hoàng kim sẽ thực sự trên đà thị hiện tiềm năng cao nhất của nó.    

Và với lời này, ta cảm ơn sự chú ý của các con, sự cởi mở để làm đài phát thanh cho ta, và ta niêm ấn con trong tình thương của trái tim mẹ ta. Trong ý nghĩa tâm linh, con là con của ta và ta muốn làm điều tốt nhất cho con. Ta đã tự hỏi ta có thể làm gì được thì bài truyền đọc này cùng nhiều bài truyền đọc khác là cách biểu hiện của ta. Ta mong muốn giúp con tự giải thoát và sống một cuộc đời thoả nguyện khi con biết con đang hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình cũng như tiềm năng cao nhất của mình, bằng cách chữa lành mọi chấn thương tâm linh và làm hoà với việc hiện diện trên trái đất.

37 | Hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2019 tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thày sẽ trở ngược về một câu thày đã nói cách đây 2500 năm vào thời thày còn hiện thân trong một cơ thể vật lý trên địa cầu. Một trong những lời dạy cốt yếu của Phật giáo là mọi thứ đều là Phật tánh. Câu này thật sự nghĩa là gì? Nhiều người đã bị bối rối vì câu này. Nhiều Phật tử chân thành và thiện tâm đã suy đoán về câu này, đưa ra những thuyết cùng những cách diễn giải khác nhau, trong số đó có nhiều thuyết phần nào cũng có căn cứ. Thày hoàn toàn không muốn chỉ trích hay thay thế những thuyết này, nhưng thày muốn cho con một cái nhìn dựa trên tâm thức tập thể ngày hôm nay cũng như những giáo lý mà các chân sư thăng thiên đã trao truyền cho tới giờ.

Nếu con hiểu mọi thứ đều là Phật tánh, điều này có nghĩa là Phật tánh phải vượt khỏi hình tướng. Con thử nhìn hình tướng trong vũ trụ, nhìn cái ghế này, nhìn tấm thảm kia, nhìn cửa sổ, nhìn cái bàn; liệu con có thể nói cái bàn đó là Phật tánh hay không? Con sẽ không nói như vậy, nhưng con sẽ nói là cái bàn được tạo ra từ Phật tánh. Nói cách khác, nếu con có thể nhìn đằng sau hình tướng, nhìn vượt khỏi hình tướng, thì Phật tánh sẽ ở đó. Điều này khó hiểu cho con người cách đây 2500 năm.

37.1. Phật tánh và hạt nguyên tử

Với trí năng thời nay, việc nắm bắt điều này dễ hơn một chút vì con đã lớn lên và được dạy khái niệm rằng cái ghế này, cái bàn này được cấu tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là phân tử, nguyên tử, ngay cả hạt hạ nguyên tử. Cho nên con có thể nói mọi thứ đều là nguyên tử, và do đó cái ghế này cũng là nguyên tử. Tất nhiên, không có nghĩa là các hạt nguyên tử trông giống như cái ghế. Con cũng biết nguyên tử không thể nhìn thấy bằng mắt trần trụi và do đó nguyên tử không có cái mà bình thường con gọi là hình dạng. Chúng không có hình dạng của bàn ghế. Chúng có thể có một hình dạng nào đó như con đã được dạy suy nghĩ, nhưng đó không phải là cái gì con nhìn thấy bằng giác quan. Cho nên con có thể nhảy vọt một bước và bảo rằng y như cái ghế được tạo bằng nguyên tử thì nguyên tử được tạo bằng Phật tánh. Nhưng sự khác biệt ở chỗ là Phật tánh không có hình tướng. Nó không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức, mà con có thể nhận thức bằng tâm vẫn tập trung vào vũ trụ vật chất này.

Điều con có thể nói là Phật tánh có tiềm năng khoác lấy hình tướng. Nhưng nếu Phật tánh không có hình tướng, tại sao con lại cần đến Phật tánh? Con cần đến nó bởi vì nếu không có một bản tánh vô hình tướng có khả năng khoác lấy hình tướng, thì hình tướng được tạo ra như thế nào?

Con có thể suy ra điều gì từ những khám phá của khoa học? Con lấy một vật mà mắt có thể nhìn thấy, một hình dạng hữu hình như một cái ghế và con nhận ra là cái ghế đó không bỗng xuất hiện một cách hoàn toàn bất ngờ trong hình tướng hiện thời của nó, nó không xuất hiện từ tự nhiên, hay từ hư vô. Không lúc nào con có thể nói: “À bây giờ không có ghế, à bây giờ có ghế. Đùng một cái, thế là ghế hiện ra.” Đó không phải là cách thức vật được tạo ra. Con biết chuyện này, con biết cái ghế làm bằng kim loại. Kim loại đó khởi đầu là các loại quặng dưới đất, nó phải được đào lên, phải được nấu chảy, phải được biến thành sắt, và chất sắt này phải được chế tạo thêm nữa để có hình dạng nhất định và trở thành chân ghế. Xong lại cần thêm gỗ cũng được chế tạo và ghép vào. Rồi thêm lớp đệm, thêm lớp vải, tất cả những thứ đó phải được chế tạo để làm cái ghế.

Nhưng tất cả những thứ đó mà con gọi là nguyên liệu cũng không xuất hiện hoàn toàn bất ngờ. Quặng sắt nằm dưới đất được tạo bằng phân tử sắt, nhưng phân tử được tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và thậm chí hạt hạ nguyên tử được tạo bằng sóng năng lượng. Cho nên khi con đi vào từng giai đoạn cần thiết để tạo ra một hình tướng, một hình tướng mà mắt thấy được, con bước xuống những tầng cấp ngày càng vi tế hơn. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con lần hồi tiến tới những hình tướng đơn giản hơn. Một cái ghế, hay ngay cả một công trình công phu hơn như toàn bộ tòa nhà này, là một cái gì vô cùng phức tạp. Nhưng phân tử thì ít phức tạp hơn, nguyên tử ít phức tạp hơn nữa, và hạt hạ nguyên tử còn ít hơn nữa. Cho nên con hướng về một trạng thái càng ngày càng ít phức tạp, một hình tướng càng ngày càng ít rõ rệt.

Vì thế, thật khó mà nhảy được bước nhảy vọt kia và nói: Phải tới một điểm chúng ta có một chất cơ bản, ít ra là chất cơ bản mà chúng ta có thể nhận thức từ vũ trụ này, và chất cơ bản này không có hình tướng nhưng lại có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào. Chất này, chúng ta có thể gọi là Phật tánh. Phật tánh, một cách nào đó, là nhiều hơn thế, nhưng ít ra – để giúp con hình dung hay nhận thức được – chúng ta có thể nói Phật tánh là chất cơ bản mà từ đó mọi hình tướng được nặn ra.

37.2. Nhận thức bất nhất của chủ nghĩa duy vật

Bây giờ sẽ có người bảo là điều trên không phù hợp với cái nhìn tổng quan của khoa học hiện thời, nhưng đó là vì cái nhìn của khoa học hiện thời dựa trên một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance). Khoa học đã chứng minh là con có thể bước xuống những tầng ngày càng sâu hơn, vượt khỏi những hình thể mà mắt người có thể thấy. Kết luận hợp lý là phải có một chất cơ bản nào đó mà từ đó tất cả mọi thứ được tạo ra.

Vấn đề với khoa học là khoa học bị hệ tư tưởng duy vật chi phối đến độ cho rằng không thể có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất. Và theo cách nhận thức của các nhà chủ nghĩa duy vật, điều này có nghĩa là không thể có một chất nào mà không có hình tướng, bởi vì cái đó sẽ là hư vô, và như người ta hay nói, không gì có thể hiện ra từ hư vô. Điều này hoàn toàn đúng: không gì có thể hiện ra từ hư vô, hay chính xác hơn, không vật gì có thể hiện ra từ hư vô, mà mọi vật hiện ra từ Phật tánh, tức là chất cơ bản. Ý tưởng một chất cơ bản vô hình tướng nhưng lại là nguồn gốc của mọi hình tướng, hoàn toàn phù hợp với các khám phá của khoa học. Có lẽ nó không phù hợp với hệ tư tưởng duy vật, nhưng chẳng qua hệ tư tưởng duy vật chỉ là một trong nhiều cách diễn giải các khám phá của khoa học. Thậm chí hệ tư tưởng duy vật còn không giải thích được tất cả mọi khám phá của khoa học hiện thời, và qua đó con có thể thấy được sự thiếu sót của nó.

Cho nên có một chất cơ bản gọi là Phật tánh mà từ đó mọi hình tướng được tạo thành. Điều này thật sự nghĩa gì? À, có một khái niệm mà nhiều người rất gắn bó và xem là vô cùng quan trọng. Đó là khái niệm “thực tại.” Một vật hoặc có thật, hoặc không có thật. Nhưng nếu tất cả mọi thứ mà con nhìn thấy trong vũ trụ vật chất được hình thành từ một chất cơ bản vô hình tướng, thì liệu con có thể nói rằng mọi hình tướng mà con thấy là thực hay không? Chúng không có hiện hữu riêng biệt, chúng không có hiện hữu độc lập.

Nếu không có Phật tánh, nếu không có chất cơ bản, thì sẽ không thể có hình tướng. Mỗi hình tướng mà con thấy, cái bàn, cái ghế, mặt trời, các vì sao, tất cả đều được tạo ra từ cùng một chất cơ bản. Chất cơ bản cấu tạo cái ghế này có thể được biến hóa, hay đúng hơn, nó có thể được đem trở lại trạng thái vô hình tướng của nó, rồi được dùng để nặn ra một hình tướng hoàn toàn khác như một đóa hoa hay một ngôi sao ở xa tít, đó là vì trong Phật tánh đó, trong sự vô hình tướng cơ bản đó, không có thời gian, không có không gian, không có tính địa phương (locality) nào cả. Một khi hình tướng, một khi chất cấu tạo cái ghế này, được đem trở lại trạng thái vô hình tướng, nó có thể tức khắc (tức là vượt thời gian) được sử dụng để hình thành một ngôi sao ở xa hàng triệu năm ánh sáng.

Vậy liệu con có thể bảo cái ghế này là thực khi nó không có sự hiện hữu độc lập, tự đủ nào hay không? Nó có một sự hiện hữu lệ thuộc, vì rốt cuộc nó phụ thuộc vào Phật tánh, nhưng tự thân nó không thể hiện hữu. Cái ghế này sẽ có nghĩa là gì nếu không có sàn nhà để đặt ghế trên sàn, hay không có một người để ngồi vào ghế? Liệu ghế có đi vào được hiện thực nếu không có những người nghĩ ra nhu cầu ngồi cao hơn sàn nhà? Cho nên, đúng vậy, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, nhưng Phật tánh không phải là hư vô.

37.3. Lý duyên khởi

Cho nên con thấy là mọi vật, mọi hình tướng, đều có một nguồn gốc lệ thuộc, một nguồn gốc phụ thuộc lẫn nhau – một nguyên nhân liên khởi, một lý duyên khởi. Vật không hiện ra trong hư không, nó không hiện ra từ hư không. Nó được tạo bằng một chất cơ bản, nhưng nó được tạo ra vì một lý do, một mục đích. Ghế đã không thể hiện hữu nếu không có sàn, nếu không có tường, nếu không có mái, nếu không có người, nếu không có tất cả những thứ đó. Nó đã không thể được tạo ra nếu không có một địa cầu với quặng sắt, nếu không có cây cối mọc lên thành gỗ, vân vân…

Cho nên con thấy là không có gì, không có hình tướng nào, có thể được xem là thực trong ý nghĩa tối hậu. Không một vật nào hiện hữu tự thân nó, hiện hữu một cách độc lập. Mọi thứ đều nối kết. Mọi thứ đều nối kết lẫn nhau. Toàn bộ vũ trụ là một tổng thể nối kết duy nhất, một tổng thể tương kết duy nhất. Thật ra điều này phù hợp với các khám phá của khoa học. Các nhà khoa học đã phát hiện là ý niệm địa phương và tách biệt không hiện hữu. Thực tại sâu xa hơn là tính phi địa phương (non-locality), tính tương kết (interconnectedness). Thực tại mà con nhìn thấy khi con đạt được cái mà thày gọi là “giác ngộ” là một thực tại nơi không có vật gì tách biệt ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Mọi thứ đều tương kết. Không chỉ có vậy, mà con còn thấy không có vật nào là thường hằng.

Khoa học đã cho thấy điều gì mà nhiều tôn giáo đã không chỉ ra? Khoa học cho thấy là có một tiến trình rất dài đã lần hồi hình thành những hình dạng khác nhau. Không có sự sáng tạo tức khắc, mà sự sáng tạo xảy ra lần hồi khi những gì được tạo ra trước – hay đã đi vào hiện hữu trước – trở thành nền tảng cho những gì đi sau vào hiện hữu. Cho nên một lần nữa, nguồn gốc hình thành tương kết có thể đi trở ngược về rất, rất xa. Thày biết là tâm đường thẳng sẽ nói là phải có một điểm khởi đầu tuyệt đối, nhưng chúng ta hãy gác lại chuyện này một bên để xét thấy rằng chúng ta có thể đi trở ngược lại thời gian trong quá trình lần hồi đó, thì một lần nữa, nó chứng minh tính tương kết của tất cả.

Vậy đâu là mục đích của toàn bộ tiến trình duyên khởi đó, là nơi thực tại sâu xa của Phật tánh khoác vào tất cả những hình tướng khác biệt đó? Mục đích là gì? Các nhà duy vật quả quyết là không có mục đích gì hết; tất cả chỉ xảy ra tình cờ. Tình cờ là gì chứ? Họ có thể giải thích tình cờ là gì chăng? Thế nào là tính ngẫu nhiên (randomness)? Hãy định nghĩa đi. Không thể được. Tại sao vậy? Tại vì tính ngẫu nhiên thực sự không có hình tướng, và trong hệ tư tưởng duy vật, chỉ có những gì có hình tướng mới được xem là thực. Bất nhất nhận thức. Họ tuyên bố là họ có một thế giới quan, nhưng thế giới quan nhằm giải thích mọi vật đã có thể ra đời như thế nào thì phải dựa vào một điều gọi là sự tình cờ, sự ngẫu nhiên. Thế giới quan của họ bảo rằng chỉ vật nào có hình tướng mới thực, nhưng tình cờ và ngẫu nhiên không có hình tướng thì làm sao chúng là thực được đây? Và nếu chúng không thực, làm thế nào chúng có thể tạo ra tất cả những hình tướng mà họ bảo là có thực? Bất nhất nhận thức.

Thêm một tầng lớp bất nhất nhận thức nữa: Con là ai mà tuyên bố chỉ có thế giới vật chất là hiện hữu? Con là ai? Con là sinh thể có khả năng tự nhận biết (self-awareness). Lý do duy nhất con có thể bảo một cái gì đó có thực hay không thực là vì con tự nhận biết. Tự nhận biết đến từ đâu? Liệu con có thể giải thích làm thế nào sự tình cờ và ngẫu nhiên sản xuất được khả năng tự nhận biết, là khả năng tìm kiếm trật tự ở mọi nơi? Làm thế nào chuyện này có thể xảy ra? Con có giải thích được không? Nếu con không giải thích được thì có lẽ cách giải thích của con không trọn vẹn, thậm chí có thể là không thực nữa. Vì vậy, nếu con cởi mở đi tìm một cách giải thích nào khác, thì đó là như sau.

37.4. Mục đích có vũ trụ là để có trải nghiệm

Tất cả những hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất, vật lý, hữu hình, đã được tạo ra vì một mục đích duy nhất: để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm nào đó. Các con là con người, các con tự xem mình là dạng sống tiến bộ nhất trên địa cầu. Một lần nữa, bất nhất nhận thức. Con tuyên bố, con nghĩ con là một trong những dạng sống chót hết nếu không là dạng sống xuất hiện chót hết trên trái đất. Có nghĩa lý gì mà bảo rằng dạng sống tiến bộ nhất đã được tạo ra chót hết?

Sẽ chẳng hữu lý hơn mà nói rằng tất cả những gì đã được tạo ra, tất cả các hình tướng đã xuất hiện, đều xoay quanh dạng sống tiến bộ nhất hầu mang lại cho các sinh thể tự nhận biết này một trải nghiệm nhất định nào đó? Con thử nhìn một nhà hát, mục đích của nhà hát là gì? Để mang lại cho khán giả một trải nghiệm. Liệu nhà hát có xuất hiện từ một tiến trình ngẫu nhiên? Liệu nhà hát có tự nó xây dựng lên, rồi sau khi xây dựng, tự dưng có khán giả ngẫu nhiên hiện ra? Sẽ chẳng hữu lý hơn mà nói rằng ngay từ đầu, nhà hát đã được xây dựng với một trọng tâm là khán giả?

Thế giới là gì? Trong thế giới ngày nay, người ta có một khái niệm dựa trên công nghệ và do khoa học đề xướng, gọi là máy giả thực tại (reality simulator). Con có thể đeo vào một cặp kính, đi vào một căn phòng được xây đặc biệt, và bỗng nhiên con nhìn thấy trước mắt một môi trường nhân tạo. Mục đích sáng chế máy giả thực tại là gì? Là đem lại cho người dùng máy một trải nghiệm cụ thể.

Có thể con sẽ nói trải nghiệm này không dựa trên thực tại, và người đó không đang trải nghiệm một thế giới có thực. Nhưng y cho đó là thế giới thực, y trải nghiệm như thể đó là thế giới thực, và do đó dưới nhãn quan của y, y đang có một trải nghiệm thực. Và bởi vì y có trải nghiệm đó cho nên y có thể thay đổi tâm thức, xoay chuyển tâm thức của mình – tức là y có một thế giới quan đổi khác. Y có thể cảm thấy mình đã chán ứ một loại trải nghiệm nào đó và rốt cuộc y quyết định mình đã chán chê rồi, bây giờ mình muốn một trải nghiệm khác hơn.

Một số người có thể sẽ hoài nghi và bảo: “Ồ chuyện này hoàn toàn vô lý, không có gì người đó trải nghiệm là thực cả, vậy điều gì khiến bạn chắc chắn là những gì bạn trải nghiệm trong thế gian là thực?” Liệu có khó lắm không để làm bước nhảy và nói: “Những gì tôi trải nghiệm trong máy giả thực tại có vẻ thực khi tôi ngồi trong máy.” Vậy chẳng phải là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại tinh xảo hơn bất cứ gì loài người từng chế ra?

Chắc chắn con có thể nói là khi con ở trong địa cầu, ở trong một cơ thể vật lý trên địa cầu, những gì con trải nghiệm qua cơ thể đó và giác quan đó dường như vô cùng hiện thực, phải không con? Và nếu con là một nhà duy vật, con có thể nói: “Nhưng đâu là ích lợi của một trải nghiệm không thực?” Thật chẳng quan trọng gì hết nếu thế giới mà con trải nghiệm trong máy giả thực tại có thực hay không. Điều quan trọng là: trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm nhất thời mà con đang có, ảnh hưởng thế nào đến tâm thức của con? Trải nghiệm thì nhất thời nhưng tâm thức con thì cứ tiếp nối, và một trải nghiệm nhất thời có thể tác động tâm thức con, đặt nó vào một con đường mới, tạo cho nó một hướng đi mới, mang lại cho nó một ý niệm mới về cái ta. Đây chính là công dụng của máy giả thực tại.

37.5. Giai đoạn trầm mình của máy giả thực tại

Điều duy nhất con cần làm là nhảy được bước đó và nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Con có thể nói, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh cho nên mọi thứ cũng có thể được đem về trạng thái thuần khiết vô hình tướng của nó rồi chuyển thành một hình tướng khác. Không một hình tướng nào trên trái đất là thực ở mức tối hậu. Các nhà khoa học cũng biết ngay cả trái đất cũng đã không luôn luôn hiện hữu và sẽ không tồn tại mãi mãi. Cho nên theo một định nghĩa khoa học, chúng ta phải nói là không có gì trên địa cầu là thực. Nhưng điều này có quan trọng lắm không? Điều quan trọng là đối với mấy tỷ sinh thể tự nhận biết đã bước vào máy giả thực tại có tên là trái đất, thế gian có vẻ thực, và vì nó có vẻ thực cho nên nó đem lại cho họ một trải nghiệm khiến tâm thức của họ, ý niệm cái ta liên tục của họ xoay chuyển. Đó là toàn bộ mục đích.

Cho nên chúng ta có thể nói, hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại được thíết kế để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một loại trải nghiệm đặc thù. Vậy đâu là trải nghiệm mà địa cầu đã được thiết kế để cho con? Có hai loại trải nghiệm, hai loại rất khác nhau mà địa cầu được thiết kế để cho con. Một loại là những trải nghiệm “trầm mình”, là khi con có cảm giác mình đang sống trong một thế giới có thực. Trong tâm, con hoàn toàn đồng hóa với cơ thể vật lý và con tự xem mình là một sinh thể có thực, sinh sống trong một thế giới có thực, và thế giới này tác động đến cách nhìn của con về chính con. Nói cách khác, con bị thế gian quy định. Đây là trải nghiệm trầm mình – tuyệt đại số loài người trên hành tinh vẫn ở trong loại trải nghiệm này, vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Họ nghĩ thế giới là thực, họ nghĩ trải nghiệm của họ là thực, và không những họ tin chắc mình ở trong một thế giới thực, mà ngay cả nhận thức của họ về thế giới, ý tưởng của họ về loại thế giới mà họ đang sống, cũng là thực.

Đây là điểm độc đáo của chiếc máy giả thực tại của địa cầu: nó có thể chứa bảy tỷ sinh thể tự nhận biết, họ đều sống trong cùng một môi trường – mặc dù môi trường vỏ ngoài khắp hành tinh có thể khác, nhưng họ sống trên cùng một hành tinh – vậy mà mỗi người lại có một trải nghiệm chủ quan cá nhân về hành tinh này. Nói cách khác, đối với số đông thì môi trường vỏ ngoài giống nhau, nhưng đối với mỗi cá nhân thì trải nghiệm bên trong lại khác nhau.

Tại sao như vậy? Bởi vì như thày đã trình bày, toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm đặc thù. Làm thế nào họ có được trải nghiệm này? À, họ không có trải nghiệm này bên ngoài tâm họ đâu. Cho dù các triết gia có nói gì, con không thể trải nghiệm thế giới như nó là, vì con trải nghiệm thế giới qua tâm con, và điều này có nghĩa là các đặc tính của tâm con sẽ ảnh hưởng cách con nhìn thế giới. Ngay cả khoa vật lý lượng tử cũng đã chứng minh là tâm của nhà khoa học ảnh hưởng những đo đạc mà họ quan sát trong thử nghiệm. Cho nên mỗi con người đều có một trải nghiệm đặc trưng của mình. Mỗi con người đều tin chắc trải nghiệm của mình là thực.

Nhưng cảm nhận thực tại đó đến từ đâu? Nếu thật là mọi thứ được tạo ra từ một chất cơ bản và không có hình tướng nào là thường hằng hay độc lập, thì không hề có thực tại nào bên ngoài tâm con người. Cho nên cảm nhận thực tại phải đến từ bên trong tâm con người – chứ nó đến từ đâu nữa? Vậy làm thế nào hai người có thể sống trong cùng một môi trường mà lại có trải nghiệm rất khác nhau về môi trường này, chẳng hạn như một tín đồ sùng đạo Cơ đốc tin chắc thế giới vận hành y như Kinh thánh mô tả, trong khi người thứ hai có thể là một người cũng không kém sùng bái nhưng lại sùng bái chủ nghĩa duy vật, sẽ tin chắc thế giới vận hành y như được mô tả trong thánh kinh duy vật?

Đó là vì mỗi người mang trong tâm mình cái mà chúng ta có thể gọi là một bộ phin, nó lọc lựa ra một số tín hiệu đến với mình qua giác quan. Tâm loại bỏ đi một số tín hiệu, và đối với những tín hiệu được phép đi qua, tâm áp chồng lên đó một hình ảnh. Cho nên đối với tín đồ Cơ đốc, thế giới quan Cơ đốc sẽ có vẻ thực, trong khi đối với người duy vật thì thế giới quan duy vật sẽ có vẻ thực. Theo nghĩa tối hậu thì cả hai thế giới quan đều không thực.

Thậm chí, chuyện tranh luận xem cái nào thực hơn cái nào – cái nào đúng hơn cái nào – cũng không nghĩa lý gì hết. Giản dị, chúng chỉ là những thế giới quan được tạo ra trong máy giả thực tại trên địa cầu, và máy giả thực tại là một cái máy chuyên làm đồ giả. Đó không phải là thực tại mà chỉ mô phỏng thực tại. Có nghĩa là không một thế giới quan nào có thể được chế tạo trong máy là thực. Nó chỉ có vẻ thực khi con nhìn nó từ một góc cạnh nào đó qua một phin lọc nào đó trong tâm – một bộ phin hay một trạng thái của tâm lọc lựa ra một số tín hiệu, hay áp chồng lên các tín hiệu còn lại một cách diễn giải nào đó. Khi con không chất vấn phin lọc này, khi thậm chí con không nhận ra đó là một phin lọc, thì những gì con trải nghiệm xuyên qua phin lọc sẽ có vẻ rất thực đối với con. Đây là “giai đoạn trầm mình” của máy giả thực tại có tên là địa cầu.

37.6. Giai đoạn tỉnh ngộ

Vậy giai đoạn kia là gì? Là “giai đoạn tỉnh ngộ”. Giờ đây con đang bắt đầu thức tỉnh từ cảm nhận mình sống trong một môi trường thực nơi mọi chuyện mình trải nghiệm đều thực. Nhưng làm thế nào con thức tỉnh khỏi cảm nhận này chứ? Chỉ sau khi con sẵn lòng tra vấn thế giới quan, tra vấn phin lọc của con – là phin lọc đã loại bỏ một số tín hiệu và áp đặt một cách diễn giải trên những tín hiệu mà nó để cho lọt qua.

Khi con khởi sự tra vấn thế giới quan này, đó là lúc con bắt đầu tỉnh ngộ. Con thấy gì trên địa cầu? Con thấy là mọi người đã tạo dựng nhiều thế giới quan khác nhau. Đi ngược dòng thời gian, con thấy một số nền văn minh đã tồn tại trên địa cầu nhưng bị phân rẽ bởi một khoảng cách, bởi đại dương. Đã có một nền văn minh Maya với thế giới quan khác hẳn thế giới quan của châu Âu vào cùng thời, nhưng do bị chia cách bởi Đại tây dương, cả hai thế giới quan đều không hay biết gì về nhau. Cho nên một nền văn minh có thể tồn tại nhiều thế kỷ mà thế giới quan không hề bị thách thức. Chuyện này cũng tốt thôi, vì nó hoàn toàn phù hợp với công dụng của bộ máy giả thực tại.

Đã có một thời có sự cần thiết là những nền văn minh bị chi phối bởi những thế giới quan cá biệt phải sống tách biệt và không tương tác với nhau để thế giới quan không bị thách thức. Đã có một thời con người cần sống trong bộ máy giả thực tại gọi là địa cầu và không có gì sẽ thách đố thế giới quan của họ. Suốt một thời gian rất đài, họ được phép có trải nghiệm xuyên qua thế giới quan của họ. Nhưng con thấy đó, tâm con người không bao giờ chịu ngồi yên. Con người là một sinh thể không được sinh tạo trong một trạng thái tĩnh tại, mà đã mang sẵn trong bản chất một niềm khao khát vô cùng sâu sắc muốn tăng trưởng.

Do mong muốn tăng trưởng này mà con người không thể nếm mãi cùng một trải nghiệm. Con người không thể trầm mình mãi mãi trong kinh nghiệm đó mà vẫn cứ bảo: “Ôi sao trải nghiệm này quá tuyệt vời!” Có thật không? Con không thể có trải nghiệm đó mãi mãi. Con không thể ở trong cùng trải nghiệm mãi mãi vì sẽ tới lúc con bị chán ngấy. Con muốn cái gì hơn thế.

Đến một giai đoạn con sẽ chán chê một loại trải nghiệm, và giờ đây con muốn một loại trải nghiệm khác. Con muốn một cái gì khác. Đó là tại sao con thấy có những người từng đầu thai trong một nền văn minh suốt nhiều kiếp lại muốn thay đổi, và họ đầu thai trong một nền văn minh khác để họ nếm một trải nghiệm khác mặc dù họ vẫn ở trên trái đất. Cũng sẽ tới một điểm khi giờ đây con không chỉ muốn một loại trải nghiệm khác trong khả năng cống hiến của máy giả thực tại địa cầu, mà con muốn nhiều hơn những gì con có thể có được trên địa cầu. Đây là thời điểm một dòng sống khởi sự giai đoạn tỉnh ngộ.

Yếu tố nào định đoạt loại trải nghiệm mà người ta muốn có? Bao lâu họ cần trải nghiệm như vậy? Phải, đó là quyền tự quyết. Tuy nhiên, điều gì cho con khả năng có loại trải nghiệm mà con có thể có trên địa cầu? Như thày vừa nói, cái ghế không tự dưng hiện ra từ hư vô. Một người không hiện ra từ hư vô. Để có thể chế tạo những loại trải nghiệm có mặt trong máy giả thực tại địa cầu, phải cần có nhiều người. Đó là khi con thấy một nền văn minh xuất hiện, có thể với hàng triệu người, và trải nghiệm mà họ có được sẽ tùy thuộc vào sự có mặt và tương tác của tất cả những con người đó. Điều này tạo ra một sự nối kết nào đó giữa các sinh thể này.

37.7. Các sinh thể tiến hóa như thế nào

Có thể nói mỗi sinh thể tự nhận biết đã, như các thày có giảng, khởi đầu với một ý niệm bản sắc chỉ nhỏ như cái chấm. Nếu con sống một mình trong toàn vũ trụ, con sẽ khó lòng nào mở rộng ý niệm bản sắc này – chắc chắn con sẽ cần một thời gian rất dài. Nhưng vì con không một mình, vì có những sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới của con, cho nên bằng cách tương tác với các sinh thể này, con sẽ khuếch trương ý niệm cái ta của mình nhanh chóng hơn. Do con phần nào bị thách đố, con thấy được nhiều cách khác để nhìn cuộc sống, nhiều cách khác để giải thích thế giới. Đây chính là yếu tố giúp cho máy giả thực tại thực hiện mục đích dễ dàng hơn, là khiến cho sự nhận biết của những sinh thể đang ngụ trong máy được tăng triển và ý niệm cái ta của họ được mở rộng. Cho nên có một điểm khi một nhóm người cần sống chung với nhau dưới hình thức nhóm, nhưng họ vẫn cần sống biệt lập để xây dựng ý niệm bản sắc mà họ đã tạo ra trong nhóm.

Cũng đến một thời điểm khi mong muốn trải nghiệm một cái gì hơn nữa trở thành một nét chủ yếu trong tâm của ít nhất một số người, nhưng làm thế nào chuyện này xảy ra đây? Làm thế nào con có thể trải nghiệm một điều gì khác lạ hay một điều gì hơn nữa nếu mọi người đều bị kẹt trong cùng một thế giới quan? Trong một số trường hợp, người ta có thể đặt lại vấn đề thế giới quan của mình, nhưng chuyện này chỉ xảy ra khi người ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn tỉnh ngộ – đây chính là thời điểm con bắt đầu tra vấn thế giới quan của mình một cách tự nguyện trong nội tâm.

Nhưng sự chuyển đổi trực tiếp từ giai đoạn trầm mình sang giai đoạn tỉnh ngộ không dễ thực hiện. Đại khái có một bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, đó là khi một nền văn minh không thể tiếp tục đứng cô lập mãi, và nó tiếp xúc với một nền văn minh khác đã phát triển riêng rẽ suốt một thời gian rất dài. Như con thấy ví dụ nền văn minh Maya đã trải qua hàng bao thế kỷ phát triển tới mức những năm 1500. Nền văn minh châu Âu cũng đã bỏ ra một thời gian rất dài để phát triển cho tới điểm mốc đó. Nhưng giờ đây cả hai gặp gỡ và đây là cơ hội cho cả hai thăng vượt trạng thái cũ. Thày cũng biết một số người sẽ bảo là cuộc gặp gỡ này đã đem đến hậu quả thảm khốc cho người Maya khi văn minh của họ bị người châu Âu tiêu diệt tàn bạo. Tuy vậy, đó vẫn là một cơ hội cho cả hai khám phá một cách sống khác, một cách nhìn khác về cuộc sống, và đó là một cơ hội tăng triển.

Tất nhiên, con có thể nói là khi hai nền văn minh với thế giới quan khác hẳn nhau bỗng nhiên gặp gỡ, chuyện gì sẽ bắt buộc xảy ra? Cả hai đều đang cảm nhận thế giới quan của mình không chỉ là một thế giới quan mà còn là thực tại – một thực tại dựa trên một thẩm quyền cao hơn, một chân lý tối hậu nào đó. Do đó sẽ không thể tránh được xung đột, không tránh được va chạm, và ai nấy đều cảm thấy thế giới quan của mình bị đe dọa. Mục đích là gì chứ? Mục đích là khi một nhóm dòng sống, ví dụ mấy tỷ người liên hệ với máy giả thực tại địa cầu, đã phát triển tới một mức nào đó, thì sẽ có một số dòng sống đã đến gần hơn giai đoạn tỉnh ngộ, trong khi những dòng sống còn lại vẫn bám vào thế giới quan cũ cùng cảm nhận về thực tại mà thế giới quan này cung cấp, cho nên họ từ chối đặt lại vấn đề.

Nếu những người bám víu này cứ được để yên, có thể họ sẽ ở lại trong máy một thời gian rất, rất dài. Thật sự, họ có thể bị kẹt cứng trong thế giới quan này. Chính vì mọi người sinh sống trong một bộ máy giả thực tại được nối kết với nhau cho nên mới có sự kiện một số sẽ kéo theo những người kia đi lên, và điều này phù hợp với định luật tự quyết.

Hơn thế nữa, khi con sống trong một nền văn minh biệt lập với một thế giới quan nhất định, con có thể có một trải nghiệm nào đó, nhưng chuyện gì xảy ra khi hai nền văn minh đụng độ? Phải chăng đó cũng chỉ là một trải nghiệm khác, một loại trải nghiệm khác mà con có thể có trong máy giả thực tại?

37.8. Chất vấn mọi thế giới quan

Đầu tiên, con trải nghiệm là chỉ có một thế giới quan, tức là thế giới quan của nền văn minh của con. Sau đó con trải nghiệm là có những thế giới quan khác nữa – và quả thật là có rất nhiều thế giới quan khác hẳn nhau. Tất cả đều quả quyết là mình thực, là mình dựa trên một thẩm quyền cao hơn.

Chuyện gì xảy ra khi người ta nhìn ra điều này? Đúng vậy, một số sẽ cố bám vào niềm tin rằng chỉ có thế giới quan của mình là chân chính và họ phải ép người khác tuân theo. Nhưng có những dòng sống khác sẽ bắt đầu suy nghĩ: “Nếu từng nấy thế giới quan khác nhau đều quả quyết là mình thực, thì lôgíc cho thấy tất cả đều không thể thực cùng một lúc. Tất cả đều không thể nào thực khi chúng khác nhau đến như vậy, thậm chí còn đối chọi lẫn nhau.” Đây là lúc sinh thể khởi đầu giai đoạn thức tỉnh. Y bắt đầu chất vấn một cách ý thức những thế giới quan khác nhau, rồi y đạt tới điểm bắt đầu tự vấn: “Tại sao con người lại tạo ra thế giới quan? Tại sao chúng ta cần đến thế giới quan?” Y bắt đầu đặt vấn đề: “Có phải tất cả mọi thế giới quan trên địa cầu đều hạn chế, có phải chúng không mô tả toàn bộ cách vận hành của thế giới? Có chăng một thế giới quan cao hơn chưa được thị hiện trên địa cầu?”  

Sau đó sẽ đến một giai đọan cao hơn khi con bắt đầu hỏi: “Nếu như không có thế giới quan nào là thực một cách tối hậu thì sao? Nếu như chuyện bàn cãi xem thế giới quan nào là thực, là tối hậu, cũng là vô nghĩa? Nếu như tôi chỉ ngừng cảm thấy mình bị đe dọa bởi các loại thế giới quan khác biệt? Nếu như tôi nhìn nhận và nhận ra là một thế giới quan chỉ có một công dụng mà thôi, và công dụng này không phải để quy định thực tại là gì, không phải để mô tả cách vận hành tối hậu của thế giới là gì? Mà công dụng duy nhất của một thế giới quan là để đem lại cho một nhóm người một trải nghiệm nào đó? Vậy tại sao tôi phải lo ngại người khác có thế giới quan khác với tôi? Tại sao tôi không nghĩ: Mình hãy tập trung vào thế giới quan của mình cũng như trải nghiệm mình có qua thế giới quan này? Mình hãy vui hưởng trải nghiệm này, trầm mình vào trải nghiệm này, nếm mùi trài nghiệm này cho tới khi mình chán chê, và khi mình chán chê, đâu là những chọn lựa mở ra cho mình? Phải, khi đó mình sẽ đi tìm một thế giới quan khác sẽ cho mình một trải nghiệm khác.” Chuyện này không có gì sai trái.

Con có thể xoay chuyển như vậy chỉ trong một kiếp đầu thai, nhưng nếu không, chắc chắn con có thể xoay chuyển thế giới quan từ kiếp này sang kiếp khác. Cuối cùng có thể con sẽ tới điểm nhận ra nếu địa cầu thật sự là một bộ máy giả thực tại, thì nếu như có gì ở ngoài bộ máy đó thì sao? Nếu như có một thế giới khác ở ngoài máy thì sao? Khi con bước vào căn phòng được xây đặc biệt trên trái đất để chiếu lên môi trường giả tưởng, con biết là bên ngoài vẫn có một thế giới mà con gọi là thế giới thực. Nếu như tất cả những gì con đã coi là thực chỉ là một cái máy giả thực tại lớn hơn? Nếu như có gì đó bên ngoài bộ máy đó? Và nếu cái đó là thực hơn, có thể đó chính là thực tại bên ngoài bộ máy?

Nói cách khác, những gì các thày gọi là hành tinh tự nhiên – là những hành tinh đã bước vào vòng xoáy hướng thượng luôn luôn tự thăng vượt – có thể được xem là thế giới thực, trong khi các hành tinh phi tự nhiên là máy giả thực tại. Con cũng có thể nói, toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là một loại máy giả thực tại, và chỉ cõi thăng thiên mới là thế giới thực, cho dù con muốn nhìn thế nào.

37.9. Đặc điểm của máy giả thực tại địa cầu

Dẫu vậy, con cũng có một chọn lựa là đạt tới điểm nhận ra: “Tôi đã chán chê máy giả thực tại trên địa cầu, tôi đã chán chê những loại trải nghiệm mà tôi có thể có trong máy này rồi. Nếu như tôi ‘tốt nghiệp’ thì sao? Nếu như tôi có thể vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy này thay vì cứ đầu thai lại hoài hoài?” À, làm thế nào con thực hiện chuyện này? Con yêu dấu, con phải nhận ra là mỗi thế giới quan – bất kỳ thế giới quan nào mà con có thể có bên trong máy giả thực tại tên là địa cầu – cuối cùng cũng không thực. Mỗi thế giới quan như vậy được cung cấp, hay được tạo ra, được sản sinh ra, để tạo điều kiện cho một loại trải nghiệm nhất định nào đó.

Giờ đây con có thể nhìn địa cầu và nói: “Thế còn tất cả những xung đột và cuộc chiến thì sao? Mục đích để làm gì?” Địa cầu là một loại máy giả thực tại đặc biệt. Con thử nghĩ xem, các sinh thể tự nhận biết được sinh tạo với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi được ban cho quyền tự quyết để khuếch trương ý niệm bản sắc này. Khi con mang một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, làm thế nào con có thể nhận ra là mọi thứ đều liên kết với nhau? Làm thế nào con có thể nhận ra lý duyên khởi mà thày vừa nói đến?

Đó, con hiện ra như một sinh thể tự nhận biết, con tự trải nghiệm như một sinh thể riêng biệt, khác với mọi sinh thể khác. Con sống trong một môi trường và con cũng khác với môi trường đó. Vậy làm thế nào con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc? Con phải khởi sự bằng cách xem mình là một sinh thể tách biệt. Đây chính là điều mà một máy giả thực tại như địa cầu được thiết kế để giúp con làm. Nó chỉ được thiết kế để cho con một loại trải nghiệm đặc biệt của một sinh thể tách biệt.

Các thày có nói là có những hành tinh tự nhiên, và trên hành tinh tự nhiên con cũng khởi đầu với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Con xem mình phần nào là một sinh thể tách biệt, nhưng con nhận ra bản sắc của mình là nhiều hơn cái bản sắc nhỏ như chấm đó. Đó là tại sao trên hành tinh tự nhiên, con không có những xung đột giữa các sinh thể tự nhận biết với nhau. Trên trái đất, con có xung đột vì như các thày đã giải thích, một hệ quả cùng cực của quyền tự quyết được ban cho con là con phải có khả năng thám hiểm tất cả mọi cõi lựa chọn mà con có thể. Điều này có nghĩa là con phải có khả năng trải nghiệm trạng thái của một sinh thể hoàn toàn tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn bất kể hậu quả cho những sinh thể tách biệt khác. Con có thể làm bất cứ gì con muốn và tin tưởng là mình sẽ tránh được hậu quả của việc mình làm.

Hành tinh địa cầu cho con trải nghiệm đó khi con không cảm thấy là mình kết nối với cái ta cao của mình. Con không có cảm giác kết nối nào với những sinh thể khác. Con phủ nhận hành động của con sẽ gây hậu quả cho người khác, hay nó có tầm quan trọng và nó sẽ tác động đến chính con. Trên một hành tinh tự nhiên nơi các sinh thể nhận biết mọi thứ đều nối kết, họ biết mọi chuyện mình làm sẽ ảnh hưởng đến tổng thể. Trên địa cầu, con có thể có trải nghiệm mình không liên quan gì đến tổng thể, mình là một sinh thể tách biệt sinh sống giữa những sinh thể tách biệt khác, cho nên mặc dù con thấy được hành động của mình gây ra hậu quả vật lý, nó vẫn không gây ra bất kỳ hậu quả nào xa hơn, và nó không tác động đến tổng thể.

Vấn đề là một khi người ta bước vào cảm nhận tách biệt này, họ có một cảm nhận mạnh mẽ về thực tại rằng: “Chuyện này thực. Chúng ta thực sự là những sinh thể tách biệt. Chúng ta đang sống thực sự trong một thế giới tách biệt. Chúng ta là những sinh thể cao trội trên địa cầu. Chúng ta quan trọng hơn mọi người khác. Tôn giáo chúng ta là tôn giáo chân chính duy nhất và do đó điều cần thiết và chính đáng là chúng ta giết hết những ai không theo tôn giáo chúng ta.” Đây là một trải nghiệm mà con có thể có trong máy giả thực tại trên trái đất và nó nằm trong toàn bộ phạm vi của quyền tự quyết.

37.10. Cơ chế an toàn của máy giả thực tại

Nhưng điều gì xảy ra khi người ta bị mắc kẹt trong loại trải nghiệm đó? Đúng vậy, có một cơ chế an toàn là mặc dù họ trải nghiệm mình là sinh thể tách biệt nhưng kỳ thực họ không tách biệt chút nào, vì họ luôn tương kết với tất cả mọi sinh thể khác trong cùng bộ máy giả thực tại, và do đó khi có một số người tỉnh ngộ, điều này sẽ kéo mọi người khác lên theo.

Đó là tại sao con đã thấy trong nhân loại, trong xã hội loài người, có một chiều hướng tiến hóa. Nhiều công nghệ mới đã được khởi xướng cho phép những nền văn minh biệt lập bắt đầu tương tác với nhau, và con thấy được thế giới đã trở nên ngày càng nối kết như thế nào, và mạng lưới internet là giai đoạn mới nhất của chiều hướng này. Bây giờ con thấy các thế giới quan của loài người sẽ bắt đầu chạm trán với nhau nhiều hơn, và đó là vì tập thể loài người đã bước vào khởi đầu của giai đọan tỉnh ngộ. Có mốt số người vẫn còn bám chặt vào tâm thức tách biệt, nhưng chuyện này hoàn toàn phù hợp với luật tự quyết, qua đó có những người trong máy giả thực tại bị thế giới quan khác thách đố hầu được cơ hội chất vấn thế giới quan của mình.

Có thể con sẽ nói: “Nhưng rất nhiều người không đang nắm lấy cơ hội này”. Điều này tất nhiên cũng đúng cho kiếp sống này, hay có lẽ cho nhiều kiếp sống, nhưng dù sao trong giai đoạn mà địa cầu đang trải qua, hay nhân loại đang trải qua, thì cách cấu trúc của địa cầu khiến con không thể sống trên hành tinh này mà không nhận thức những thế giới quan khác đang có mặt, hay không bị thách đố trong thế giới quan của mình. Sẽ tới một điểm, một thời điểm khi hầu hết mọi người sẽ cởi mở hơn để chất vấn thế giới quan của mình. Điều này sẽ xảy ra đặc biệt là vì con sẽ không mãi mãi đầu thai với cùng thế giới quan. Nhiều người khi tái đầu thai sẽ chuyển sang một nền văn minh khác hay một thế giới quan khác, cho nên mọi người sẽ đều có cơ hội chất vấn thế giới quan của mình. Sự kiện này nằm trọn trong phạm vi của quyền tự quyết bởi vì mọi người trên địa cầu đều nối kết, cho nên khi một số bắt đầu thức tỉnh thì điều hoàn toàn tự nhiên là họ sẽ kéo theo số còn lại, sẽ thách đố số còn lại cũng phải đặt lại vấn đề thế giới quan của mình.

Dựa vào đó, chúng ta có thể nói: “Liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì cho nỗ lực khiến người khác chất vấn thế giới quan của họ hay không?” Con nhìn xem khi tín đồ các tôn giáo tin chắc là mình nắm chân lý duy nhất, hay khi người cộng sản tin chắc là họ có hệ thống chính trị chân chính duy nhất, hay người duy vật tin chắc là họ nắm thế giới quan đúng đắn duy nhất, rồi họ trở thành những nhà truyền giáo ráo riết đi cải đạo người khác, liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì không? Tất nhiên là có vì đó là thêm một trải nghiệm mà con có thể có. Trong nguyên tầm trải nghiệm mà máy giả thực tại cống hiến, con có thể cảm nhận: “Tôi có thế giới quan cao nhất cho nên tôi cần đi cải đạo mọi người”. Và con mang cảm nhận này suốt mấy kiếp sống cho tới khi con chán chê và con bước lên một tầm nhìn cao hơn. Hiện nay con đang tập trung vào trải nghiệm thế giới quan mà con đã chọn, nhưng cuối cùng con sẽ bước lên và bắt đầu tra vấn mọi thế giới quan hiện hành trên trái đất để tìm cái gì cao hơn.

37.11. Kết nối với các vị điều khiển máy giả thực tại

Đây là lúc cuộc xoay chuyển có thể xảy ra trong tâm con, vì bước kế tiếp trong nhận biết cao hơn là khi con nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Đúng là vậy đó. Nhưng điều con thấy với máy giả thực tại địa cầu là con nhìn thấy máy, con nhìn thấy căn phòng con đã bước vào, nhưng máy không chạy được một mình. Bên ngoài căn phòng có nhân viên điều khiển máy, và những vị điều khiển máy giả thực tại trên địa cầu là những sinh thể đã từng phần lớn ở trong máy đó và đã tốt nghiệp, nếu có thể gọi như vậy. Họ đã chán chê những trải nghiệm trong máy và họ đã bước ra ngoài, nhưng thay vì bỏ đi luôn, họ đã hiến thân mình để giúp những ai vẫn còn trong máy.

Cho nên ở một mức nào đó, chọn lựa mở ra cho con là con nhìn vào thật nhiều những thế giới quan có mặt trên trái đất và nhận ra là chúng đều được tạo ra trong máy giả thực tại. Có lẽ một số đã nhận được sự đóng góp từ bên ngoài bộ máy, nhưng sau đó người đời đã sử dụng khả năng tâm thức cố hữu của họ mà phóng chiếu lên các xung lực đến từ ngoài, rồi dựng lên một thế giới quan mới, và thế giới quan này thì được tạo ra bên trong bộ máy. Cho nên một khi con ngộ ra điều này, con có thể nói: “À, nếu như tôi có thể nhận được trực tiếp từ những vị điều khiển máy ở ngoài thì sao?” Khi đệ tử sẵn sàng, vị thày sẽ xuất hiện. Đó là tại sao suốt bao nhiêu thời đại, một số người đã sẵn sàng tiếp nhận từ ngoài bộ máy và họ đã nhận được.

Khi thày, Gautama, bước chân trên trái đất trong một cơ thể vật lý 2500 năm về trước, có phải thày đã tự mình nghĩ ra giáo lý đạo Phật hay chăng? Liệu thày là một sinh thể vẫn sống trong máy giả thực tại mà lại đưa ra được giáo lý đó? Không đâu con. Thày nhận ra sự giới hạn của những thế giới quan mà thày tiếp cận thời đó, và thày đã mở tâm ra để với lên những gì nằm vượt ngoài bộ máy. Và thày đã nhận được, và điều này đã trở thành giáo lý đạo Phật. Giáo lý này được ban truyền từ bên ngoài bộ máy, và tất nhiên kể từ thời đó đã có những người không trực tiếp liên lạc với các vị điều khiển máy bên ngoài đã sử dụng thế giới quan cố hữu của họ để áp chồng lên những ý tưởng tạo ra giáo lý mà ngày nay con gọi là đạo Phật. Một số người đã giữ được một độ thuần khiết nào đó của lời dạy ban đầu. Một số khác đã áp đặt một cách diễn giải rất khác với lời dạy ban đầu. Nhưng rất, rất ít người đã dùng lời dạy ban đầu của Phật giáo để nối kết với các vị điều khiển ở ngoài bộ máy.

37.12. Giáo lý đến từ ngoài bộ máy

Khi Giê-su bước chân trên trái đất 2000 năm về trước, thày cũng đã đạt đến mức tâm thức chất vấn mọi thế giới quan mà thày nhìn thấy trên địa cầu. Thày cũng ngộ ra là rất nhiều thế giới quan được tạo dựng hoàn toàn bên trong máy giả thực tại. Chúng dựa trên trải nghiệm của những người bên trong bộ máy. Họ lấy những trải nghiệm này và đè chồng lên thế giới quan. Điều này cũng tốt thôi vì nó đem lại cho họ một trải nghiệm, và cảm giác trải nghiệm đó là thực. Vấn đề là, nếu thế giới quan do các điều kiện hiện hành trong máy tạo ra không thể giúp con bước ra ngoài bộ máy, thì nó sẽ giữ chặt con lại ở trong đó.

Cho nên Giê-su đạt tới điểm khi thày sẵn lòng nhìn ra điều đó. Và thày đã nhìn ra. Thày ngộ được sự giới hạn của những thế giới quan đó. Thày sẵn sàng chất vấn chúng. Thày sẵn sàng tới điểm nói rằng: “Có thể nào tự mình ta không thể làm được gì? Hay có gì đó mà Cha ở bên ngoài ta con thể cho ta, một viễn quan khác hơn những gì ta có thể nhận được từ bên trong thế gian này?” Và Giê-su đã với tay ra, và như định luật nói rõ, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày phải xuất hiện, và Giê-su được ban cho một lời dạy từ bên ngoài bộ máy. Người đời đã làm gì với lời dạy đó chứ? Phải, như Giê-su vừa nói trong bài giảng của thày hôm nay, người đời đã hoàn toàn bóp méo nó đi.

Điều mà Giê-su gọi là “tâm thức Sa-tăng” là cái mà thày đây gọi là “tâm thức hiện hữu bên trong máy giả thực tại”. Tâm thức này có khả năng nhận thức một gì đó bên ngoài bộ máy, nhưng một khi nó bắt được liên lạc với bên ngoài, nó lại muốn ép buộc sáng ngộ này phải chui vào thế giới quan được tạo ra trong máy. Nói cách khác, thay vì dùng sự tiếp xúc với bên ngoài để thăng vượt máy giả thực tại, nó lại dùng để củng cố và xác chứng chính cái thế giới quan đã giam nó trong máy.

Có người sẽ bảo: “Nhưng đó chẳng phải là một trải nghiệm khác mà người ta có thể có hay sao, khi người ta cảm thấy thế giới quan của mình được xác nhận bởi một thẩm quyền tối thượng, dù họ gọi đó là Thượng đế hay một cái tên nào khác?” Tất nhiên đó là một loại trải nghiệm khác, nhưng một lần nữa, vì mọi sinh thể trong máy được nối kết với nhau, điều hoàn toàn bình thường là một số người sẽ với lên một trải nghiệm cao hơn và đem xuống được một điều gì đó có thể thách đố thế giới quan hiện hữu.

37.13. Có gì sai trái với trái đất hay không?

Dựa vào đó có thể con sẽ nói: “À, có một số thế giới quan bảo là có gì sai trái với tạo vật Thượng đế, và đó là lý do chúng ta chứng kiến biết bao cảnh khốn cùng, biết bao đau khổ và xung đột trên trái đất.” Nhưng nếu dựa vào viễn quan thày vừa cho con, không có gì đã đi trật đường.

Địa cầu là một máy giả thực tại được thiết kế để đem lại cho các sinh thể ở bên trong một loạt những trải nghiệm khác nhau. Họ có quyền tự quyết chọn lựa loại trải nghiệm nào họ muốn. Theo một nghĩa nào đó, họ không chọn giữa những trải nghiệm từng có, mà họ phần nào tự do ấn định trải nghiệm của họ, và đây là điều họ làm khi tạo ra tất cả những thế giới quan kia đụng độ với nhau. Không có gì đã bị trật đường rày.

Vấn đề duy nhất là: “Liệu cá nhân con đã đủ chán chê những trải nghiệm con thấy trên địa cầu hay chưa?” Nếu con đã đủ chán thì con có thể làm hai chuyện. Con có thể tìm cách bắt liên lạc với những vị điều khiển máy bên ngoài bộ máy, và đem xuống một xung lực sẽ giúp con định ra một thế giới quan khác sẽ mang lại cho con một trải nghiệm mà chưa ai trên địa cầu từng nếm. Việc này hoàn toàn chính đáng thôi. Nhưng chọn lựa thứ hai là con nhận ra con đã chán ngán tất cả mọi loại trải nghiệm – loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, loại trải nghiệm mà con có thể có như một sinh thể tách biệt. Con muốn bước lên cao hơn và đi vào nhận thức sâu xa là mặc dù con đã khởi sự như một sinh thể nhỏ như cái chấm, giờ đây con đã khuếch trương ý niệm bản sắc của mình đến mức con ngộ ra là con không phải là một sinh thể tách biệt, mà con là thành phần của một tổng thể tương kết. Thay vì trải nghiệm những gì con có thể trải nghiệm như một sinh thể tách biệt, con muốn có trải nghiệm là mình nối kết.

Cho nên khi con đạt đến điểm này, đó là lúc con có thể khởi sự giai đoạn chót của tiến trình tỉnh ngộ có thể dẫn con tới điểm vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy giả thực tại của địa cầu, mà hiển nhiên các thày gọi là thăng thiên. Liệu có tên gọi nào khác hay không? Tất nhiên là có, nhưng các thày đang trao cho con một lời dạy mà các thày không bảo là lời dạy tối hậu, mà là một lời dạy được thiết kế đặc biệt để giúp những ai sẵn lòng bước ra khỏi bộ máy càng nhanh càng tốt. Đối với nhiều người, việc này có thể thực hiện trong một kiếp người, vì con đã làm xong nhiều chuyện trong các kiếp trước rồi. Cho nên đó là mục đích duy nhất. Các thày không có mục đích cho con chân lý tối thượng vì một lý do vô cùng giản dị. Mục đích giáo lý của các thày không phải là cho con thêm một loại trải nghiệm để con có thể nếm mùi trong máy giả thực tại địa cầu. Mục đích giáo lý của các thày là để giúp con vĩnh viễn rởi khỏi máy giả thực tại.

Liệu có những giáo lý nào khác có thể giúp con rời khỏi máy hay chăng? Chắc chắn là có. Đạo Phật là một giáo lý đã giúp được một số người. Đạo Cơ đốc trong dạng thuần khiết cũng đã giúp được một số người. Ngay cả đạo Hồi cũng đã giúp được một số người khi họ đi theo con đường thần bí. Có những giáo lý khác cũng đã giúp được con người. Nhưng những gì các thày ban truyền ngày hôm nay dựa trên tâm thức tập thể của ngày hôm nay. Do đó nó được thiết kế cho những ai đã đạt tới những mức tỉnh thức cao hơn và đã sẵn sàng đi những bước chót. Đó là điều mà thày muốn trao cho con trong bài giảng này.

Đối với một số người, đây chỉ là chuyện tầm phào. Một số khác sẽ đọc bài này và bảo là chuyện ngớ ngẩn, vô nghĩa lý. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào đến từ Phật. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào đến từ các chân sư thăng thiên. Hãy mặc cho họ có trải nghiệm đó. Điều quan trọng là bài này là gì đối với con?

Con đi theo những lời dạy đánh động nội tâm của con, những lời dạy mà con biết có thể giúp con bước ra khỏi máy giả thực tại, và khi con thật sự rời khỏi bộ máy đó, chắc chắn thày sẽ ở đó để đón chào con, cùng với Giê-su, Saint Germain, chân sư More, Mẹ Mary và nhiều chân sư khác nữa. Thật ra các thày có thể sẽ đứng xếp hàng để đón chào con. Nhưng một lần nữa, vì các thày ngụ trong tâm duy nhất cho nên chuyện này cũng hoàn toàn tốt thôi.  

Với lời này, con yêu dấu, thày biết ơn con đã cho phép thày đưa ra lời dạy, bài giảng vừa rồi. Lời dạy này đã không thể trao cho bất cứ ai, mà chỉ cho những người đã mở tâm mình để có khả năng và lòng mong muốn tiếp nhận được. Và con thấy đó, luôn luôn có lý duyên khởi đang vận hành. Các chân sư thăng thiên không thể bỗng dưng truyền rải một điều gì trên địa cầu “từ hư vô”. Các thày phải cần đến một ai đó bên trong máy giả thực tại nâng cao tâm thức của mình đến mức có khả năng nhận được. Và vì thế thày vô cùng biết ơn. Thày niêm buổi hội nghị này trong Ngọn lửa Biết ơn của Phật.

19 | Một câu hỏi về thời gian

Câu hỏi: Xin các chân sư trao cho chúng con một lời dạy sâu xa hơn về sự không hiện hữu của thời gian và về thực tại tâm linh. Chúng con biết là một số sự việc diễn ra theo trình tự thời gian, chẳng hạn như việc đổ đầy một bầu cõi tân lập với ánh sáng. Nếu thời gian không hiện hữu và mọi sự đều xảy ra cùng một lúc, làm thế nào chúng con có thể gắn liền việc này với ý chí tự quyết, vì ý chí tự quyết có cơ hội bước theo hướng hoàn thành con đường quả vị Ki-tô hoặc theo hướng ngược lại? Từ nhãn quan thế tục của chúng con, việc đó xảy ra ở một thời điểm cụ thể. Các sinh thể ở cõi tâm linh cảm nhận thời gian trôi qua trên trái đất như thế nào?

Trả lời của Phật Gautama: Con yêu dấu, thày chính là người đã nói: “Thời gian không có,” và tất nhiên câu này là một công án. Chắc chắn thời gian hiện hữu ở một mức độ nào đó. Chắc chắn thế gian mang tính chất đường thẳng ở một mức độ nào đó. Có một sự trải bày tuần tự từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau. Con có thể nói là toàn bộ thế giới quan mà các thày đã trao cho con là sự kiện Đấng Sáng tạo đã khởi sự sáng tạo qua việc tạo ra một khoảng trống, xong ngài tạo ra một tiến trình cho các sinh thể đồng sáng tạo lấp đầy khoảng trống này – và đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Từ nhãn quan này, con có thể nói là con có thể xem thời gian như một trình tự tiến hành từ một giai đoạn sang giai đoạn kế tiếp, qua đó một giai đoạn tạo ra một biểu hiện đặc thù sẽ đặt nền tảng cho sự phát triển tiếp theo của các biểu hiện trong giai đoạn kế tiếp. Nếu con nhìn thời gian theo cách này thì chắc chắn thời gian hiện hữu. Điều thày muốn con và mọi người nói chung quán chiếu qua câu “Thời gian không có” là sự kiện thời gian không nhất thiết phải giống hệt cách nhìn hiện thời của con bằng tâm thức gọi là “bình thường” trên trái đất. Không như cách nhận thức bình thường của con, thời gian không hẳn là đường thẳng, khắc sâu vào đá, không thể tránh khỏi hay không thể thay đổi.

Một khía cạnh của vấn đề này là toàn bộ giáo lý các thày đã trao cho con về cách làm thế nào con loại bỏ các ngã tách biệt và nhờ vậy chữa lành bốn thể phàm của con. Chúng ta có thể nói là ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi con đã trải qua một chấn thương nhập đời, và thời điểm này không còn nữa, thời điểm này đã đi qua. Bây giờ con đang ở một thời điểm khác nhưng con vẫn mang chấn thương nhập đời này theo con. Con vẫn bị nó tác động vì các khoảnh khắc sau đó, các khoảnh khắc đến sau chấn thương nhập đời, đã bị chấn thương nhập đời đưa vào một hướng đi nhất định. Mọi chuyện xảy ra sau đó được xây dựng trên nền tảng chấn thương nhập đời.

Nếu con không thể thay đổi thời gian, nếu con không thể thay đổi quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian – mà qua đó con có thể đi trở ngược quá khứ để giải quyết chấn thương nhập đời – thì làm thế nào con sẽ giải thoát khỏi chấn thương được đây? Con thấy là ngay khoảnh khắc Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo, phải có một sự trải bày diễn ra một cách đường thẳng, mà con gọi là thời gian, để các sinh thể này sử dụng quyền tự quyết của họ. Như vậy họ mới thấy được là khi họ phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì sau đó một thời gian Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trình diễn nó ra thành những hoàn cảnh vật lý. Những hoàn cảnh vật lý này không chỉ biến mất sau một tích tắc mà chúng có thể tồn tại trong một khoảng mà con gọi là thời gian.

Để sử dụng quyền tự quyết, phải có thời gian hiện hữu để một số biểu hiện được duy trì. Tuy nhiên để đảm bảo quyền tự quyết không trở thành một hệ thống tự hạn chế – tức một hệ thống nơi con lần lần càng tạo thêm hậu quả cho chính mình, rồi với thời gian con mang các hậu quả này theo con cho tới mức chúng trở nên khắc nghiệt đến độ chẳng bao lâu con không còn chọn lựa nào nữa, con không còn quyền tự quyết nữa – để tránh kịch bản này xảy ra, thời gian không thể chỉ đi theo một hướng độc nhất. Phải có cách nào đó để con quay lại thay đổi quá khứ. Cách đây hai triệu năm có thể đã có một tình huống vật lý nơi con phải chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng khía cạnh tích cực của thời gian là thời gian đã trôi qua. Và tình huống vật lý này không còn nữa.

Đây là một ân huệ, vì ngược với những gì các tác giả khoa học viễn tưởng muốn con tin, con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý có khả năng quay trở lại một tình huống xảy ra hai triệu năm trước để con du hành về đó trong cõi vật lý và thay đổi vật lý. Chuyện này không thể làm được, không bao giờ có thể làm được. Nhưng điều con có thể làm được là tạo ra một cỗ máy vượt thời gian trong chính tâm con. Kỳ thực trong bài tập mà Mẹ Mary dẫn con đi qua bảy khu vườn trở về rạp hát nơi chấn thương nhập đời của con đã diễn ra, Mẹ đã trao cho con một cỗ máy như vậy để con có thể quay về khung cảnh khi tình huống đó vẫn tồn tại. Tình huống không còn tồn tại trong cõi vật lý nhưng nó còn tồn tại trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. [Xem bài tập này trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]

Con có thể quay trở về đó trong cỗ máy vượt thời gian xuyên qua các thể này, làm tan biến những vết tích còn sót lại ở đó, những khuôn đúc, những giới hạn, những cái ngã, bất kể con muốn gọi là gì cũng được. Con làm nó tan biến đi, thế là con thay đổi quá khứ cho dù thời gian đã trôi qua. Con đã thay đổi quá khứ của con. Qua việc loại bỏ ngã gốc của mình, con không còn là cùng con người mà con đã từng là, khi chính ý niệm bản sắc của con, cách con tư duy về cuộc sống và cách con cảm nhận cuộc sống bị ngã gốc đó pha màu. Con đã trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô. Đây ít nhất là một tầng cấp cho thấy tại sao thày bảo rằng thời gian không có. Thời gian không phải là một lượng gì cố định.

Bây giờ nói về quyền tự quyết, luôn luôn đã có bàn cãi về đề tài này trong số những người tâm linh lẫn các triết gia. Chẳng hạn những ai theo tôn giáo sẽ nói: “Nếu Thượng đế là đấng toàn tri thì ngay từ khởi thủy ngài đã phải biết rõ kết cuộc. Thượng đế phải biết kết quả chung cuộc của vũ trụ sẽ ra sao trước khi ngài khởi đầu tiến trình sinh tạo vũ trụ. Và nếu Thượng đế biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra thì làm sao con người có quyền tự quyết được?”

Và câu trả lời là như sau: đó là một cái nhìn sai lạc về Thượng đế, một hình ảnh sai lạc về Thượng đế mà sa nhân đã cốt ý đưa ra nhằm gây bối rối theo kiểu này. Thượng đế không toàn tri theo nghĩa ngài biết chính xác tất cả mọi chuyện sẽ diễn bày. Ngài biết một số sự việc tổng quát nhưng ngài không biết rõ mọi chi tiết. Kỳ thực ngài đã nói, Đấng Sáng tạo đã nói: “Ta ban quyền tự quyết cho các con. Ta ban cho các con khả năng làm cho ta ngạc nhiên.” Cho nên từ một quan điểm truyền thống, Thượng đế không toàn tri.

Thậm chí con có thể thấy các nhà duy vật bảo rằng mọi chuyện đều được quy định bởi các định luật tự nhiên. Có một hình ảnh cố hữu cho rằng thế giới giống như một chiếc đồng hồ vĩ đại, và nếu con biết tất cả các điều kiện ban đầu khi thế giới khởi sự, thì bằng cách biết rõ mọi định luật tự nhiên con có thể tiên đoán chính xác thế giới sẽ như thế nào ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Con có thể đoán trước được tương lai nếu con biết rõ các điều kiện nguyên thủy cùng các định luật tự nhiên. Cách nhìn này cũng hoàn toàn sai lạc vì quan điểm duy vật không ngó gì đến quyền tự quyết, nó bỏ qua thực tế rằng vũ trụ vật lý chỉ là hệ quả của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn. Sự biểu hiện vật lý chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở mức tâm thức. Như các thày đã nói, tâm thức có trước, biểu hiện vật lý có sau. Cho nên đơn giản những quan điểm như trên đều sai lạc. Con quả là quyền tự quyết.

Con sắp sửa làm gì đây trong một phút nữa: Thượng đế không làm sao biết được, Thượng đế không quy định được, Thượng đế không giới hạn được, và các định luật tự nhiên cũng không giới hạn được. Con có thể nhìn một người nào đó, nhìn vào trạng thái tâm lý của họ, nhìn vào các ngã tách biệt mà họ đang mang, và con có thể tiên đoán với một độ chính xác rất cao là họ sắp sửa làm gì trong một phút nữa. Tuy nhiên với thời gian, con không thể biết được liệu họ sẽ quyết định thay đổi hay không. Ngay cả những người hoàn toàn không biết đến các chân sư thăng thiên, họ vẫn có thể lấy quyết định: “Tôi đã chán chê loại trải nghiệm này rồi. Tại sao tôi cứ làm đi làm lại cùng một chuyện này mãi mãi? Tôi chọn lựa thay đổi. Tôi sẽ ngừng làm chuyện đó.”

Suốt chiều dài lịch sử, con người đã có những chọn lựa như vậy và chính điều này đã đem lại tiến bộ cho bản thân họ cũng như cho nền văn minh của họ. Một khi con hiểu rõ ngã tách biệt, con có thể loại bỏ chúng, con có thể để cho chúng chết đi, và sau đó với mỗi cái ngã chết đi như vậy, con sẽ có thêm quyền tự quyết. Quả là con có quyền tự quyết nhưng con chỉ có thể chọn các chọn lựa mà con nhìn thấy. Các chọn lựa mà con nhìn thấy ngay bây giờ tùy thuộc vào toàn bộ bốn thể phàm của con, vào các ngã tách biệt, vào sự pha màu mà con đang mang. Một số những ngã tách biệt này sẽ che chắn nhiều tùy chọn khỏi mắt con, cho nên con chỉ không thể thấy chúng, và nếu con không thấy chúng là chọn lựa thì con không thể nắm lấy chọn lựa đó. Nói cho cùng, quyền tự quyết và sự nhận biết gắn liền rất chặt chẽ với nhau. Con có thể nói là con luôn luôn có quyền tự quyết chọn lựa các tùy chọn mà con thấy được ở mức tâm thức hiện thời của con. Ý chí tự do của con chỉ tự do như những gì con có thể nhìn thấy.

Hẳn nhiên quyền tự quyết là một thực tế, và bất kỳ triết lý nào, hệ tư tưởng nào mà bác bỏ quyền tự quyết hay tìm cách giới hạn quyền tự quyết qua một yếu tố nào đó mà con không có khả năng chủ động, bất kỳ hệ thống nào như vậy đều xuất phát từ tâm trí của sa nhân. Các thày không bảo là tất cả những ai đề xướng những loại hệ thống như vậy đều là sa nhân, nhưng ý tưởng nguyên thủy đã khởi lên từ tâm  trí sa nhân. Mục đích chủ yếu của chúng không phải là giới hạn dân số loài người mà giới hạn các chọn lựa mà quần chúng có thể lấy, hay đúng hơn, mà mỗi cá nhân có thể lấy. Chúng muốn hạn chế quyền tự quyết của con.

45 | Tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 21/9/2019 tại Kyiv, Ukraine.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị chân sư thăng thiên này tại quốc gia Ukraine. Và thày cũng rất vui nói với các con là các con đã vượt quá tiềm năng cao nhất mà các thày đã dự đoán cho hội nghị này. Các con đã làm được như vậy là do đã sẵn sàng đến với nhau, và mặc dù những khác biệt về ngôn ngữ, quốc gia hay văn hóa, các con đã đạt được một mức độ kết hợp cao hơn là các thày có thể dự đoán. Điều này đã mở ra khả năng cho các thày truyền rải nhiều ánh sáng hơn những gì có thể.

Bởi vì điều gì định đoạt lượng ánh sáng mà các thày truyền rải tại một hội nghị? Phần lớn, đó là khả năng của luân xa các tham dự viên – kể cả những tham dự viên nối kết qua mạng internet – để tỏa rạng, phát sóng ánh sáng vào tâm thức tập thể. Nếu các thày ban ra nhiều ánh sáng hơn là luân xa các con có khả năng tiếp nhận thì sẽ quá nhiều cho các con, và nếu ánh sáng không thể tỏa ra thì không chắc nó sẽ hoàn thành được mục đích của nó. Qua sự kiện các con vừa nhận được những bài truyền đọc với uy lực rất lớn, các con có thể biết là mình đã sẵn lòng đến với nhau trong hợp nhất – là sự hợp nhất đạt được khi không chỉ luân xa của từng cá nhân được các thày sử dụng, mà các con đã hình thành tâm Một và tim Một rộng lớn hơn, khiến luân xa mọi người được phối hợp lại, được đồng bộ với nhau để nhân lên gấp nhiều lần những gì các thày truyền rải.

Thày không bảo là mọi hội nghị đều như vậy, hoặc các con phải bắt đầu đánh giá xem hội nghị nào mà không nhận được bài truyền đọc đầy uy lực thì tham dự viên đã không kết hợp. Có những hội nghị mang những mục tiêu khác. Có những bài truyền đọc mà mục đích chủ yếu là để giảng dạy giáo lý. Và do đó, vì phần nào chúng ta ở một khu vực có tâm thức tập thể rất dày đặc nên mới có nhu cầu phóng ra một lực thúc đẩy thật mạnh mẽ hầu đâm thủng, phá vỡ một số khuôn đúc trong tâm tập thể.

Trong hội nghị này, các thày đã gợi ý một số khái niệm mà các thày chưa đề cập trước đây. Con đã nghe các thày trình bày về một khái niệm – lý duyên khởi – có lẽ xa lạ đối với đa số các con nhưng lại khá phổ biến trong một số giới đạo Phật. Tất nhiên đó là một cách gọi hơi hoa mĩ vì con có thể diễn tả một cách khác: Tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Khái niệm này mang nhiều hệ quả mà các thày sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn trong thời gian tới. Thật ra các thày cũng đã có đề cập bằng những từ ngữ và ý tưởng khác rồi, nhưng như con cũng biết, các thày thường trở lại một đề tài đã bàn đến trước đây để đưa nó lên một tầng cao hơn, bởi vì tiến trình truyền pháp có một số chu kỳ, và tiến trình tăng trưởng của con cũng có một số chu kỳ nhất định. Cho nên thỉnh thoảng, các thày sẽ giảng lại về một đề tài đã được giảng trước đó để đem lại một cái gì mới và đưa nó lên một tầm nhìn cao hơn.

45.1. Nhìn vượt khỏi ảo tưởng tách biệt

Khi bảo rằng tất cả mọi thứ đều nối kết thì câu này có nghĩa là gì? Có nghĩa là ảo tưởng, hay ấn tượng do giác quan của con tạo ra là một ảo tưởng. Con nhìn qua giác quan của con, và với tâm vỏ ngoài giới hạn giác quan, con thấy mọi thứ đều tách biệt. Con có thể bảo rằng cái loa bên này tách biệt với cái loa bên kia, rằng mặt trời tách biệt với mặt trăng, địa cầu tách biệt với sao Thủy hay sao Kim. Một người bên Nga tách biệt với một người bên Mỹ, vân vân.

Thế giới chú tâm vào sự khác biệt, chú tâm vào những vật tách biệt. Đây là một ảo tưởng mà con có thể bắt đầu luyện tâm để nhìn vượt lên trên. Và con có thể làm điều này một cách cao hơn hầu hết mọi người đã làm trước đây nhờ con được học rất nhiều giáo lý mà các thày đã cho con. Trước tiên là giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cho thấy là dải tần số vật chất, quang phổ vật lý, cũng giống như phần nổi của một tảng băng hiển lộ trên mặt nước, trong khi phần còn lại thì không thấy được bởi nó ẩn dưới mặt nước.

Cũng vậy, ba thể cao của con người phàm của con không thấy được. Nhưng như con cũng biết, nếu 90% băng đá bên dưới chuyển động thì chẳng phải là phần nổi bên trên cũng sẽ chuyển động theo hay sao? Cho nên nếu bên dưới có dòng nước ngầm di chuyển về hướng Nam, thì dù cho bên trên có một ngọn gió thật mạnh thổi về hướng Bắc, phần nổi của tảng đá vẫn sẽ trôi ngược gió về hướng Nam.

Và như vậy nếu trong ba thể cao của con có sự chuyển động về một hướng nào đó, thì có thể tâm ý thức của con sẽ rất khó lòng đi ngược về hướng kia. Con sẽ đi theo những ngọn sóng ngầm trong tiềm thức. Và đó là tại sao con có tiềm năng nắm quyền chủ động đời mình bằng cách giải tỏa những năng lượng đó, giải quyết tâm lý và buông bỏ những cái ngã, vân vân. Nhưng con cũng có thể luyện tâm để cảm nhận sự nối kết sâu hơn bên dưới cho dù con không nhất thiết nhìn thấy được.

Điều này sẽ đem lại rất nhiều ích lợi cho đường tu của con. Sơ khởi thày sẽ đưa ra một ví dụ. Sứ giả này đang dang hai bàn tay ra khá xa. Nếu giả dụ con lấy một tấm vải che phần dưới cơ thể của ông thì con có thể thấy hai bàn tay này tách biệt với nhau. Bây giờ hai bàn tay bắt đầu chuyển động nhịp nhàng với nhau và chúng gặp nhau ở giữa – con có thể nghĩ chúng là hai vật tách biệt đang di động nhịp nhàng. Nhưng tất nhiên vì không có tấm vải nào đang che cơ thể của ông, cho nên con thấy rõ chúng thuộc về, chúng gắn liền với cùng một cơ thể. Và do đó, thật không có gì lạ lắm khi cơ thể này có thể làm cho chúng chuyển động.

Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng hai vật có vẻ tách biệt đối với giác quan của con. Nếu một vật di chuyển về hướng này và vật kia di chuyển về hướng kia, con có thể nghĩ có hai nguyên nhân khác nhau đang làm chúng chuyển động. Và con có thể nghĩ, như khoa học đã nghĩ như vậy từ mấy thế kỷ qua, rằng thế giới được tạo thành bởi những vật tách biệt, những vật không nối kết với nhau, không trao đổi tín hiệu với nhau. Và do đó nếu chúng di chuyển về hướng khác nhau, nhất định là phải có những nguyên nhân khác nhau khiến chúng chuyển động.

45.2. Không có nguyên nhân tách biệt và kết quả tách biệt

Nhưng thật là không phải vậy. Không có vật nào tách biệt cả. Và cũng không có nguyên nhân nào tách biệt. Không có hậu quả tách biệt lẫn nguyên nhân tách biệt.

Điều gì có thể giải thích chuyện này? Làm thế nào con hình dung được đây? Một lần nữa, con hãy lấy ví dụ hai bàn tay của sứ giả này đang chuyển động nhịp nhàng với nhau trước khi chúng chụm lại. Dựa trên giác quan, con có thể bảo là có hai bàn tay đang hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng đang di chuyển cùng với nhau liên tục trước khi gặp gỡ. Nhưng như các thày đã gợi ý, điều xảy ra không thực là vậy. Bởi vì quang phổ vật lý giống như hình ảnh trên một màn hình chiếu phim. Những chuyển động mà con thấy trên màn hình không liên tục vì chúng do cuộn phim tạo ra, và cuộn phim thì có nhiều tấm ảnh tách rời được ánh sáng chiếu xuyên qua. Chính các tấm ảnh này chuyển động, nhưng chúng chuyển động nhanh đến độ con không thấy có một tấm ảnh đang thay thế một tấm khác. Nhưng dĩ nhiên con cũng biết, trong phim cũ thời xưa quay chậm hơn, con có thể nhận thấy hình bị nhảy giật giật, khiến diễn viên đi đứng trong phim cũng giật giật như thế – và nhờ vậy con dễ nhận ra đó là những tấm ảnh cố định riêng lẻ đang được trình chiếu ở một tốc độ khiến con có cảm giác chúng là phim xi-nê [“motion picture” dịch nghĩa đen là hình cử động].

Khi con biết mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân trong ba cõi cao hơn, con có thể bắt đầu thấy được là không có hai bàn tay đang chuyển động cùng với nhau trong một động tác liên tục. Nếu con có thể chiếu chậm lại, con sẽ thấy: đây, có một tấm ảnh đang được trình chiếu ngay bây giờ bởi những gì đang xảy ra trong ba cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, tức là sự tương tác giữa những năng lượng và khuôn đúc trong ba cõi này. Nếu con hình dung được và chiếu thật chậm, con có thể nói: đây, có một tấm ảnh nữa đang được tạo ra bởi tương tác trong ba cõi cao. Và đây, lại thêm một tấm ảnh nữa. Và đúng vậy, đối với con hai bàn tay có vẻ như xích lại gần với nhau. Nhưng câu hỏi đặt ra là: liệu có phải là cùng hai bàn tay đó không? Có phải là cùng hai bàn tay đang chuyển động từ tấm ảnh này sang tấm ảnh kia rồi sang tấm ảnh nọ? Hay phải chăng nó giống như những tấm ảnh riêng lẻ trên một cuộn phim đang quay và được chiếu lên màn hình, hết tấm này sau tấm nọ?

Nói cách khác, thực tế là cho dù con thấy cái đó như một vật liên tục và một chuyển động liên tục, thật ra nó giống như một chuỗi ảnh được chiếu lên màn hình, nhưng nó nhanh đến độ các giác quan vỏ ngoài của con, tâm vỏ ngoài của con không thể nắm bắt được.

45.3. Không có gì là không thể thay đổi

Tại sao chuyện này lại quan trọng? À vì nhiều lý do. Nhưng sơ khởi, vì con hiểu ra là nếu con thực sự muốn thay đổi cõi vật lý thì con sẽ cần thay đổi nguyên nhân, con cần làm việc trên nguyên nhân thay vì trên kết quả. Đây là điều các thày đã dạy con làm qua việc làm sạch bốn thể phàm của con. Và khi thời điểm thích hợp, các thày sẽ dạy con nhiều hơn, không những về cách làm sạch bốn thể phàm mà vượt ra ngoài năng trường của con để bắt đầu làm sạch một số khuôn đúc, hình ảnh, năng lượng cùng mô thức sóng đang ảnh hưởng đến hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Nhưng điều này các thày chưa thể trao cho con cho đến khi các thày dạy con về cách khắc phục ngã gốc (primal self). Bởi vì nếu không, có thể con sẽ bị rất nhiều ngã tách biệt xúi giục con lạm dụng lời dạy đó để đạt được quyền năng thay đổi hoàn cảnh vật lý, cho dù con sẽ xen vào quyền tự quyết của người khác.

Nhưng điều con hiểu ra khi con suy ngẫm về lời dạy trên là sự kiện con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một nguyên nhân đã được khởi động thì không gì sẽ có thể lật ngược lại được. Không gì có thể thay đổi nó được. Sứ giả này đã lớn lên với một người ông rất ham thích săn bắn và súng ống, nhưng ông cũng rất quan tâm đến an toàn. Phương châm của ông là: “Đừng bao giờ quên, một khi viên đạn đã rời khỏi nòng súng thì không một thế lực nào trên địa cầu sẽ có thể quay nó ngược trở lại.” Đây là điều mà khi lớn lên con đã được dạy suy nghĩ. Một khi một nguyên nhân được kích hoạt thì không một thế lực nào trên địa cầu có thể lật ngược. Một khi trận tuyết lở đã khởi động thì không gì có thể ngăn nó đổ xuống sườn núi.

Nhưng làm thế nào Ki-tô đã làm yên được cơn bão chứ? Ki-tô đã làm được vì tâm của thày không rơi vào ảo tưởng thường tình cho rằng cơn bão là một hiện tượng liên tục được tạo ra bởi một nguyên nhân nào đó, và một khi nó đã khởi động thì nó bắt buộc phải tiếp diễn cho đến khi kiệt sức. Giê-su nhận ra là rất nhiều lần trong mỗi giây, thế giới vật lý lại được tái tạo, được trình chiếu lại một lần nữa. Giữa hai lần trình chiếu riêng rẽ đó có một khoảng thời gian – một khoảnh khắc rất, rất ngắn, nhưng không phải là không có. Có một khoảng cách im lặng. Và nếu con có thể uốn tâm mình hay kéo tâm ra khỏi tập trung vào sự kiện, và nếu thay vào đó con tập trung vào sự im lặng giữa hai hình chiếu cá biệt, thì con có thể thay đổi hình chiếu ở cõi vật lý. Hay đúng hơn, con thay đổi ở các cõi cao hơn và sau đó cõi vật lý cũng thay đổi theo.

Tuy thời nay không phải là một thời con cần sản xuất loại hiện tượng mà Giê-su đã làm 2000 năm về trước, nhưng con có thể dùng lời dạy này để thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài tốt đẹp hơn cho mình, kể cả việc chữa lành cơ thể vật lý. Nếu con quán chiếu về lời dạy, con sẽ nhận ra là trong thế gian này không có hiện tượng nào là liên tục, mà chỉ có những hình ảnh riêng rời được phóng chiếu, và ở giữa thì có im lặng. Im lặng này, mặc dù có vẻ ngắn ngủi hơn cả một khoảnh khắc, thật ra vượt khỏi thời gian. Điều này có nghĩa là khi con luyện tâm, con có khả năng dùng khoảng cách im lặng đó để thay đổi các khuôn đúc trong cõi bản sắc, lý trí và tình cảm và khiến cho sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo.

Thày tuyệt nhiên không bảo là lúc đầu con sẽ cần làm được chuyện này trong tích tắc. Nhưng với thời gian, con sẽ lần hồi chấp nhận những hình ảnh khác hơn về hoàn cảnh đời sống của con có thể thay đổi ra sao, về những gì con có thể thị hiện trong đời mình, những gì con có thể thu hút về phía mình – và con làm chuyện này trước hết trong thể bản sắc, xong trong thể lý trí, xong trong thể tình cảm. Với thời gian, có thể những hoàn cảnh tốt hơn đó sẽ thị hiện.

45.4. Ý thức mình có tiềm năng thay đổi

Con có thể cho rằng chuyện này thật là khó tin, nhưng hãy để thày hỏi con câu này. Con có cảm thấy con đã từng trải nghiệm là mình đã cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình hay không? Nếu có thì con chỉ có thể làm vậy một cách mà thôi, và cách đó là cách thày vừa mô tả. Có điều là con đã không ý thức, và vì vậy con không thể thực hiện một cách đều đặn, chắc chắn. Nhưng đó chính là cách con có thể luyện tập để thực hiện.

Con thấy đó, sự kiện một hình ảnh được chiếu ra nhiều lần mỗi giây trên màn hình của thế giới vật chất có nghĩa là ngay khi nó được thay đổi trên màn hình của ba thể cao, rồi khi nó được chiếu lên màn hình vật lý, thì sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo. Và bởi vì rõ ràng ba cõi cao là một dạng năng lượng cao hơn – một dạng năng lượng ít vật lý hơn và do đó cũng lỏng hơn dạng vật lý – cho nên sẽ rất hữu lý nếu con chấp nhận chúng dễ thay đổi hơn. Chúng linh hoạt hơn, mềm lỏng hơn, không cứng đặc như đá. Vả lại, ngay cả cái đặc như đá cũng không đặc như đá hoài hoài, và đó là tại sao nó có khả năng được thay đổi khi hình ảnh do ánh sáng rọi xuyên qua thay đổi.

Chuyện này nghe có vẻ như là hóa phép, nhưng không đâu con. Chẳng có phép lạ gì trong chuyện này. Nhưng trên thực tế, đó không phải là một lời dạy có thể được nắm bắt hay thực hiện bởi một người mới cất bước trên đường tu. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành nào đó. Nó đòi hỏi kinh nghiệm. Nhưng nhiều người trong số các con đã sẵn sàng để ít ra bắt đầu quán chiếu, trước hết bằng cách nhận ra là không có gì là không thể thay đổi. Và thêm vào đó, con cũng cần được cảnh báo là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau.

Điều này có nghĩa là nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời con, đó sẽ không chỉ là chuyện nhìn vào ba thể cao của mình. Chắc chắn con cần bắt đầu ở đó. Con cần bắt đầu thanh lọc năng lượng ở đó, chữa lành tâm lý của mình và vứt bỏ những cái ngã tách biệt. Nhưng ngay cả khi con đạt đến một mức tâm thức cao như Giê-su hay như chính thày đã đạt được, thì điều này không có nghĩa là con chỉ cần búng ngón tay là sẽ thay đổi được tuyệt đối bất kỳ hoàn cảnh vật lý nào. Bởi vì có những hoàn cảnh mà con không muốn thay đổi do chúng sẽ ép buộc quyền tự quyết của người khác. Và đó là tại sao các thày đã cho con tất cả những lời dạy kia về nhu cầu thanh lọc tâm thức cho sạch ngã tách biệt, hầu con không sử dụng hiểu biết này để đoạt một số ưu thế cho cá nhân mình, khiến con quên mất tổng thể rộng lớn hay thậm chí làm hại cả người khác.

Để áp dụng lời dạy này cho đúng đắn, con cần có phần nào cái mà các thày gọi là khả năng nhận biết Ki-tô, tính nhân bản cơ yếu, cảm nhận nối kết với mọi người, để con nhận ra là có những điều con sẽ không làm. Có những điều mà con sẽ không thay đổi, bởi vì người khác có quyền trình chiếu ra những chọn lựa mà họ đã chọn. Nói cách khác và để cho con một ví dụ hiển nhiên, nếu con có con cái thì con có thể muốn tránh cho con mình một số biến cố đau lòng. Nhưng nếu đứa con đã kết đọng [precipitate] biến cố đó qua chính tâm thức của nó thì nó sẽ cần trải nghiệm hậu quả để mà tăng triển. Nếu con tránh cho nó không bị đau lòng và do đó cản trở sự tăng triển của nó, thì đây không phải là một cách dùng giáo lý và hiểu biết cao lắm.

Trước khi con có thể thực sự dùng được lời dạy này, con sẽ cần đạt được một trình độ buông bỏ, lãnh đạm nào đó, một sự không dính mắc nào đó, và con đã bỏ được ý thức cá nhân trong cuộc sống.

Thày cũng biết những gì thày đưa ra ở đây chỉ là một thoáng hé mở về một giáo lý rộng lớn hơn nhiều. Nhưng vì con đã thực hiện những gì con đã thực hiện nơi đây, cho nên thày quyết định cho con thêm một chút quà đặc biệt mặc dù nó không nhất thiết nằm trong chương trình hội nghị này. Nhưng bây giờ thì lời dạy này đã được đặt vào cõi vật lý, và đối với những ai trong số các con đã sẵn sàng thì các con hãy suy ngẫm về lời dạy. Chắc chắn với thời gian, các thày sẽ còn ban ra nhiều lời dạy nữa khi thấy thời điểm cũng như cộng đồng đệ tử đã sẵn sàng.

45.5. Những người còn muốn đau khổ

Và như vậy, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, niêm các con ngồi đây lẫn các tham dự viên trên mạng internet. Thày niêm ánh sáng đã được rải truyền đến những quốc gia từng là thành viên của Liên bang Sô viết, để các quốc gia này bước lên cao hơn và để những ai sẵn sàng tự do tìm được tự do. Tất nhiên, có thể có một số người ở đâu đó vẫn muốn tiếp tục đau khổ, và bởi vì các thày tôn trọng quyền tự quyết cho nên các thày cũng sẽ tôn trọng quyền muốn đau khổ, quyền tự do đau khổ của mọi người. Nhưng chắc chắn con cũng thấy được, quyền tự do đau khổ không nằm trong Ngọn lửa Tự do của Saint Germain và do đó nó không đến từ các chân sư thăng thiên, nó không phải là một ngọn lửa tâm linh. Chính sự vắng mặt của Ngọn lửa mới tạo ra đau khổ.

Đau khổ không có thực chất. Ngọn lửa thì có thực chất – mặc dù không phải là một chất vật lý – vì đó là một ngọn lửa tâm linh. Nhưng đau khổ, oán giận, mọi loại hận thù, mọi loại năng lượng xuất phát từ sợ hãi đó, thực sự không có thực chất của một chất trường tồn.

Đó là tại sao những gì có vẻ mang chất vật lý có thể được thay đổi bởi một năng lượng cao hơn. Nó có thể được thay đổi chính vì mặc dù nó có vẻ có chất liệu, nó có vẻ là vật chất rắn đặc hay là năng lượng cảm xúc dày đặc, nhưng nó chỉ hiện ra như vậy khi được nhận thức qua phin lọc những cái ngã vỏ ngoài, qua tâm vỏ ngoài. Khi con nhìn vượt khỏi nó, con sẽ thấy là nó không hề có chất liệu liên tục. Nó chỉ là một ảo ảnh được trình chiếu lên màn hình. Và ở giữa các hình ảnh được trình chiếu thì màn hình vẫn trắng tinh. Và như con cũng biết trên một màn hình trắng tinh, bất cứ hình ảnh nào cũng có thể được trình chiếu. Khi con nhìn thấy màu trắng tinh ở giữa các hình ảnh, con biết là bất cứ lúc nào – hay đúng hơn ngay lúc sau đó – một hình ảnh mới có thể được trình chiếu.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là con có thể thay đổi toàn bộ hoàn cảnh trong một tích tắc – bởi vì một phần của giáo lý duyên khởi là có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng một tình huống có vẻ giản dị – nhưng bằng cách thay đổi các yếu tố này lần hồi, con có khả năng thay đổi hoàn cảnh một cách đáng kể.

Như con có thể thấy, thày hân hoan trao cho con lời dạy này đến độ gần như thày không thể ngừng nói. Nhưng bây giờ thày sẽ niêm hội nghị này trong tim vui mừng và thày trao cho con niềm vui đó. Niềm vui của thày tràn đầy. Và thày mong niềm vui của con cũng tràn đầy.

Gautama TA LÀ.

Khi vật chất và chính con không quan trọng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2019.

TA LÀ chân sư Saint Germain, và cho khai ngộ thứ bảy và cũng là cuối cùng tại khóa nhập thất của thày, thày muốn dẫn con theo một hướng hơi khác. Thày có nói trong một bài giảng trước là con cần đạt tới điểm khi “vật chất không còn quan trọng” [matter trong Anh ngữ có nghĩa là vật chất, và cũng có nghĩa là quan trọng]. Cho khai ngộ thứ bảy này, con cần đạt tới điểm khi chính con cũng không quan trọng.

16.1. Trọng lực

Bây giờ con hãy dõi nhìn con xem con phản ứng thế nào khi con nghe hay đọc câu này: “Con không quan trọng.” Phản ứng con cảm thấy trong bản thân mình là thế nào? Nó sẽ phần nào cho con thấy là con có một cái ngã muốn được quan trọng, một cái ngã có nhu cầu được quan trọng, thậm chí một nhu cầu ám ảnh-cưỡng chế là mình quan trọng, là mình đem lại sự khác biệt.

Các thày đã nói gì với con về mục đích của những khai ngộ mà con kinh qua giữa các tầng 48 và 96? Đó là để con vươn mình lên khỏi lực kéo của tâm thức tập thể. Con có thể so sánh lực này với trọng lực. Theo một nghĩa nào đó, tâm thức tập thể vận hành như một lực hấp dẫn tìm cách kéo mọi người xuống mức mà chúng ta có thể gọi là mẫu số chung thấp nhất – không nhất thiết là mức thấp nhất của tâm thức tập thể nhưng là mức trung bình. Chắc chắn trong tập thể cũng có những khác biệt – sẽ có người ở mức thấp hơn và người ở mức cao hơn – nhưng có một mức trung bình nào đó, và lực hấp dẫn của tâm thức tập thể sẽ tìm cách kéo mọi người xuống ít nhất mức trung bình đó.

Để vượt lên trên mức đó và cất bước trên đường tu tâm linh, con cần kéo mình ra khỏi trọng lực đó. Điều này đòi hỏi một sự quyết tâm nào đó, một sức mạnh ý chí, một động lượng và nhiệt tình nào đó. Chúng ta còn có thể nói là nó đòi hỏi một nỗ lực chiến đấu nào đó, mặc dù các vị Thượng sư khác đã cố giúp con nắm ý là con thoát khỏi cảm nhận chiến đấu, rằng con không còn cảm giác là con đang chiến đấu chống lại tâm thức tập thể.   

Làm thế nào con thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng? Chúng ta ở trên một hành tinh có tên là địa cầu nơi vật chất rất dày đặc, nơi tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ và khá thấp so với mức tâm thức của quả vị Ki-tô. Muốn thoát ra khỏi sẽ đòi hỏi một nỗ lực, một quyết tâm khá lớn. Bây giờ nếu con so sánh với nỗ lực để thoát khỏi trọng lực của trái đất, con sẽ thấy là nếu con dùng phương thức quen thuộc, con sẽ chế tạo một chiếc hỏa tiễn và động cơ của nó phải rất lớn. Nó phải đem theo thật nhiều nhiên liệu để khi đốt cháy, nhiên liệu sẽ đẩy hỏa tiễn ra khỏi vòng kềm toả của trọng lực địa cầu, bay vào quỹ đạo. Một khi tàu vũ trụ đã ở trên quỹ đạo, không còn lực hút nào sẽ kéo nó xuống mặt đất nữa. Nó quay quanh địa cầu trên một tầng quỹ đạo nhất định và nó có thể bay tiếp như vậy gần như vĩnh viễn. Nó không cần đến bất kỳ nỗ lực nào nữa.

Điều thày đang cố giúp con thực hiện với bảy tầng khai ngộ này ở khóa nhập thất của thày là dẫn con đến một điểm nơi con – nếu có thể nói như vậy – sẽ đi vào quỹ đạo, con sẽ thoát ra khỏi lực hút của tâm thức tập thể. Nhưng ngược với phi thuyền không gian, điều này không có nghĩa là thày muốn con ở lại mức đó vĩnh viễn. Thày không muốn con cứ bay vòng vòng ở mức tâm thức đó mãi mãi. Và tất nhiên thày muốn con tiếp tục tăng triển về hướng tầng 144.

Dù sao thì rất có thể sẽ tới điểm con lên được một quỹ đạo nào đó và giờ đây, ít ra là phần nào, ông hoàng của thế gian có thể đến và không tìm được gì nơi con để mà nắm lấy. Nói cách khác, nếu chúng ta gọi ông hoàng thế gian là tâm thức tập thể, thì tâm thức tập thể không tìm được gì nơi con để kéo con trở xuống. Điều này không có nghĩa là một ông hoàng thế gian khác, cụ thể là sa nhân, sẽ không nắm được gì nơi con. Chúng sẽ phần nào nắm được gì đó nơi con cho tới tầng 144, mặc dù tất nhiên, sẽ tới một thời điểm khi con bắt đầu nhìn xuyên thấu qua tất cả mọi mưu kế của chúng. Và do đó, nói một cách thiết thực, con không còn bị mắc lừa để cho chúng lôi kéo mình được nữa.

16.2. Đi vào quỹ đạo

Điều thày nói ở đây là có thể sẽ tới một điểm khi con đã vào quỹ đạo, con đã phóng mình lên cao hơn tâm thức tập thể đến độ con đi vào một quỹ đạo nơi con không có nguy cơ bị trượt trở xuống. Tất nhiên, đó là điểm mà thày muốn con đạt tới sau khi đã bước theo tất cả những tầng khai ngộ của toàn bộ khóa tu này về bảy tia sáng. Con sẽ cần gì để bay vào quỹ đạo và giải thoát khỏi lực hút của tâm thức tập thể? Nhìn vào chiếc hỏa tiễn, con cũng biết đó không chỉ là một chiếc hỏa tiễn rất lớn nằm trên mặt đất, mà nó còn có mấy tầng. Nó mang một động cơ cao áp rất lớn được hoạch định để đưa nó lên một độ cao nào đó, rồi nó làm gì chứ? Phải, nó tự tách ra khỏi động cơ đó, tách ra khỏi nguyên cái thân hỏa tiễn ở phía dưới và nó để cho phần này rơi trở lại mặt đất.

Con đã làm gì khi con vươn lên từ tầng 48 đến tầng 96? Con đã dùng một cỗ máy, một cỗ xe, và cỗ xe này là một cái ngã. Ngã được tạo thành bởi một số phàm linh nội tại, như các thày đã có đề cập trong khóa tu này. Thực sự nó là nhiều hơn một phàm linh nội tại và đó là tại sao thày ưa gọi đó là ngã, bởi vì ngã có thể có nhiều tầng lớp khác nhau. Một phàm linh nội tại có một chương trình hạn hẹp duy nhất, giống như một chương trình trong máy tính của con được thiết kế để thực hiện một công việc rất đặc thù, chẳng hạn như làm toán hay quản lý email. Đó là một phàm linh nội tại với một nhiệm vụ nhất định, một lập trình nhất định. Còn một cái ngã có thể phức tạp hơn, có nhiều thành phần, nhiều mức độ khác nhau, thậm chí nhiều phàm linh nội tại khác nhau hay nhiều ngã khác nhau.

Con đã chế tạo ra một cái ngã để dùng làm cỗ xe đưa con từ tầng 48 lên đến tầng 96. Một lần nữa, không có gì đáng trách ở đây, vì ai ai cũng đã đều phải làm vậy hầu vươn mình lên cao hơn tâm thức tập thể. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con muốn lên cao hơn tầng 96 và vượt qua cuộc khai ngộ then chốt ở tầng 96, cái ngã này phải ra đi. Con cần để nó rơi ra khỏi con, để nó rơi trở lại địa cầu. Làm thế nào con có thể làm được điều này?  

16.3. Cái ngã xem trọng vật chất

Con chỉ có thể làm được điều này bằng cách chấp nhận, bằng cách suy ngẫm về câu này của thày: “Tôi không quan trọng”. “Tôi” ở đây là cái “tôi” nào mà không quan trọng? Đó chính là cáí “tôi”, cái ngã đó mà con đã sử dụng làm cỗ xe để lên tới tầng 96. Ngã đó chủ yếu là một cái ngã phản ứng lại vật chất. Nó đã được tạo ra để phản ứng lại vật chất, hay đúng hơn trạng thái của vật chất được nhìn xuyên qua tâm thức tập thể.    

Thày đã rất cố gắng giúp con thấy được là có một sự khác biệt giữa cái mà khoa học gọi là thực tại khách quan và thực tại được nhận thức. Nói cách khác, có một cái có thể gọi là “thực tại khách quan” theo nghĩa đó là trạng thái của địa cầu do các Elohim sinh tạo. Xong có cái có thể gọi là “nhận thức chủ quan” của thực tại, tức là tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể có một cái nhìn đặc thù về vật chất. Chính tâm thức tập thể đã tạo ra độ dày đặc hiện thời của vật chất, và do đó tâm thức tập thể cũng không thể vượt qua độ dày đặc hiện thời của vật chất. Ngay cả Albert Einstein cũng từng nói: “Người ta không thể vượt qua một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.”

Làm thế nào con vượt qua được độ dày đặc hiện thời của vật chất? Chỉ bằng cách vươn lên một cái gì cao hơn, là tâm thức Ki-tô. Ở tầng tâm thức thứ 48, con có thể vươn lên cao hơn tầng này để đi lên một bước cao hơn. Đó chính là một yếu tố của tâm thức Ki-tô đưa con lên tầng 49. Con có thể cứ tiếp tục làm như vậy cho đến khi con đạt đến tầng 96. Con cần đến Ki-tô, cần đến tâm thức Ki-tô là cái biết toàn vũ. Con cần nó để đi lên từ tầng 48 tới tầng 96. Ở mỗi tầng như vậy, con nhận được một món quà của tâm thức Ki-tô toàn vũ hoặc từ tâm thức đã cá thể hóa qua một chân sư thăng thiên, qua chính cái ta Ki-tô của con, và vân vân.

Con không thể tự kéo con lên bằng cách kéo sợi dây giày ở chân con. Con không thể đi từ tầng 48 đến tầng 96 mà không nhận được điều gì đó từ Ki-tô. Vậy có nghĩa thế nào khi con đi lên cao hơn tầng 96? Đương nhiên con vẫn cần nhận được điều gì đó từ Ki-tô để lên được tầng 144. Cho mỗi tầng ở trên 96, con vẫn cần nhận được một món quà từ Ki-tô, nhưng bên trên tầng 96, con có tiềm năng xoay chuyển và chấp nhận rằng Ki-tô không phải là một lực ngoại lai đến với con từ ngoài. Ki-tô trở thành một lực nội tại đến với con từ bên trong. Có nghĩa là con trở thành một dụng cụ hữu hiệu hơn để Ki-tô tự biểu lộ và giúp được người khác. Con chuyển từ một cái nhìn từ ngoài về một đấng cứu thế ở ngoài mình, sang đấng Ki-tô nội tại, và con bắt đầu hiện thân đấng Ki-tô nội tại này ngày càng rõ rệt và trọn vẹn hơn khi con đến gần hơn với tầng 144.    

16.4. Cái ngã phản Ki-tô

Quan tâm của thày ở đây là làm thế nào cho con vượt qua được khai ngộ ở tầng 96, là khi con bắt đầu hiện thân được Ki-tô thay vì con xem Ki-tô là một lực ngoại lai. Con cần nhìn nhận ở đây là cái ngã mà con đã xây dựng để đưa con lên tầng 96 không có khả năng làm chuyện này. Nó không có khả năng xoay chuyển và nhìn Ki-tô như một lực nội tại, một thực tại bên trong. Nó sẽ luôn luôn nhìn Ki-tô là ngoại lai và cũng sẽ luôn luôn nhìn vật chất là ngoại lai. Nó sẽ luôn luôn nhìn mọi người khác là ngoại lai và nó cũng sẽ nhìn lực hấp dẫn của tâm thức tập thể như một lực ngoại lai đang cưỡng chống lại nó.

Con có thể nói là cái ngã mà con đã xây dựng được đặt trên nền tảng sự cưỡng chống. Nó dựa trên việc chiến đấu chống lại một đối phương, chiến đấu chống lại một cái gì kháng cự bước tiến của con. Đó là tại sao thày có nói tới việc con đạt tới điểm con hàng phục thay vì con cố ép mình cứ bước tới, và con mở tâm ra để tiếp nhận. Con mở tâm ra và để yên cho mọi sự trải bày, ngay cả khi con không thấy được rõ ràng bằng tâm ý thức vỏ ngoài của con.     

Có những đệ tử tâm linh, cho dù là theo giáo lý của chân sư thăng thiên hay những giáo lý khác, đạt đến tầng 96 nhưng vẫn chưa hiểu được những gì mà thày cùng các Thượng sư khác đã chuẩn bị cho con hiểu. Họ không nắm được những điều mà các thày đã chuẩn bị cho con nắm. Họ đã không nắm bắt được nhu cầu để cho ngã này chết đi. Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả chúng ta đều cần đến một động lực để bước chân trên con đường tâm linh. Tất cả chúng ta đều cần nỗ lực vươn cao hơn tâm thức tập thể và chúng ta cần động cơ để thực hiện điều đó.

Khi con khởi sự ở tầng 48, con đã mang một số giấc mơ, một số mong mỏi, một số động lực để thúc đẩy con gia nhập khóa tu này. Khi con theo học khóa tu, động lực này của con đã phần nào thay đổi. Con vẫn còn một số yếu tố của cái có thể gọi là một động lực “phàm nhân”, một tham vọng, một ham muốn phàm phu muốn là một người đặc biệt với những quyền năng đặc biệt và khả năng làm được những điều mà không ai khác có thể làm được. Đối với mỗi người, mong muốn này có thể khoác vào rất nhiều hình dạng khác nhau.   

Ở đây con cần nỗ lực xét xem đâu là những yếu tố động lực của cái ngã vỏ ngoài này. Sau đó con cần sẵn lòng nhìn nhận một cách cởi mở rằng con đang mang động lực đó, vì nếu con không công khai nhìn nhận, con sẽ không thể để cho nó ra đi. Những người đã bị rớt cuộc khai ngộ ở tầng này là vì họ không sẵn sàng công nhận là họ có mang một yếu tố nào đó của động lực phàm phu này. Có thể là họ kiêu hãnh chăng? Có thể là họ mong muốn cảm thấy mình tốt đẹp hơn người khác. Có thể là họ mong muốn có khả năng thị hiện một điều gì thần diệu giống như Giê-su để không ai có thể bác bỏ họ, hay có thể bất cứ gì khác.

Nhưng cái đó luôn luôn xoay quanh ngã vỏ ngoài đó, cái ngã muốn nhận được một phần thưởng nào đó cho tất cả những phấn đấu mà nó cho là nó đã trải qua để phóng con lên tới tầng 96. Con có bắt đầu thấy điều thày đang nói ở đây chăng? Ngã này đã là cỗ xe của con đưa con đến tầng 96. Trong cương vị đó, nó đã phục vụ cho một mục tiêu chính đáng, nhưng ngã này đi con đường riêng của nó. Tự thân nó được xây dựng với một động lực. Con có nhớ bức tranh quen thuộc của củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi con lừa đang kéo xe hay không? Con lừa tưởng là một ngày kia nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Trên cơ bản, đó cũng chính là tình trạng của cái ngã vỏ ngoài này. Nó đã kéo chiếc xe của con, cái xe bò hay xe ngựa của con, từ tầng 48 đến tầng 96. Nó tưởng là một ngày nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Nó sẽ bắt được củ cà rốt và cắn lấy phần thưởng.  

16.5. Cái ngã muốn phần thưởng

Điều con cần nắm bắt ở mức này, ở tầng khai ngộ thứ bảy tại khoá nhập thất của thày, là ngã vỏ ngoài sẽ không bao giờ nhận được phần thưởng nếu con tiếp tục tiến bước trên con đường quả vị Ki-tô. Không có phần thưởng nào cho ngã vỏ ngoài, chưa từng bao giờ có và cũng sẽ không bao giờ có. Suốt thời gian qua, con người đã tạo dựng biết bao hình ảnh mộng mơ vẽ vời chuyện đoạt giải thưởng. Các thày đã từng thấy những đệ tử của chân sư thăng thiên nghĩ rằng, chẳng hạn, một khi họ đạt được một trình độ nào đó thì một số chân sư sẽ bỗng nhiên xuất hiện ra trước mắt họ, dẫn họ đi tham dự một buổi lễ điểm đạo mãn khóa, rồi từ đó họ sẽ được ban cho đủ loại phúc lợi mà họ đã ao ước.

Chuyện đó sẽ không xảy ra. Chừng nào con còn mang tham vọng đó, các thày sẽ không thể tiếp cận với con, vì làm vậy sẽ chỉ củng cố cho ngã vỏ ngoài. Chừng nào con còn muốn được các thày công nhận, các thày bắt buộc sẽ phải lánh xa con vì đó là cơ hội duy nhất để các thày giúp con tránh bị mắc bẫy trong ngã vỏ ngoài. Như thày có nói, có những đệ tử đến được tầng này mà vẫn bị thôi thúc bởi lòng ham muốn phần thưởng. Họ đã quá dính mắc với lòng ham muốn phần thưởng này đến độ họ không thể buông ngã vỏ ngoài ra. Vậy họ làm gì sau đó? Họ bắt đầu sử dụng các quyền năng của tâm mà họ đã vun bồi cho đến tầng 96 để cố tặng cho mình phần thưởng đó, ngay đây trên địa cầu.  

Con sẽ thấy ngay cả Giê-su cũng từng nói đến vấn đề nhận phần thưởng trên địa cầu hay ở thiên đường – và quả thực là con có thể! Trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền vươn lên tầng 96 với mong muốn nhận được phần thưởng nào đó. Nhưng tới đó thì con phải quyết định: “Giờ đây, liệu tôi có muốn đi lên tiếp để tìm kiếm một phần thưởng cao hơn (là thăng thiên), hay là tôi muốn phần thưởng mà mình đã định bụng sẽ nhận được khi mình đang leo lên tầng 96?” Nếu con muốn phần thưởng mà con đã định bụng trong tâm vỏ ngoài, trong ngã phàm phu, thì con có thể sử dụng các khả năng của con để tìm cầu nó ở đây trên địa cầu. Con đã trông thấy những người làm chuyện đó. Họ đã đạt đến tầng 96 và giờ đây họ cố trở thành một loại đạo sư hay lãnh đạo. Họ cố quy tụ môn đồ cho thật đông đảo để họ được nể trọng và cảm thấy mình sao quá đặc biệt, và môn đồ thì sẽ nhắm mắt theo họ trong bất kỳ cuộc phiêu lưu nào.     

Một lần nữa, chuyện đó không nhất thiết là cấm kỵ trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, nhưng chắc chắn đó không phải là quả vị Ki-tô. Thày mong muốn những ai trong số các con hãy sẵn lòng bước lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Con sẽ cần gì để làm được chuyện đó? Tất nhiên, con sẽ cần xem xét ngã vỏ ngoài đó một cách trung thực cùng củ cà rốt mà nó đã dùng để kéo cỗ xe bốn thể phàm của con lên đến tầng 96 – rồi sau đó con buông nó ra. Con nhận ra đó không phải là động lực cao nhất. Thậm chí đó cũng không phải là phần thưởng cao nhất mà con có thể nhận được, và con tìm ra cách để cho nó ra đi.     

16.6. Chuyện đó không nhắm vào con

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã kinh qua khai ngộ này. Suốt thời gian mấy năm trời, cho dù ông có sống qua sự cố gì hay gặp phải tình huống gì, ông cũng dùng phương châm: “Chuyện này không nhắm vào tôi. Chuyện này thật không nhắm vào tôi!” (It is not about me!) Kết quả là ông đã lần hồi tách mình ra khỏi ngã phàm phu cho tới khi nó không còn lực kéo nào đối với ông nữa. Ông đạt tới điểm không làm theo động lực của ngã vỏ ngoài nữa. Nó không còn quan trọng gì nữa. Đơn giản là ngã vỏ ngoài không quan trọng gì nữa. Tất nhiên con sẽ có thể nói: “Liệu điều thày vừa dạy con có đủ để con khắc phục ngã vỏ ngoài hay không?” Không, không nhất thiết là vậy, nhưng hiển nhiên các thày không có ý bỏ con ở đó. Cho dù bài giảng này sẽ kết thúc khóa tu, các thày đã ban ra trong hai năm qua những giáo lý mà con có thể bắt đầu sử dụng ngay sau khi hoàn tất khóa này. Những giáo lý đó khởi đầu với quyển “Những cuộc đời của tôi” và tiếp tục với những quyển khác sẽ đào sâu hơn về những đề tài như ngã gốc cũng như tiến trình mà con – trong tư cách một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu – đã tu bồi một cái ngã phản ứng lại sa nhân.

Tất nhiên, phương thức thực sự để vượt qua ngã vỏ ngoài là nhìn vào cái ngã gốc đó và ngừng phản ứng, ngừng phản ứng lại sa nhân, ngừng phản ứng lại hầu hết mọi người khác hay các điều kiện của vật chất. Con không phản ứng lại tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó. Con bước tới điểm mình tự do, mình thoát ra khỏi các khuôn nếp phản ứng đó, để đời mình không biến thành một trận đấu bóng bàn bất tận nơi có người đánh trái banh cho con và con cảm thấy mình buộc phải đánh banh trở lại do mình cảm thấy mình phải phản ứng.

Con yêu dấu, ngã, cái ngã vỏ ngoài mà con đã dùng từ tầng 48 đến 96, vận hành theo cùng phương cách như ngã gốc. Thật ra, ngã gốc là một thành phần của ngã vỏ ngoài. Những ngã này luôn luôn có một vấn đề gì đó với những gì chúng thấy trên địa cầu, một vấn đề cần phải giải quyết theo cách nhìn của chúng. Làm thế nào vấn đề đó sẽ được giải quyết đây? Phải, ngã phóng chiếu lên con ý tưởng là con phải làm gì đó để giải quyết vấn đề. Nó cũng phóng chiếu ý tưởng là vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi người khác thay đổi. Nói cách khác, con liên tục nằm trong cái thế bị kéo-đẩy vì con cảm thấy mình phải làm gì đó để thay đổi người khác.    

Đương nhiên là người khác đâu có sẵn sàng thay đổi, cho nên con cũng cảm thấy là mình không bao giờ có thể hoàn thành được mục tiêu của mình. Con bất lực, con không thể hoàn thành mục tiêu vì con luôn luôn chờ cho người khác hoặc điều kiện vỏ ngoài nào khác thay đổi. Đây chính là cốt lõi của tình trạng mà cái ngã phản động này, hay tập đoàn những cái ngã này, đặt con vào. Nó đặt con vào một vị thế chờ đợi nơi con luôn luôn phải chờ một điều gì đó. Đi lên cao hơn tầng 96 có nghĩa là con bắt đầu buông xả toàn bộ ngã phản động đó, buông xả mọi ngã phản động. Con bắt đầu để cho chúng ra đi hầu con không phản ứng lại bất cứ gì trên địa cầu. Con không chờ đợi một điều gì mà ngược lại con xem xét: “Ngay bây giờ tôi có thể làm gì, tôi có thể làm gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của tôi để tự cải thiện, để vươn lên một mức tâm thức cao hơn?”  

16.7. Con không thể chờ quả vị Ki-tô

Không phải là chuyện các điều kiện vỏ ngoài hay người khác sẽ làm điều gì đó. Chừng nào con còn bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng hạnh phúc của mình, hay tâm an tịnh của mình, hay sự phát triển tâm linh của mình, hay sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình, tùy thuộc vào một số điều kiện vỏ ngoài hay vào người khác, thì con sẽ không là Ki-tô trong hành động. Con không thể biểu đạt bất cứ gì. Con sẽ ngồi chờ và con sẽ nghĩ: “Khi nào điều kiện này hay điều kiện kia được hội đủ thì tôi mới có thể biểu lộ quả vị Ki-tô của tôi.” 

Như thày đã có nói (và các thày đã nói rất nhiều lần), không hề có điều kiện lý tưởng nào để biểu lộ quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng. Theo một nghĩa nào đó, bất kỳ điều kiện nào con đối mặt cũng là điều kiện lý tưởng để con thách thức hiện trạng và biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu làm như vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp, con sẽ tuần tự xây dựng được một động lượng, và rồi các điều kiện sẽ thay đổi. Các điều kiện sẽ không thay đổi cho tới khi con bắt đầu sử dụng những điều kiện mà con có và chấp nhận chúng là cơ hội toàn hảo để con biểu đạt quả vị Ki-tô. Con bắt đầu ngay ở chỗ con đang đứng, con tận dụng nó, con thăng vượt nó, con biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là cách con bước lên được bước kế tiếp.   

Rồi khi con bước lên bước kế tiếp, và cứ thế bước này sau bước khác, sẽ tới một điểm khi con có thể nhìn lại và bảo rằng mình đã thực sự đi được một quãng đường khá dài. Con đã đi được khoảng đó bằng cách đi từng bước nhỏ một, và luôn luôn làm việc với tình huống mà con được đặt vào. Ngược lại, những ai mà nghĩ rằng một khi mình đi một bước thật dài thì mình sẽ có thể là Ki-tô, thì quả thực họ sẽ không bao giờ tới được điểm đó.  

Các thày đã có kể chuyện về nhà hiền triết cổ Hy Lạp tên là Zeno, ông đưa ra nghịch lý về cách làm thế nào con có thể đi từ một điểm A tới điểm B. Trước tiên con phải tới được điểm ở giữa A và B cái đã. Xong con chia đoạn đường còn lại làm hai và con phải tới được điểm ở giữa đó, rồi cứ thế con tiếp tục chia đoạn đường còn lại ra làm hai và con luôn luôn phải tới được điểm giữa. Có nghĩa là con sẽ không bao giờ tới đích – đây chính là tâm thức phàm phu. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí con còn không nói được: “Tôi sẽ đi tới điểm giữa”, mà con nhìn vào ngọn núi và nói: “Khi ngọn núi đến với tôi thì tôi sẽ là Ki-tô.” Chuyện đó sẽ không xảy ra trên một hành tinh như địa cầu. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, chuyện đó cũng sẽ không xảy ra, nhưng trên một hành tinh tự nhiên người ta không chờ đợi chuyện đó xảy ra.

16.8. Hiểu sai tầng 96

Có một khoảng cách ở đây (Chân sư MORE đã có giảng về khoảng cách này cũng như về việc khắc phục khoảng cách trong những cuốn sách thày có nêu lên ở trên). Khoảng cách là đối với các con đã đạt đến tầng 96, con đã nối kết lại với nhận biết trực giác là có một cõi tốt đẹp hơn. Nếu con là một avatar, con biết cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu, con cảm nhận được cuộc sống trên địa cầu trước khi sa nhân đến đây. Con biết có một điều kiện lý tưởng và con cũng biết hiện trạng địa cầu khác xa với điều kiện lý tưởng đó. Nếu con cho phép ngã vỏ ngoài dùng chuyện đó để bảo rằng con sẽ có thể là Ki-tô trên địa cầu khi nào địa cầu hoàn thành điều kiện lý tưởng, thì con yêu dấu, con đã hiểu sai hoàn toàn – con hoàn toàn hiểu sai rồi con. Mặc dù chuyện này có thể làm con kinh ngạc, nhưng con có thể lên đến tầng 96 mà vẫn hoàn toàn hiểu sai vì con vẫn quá đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài đã đưa con tới điểm này. Con không sẵn lòng buông bỏ ý niệm về phần thưởng mà con nghĩ mình phải nhận được. Một lần nữa, không có phần thưởng đâu con! Cho dù ngã vỏ ngoài có tưởng tượng phần thưởng gì đi nữa khi con leo đến tầng 96, đó hoàn toàn là chuyện giả tưởng. Nó không có chút thực tế nào hết.

Liệu chuyện đó là sai trái? Không! Liệu chuyện đó là vô ích. Cũng không! Nó không vô ich nếu nó đã cho con động lực để con leo tiếp. Con yêu dấu, nếu con chịu quay trở lại và đọc lại những sách đó, học lại những sách đó, con sẽ thấy là từ Chân sư MORE trở đi, tất cả các thày đã cố giúp con khởi sự tháo gỡ tình trạng đồng hóa với ngã vỏ ngoài đó – không tới độ là con bỗng chốc mất hết mọi liên hệ với nó, vì nếu vậy thì con đã không còn cỗ xe để chở con đi. Các thày đã nỗ lực giúp con từ từ ngưng đồng hóa với nó, khắc phục những ham muốn cùng mơ tưởng của ngã vỏ ngoài. Có một điều duy nhất mà các thày không thể giúp con khắc phục ở các tầng thấp hơn, đó là cốt lõi của động lực đã khiến con cất bước trên đường tu. Con thấy không, đâu là cốt lõi của động lực đó, con yêu dấu? Ngã vỏ ngoài là gì chứ? Đó là cái ngã phản ứng, nó phản ứng lại một điều gì đó trên địa cầu. Ngã vỏ ngoài tưởng tượng là khi nào con đạt đến tầng 96 và nhận được phần thưởng của mình, phần thưởng đó sẽ cho con một sự công nhận nào đó trên địa cầu, vì đó là loại phần thưởng duy nhất mà ngã vỏ ngoài có thể tưởng tượng được.

16.9. Cốt lõi của ngã vỏ ngoài

Cốt lõi của ngã vỏ ngoài này là nó mong muốn được người ta công nhận một cách nào đó, hay được một địa vị nào đó (tựu trung cũng là cùng một thứ) trên địa cầu, nghĩa là được công nhận bởi người khác, bởi các định chế trong xã hội hoặc bất cứ gì khác. Đó là cốt lõi của ngã vỏ ngoài này. Nó muốn một phần thưởng trên trái đất. Thày không thể làm chọn lựa đó dùm con, thày không thể vượt qua khai ngộ này dùm con. Đó là tại sao thày phải kết thúc khóa học này, không chỉ phần của thày mà phần của tất cả các Thượng sư khác nữa. Thày phải chấm dứt khóa tu này và bỏ con lại nơi một ngã ba đường. Thày đã đặt con trước sống và chết. Các thày đã đặt con trước sống và chết.

Giờ đây con đứng ở ngã ba đường. Nếu con chọn ngã rẽ nơi con sẽ tiếp tục tìm cầu một phần thưởng trên địa cầu, thì nỗ lực của các thày để đưa con vào con đường quả vị Ki-tô đã thất bại. Đây là rủi ro mà các thày đã biết rõ và sẵn sàng chấp nhận. Đường tu không máy móc tự động. Các thày không thể đảm bảo một kết quả nào. Các thày là chân sư thăng thiên và sẽ không ảnh hưởng đến tâm con hay quyền tự quyết của con.    

Nhưng nếu ở ngã ba này, con lấy ngã rẽ kia, con sẽ tự đặt mình trên con đường quả vị Ki-tô. Khi đó, con sẽ có thể sử dụng các dụng cụ và giáo lý mà các thày đã ban ra, và qua sứ giả này các thày đã ban ra rất nhiều giáo lý về con đường quả vị Ki-tô. Tất nhiên là ở ngoài kia cũng có những giáo lý khác mà con có thể dùng nếu con muốn. Rồi con có thể từ từ bắt đầu leo cao hơn. Một lần nữa, thày không bảo là sẽ có một điểm khi đùng một cái, ngã vỏ ngoài của con thình lình biến mất toàn bộ. Một lần nữa, con sẽ khắc phục từng bước một. Như các thày đã có giảng, có thể nói là ở một mức độ nào đó, con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con cho tới khi con thăng thiên. Con có thể gọi con đường từ tầng 96 tới tầng 144 là con đường khắc phục ngã vỏ ngoài này từng bước một.

16.10. Từ bỏ phần thưởng

Dù sao đi nữa, điều thày nói với con là có thể sẽ tới một điểm khi, với tâm vỏ ngoài, con làm hòa với sự kiện là bước chân trên đường tu tâm linh sẽ không bao giờ có phần thưởng nào trên địa cầu. Phần thưởng duy nhất của đường tu tâm linh là khi con thăng thiên, có nghĩa là phần thưởng của con nằm trên thiên đường khi con bước vào tâm thức thăng thiên. Thày có thể cam đoan với con là một khi con ở trong tâm thức thăng thiên và chiêm nghiệm sự khác biệt, sự tương phản giữa hai trạng thái thăng thiên với chưa thăng thiên, đó sẽ là phần thưởng tối hậu. Nhưng tất nhiên, có lẽ câu này mang rất ít ý nghĩa đối với con nếu con vẫn còn đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài bị ám ảnh bởi ham muốn một phần thưởng trên địa cầu.  

Một lần nữa, điều quan trọng là bản thân con hay cái gì khác? Nếu điều quan trọng là bản thân con, con sẽ lấy ngã rẽ bên kia và đi tìm một địa vị hay lòng nể trọng nào đó trên địa cầu. Nếu con lấy ngã rẽ bên này, con sẽ buông bỏ ham muốn được người khác công nhận trên địa cầu. Không có nghĩa là người ta sẽ không công nhận con nhưng con không ham được công nhận, con không muốn được công nhận. Con không giữ trong tâm ý tưởng rằng một ngày kia chuyện đó phải xảy ra. Con cho nó đi, con để cho ngã đó chết đi. Ngã luôn luôn phóng chiếu ra một vấn đề – trong trường hợp này là vấn đề được công nhận, rằng con cần được người khác công nhận thế nào đó. À, được công nhận trên địa cầu nghĩa là gì chứ? Nghĩa là người khác phải để ý con và xem con là đặc biệt. Một cách nào đó, họ phải ghi nhận là con đặc biệt.

Đấy, nó có nghĩa là họ phải thay đổi, có đúng không con? Họ phải dùng quyền tự quyết của họ để công nhận con. Chuyện này vượt ra ngoài quyền tự quyết của con. Con không thể chọn lựa là người khác phải chọn lựa công nhận con. Con không thể thay đổi điều đó bằng ý chí tự do của con. Con có thể thay đổi bằng ý chí không tự do của con, tức bằng ý chí của ngã vỏ ngoài. Con có thể tìm cách ép buộc họ, và cho dù con có thể không gọi đó là cưỡng bức, con có thể cưỡng bức họ phải công nhận con. Đó không phải là ý chí tự do của con, vì khi đó con đang đi vào con đường tay trái, sử dụng ma thuật đen để ảnh hưởng lên tâm trí người khác. Con có thể làm vậy và đoạt được sự coi trọng của người khác.  

Nếu đó là mong muốn của con, thày chỉ có thể nói: “Con cứ đi theo con đường đó, rồi khi nào (trong kiếp này hay một kiếp tới) con đạt tới điểm con chán chê chuyện đó, con hãy trở về với thày và thày sẽ giúp con từ điểm đó trở đi” Nếu con đi theo con đường đó, không có một chân sư thăng thiên nào sẽ thực sự giúp được con. Con có thể nghĩ là các thày sẽ giúp được, nhưng sự giúp đỡ sẽ không đến từ các chân sư thăng thiên đích thực mà từ hàng ngũ giả trá của những kẻ giả danh là chân sư thăng thiên.

16.11. Chọn lựa giữa sống và chết

Con thấy đó, con yêu dấu, thày đã chỉ ra cho con một con đường tiến bước. Có những dụng cụ mà con có thể dùng, có sách mà con có thể đọc, nhưng cho dù chuyện này có thể khiến con kinh ngạc, thày phải bỏ con lại mà không cho con bất kỳ loại phần thưởng nào, bất kỳ kết quả chung cuộc nào. Thày không bỏ con lại trong một trạng thái đặc biệt nơi con đã vượt qua cuộc khai ngộ. Thày bỏ con lại ở đây là điểm con đã nhận thức được cuộc khai ngộ mà con đối mặt.

Như thày đã nói, thày không thể chọn lựa dùm con, và ngay cả nếu thày có thể thì thày cũng sẽ không làm, bởi vì tất nhiên nó sẽ không giúp cho con tăng triển. Con tăng triển bằng cách chọn lựa từ trong nội tâm mình, vì con đã tới điểm rốt ráo nơi con không chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài nữa. Thày cũng biết có nhiều đệ tử đến được điểm này sẽ phản ứng như thế này: “Tôi đang chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài để bước đi trên con đường quả vị Ki-tô. Tôi sẽ lấy tất cả những sách này, tôi sẽ học sách, tôi sẽ đọc bài thỉnh và tôi sẽ đạt tới đích.” Con thấy đó, con yêu dấu, con thực sự không thể bước trên đường quả vị Ki-tô qua tâm vỏ ngoài. Giữa tầng 48 và 96 thì con còn có thể bước trên đường tu qua tâm vỏ ngoài – đó là điều thày đã nói với con. Nhưng con không thể lên cao hơn tầng 96 với tâm vỏ ngoài. Tất nhiên, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài để bước vào con đường quả vị Ki-tô và con nghĩ là mình đang bước vào đường tu, nhưng quyết định đặt mình vào đường tu phải đến từ bên trong. Đó không phải là một quyết định duy ý chí mà là một quyết định tự phát, nội tâm. Con không cưỡng ép quyết định đó. Con không thể bắt nó xảy ra. Con chỉ có thể để yên cho nó xảy ra bằng cách sử dụng các dụng cụ nhằm hóa giải ngã gốc cùng những loại ngã khác đang kéo con ra khỏi quyết định và lôi con vào chuyện giải quyết một vấn đề nào đó.  

Theo một nghĩa nào đó, ta cũng có thể hỏi: “Cho tới giờ, con đã nhìn con đường tâm linh như thế nào?” Cái ngã đã đưa con từ tầng 48 lên tầng 96 đã nhìn con đường tâm linh một cách rất đặc thù: “Đường tu tâm linh là một bài toán mà tôi cần phải giải. Có một cuộc khai ngộ, và để vượt qua khai ngộ, tôi phải nhận biết một điều gì đó, phải nhìn ra một điều gì đó, phải hiểu ra một điều gì đó. Có một vấn đề mà tôi cần giải quyết.” Nói như vậy là chính đáng giữa tầng 48 và 96, nhưng cao hơn tầng 96, nó không còn chính đáng nữa. Ngay cả chuyện đưa con lên tầng 97, nó cũng sẽ không làm được.  

16.12. Từ bỏ ngã chuyên giải quyết các vấn đề

Con cần xoay chuyển toàn bộ cái nhìn của con về đường tu và nhận ra đó không phải là chuyện giải quyết một vấn đề, mà là chuyện ngừng hẳn và không cố giải quyết các vấn đề. Đó là chuyện để yên cho nó trải bày ra. Tại sao vậy? Các thày đã nói gì? Vấn đề to lớn trên địa cầu là tâm thức tách biệt mà sa nhân đã tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Con mang ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt, ai ai cũng là sinh thể tách biệt, ai ai cũng chỉ lo cho mình, xem mình là số một và cố vơ tối đa về phần mình.

Trên căn bản, tâm thức tập thể hiện đang ở mức này, mặc dù tại một số quốc gia chắc chắn đã có phát triển được một ý thức phổ thông nhân bản hơn. Nhưng dù sao thì sự tách biệt vẫn đang hiện hữu. Có một tâm thức tập thể nơi ai nấy đều xem mình là những cá nhân tách biệt, nhiều khi lại còn tranh chấp, giao chiến với nhau. Ai nấy cũng xem mình thuộc vào một đoàn nhóm nào đó, và nếu con thuộc nhóm nào thì con phải tuân theo nhóm đó. Nếu con thuộc một nhóm, con sẽ phải thù ghét những ai thuộc những nhóm khác, và vân vân.    

Để gỡ mình ra khỏi toàn bộ tình trạng tranh đấu đó, con phải làm gì đây? Hiển nhiên con phải xem mình đứng tách khỏi những người trong nhóm nơi mình đã sinh trưởng, thậm chí tách cả đối với mọi người trong tâm thức tập thể. Để đi từ tầng 48 lên tầng 96, con làm gì chứ? Con xây dựng một cái ngã xem mình tách riêng khỏi mọi người trong tâm thức tập thể. Đó là điều tự nhiên. Một lần nữa, không có gì chê trách ở đây, vì đó chỉ là điều mà con phải làm, nhưng con sẽ không vượt lên cao hơn tầng 96 được nếu con sử dụng cái ngã này, vì con đường quả vị Ki-tô là gì chứ?   

Con đường quả vị Ki-tô là khắc phục ảo tưởng tách biệt và nhìn ra là đằng sau mọi hiện tượng trên trái đất (tức là mọi thứ vật chất, mọi tâm thức, tâm thức nhị nguyên, tâm thức tách biệt) có một thực tại hợp nhất nằm bên dưới, là sự duy nhất của mọi sự sống. Mọi sự sống là một, và không hề có tách biệt nào. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là để lên đến tầng 96, con phải xây dựng một cái ngã cá nhân thật dũng mãnh. Nhưng để đạt tới trạng thái thăng thiên, con phải đập vỡ ngã đó. Từng bước một từ tầng 48 đến tầng 96, con đã vun bồi một cái ngã, xong con cần chuyển hướng. Giờ đây, từng bước một, từ tầng 97 đến 144, con đang gỡ bỏ ngã đó đi. Con gỡ bỏ cái ngã tự xem mình là tách biệt. Khi nào con tới chỗ để cho yếu tố cuối cùng của ngã đó ra đi, thì đó là lúc con bước vào trạng thái hợp nhất là thăng thiên.   

Giờ đây, con đã làm tất cả những gì con muốn làm trong cương vị một ngã tách biệt trong một bầu cõi chưa thăng thiên, không chỉ trên địa cầu mà nói chung trong bầu chưa thăng thiên. Con đã làm tất cả những gì con muốn làm như một sinh thể tách biệt. Con có thể để cho yếu tố cuối cùng đó của ngã vỏ ngoài ra đi và con thăng thiên. Tất nhiên ở tầng 96 con chưa tới mức đó, nhưng con đã tới mức con có thể bắt đầu nhận ra đây là công việc mình cần làm. Con cần gỡ bỏ từng bước một ngã tách biệt đó. Và khi con làm vậy, phần thưởng là con sẽ cảm nhận được sự duy nhất ngày càng lớn hơn và lớn hơn nữa trong con.

Lúc đầu, việc này có thể hơi khó khăn một chút. Con sẽ cảm thấy hợp nhất với gì chứ? Đương nhiên, không phải với tất cả những người mà con vừa nỗ lực hết mình để tháo gỡ ra khỏi. Cũng không phải với sa nhân. Thày xin gợi ý – một lần nữa, đây là điều mà các thày đã ban cho con giáo lý cùng dụng cụ để con thực hiện – là con bắt đầu chú tâm vào việc tìm kiếm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con ở bên trong chính con.

Rồi nếu điều này dễ dàng hơn cho con, con hãy chú tâm vào việc tìm kiếm hợp nhất với một vị chân sư thăng thiên đặc biệt nào đó. Vị đó không cần phải là thày, mà bất cứ vị nào con cảm thấy gần gũi nhất trong tim con. Xong khi con bước lên cao hơn, con có thể cảm thấy hợp nhất với những người tâm linh khác, mặc dù có thể con sẽ khó lòng tìm được những người tâm linh ở mức tâm thức đó. Con có thể tìm thấy một số và con có thể khởi sự vun bồi một cảm nhận kết hợp với các vị ấy.

Con hãy cẩn thận ở đây, vì như các thày đã chứng kiến trong biết bao phong trào tâm linh, con không thể để nảy lên ý tưởng tự cao tự đại: “Ô chúng ta là những đệ tử cao cấp nhất trên hành tinh, cho nên chúng ta tốt đẹp hơn người khác.” Đây không phải là quả vị Ki-tô, cũng không phải là hợp nhất. Các con có thể vun bồi sự hợp nhất với nhau nhưng không bằng cách mình là người cao siêu hơn mọi người. Rồi khi con bước lên cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ bắt đầu vun bồi thực sự cảm nhận hợp nhất này với mọi sự sống. Một lần nữa, con có thể nói là con đang đứng riêng ra khỏi tâm thức tập thể khi con lên đến tầng 96, nhưng khi con đến gần hơn tầng 144, con không hề bị lôi kéo nữa, con không có nguy cơ bị lôi kéo vào tâm thức tập thể nữa, và do đó con có thể bắt đầu cảm thấy mình hợp nhất với mọi người, mọi sự sống.

Thày có thể giảng thêm nhiều nữa cho tới bất tận, nhưng các thày đã trao cho con đủ lời dạy trong những cuốn sách khác. Cho nên một lần nữa, thày cần bỏ con lại ở đây, không với một cảm giác chung cuộc, một cảm giác là con đã vượt xong cuộc khai ngộ chót trong khóa tu này, mà con đang đối mặt với cuộc khai ngộ chót trong khóa tu. Thày đã đặt con trước sống và chết – con hãy chọn sự sống!

Vượt qua những điều lấy mất an bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và ở tầng khai ngộ thứ sáu của khóa nhập thất của thày, dĩ nhiên chúng ta giáp mặt chủ yếu với Tia thứ Sáu của An bình. Con cần gì để an bình ở mức tâm thức của con trên một hành tinh như địa cầu? Câu hỏi thật ra nên được đặt lại như sau: “Đâu là ‘con’ mang tiềm năng an bình đó trên địa cầu?”

14.1. Làm hòa với sự kiện mình có một ngã vỏ ngoài

Suốt khóa tu này, các thày đã cho con thấy rõ là con có một ngã vỏ ngoài, và con cũng có cái các thày đã gọi là cái Ta Biết – mà các thày cũng có thể gọi là cái ta bên trong, hay cái ta thuần khiết. Các thày đã nói rõ là khi con khởi sự khóa tu này ở tầng 48, con đồng hóa khá chặt chẽ với ngã vỏ ngoài, cái Ta Biết khá đồng hóa với ngã vỏ ngoài. Con không hoàn toàn đồng hóa với nó, bởi vì nếu thế thì con đã không khởi sự được khóa tu này. Các thày cũng đã nói rõ là mục đích chính của khóa tu là làm giảm dần cảm nhận đồng hóa của cái Ta Biết với ngã vỏ ngoài. Bây giờ đến tầng này, chúng ta tới điểm hoàn tất vòng tròn, qua đó con sẵn sàng xoay chuyển trong thái độ của con, trong cách con nhìn bản thân mình, và đi một bước thật quan trọng trong tiến trình tiêu trừ sự đồng hóa.

Các thày đã chỉ rõ là khi con bước xuống hiện thân trên trái đất, con đã khoác vào tất cả những ảo tưởng tương ứng với 144 tầng tâm thức. Mặc dù khóa tu này nhằm dẫn con đến tầng 96, con vẫn còn một số ảo tưởng mà con chưa lột bỏ ở tầng này – và cũng không trù định là con lột bỏ. Điều này có nghĩa là chừng nào con còn đầu thai trên trái đất, con sẽ còn mang một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con. Khi con bước lên gần hơn với tầng 144, chính những yếu tố này của ngã vỏ ngoài là cái giữ con lại trong hiện thân. Chúng buộc con lại với xác thân vật lý, bởi vì nếu không thì con đã không thể ở lại trong xác thân vật lý đó và sẽ bước ra ngoài, đến độ con có thể rút đi cả sinh lực. Thậm chí con có thể rút sinh lực quá sớm trước khi con thật sự sẵn sàng thăng thiên, và điều này có nghĩa là con sẽ phải đầu thai một lần nữa. Do đó ở trên một tầng cấp nào đó, cái ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại chính là một cơ chế an toàn.

Tất nhiên con nhận ra là dưới tầng 48 – nơi con người bị hoàn toàn đồng hóa với ngã vỏ ngoài – ngã vỏ ngoài không giúp gì hết cho sự phát triển tâm linh của con. Điều con làm giữa tầng 48 và 96 là con khởi sự tiến trình tháo gỡ cảm nhận đồng hóa đó với ngã vỏ ngoài, nghĩa là con không bị tâm thức tập thể lôi kéo xuống. Con không bị trôi theo những dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng. Có thể nói là con đang tu bồi một cá thể sẽ giúp con tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Con không làm những chuyện mà mọi người đều làm. Khi con vượt lên trên tầng 48, tới một điểm ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại sẽ không thực sự cản trở sự phát triển tâm linh của con. Điều này xảy ra khi con đạt tới điểm con làm hòa với những gì thày vừa nói với con. Con làm hòa với sự kiện là chừng nào con còn ở lại trong hiện thân thì con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài.

14.2. Từ bỏ giấc mơ đạt một mức tối hậu

Điều này có nghĩa là con sẽ phải từ bỏ một giấc mơ mà nhiều người tâm linh vẫn có. Thậm chí đây là một giấc mơ nằm sâu trong tâm thức tập thể và giấc mơ này có thể trình chiếu ra nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, con thấy trong nhiều trò chơi nhi đồng có một khu vực được quy định là vùng đất nhà, là căn cứ an toàn. Nếu em nào chạy vào được vùng đất đó, em không thể bị đội kia bắt được, hay nói cách khác, em đã thoát được về nhà.

Nhiều người cũng có giấc mơ trúng số để một ngày kia họ sẽ dư giả tiền bạc cho đến cuối đời. Hoặc nữa, người ta cũng có giấc mơ đạt được trạng thái bất tử hay sức khỏe toàn hảo, hay bất kỳ trạng thái nào nơi họ cảm thấy mình tuyệt đối an toàn trên trái đất. Có rất nhiều người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, khi họ tìm được một giáo lý tâm linh dạy về việc nâng cao tâm thức, thì họ liền khởi lên giấc mơ là một ngày kia họ sẽ vươn lên một tầng tâm thức cao đến độ họ sẽ “thoát được về nhà”. Họ sẽ giác ngộ. Họ sẽ đạt đến tâm thức toàn vũ. Họ sẽ là một chân sư thăng thiên chưa thăng. Họ sẽ sạch tự ngã. Họ sẽ là bất cứ gì họ có thể mơ tưởng, nhưng trong một nghĩa nào đó, đây là giấc mơ sống trên địa cầu mà lại không bị tác động bởi bất cứ gì trên địa cầu.

Bây giờ điều quan trọng là con nhìn vào giấc mơ đó và nhìn nhận là con đang có nó. Mọi người đều có giấc mơ đó. Thày cũng từng có giấc mơ đó trong những kiếp đầu thai trước kia khi thày chưa đến gần điểm thăng thiên. Tất cả chúng ta đều có nó vì đó là một phần của tập thể, và chúng ta thì sống trong lòng tập thể. Chúng ta chỉ thoát ra khỏi tập thể bằng cách xem xét những gì có trong tập thể và vượt lên trên.

Điều con cần làm ở đây, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là chỉ đơn giản xoay chuyển tâm con chút đỉnh. Con cần nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai thì con sẽ còn mang một yếu tố ngã vỏ ngoài trong con. Sau đó con cần chấp nhận điều đó và làm hòa với nó. Tất nhiên, con sẽ không đồng hóa với ngã vỏ ngoài vì hiện thời con đã không hoàn toàn đồng hóa với nó rồi. Có nghĩa là ngã vỏ ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Một khi con đạt tới điểm con không đồng hóa với nó và nó không còn điều khiển đời con thì nó chẳng quan trọng gì nữa.

14.3. Ngã vỏ ngoài và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Con nhận ra là con có thể đạt tới điểm khi ngã vỏ ngoài còn sót lại không thật sự ngăn cản con thực hiện các mục tiêu con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Do đó, con có thể biểu lộ một mức độ ngã vỏ ngoài nào đó mà không bị đi trệch khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Một trong những cách mà điều này có thể thị hiện là khi con còn một số mong muốn chính đáng để trải nghiệm trên trái đất. Hiển nhiên là khi con lên cao hơn tầng 96, con không còn một ngã vỏ ngoài muốn thao túng hay kiểm soát người khác, hoặc làm cho họ buồn phiền hay bất cứ gì khác. Con không còn một ngã vỏ ngoài muốn làm chuyện bất hợp pháp để kiếm tiền chẳng hạn. Con đã vươn lên cao hơn những khía cạnh tương đối vị kỷ của ngã vỏ ngoài.

Có thể là con đã sống rất lâu trên hành tinh này và có một số đồ vật, một số mong muốn hay một số trải nghiệm mà con muốn có, nhưng con cảm thấy mình chưa thỏa nguyện những trải nghiệm đó. Trong trường hợp này, con hoàn toàn có thể tiến bước trên đường tu ở mức cao hơn tầng 96 mà vẫn còn mang một số mong muốn, vẫn còn tìm cách toại nguyện những mong muốn đó, nhưng con sẽ làm vậy một cách quân bình hầu không gây xáo trộn cho sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đây chỉ là một ví dụ nhưng rất rất nhiều người trên địa cầu vẫn không cảm thấy là mình đã thỏa nguyện với mong muốn tình dục của mình. Một lần nữa, các thày không bao giờ nói là một khi con đạt đến tầng 96, con sẽ cần sống độc thân cho đến chết. Đó chưa bao giờ là một mục tiêu mà các thày định ra cho con. Nếu con sinh hoạt tình dục một cách quân bình và trách nhiệm, con tuyệt đối có thể có quan hệ tình dục và chuyện này sẽ không khiến con đi trệch hướng khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này cũng áp dụng cho các loại mong muốn khác, chẳng hạn như muốn có một lối sống vật chất nào đó, sở hữu một căn nhà đẹp, đi du lịch và thăm viếng nhiều nơi trên thế giới, bất kỳ mong muốn nào mà con có thể có mà không là một mong muốn hủy hoại.

Con cần làm hòa với thực tế là con có một cái ngã vỏ ngoài, rằng con sẽ có một cái ngã vỏ ngoài có thể ảnh hưởng đến cách con nhìn cuộc sống, và nó có thể kéo con vào việc toại nguyện một số ham muốn. Con cần biết rằng chuyện đó không sao cả, miễn là nó không làm xáo trộn sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này có nghĩa là con đi vào trạng thái chấp nhận là mình có một ngã vỏ ngoài. Nhưng con không chấp nhận là điều này sẽ không bao giờ thay đổi.

Con không ngừng theo dõi chính mình cũng như các phản ứng của mình. Con nhận ra là đối với mỗi tầng tâm thức mà con vươn tới ở trên tầng 96, con sẽ phải nhìn ra một ảo tưởng đặc thù nào đó của ngã vỏ ngoài và con buông nó ra. Có một phàm linh nội tại, một cái ngã mà con cần để cho chết đi. Con theo dõi chuyện này liên tục – không phải một cách mất quân bình, mà đơn giản là con tỉnh thức. Con giám sát phản ứng của mình nhưng con không bị nó làm bận tâm. Con không cảm thấy là mình bất toàn hay không đủ tốt do mình mang ngã vỏ ngoài đó. Kỳ thực, như các Thượng sư khác đã có đề cập, con đạt tới điểm khi con chấp nhận con người mà con là, ngay trong lúc này. Con chấp nhận con đang ở một mức nào đó trên đường tu và việc có ngã vỏ ngoài là một chuyện hoàn toàn tự nhiên, tất phải như vậy.

14.4. Tránh sự phủ nhận

Lý do điều này quan trọng đến vậy là vì, như thày đã nói ngay từ đầu, tầng 96 đưa cho con một khai ngộ vô cùng chủ yếu. Nếu con dõi nhìn những người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ thấy một số không nắm được ở mức ý thức cách vận động cơ bản của đường tu tâm linh. Đơn giản là họ không xoay chuyển trong tâm và không nhận ra là ngã vỏ ngoài phải chết đi – và muốn làm vậy thì họ phải nhìn thấy nó. Thay vào đó, họ cứ tiếp tục tìn vào ảo tưởng về con đường công truyền mà các thày đã nói đến biết bao lần, là cho rằng bằng cách tuân thủ một cách tu tập vỏ ngoài thì một ngày kia họ sẽ tự động rũ bỏ tự ngã hoặc ngã vỏ ngoài.

Họ cứ chờ cho thời điểm đó xảy đến. Thậm chí có một số khởi sự khóa tu này với giấc mơ là một khi họ hoàn tất khóa tu, đùng một cái họ sẽ thoát được về nhà. Một số sẽ bị thất vọng khi đến bài học chót của thày, họ sẽ tìm ra là chuyện đó không xảy ra, chuyện đó không xảy ra một cách tự động.

Con cũng thấy một số người rơi vào một hình thái phủ nhận, là họ bắt đầu tìm cầu một số chỉ dấu cụ thể. Khi họ cố leo lên tầng 96, họ nhìn nhận là mình đã có tiến bộ. Họ đã vượt qua được một số điều mà họ đã mang nhiều năm trước đây khi họ mới cất bước trên đường tâm linh. Giờ đây họ bắt đầu tin là mình là đệ tử cao cấp, mình đã đạt đến một tầng cấp nào đó. Một số còn tới độ tự xưng mình là sạch tự ngã hay đã giác ngộ, hay bất kỳ tên nào khác mà hệ tư tưởng tâm linh của họ đặt cho mục tiêu tối hậu trên đường tu. Con thấy khắp các cộng đồng tâm linh, Thời mới hay đệ tử của chân sư, có những người rơi vào trạng thái phủ nhận khi họ thực sự tin mình không còn tự ngã hay ngã vỏ ngoài nữa, nhưng niềm tin đó dựa trên sự phủ nhận những thứ vẫn còn sót lại trong họ.

Thày đang cố giúp con tránh bước vào trạng thái phủ nhận đó, để con chấp nhận là mình vẫn còn một ngã vỏ ngoài, và con sẽ còn mang một ngã vỏ ngoài cho tới khi con thăng thiên. Cho nên bằng cách chấp nhận, con sẽ có thể làm hòa với thực tế đó, con có thể làm hòa với bản thân con là một đệ tử hoàn toàn xứng đáng của chân sư thăng thiên cho dù mình vẫn còn sót lại một ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, các thày không bao giờ bảo là các thày chờ đợi con phải sạch ngã vỏ ngoài khi con còn hiện thân. Điểm này, con có thể làm hòa với nó. Khi nào con đã an bình với nó, con sẽ có thể xây dựng thêm từ đó.

14.5. Làm hòa với vật chất

Hiển nhiên là thày có một ý định rộng mở cho bài học này. Trong một bài trước, thày có nói về nỗi oán giận Mẹ, oán giận cõi vật chất, khi con cảm thấy cõi vật chất là kẻ thù đang kháng cự lại mình, vân vân và vân vân. Khi con làm hòa với sự kiện là con không cần toàn hảo để được các chân sư thăng thiên chấp nhận, con cũng xoay chuyển và nhận ra là trái đất, hay cõi vật chất, không cần phải toàn hảo để con có thể cảm thấy an bình khi mình hiện diện nơi đây.

Nói cách khác, một số trong các con là avatar đã đến đây từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất bớt dày đặc hơn hẳn địa cầu. Một số trong các con là những cư dân nguyên thủy của địa cầu vẫn còn giữ được một ký ức nội tâm về một thời trước khi trái đất rơi xuống độ dày đặc hiện thời. Con cảm nhận là mọi chuyện không được như ý. Ở đây con cần xoay chuyển và nhận ra là, đúng vậy, tình trạng địa cầu có tiềm năng cao hơn như bây giờ. Và tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên đang từ từ và lần hồi đưa hành tinh lên trạng thái cao hơn đó, và đương nhiên các con đang ở đây để giúp một tay.

Con sẽ không giúp được các thày nâng địa cầu lên cao hơn nếu con kháng cự lại hiện trạng của nó ngay bây giờ. Nếu con cưỡng chống lại những gì đang ở đây ngay bây giờ thì con đang nói trong tiềm thức: “Tôi không thể là Ki-tô chừng nào hành tinh dày đặc như thế này. Tôi không thể biểu đạt tiềm năng tâm linh của mình chừng nào trên hành tinh còn những biểu hiện khủng khiếp như thế này.” Đây chính là ảo tưởng của sự trụ tâm vào những thứ vỏ ngoài, và nó đã khiến cho biết bao đệ tử tâm linh đi lạc vào con đường quanh co mà thày đã có đề cập, là tìm cách dùng vũ lực để thay đổi người khác hay thay đổi các điều kiện vỏ ngoài.

Điều này dẫn chúng ta đến điểm con cần nhận chân địa cầu là một hành tinh đang ở một độ dày đặc nhất định. Tâm thức tập thể đang ở một độ dày đặc, hỗn mang, biến loạn – một độ entropy nào đó như khoa nhiệt động học sẽ gọi như thế. Con cần chấp nhận đây là hiện trạng. Con không chấp nhận là nó sẽ vĩnh viễn và cứ giữ mãi như vậy. Con chấp nhận là con sẽ làm hòa với các điều kiện hiện hữu. Con sẽ chấp nhận là không những các điều kiện này sẽ cho phép con biểu đạt quả vị Ki-tô của mình mà nó còn là điều kiện lý tưởng để con biểu đạt quả vị Ki-tô của con. Quả vị Ki-tô là gì chứ con? Các thày đã nói nhiều lần: “Quả vị Ki-tô không phải là một tình trạng lý tưởng nào đó, không phải là một trạng thái của tâm chỉ có thể biểu lộ trong những điều kiện lý tưởng.”

Con hãy nhìn Giê-su khi thày bước trên mặt đất 2000 năm trước đây tại Palestine – một vùng đất vô cùng tăm tối, nặng nề với một tâm thức tập thể rất rất dày đặc, dày đặc hơn hẳn so với những gì hầu hết các con đã chứng kiến khi lớn lên trong kiếp này. Thế nhưng thày vẫn biểu lộ được quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là gì? Là khi con thách thức hiện trạng, và cho dù hiện trạng có là gì đi nữa, con vẫn có thể thách thức nó. Thậm chí con còn có thể nói, hiện trạng càng thấp thì thách thức càng dễ. Không có nghĩa là việc biểu lộ quả vị Ki-tô là dễ dàng, nhưng chắc chắn là nó khả thi, và đây là điều con cần chấp nhận. Con cần chấp nhận là mặc dù địa cầu đang rất dày đặc, con vẫn có khả năng hoàn thành những mục tiêu con đã đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bởi vì các mục tiêu đó được đề ra trong sự nhận biết về độ dày đặc hiện tại của vật chất. Con đã không định ra một mục tiêu thiếu thực tế cho bản thân, mà con đã định ra một mục tiêu thực tế. Để thị hiện mục tiêu thực tế này, con cần chấp nhận việc thị hiện là một chuyện khả dĩ ngay cả trong những điều kiện hiện tại.

Sau đó, con cũng cần bắt đầu xem xét các mong muốn, các kỳ vọng vỏ ngoài của mình. Con cần nhận chân rất nhiều những mong muốn vỏ ngoài đó không thực tế (đây là những mong muốn mà có thể con đã đem theo từ những kiếp trước, hay đã khoác vào ở tuổi ấu thơ, hay đã hình thành khi con tìm thấy giáo lý tâm linh, ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên). Chúng dựa trên cái giấc mơ “thoát được về nhà”, khi phần nào con tìm ra một cách hiện diện trên trái đất mà không bị những gì xảy ra trên trái đất chạm vào mình. Con cần nhận diện ở đây là một số những mong muốn đó chỉ đơn giản là thiếu thực tế, và con cần để cho chúng ra đi.

14.6. Kỳ vọng về những gì phải là  

Khi con làm vậy, con có thể thực hiện thêm một cuộc xoay chuyển. Con có thể nhìn nhận là kỳ thực, cản trở lớn nhất để con thị hiện một điều gì đó trên địa cầu (như thày đã nói, thị hiện một lối sống vật chất tốt đẹp hơn, thị hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, thị hiện sự quân bình hay hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và cuộc sống vật chất), cản trở lớn nhất để con thị hiện các mục tiêu đó là các kỳ vọng của con – kỳ vọng rằng mọi chuyện phải như thế nào.

Nếu con có một kỳ vọng, một chờ đợi, do ngã vỏ ngoài dựng lên và nếu nó trái ngược với các mục tiêu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì chừng nào con còn giữ chặt kỳ vọng đó trong tâm ý thức, nó sẽ chặn đứng không cho Sứ vụ thị hiện. Con sẽ không thể chấp nhận để cho các mục tiêu trong Sứ vụ đi xuống tầng vật lý. Và do đó, con sẽ ngăn chặn chúng trong tiềm thức, và nhiều người tâm linh đã làm chuyện đó.

Điều này có nghĩa là giờ đây con phải xét lại những điều con có thể đã đọc trong sách về cách thị hiện những thứ mình muốn. Chẳng hạn có sách sẽ bảo là con cần vô cùng chính xác cụ thể khi thiết lập một “bản đồ kho báu”. Nếu muốn thị hiện một căn nhà thì con phải định rõ trong nhà phải có gì, hay thậm chí con tìm một tấm hình thật chính xác cho thấy căn nhà phải như thế nào với tối đa chi tiết. Điều thày nói với con bây giờ là con hãy xoay chuyển trong tâm và làm cho tâm mình lỏng đi. Con khiến cho kỳ vọng của mình lỏng đi.

Con nhìn vào chính con và hỏi: “Liệu tôi có một số mục tiêu và tôi có ý phải hoàn thành chúng như thế nào, và tôi cảm thế nào về chúng?” Con có thể làm bài tập này và thử hỏi: “Được rồi, đây là các mục tiêu của tôi, nếu như bây giờ có một khuôn mặt thẩm quyền bảo tôi là chúng tuyệt đối không thể thị hiện được thì liệu tôi sẽ phản ứng làm sao?”

Nếu con cảm thấy một phản ứng rất mạnh gần như không cưỡng nổi, một cảm giác hoảng sợ rằng các mục tiêu đó không thể thị hiện, thì con sẽ biết là các mục tiêu và kỳ vọng đó xuất phát từ ngã vỏ ngoài. Chúng đến từ cái ngã vỏ ngoài không ứng phó nổi với sự mất mát. Một khi ngã vỏ ngoài đã quyết định về một mục tiêu hay một kỳ vọng, bất cứ gì không hoàn toàn toại nguyện được kỳ vọng đó sẽ được nó trải nghiệm như một mất mát. Nếu con nhận diện phản ứng này nơi con, con biết là nó đến từ ngã vỏ ngoài, và đó là lúc con cần xem xét lại các mục tiêu và kỳ vọng đó và hiểu ra là con cần để cho chúng ra đi.

Con cần nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay ngã vỏ ngoài đặc thù đang cố bám lấy các mục tiêu đó, và con cần để cho ngã đó chết đi. Con sẽ không giải thoát khỏi ngã đó bằng cách hoàn thành mục tiêu, vì nó sẽ chỉ tạo thêm một mục tiêu khác nữa và nó sẽ dời cột gôn ra chỗ khác. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó nếu con để cho phàm linh đó chết đi. Con cần làm cho kỳ vọng của mình mềm lỏng.

Trong tất cả những quyển sách kia về thị hiện, người ta cũng sẽ bảo con phải định rõ ra mục tiêu, rồi con cần trụ tâm vào đó đều đặn mỗi ngày. Con cần có ý muốn vô cùng vững mạnh để thị hiện mục tiêu này, vô cùng kiên định trong quyết tâm và ý chí. Con cần đem hết sức mạnh ý chí của mình ra để ép nó đi vào hiện thực.

14.7. Không có an bình qua vũ lực

Thày không đang bảo con là những quyển sách và khóa học đó nói dối. Con hoàn toàn có khả năng thị hiện đồ vật theo cách họ mô tả, tuy nhiên nó không dính dáng chút nào với quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con muốn thị hiện đồ vật theo cách đó thì con có thể. Đó là tại sao thày đã nói là con có thể đạt tới tầng 96 và bắt đầu sử dụng quyền năng của tâm để thị hiện một số thứ. Con có thể làm được, chuyện đó khả dĩ và có những người đã làm được.

Nhưng nó sẽ không đưa con lên cao hơn tầng 96, có nghĩa là rốt cuộc con sẽ bắt đầu thụt lùi và ngày càng chú trọng nhiều hơn đến bản thân. Kỳ thực, con có thể tuột xuống tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất. Hơn thế nữa, con có thể rơi hẳn vào tâm thức sa ngã. Con thấy được ở đây là thày đang nói điều này cho con để con nhận ra là con đã vươn tới một mức tâm thức nào đó, con đã đạt được một số khả năng của tâm, và con có thể dùng những kỹ thuật vỏ ngoài đó để thị hiện một số điều con muốn. Điều thày mong muốn nhìn thấy, tất nhiên, là thay vì thị hiện những mong muốn, kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó, con sẽ thị hiện những gì nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và để làm được vậy, con cần từ bỏ các kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó. Con cần quy hàng và buông bỏ chúng.

Làm thế nào con sẽ đạt được an bình ở mức này? Không phải bằng cách tiếp tục sử dụng sức mạnh ý chí, cưỡng ép cho mục tiêu trở thành hiện thực. Cho dù con có thị hiện được một mục tiêu thì một mục tiêu khác sẽ hiện ra. Nghĩa là có thể con phải vĩnh viễn sử dụng ý chí để cưỡng ép mọi chuyện đi vào hiện thực. Con sẽ không an bình vì chừng nào con còn dùng vũ lực, con không thể cùng lúc an bình được. Đơn giản là không thể nào vừa sử dụng vũ lực mà vừa an bình được. Và đương nhiên, con yêu dấu, nếu con không thể an bình thì con cũng không thể tự do, và đó là tầng khai ngộ thứ bảy, là cuộc khai ngộ không những sẽ dẫn con lền tầng 96 mà sẽ còn đưa con đi tiếp cao hơn cả 96.

Làm thế nào con có thể an bình? Con không thể an bình qua vũ lực. Con chỉ có thể – và thày nói CHỈ với chữ hoa – con CHỈ có thể an bình qua buông bỏ.

14.8. Một cách thị hiện cao hơn

Con có thể nhận thấy là trong con có một cái ngã vừa phản ứng lại câu nói vừa rồi. Có thể con có cảm giác như là con sẽ không bao giờ thị hiện được điều gì nếu mình không nhất quyết sử dụng sức mạnh của ý chí, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Điều đó đúng! Nếu con ở một mức tâm thức nào đó, cách duy nhất để thị hiện một cái gì đó là dùng ý chí mạnh mẽ để ép uổng nó vào hiện thực. Nhưng khi con xoay chuyển và vươn lên cao hơn mức tâm thức đó, con có khả năng thị hiện những gì được ghi trong Sứ vụ Thiêng liêng của con – không nhất thiết những gì nằm trong ngã vỏ ngoài, nhưng chắc chắn những gì nằm trong Sứ vụ của con. Bây giờ, làm thế nào con làm được đây?

À, con hãy xét xem con muốn thị hiện qua trung gian cái ngã nào? Khi con dùng vũ lực, con cũng đang dùng ngã vỏ ngoài. Con không chỉ thị hiện qua ngã vỏ ngoài mà con đang thị hiện xuyên qua ngã vỏ ngoài cũng như viễn quan của ngã vỏ ngoài. Có những sa nhân đã bị cắt khỏi Hiện diện TA LÀ của chúng. Chúng chỉ có thể thị hiện bằng cách sử dụng những năng lượng đã sẵn đem vào quang phổ vật lý, và chúng có khả năng thị hiện một số chuyện rất ngoạn mục dưới con mắt của hầu hết mọi người. Nhưng con, hiển nhiên, con không bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con sẽ không chỉ thị hiện với những năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất, mặc dù con cũng sẽ dùng những năng lượng đó nếu con thị hiện một cách cưỡng chế.

Thật ra con sẽ lấy một số năng lượng từ Hiện diện TA LÀ và sử dụng để thị hiện các mục tiêu của ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao con đường gọi là tà đạo, con đường tay trái, có thể quyến rũ đến như vậy. Con thấy không, con vươn lên một mức nào đó và con kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con cũng ít đồng hóa hơn với ngã vỏ ngoài. Con có khả năng sử dụng sức mạnh ý chí và cưỡng ép ánh sáng của Hiện diện TA LÀ đi vào khuôn đúc mà ngã vỏ ngoài đã quy định, và như vậy con thị hiện các mục tiêu vỏ ngoài đó.

Tất nhiên, khi con làm vậy, điều sẽ xảy ra là lần hồi ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ sẽ giảm thiểu. Đây là một cơ chế an toàn để ngăn cản con tạo ngày càng nhiều nghiệp quả và trở nên đồng hóa nhiều hơn với ngã vỏ ngoài, để rồi con rơi vào một vòng xoáy ốc hướng hạ. Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ suy giảm. Đây có thể là một lời cảnh tỉnh, và một số người đã nhận ra lời cảnh tỉnh đó. Khi họ cảm thấy mình không còn quyền năng thị hiện nữa thì họ bắt đầu tự hỏi tại sao lại như thế, và họ quay trở lại con đường chính đạo.

14.9. Con đường tay trái

Nhưng một số khác đã đi theo một con đường khác. Họ đã tiếp tục bước đi trên con đường tay trái. Giờ đây họ bắt đầu sử dụng những năng lượng đã sẵn có mặt trong cõi vật chất  để tiếp tục thị hiện những gì họ muốn. Đây là chuyện khả thi, và nếu họ làm vậy, sẽ tới một điểm khi họ trở thành đệ tử của một sa nhân. Sa nhân này sẽ dạy họ cách thức sử dụng cái gọi là ma thuật đen để thị hiện những gì họ ham muốn.

Con thấy đó, con khởi sự bằng cách sử dụng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con, xong khi nó không còn đủ mạnh để thị hiện những gì con muốn, con quay sang sử dụng năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất. Đương nhiên, điều này có nghĩa là con phải đánh cắp năng lượng này từ người khác, và cứ thế chuyện này sẽ kéo con vào vòng xoáy bất tận là tìm cách khuynh đảo và kiểm soát người khác.

Nếu con không muốn bước vào tình trạng đó, con phải đạt tới điểm con nhìn nhận là con không muốn thị hiện bất cứ gì qua ngã vỏ ngoài. Có nghĩa là con phải kinh qua một giai đoạn buông bỏ một cách cố tình các mục tiêu, mong muốn và kỳ vọng của ngã vỏ ngoài. Con từ bỏ các mục tiêu đó bởi vì với ngã vỏ ngoài, con có thể học hỏi cách nhận diện các mục tiêu của nó. Chúng thường mang giấc mơ về một trạng thái tối hậu nào đó – một trạng thái giàu có tối hậu, một trải nghiệm tình dục tối hậu, một trải nghiệm tâm linh tối hậu nào đó. Nó luôn luôn cực đoan. Nó luôn luôn phải cực đoan hơn trước. Nó luôn luôn là một trạng thái cuối cùng nào đó. Đó là tại sao nó trở thành một vòng ốc xoáy bất tận, một cuộc tìm cầu không bao giờ chấm dứt để chinh phục ngày càng nhiều hơn.

Con có thể dần dà nhận diện những mục tiêu đó và sau đó con buông chúng ra. Con có thể buông mục tiêu muốn có trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh mà không phải từ bỏ tình dục hoàn toàn (mặc dù con cũng có thể từ bỏ trong một thời gian nếu con cảm thấy muốn làm vậy). Điều thày muốn nói là sẽ tới điểm khi chìa khóa để tiến bước cao hơn là quy hàng, là buông bỏ – buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ.

Điều này có nghĩa là con bước vào một giai đoạn khi con nhận ra là mặc dù con có khả năng thị hiện một số mong muốn qua ngã vỏ ngoài, nhưng con lại không muốn làm vậy. Một số trong các con (kỳ thực, tất cả các con) sẽ gặp cám dỗ này dưới một dạng nào đó, nhưng một số các con sẽ gặp nó dưới một dạng rất cụ thể. Con sẽ chạm trán với một hoàn cảnh nơi con thấy rõ là con có thể thị hiện căn nhà lý tưởng, chẳng hạn, qua việc sử dụng vũ lực. Nhưng thay vào đó, con chọn sự buông bỏ, con buông bỏ giấc mơ có được căn nhà trong mơ. Điều này có nghĩa là cho một thời gian, con sẽ không có căn nhà trong mơ hay ngay cả không có nhà nào hết.

Thế rồi có thể thời điểm sẽ đến khi một căn nhà khác sẽ thị hiện, tuy không đúng hẳn căn nhà trong mơ nhưng nó vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho Sứ vụ Thiêng liêng tiến hành tốt hơn là với căn nhà mơ ước kia. Nếu con đã cưỡng ép căn nhà kia vào hiện thực thì con đã phải chịu một số ràng buộc. Nó sẽ đòi hỏi con bỏ ra một số năng lực, thời giờ cũng như chú ý, có nghĩa là con không còn gì sót lại cho những công việc khác, kể cả một số khía cạnh của Sứ vụ của con. Con bắt đầu phân biện rõ hơn là mình nên sử dụng thời gian và năng lực như thế nào để không dành ra quá nhiều cho các nhu cầu của ngã vỏ ngoài đến độ nó kéo con ra khỏi việc thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng.

14.10. Mong muốn nội tâm hay mong muốn vỏ ngoài

Xong con cũng có thể bắt đầu làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su đã chứng tỏ khi chính thày đã nói cách đây 2000 năm: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì.” Như con thấy đó, dựa trên những gì thày vừa nói, câu này đòi hỏi thêm một chút giải thích. Hiển nhiên là Giê-su đã có thể tự mình làm một điều gì đó, nghĩa là qua ngã vỏ ngoài của thày, thày đã có thể thực hiện một số công việc ở mức tâm thức mà thày có lúc đó. Thày đã có thể thị hiện rất nhiều thứ với ngã vỏ ngoài của thày. Điều mà thày thực sự muốn nói là: “Ta không muốn làm bất cứ gì do ngã của ta.” Và thày cũng nói: “Đó là Cha ở trong ta – chính Ngài làm mọi việc,” có nghĩa: “Chính Hiện diện TA LÀ và viễn quan cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của ta đang quyết định những gì thị hiện ra trong đời ta.”

Con đạt đến một điểm khi con cần đối mặt với sự lượng định: “Liệu tôi có muốn những gì thị hiện trong đời tôi là do quyết định của ý chí ngã vỏ ngoài, hay là tôi muốn ý chí cao hơn – Hiện diện TA LÀ của tôi, những chọn lựa mà tôi đã lấy khi thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng – định đoạt những gì sẽ thị hiện trong đời tôi?” Đây chính là điều đòi hỏi sự buông bỏ. Con buông bỏ, con quy hàng trước ý chí cao hơn đó. Giống như Giê-su, con nói: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.” Điều này không có nghĩa là có một Thượng đế ở trên trời, một chúa tể độc tài nào đó đang tìm cách kiểm soát con. Con không quy phục một ý chí ở ngoài con. Khi con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con đã sử dụng ý chí ở bên trong chính con.

Tất nhiên, ngã vỏ ngoài sẽ bảo là con quy phục một ý chí bên ngoài, vì đối với nó, ý chí cao hơn của con nằm bên ngoài. Nhưng kỳ thực, đối với con trong cương vị cái Ta Biết, ý chí của ngã vỏ ngoài mới là nằm bên ngoài. Ngã vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép ý chí của nó lên con, ngược với những gì con đã chọn lựa và quyết định khi con ở trong trạng thái cao hơn, trạng thái minh mẫn để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng. Con thấy đó, đây là chuyện thực hiện cuộc xoay chuyển này: “Tôi thực sự muốn gì?”

Và thực sự, có thể nói đó là chuyện con muốn có những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con? Và ở đây chúng ta bước vào – ít nhất từ một nhãn quan nào đó – trở ngại lớn nhất, thử thách lớn nhất, mà con người phải đối diện trên địa cầu, là thử thách về sở hữu.

14.11. Thử thách sở hữu

Con hãy nhìn hành tinh này! Bước lui lại và nhìn hành tinh này. Nhìn tất cả tình trạng hỗn loạn, tất cả những xáo trộn, tất cả những chuyển biến. Những thiên tai, động đất, bão tố, chiến tranh, tất cả những thứ đang không ngừng khiến con người bị bật rễ, bị mất nhà cửa, phá hủy toàn bộ những thành phố. Đây có thật là một hành tinh nơi con muốn tìm mọi cách để sở hữu một cái gì? Có thật khôn ngoan hay không khi con bước vào tâm trạng tham vọng sở hữu một cái gì?

Một lần nữa, hãy lấy ví dụ căn nhà trong mơ. Không có gì sai trái nếu con ở một căn nhà thoải mái, nhưng liệu con sở hữu căn nhà hay là căn nhà sở hữu con? Theo một nghĩa nào đó, đây là thử thách con đối mặt trên địa cầu. Con có thể sở hữu đồ vật trên địa cầu – đúng là con có thể – nhưng luôn luôn sẽ có một cái giá mà con phải trả. Nó đòi hỏi ở con một số năng lực, thời giờ và chú ý. Thày không đang nói tới cả chuyện tiền bạc cho dù con sẽ cần tiền bạc để sở hữu một cái gì đó. Nó đòi hỏi con dành chú ý cho nó, và để bảo toàn những gì con sở hữu, nó cũng đòi hỏi nơi con sự chú ý.

Câu hỏi đặt ra là: “Con muốn loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con?” Liệu con muốn trải nghiệm chuyện sở hữu một đồ vật, hay con muốn trải nghiệm sự tăng triển tâm linh? Con hiểu chứ phải không con, rằng sở hữu là đứng yên một chỗ và tăng triển là chuyển động. Các thày đã có đề cập đến Dòng sông sự Sống. Con không xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống khi con sở hữu một cái gì. Điều này không có nghĩa là con không thể vừa sở hữu vừa xuôi chảy với Dòng sông sự Sống – nhưng chỉ khi nào cái con sở hữu không sở hữu con. Chừng nào con còn mong muốn sở hữu thì con sẽ không an bình được trên một hành tinh như địa cầu – chuyện đó không thể. Luôn luôn sẽ có những mối đe dọa mà con tưởng tượng ra, và thày có thể cam đoan với con là khi con sở hữu một cái gì mà con không muốn đánh mất, con sẽ dư khả năng tưởng tượng ra đủ mọi loại đe dọa có thể cướp nó khỏi tay con.

Sứ giả này cách đây ít lâu đã xem một phim tài liệu trên tivi về các nhà tỷ phú. Ông hiểu ra là nếu ông tin tất cả những gì được trình chiếu, mọi người đúng lý phải cảm thấy tội nghiệp cho các nhà tỷ phú bởi vì việc ứng phó với tài sản to lớn như vậy thật là một chuyện khó khăn. Tất nhiên ông đã bật cười, nhưng bên trong ẩn một chân lý, đó là người ta càng sở hữu thì cái họ sở hữu sẽ càng sở hữu họ. Khi họ càng bị sở hữu bởi vật sở hữu, thì họ phải dành ra càng nhiều sức lực và chú ý để lo gom góp nhiều hơn hay để khỏi đánh mất những gì mình đang có. Đối với nhiều người, họ sẽ đạt tới điểm tích tụ được tất cả mọi thứ mà mình mong muốn lúc ban đầu, và giờ đây họ lo lắng sẽ đánh mất nó. Điều này, tất nhiên, sẽ không thuận lợi cho sự phát triển của con trong những mục tiêu đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng.

14.12. Rũ bỏ cái ngã sở hữu

Con cần nhìn vào điểm này và nhận ra đó là một ngã vỏ ngoài. Nó rất dũng mãnh trên hành tinh này vì động lượng trong tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ – nhưng con đã đến đây để làm gì? Con đến đây để tự nâng mình lên cao hơn tâm thức tập thể và như vậy góp phần nâng cao tâm thức tập thể.

Tất nhiên là ở tầng khai ngộ này, con có khả năng rũ bỏ ngã này. Con có thể nhận ra là mình không muốn thị hiện những mục tiêu của ngã vỏ ngoài và mình cũng không muốn thị hiện bất cứ gì xuyên qua ngã vỏ ngoài. Con không muốn thị hiện bất cứ gì qua vũ lực. Vậy thì làm thế nào con thị hiện được cái gì đây? Nhiều người đã từng đọc những cuốn sách kinh điển kia về thị hiện, sẽ bảo: “Đúng vậy, làm thế nào con có thể thị hiện bất cứ gì nếu con không dùng vũ lực và sức mạnh ý chí, nếu con không trụ tâm và không tập trung năng lượng? Thày bảo con buông bỏ mọi mục tiêu và mong muốn, bảo con không được cụ thể chính xác, bảo con phải làm lỏng tâm mình và kỳ vọng của mình. Vậy làm sao con thị hiện được gì đây?”

Con yêu dấu, khoảng 2500 trước đây có một bậc đại hiền đã giảng dạy về Trung đạo. Thày không đang bảo con không được dùng sức mạnh của ý chí, hay không được tập trung, hay không được quyết tâm. Thày đang bảo con chuyển sự chú tâm của con ra khỏi ngã vỏ ngoài và hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng. Thày cũng bảo con làm lỏng tâm con, làm lỏng các kỳ vọng của con, ít ra trong một thời gian, vì con sẽ cần chút thời gian để buông xả các kỳ vọng từ ngã vỏ ngoài. Con cần bước vào một giai đoạn tạm thời nơi con sẵn lòng để cho mọi chuyện nổi trôi, như thể nổi trôi không định hướng trên mặt nước, và con để cho dòng nước cuốn con trôi đi.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một cách lấy quyết định với ngã vỏ ngoài, là khi con dùng sức mạnh ý chí hay con tập trung vào mục tiêu và trở thành vô cùng cương quyết. Có thể nói, con gạt sang một bên bất kỳ lực chống đối nào ngăn cản con thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng cũng có một cách khác là con buông bỏ tất cả những mong muốn vỏ ngoài đó và con đi vào trạng thái mà Giê-su mô tả là: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.”

Nói cách khác, con không bảo là con không muốn bất cứ gì thị hiện trong đời con, mà con chỉ nói là con không muốn ý chí của ngã vỏ ngoài thị hiện. Con muốn ý chí cao hơn mà chính con đã định ra khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẵn lòng chờ cho điều đó xảy ra. Con sẵn lòng để cho nó xảy ra, để cho nó trải bày. Con sẵn lòng bước vào một trạng thái của tâm nơi con nghĩ là mình không đang thị hiện gì hết. Con không đang cưỡng ép bất cứ gì thị hiện, mà con chỉ để yên cho nó rơi vào thị hiện.

14.13. Để yên cho mọi chuyện thị hiện

Trong thế giới Ả rập, người ta có câu ngạn ngữ về quả cam rơi vào chiếc khăn đóng mình đội trên đầu. Con ngồi dưới cây cam và quả cam rơi xuống một cách tự nhiên. Đây là trạng thái tâm mà con có khả năng bước vào ở mức này. Không tìm cách ép buộc Ánh sáng Mẫu-Vật phải cho con những gì ngã vỏ ngoài mong muốn, con trao cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoảng trống để nó thị hiện điều mà chính con, qua ý chí cao hơn của con, đã quyết định mong muốn. Con cho phép các mong muốn cao hơn của con đi xuống thị hiện vật lý thay vì ngăn chặn chúng với tất cả những kỳ vọng vỏ ngoài đó. Con có thấy được không? Cách thị hiện cưỡng bức của ngã vỏ ngoài là một chuyện khả thi, nhưng có một cách khác mà thoạt nhìn tưởng chừng là một cách thụ động (ít ra đối với ngã vỏ ngoài), nhưng nó không thụ động chút nào. Đơn giản, con kết nối lại với Sứ vụ Thiêng liêng và cho phép tự nó thị hiện ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, nhiều người theo học những cuốn sách về thị hiện thường làm vậy từ một tâm trạng thiếu thốn, họ thiếu thốn vì họ muốn một cái gì đó. Thường khi là tiền bạc. Họ không đủ tiền, họ muốn thị hiện ra tiền, cho nên họ theo học các khóa đó và họ khiến cho ý muốn vỏ ngoài đó bị đông đặc lại. Sau đó họ dồn tất cả sức lực của ý chí cùng quyết tâm để cố đẩy nó lên các cõi cao hơn. Có lẽ họ không biết gì về ba thể cao như con, nhưng dù sao thì họ cũng cố gắng – từ mức ý thức – đẩy nó lên các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Khi họ làm vậy từ tầng ý thức, trước tiên họ phải đẩy lên cõi tình cảm, rồi họ phải đẩy lên cõi lý trí, rồi họ phải đẩy lên cõi bản sắc. Một khi họ đã đẩy được vào cõi bản sắc, xung lực có thể sẽ quay ngược lại và bắt đầu đi trở xuống.

Vấn đề là con chỉ có sẵn một khối năng lượng giới hạn khi con cố gửi xung lực đó đi lên cõi tình cảm. Có thể trong thể tình cảm của con có đủ loại xáo trộn mà con chưa giải quyết, và chúng sẽ tạo ra sức cưỡng chống lại. Sóng năng lượng mà con gửi ra bằng tâm ý thức tạo ra đủ loại mô thức giao thoa với các năng lượng khuếch tán và hỗn loạn hiện diện trong cảm thể con. Đến khi nó tới được cõi lý trí thì không những nó đã bị suy yếu mà phần nào còn bị bóp méo. Một lần nữa, trong trí thể của con lại có đủ loại điều kiện hỗn loạn khác, đủ loại tin tưởng chưa giải quyết. Và khi nó lên tới thể bản sắc, nó lại bị khuếch tán thêm nữa. Nơi thể bản sắc, rất có thể là con không rõ ràng lắm về con người thực mà con là, về những gì mà con thực muốn, cho nên một lần nữa lại có sự suy giảm và biến thái. Cho nên đến khi xung lực sẵn sàng quay trở xuống, nó không còn gì như cũ và sức mạnh của nó đã suy yếu.

Nhiều, rất nhiều người làm như vậy. Họ bỏ thì giờ ra, ngấu nghiến đọc những cuốn sách hứa hẹn cho họ đủ mọi thứ. Họ dành ra nhiều thời gian và sức lực để làm theo nhưng rồi chẳng có gì xảy ra. Họ ngồi đó, không hiểu tại sao chẳng có gì thị hiện, hoặc họ bỏ rơi toàn bộ, thậm chí họ bỏ rơi cả đường tu tâm linh bởi vì sự thật là họ có bao giờ cất bước trên đường tu tâm linh đâu, mà họ chỉ tìm cầu một lối thoát vá víu tạm thời. Hoặc cũng có thể là một phần mục tiêu của họ được thị hiện, và giờ đây họ thực sự nghĩ đó là cách thị hiện mọi chuyện. Họ lại thử một lần nữa, nhưng rồi họ phải đi đến kết luận là nó không hiệu nghiệm. Chuyện đó không hiệu nghiệm chút nào.

Điều thày yêu cầu con làm khác hẳn. Thày yêu cầu con buông bỏ tất cả mọi thứ vỏ ngoài, sẵn lòng để cho mình nổi trôi, để mình xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống, để yên cho sự sống cuốn con theo bất cứ hướng nào mà nó muốn. Và khi đó, con vươn lên, con với tới những gì con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nghĩa là con né tránh được bất kỳ lực kháng cự nào đến từ ngã vỏ ngoài ở các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Con đi thẳng tới nguồn cội của những gì con đã thảo ra trước khi con đầu thai trong kiếp này. Xong con kết nối với cái đó, và con sẵn lòng để yên cho nó thị hiện ra cho dù con chưa thấy được nó là gì, cho dù nó có thể không đồng thuận với các kỳ vọng vỏ ngoài mà con đã vun trồng ở một thời điểm nào đó. Con sẵn lòng buông bỏ các kỳ vọng đó và con nói: “Xin ý chí cao hơn của con được hoàn thành cho dù nó có là gì, chứ không phải ý chí vỏ ngoài của con. Dù bất cứ gì có xảy ra, con cũng sẽ chấp nhận, con sẽ đón nhận, và con sẽ biết ơn tất cả những gì con được nhận.”

14.14. Thị hiện qua buông bỏ

Thật ra có nhiều người đã thị hiện một điều gì không đúng hẳn như ý muốn của ngã vỏ ngoài. Họ xem đó là không đủ hay họ đã từ chối thẳng thừng. Có những người đã thị hiện được một số cơ hội mới, nhưng vì nó không đúng với mong ước cho nên họ đã không nắm lấy. Và như thế họ đã bỏ lỡ một cơ hội tăng triển mà họ đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Ở mức này, thày yêu cầu con hãy sẵn sàng trở nên mềm lỏng, sẵn sàng buông bỏ mọi hình ảnh cố định về đời mình phải trải ra như thế nào. Con hãy kết nối lại với ý chí cao hơn đó, là ý chí đích thực mà con đã có khi con không nhìn mọi chuyện xuyên qua lăng kính dày đặc của bốn thể phàm.

Đây là một hành động buông bỏ có khả năng thực sự đưa con đến một trạng thái an bình vì con chấp nhận một số chuyện. Con chấp nhận khía cạnh omega của sự thị hiện trên địa cầu, nghĩa là địa cầu có một độ dày đặc nào đó, mọi người đều có quyền tự quyết của mình và tâm thức tập thể ở một trình độ nào đó. Những yếu tố này định ra giới hạn cho những gì con có thể thị hiện. Do tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó, con không nhất thiết thị hiện được điều kiện lý tưởng mà con có thể hình dung. Nhưng điều mà con luôn luôn thị hiện được là những gì sẽ giúp con tăng triển lên một mức tâm thức cao hơn. Đó là omega – là làm hòa với mọi thứ như chúng hiện là, và tận dụng chúng một cách tối hảo thay vì phàn nàn là chúng không lý tưởng.

Khía cạnh alpha là con vượt ra khỏi các ham muốn của ngã vỏ ngoài. Con tái nối kết với các mong muốn cao hơn mà chính con đã từng có trước khi hiện thân. Con cho phép những mong muốn này thị hiện và con chấp nhận như vậy là tốt đủ, đó là cơ hội mà con muốn và con sẽ ôm lấy nó. Con sẽ tận dụng nó một cách tối hảo và sẽ đặt trọng tâm vào việc tăng triển thay vì sở hữu.

Có một khái niệm rất quan trọng mà Giê-su đã bày tỏ cách đây không lâu trong một bài truyền đọc nơi thày nói là các chân sư thăng thiên giống như những nhân viên bán xe cũ sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Con người hiện ở một trạng thái tâm thức thấp đến độ khi họ chưa tìm được con đường tâm linh thì họ sẽ tạo ra đủ mọi loại mơ ước và ham muốn. Các thày phải cho họ một cái gì đó mà họ có thể liên hệ và chấp nhận, một cái gì có thể thúc đẩy họ cất bước trên đường tu. Rồi sau đó tất nhiên, khi họ đã tiến xa hơn trên đường tu, các thày phải xoay chuyển họ để họ nhận ra là các mong muốn ban đầu của họ không thực tế lắm, và giờ đây, hy vọng là họ có thể nhận lấy một mong muốn cao hơn sẽ đặt họ trên con đường dẫn đến tầng 144.

Vấn đề ở đây y hệt như vậy. Điều không thể tránh được là khi các con khởi sự khóa tu này, con có một số mong muốn, một số chờ đợi không được cao nhất. Làm thế nào con có thể ở tầng tâm thức thứ 48? Làm thế nào con có được một chờ đợi thực tế  về đường tu tâm linh khi con ở tầng 48? Con không thể. Các Thượng sư khác cũng đã đề cập đến cùng điểm này. Điều vô cùng quan trọng ở mức này là con thực sự đạt tới mức con xem xét các kỳ vọng không thực tế đó và con để cho chúng ra đi.

14.15. Làm hòa với sự bất toàn

Con cần đặc biệt làm hòa với thực tế là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con sẽ không đạt đến một trạng thái giác ngộ hay một tâm thức toàn vũ tối thượng nào đó (hoặc bất kỳ cái tên nào mà con muốn gọi). Cho đến khi con thăng thiên, con sẽ vẫn mang một số yếu tố của tâm thức phàm nhân. Trên thế giới sẽ có những người không đồng ý với câu này. Một số sẽ bảo đó là một lời dạy hoàn toàn sai lầm. Một số sẽ nói: “Nhưng chắc chắn Giê-su hay đức Phật, vị đạo sư này hay vị đạo sư kia, hay vị đạo sư sắp tới, phải đã chứng đạt giác ngộ chứ.” Điều này tùy thuộc vào cách con định nghĩa giác ngộ là thế nào. Nếu con định nghĩa giác ngộ là đã hoàn toàn rũ sạch ngã vỏ ngoài, thì không một ai đã đạt được trạng thái đó cho tới điểm ngay trước khi vị đó thăng thiên. Giê-su đã không đạt đến đó cho tới khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá và từ bỏ hồn mình (the ghost), tức là khía cạnh chung cuộc của ngã vỏ ngoài, kỳ vọng chót cùng của ngã vỏ ngoài.

Con thấy ở đây, chắc chắn con có thể nói khi con đạt tới một tầng tâm thức nào đó thì con đã vươn lên cao hơn tầng 48 rất nhiều, cho nên con giác ngộ hơn khi trước. Vấn đề là con thấy trên thế giới có những vị xưng mình là đạo sư đã giác ngộ và vân vân. Giờ đây các vị ấy bắt đầu tin là mình không còn cần soi gương, không cần tìm cái xà trong mắt vì họ không còn xà nào nữa, họ không còn tự ngã, không còn ngã vỏ ngoài nữa. Có nghĩa là từ điểm đó trở đi, họ không còn tăng triển nữa. Điều thày cố trao cho con là ý niệm thực tiễn rằng chừng nào con còn đầu thai thì con vẫn cần soi mình trong gương, vẫn cần tăng triển, vẫn cần vượt qua và buông bỏ nhiều thứ, và con vẫn cần để cho chúng chết đi. Đó là cách duy nhất để con leo đến được tầng 144 và thăng thiên.

Con có nghĩ là thày đã từng làm gì khác hơn hay không, con yêu dấu? Thày đã phải làm y hệt như vậy để hội đủ tư cách thăng thiên. Giê-su cũng vậy, Gautama cũng vậy, Chân sư MORE cũng vậy, Kuthumi cũng vậy, Mẹ Mary cũng vậy, và tất cả những vị đã thăng thiên khỏi trái đất cũng đã đều làm như vậy. Tất cả các thày đều đã bước chân trên con đường mà các thày đang dạy con bước theo. Sự khác biệt là hầu hết các thày đã không có những bậc thăng thiên làm thày giáo cho mình, ít ra những bậc mà các thày ý thức được hay có thể đọc được bài giảng. Nhưng các con thì có. Thày hy vọng con sẽ sử dụng giáo lý vỏ ngoài này một cách hữu ích, sẽ làm cuộc xoay chuyển đó, sẽ làm những xoay chuyển mà thày đã nói đến trong bài giảng này, hầu còn chuẩn bị thực hiện cuộc xoay chuyển to lớn hơn nữa mà thày sẽ đề cập trong bài tới. Thày hẹn gặp lại con để trao bài học đó cho con.

Cách con nhìn vật sẽ đồng sáng tạo vật đó

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và cho bài học thứ năm này, chúng ta sẽ giáp mặt với Tia thứ Năm của Viễn quan. Con yêu dấu, viễn quan không như người ta thường nghĩ, không như con từng hiểu khi con lớn lên trong thế giới hiện đại. Hình ảnh mà con đã nhận được từ tuổi thơ ấu bảo viễn quan là một cái gì thụ động. Có một vật nào đó hiện hữu khách quan ở ngoài kia, rồi có một cái gọi là ánh sáng đập vào nó, ánh sáng dội ngược lại trên nó, đi vào võng mạc mắt con nơi ánh sáng được chuyển thành một tấm hình mà não bộ của con nhìn thấy và xử lý.

12.1. Viễn quan thay đổi với thời gian

Các thày ta đã có nói, đây là một ảo tưởng vì thị giác không hề thụ động. Sa nhân muốn con nghĩ là nó thụ động, và đó là tại sao chúng đã thành công khiến cho tất cả mọi xã hội trên địa cầu dạy dỗ trẻ em ảo tưởng về tính thụ động của thị giác.

Nhưng như các thày đã đề cập, viễn quan là một cái gì chủ động. Chúng ta cần bàn nhiều hơn về lý do tại sao viễn quan lại chủ động và nó vận hành ra sao, và điều này liên quan tới những danh sách mà thày đã yêu cầu con lập ra trong bài giảng trước. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ tuyệt đối không thể nào thay đổi được. Về từ ngữ được sử dụng ở đây, thật sự thày đã chơi một mẹo nhỏ với con khi thày bảo là thày muốn con lập danh sách một số “thứ” tuyệt đổi không thể thay đổi được, hay ít nhất không một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được. Thày đã nói trước đó là các Elohim đã quy định và thiết lập một khuôn đúc nhất định cho trái đất và không có một quyền năng nào trên địa cầu, ngay cả toàn bộ tâm thức tập thể cũng không thể nào thay đổi được. Do đó, đúng là những thứ tuyệt đổi không thể thay đổi.

12.2. Công nghệ thay đổi viễn quan

Và tất nhiên, con đã lớn lên trong một thế giợi có rất nhiều công nghệ. Điều này dẫn chúng ta đến danh sách thứ nhì gồm những thứ có thể được thay đổi nhưng chỉ bằng những phương tiện vật lý, công nghệ hay bằng lao động vật lý. Hiển nhiên trong những thập niên vừa qua, công nghệ (do đã nhận được cảm hứng chủ yếu từ thày cũng như từ các chân sư thăng thiên khác) thật sự đã có một số khám phá thách thức những quan điểm trước đây về cuộc sống. Có những thứ mà một trăm năm về trước người ta bảo là tuyệt đối không thể nào thay đổi, nhưng giờ đây con biết rõ là chúng có thể được thay đổi.

Hạt nguyên tử có thể bị đập vỡ, và chính những hòn gạch xây dựng vật chất đó – như trước đây người ta vẫn tưởng – có thể bị đập vỡ. Đã có một thời người ta tuyệt đối bác bỏ đó là chuyện khả dĩ. Con thấy đã có sự chuyển đổi nào đó do công nghệ, và những gì không thể xảy ra cách đây chỉ vài chục năm, giờ đây trở thành khả dĩ. Tất nhiên một cách chung chung, con người đã chưa điều chỉnh được cái nhìn của mình về cuộc sống dựa theo các khám phá đó, vậy thày cần con bắt đầu điều chỉnh cái nhìn của con về cuộc sống. Thày cần con nhận chân ra công nghệ thực sự là gì. Tại sao – một lần nữa chúng ta sẽ dùng ví dụ này – tại sao nền công nghệ thời nay có khả năng đập vỡ nguyên tử? Thậm chí, tại sao con lại có một nền công nghệ có thể đập vỡ cả những hạt hạ nguyên tử thành những mảnh nhỏ hơn nữa? Đó là vì ngày nay con có sự hiểu biết không có mặt vào thời trước.

Trước khi thuyết tương đối của Albert Einstein ra đời vào năm 1905, loài người không có hiểu biết gì, ngay cả trong lý thuyết, về khả năng đập vỡ nguyên tử. Đó là vì vào thời đó, các nhà khoa học còn mang một cái nhìn nhị nguyên về thế giới, qua đó họ thấy một rào cản tuyệt đối giữa vật chất và năng lượng. Thế giới được cấu tạo bởi hai thành phần tách biệt, và cái này không thể biến hóa thành cái kia. Rồi Einstein tìm ra thuyết tương đối và ngộ ra là mọi vật chất thật sự chỉ là một dạng của năng lượng. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì thày đã nói với con trước đây. Con cần bắt đầu nhìn ra là đằng sau mọi hình tướng mà mắt người có thể trông thấy, có một năng lượng thuần khiết. Có một mô hình phức tạp những sóng năng lượng, những tín hiệu bật-tắt, những mô thức giao thoa giữa các năng lượng. Đó chính là thực tại thâm sâu hơn.

12.3. Nhìn thấy tất cả là lỏng

Lý do điểm này quan trọng là một khi con nhìn thấy một thực tại năng lượng bên dưới tầm mức vật chất (hoặc tầm mức đồ vật vĩ mô), con sẽ nhận ra tầm mức năng lượng này là lỏng. Khi con nhìn một hiện tượng vật lý nào đó, chẳng hạn đỉnh Everest hay bất kỳ ngọn núi nào mà con đã chiêm ngưỡng, con nhìn vào khối đá khổng lồ đó và con nghĩ nó vượt khỏi mọi khả năng thay đổi. Nó rắn đặc, nó to lớn khủng khiếp. Nhưng khi con nhìn vượt khỏi tầm mức vật lý, tầm mức đồ vật vĩ mô, con sẽ thấy thực tại thâm sâu hơn, và ngay cả ngọn núi rắn chắc kia cũng được tạo bằng năng lượng đang rung động, và năng lượng thì lỏng hơn vật chất rất nhiều. Ít nhất trên lý thuyết, có một khả năng thay đổi cho năng lượng cấu tạo ngọn núi đó. Tất nhiên, nếu năng lượng thay đổi thì vật chất cũng sẽ phải thay đổi theo. Điều mà Einstein đã làm là thay đổi quan điểm truyền thống, quan điểm vật lý cổ điển, về nhân và quả.

Tiếc thay, đó là điều mà các nhà khoa học nói chung đã không sẵn lòng thừa nhận. Về bề nổi, họ đã không sẵn lòng thừa nhận vì họ không muốn từ bỏ chủ nghĩa duy vật, họ không muốn nhìn thấy một mối liên hệ giữa vật chất và tâm. Ở mức sâu hơn, thực tế là họ bị đui mù bởi các sa nhân đã xâm nhập vào các giới quyền chức khoa học y như chúng đã từng chi phối Giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ (nhưng đây chỉ là một vấn đề bên lề vì thật sự thày không muốn bước vào một cuộc tranh luận chính trị ở đây).

12.4. Xem năng lượng là nguyên nhân và vật chất là kết quả

Điều thày muốn chỉ ra cho con là trong quan điểm vật lý cổ điển về thực tại, có một cái được xem là nguyên nhân và một cái được xem là kết quả. Nói cách khác, nếu có một trái banh bi-da di chuyển trên bàn bi-da, đó là một hành động vật lý. Trái banh là một vật vật lý đang di chuyển trong một không gian vật lý, và phải có một nguyên nhân vật lý, cụ thể ở đây là một cây gậy đập vào trái banh khiến nó chuyển động. Đây là cách mà người ta quan niệm nhân và quả trong vật lý cổ điển – một nguyên nhân vật lý phải có một kết quả vật lý.

Einstein đã phá vỡ cách nhìn trên – nếu người ta chịu để cho nó bị phá vỡ trong tâm họ. Ông làm được vậy là vì trên cơ bản, ông nói rằng vật chất, và mọi hiện tượng vật chất, đều là kết quả. Trong quan điểm của Einstein, chúng là kết quả của một nguyên nhân mà mắt không nhìn thấy gọi là năng lượng. Chúng ta có thể đi xa hơn vậy nhưng dù sao thì trong nhãn quan của Einstein, nguyên nhân sâu xa của mọi hiện tượng vật chất là năng lượng, là thế giới năng lượng. Con vẫn có thể bảo là có một đồ vật vật lý gọi là trái banh bi-da và có một cây gậy vật lý đập vào banh, nhưng lý do những vật vật lý đó có thể hiện hữu là vì có một nguyên nhân nằm bên dưới, là năng lượng lỏng đang rung động.

Mọi vật vật lý rắn đặc hiện hữu như là kết quả của một nguyên nhân nằm bên dưới là năng lượng lỏng. Điểm này quan trọng, con cần ghi nhớ. Nhưng chúng ta sẽ đi xa hơn nữa. Lý do khiến cho các nhà khoa học (hay ít ra các nhà khoa học duy vật) không muốn công nhận các thuyết của Einstein hay hệ quả của ngành vật lý lượng tử là vì họ không muốn từ bỏ giấc mộng khách quan. Do ảnh hưởng của sa nhân, họ đã định nghĩa giấc mộng khách quan là sự quan sát không bị ảnh hưởng bởi tâm của nhà khoa học đang quan sát.

Chuyện này trở ngược về một thời điểm khi người ta tìm cách tách rời khoa học khỏi Giáo hội Công giáo và mô tả mọi tôn giáo là chủ quan. Hay nói cách khác, mọi trải nghiệm của tâm đều là chủ quan, và do đó phải loại bỏ tâm ra khỏi khoa học. Điều mà các nhà khoa học hay nhà duy vật không nhìn nhận là tất nhiên, họ không thể làm được chuyện đó, bởi vì cho dù con có làm gì đi nữa thì con cũng phải cần đến tâm. Nếu con thực sự muốn khách quan thì chuyện xây dựng hơn nhiều là con hãy tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng đến sự quan sát như thế nào – hay ngay cả tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng những quan sát nào mà con chọn lựa, con chọn lựa chúng như thế nào, và sau đó con chọn cách diễn giải như thế nào. Nếu làm vậy thì hiển nhiên con sẽ tìm ra là không có gì có thể gọi là một quan sát khoa học khách quan.

Một quan sát không có nghĩa lý gì trừ phi nó được diễn giải, nghĩa là nó được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Bối cảnh mà các nhà duy vật đã tạo ra vô cùng chủ quan, bởi vì họ chỉ muốn tìm diễn giải trong vũ trụ vật chất. Đó không phải là một thế giới quan khách quan mà họ đã tạo dựng. Nó cũng chủ quan y như thế giới quan thời Trung cổ mà Giáo hội Công giáo đã tạo dựng. Và điều này, họ sẽ không chịu nhìn nhận.

12.5. Chấp nhận là con có một cái nhìn chủ quan

Điều chúng ta cần làm ở đây là nhìn nhận một chuyện thật giản dị. Con là một đệ tử tâm linh. Con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Như các thày đã giải thích, con đang nhìn cuộc sống qua một phin lọc gồm có một số ảo tưởng. Do đó cho dù các nhà khoa học có tin gì đi nữa, con vẫn có thể xác định trong tâm ý thức rằng con chấp nhận cách mình nhìn cuộc sống là hoàn toàn chủ quan. Cách nhìn này là sản phẩm của những ảo tưởng mà con vẫn mang và chưa gỡ bỏ được.

Trong cương vị một đệ tử tâm linh và một cá nhân, con không cần tìm kiếm một sự khách quan nào đó. Thày cũng biết là trong con có một cái ngã mong muốn rải truyền các niềm tin và sự hiểu biết tâm linh của mình để khiến cho người khác chấp nhận. Chúng ta hãy tạm gác chuyện đó sang một bên. Chúng ta đơn giản bỏ nó qua một bên và nói rằng trong cương vị một cá nhân, con có thể nhìn nhận là cách con nhìn cuộc sống là sản phẩm của trạng thái tâm hiện thời của con, của những ảo tưởng mà con đã khoác vào khi con bước xuống dưới tầng 144 và vẫn chưa lột bỏ được. Con không cần tìm kiếm một cái nhìn khách quan về thực tại như các nhà khoa học đang tìm.

Do đó, vấn đề đối với con không phải là sự thật tuyệt đối là gì, thực tại khách quan là gì. Vấn đề đơn giản là như sau: Làm thế nào con có thể cải thiện các điều kiện vật chất hiện thời của con? Không phải là vấn đề đạt tới một mức tối hậu nào đó, mà như các thày đã dạy xuyên qua khoá tu này, đó là vấn đề con nhận ra là cuộc sống sẽ cải thiện từng bước nhỏ một. Làm thế nào con có thể đi từ mức của con ngay bây giờ lên mức kế tiếp, rồi cứ thế lên tiếp nữa và lên tiếp mãi, để lần lần cải thiện các điều kiện vật lý và vật chất của mình, hầu chúng đứng đồng bộ với những gì thày đã nói: Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ghi những gì, và điều gì cho phép con nhận được những tư tưởng sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày? Làm thế nào con sẽ thực hiện được chuyện này?

12.6. Nơi nhập thất của Saint Germain không làm bằng đồ vật

Điều con có thể làm là thừa nhận rằng con đã được dạy dỗ một cái nhìn méo mó về thực tại, một cái nhìn méo mó về nhân và quả, một cái nhìn méo mó về vật chất và năng lượng. Tuy không phải là lỗi con, điều đó đã khiến con mang một số tin tưởng về những gì có thể được thay đổi và những gì không thể thay đổi. Khi nào con thừa nhận chuyện này thì con mới có thể nhìn ra bước lôgíc kế tiếp là chất vấn cách mình nhìn thực tại, những gì mình nghĩ có thểkhông thể được thay đổi.  

Đây là khi con đi vào các khía cạnh kia của các danh sách mà thày đã yêu cầu con ghi ra. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ mà con nghĩ tâm có tiềm năng thay đổi và những thứ con nghĩ tâm không thể thay đổi. Tất nhiên đó là những điều quan trọng hơn để con xem xét trong bài học này, bài học thứ năm tại nhập thất của thày. Điều thày muốn cho con thấy tại khóa nhập thất này là một điều thày ao ước có thể đưa ra cho mọi người trong cõi vật lý được thấy, nhưng chưa sẵn có công nghệ để làm được chuyện đó. Thày cho con thấy rằng những gì con xem là vật chất không hề giống như nó hiện ra xuyên qua giác quan vật lý của con. Tại khóa nhập thất của thày, con ở trong thể bản sắc, con không đang trải nghiệm khóa tu qua trung gian giác quan vật lý. Đây thật là một điểm quan trọng mà con cần suy ngẫm. Thày đã có nói là trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, một số hình ảnh của Hang Biểu tượng đã được ban ra. Nếu con đọc những cuốn sách đó, con sẽ thấy là những hình ảnh đó phần lớn dựa trên cách nhìn theo giác quan con người.

Nói cách khác, do tâm thức tập thể thời đó mà chỉ một cái nhìn nhất định về Hang Biểu tượng có thể được đưa ra. Đó là cái nhìn dựa trên giác quan, được nới rộng thêm chút xíu để con thấy một cái gì bình thường con không thấy được qua giác quan tuy con có tiềm năng thấy được qua giác quan. Tất nhiên khi con ở trong thể bản sắc, con không bị hạn chế bởi nhận thức giác quan. Con có một nhận thức hoàn toàn khác, cho nên quả thực khóa nhập thất của thày không đến nỗi vật lý đường thẳng như con tưởng trong tâm thức tỉnh ngủ.

Thật sự không có cách nào dễ dàng để khép lại khoảng cách đó. Không có cách nào dễ dàng để mô tả bằng ngôn từ khóa nhập thất của thày vì nhận thức của con quá khác lạ. Khi con trở xuống cơ thể vật lý của mình và tỉnh dậy, đương nhiên con lại nhìn cuộc sống qua giác quan vật lý. Đây là một chuyện con có thể bắt đầu thay đổi. Thày không bảo là thày chờ đợi con sẽ thay đổi được hoàn toàn sau khi học xong bài này hay ngay cả hết khóa tu này. Con cần tới gần hơn với tầng 144 trước khi con có thể thực sự giải phóng viễn quan của con khỏi giác quan vật lý. Nhưng con có thể khởi sự. Con có thể khởi sự bằng cách, như thày đã nói, nhận ra trong tâm ý thức rằng viễn quan là một khả năng chủ động.

12.7. Viễn quan bị lập trình như thế nào

Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả các con đều đã tập đi xe đạp. Nếu con trở ngược về quá khứ, con sẽ nhớ là lúc ban đầu, giữ thăng bằng là một chuyện rất khó khăn. Rồi đến một điểm nó trở thành tự động. Đó là vì rất rất nhiều chuyện trong cõi vật lý (con dùng cơ thể vật lý để làm rất nhiều chuyện) đòi hỏi nhiều chú ý – trừ phi bốn thể phàm của con có khả năng hoạt động như một máy tính và tạo ra những chương trình có khả năng “làm việc ở đằng sau”, nếu có thể nói như vậy. Giờ đây khi con leo lên chiếc xe đạp, con không cần phải đặt chú ý vào chuyện giữ thăng bằng nữa. Con chỉ ngồi lên xe đạp và có một chương trình trong tâm tiềm thức sẽ tiếp quản, và nó hoàn toàn tự động. Con có dư chú ý để quan sát cảnh vật chung quanh, hay ngay cả rút điện thoại ra đọc tin nhắn, như con thấy nhiều người làm khi họ đạp xe khắp các thành phố trên thế giới.

Điều con cần nhận ra là có nhiều chương trình như thế vận hành. Không phải là thày đang bảo là có gì sai trái hay những chương trình đó có ý hại con. Thày chỉ nói là đã đến lúc con ngộ ra là khi con nhìn bất cứ gì – khi con dùng mắt vật lý của con – thì có một chương trình trong bốn thể phàm đã được trù hoạch để biến thị giác trở thành tự động. Thật ra đây là một lãnh vực mà khoa học đã nghiên cứu phần nào, gọi là khả năng “nhận dạng mẫu” (pattern recognition).

Chức năng của chương trình này là nhìn vào các khuôn mẫu. Thày đã nói gì với con? Thày đã nói là toàn bộ thế giới được tạo thành từ hình ảnh vô cùng phức tạp đó. Thày đã nói nó giống như một màn hình với vô số những cái chấm nhỏ, và chấm đó hình thành những mô thức vô cùng tinh xảo. Điều mà chương trình trong tâm con làm là nó áp đặt một số hình ảnh lên mô thức đó. Hẳn con nhớ khi con còn bé, có lẽ con đã lấy một bức ảnh chụp trên tờ báo và nhìn nó qua kính lúp. Con đã thấy bức ảnh đen trắng trên báo được tạo thành bởi nhiều đốm nhỏ màu đen. Mật độ của đốm tạo ra cảm tưởng là con nhìn thấy những sắc xám khác nhau, và theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là cách hình thành thực tại.

Khi con nhìn vào bức ảnh trên tờ báo cũ, con không thấy từng cái chấm nhỏ riêng lẻ. Không phải vì mắt con không có khả năng nhìn thấy chấm nhỏ mà vì chương trình trong tiềm thức con đã chồng một hình ảnh lên trên các dấu chấm. Con tìm kiếm một hình mẫu. Chương trình tìm kiếm một hình mẫu.

12.8. Con người có xu hướng đặt tên cho mọi thứ

Chuyện này đòi hỏi chúng ta đi trở ngược về một bộ kinh cổ có tên là Sáng thế ký. Trong đó có câu chuyện về Thượng đế tạo ra Adam, con người đầu tiên, như thế nào. Tất nhiên đây không phải là một lời dạy hoàn toàn chính xác. Thật ra, nó chịu ảnh hưởng của sa nhân, như con sẽ thấy qua sự góp mặt của rắn nơi Vườn Địa đàng Eden. Dù sao đi nữa, chuyện kể lại là trước tiên, Thượng đế đã tạo ra tất cả các loài động vật, xong ngài tạo ra Adam, xong ngài ban cho Adam quyền năng đặt tên cho tất cả các loài động vật, thực vật cùng đồ vật trên trái đất. Adam gọi tên là gì thì đó sẽ là tên của chúng. Hiển nhiên tiến trình này bị sa nhân ảnh hưởng một cách sâu đậm – một cách thâm sâu và cơ bản. Chúng ở trong tâm thức tách biệt và chỉ trong tâm thức tách biệt người ta mới có nhu cầu đặt tên.

Bây giờ con thử suy ngẫm chuyện này. Con hãy tưởng tượng con đang ở vùng thảo nguyên châu Phi và con nhìn thấy một mô thức vô cùng phức tạp những màu sắc và hình dạng. Con có thể xem hình ảnh đó duy chỉ là sự tương tác giữa những tia sáng, những chấm nhỏ, hay ngay cả nhiều loại hình dạng khác nhau. Thậm chí con có thể nhận diện một số hình dạng đang di chuyển trên thảo nguyên, hình như đang làm gì đó với các nhánh cỏ. Có những hình dạng khác đang vươn lên cao làm gì đó với cây cối. Con thử nghĩ xem, đối với người dân sơ khai từng sống trên thảo nguyên châu Phi này, câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào anh ta có thể sống sót trên thảo nguyên này? Một trong những thử thách to lớn hiển nhiên là làm thế nào không biến mình thành miếng mồi ngon cho cái mà ngày nay con sẽ gọi là sư tử.

Con người sơ khai đó phải làm gì đây? Anh ta phải tạo ra một mô hình trong tiềm thức có khả năng nhận diện hình dạng con sư tử, nhận diện nó là nguy hiểm để mà có ngay biện pháp trốn chạy trước khi mình có thể suy nghĩ thấu đáo về sự việc. Con thấy đây chính là điểm nảy sinh ra nhu cầu đặt tên. “Sư tử! Nguy hiểm! Chạy trốn!” Chuyện này phải diễn ra thật mau lẹ, mau lẹ đến nỗi tâm ý thức thật không sao làm kịp.

Con thấy ở đây là trong trạng thái Địa đàng nguyên thủy của địa cầu, không có nhu cầu để mà đặt tên và xem mọi thứ là tách biệt như vậy. Chỉ sau cuộc sa ngã vào nhị nguyên mới có nhu cầu đặt tên cho vật và xem vật như một vật tuyệt đối. Chuyện xảy ra là con đã lớn lên và được dạy dỗ, ngay cả trong thế giới hiện đại, để dùng quyền năng viễn kiến của mình mà không nhìn thấy năng lượng, không nhìn thấy các mô thức phức tạp của sóng năng lượng, của những cái chấm hay những hình dạng. Con nhìn thấy những “vật” và con đặt tên cho những vật đó. Quyền năng thị nhãn của con đã phần lớn bị kết dính với ngôn ngữ, là cách dùng ngôn từ đặt tên cho vật.

Điều này không nhất thiết là một vấn đề lớn. Nó trở thành một vấn đề khi con đạt đến những tầng cao hơn của đường tu. Con cần bắt đầu nhìn nhận ở đây là những gì đã từng hữu ích ở một tầng mức nào đó (chẳng hạn cái gì đã giúp con đi xe đạp) sẽ trở thành một trở ngại ở những tầng mức cao hơn. Một khi con đã gọi tên cái gì đó là một vật, thì không những con sẽ nghĩ nó có một thực tại khách quan mà con cũng nghĩ đó là một cái gì tách biệt. Điều này nghĩa là gì?

12.9. Vật trở nên tách biệt như thế nào

Có nghĩa là ở tầm mức trước mặt, vật đó tách biệt với con. “Tôi đang ở đây, và ở kia có một vật gọi là chiếc xe đạp. Nó tách biệt khỏi tôi. Tôi có thể để nó trong ga-ra khi tôi bước vào nhà. Tôi không thể để lại thân thể tôi trong ga-ra khi tôi bước vào nhà nhưng tôi có thể để lại chiếc xe đạp. Đó là một vật tách biệt, nó tách biệt với tôi”. Ở một tầm mức tinh tế hơn, giờ đây chiếc xe đạp đã trở thành tách biệt khỏi bản chất thuần nhất của thực tại. Nó là một vật tách biệt đang nổi trôi trong không gian, hay đúng hơn nó đứng trên mặt đất, nhưng dù sao con đã nắm được ý thày. Bây giờ nó là một vật tách biệt, nó không kết nối với bất cứ gì. Chuyện vừa xảy ra ở đây là khi con bước xuống nhị nguyên, khi con sử dụng quyền năng thị nhãn của mình để tìm kiếm các hình mẫu đó và đặt tên cho chúng là đồ vật có sự hiện hữu khách quan tách biệt nào đó, thì con đã hoàn toàn che khuất thực tại nằm bên dưới, nơi mọi thứ đều kết nối và là thành phần của một tổng thể.

Con hãy tưởng tượng con đi chơi biển vào một ngày gió rất lớn và sóng rất cao. Tưởng tượng con đang nhìn biển cả, và những ngọn sóng hiển nhiên là những thành phần của biển. Sóng có thể rất lớn, rất mạnh, rất cao, và giữa sóng là những vùng lõm rất sâu. Tuy nhiên con vẫn thấy được là sóng được hình thành từ biển và không hề tách biệt khỏi biển. Bây giờ con hãy tưởng tượng con tạo ra một màn sương mù bên dưới, và sương mù nằm dưới thấp khiến con chỉ nhìn thấy đỉnh sóng ở trên mà không nhìn thấy biển cả ở dưới. Trong trường hợp này, con sẽ chỉ thấy những tháp nước, những hình dạng của nước, và con sẽ thấy chúng tách rời nhau. Thậm chí có thể con còn phân vân: “Ủa, tháp nước này từ đâu đến? Tại sao nó bỗng hiện ra nơi đây? Liệu nó có liên hệ gì với cái tháp nước ở đằng kia hay không?”

Trong cốt lõi, đây chính là điều xảy ra cho loài người như là hệ quả của tiến trình thày vừa mô tả. Con đã dần dà nhìn thấy một thế giới gồm những vật tách biệt. Con không nhìn ra là tất cả những vật đó đều nối kết với nhau vì chúng là sự biểu đạt của một thực tại duy nhất bên dưới. Hậu quả của chuyện này là gì? Đó là con nghĩ: “Đây là một vật tách biệt, nó tách biệt khỏi tôi, nó tách biệt khỏi tâm tôi, và do đó tôi không có cách chi ảnh hưởng đến nó hay thay đổi được nó bằng tâm của tôi. Làm thế nào tôi có thể thay đổi bằng tâm tôi khi không có sự nối kết nào giữa vật và tâm tôi?”

12.10. Tìm một cách nhìn khác

Để khắc phục ảo tưởng này – rằng có quá nhiều thứ con không thể thay đổi, và không thể thay đổi bằng tâm – con cần khởi sự chất vấn cái nhìn đó. Con cần bắt đầu rất từ từ nhận ra là có một cách khác để nhìn.

Con có thể tìm xem một số ảo thị (optical illusion) đã được người ta sáng chế để đánh lừa thị giác của con. Thoạt nhìn thì con thấy một vật gì đó, nhưng khi con nhìn kỹ hơn, con lại thấy một vật khác. Có một số tấm hình khá phổ biến chỉ là một đống chấm, nhưng khi con nhìn kỹ, bỗng dưng sẽ hiện ra hình dạng của một con cá heo hoặc bất kỳ hình dạng nào khác. Con có thể dùng những tấm hình này để nhận ra là con không thể hoàn toàn tin cậy giác quan của mình. Thật ra không phải là vấn đề giác quan của con mà là cái chương trình trong tâm tiềm thức đã chụp lấy dữ liệu do giác quan cung cấp và đè chồng lên một hình ảnh dựa trên khả năng nhận dạng mẫu, quy định một số vật và tìm kiếm những vật đó.

Con nhận ra là khi con nhìn một cái gì, con không đang thực sự nhìn cái đang ở đó. Chương trình trong tiềm thức nhìn vào cảnh vật, tìm kiếm những dạng mẫu mà nó đã sẵn nhận diện, đã sẵn lưu trữ trong kho dữ liệu này. Một khi nó tìm ra dạng mẫu đó, nó chỉ giản dị đè cái này lên những gì con đang nhìn. Trong nhiều trường hợp, thật sự con nhìn thấy một vật với mắt con nhưng bộ não lại hiển thị một hình ảnh gì khác trong đầu con. Bộ não hiển thị hình ảnh được tạo ra bởi chương trình tiềm thức chuyên tìm kiếm khuôn mẫu. Đây là một con sư tử. Đây là một con hươu cao cổ. Đây là một con ngựa vằn, vân vân và vân vân. Con không nhìn cái đang ở đó, vì cái đang ở đó là một mô thức phức tạp những sóng năng lượng, những cái chấm, những tín hiệu bật-tắt. Cái ở đó thì lỏng nhưng trong tâm con, nó bị biến thành một cái gì tuyệt đối, một cái gì khách quan. Con đang nghĩ – con đã bị lập trình để nghĩ – rằng cái con đang nhìn là một thực thể khách quan nằm ngoài tâm con, tách biệt khỏi tâm.

Điều thày cần con bắt đầu suy ngẫm ở đây là: Đó là một ảo tưởng. Đã đến lúc con bắt đầu chất vấn nó vì lý do giản dị là con sẽ không bao giờ thay đổi được bất cứ gì bằng tâm nếu con thấy nó tách biệt khỏi tâm. Để con, để tâm con có thể thay đổi được gì, phải có một sự nối kết giữa tâm con và vật đó. Vì vậy, chừng nào con còn nhìn thế giới qua trung gian chương trình tiềm thức này đang tô vẽ mọi thứ là tách biệt, con sẽ không bao giờ thay đổi được hoàn cảnh vật lý, vật chất, của con bằng tâm. Chuyện đó không thể nào làm được.

12.11. Thị hiện những gì có vẻ khả dĩ

Một lần nữa con có thể nhìn lại những cuốn sách hay khóa dạy về thuật kết đọng vàng bạc từ hư không. Những người theo học như vậy không thành công vì lý do giản dị là họ đang cố làm đúng chuyện đó – họ đang cố thị hiện những vật mà họ xem là tách biệt với chính họ. Đó là tại sao điều thày mong muốn cho khóa tu này là con đừng thử làm những chuyện mà ngay từ đầu đã là chuyện bất khả thi, mà thay vào đó, con hãy điều chỉnh lại cái nhìn của mình. Đó là lý do thày đã nói: “Hãy điều chỉnh kỳ vọng của con”, hầu con có thể làm được, thị hiện được một cái gì con sẽ dễ chấp nhận là chuyện khả dĩ. Nói cách khác, các thày muốn con khởi sự với một việc rõ ràng khả thi – một việc mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi tâm mình.

Môt lần nữa, con có thể nhìn vào hoàn cảnh vật lý của con và con thấy một số thay đổi con mong muốn xảy ra. Ở điểm này, chúng ta có thể xem xét: Làm thế nào để những thay đổi đó xảy ra? Thày có nói là con không muốn cưỡng ép quyền tự quyết của người khác. Nếu sự thay đổi đòi hỏi người khác phải thay đổi thì đó không phải là điều thày yêu cầu con chú tâm vào. Thày yêu cầu con chọn ra một khía cạnh nào đó của đời con mà sự thay đổi không đòi hỏi con phải cưỡng ép người khác. Sau đó, thày yêu cầu con lấy hoàn cảnh đó và nhận ra là ngay cả ở tầng vật lý, có những thay đổi khả dĩ sẽ không nhất thiết là thay đổi thần diệu. Chúng chỉ đơn giản đòi hỏi con thực hiện một sự xoay chuyển để con nhìn thấy cái gì đó mà con hiện chưa nhìn thấy.

Con có thể nhìn những người trải qua một cơn trầm cảm (và có thể chính con đã từng trải qua trong đời mình hoặc con đã thấy người khác trải qua). Họ đã bước vào một vòng xoáy ốc hướng hạ, đã khoác vào một cái nhìn rất tiêu cực, gây giới hạn, về cuộc sống hay về bản thân họ. Họ nghĩ mình thật tồi tệ: “Không cách chi tôi tìm được việc làm tốt, tôi không đủ giỏi, tôi thiếu khả năng, tôi không được học hành, tôi không có cái này, không có cái kia.” Con sẽ thấy có những người khác ở trong cùng tình cảnh như vậy ở mức vật lý, vật chất, nhưng bỗng dưng có gì xảy ra thay đổi hẳn và họ tìm được việc làm tốt.

Tại sao một người không tìm được việc làm trong khi người kia lại tìm được? Là vì người thứ nhì mở tâm ra với những điều khả dĩ mà người thứ nhất không mở ra và vì vậy không nhìn thấy được. Xoay chuyển đầu tiên mà con cần thực hiện là con bắt đầu nhìn vào hoàn cảnh của mình và nhận ra là có những khía cạnh trong hoàn cảnh mình mà cho tới giờ mình xem là không thể hoặc khó lòng thay đổi. Hay thậm chí, có lẽ con chưa hề nghĩ đó là chuyện có khả năng thay đổi vì con đã được dạy dỗ là sự thể phải như vậy.

12.12. Nhìn thấy khả năng mới

Chẳng hạn, sứ giả này đã lớn lên trong một thị trấn khá nhỏ tại Đan mạch nơi cả gia đình ông đã sinh trưởng. Thân nhân của ông vẫn sống ở đó và sẽ chết ở đó. Họ không bao giờ nảy ra ý tưởng là họ có thể dời đi một thành phố khác để tìm việc làm tốt hơn. Họ chỉ có thể mường tượng những loại công việc có sẵn nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Đơn giản, việc dọn đi xa hay đi học hay làm một nghề gì khác không phải là cách nhìn cuộc sống mà họ đã được dạy dỗ. Nhưng con cũng thấy, tất nhiên, có nhiều người khác không ngại di chuyển, không ngại tìm cầu học vấn ở mức cao hơn và do đó họ cũng đã xoay sở để có được công việc tốt hơn. Con thấy là đối với con ở mức này, con cần phải có chút tin tưởng để nhìn vào tình trạng của mình và tự hỏi: “Có thật là có những cơ hội mà hiện thời tôi chưa thấy được vì có gì đó trong thái độ của tôi đang ngăn chặn không cho chúng hiện ra? Tôi không đang nghĩ là mình có khả năng làm được chuyện này.”

Một lần nữa, con lại có thể nhìn vào tuổi thơ ấu của sứ giả này khi ông có ước mơ trở thành một nhà văn. Khi ông lớn lên, người ta bảo ông: “Con không thể nào làm nghề viết văn tại Đan mạch mà kiếm đủ sống, vì chẳng có bao nhiêu người biết đọc tiếng Đan mạch.” Đó không nhất thiết là một lời nhận định hoàn toàn thiếu thực tế, mặc dù một số nhà văn tại Đan mạch đã xoay sở để kiếm đủ sống từ nghề cầm bút. Dù sao đi nữa, sứ giả này đã làm gì? Ngay từ khi còn bé, ông luôn luôn cảm nhận mạnh mẽ là mình cần học tiếng Anh. Thế là nhờ biết viết tiếng Anh mà trong một thời gian ông đã có thể kiếm sống như một nhà văn.

Thày không đang bảo là con phải làm y như thế, nhưng con cần nhìn nhận là khi con lớn lên, con đã khoác vào một số tin tưởng từ gia đình con, từ môi trường chung quanh, từ xã hội của con. Vấn đề không phải là có những thứ con xem là bất khả thi, mà con chỉ không xem chúng là khả thi. Thậm chí con không nghĩ chúng là chuyện có thể, và ai nấy chung quanh con cũng không nghĩ chúng là có thể.

Đây là điều mà con có thể khởi sự xem xét ngay bây giờ và nhận ra là có thể có những cơ hội ở ngoài kia trong cõi vật lý, đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần hòa nhập với chúng rồi sau đó con cần sẵn lòng vươn theo đó và thay đổi. Điều này có thể áp dụng trong rất nhiều khía cạnh đời con, chẳng hạn như trong các mối quan hệ, nơi con sinh sống, cách sống của con, sự học tập và giáo dục của con, sự nghiệp của con. Rất rất nhiều người thời nay có nhiều hơn là một sự nghiệp trong một đời người. Một khi họ ra trường hay tìm được việc làm, họ không bị khóa chặt trong cùng một công việc suốt 40 năm trước mặt. Quả thực, xã hội đã trở nên lỏng hơn. Mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, có tâm lỏng hơn, có cách suy nghĩ linh hoạt hơn rất nhiều so với thế hệ trước.

Thày chỉ yêu cầu con, trong cương vị một học trò tâm linh ở tầng khai ngộ này, nhìn lại một lần nữa những thứ gì mà con có trong tâm nơi tâm con không được lỏng, không được linh động. Con cho là có một số lằn ranh, một số giới hạn mà con không thể vượt qua. Vậy thì con cần chất vấn các giới hạn đó và khởi sự bước đi xa hơn. Đây là một bước rất thực tiễn, rất khả thi. Vượt xa hơn nữa, tất nhiên là thày muốn con vượt xa hơn nữa. Thày muốn con bắt đầu chất vấn chính cách nhìn của con về thực tại vật lý. Thày vừa nói với con làm thế nào con có thể làm được chuyện đó, là bằng cách nhìn xa hơn tầng cấp những thứ mà con đặt tên.

12.13. Tầng thâm sâu hơn của thực tại

Con cần nhìn ra là vượt quá những thứ đó còn có một tầng cấp thâm sâu hơn của thực tại – những sóng năng lượng, những mô thức giao thoa, những tín hiệu bật-tắt, những cái chấm. Đúng thực là con có thể tự đào tạo bản thân để đạt tới mức con thấy được – ít nhất là thấy thoáng hiện và không nhất thiết một cách vật lý – hay con cảm nhận được rằng mọi sự vật con nhìn thấy chung quanh mình là không rắn đặc, không cứng nhắc và bất khả chuyển đổi. Chúng chỉ là những cách biểu đạt của tầng mức năng lượng lỏng bên dưới đó mà thôi. Sau đó con có thể đi thêm một bước và nhìn nhận: “Điều gì khiến cho mọi chuyện ở mức vĩ mô có vẻ là vật tách biệt? Nếu chúng thực sự không tách biệt – như các khoa học gia đã chứng minh rất nhiều lần là không có gì tách biệt, mà mọi thứ đều nối kết với nhau – thì tại sao chúng lại có vẻ tách biệt?”

Chúng có vẻ tách biệt bởi một lý do duy nhất mà thôi. Chính tâm con đã chồng cái hình ảnh đó lên trên chúng. Chính tâm con đã khiến chúng dường như tách biệt. Con đã bị lập trình để nghĩ chúng là những thực thể khách quan, chúng là những vật tách biệt, nhưng kỳ thực không phải vậy. Không có nơi nào trong vũ trụ có vật tách biệt. Tất cả mọi sự vật đều là thành phần của bản chất thuần nhất của thực tại, tấm thảm của sự sống. Một khi con bắt đầu nhập vào và hòa điệu với nó, con sẽ nhận ra, như thày đã bảo con, rằng tất cả đều là tạo vật của tâm.

Các Elohim đã tạo ra hành tinh, và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều trong số các điều kiện hiện hành trên hành tinh, nhưng tất cả đều là những tạo vật của tâm. Có nghĩa là từ một nhãn quan nào đó, không hề có vật nào không thể được tâm thay đổi. Câu hỏi đặt ra là: “Tâm nào?” Có một số thứ chỉ có thể được thay đổi bởi một tâm ở tầng mức Elohim. Có một số thứ không thể thay đổi ở tầng mức tâm con người. Tuy vậy, có rất rất nhiều thứ hơn nữa có thể được thay đổi ở tầng mức tâm con người, nhiều hơn là đa số con người có thể chấp nhận.

Đó là điều thày yêu cầu con khởi sự chất vấn, vì việc thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của con có hai khía cạnh. Có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Omega là khi con thu hút về phía con những điều kiện đã có sẵn trong cõi vật lý. Con thu hút việc làm đó, con thu hút người phối ngẫu đó trong mối quan hệ. Con thu hút, con trở thành một thỏi nam châm.

Làm thế nào con trở thành một thỏi nam châm? Một lần nữa, con cần khắc phục cảm nhận tách biệt. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả khái niệm nam châm cũng tăng cường cho cảm nhận tách biệt vì con xem nam châm như một vật khách quan đang thu hút một vật khách quan khác. Nhưng dù sao thày vẫn muốn sử dụng hình ảnh từ trường ở đây để cho con thấy là có một số điều kiện đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần phát hiện ra chúng, từ hóa chúng về phía con, từ hóa chính con về phía chúng, để hấp dẫn chúng về phía con, và hấp dẫn con về phía hoàn cảnh đó.

Không phải là chuyện tạo ra một cái gì chưa sẵn có trong cõi vật lý, mà là chuyện khám phá và nhận ra rằng chính tư duy mà con có ngay bây giờ đang ngăn cản con khám phá cái sẵn ở đó. Đây là khía cạnh omega của việc cải thiện hoàn cảnh của con, khía cạnh omega của thị hiện.

Bây giờ, khía cạnh alpha là khi con thị hiện một cái gì đang không có mặt trong cõi vật lý – chuyên này nghe có vẻ bí hiểm, thậm chí thần diệu, nhưng nó thật không thần diệu đến như vậy. Thày đã nói điều gì là một trong những mục tiêu mà thày mong muốn con đặt ra cho mình? Đó là con trở thành một người có khả năng tiếp nhận một tư tưởng từ thày sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim. Con hãy nhìn sứ giả này một lần nữa. Tất cả những cuốn sách mà ông đã viết đều nhận linh hứng từ cõi thăng thiên. Ông đã thị hiện một cái gì chưa hiện diện trong cõi vật lý trước đây. Tất nhiên, đây không phải là cách duy nhất để thị hiện nhưng thày chỉ muốn đưa ra một ví dụ cho con.

Không có gì thần bí hay thần diệu gì trong đó. Đơn giản đó chỉ là chuyện nhận được một ý tưởng từ cõi thăng thiên mà con đưa xuống qua ba tầng cao của tâm con cho đến khi nó thị hiện ở tầng vật lý. Việc làm này không quá sức tất cả các con. Thày không đang đặt ra cho con một mục tiêu vượt quá khả năng của con cũng như những gì con có thể bắt đầu làm ở mức tâm thức hiện thời của con. Tất nhiên là thày không đề ra cho con mục tiêu thị hiện vàng bạc từ hư không, bởi vì con không thể làm chuyện đó ở mức tâm thức hiện thời của con. Thật ra, hầu hết những ai ở mức tâm thức đủ cao để thực hiện, sẽ không chọn làm chuyện đó vì nhiều lý do khác nhau. Ở đây thày đang trao cho con một mục tiêu thực tiễn về những gì khả thi, những gì con có thể thực hiện bằng cách khởi sự xoay chuyển viễn quan của mình, xoay chuyển cách mình nhìn cuộc sống.  

12.14. Con đồng sáng tạo hoàn cảnh của con

Con yêu dấu, thày đã trình bày về bộ máy giả thực tại, và vũ trụ vật chất là một bộ máy giả thực tại. Cho tới tầng tâm thức hiện thời của con, đã không có sự cần thiết để con chất vấn cách vận hành cơ bản của máy giả thực tại. Nhưng giờ đây, con cần làm một cuộc chuyển đổi nho nhỏ và đơn giản là nhận ra điều mà thày đã nói với con, tức là địa cầu không thực sự giả dạng thực tại, mà chính tâm con mới giả dạng thực tại. Chính tâm con tạo dựng cảm nhận thực tại đó khiến khi con nhìn sự vật, con sẽ nói: “Đây là một con sư tử, đây là một con hươu cao cổ” rồi con nghĩ cái đó có một thực thể khách quan. Con chỉ đặt tên cho cái đang ở đó.

Con cần nhận ra là con không chỉ đặt tên cho cái đã sẵn ở đó, mà con còn đồng sáng tạo. À, thày biết là con sắp sửa nói (và đây là một câu hỏi hữu lý): “Nhưng chẳng phải là đã có sẵn một số thứ không do tâm con tạo ra hay sao?” Tất nhiên là có. Thày đã giải thích là các Elohim đã tạo ra địa cầu và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều những thứ khác mà con thấy trên trái đất. Có những thứ đã có sẵn ở đó rồi. Con có thể nói là nếu con lìa đời ngay lúc này và không còn hiện thân thì sư tử và hươu cao cổ sẽ không biến mất khỏi châu Phi. Tất nhiên là chúng không biến mất. Điều thày muốn nói là những thứ khách quan, những thứ đang hiện diện trong tâm con, không phải là những thứ quan trọng đối với con.

Thày sẽ nói là những con sư tử và hươu cao cổ kia không phải là thực thể khách quan theo nghĩa các nhà khoa học thường dùng. Chúng vẫn được tạo ra bởi một cái tâm, chúng vẫn là tạo vật của tâm, chỉ có cái là không phải tâm con. Điều thày nói ở đây là: Đúng vậy, có một số thứ ở ngoài kia không do tâm con tạo ra, nhưng hoàn cảnh cá nhân của con, ngay cả hoàn cảnh vật lý của con, là do tâm con đồng sáng tạo. Tâm con đã không toàn bộ tạo ra nó bởi vì, một lần nữa, những hoàn cảnh vỏ ngoài đó cũng được người khác tạo ra, vân vân và vân vân. Con đang sống trong một bộ máy giả thực tại chịu sự ảnh hưởng của nhiều người khác, nhưng chắc chắn có những khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con là do tâm con đồng sáng tạo.  

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật cẩn thận – đây không phải là chuyện con nhìn một cái gì đã sẵn ở đó trước khi con nhìn, mà có một số khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con được đồng sáng tạo do hành động nhìn của con. Chính bằng cách nhìn chúng mà con thực sự tạo ra những hoàn cảnh đó. Có thể con không tạo ra mọi khía cạnh của tình huống đó, nhưng con tạo ra một số khía cạnh ảnh hưởng đến cá nhân con. Cách con trải nghiệm cuộc sống được đồng sáng tạo trong bốn thể phàm của con.

Như các thày đã nói nhiều lần, điều gì là điều duy nhất mà con có quyền năng thay đổi? Đó là chính tâm con, bốn tầng của tâm con. Con có quyền năng thay đổi cái đó, bất kể các chọn lựa của người khác và bất kể các điều kiện vỏ ngoài. Khi con thay đổi cách con nhìn cuộc đời, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Tại sao vậy? Làm sao thày nói được điều này khi nó ngược hẳn với mọi điều con đã được dạy dỗ để mà tin theo? Bởi vì thày là một chân sư thăng thiên, con yêu dấu, và thày đã thăng thiên bằng cách khắc phục ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục, cụ thể là sự tách biệt giữa tâm và vật chất.

12.15. Thay đổi trải nghiệm về cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, như thày đã nói trong bài giảng trước, thời tiết ở Nam cực không thành vấn đề khi con ngồi đây trong căn phòng ấm áp này. Điều quan trọng đối với con là trải nghiệm của con về môi trường chung quanh, trải nghiệm của con về đời con. Điều đó mới quan trọng với con. Để hội đủ tư cách thăng thiên, con không cần phải thay đổi tình trạng vật lý trên trái đất. Điều duy nhất con cần phải thay đổi để hội đủ điều kiện thăng thiên là những điều kiện bên trong bốn thể phàm của con.

Điều duy nhất con cần phải thay đổi để có một trải nghiệm tích cực hơn về cuộc sống so với trải nghiệm của con ngay bây giờ, là các điều kiện bên trong bốn thể phàm của con. Có một câu thành ngữ phổ biến trong các cộng đồng Thời mới, đó là: “Khi con thay đổi cách con nhìn vật, thì vật mà con nhìn sẽ thay đổi.” Câu đó không nhất thiết là thực tế tuyệt đối (theo nghĩa là con có thể thay đổi mọi thứ) nhưng như thày nói, trong hoàn cảnh cá nhân của con, có những thứ mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi cách con nhìn chúng.

Bây giờ con đang ở tầng khai ngộ mà đó là bước kế tiếp của con. Con cần nhận chân nó, nhìn nhận nó, và như vậy con bắt đầu xem xét mình đang nhìn mọi vật như thế nào, mình nhìn đời mình như thế nào, mình nhìn mọi điều kiện như thế nào.

Con hãy nhìn nhận là bất kể các điều kiện vỏ ngoài có thế nào, bất kể người khác, bất kể thời tiết tại Nam cực có thế nào, vẫn có một điều gì mà con có thể khởi sự thay đổi ngay bây giờ, và điều đó chính là cách con nhìn cuộc sống. Con có thể bắt đầu chuyển rời khỏi cái nhìn vật tách biệt. Con có thể bắt đầu nhìn xa hơn hình ảnh rắn đặc đó. Con có thể bắt đầu nhìn ra là tất cả đều nối kết, tất cả đều lỏng, và tại sao nó lỏng chứ?

Làm thế nào bộ máy giả thực tại của địa cầu sản xuất ra tất cả những hiện tượng đó mà giác quan bảo con đó là những vật tách biệt, rắn đặc? Máy giả thực tại trên địa cầu có bốn tầng – bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Tầng vật lý là gì? Đó là một màn hình. Có một hình ảnh được chiếu lên màn hình. Làm cách nào hình ảnh đó được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý? Nó được chiếu lên do trong cõi bản sắc có một hình ảnh được hình thành, định ra những thông số tổng quát, một khung sườn toàn bộ nào đó. Xong nó được chiếu vào tầng lý trí nơi nó trở nên cụ thể hơn, chi tiết hơn. Xong nó được chiếu vào tầng cảm xúc nơi nó nhận được động lực, thôi thúc, xung lực năng lượng biến nó thành vật lý.

Thày cần con bắt đầu xoay chuyển tâm con một cách ý thức cho đến chỗ con nhận ra là bất cứ gì con nhìn thấy cũng không là một thế giới khách quan đang hiện hữu ở ngoài kia. Bất cứ gì con thấy đều là sự phóng chiếu trên một màn hình những hình ảnh đang hiện hữu ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Hoàn cảnh của con ngay bây giờ có một số khía cạnh không được tạo ra bởi bốn thể phàm của con, như thày đã nói nhiều lần. Nhưng có những khía cạnh khác của hoàn cảnh đó không là gì hơn sự phóng chiếu trên màn hình thế giới vật lý của những hình ảnh mà con mang trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Những hình ảnh này, con có quyền năng khởi sự thay đổi. Con không thể búng tay thay đổi tất cả những hình ảnh đó cùng một lúc, nhưng con có thể khởi sự thay đổi chúng. Khi con làm vậy, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Chúng sẽ thay đổi, con yêu dấu.

Nếu cần, con hãy bước vào một rạp chiếu phim và nhìn lên màn hình. Con sẽ thấy khi không có phim đang trình chiếu, nó chỉ một màu trắng tinh, không có hình gì trên đó. Con sẽ thấy là bất kể bộ phim nào con đặt vào máy chiếu, hình ảnh đó cũng sẽ hiển thị trên màn ảnh. Nếu con thay đổi hình ảnh, thay đổi cuộn phim nơi ba thể cao của con, con sẽ thay đổi hình ảnh được trình chiếu trên màn hình vì hình ảnh đó không bền lâu, và tự thân nó không có thực tại khách quan nào. Đó là một hình ảnh được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý và nó được chiếu rất rất nhiều lần mỗi giây. Ánh sáng chỉ đơn giản chiếu rọi qua cuộn phim trong ba cái tâm cao của con. Khi con thay đổi cuộn phim thì con sẽ thay đổi những gì được trình chiếu trên màn ảnh. Không có cách nào khác, con yêu dấu.

Thày biết điều này trái ngược với mọi thứ con đã được dạy dỗ và tin tưởng khi lớn lên. Đương nhiên là trái ngược rồi. Đó chính là toàn bộ mục đích của khóa tu này: thay đổi để con không bị kẹt trong những điều con đã được dạy dỗ phải tin vào. Bởi vì nếu thế, con nhất định sẽ không thể thăng thiên sau kiếp này, vì sa nhân đã làm mọi cách để lập trình tâm thức tập thể rằng thăng thiên là chuyện bất khả thi.

Trong cốt lõi, đó chính là điều mà các thày đã làm ngay từ bài học đầu tiên của Chân sư MORE trong khóa tu này. Đã đến lúc con cần bước lên và thực sự chất vấn cách con nhìn thực tại và nhận ra một số khía cạnh trong hoàn cảnh của con chỉ là sự phóng chiếu của những hình ảnh con đang cầm giữ, những gì con nghĩ là khả thi, những gì con nghĩ là có thể thay đổi, những gì con nghĩ là không thể thay đổi.

12.16. Vật được duy trì bởi tâm

Con yêu dấu, con có thấy điều thày nói ở đây? Con đã bị lập trình để tin rằng có những khía cạnh trong hoàn cảnh của mình có một thực tại khách quan bên ngoài tâm con. Chúng là những điều kiện vỏ ngoài định đoạt những gì con có thểkhông thể làm. Thày đã nói với con: “Con là một sinh thể tâm linh. Các điều kiện vật lý không quy định được con.” Cái gì quy định con chứ? Những hình ảnh trong chính tâm con, đó là cái quy định con. Liệu con có thể thay đổi một số điều kiện ngoại cảnh hay không? Không, vì chúng được tạo ra bởi một cái tâm khác tâm con. Nhưng con có khả năng thay đổi những khía cạnh trong hoàn cảnh của con mà tâm con đã tạo ra.

Tại sao có một số điều kiện cứ duy trì mãi trong thời gian? Là vì trong ba thể cao của con vẫn còn một cuộn phim mà ánh sáng chiếu rọi qua. Ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng đó và cái đó được chiếu lên màn hình. Chừng nào con chưa đi vào ba thể cao và thay đổi những gì con tin là khả thi, con sẽ tiếp tục phóng chiếu hình ảnh đó, và nó sẽ khoác vào những gì con tưởng là tình huống ngoại cảnh đang giới hạn con.

Giới hạn chỉ hiện hữu trong tâm con mà thôi (không phải trong mọi trường hợp trong đời con nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khía cạnh của đời con). Con không nhìn ra là có một cách khác để nhìn. Thật ra có hẳn một cơ hội mới, có hẳn một khả năng khác để kết đọng một cái gì mà hiện thời con cho là bất khả thi.

Có những điều con không thể thay đổi trong cương vị một con người. Có những điều con không thể thay đổi ở mức tâm thức hiện tại của con. Con có thể nâng cao tâm thức mình và thay đổi chúng. Nhưng có những điều mà con có khả năng thay đổi ở mức tâm thức hiện thời của con. Điều duy nhất ngăn cản con thay đổi chúng là con đang có một niềm tin hay một chương trình trong tiềm thức khiến con nghĩ việc thay đổi là bất khả thi. Đó chính là điều con cần chất vấn ở tầng khai ngộ thứ năm này tại khóa nhập thất của thày.

Liệu sự chuyện đổi này có dễ thực hiện hay chăng? Không, con yêu dấu! Nó không dễ. Nếu con dõi nhìn con ngay lúc này, con sẽ thấy một phản ứng trong con, một cảm giác nhẹ nhõm khi con nghe thày nói vậy. Có một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt trong con không muốn con phá vỡ hàng rào đó và thoát ra khỏi giới hạn đó – bởi vì khi đó nó sẽ chết. Sự chuyển đổi sẽ không dễ dàng nhưng đó là một chuyển đổi khả thi ở mức khai ngộ hiện thời của con.

Đó là tại sao Chân sư MORE đã không bắt con phải đối mặt với vấn đề này ở ngay tầng đầu của khóa tu này, nhưng giờ đây con có khả năng thực hiện cuộc xoay chuyển đó. Khi con bắt tay vào việc, con sẽ nhận thấy con sẽ tin một cách dễ dàng hơn rằng một số khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của mình có thể thay đổi thực sự.

Con sẽ tin dễ dàng hơn rằng mình có thể nhận được một hiểu biết mới, một sáng ngộ mới, một viễn quan mới, một ý tưởng mới về cách thay đổi một điều gì đó trong đời sống cá nhân (hay ngay cả thực hiện một điều gì sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày) bằng cách thay đổi một điều gì đó mà con nhìn thấy trong thế giới bên ngoài.

Đó là những gì thày muốn trao cho con qua bài học này. Như luôn luôn, bài học rất dài, nhưng khi chúng ta ngày càng đến gần hơn với tầng 96, tất nhiên các khai ngộ, theo một nghĩa nào đó, sẽ tinh tế hơn, gai góc hơn, cho nên đòi hỏi nhiều giải thích hơn một chút. Thày cảm ơn con đã chú ý theo đõi và thày rất mong sẽ trao cho con bài học tới.

Chào mừng con đến máy giả thực tại địa cầu

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 13/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và trong bài thứ tư tại khóa nhập thất của thày, chúng ta sẽ sử dụng Tia thứ Tư của Thuần khiết hay Gia tốc. Thày có ý định thanh tẩy điều gì chứ? Cái nhìn của con về cõi vật chất, cõi vật lý, vũ trụ vật lý.

Con yêu dấu, thày đã có giảng là tất cả mọi thứ được làm bằng vật chất, mà vật chất thực sự được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa xuống tận đến năng lượng. Thật sự năng lượng là gì? Năng lượng có thể so sánh với một thứ mà con dùng trong công nghệ máy tính là tín hiệu bật-tắt. Bất cứ gì đều hoặc bật hoặc tắt, chỉ có điều là, tất nhiên, năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất phức tạp hơn so với thiết bị máy tính. Cho tới nay, trình độ hiện thời của ngành tin học còn rất thô sơ vì nó dựa trên số nhị phân, tức chỉ có thể có hai tín hiệu, hoặc bật hoặc tắt.

10.1. Màn hình bật-tắt của vũ trụ vật chất

Hệ thống mà con gặp trong thực tế không chỉ có hai trạng thái bật và tắt. Nó có một trạng thái bật và một trạng thái tắt, nhưng trạng thái bật không chỉ bật thôi, mà nó có thể khoác vào bảy sắc thái hay bảy màu sắc khác nhau tùy theo bảy tia sáng. Nói cách khác, con hãy tưởng tượng vũ trụ vật lý được tạo bằng một màn hình – đây là cách dễ nhất để con hình dung. Ánh sáng Mẫu-Vật hình thành một màn hình. Bình thường, màn hình này trống không – hay đúng hơn, bình thường nó không trống không, nhưng trước khi bất cứ gì được sinh tạo, trước khi trái đất được sinh tạo thì màn hình còn trống không. Sau đó các Elohim đã áp lên màn hình một số khuôn đúc, khiến cho những chấm nhỏ đó bật lên, và chúng bật lên với màu sắc của mỗi tia trong số bảy tia sáng. Thế là con có một màn hình với những chấm nhỏ đó mang màu sắc theo bảy tia.

Tất nhiên con cần hiểu, điều thày đang giải thích ở đây là một biểu diễn tượng trưng không hoàn toàn chính xác trong cái nhìn đường thẳng. Cách trình bày này đã được điều chỉnh cho thích hợp với mức tâm thức hiện thời của con hầu con nắm bắt được với hình ảnh, với hiểu biết con đang có về vũ trụ. Khi con tiến hơn đến tầng 144, thày không muốn con nghĩ đây là cách hiểu tối hậu về cách vận hành của vũ trụ, vì tất nhiên con sẽ có thể đạt tới những trình độ hiểu biết ngày càng thâm sâu hơn.

Dù sao thì cho bài giảng này, con hãy tưởng tượng con đang ở trong một căn phòng tựa như một quả bán cầu. Hình cầu giống như một mái vòm bên trên, và bên trong hình cầu từa tựa như một màn hình tivi gồm có rất nhiều những cái chấm có thể bật hay tắt, có nghĩa là người ta có thể hiển thị ra tuyệt đối bất cứ hình ảnh nào con có thể tưởng tượng được. Con hãy nhận ra đây là cách vũ trụ vận hành trên hành tinh địa cầu. Đây là cách hành tinh địa cầu được tạo ra. Các Elohim đã tạo ra bằng cách bật lên tất cả những tín hiệu nhỏ bé đó và cho chúng một màu sắc tùy theo mỗi tia trong số bảy tia sáng. Điều này không có nghĩa là tất cả mọi thứ con nhìn thấy trên trái đất, kể cả các biểu hiện mất cân bằng, được tạo bằng những màu sắc thuần khiết của một trong bảy tia sáng hay sự phối hợp của bảy tia sáng. Bởi vì bảy tia sáng cũng có dạng tha hóa, và tất nhiên, những dạng tha hóa này được dùng để tạo ra những biểu hiện mất cân bằng mà con thấy ngày nay.

10.2. Địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Mục đích thày cho con minh họa này là để giúp con thấy trái đất chỉ đơn giản là một màn hình có khả năng hiển thị nhiều hình ảnh khác nhau. Thày không nói trái đất có thể hiển thị bất kỳ hình ảnh nào vì các Elohim đã chọn ra một khuôn đúc nhất định cho địa cầu, nhưng trong phạm vi khuôn đúc này, trái đất có khả năng hiển thị những hình ảnh rất đa dạng. Có nghĩa là trái đất có khả năng hiển thị những sự mất quân bình hiện tại mà con thấy, nhưng nó cũng có cùng khả năng hiển thị trạng thái hài hòa đã có mặt trước khi loài người bước xuống nhị nguyên và trước khi sa nhân đến đây. Nó cũng có thể hiển thị một trạng thái còn cao hơn cả thời đó, cao hơn những gì có mặt khi các Elohim sinh tạo địa cầu. Hiển nhiên, ý định là con người đồng sáng tạo sẽ nâng hành tinh lên cao hơn trạng thái nguyên thủy, và quả thực các dòng sống trong ba lượt sóng đầu tiên đã làm được việc đó.

Điều này thật sự có nghĩa là gì? Có nghĩa là con có thể đặt ra câu hỏi: “Liệu trái đất có phải là một thế giới thực hay không?” Thày biết chúng ta đã có đề cập sơ đến vấn đề này trong bài giảng đầu của thày nhưng bây giờ thày quay trở lại vì con đã có thời gian để nghiền ngẫm ý tưởng này. Thực tế mà con đi đến là trái đất không phải là một thế giới thực. Vậy trái đất là gì chứ? Chúng ta có so sánh nó như cái mà ngày nay con gọi là một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Hẳn con cũng đã nghe nói đến máy mô phỏng hay máy giả bộ lái máy bay (flight simulator). Chắc hẳn con cũng từng có một trình mô phỏng máy bay trên máy tính của con. Màn hình máy tính hiển thị những gì con thấy từ buồng lái của phi công khi con cất cánh, đang bay hay hạ cánh. Con có nhiều loại máy mô phỏng khác, như cặp kính thực tế ảo mà ngày nay con có thể đeo vào và có cảm giác như mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác lạ.

Điều thày muốn con suy ngẫm với tâm ý thức (vì con đã có nhìn và trải nghiệm điều này tại khóa nhập thất của thày) là sự kiện vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một bộ máy giả thực tại. Điều này thật sự có nghĩa gì? Trước hết, có nghĩa là bất cứ gì con nhìn thấy trên địa cầu không phải là thế giới thực, nó chỉ được mô phỏng, nhưng nó không được mô phỏng để hiện ra như là đồ mô phỏng, mà nó được mô phỏng để hiện ra như là thực. Con có thể đi xem chiếu phim và con cũng biết màn hình xi-nê có khả năng chiếu bất cứ phim gì. Con thừa biết là dù con đang xem phim gì trong rạp, phim con đang theo dõi không là thế giới thực. Tất cả là tạo dựng, tất cả là giả vờ. Con biết rõ điều đó vì con đã bước vào rạp chiếu phim, và con cũng biết điều đó vì khi con bước ra ngoài rạp, con lại nhìn thấy thành phố quen thuộc của con chứ không phải một ngôi làng nhỏ của dân cao bồi miền Viễn Tây xứ Mỹ.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con sinh ra trong rạp chiếu phim, con lớn lên trong rạp và con chưa bao giờ bước ra khỏi rạp. Con hoàn toàn mù tịt mọi thứ bên ngoài rạp, và đó chính là hoàn cảnh của con làm người đầu thai trên địa cầu. Con đã sinh ra trong bộ máy giả thực tại; không những vậy, con đã từng sống trong bộ máy đó suốt nhiều kiếp trước. Khi con sinh ra đời, con không có khung tham chiếu nào để biết là bên ngoài máy có bất cứ gì. Con không biết đây là một bộ máy giả thực tại thì làm sao con có thể đặt thành vấn đề? Con không có gì để mà so sánh. Tất cả những gì con đã thấy và đã trải nghiệm là cảnh giả dạng.

Có thể con đã có những cảm giác trực quan bên trong dựa trên một tiền kiếp, có lẽ đi ngược trở về thời con mới đến hành tinh như một avatar, hay như một cư dân nguyên thủy của địa cầu khi con đã trải nghiệm trái đất trong một trạng thái thuần khiết hơn. Có thể con có nội cảm là nhất định có chuyện gì đó không ổn, nhất định phải có một cái gì khác, nhất định một thế giới phải có một cách sống nào khác hơn. Thậm chí có thể con cảm thấy là mình không thực sự thuộc về nơi đây, rằng đây không phải là môi trường thực sự của mình, rằng đúng lý mình không được ở đây, cùng rất nhiều cảm giác khác giống như vậy mà người tâm linh có thể có. Rất có thể là vì con có những cảm giác đó mà con đã trở thành một người tâm linh đang tu học giáo lý tâm linh này. Sâu thẳm bên trong, con biết là vượt khỏi vũ trụ vật chất còn có cái gì đó, con cảm nhận là phải có một thế giới tâm linh, phải có những sinh thể trong một thế giới tâm linh, và phải có cách tương tác với những sinh thể đó, và đây chính là điều con đang làm ngay bây giờ. Con có thể có những cảm nhận này và điều thày yêu cầu con làm là nắm lấy nó để dùng làm khung tham chiếu khi con nhìn địa cầu. Và giờ đây, con nhận chân trong tâm ý thức của con: “Giản dị đây chỉ là một cái máy giả thực tại.”

10.3. Tại sao máy giả thực tại có vẻ thực

Một khi con bắt đầu suy ngẫm ý tưởng này và nhận được sự xác nhận trực giác đó thật là một ý tưởng đúng đắn, con có thể đi bước kế tiếp. Bây giờ con có thể tự hỏi: “Tại sao máy giả thực tại địa cầu lại có vẻ thực?” Các thày đã cho con một lời giải thích về điểm này rồi. Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức, và khi con đi xuống địa cầu lần đầu, hiện thân lần đầu trên địa cầu, con khởi sự ở tầng 48. Các thày cũng nói là khi con xuống đầu thai, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng từ 144 xuống đến 48. Nói cách khác, cho mỗi tầng trong số 144, có một ảo tưởng nhất định mà con cần giải quyết, một bí ẩn, một câu đố nhất định mà con cần giải đáp trước khi con được giải thoát khỏi tầng đó.

Để đi xuống tầng 48, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức từ 144 đến 48, và chính những ảo tưởng này khiến cho địa cầu có vẻ như thế giới thực. Tất nhiên, nếu con bước xuống thấp hơn cả tầng 48 (cho đến tầng tâm thức thấp nhất), con sẽ khoác thêm nhiều ảo tưởng nữa, và chúng sẽ khiến cho ảo tưởng một địa cầu thực càng có vẻ thực hơn nữa – tức là cái thế giới hiện ra cho giác quan và tâm vỏ ngoài của con.

Con đã vươn lên khá gần với tầng 96 và giờ đây chúng ta đối diện với một tầng tâm thức khác hẳn vì con đã rũ bỏ rất nhiều những ảo tưởng đó. Đó là tại sao con cần, ở mức ý thức, đi thêm một bước này là nhận diện địa cầu như là một bộ máy giả thực tại. Con cũng cần nhận ra một hiểu biết thâm sâu hơn về cách làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại, nhưng ở đay, chúng ta cần giải quyết một vấn đề ngôn từ. Thày vừa nói gì chứ? “Làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại.” Con thấy không, con yêu dấu, địa cầu không giả dạng thực tại. Đây là một ý tưởng mà con thực sự cần suy ngẫm để nó ghi chặt trong tâm ý thức của con.

Địa cầu không phải là một vật sống đang làm chuyện gì đó hay đang có ý định gì đó. Cho dù một số nền văn hóa có phóng chiếu thế nào – rằng thiên nhiên là một vật sống và thiên nhiên có tâm thức, một điều mà thày không phủ nhận – trong khuôn khổ cuộc khai ngộ này, điều thày muốn con chú tâm vào là sự kiện địa cầu là một màn hình. Ánh sáng Mẫu-Vật là một màn hình. Nó hiển thị bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó không có ý định, nó không có quan điểm về cách con trải nghiệm những hình ảnh được phóng chiếu như thế nào. Nói cách khác, địa cầu không làm gi con. Nó không điều khiển, khuynh loát tâm con. Trong máy giả thực tại không có gì đang khuynh loát tâm con.

Vậy làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại? Nó không giả dạng gì hết! Vậy cái gì đang giả dạng thực tại? Tâm con. Bốn thể phàm của con giả dạng thực tại. Ý niệm thực tại mà con đã từng có về thế giới ngay đây trên trái đất hoàn toàn là một sản phẩm của tâm con. Đây là ý tưởng then chốt mà con cần lãnh hội, không những ở tầng này mà con cần giữ vững ý tưởng này với con cho tới tuốt tầng 144, vi đây là ý tưởng sẽ chuyên chở con đến tầng 144.

Con sẽ cần đối phó với điều gì khi con lên cao hơn tầng 96? Phải, con sẽ đối phó với một mức khai ngộ khác hơn so với những tầng dưới. Dưới tầng 96, con tập trung chủ yếu vào bản thân, con nhìn mọi thứ từ một nhãn quan nhất định, tụ quanh chính con. Có rất nhiều câu hỏi mà con không thể đặt ra hay nghĩ đến ở dưới tầng đó. Khi con đến tầng 96, như thày đã nói, cuộc khai ngộ then chốt sẽ là: Liệu con sẽ tiếp tục tập trung vào bản thân hay là con sẽ tập trung vào tổng thể?

Để vượt qua những ảo tưởng đó (đang lôi kéo con chú tâm vào bản thân), con cần giữ vững trong tâm ý tưởng rằng địa cầu không giả dạng thực tại, mà bất kỳ cảm nhận hay quan điểm về thực tại mà con có liên quan đến địa cầu, là sản phẩm của một ảo tưởng trong tâm con. Đây là một ý tưởng cốt yếu, tuyệt đối cốt yếu – nếu có gì có thể tuyệt đối đến như vậy trong một bộ máy giả thực tại. Tuy nhiên, một điều tuyệt đối về máy giả thực tại, và điều đó là: Tuyệt đối không có gì là thực. Có nghĩa là tuyệt đối không có gì có thể chặn đứng sự tăng triển tâm linh của con, ngăn cản sự tăng triển tâm linh của con, kềm hãm con ở lại trong một ảo tưởng – ngoại trừ những gì xảy ra trong tâm con. Không có gì tuyệt đối trong máy giả thực tại ngoại trừ cái tin tưởng, ảo tưởng, mà con không sẵn lòng chất vấn.

10.4. Nhà tù ở trong tâm con

Nếu có một ảo tưởng trong tâm mà con không sẵn sàng chất vấn – vì con nghĩ là nó không cần chất vấn, con không được phép chất vấn hay con nghĩ nó thực – thì đó chính là cái tuyệt đối sẽ giữ con lại ở mức đó một cách vô hạn định, ít ra cho đến khi một điều gì xảy ra làm tan vỡ ảo tưởng. Tất nhiên, thày cần con nhìn nhận là một ảo tưởng không bao giờ tuyệt đối. Nó là một ảo tưởng. Nó không thực. Nó không có bất kỳ tính chất lâu dài nào. Nó không có tuổi thọ, không có hiện hữu ngoại trừ trong tâm. Chính tâm con gán thực tại cho những gì con thấy trên địa cầu. Thày cần con suy ngẫm điều này và thày mong muốn con lấy một quyển sổ và ngồi xuống với bài thỉnh. Con hãy học bài giảng trước, xong đọc bài thỉnh đi kèm với giảng này, rồi sau khi con đọc xong bài thỉnh, con hãy tự động ghi xuống bất cứ gì trên trái đất có vẻ là thực đối với con. Thày muốn con làm việc này mỗi ngày trong vòng chín ngày mà con học bài tập này, ít nhất chín ngày (hoặc nhiều hơn nếu con học nhiều hơn, và thày thật sự khuyên con làm nhiều hơn).

Con sẽ thấy là có một sự tuần tự khi con làm bài tập này. Trước hết, con sẽ khám phá ngày càng nhiều thứ hơn mà con cho là thực. Con cũng sẽ nhận ra là khi con làm bài tập, một số thứ mà con xem là thực sẽ tan biến mất. Không phải mọi thứ sẽ tan biến vì con sẽ không nhảy ngay lên được tầng 144 (và thày không yêu cầu con làm chuyện đó, thày không chờ đợi con sẽ làm chuyện đó). Điều thày yêu cầu con làm là nhận ra, giờ đây khi con đến mức này, con đã khắc phục được một số ảo tưởng so với khi con mới khởi sự khóa tu này. Con hoàn toàn có thể khắc phục một ảo tưởng về bản thân để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp mà vẫn chưa thật sự đưa nó vào cách con nhìn thế giới. Nói cách khác, con có thể nâng tâm thức bằng cách thay đổi tâm con, nhưng vẫn còn một cái nhìn tổng quát nào đó về cuộc sống mà con chưa chất vấn. Điều thày yêu cầu con làm trong bài tập này là khởi sự chất vấn một cách ý thức cái nhìn của con về thế giới và những gì con cho là thực bên trong máy giả thực tại.

10.5. Tự ngã khiến mọi thứ có vẻ thực

Con yêu dấu, các thày đã từng đàm thoại với con và ban ra những lời dạy rất thâm sâu về tự ngã con người. Con có thể nói, máy giả thực tại “thật sự” đó là tự ngã của con vì chính tự ngã khiến cho mọi thứ có vẻ thực. Thêm vào đó, con yêu dấu, nó còn khiến cho mọi thứ có vẻ quan trọng nữa: cái đó quan trọng, cái đó mang ý nghĩa.

Điểm này có liên hệ đến lời dạy mà các thày đã ban về tâm thức nhị nguyên. Tất cả mọi ảo tưởng mà thày đang nói tới cho đến tầng 144 đều dựa trên tâm thức nhị nguyên và cảm nhận tách biệt. Con sẽ không hoàn toàn khắc phục được ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt cho tới khi con đập vỡ bí ẩn cuối cùng ở tầng 144, nhưng chắc chắn con có thể xích lại gần hơn rất nhiều với viễn kiến mình là môt sinh thể hợp nhất với Tất Cả.

Một điều khác (mà các thày đã nói đến dông dài) cũng xuất phát từ tâm thức nhị nguyên và tự ngã, là tư duy cuồng đại, tư duy cho rằng có cái gì đó tối hậu với tầm hệ trọng cuồng đại. Nhiều học trò tâm linh đã khoác lấy tư duy này và đưa nó vào giáo lý đã giúp họ tìm ra đường tu tâm linh. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã làm vậy với các giáo lý của chân sư, đặc biệt trong Thời đại Song ngư và những tổ chức mà các thày đã có thể đỡ đầu vào thời đó. Những ai chưa vượt qua được các khai ngộ của Thời đại Song ngư vẫn còn nhu cầu cảm thấy công việc mình làm là hệ trọng một cách cuồng đại và – nếu có thể nói như vậy – họ cho rằng họ đang cứu nguy thế giới cho thày Saint Germain để đưa thế giới vào Thời Hoàng kim, Thời đại Bảo bình.

Nhiều người tâm linh và Thời mới khác cũng đã làm tương tự, và con thấy nhiều nhóm Thời mới dạy thành viên ý tưởng rằng mọi chuyện họ làm là quan trọng cuồng đại. Thày không đang hạ thấp những gì họ làm là không quan trọng, nhưng điều thày yêu cầu con làm ở tầng khai ngộ này là bắt đầu chất vấn thật sự, ở mức ý thức, tư duy cuồng đại đó. Tại sao thày yêu cầu điều này? Vì lý do rất giản dị là mục đích của thày là dạy con cách thị hiện, cách kết đọng, những hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho bản thân con và hành tinh – trong vật chất. Nó đòi hỏi ta thay đổi vật chất. Con yêu dấu, làm thế nào con có được những hoàn cảnh vật chất tốt đẹp hơn nếu con không thay đổi vật chất? Làm thế nào con thay đổi được vật chất bằng tâm nếu con nghĩ vật chất không thể thay đổi và những gì xảy ra trong vật chất hệ trọng đến độ nó có thể ảnh hưởng đến con, một sinh thể tâm linh?

10.6. Cái bẫy cuồng đại nuốt hết chú ý của con

Con chẩng thấy sao, con yêu dấu, là có hai khía cạnh, hai mặt với mỗi đồng tiền? Trong nhị nguyên luôn luôn có hai mặt. Tư duy cuồng đại làm gì con? Nó cho con cảm nhận là tất cả những gì con làm đều hệ trọng, rằng chính con hệ trọng. Đâu là mặt kia của đồng tiền, đâu là cái giá con phải trả khi cảm nhận một điều gì là hệ trọng? Đó là con cũng nghĩ có một số điều kiện trong thế giới vật chất mà con không thể thay đổi. Con có thể ngồi đó (và có nhiều học trò tâm linh ở trong đúng tình cảnh này, kể cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên) và cảm thấy mình rất quan trọng nhưng đó là một cái lồng mạ vàng.

Con cảm thấy mình quan trọng nhưng con bị đánh bẫy trong lồng và sa nhân đã đặt con vào đúng nơi chúng muốn. Con không ở nơi mà thày muốn vì thày muốn con tự do. Thày muốn con ra khỏi lồng và đó là điều thày nhắm dạy con trong khóa tu này. Trong bài học này, chúng ta khởi sự bằng cách chất vấn cảm nhận thực tại của con.

Con nghĩ các điều kiện trong vật chất là thực. Chẳng hạn – để cho con một ví dụ thô thiển – nếu chúng ta đi ngược trở lại một vài thập niên trước, con nghĩ là tại Liên Xô có những người “ở bên kia” đang chống đối tự do của con nơi các xứ Tây phương. Con nghĩ họ là mối đe dọa cho toàn thế giới và tự do của toàn thế giới. Con cảm thấy mặc dù con sinh ra ở phương Tây nhưng con không thể chỉ hưởng thụ tự do mình đang có ở phương Tây vì ngày mai tự do này có thể không còn nữa. Con phải gia nhập cuộc chiến đấu cuồng đại chống lại Liên Xô và điều này nuốt trọn hết thời giờ cũng như sự chú ý của con. Khi con làm vậy, con cảm thấy mình rất rất quan trọng, nhưng nếu như con đã sử dụng tự do con có không để giao chiến với người khác mà để làm việc trên bản thân mình và khắc phục ảo tưởng của mình thì sao? Nhiều người bị mắc bẫy trong cuộc đấu tranh cuồng đại này nơi họ phải thay đổi một điều gì đó.

Bây giờ con hãy áp dụng điều này vào một học trò của chân sư thăng thiên, và các thày đã thấy chuyện này cứ lặp đi lăp lại hoài. Các học trò của chân sư đã lý luận: “Việc khắc phục một số điều kiện trong vật chất là quan trọng một cách cuồng đại hầu chúng ta bước vào Thời đại Hoàng kim.” Cách họ có thể đóng góp là đọc bài chú mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày. Một lần nữa, không phải chuyện này không quan trọng và không có kết quả trên người đọc bài chú bài thỉnh, nhưng vấn đề là đối với nhiều học trò, nó đã trở thành một cái cớ. Họ tập trung quá sức vào việc thực hiện công việc tối quan trọng kia đến độ họ không còn chú ý sót lại để chú tâm vào việc giải quyết những vấn đề trong tâm lý họ.

10.7. Vươn lên con đường quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, không bao giờ ý định của các thày là khiến cho một học trò tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên ở tầng tâm thức thứ 60 chẳng hạn, đề rồi khi người đó tu tập giáo lý, vươn lên tới tầng 65 mà lại quyết định: “À bây giờ tôi phải tập trung vào chuyện đọc tất cả những bài chú này để cứu nguy hành tinh cho Saint Germain.” Xong người đó ngừng ở đó. Suốt 20 năm trời, người đó đọc thật nhiều bài chú nhưng không nâng được tâm thức mình lên vì đã không nhìn vào bản thân và vượt qua ảo tưởng của mình. Đây không phải là ý định của các thày. Làm vậy sẽ không thực hiện được tiềm năng của giáo lý bởi vì nó không giúp cho con người tiến gần hơn đến việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cũng có thể việc đọc chú và đọc thỉnh nằm trong Sứ vụ của họ, nhưng không tới mức lấn át hết mọi khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con thấy đó, con yêu dấu, ngay bây giờ chúng ta đang ở điểm nơi các thày cần con bước lui lại khỏi tất cả những chuyện đó và nhận ra (tất nhiên hầu hết các con đã nhận ra được điều này trong khóa học này) rằng chìa khóa để tinh tấn là làm việc trên bản thân, nhìn vào bản thân, khắc phục ảo tưởng. Điều con cần nhìn ngay lúc này là: “Tại sao tôi nghĩ một số thứ là thực?” Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: Đương nhiên là có sa nhân trên hành tinh nơi bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Có nhiều người ở một mức tâm thức thấp hơn đang khởi xướng, bành trướng, gia tăng cuộc giao tranh giữa mình và người khác. Và phải, cuộc giao tranh này có nguyên một con quái vật toàn cầu không ngừng tìm cách lôi kéo hành tinh vào nhiều xung đột hơn và nhiều hơn nữa.

Tuy nhiên đối với con, câu hỏi đặt ra là: “Ý nghĩa chuyện này đối với con là gì?” Không phải là ý nghĩa đối với con ở 10 hay 15 hay 20 tầng tâm thức thấp hơn mức con đang đứng, mà ý nghĩa đối với con ngay trong lúc này? Liệu việc tiếp tục giao tranh cuồng đại có tầm quan trọng cuồng đại cho con hay không? Hay điều quan trọng cho con là con khắc phục các ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục hầu con vươn lên tầng 96 và vượt quá cả tầng 96, là khi con ngừng tập trung vào chính mình để cất bước đi trên con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật dẫn đến tầng 144? Đó là điều mà trong tâm thày mới là quan trọng.

10.8. Chất vấn cái nhìn của con về đường tu tâm linh

Hy vọng của thày là qua những khai ngộ này tại nhập thất của thày, đó cũng là điều quan trọng nhất cho con trong tâm ý thức. Có nghĩa là con cần bắt đầu chất vấn tất cả mọi thứ, kể cả cái nhìn của con về đường tu tâm linh. Cái gì đã dẫn con đến điểm con đang đứng, cái gì đã giúp con? Con đã nhìn đường tu như thế nào? Con đã chú tâm vào những thứ vỏ ngoài hay không? Những thứ đó có vẻ quan trọng với con hay không? Liệu chúng đã có vẻ quan trọng một cách cuồng đại đối với con hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, đúng thật là có những sa nhân trên hành tinh nhưng đối với một học trò tâm linh đang bước trên đường tu, việc chúng có mặt ảnh hưởng đến con như thế nào? Sa nhân muốn làm gì chứ? Chúng muốn kéo con ra khỏi con đường quả vị Ki-tô. Như các thày đã có nhắc nhiều lần, việc tham gia vào cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân không phải là con đường quả vị Ki-tô mà nó sẽ kéo con ra khỏi con đường đó.

Cho dù con nhập cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân bằng cách chiến đấu với vũ khí vật lý hay chiến đấu với bài chú và bài thỉnh, con vẫn đã nhập vào cuộc giao tranh. Để con vượt quá khai ngộ ở tầng 96, con cần tháo gỡ mình ra khỏi giao tranh. Điều thày nói là như sau: “Giao tranh cuồng đại có thực hay không?” Phải, điều này tùy theo con định nghĩa thực tại là thế nào. Nó thực theo nghĩa là trên hành tinh sa nhân. Có một tâm thức tập thể nào đó. Có nhiều người ở các tầng tâm thức thấp hơn. Chuyện đó có thực theo nghĩa là một điều kiện tạm thời đang hiện hữu. Nhưng nó không thực theo nghĩa là nó có chút vĩnh hằng nào. Nó không hiện hữu mãi mãi. Đó là một điều kiện tạm thời nhưng nó có mặt trong lúc này.

Câu hỏi là: “Liệu sa nhân có bất kỳ thực tế thực nào hay không? Liệu các điều kiện trên địa cầu có bất kỳ thực tế thực nào hay không?” Chúng có mặt ở đây nhưng chúng nhất thời. Nếu chúng chỉ nhất thời thì điều này có nghĩa gì cho con? À, vậy con là ai, con là ? Con có phải là một con người đang bước trên đường tu tâm linh? Hay con là một sinh thể tâm linh đang bước trên con đường khai ngộ do bộ máy giả thực tại có tên là địa cầu cống hiến? Tất nhiên, con là một sinh thể tâm linh. Có nghĩa là gì? Có nghĩa, con yêu dấu, là những điều kiện đang có mặt nhất thời trên địa cầu ngay lúc này không hề có quyền năng thay đổi Tánh linh của con.

Các thày đã nói điều này bao nhiêu lần rồi! Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không thể bị bất cứ gì trên địa cầu thay đổi vĩnh viễn. Thật ra, thậm chí bất cứ gì trên địa cầu cũng không thể thay đổi cái Ta Biết một cách tạm thời, nhưng tất nhiên, cái Ta Biết có thể khoác vào những ảo tưởng sẽ tô màu cách nó nhìn thế giới. Con đã làm gì chứ? Con đã khoác vào một số ảo tưởng. Một lần nữa, không có trách cứ gì ở đây, không có sai trái gì trong chuyện này, đó là một phần của trải nghiệm sống trong máy giả thực tại. Trước tiên, con trầm mình vào trong đó, rồi sau đó con tỉnh ngộ. Con đang ở trong tiến trình tỉnh ngộ và đã đến lúc, ở tầng khai ngộ này, con tỉnh ngộ khỏi ảo tưởng rằng vật chất có ảnh hưởng trên con, một sinh thể tâm linh.

10.9. Vật chất không thể thay đổi một sinh thể tâm linh

Giọng nói của thày đang cường độ, con yêu dấu. Nó không giận dữ. Thày không đang giận con. Thày không đang bắt lỗi con. Thày chỉ đang đơn giản gia tốc tâm thức con để con dễ dàng hơn có được cái bật sáng, cái trải nghiệm “à ra thế” ở mức ý thức mà con đã từng có ở những tầng cao hơn tại nhập thất của thày, hầu con trải nghiệm thực tại của những điều thày nói. Bước đi mà con cần đi bây giờ là nhìn nhận một cách ý thức rằng không có một điều kiện nào trong vật chất có khả năng thay đổi con như một sinh thể tâm linh. Tại sao điều này quan trọng đến thế? Bởi vì làm thế nào con có thể thay đổi vật chất nếu con nghĩ vật chất thay đổi con?

Sa nhân muốn con nghĩ gì? Chúng muốn con nghĩ (ngay cả khi con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh) là con đã đi vào thế gian này và con đã mắc phải một lỗi lầm mà con sẽ không bao giờ lật ngược, hóa giải được. Con bị mắc kẹt ở đây mãi mãi do lỗi lầm này. Con là một kẻ có tội, con đã phạm vào chuyện này và con sẽ không bao giờ vượt qua được. Có thể con đã đến đây như một sinh thể tâm linh nhưng nay con ở đây thì con đã làm một chuyện thay đổi bản chất sinh thể tâm linh của mình, và do đó con sẽ không bao giờ thoát khỏi nơi đây. Chừng nào con còn tin vào ảo tưởng đó, con sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc giao tranh với sa nhân. Đâu là khung tham chiếu của con về thực tại tối hậu trên trái đất? À, khung tham chiếu của con là sa nhân cùng những lời gian dối mà chúng đã bắt loài người phải chịu đựng suốt hàng ngàn, hàng triệu năm trời.

Điều thày muốn, điều mà tất cả các Thượng sư đều muốn, là khung tham chiếu của con, hệ tham chiếu của con, là các chân sư thăng thiên, hầu con biết những giáo lý và trải nghiệm mà các thày có thể ban cho con trực tiếp nơi tim là thực tại tối hậu. Trải nghiệm mà tất cả các thày muốn trao cho con là con là một cái Ta Biết. Con là nhận biết thuần khiết, có nghĩa là khi con trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết, không có gì trên địa cầu quan trọng nữa, không có gì trong vật chất quan trọng nữa [chơi chữ trong Anh ngữ: nothing in matter matters]. Vật chất không quan trọng. Nó đã không thay đổi được con là ai.

Cho dù mọi thứ có là gì trong vật chất, chúng không thể thay đổi con, và do đó một cách tối hậu, chúng không quan trọng đối với con. Con yêu dấu, con thấy đó, tại sao con lại cảm nhận bất cứ gì trên trái đất có thực tại đó? Đúng vậy, vì con đã khoác vào một ảo tưởng, nhưng ảo tưởng đó là gì? Ảo tưởng đó bảo rằng có một điều kiện nào đó trong vật chất quan trọng đối với con. Nhưng tại sao một cái gì có thể quan trọng đối với con? Bởi vì con nghĩ là nó quy định được con. Nó quy định con là ai, con có thể làm gì và không thể làm gì. Nó hạn chế con. Nó đánh bẫy con. Nếu không thì đâu có quan trọng gì?

10.10. Thay đổi nhãn quan

Ngay lúc này con đang ngồi ở một nơi thoải mái, có lẽ trong một căn phòng khá ấm cúng. Bây giờ con thử phóng chiếu con bay tới Nam cực với gió hú và nhiệt độ thấp hơn hẳn điểm đông băng. Con có thể bị đông cứng lại trong vòng mấy phút nếu con ở đó. Các điều kiện đó, con sẽ nói, khá hiện thực phải không? Chúng đang có mặt ở đó nhưng chúng có quan trọng với con không? Không, bởi vì mặc dù chúng có thể thực, chúng không thực ở nơi con ngồi.

Điều thày yêu cầu con làm ở đây là nhìn vào địa cầu, nhìn nơi con đã lớn lên, xã hội, hoàn cảnh nơi con đã khôn lớn. Nhìn vào mọi người và thấy họ đang bị mắc kẹt trong một số điều kiện, xong con nhìn vào những điều kiện đó và nói: “Liệu những điều kiện này còn quan trọng với tôi nữa hay không? Hiển nhiên chúng đã từng quan trọng với tôi khi tôi lớn lên. Tôi đã lớn lên trong môi trường đó, tôi đã có lòng hiếu thảo và đồng cảm nào đó đối với cha mẹ tôi và mọi người quanh tôi, và điều này cũng tự nhiên thôi. Nhưng bây giờ tôi có thể bước lui lại, tôi có thể nhìn vào và nói: ‘Liệu cái đó còn quan trọng với tôi nữa hay không’ khi giờ đây mình là con người mà mình là? Liệu các điều kiện đó có quan trọng không? Vậy liệu tôi sẽ để cho chúng cứ mãi quy định mình, quy định những gì mình nghĩ mình có thể làm hay không thể làm?”

10.11. Lập ra một danh sách

Thày biết thày đang cho con rất nhiều điều để suy ngẫm trong bài giảng này, nhưng đây là Tia thứ Tư của Gia tốc thì thày làm sao khác được? Thày muốn trao cho con thêm một điều nữa. Thày cần con bước lui lại, và một lần nữa điều sẽ ích lợi cho con là con đọc bài thỉnh rồi ghi xuống những gì đến với con sau đó. Thày cần con lui lại và xét xem những điều kiện vật lý nào trong hoàn cảnh nơi con đã lớn lên mà con nghĩ con không thể thay đổi bằng tâm. Sẽ hữu ích nếu con viết ra một danh sách và danh sách này có thể bao gồm một số mục:

  • Danh sách những điều kiện con nghĩ tuyệt đối không thể thay đổi được cho dù có làm gì. Như trong câu ngạn ngữ, không có một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được những điều kiện trên danh sách này.
  • Danh sách những điều kiện có thể thay đổi được nhưng chỉ bằng những phương thức vật lý. Nói cách khác, con có thể nói là con có một thửa đất trống với tiềm năng xây nhà trên đó. Để xây căn nhà này, con phải thực hiện một số công đoạn vật lý như đào móng, đổ bê-tông, xây tường gạch hay dựng sườn gỗ, lợp mái, vân vân và vân vân. Nói cách khác, nó sẽ đòi hỏi lao động thể xác, công nghệ vật lý thì con mới thay đổi được những vật cụ thể đó.
  • Danh sách thứ ba là những thứ mà con nghĩ có tiềm năng thay đổi bằng tâm.

Thày cần con lập ra ba danh sách đó và nhìn vào những điều kiện trong danh sách thứ ba mà con nghĩ có thể thay đổi được bằng tâm. Sau khi con đã nhìn vào những điều kiện có thể thay đổi được bằng tâm, thày cần con làm một danh sách thứ tư, cũng tương tự như danh sách đầu, nhưng đây là danh sách đặc thù những thứ con nghĩ không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày cần con lập ra những danh sách đó rồi trong bài giảng tới, thày sẽ hướng dẫn con thêm về cách sử dụng các danh sách này, con sẽ làm gì với chúng, và làm thế nào con kinh qua những xoay chuyển trong tâm sẽ chất vấn cảm nhận thực tại của con. Thày chắc chắn con sẽ nhận ra những thứ con cho là không thể thay đổi bằng tâm, thì đó chính là những thứ mà tâm con đã gán cho cảm nhận thực tại tuyệt đối này. Con yêu dấu, chính cảm nhận thực tại tuyệt đối này đang giam con trong chiếc lồng mạ vàng.

Ngay cả giáo lý tâm linh, thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên, cũng có thể giam con trong một cái lồng mạ vàng nơi con cảm thấy mình nằm trong số những đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh. Con đang làm những công việc quan trọng cho Saint Germain cho nên con cảm thấy mình quan trọng một cách cuồng đại. Tuy nhiên,  con vẫn đang bị mắc kẹt vì khi con thật sự xem xét thế giới và quan hệ của con với thế giới vật chất, con cho rằng vật chất quy định chính con cho dù con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh.

Câu hỏi ở đây là: “Cái gì thực đối với con?” Lý do tại sao câu hỏi này quan trọng là bởi vì những gì con nghĩ là thực và những gì con nghĩ là không thể thay đổi, đó chính là cái quy định con. Nó quy định cái nhìn của con rằng con là một sinh thể đang đầu thai vật lý trên địa cầu. Nó quy định cái nhìn của con về chính con. Con có thể xem mình là một sinh thể tâm linh nhưng con vẫn xem con là một sinh thể tâm linh trong vũ trụ vật chất. Con có một cảm nhận nào đó về cách con quan hệ với vũ trụ vật chất, những gì con có thể làm và không thể làm, và cái đó quy định con.

Thày cần con bắt đầu chất vấn cái đang quy định con, vì để lên cao hơn, con cần ngừng không cho các điều kiện vật chất đó quy định con. Thay vào đó, con tìm ra một cách mới để quy định mình như một sinh thể trong cõi vật chất.

Yêu Sứ vụ Thiêng liêng hơn là mơ mộng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Đây là tầng khai ngộ thứ ba ở khóa nhập thất của thày, tương ứng với Tia thứ Bảy của Tự do và Tia thứ Ba của Tình thương. Tự do và tình thương, hiển nhiên, không có nghĩa là yêu đương tự do như nhiều người diễn giải vào những năm 1960 trở về sau, mà có nghĩa là chúng ta cần nhìn vào tình thương, và đối nghịch của phản-tình-thương, trong quan hệ của con với cõi vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ. Trong bài giảng vừa rồi, thày có nói là thày mong muốn giảng về cách làm thế nào con đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn hàng ngày của con. Đây là một đề tài rất quan trọng cho mọi người tâm linh, đặc biệt khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Bảo bình.

8.1. Sự phân chia giữa sinh hoạt tâm linh và sinh hoạt hàng ngày

Con yêu dấu, khi con nhìn ngược trở về 2000 năm qua trong thế giới phương Tây, con sẽ thấy là các giáo hội Cơ đốc đã lập ra một lằn ranh tương đối rõ rệt giữa cái mà con có thể gọi là đời sống tâm linh (hay ít ra đời sống tôn giáo) và đời sống thực tiễn hàng ngày. Công bằng mà nói, chuyện đó đã xảy ra phần nào là vì ai nấy đã phải làm lụng thật vất vả để kiếm sống. Con không thể chờ đợi người ta có thể làm việc mười tiếng một ngày mà còn đủ sự chú ý hay sức lực để quan tâm đến chuyện tâm linh. Cứ sáu ngày mỗi tuần, họ đã phải làm lụng mà không thể thật sự để ý tới bất cứ gì tâm linh hay tôn giáo, cho nên họ chỉ có một ngày để đi lễ nhà thờ.

Tuy nhiên hệ quả của sự thể này là trong tâm thức tập thể ở phương Tây, nó đã tạo ra một sự phân biệt rất rõ ràng giữa cái mà con gọi là cuộc sống bình thường hàng ngày và một cuộc sống tôn giáo hay tâm linh. Có rất rất nhiều người nghĩ rằng nếu họ đi lễ nhà thờ vào ngày Chúa nhật, nếu họ xưng tội, nếu họ tham dự Thánh lễ và thắp nến, thì sau đó họ có thể bước ra và sống cuộc đời bình thường theo cách họ muốn trong sáu ngày kia. Theo nhiều cách, họ đã phần nào mặc cả với Thượng đế khi họ nói: “Lạy Chúa, nếu con dành ngày Chúa nhật cho ngài thì ngài hãy cho con sáu ngày còn lại để con làm những gì con muốn. Vậy ngày Chúa nhật tới đây, con sẽ lại đến nhà thờ, lại xưng tội, và con sẽ được tha thứ mọi chuyện con đã làm trong tuần.”

Rất rất nhiều người tâm linh, đặc biệt từ những năm 1960, đã ngộ ra trong nội tâm là cách phân chia rõ rệt như thế giữa “đời và đạo” – nếu có thể nói như vậy – không còn chính đáng nữa khi chúng ta bước sang một thời đại mới. Chúng ta cần tìm một cách nhìn khác về khía cạnh tâm linh và khía cạnh thực tiễn của cuộc sống. Đây là một thử thách to lớn cho nhiều người tâm linh và tất nhiên, nó đã đòi hỏi mỗi người thử nghiệm nhiều cách khác nhau.

8.2. Sự thù ghét cõi của Mẹ

Điều chúng ta cần nói đến trước tiên là sự kiện nhiều người tâm linh đã tạo dựng một loại mộng mơ thiếu thực tế về thế nào là sống tâm linh. Dĩ nhiên, mỗi người mỗi khác, và mỗi nhóm trong các phong trào tâm linh hay Thời mới cũng đã tạo ra biến thể riêng của mình về ý nghĩa của một đời sống tâm linh. Trong số những cách nhìn đó, có một điểm chung là viễn kiến của họ đều dựa trên một thái độ nhất định đối với cõi vật chất. Tất nhiên, đây cũng là một vấn đề đã có mặt từ lâu, không những trong truyền thống đạo Cơ đốc ở Tây phương mà ngay cả ở phương Đông trong các truyền thống đạo Phật và đạo Ấn. Đây là một con quái vật rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể mô tả vật chất như là kẻ thù của sự phát triển tâm linh.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng do sa nhân tạo dựng. Thật không có cách nào khác để mà diễn đạt. Đó hoàn toàn là một ảo tưởng, do các sa nhân cố tình tạo ra hầu ngăn cản điều mà chúng coi là mối đe dọa to lớn cho quyền cai trị của chúng trên địa cầu. Con thấy đó, con yêu dấu, điều mà sa nhân đã làm là chúng đã tạo ra sự tách biệt này vì chúng ở trong tâm thức tách biệt, cho nên chúng không thể nào nhịn nổi chuyện tạo ra tách biệt. Chúng đã tạo ra tách biệt giữa những nhóm sa nhân khác nhau, một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát tôn giáo cùng đời sống tôn giáo, và một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát đời sống thế tục. Đó là tại sao con có một sự tách biệt ngay đó. Trên cơ bản, chúng bảo là nếu con vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát tôn giáo vào ngày Chúa nhật, thì con cũng vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát đời sống thế tục vào sáu ngày còn lại.

Thái độ này dựa trên sự kiện là tự thân các sa nhân thù ghét vật chất, chúng thù ghét cõi của Mẹ, tức là cõi vật chất. Chúng thù ghét như vậy chỉ vì vật chất đem lại hậu quả cho chúng, và chúng thì rất ghét hậu quả. Sa nhân thù ghét hậu quả. Nhiều sa nhân tin rằng nếu chúng thật sự có quyền tự quyết thì chúng phải có khả năng lấy bất kỳ chọn lựa nào mà không phải đối mặt với hậu quả.

Hiển nhiên, như các thày đã từng đề cập, nhiều người tâm linh đã phần nào khoác vào thái độ đó, và chuyện này thật là không thực tế. Các thày đã nói rồi: Nếu con làm một sự chọn lựa mà không bị hậu quả vật lý nào, thì làm sao con biết con đã chọn lựa đây? Nếu con không trải nghiệm một hậu quả, làm thế nào con có thể dựa theo đó mà điều chỉnh trạng thái tâm mình? Và nếu con không thể điều chỉnh trạng thái tâm con, làm thế nào con tăng triển được đây?

Con thấy không, đối với sa nhân, tăng triển không phải là mục đích của cuộc sống vì từ rất lâu chúng đã từ chối tăng triển, từ chối tự thăng vượt. Mục đích của chúng là gầy dựng cho bản thân một địa vị quyền thế ưu đãi rồi bám lấy địa vị đó mãi mãi. Con thấy ở đây, mục đích của sa nhân hoàn toàn khác với mục đích của người tầm đạo chân chính. Vậy thì có nghĩa lý gì mà con, một người tầm đạo tâm linh, lại có thái độ đối với cõi vật chất giống như sa nhân?

8.3. Tại sao người tâm linh không ưa vật chất

Tất nhiên, các thày hiểu rõ tại sao quá nhiều người tâm linh lại có thái độ đó. Đó là vì con đã trải nghiệm những hậu quả, hay đúng hơn, con đã trải nghiệm những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, khó chịu, trong cõi vật chất.

Các thày có giảng dạy về các avatar đã đến địa cầu và thường bị sa nhân hiếp đáp tàn nhẫn, thậm chí còn bị tra tấn, giết hại tàn bạo ngay trong kiếp đầu tiên. Đây không phải là một hậu quả trực tiếp của một hành vi của con, bởi vì con đã không làm sa nhân bất cứ điều gì. Đó là một hậu quả của sự chọn lựa mà con đã lấy khi con quyết định đến một hành tinh gian nan như trái đất nơi sa nhân có tầm ảnh hưởng to lớn như vậy. Như con thấy, đó không phải là một hậu quả trực tiếp mà là một hậu quả gián tiếp.

Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh như trái đất với quá nhiều bạo lực và đấu tranh như thế này, sự kiện con người nảy sinh gần như một nỗi thù ghét, hay ít ra một niềm oán giận, đối với cõi Mẹ hay cõi vật chất, là một chuyện vô cùng dễ hiểu. Chính cõi vật chất đã trải bày những hậu quả rất khắc nghiệt, khó chịu đó ra. Trong nhiều trường hợp, chính cơ thể vật lý đã cho con nỗi đau dữ dội này, và đương nhiên, cơ thể vật lý được cấu tạo bằng vật chất. Một lần nữa, các thày đã nhắc đi nhắc lại điều này rất nhiều lần: Không có lỗi gì từ phía con. Sự kiện bao nhiêu người tâm linh mang lòng oán giận này đối với cõi vật chất, hay cõi vật lý, cõi của Mẹ, là một điều hoàn toàn thông cảm được. Nhưng giờ đây con đã đạt tới một điểm trên đường tu của con, trong khoá học này, khi đã đến lúc con nhận ra là mặc dù phản ứng của con thông cảm được, thái độ đó không còn xây dựng nữa (thật ra nó chưa bao giờ xây dựng).

8.4. Sự oán giận vật chất ngăn chặn việc đồng sáng tạo

Con yêu dấu, điều gì mà thày vừa nói nằm trong mục tiêu của thày ở đây? Đó là giúp con kết đọng, giúp con thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho con. Mục tiêu của thày qua bảy tầng khai ngộ này là để giúp con thị hiện một hoàn cảnh nơi con có sự hài hòa hơn giữa cái nhìn tâm linh của con về cuộc sống và hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của con. Làm sao thày làm được điều đó nếu con oán giận vật chất? Để có hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và thực tiễn, một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, đúng không con? Nếu một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, con yêu dấu, điều này có nghĩa là con phải làm việc với vật chất thay vì cưỡng chống lại vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống cõi Mẹ! Con phải ngừng nhìn vào các điều kiện trên địa cầu và tự nhủ (ít ra là trong tiềm thức): “Ồ, nếu điều kiện khác hơn thì sau đó tôi sẽ có thể sống một cuộc đời tâm linh hơn, sau đó tôi sẽ có thể cảm thấy an bình trên trái đất, sau đó tôi có thể hạnh phúc trên hành tinh này.”

Con thấy đó, con yêu dấu, quá nhiều người tâm linh mà con thấy trên địa cầu (trong mọi loại phong trào, dù là tôn giáo truyền thống, tâm linh, Thời mới hay bất cứ gì khác, ngay cả những người không tham gia vào phong trào nào) có thái độ này: “Ước gì vật chất thay đổi thì thái độ của tôi sẽ có thể thay đổi.” Chẳng phải toàn bộ mục đích của khóa học tự điều ngự này là để giúp con nhận ra vật chất chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên nó hay sao? Nếu có gì phải thay đổi ở đây thì sự thay đổi đó phải bắt đầu trong tâm. Như thày đã nói, mọi hiện tượng vật chất đã khởi đầu trong một cái tâm nào đó. Nếu có điều gì cần thay đổi trong tâm liên quan đến hoàn cảnh của con, thì tâm đó là tâm của ai? Chẳng phải là tâm của con hay sao? Liệu con có quyền năng thay đổi được những cái tâm khác, cho dù là tâm Thượng đế hay tâm của người khác?

8.5. Làm thế nào thay đổi vật chất

Con yêu dấu, con hãy nhìn tín đồ các tôn giáo truyền thống mà xem. Họ đến nơi thờ phượng, họ đi lên bàn thờ, họ quỳ gối trước bàn thờ xong họ cầu nguyện Thượng đế. Trong cốt lõi, họ đang cầu nguyện để Thượng đế thay đổi tâm của ngài: “Kính thưa Thượng đế, xin ngài hãy thay đổi tâm của ngài và cho con một hậu quả khác hơn về những chuyện mà con đang phóng chiếu trong tâm của con.” À, tỷ như con có thể thay đổi được tâm Thượng đế, liệu việc thay đổi tâm con có dễ thực hiện hơn chăng? Con yêu dấu, có nghĩa lý gì mà con, một đệ tử của chân sư thăng thiên, vẫn còn giữ ở đâu đó trong tâm mình cái ý tưởng rằng một ngày nào đó mình sẽ tìm ra công thức bí mật (và có lẽ Saint Germain sẽ trao cho con trong khóa học này về kết đọng) hầu con có thể thay đổi vật chất mà không cần thay đổi tâm? Các thày đã dạy con rồi đó, thày biết rõ, nhưng liệu con có nhập tâm hay chưa? Con có vỡ ra hay chưa? Con yêu dấu, con cần đạt tới điểm nó vỡ ra và con nhận ra là con không thể làm việc với vật chất và thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn trong vật chất mà lại vẫn cưỡng chống, oán giận vật chất – con sẽ chỉ đẩy nó ra xa hơn mà thôi.

Nhiều người trong số các con mang ý tưởng là phải có một cách thần diệu nào đó để thay đổi vật chất. Đúng là có một cách, con yêu dấu. Có một cách thần điệu để thay đổi vật chất, và cách thần diệu đó là sử dụng quyền năng của tâm con. Con không thể sử dụng quyền năng thay đổi vật chất này nếu con oán giận vật chất, nếu con cưỡng lại. Con cần tới điểm con chấp nhận là con đang ở trong vật chất, ở trong cõi vật chất. Con chấp nhận là con ở đây vì con đã chọn ở đây, vì con muốn ở đây.

Thày công nhận là việc đạt đến điểm này không hoàn toàn nằm trong ranh giới hay khuôn khổ mà thày đã định ra cho khóa tu này. Các thày đã có ban lời dạy trong những cuốn sách khác (bắt đầu với cuốn “Những kiếp sống của tôi” và những sách bài tập khác theo sau) sẽ giúp con làm hòa với sự kiện mình sống trong vật chất. Nếu con không xoay chuyển được ngay bây giờ, con sẽ cần dùng những sách đó và làm hòa với sự hiện diện của con ở đây. Một số trong các con sẽ có thể sử dụng những điều thày nói ở đây và làm cuộc xoay chuyển trong tâm mình, qua đó it nhất con sẽ nhận ra được (cho dù con chưa hoàn toàn khắc phục được chấn thương nhập đời, nhưng con vẫn nhận ra được) là con đang có thái độ kháng cự lại vật chất trong tâm. Gần như là con đã quyết định từ chối làm việc với vật chất, hay ít ra con đã từ chối sử dụng tâm mình để làm việc với vật chất. Có thể con có làm việc với vật chất bằng những phương cách vật lý nhưng con không dùng tâm để làm việc với vật chất. Trong nhiều trường hợp, chuyện này liên quan tới sự kiện là trên thế giới có một con quái vật rất lâu đời bảo rằng người tâm linh nên tránh không được giao lưu với vật chất trong đời sống thực tiễn hàng ngày vì như vậy sẽ làm hại đến sự phát triển tâm linh của họ.

8.6. Vật chất không chống lại phát triển tâm linh

Con yêu dấu, con hãy nhìn vào mô hình phổ biến tại phương Đông lẫn phương Tây. Mô hình này cho thấy gì? Tại phương Đông có ý niệm khá quảng bá là những người thật sự tâm linh sẽ rút lên núi Himalaya tu tập. Có một giáo phái mật truyền gồm những vị đắc đạo người Ấn mà không ai từng gặp mặt đang sống nơi những vùng núi hẻo lánh đó, và các vị đang cầm giữ sự cân bằng tâm linh cho hành tinh. Tại Ấn độ, con cũng có truyền thống vô cùng lâu đời của những vị đạo sư thiết lập đạo tràng nơi học trò có thể đến nhập thất, rút lui hẳn khỏi thế gian để sống trong hiện diện của thày mình. Có những thiền viện Phật giáo được thiết lập ẩn khuất, như con thấy ở Tây tạng chẳng hạn có những tu viện được lập ra với chủ ý duy nhất là cống hiến điều mà họ xem là pháp tu tâm linh, trong nhiều trường hợp bỏ hẳn đời sống thực tiễn. Và con cũng thấy một điều tương tự ở phương Tây với các vị tu sĩ và nữ tu trong truyền thống Công giáo. Trong cách nhìn đó, nếu con thật sự là người tâm linh thì con không thể gia nhập vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày. Con phải rút lui khỏi thế gian, vân vân.

Một lần nữa, nếu là trong các thế kỷ trước thì điều này cũng chính đáng, bởi vì các điều kiện sinh sống vật lý quá khó khăn, khắc nghiệt, đòi hỏi nhiều lao động về thể xác lẫn sự chú ý của con người. Sau một ngày làm lụng vất vả, ai nấy đều mệt mỏi. Nhưng ngày nay, nền công nghệ mà phần lớn do thày đỡ đầu, đã cho phép con có một cuộc sống rảnh rỗi hơn – nếu con đặt chiếc điện thoại đó xuống và ngừng theo dõi mọi chuyện xảy ra trên Facebook. Nếu con muốn, con có thể chọn lựa là mình có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn, dư dả nhiều khả năng chú ý hơn. Con có thể thấy là công nghệ cùng lối sống hiện đại đã đem lại một bối cảnh nơi con hoàn toàn có khả năng sống một cuộc đời tương đối năng hoạt giữa xã hội mà vẫn phát triển tâm linh tối đa.

8.7. Đời sống tâm linh của Thời đại Bảo bình không ở trong tu viện

Bây giờ con yêu dấu, có lẽ ở đây chúng ta cần phân biệt. Có một số người tâm linh trên địa cầu không thật sự có mối liên hệ gì với thày hay với Thời Hoàng kim mà thày mong muốn đem lại. Những gì thày nói ở đây không áp dụng cho những người đó, nhưng đối với tuyệt đại đa số những ai đang đầu thai lúc này và có sự quan tâm về tâm linh, thì họ có một mối quan hệ nào đó với thày. Vì vậy trong Sự vụ Thiêng liêng của họ (mà chính họ đã thảo ra trước khi đầu thai) có một ý muốn hỗ trợ việc thị hiện Thời Hoàng kim của thày.

Con yêu dấu, nếu con là một trong những người muốn đóng góp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain thì thày nói với con: Con sẽ không làm được chuyện này bằng cách rút khỏi thế gian để sống trong một tu viện. Thày không bảo là con không thể làm vậy trong một thời gian ngắn, nhưng con sẽ không làm được vậy bằng cách sống một cuộc đời mà nhiều người tâm linh gọi là lối sống tâm linh, là lối sống mà họ thường hình dung khi họ nói chuyện rút lui khỏi thế gian. Quá nhiều người đã tìm cách khởi xướng những phong trào nhằm thiết lập một loại tịnh đường nào đó. Rồi họ kêu gọi người ta đến sống và làm việc, và họ nghĩ đó là lối sống tâm linh, nhưng đó không phải lả mô thức tâm linh trong Thời đại Bảo bình.

Thời đại Bảo bình là thời đại của cộng đồng, thời đại của Thánh linh. Cộng đồng không có nghĩa là con tự cô lập khỏi thế giới và tạo ra một cộng đồng những người tâm linh có cùng niềm tin và sở thích. Cộng đồng có nghĩa là con sống trong cộng đồng rộng lơn hơn. Con dự phần vào đời sống ngoài kia trong thế giới. Trong nhiều trường hợp, con vẫn có công ăn việc làm bình thường nơi con làm việc với người khác. Con phần nào gia nhập vào xã hội. Thời đại Thánh linh có nghĩa là Thánh linh có thể tuôn chảy, không chỉ trong những gì mà truyền thống xem là môi trường tôn giáo, mà trong đời sống hàng ngày bởi vì con ở đó. Con không thể biết được khi nào con có thể là cánh cửa mở khi mình thốt ra một lời nói cho ai đó và lời nói này sẽ giúp người kia nhảy vọt trên đường tâm linh của họ, ngay cả khi họ không có vẻ gì là người tâm linh.

8.8. Phá vỡ rào cản giữa đời sống thực tiễn và tâm linh

Làm thế nào con sẽ đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn? Con sẽ chỉ làm được nếu con thay đổi thái độ đối với ý nghĩa của “đời sống tâm linh” và ý nghĩa của “đời sống thực tiễn”. Con sẽ phải phá bỏ những hàng rào cản trong tâm con. Thày đã nói ai tạo ra rào cản đó chứ? Sa nhân. Làm thế nào con sẽ có thể là người tâm linh đích thực nếu con cho phép những rào cản do sa nhân dựng lên tồn tại trong chính tâm mình? Chúng phải ra đi, con yêu dấu.

Con phải tới điểm không còn phân rẽ đó giữa đạo và đời trong tâm con. Con không còn cách biệt nào giữa những gì con xem là sinh hoạt tâm linh và những gì con xem là sinh hoạt thực tiễn. Điều này không có nghĩa là phần nào con có thể tìm ra một lối sống nơi mọi sinh hoạt đều là tâm linh dựa theo mô thức tâm linh của con. Không đâu, con yêu dấu, nó có nghĩa là con cần làm điều mà rất ít người sẵn sàng làm (trong số những người tự xem mình là tâm linh). Con cần phải thay đổi thái độ để ngừng xem các “sinh hoạt tâm linh” là tâm linh. Con phá vỡ toàn bộ khuôn đúc đó đã được dựng lên trong tâm thức tập thể về ý nghĩa sinh hoạt tâm linh.

Không phải là chuyện đi nhà thờ hay đi chùa hay đi nhập thất. Không phải là chuyện tham gia một số sinh hoạt nào đó, như tụng kinh, đọc bài chú bài thỉnh, cầu nguyện, tham thiền, trầm tư, tỉnh giác hay bất kể. Đó không phải là ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh trong Thời đại Bảo bình. Trong Thời đại Bảo bình, tất cả mọi thứ đều là sinh hoạt tâm linh – nếu con làm với tư duy xem đó là tâm linh.

8.9. Vượt qua nỗi oán giận vật chất

Con yêu dấu, điều này khởi đầu khi con xem xét, con chân thành và sẵn lòng nhìn nhận là mình đang mang trong tâm một nỗi oán giận đối với vật chất. Một lần nữa, sự kiện con có nỗi oán giận này rất dễ hiểu, và thày không trách con. Thày không đang nói là con không nên có hay con không bao giờ được có nỗi niềm đó. Con yêu dấu, thày không biết làm thế nào con có thể, như một avatar, đến một hành tinh dày đặc như thế này mà không nuôi dưỡng nỗi oán giận đối với vật chất. Không phải thày nói con không bao giờ nên như vậy, mà thày chỉ nói là con cần nhìn nhận là con có nỗi niềm đó và đã đến lúc con thăng vượt nó.

Con thăng vượt bằng cách làm việc trên chính con và thực sự nhìn vào cõi vật chất. Thày đã có nói là con cần nhìn xa hơn các hiện tượng vật chất. Con cần nhận ra vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử và sóng năng lượng. Ở đây con cần nhận ra là tất cả mọi hiện tượng vật chất mà con thấy đều thật sự làm bằng chất cơ bản đó.

Con yêu dấu, chất cơ bản đó, mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật, không phải là kẻ thù của con. Nó không tìm cách trả đũa con, hãm hại con hay kháng cự con! Khi nào con vượt khỏi tất cả những hình ảnh và khuôn đúc đó được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con mới chạm được Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Ánh sáng Mẫu-Vật này không hề cưỡng lại con chút nào. Tự thân Ánh sáng Mẫu-Vật không tách biệt khỏi Tánh linh. Khi con đi xuống và chạm Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết, như cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng làm được (nếu con gạt sang một bên thái độ bình thường của con), thì con sẽ thấy Ánh sáng Mẫu-Vật không hề tách rời khỏi Tánh linh. Giữa Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng không hề có ngăn cách.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả sự phân biệt giữa cái gọi là khía cạnh “cha” của Thượng đế và khía cạnh “mẹ” của Thượng đế có khuyng hướng tạo ra, hay ít nhất duy trì, một tính chất nhị nguyên nào đó, nhưng cả hai không hề tách biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật là một phần nối dài của Cha. Ánh sáng Mẫu-Vật được sử dụng để hình thành hành tinh địa cầu là một phần nối dài của Ánh sáng Mẫu-Vật trong cõi tâm linh, chỉ khác chút xíu về mặt rung động. Dù sao thì, con yêu dấu, điểm quan trọng ở đây là khi con đi xuống Ánh sáng Mẫu-Vật cơ bản đã hình thành địa cầu, Ánh sáng Mẫu-Vật đó có khả năng diễn bày ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó, trong khuôn khổ cái khuôn đúc bao gồm mọi hình tướng khả dĩ mà các Elohim đã thiết lập.

Điều này có nghĩa Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng diễn bày một trạng thái địa đàng trên trái đất cũng dễ dàng y như tình trạng hỗn loạn mà con chứng kiến trên địa cầu. Khi con thực sự suy ngẫm điểm này, con nhận ra Ánh sáng Mẫu-Vật không phải là kẻ thù của con ở đây. Ánh sáng Mẫu-Vật không hề cưỡng lại con, vậy tại sao con lại cưỡng lại chứ – bởi vì con đang cưỡng lại nó trong tâm đó.

Một lần nữa, điều hoàn toàn thông cảm được là con đã đến hành tinh này và đã nuôi lớn niềm oán giận Ánh sáng Mẫu-Vật (hoặc ngay cả nếu con là một cư dân nguyên thủy, một khi con chạm trán với sa nhân và những gì chúng làm với Ánh sáng Mẫu-Vật tạo ra các hậu quả đau đớn đó, thì con cũng nảy sinh lòng oán giận). Một lần nữa, không có chuyện trách cứ gì ở đây, nhưng đã đến lúc con nhìn lại và nhận ra là nếu con thật sự muốn thay đổi hoàn cảnh của mình trong vật chất, thì đâu sẽ là cách duy nhất để con làm được? Đó là con hành động qua trung gian vật chất. Cách duy nhất để thay đổi vật chất là chấp nhận và ôm lấy vật chất, là ngừng oán giận nó, ngừng cưỡng lại nó, ngừng đẩy nó ra xa con.

8.10. Bất nhất trong nhận thức của người tâm linh

Con thấy chăng, con yêu dấu, nhiều người tâm linh mang cái gọi là “bất nhất nhận thức” (cognitive dissonance)? Họ mang một sự mâu thuẫn giữa những gì họ tin và những gì họ làm. Một mặt, con tin là cuộc sống có một phương điện tâm linh, có một thực tại tâm linh, nhưng con vẫn chấp nhận phần lớn lời xuyên tạc của tôn giáo cho rằng có sự phân biệt, hay sự chia cách, giữa vật chất và Tánh linh. Vật chất ở ngay đây, còn Tánh linh thì ở đâu khác, và do đó vật chất không tâm linh.

Khi con thức tỉnh thấy cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, dường như trong con có một thành phần cảm thấy dễ chấp nhận Tánh linh. Con ôm lấy, con chấp nhận có một Tánh linh. Có thể con không có khái niệm rõ ràng Tánh linh là gì, hay con chưa có một trải nghiệm trực tiếp, nhưng con cảm thấy mình dễ dàng chấp nhận một số giáo lý tâm linh bảo con Tánh linh là gì và cõi tâm linh như thế nào. Chẳng hạn nhiều người theo Thời mới có lòng tin và sự quan tâm rất lớn đối với thiên thần và họ nghĩ mọi chuyện trên cõi thiên thần đều tuyệt vời.

Đồng thời, con vẫn tin cõi vật chất cách biệt với cõi tâm linh. Con nghĩ, để thay đổi một điều gì đó trong vật chất, con phải đi qua trung gian cõi tâm linh. Bằng một cách nào đó, con phải với tay tới một sinh thể tâm linh có quyền năng thay đổi vật chất, và sinh thể này sẽ có thể thay đổi vật chất cho con. Tên khóa tu này là gì, con yêu dấu? Là khóa tu tự điều ngự! Tự điều ngự không có nghĩa là con tìm được một sinh thể tâm linh giống như một ông thần hay ông Già Nô-en với quyền năng toại nguyện mọi ước muốn của con.

8.11. Khắc phục phàm linh oán giận vật chất

Tự điều ngự có nghĩa là chính con có khả năng thay đổi vật chất, nhưng một lần nữa, con không thể thay đổi vật chất nếu con kháng cự lại nó. Con phải đạt tới điểm con nhìn ra sự kháng cự đó, nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay một ngã tách biệt, và con phải lui ra khỏi nó. Con phải sử dụng những lời dạy này mà thày trao cho con, sử dụng bài thỉnh cho đến khi cái Ta Biết bỗng nhiên bước ra ngoài phàm linh đó, thấy nó là một phàm linh, thấy chính phàm linh đó đã được tạo dựng từ nỗi oán giận vật chất, từ lực cưỡng lại vật chất. Khi đó, con cần không bước vào bất kỳ kiểu tranh luận nào với nó.

Phàm linh sẽ cố bảo vệ mạng sống của nó, bênh vực sự hiện hữu của nó. Nó sẽ nghĩ ra đủ mọi lập luận (và có thể sa nhân cũng sẽ phóng vào tâm con tất cả những lập luận đó) là tại sao vật chất là như vậy, tại sao vật chất đã tách ra khỏi Tánh linh và tại sao tất cả mọi hậu quả tiêu cực mà con thấy trong vật chất không thể nào đến từ Tánh linh, cho nên vật chất phải được tách rời khỏi Tánh linh, và nhiều luận cứ khác nữa. Con không phải bước vào cuộc tranh luận vì con sẽ không vứt bỏ được phàm linh này bằng cách chứng minh là nó sai. Con sẽ chỉ vứt bỏ nó được khi con thấy nó như cái nó là, thấy nó là một phàm linh tách biệt trong bản thân con, nhận ra con là cái Ta Biết chứ không là phàm linh đó, con không muốn nó trong đời con nữa và con giản dị cho nó chết đi.

Khi nào con còn tranh cãi với nó, cố gắng biện minh cho nó hay chứng minh là nó sai, thì con đang cho nó năng lượng. Con cần ngừng không cho nó năng lượng nữa và để cho nó chết. Ai đã tạo ra nó? Chính con. Ai đã nuôi dưỡng nó? Chính con, qua sự chú ý của con, qua các tin tưởng của con. Khi con ngừng cho nó thức ăn năng lượng của con, nó sẽ chết. Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để các chân sư tiêu hủy nó đi, nhưng dù sao thì khi con ngừng nuôi dưỡng nó, nó sẽ chết. Đây là mục tiêu của con ở mức này của khoá nhập thất của thày, là đạt tới điểm khi phàm linh oán giận vật chất của con qua đời. Nó không còn nữa.

8.12. Xét đến các mộng mơ của con

Con phải đạt tới mức chấp nhận là vật chất không cưỡng lại nỗ lực của con nhằm thiết lập một cuộc sống tâm linh hơn. Tuy nhiên, vật chất sẽ không tuân theo những mộng mơ mà con hiện có về thế nào là sống tâm linh. Con phải nỗ lực nhìn ra là ý tưởng bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, cũng là một phàm linh. Tất nhiên, giống như phàm linh kia, cái này cũng gắn liền với một phàm linh tập thể, nhưng nó là một phàm linh nội tại và con cũng phải để cho nó chết đi.

Chừng nào con còn bám giữ phàm linh nội tại này bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, con sẽ không thể thấy những gì chính con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng về cách con muốn sống đời con. Một lần nữa, thày có thể cam đoan là hầu hết các con đã không ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng là mình muốn rút khỏi thế gian để sống trong tu viện hay trong tịnh thất. Con đã thiết kế Sự vụ Thiêng liêng để con sẽ sống một cuộc đời tương đối năng hoạt, sẽ tương tác với người khác, để con là cánh cửa mở, như thày đã nói, cho việc biểu hiện một số ý tưởng từ cõi thăng thiên.

Thày không đang nói đến chuyện tất cả các con biểu hiện những phát minh to lớn. Cuộc sống hàng ngày được cải thiện là nhờ những người bình thường hàng ngày đưa ra ý mới về những cách làm hay hơn. Chuyện này xảy ra trong môi trường làm việc hay trong bất kỳ hoàn cảnh nào khác nơi con có mặt. Luôn luôn có chỗ cho sự cải tiến qua sáng kiến mới, nhưng ai sẽ là người đưa ra được đây? Đúng vậy, là một người có sự hòa điệu cùng một khả năng hay kinh nghiệm chuyên môn trong lãnh vực đó.

Con thấy được ở đây là có thể có – và đối với hầu hết người tâm linh, chắc chắn là có – sự khác biệt lớn lao giữa sự mơ mộng về một đời sống tâm linh và những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của con. Khi con buông bỏ những ý tưởng về đời sống tâm linh, khi con buông bỏ nỗi oán giận đối với vật chất, con sẽ có thể bắt đầu nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ đó, con không ở trong cùng một trạng thái tâm như bây giờ. Lúc đó con không mang oán giận đối với vật chất – con không cảm thấy nó – con không mang ý nghĩa lý tưởng xa vời về lối sống tâm linh, mà con xem xét một cách rất thiết thực và nói: “Đâu là tiềm năng tăng triển cho tôi trong kiếp này? Làm thế nào tôi thực hiện được chuyện này tốt nhất dựa trên quá trình của mình, nghiệp quả của mình và những người mà mình có mối ràng buộc? Tôi muốn đầu thai trong loại xã hội như thế nào để có thể làm cánh cửa mở và biểu hiện ý tưởng mới cho các chân sư thăng thiên và Saint Germain?”

8.13. Tiến bộ là một vấn đề thực tiễn

Từ một quan điểm hoàn toàn thực tế, điều gì đã tạo ra tiến bộ trong xã hội mà con thấy trong một ngàn năm qua? Đó là sáng kiến mới! Ai đã đưa ra những sáng kiến đó? Có phải là các tu sĩ và nữ tu trong tu viện? Có phải là những vị tâm linh ngồi trong hang đá núi Himalaya? Hay đó là những người sống ở ngoài kia trong đời sống thực tế, khiến họ trong nhiều trường hợp nghiệm thấy một vấn đề, và nhờ thế họ đã với lên một giải pháp tốt đẹp hơn?

Thày không bảo là không có giá trị nào trong việc ngồi trong hang đá trên núi Himalaya và đạt đến một tầng tâm thức cao hơn. Thày chỉ nói là đối với hầu hết các con, đó không phải là điều mà con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, vì con đã nhìn thấy rất rõ là việc đưa nền văn minh này tiến lên Thời Hoàng kim của Saint Germain không phải là một vấn đề lý tưởng, mà là một vấn đề thực tiễn.

Biết bao học trò của chân sư thăng thiên đã từng nghe nói về Saint Germain và một thời hoàng kim, đang có những mộng mơ hoàn toàn không thực tế về ý nghĩa của nó. Họ nghĩ là thày có một cái nhìn lý tưởng, xa vời, tựa như chuyện địa đàng không tưởng nào đó về một xã hội tương lai. Họ nghĩ là một ngày nào đó trong tương lai sẽ có một sự đột phá rồi Thời Hoàng kim sẽ hiện ra. Cũng từa tựa như cơn điên loạn tập thể mà con thấy trước năm 2012 khi bao nhiêu người Thời mới tin rằng địa cầu sẽ xoay hướng một cách thần diệu để bước vào một chiều không gian mới và rồi mọi chuyện sẽ thay đổi.

Con yêu dấu, đây là vấn đề mà chúng ta đã có nói đến gần đây, tức là có một khoảng cách giữa thực tế và những gì mà người tâm linh tin tưởng. Mục đích của khóa tu tự điều ngự là để giúp con khắc phục khoảng cách, hầu con có thể thị hiện những gì con có trong tâm con. Và để khắc phục khoảng cách đó, con phải điều chỉnh những thứ đó trong tâm để đem nó xuống một tầm mức thực tiễn và thực tế. Làm thế nào Thời Hoàng kim của Saint Germain thị hiện được đây? Không phải đùng một cái đâu. Nó sẽ thị hiện qua vô số những bước nhỏ có vẻ không mấy quan trọng. Sẽ có rất rất nhiều người đưa ra những ý tưởng nhỏ bé tự thân sẽ chỉ tác động rất ít trên tầng cấp toàn cầu, nhưng hợp chung tất cả những ý nhỏ bé đó lại, nó sẽ đưa nền văn minh này đi lên.

Con yêu dấu, không phải là sẽ có một thời điểm khi con có thể nói, vào ngày 11 tháng 1 năm 2053 Thời Hoàng kim sẽ xuất hiện. Khi Thơi Hoàng kim trở nên hiện thực, hầu hết mọi người trên địa cầu sẽ không để ý thấy nữa. Họ sẽ nhận thấy các điều kiện sinh sống cải thiện lần hồi, và đó chính là bản chất của Thời Hoàng kim. Đó không là chuyện xoay chuyển duy tâm, thần diệu, mà là chuyện bước đi từng bước một, và chính con cũng sẽ làm như vậy. Quá nhiều người trong các con mang ý tưởng trong tâm là một ngày kia một sự chuyển vọt to lớn sẽ xảy đến và bỗng dưng con có được lối sống tâm linh mà con hiện không có.

8.14. Thu hẹp khoảng cách

Trong tâm con thấy, đây là tình trạng thực tế của con ngay bây giờ, và kia là nơi mà các lý tưởng tâm linh của con bảo con phải đến, và giữa hai điểm đó có một khoảng cách khổng lồ. Nếu con lui lại một bước và nhìn vào khoảng cách, con sẽ thấy là trong tâm con không có một cách thực tế nào để đóng lại khoảng cách đó. Con không thấy làm sao mình đóng lại được khoảng cách. “Làm thế nào tôi sẽ rời hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của tôi – nơi tôi vẫn phải kiếm sống, phải chăm sóc con cái, phải đi làm, phải cái này, phải cái kia trong cõi vật lý – làm thế nào tôi sẽ rời tất cả những bổn phận đó để sống lối sống tâm linh mà tôi mường tượng?” Phải, con sẽ không bao giờ làm được bởi vì lối sống tâm linh mà con mường tượng trái ngược với chính Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là nếu con cố thị hiện một điều gì trái ngược với Sứ vụ của con, có một phần trong tâm tiềm thức sẽ phá hoại nỗ lực của con. Các nhà tâm lý học hay nói về “hội chứng tự phá hoại” và trong một số trường hợp, đó là vì người đó có những vấn đề tâm lý trầm trọng. Nhưng đối với nhiều người tâm linh, hội chứng tự phá hoại có nghĩa là tâm ý thức của họ đã chọn ra một mục tiêu đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của họ, và trong tiềm thức họ sẽ tự phá hoại bản thân hầu tránh bị kẹt lại trong một sinh hoạt sẽ khiến họ rời xa Sứ vụ của họ.

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật kỹ, và có thể con nhìn ra một số sự việc trong đời mình khi mình đã có ý bước vào một lãnh vực nào đó nhưng rồi có gì đó đã xảy đến. Một cách nào đó, con đã phá hoại mục tiêu đó. Có thể con sẽ nhìn lại với sự oán giận và nuối tiếc: “Tại sao mình đã làm vậy, và tại sao mình ngu thế?” Rất có thể sự thật là bởi vì mục tiêu, hay mong muốn ý thức của con, đã không đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng.

8.15. Để ý đến sự chú ý

Do đó con cần nhìn nhận là chừng nào tâm con còn bị ám ảnh bởi mộng mơ thiếu thực tế đó, con sẽ không thể lui lại và có tâm tĩnh lặng để mà thoáng nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng. Con cần nhận ra là nếu con muốn nhìn thấy một điều gì mà tâm ý thức hiện chưa thấy được, thì con phải tạo một khoảng không gian trong tâm nơi viễn quan đó có thể hiện xuyên qua. Con phải nhận ra là sự chú ý của con vô cùng quan trọng.

Đã có những lời dạy của chân sư thăng thiên nói về một bức màn năng lượng. Cái ác có nghĩa là bức màn năng lượng [trong Anh ngữ, cái ác là “evil” và màn năng lượng là “energy veil”, chơi chữ là “e-veil”]. Có một bức màn năng lượng ngăn cản con nhìn thấy. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã suy luận là các tà lực đã tạo ra bức màn năng lượng đó. Tất nhiên, tà lực đã tạo ra một bức màn năng lượng. Tâm thức tập thể đã tạo ra một bức màn năng lượng, và đương nhiên con sẽ phải đâm thủng qua. Nếu con đã theo học khóa tu này cho đến tầng tâm thức này thì con đã học được cách đâm thủng qua với các bài chú, bài thỉnh. Con không hoàn toàn bị đui mù bởi bức màn năng lượng của tà lực và tâm thức tập thể.

Vậy thì cái gì làm con đui mù? Đó là bức màn năng lượng mà con đã tạo ra và duy trì trong chính tâm con. Màn năng lượng này được tạo ra do sự chú ý của con đã tập trung vào một số các giấc mơ mộng và hình ảnh không thực tế đó về người tâm linh phải như thế nào và lối sống tâm linh có nghĩa là gì. Con yêu dấu – lý tưởng nhất – thày mong muốn là con sẽ nhìn được những ý tưởng đó như một quả bong bóng và con có thể lấy một cây kim nhỏ chích vào quả bong cho nó nổ tung ra – và bao nhiêu mơ mộng cũng tan theo. Một lần nữa, điều này không hẳn là thiết thực, ít ra là đối với đa số các con. Con sẽ phải nỗ lực một chút để làm chuyện này.

Con sẽ phải sẵn lòng nhận ra một sự thật rất rất giản dị. Như thày đã có nói trong một đợt truyền pháp trước, con người là nô lệ cho sự chú ý của mình. Chú ý hướng về đâu, năng lượng của con sẽ theo về đó. Khi con đặt chú ý vào một điều gì, như ước mơ về lối sống tâm linh, năng lượng con sẽ đi theo đó. Một khi con đặt nhiều chú ý hơn vào đó, một bức màn năng lượng được dựng lên. Nó sẽ ngăn cản con làm gì? Nó ngăn cản con thấy được một viễn quan nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng, bởi vì con quá tập trung vào viễn kiến con tạo ra trong tâm ý thức đến độ con không thể hòa điệu với tâm cao hơn.

Điều cũng xảy ra là càng nhiều năng lượng dành cho điều gì thì bức màn năng lượng sẽ càng kiên cố, và bấy giờ nó không chỉ trở thành một bức màn năng lượng mà một nam châm năng lượng sẽ lôi kéo chú ý của con. Con đặt chú ý vào một khuôn đúc thì con cho phép năng lượng chảy vào khuôn đúc. Khi năng lượng đạt mức tới hạn (critical mass), khuôn đúc sẽ bắt đầu lôi kéo sự chú ý để con ngày càng tập trung nhiều hơn vào nó. Nó biến thành một vòng ốc xoáy có thể nuốt hết tất cả năng lượng, tất cả sự chú ý của con cho đến hết quãng đời còn lại.

Trên lý thuyết, con có thể duy trì viễn quan hiện thời của con về con người tâm linh. Con có thể đeo đuổi viễn quan suốt phần đời còn lại mà không bao giờ đạt được. Điều này, tất nhiên, thày không mong muốn nhìn thấy ở con. Thày mong thấy con đâm thủng bức màn năng lượng, đập tan bức màn năng lượng, đập tan giấc mơ mộng không thực tế kia và nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, là những điều thực tế và thiết thực cho con trong kiếp này. Để làm được vậy, con phải sẵn lòng tạo ra khe hở đó, tĩnh lặng đó trong tâm mình nơi con có thể bất chợt nhìn xuyên qua bức màn.

8.16. Công thức bí mật

Thành thật mà nói, con yêu dấu, đây là một bí mật mà con có thể bảo là một trong những công thức bí mật mà nhiều người mơ ước. Chỉ có cái là nó không đúng hẳn như những gì họ ước mơ.

Bí mật là như sau: Khi sự chú ý của con bị thu hút tập trung vào một lãnh vực nào đó, con sẽ không thể nhìn quá nó được nếu con vẫn cứ chú tâm vào nó. Con phải rút chú ý ra khỏi lãnh vực đó – ít ra là đủ lâu để có được một tĩnh lặng nào đó trong tâm khi những đám mây sẽ tẽ ra và một tia sáng mặt trời từ Hiện diện TA LÀ có thể rọi qua. Phải có một khe hở. Chừng nào con còn chú tâm vào giấc mơ thì sẽ không còn chú ý nào sót lại cho Hiện diện TA LÀ của con. Đại ý con bảo rằng: “Hiện diện TA LÀ, hãy đừng làm phiền tôi, hãy đừng quấy rầy tôi, để yên cho tôi tập trung vào viễn kiến vỏ ngoài này!”

Đó không phải là cách con tinh tấn trên đường tu. Ngay đây con phải bắt đầu với một quyết định ý thức: “Được rồi, tôi sẽ xem xét giấc mơ của tôi về ý nghĩa của một người tâm linh và đời sống tâm linh. Tôi sẵn sàng tra vấn viễn kiến này. Tôi sẵn sàng nhìn xem nó có cao nhất hay không. Đặc biệt, tôi sẵn sàng nhìn xem nó có đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng hay không. Nếu không thì tôi sẽ muốn biết, và tôi muốn để cho mơ mộng đó ra đi, và tôi muốn nhìn thấy những gì ở trong Sứ vụ của tôi.”

Khó khăn ở đây, con yêu dấu, là mơ mộng của con về ý nghĩa người tâm linh có thể là một viễn kiến rất đầy đủ, bao quát, chi tiết mà con mang trong tâm ý thức. Trong nhiều trường hợp, khi con có khe hở qua đó con nhận được điều gì đó từ Hiện diện TA LÀ, thì điều này sẽ không là viễn quan trọn vẹn của Sứ vụ Thiêng liêng cho phần còn lại của kiếp này. Điều con nhận được là bước kế tiếp mà con cần đi, và nó sẽ không có vẻ gì là lý tưởng, lãng mạn, tuyệt vời như giấc mơ mộng vỏ ngoài.

Một lần nữa, con cần phải quyết định trong ý thức là con sẵn sàng để cho mơ mộng này ra đi, con sẵn sàng bước theo lời gợi nhắc nhận được từ bên trong và đi từng bước một. Rất có thể con nhận được một thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ để làm một việc gì đó rất thiết thực mà con không thấy có liên hệ nào với viễn kiên vỏ ngoài. Đó là tại sao sau đó, con phải sẵn sàng bỏ sang một bên cái nhìn vỏ ngoài và nói: “Tôi sẽ đi theo lời gợi nhắc này từ trực giác nội tâm cho dù nó có dẫn tôi đi đâu.” Thày cam đoan với con là nếu cứ bền chí đi theo những lời nhắn gọi từ Hiện diện TA LÀ, chúng sẽ đưa con tới mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ. Nó có thể không liên quan gì nhiều tới viễn kiến vỏ ngoài nhưng một lần nữa, con cần quyết định: “Tôi muốn đi theo cái nào, viễn quan thực tiễn và thực tế mà tôi đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, hay những mộng mơ lý tưởng nhưng không thực tế mà tôi đã dần dà chấp nhận với tâm vỏ ngoài?”

8.17. Xét lại phong trào tâm linh của con

Có những người – và sẽ có nhiều người hơn nữa khi giáo lý này phổ biến nhiều hơn – sẽ khám phá ra quyển sách này và họ đang ở trong một phong trào tâm linh nhất định. Dựa trên giáo lý của phong trào đó, họ có một viễn kiến về người tâm linh phải như thế nào. Sẽ có một số người mà viễn kiến vỏ ngoài mà họ nhận được gần như đi ngược lại, hay ít nhất rất xa với những gì họ đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ có thể nói: “Vậy tại sao họ lại gia nhập phong trào tâm linh đó chứ?” Họ đã gia nhập vì họ phải học hỏi một điều gì đó.

Nói cách khác, trong Sứ vụ của họ có ghi là họ nên gia nhập phong trào này nhưng Sứ vụ không bảo là họ nên tán thành và chấp nhận viễn kiến của phong trào này về ý nghĩa của một người tâm linh. Họ cần phải học một bài học nào đó, và trong một số trường hợp, đó là học làm thế nào mình không nên làm một số chuyện trong một môi trường tâm linh, hay mình không nên sống tâm linh như thế nào. Họ phải học một điều gì đó. Một khi học xong thì đến lúc họ cần bước đi tiếp, đến lúc họ buông bỏ viễn kiến đó về người tâm linh.

Cũng có nhiều người tâm linh đang đầu thai hiện nay đã từng đầu thai trong những kiếp trước trong khung cảnh tu viện hay tịnh thất. Con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp rồi, do đó con đã tự động hướng về lối sống mà thuở đó có vẻ là lối sống tâm linh nhất. Nhiều người trong các con có những lý tưởng mà con đã đem theo từ kiếp này sang kiếp khác, rằng: “Là người tâm linh thì tôi phải sống như thế nào?” Gần như là con bị thúc ép phải sống lối sống tâm linh đó.

Con thấy có biết bao người, chẳng hạn ở phương Tây, gần như quỳ xuống tán dương khi họ gặp các vị lạt ma hay đạo sư từ phương Đông. Họ nghĩ các vị này chắc hẳn đang có một đời sống tâm linh quá tuyệt vời so với những gì họ có được ở phương Tây. Họ nghĩ mọi chuyện ở phương Tây đều phản tâm linh nhưng các vị lạt ma kia, với dáng đi khoan thai trong áo cà sa tha thướt đủ màu, mới là những người tâm linh đích thực. Họ nghĩ là mình phải cố bắt chước theo và cũng sống như thế. Con yêu dấu, thày không bảo là con không nên làm vậy – nếu đó là Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày chỉ muốn gợi cho con là nếu Sứ vụ của con có ghi là con trở thành một vị lạt ma thì có lẽ con đã không hiện thân tại phương Tây.

Tại sao con đã đầu thai tại phương Tây? Chẳng phải con đã thấy đó là cách hay nhất để con giúp đẩy mạnh Thời Hoàng kim của Saint Germain hay sao? Cho nên con hãy khởi sự đi chứ! Hãy với lên viễn quan chỉ ra cho con thấy làm thế nào con có thể giúp thị hiện Thời Hoàng kim ngay nơi con đang sinh sống, thay vì du hành sang Ắn độ, du hành sang Tây tạng hay nhập vào tu viện, nhập vào tịnh thất nơi con có thể cách ly khỏi thế giới Tây phương.

8.18. Con yêu gì hơn?

Thày không đang bảo con làm điều gì mà con không muốn làm trong tâm cao hơn của con. Có thể thày đang bảo con làm điều gì mà tâm vỏ ngoài của con không muốn làm. Đó là tại sao giờ đây con đối mặt với sự chọn lựa trên Tia thứ Ba của Tình thương: “Con yêu cái gì hơn?” Liệu con yêu tâm vỏ ngoài, viễn kiến vỏ ngoài, hay con yêu Hiện diện TA LÀ và viễn quan mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Đó là viễn quan mà chính con đã đặt vào đó khi con có tầm nhìn rộng rãi hơn tầm nhìn của con trong lúc này.

Điều thày nói với con là nếu con chịu dùng bài giảng này, con thật sự có khả năng xoay chuyển nhãn quan của con. Con có khả năng giải thoát khỏi nỗi ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsion) của những viễn kiến và mục tiêu vỏ ngoài đó, những mộng mơ đó. Con sẽ có khả năng đạt được minh mẫn về thực tế thiết thực mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con yêu dấu, con yêu gì hơn? Những lý tưởng xa vời có thể sẽ chẳng bao giờ thành hình hay thực tế thiết thực mà con có thể cải thiện từng bước và từng bước? Chúng ta vừa nói đến khoảng cách. Quá nhiều người tâm linh tuy thấy được khoảng cách nhưng khoảng cách cứ còn đứng mãi ở đó, là vì họ ngồi chờ cho đến khi họ nhìn thấy một bước tâm linh rõ ràng để mà bước tới. Nhưng họ lại coi nhẹ và từ chối rất nhiều những bước nhỏ thiết thực mà họ đã có thể đi theo để cải thiện đời họ.

Có câu ngạn ngữ cổ xưa bảo rằng nếu con ngước mắt lên trời và cố với lấy các vì sao thì ít ra tay con sẽ không bị lấm đầy bùn. Con yêu dấu, nếu con nhìn lên các vì sao mà lại coi nhẹ tất cả những con đường dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn dưới này, thì có ich gì cho con? Sẽ chẳng tốt hơn hay sao nếu con nhập cuộc và làm bẩn tay, nhưng đồng thời con cũng khám phá ra những cách cải thiện đời mình và xích lại gần hơn với những gì con đã viết trong Sứ vụ của con?

8.19. Khoảng cách trong tâm vỏ ngoài

Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng, con nhìn thấy con sẽ khởi đầu kiếp sống ở mức nào. Con cũng đặt ra một mục tiêu thực tế cho những gì con có khả năng đạt được trong kiếp này, những mức tăng triển mà con có thể vượt qua. Nói cách khác nếu chúng ta dùng hình ảnh 144 tầng tâm thức, con có thể nói là con khởi đầu ở tầng 56 và con có thể lên tới tầng 120. Giữa tầng 56 và 120 có một khoảng cách to lớn, phải không con? Có thể con không hình dung được khoảng cách lớn thế nào nhưng nó rất lớn. Thực tế là con có thể lấp được, nhưng con sẽ làm thế nào đây? Liệu con sẽ nhảy bổng từ tầng 56 vì con đã phát hiện ra một công thức bí mật trong sách cũ? Hay là con sẽ đạt đến tầng 120 bằng cách trước tiên leo lên tầng 57, rồi tâng 58, rồi tầng 59 và cứ thế?

Con có thấy tại sao trong tâm vỏ ngoài có một khoảng cách? Đó là vì con đã không ngó ngàng gì đến những bước nhỏ sẽ dẫn con tới mục tiêu, hay con có một mục tiêu hoàn toàn không thực tế cho nên con không thể sắp đặt một chuỗi bước nhỏ dẫn đến mục tiêu. Rất nhiều người tâm linh có một mục tiêu trong tâm vỏ ngoài hoàn toàn không thực tế. Không một ai, kể cả thày, có thể đưa họ đến mục tiêu từ nơi họ đang đứng và đề ra một tiến trình hợp lý, thực tiễn gồm những bước khả thi sẽ dẫn họ đến muc tiêu. Đơn giản là không có cách nào để tới đó. Đây là tại sao sa nhân đã dựng lên những mục tiêu này vì chúng biết là không ai có thể đạt được. Và do đó người ta cứ không ngừng chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng rồi bị bất mãn, thất vọng – và đó chính là điều sa nhân mong muốn. Thày không muốn con bị bất mãn, thất vọng. Thày muốn con được thỏa nguyện khi con biết rằng mình đang làm theo tất cả những bước nhỏ trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đó là điều thày mong muốn thấy. Đó là điều tất cả các thày đều mong muốn thấy.

Nói thật, liệu con có tin là các thày đã thảo ra nguyên khoá tu này để khi con hoàn tât, con vẫn thấy một khoảng cách và con cảm thấy thất chí? Các thày muốn con khép lại khoảng cách đó. Các thày muốn con nhận ra đường tu là vấn đề bước đi từng bước khả thi một, hầu con được toại nguyện ở tầng mức hiện tại của con. Thày Nada đã nỗ lực rất nhiều để giúp con đến được tầng này, và các vị Thượng sư kia cũng đã đề cập tới điểm này. Thày cũng đề cập vì mục đích của các thày là giúp con đạt tới điểm nơi khoảng cách không còn nữa. Con bằng lòng khi con làm những gì con có thể làm và tiếp tục bước tới cho đến khi con đạt mức cao nhất mà con có thể đạt được trong Sứ vụ Thiêng liêng, có lẽ còn đi xa hơn nữa.

Đối với một số các con, điều đó có nghĩa là con sẽ đạt đến tầng 144 trong kiếp này. Đó là mong muốn của các thày, con yêu dấu. Chắc hẳn con có thể cảm thấy thày hứng khởi như thế nào, phải không? Thày hy vọng con cũng xoay chuyển được và con hứng khởi là mình thực tiễn, thay vì hứng khởi về một mơ mộng viển vông sẽ không bao giờ thị hiện.

Con thấy đó, con yêu dấu, thị hiện tức là có một viễn quan thực tế về những gì mình có thể thị hiện, dựa trên hoàn cảnh cá nhân của mình và hành tinh nơi mình sống. Có những avatar đã bị sa nhân đánh lừa khiến họ chấp nhận viễn kiến về những gì họ muốn thị hiện. Viễn kíến này thực tế trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không thực tế trên địa cầu – một lần nữa, giống như chuyện chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Thày muốn con tìm thấy vàng thực kìa, là viễn quan  trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vàng đó sẽ đến với con, một hạt nhỏ rồi lại một hạt nhỏ, chứ không phải cái hũ vàng nằm nguyên con ở đó. Con hãy bước theo những bước nhỏ đó. Bước từng bước một, và con sẽ đến nơi con muốn đến. Đó chính là điều thày muốn cho con.

Trên địa cầu có gì thực chăng?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và cho phần thứ hai của công việc con đang làm tại khóa nhập thất của thày, thày mong muốn con xem xét trong tâm ý thức: “Cái gì thực và cái gì không thực?” Hiển nhiên suốt hàng thế kỷ, các triết gia đã thảo luận và tranh cãi rất nhiều về bản chất của thực tại, về cái có thể xem là thực và cái không thể xem là thực. Hãy để thày cho con một cái nhìn thực tiễn hơn.

6.1. Phòng máy giả thực tại

Khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng này, thày có một căn phòng đặc biệt để con vào thăm. Đó là một căn phòng không những hình tròn mà bên trong nó giống một quả cầu, có nghĩa là con có thể nhìn khắp chung quanh những gì được chiếu lên tường từ bên trong. Các bức tường này tạo thành một màn hình trên đó thày có thể chiếu lên bất cứ hình ảnh nào. Điểm quan trọng trong phần thực tập này khi con bước vào phòng – và tất nhiên thày biết, con không đang ở trong cơ thể vật lý mà trong thể bản sắc của con – là con sẽ có trải nghiệm mình ở trong một thế giới thực.

Không có gì ở đó cho phép con nhận ra là con không đang ở trong một thế giới thực. Ở khởi đầu của bài tập, con nghĩ, con cảm thấy, con trải nghiệm là con ở trong một thế giới thực. Sau khi con tiến xa hơn trong bài tập, các thày dạy con là có những cách thức để con có thể, chỉ bằng quyền năng của tâm mình, ảnh hưởng những gì được chiếu lên bên trong quả cầu. Nói cách khác, con nhận ra là con ở trong một thế giới không thực như nó hiện ra lúc đầu khi con mới bước vào. Nó không hoàn toàn thực theo nghĩa nó được tạo dựng bởi một lực bên ngoài không liên quan gì tới tâm con. Nó không thực theo nghĩa mà con thường coi là “thế giới thực” trên địa cầu khi con nghĩ thế giới đó không thể bị quyền năng của tâm ảnh hưởng.

Từ từ con học được là con thật sự có khả năng sử dụng quyền năng tâm mình để ảnh hưởng cái có vẻ là một thế giới thực. Bây giờ khi con thực tập bài học này, thày cần con suy ngẫm điểm này với tâm ý thức. Lẽ tự nhiên, thày không mong mỏi con đạt được kết luận là không có gì trong cõi vật lý là thực. Có những người, ngay cả một số đệ tử tâm linh, bỗng nhiên nghi ngờ mọi thứ trong thế giới vật lý là thực, và thường khi họ rơi vào một khủng hoảng bản sắc có thể dẫn họ vào cả bệnh viện tâm thần. Điều đó, tất nhiên, không phải là điều thày muốn thấy cho con. Vì vậy chúng ta sẽ xét xem khi chúng ta bảo cái gì đó là thực hay không thực, thì điều đó có nghĩa là gì.

6.2. Thực tại có nghĩa là gì?

Sự phân chia mà thày muốn thiết lập ở đây, như con biết rất rõ vì con là học trò của chân sư thăng thiên, là con không sống trong một thế giới chỉ có con người sinh sống. Con không một mình, con sống với bảy tỷ con người khác, nhưng con cũng biết có những loại sinh thể khác trong thế giới nơi con sống. Có các chân sư thăng thiên, có các Elohim, có các thiên thần và đại thiên thần, và có Đấng Sáng tạo ở trên đỉnh kim tự tháp. Sự phân chia mà thày muốn làm là như sau: Những gì đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một mức tâm thức cao hơn con người, là thực. Nói cách khác, những gì do các chân sư thăng thiên, các Elohim tạo ra là thực, theo nghĩa là nó không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của quyền năng tâm con người.

Các thày đã ban cho con nhiều lời dạy về tiến trình sáng tạo vũ trụ, sáng tạo các bầu cõi khác nhau. Các thày có nói là hành tinh địa cầu được tạo ra bởi bảy sinh thể tâm linh gọi là Elohim. Các đấng ấy đã chung sức với nhau, sử dụng uy lực đồng sáng tạo để sinh tạo hành tinh này. Họ đã sinh tạo địa cầu trong một trạng thái thuần khiết hơn, cao hơn những gì con thấy được ngày nay. Tạo vật nguyên thủy đó của các Elohim, khuôn đúc nguyên thủy mà các Elohim đã quy định cho địa cầu, chúng ta sẽ gọi đó là thực trong bài tập này. Nó mang thực tại ở trong nó. Thậm chí con có thể đi lên những tầng cao hơn, và tất nhiên, có nhiều sinh thể thăng thiên vượt cả tầng cấp các Elohim đã lập dựng địa cầu. Có những bầu cõi khác nhau đi tuốt lên tới mức của Đấng Sáng tạo.

Tuy vậy, vấn đề ở đây đơn giản là như sau: Trong vũ trụ mà con đang sống, ngay cả trong cõi vật lý, có những thứ đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thăng thiên. Nói cách khác, đó là những sinh thể thường hằng, không ở trong nhị nguyên, không tự xem mình là sinh thể tách biệt, và hợp nhất với tổng thể. Các sinh thể này đã lập ra một số cấu trúc trong thế giới nơi con sống, và trong khuôn khổ bài tập này, chúng ta sẽ định nghĩa các cấu trúc đó là thực. Dựa trên định nghĩa này, chắc chắn là có một số khía cạnh của địa cầu là thực. Tự thân hành tinh này có một thực tại nào đó, và một số đặc tính và nét đặc trưng của hành tinh này cũng có một thực tại nào đó.

6.3. Làm thế nào địa cầu đã trở thành địa cầu hôm nay

Tuy nhiên, bây giờ chúng ta cần xác định một sự khác biệt vì con cũng biết địa cầu không còn ở trạng thái nguyên thủy, trạng thái trinh nguyên nữa. Địa cầu không trong cùng trạng thái như khi các Elohim tạo lập. Điều này có nghĩa là chúng ta cần xét xem làm thế nào hành tinh đã bước vào tình trạng hiện thời, trạng thái hiện thời. Các thày đã giải thích là sự thể này đã điễn ra  trong một khoảng thời gian rất, rất đài, và khi hành tinh được sinh tạo lúc ban đầu, đã có mấy đợt sóng sinh lực của những vị đồng sáng tạo đi xuống điạ cầu. Các vị này nay đã thăng thiên khỏi địa cầu, nhưng khi còn ở đây, họ đã xây đắp thêm trên nền tảng của các Elohim và biến hành tinh này thành một hành tinh đẹp hơn nữa, sắc nét và chi tiết hơn nữa. Họ đã đồng sáng tạo địa cầu.

Các thày cũng có giải thích là ở một thời điểm, một khúc ngoặt đã xảy ra khi ngày càng nhiều dòng sống đến hiện thân trên điạ cầu bắt đầu rơi vào trạng thái tách biệt và nhị nguyên. Lần hồi, họ khởi sự một vòng xoáy ốc hướng hạ dẫn đến tình trạng hiện nay. Những đợt sóng đó, những dòng sống đó, đã phản-sáng-tạo địa cầu bằng cách kéo nó xuống khỏi tầng cấp của các Elohim, cho nên ngày nay địa cầu ở dưới tầng cấp đó khá xa.

Điều con nhận ra ở đây là khi các thày định nghĩa những gì do các sinh thể thăng thiên tạo ra là thực, thì so với cái thực đó, các thày cũng cần gọi những gì mà các sinh thể chưa thăng thiên phản-sáng-tạo là không thực. Có nghĩa là theo định nghĩa này, rất nhiều điều kiện và đặc điểm mà con hiện chứng kiến trên địa cầu là không thực. Tất nhiên, chúng ta có thể có những cách định nghĩa khác về thực lẫn không thực, nhưng dựa trên định nghĩa này, các thày cần nói là hầu hết các điều kiện mà con thấy trên trái đất ngày hôm nay đều là không thực.

6.4. Những gì không thực có thể được thay đổi

Tại sao phân biệt như vậy lại quan trọng? Bởi vì nhờ đó, con có thể bắt đầu dần dần chuyển đổi thái độ của mình, cách nhìn của mình về cuộc sống, và nhận ra rằng rất nhiều hạn chế mà con thấy chung quanh con, rất nhiều giới hạn mà con đã phải đương đầu từ khi con hiện thân lần đầu tiên trên địa cầu – và chắc chắn trong kiếp này nữa – đều không thực theo nghĩa tối hậu. Mặc dù việc phân biệt như thế là quan trọng, nhưng con sẽ có thể nói từ một quan điểm hoàn toàn thực tiễn: “Phân biệt như vậy không quan trọng lắm vì dù các điều kiện trên địa cầu có thực hay không thực, thì chúng vẫn hiện diện ở đây và con vẫn bị chúng tác động.” Tất nhiên, điều này hoàn toàn đúng thôi, nhưng liệu cách suy nghĩ thực tiễn như vậy có thật là cách duy nhất, hay là cách cao nhất mà con có thể áp dụng hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, khi con lớn lên – trong cả kiếp này lẫn những kiếp trước – con đã bị lập trình để chấp nhận rằng những gì hiện có trên trái đất là thực. Con đã bị lập trình bởi cha mẹ, bởi gia đình, bởi người đời trong xã hội, thậm chí bởi cả những định chế trong xã hội của con, để chấp nhận các điều kiện hiện hành là thực, Chúng biểu trưng cho một thế giới có thực, nghĩa là con không có quyền hạn trong tâm con để thay đổi chúng. Đây là niềm tin mà thày cần con khởi sự tra vấn.

6.5. Làm thế nào một cái gì đó được tạo ra

Để làm vậy, chúng ta cần đi một bước thật đơn giản. Chúng ta cần tự hỏi (như các thày đã có giảng dạy trước đây) làm thế nào một cái gì đó được tạo ra? Các thày đã từng nói là chỉ có Đấng Sáng tạo mới có quyền năng sáng tạo từ hư vô – nếu có thể nói như vậy. Các triết gia và khoa học gia đã từ lâu tranh luận về câu “sáng tạo từ hư vô” này và họ đã đi đến một số kết luận khác nhau. Sự thật là Đấng Sáng tạo có quyền năng tạo ra thế giới nơi con sinh sống, quy định các thông số cho thế giới này, và tạo ra “chất” (the substance) từ chính Bản thể của ngài. Nói cách khác, trước khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo, không có gì hiện hữu – không có thế giới, không có cả khoảng trống nơi bất cứ gì có thể được tạo lập.

Con sẽ có thể nói, không nhất thiết là “không có gì”, bởi vì các thày có dạy con về cái gọi là Tất Cả. Dù vậy, so với những thứ được xác định trong vũ trụ của con, thật là không có “vật gì” khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo. Ngược lại thì tất cả những sinh thể khác trong cõi nơi con sống, trong thế giới hình tướng nơi con sống, đều là những sinh thể đồng sáng tạo. Họ không sáng tạo từ hư vô. Họ sáng tạo dựa trên những gì Đấng Sáng tạo đã sáng tạo.

Con đồng sáng tạo như thế nào? Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con. Dù tâm con có như thế nào và tùy theo trình độ đồng sáng tạo của con, con hình thành những hình ảnh đó trong tâm mình, xong con phóng chiếu chúng lên chất cơ bản mà Đấng Sáng tạo đã tạo ra để cho con một cái gì mà từ đó con có thể đồng sáng tạo. Vì những lý do thực tiễn, các thày đã gọi chất đó là Ánh sáng Mẫu-Vật. Con hình thành một hình ảnh trong tâm – trong trường hợp của con, qua trung gian bốn tầng cấp của tâm – và con phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Chúng ta có thể nói, ngay cả các Elohim khi sinh tạo trái đất cũng đã đồng sáng tạo theo cách đó. Các Elohim cũng đã thiết lập những hình ảnh trong tâm mình, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và với thời gian qua một số lần lặp lại nhịp nhàng, họ đã làm thị hiện trái đất. Cách đó không giống như người ta thường hiểu về sự sáng tạo, là có một loại vật chất vật lý nào đó mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra trái đất.

Địa cầu được thị hiện theo nghĩa là trước tiên các Elohim đã tạo ra một hình ảnh của địa cầu nơi cõi bản sắc. Đây là một hình ảnh phức tạp, dựa trên cả bảy tia sáng tâm linh, với mỗi Elohim đại diện cho một tia sáng. Các Elohim đã có hình ảnh này, rồi xây dựng nó lần hồi, củng cố nó, khiến nó rung động ở một mức nhất định (hay cũng có thể nói, ở một độ rung, một tần số nhất định), sau đó đã sử dụng chính rung động này để đẩy khuôn đúc của mình xuống cõi lý trí. Ở đây, các Elohim đã bổ sung cho khuôn đúc, khiến nó thêm chi tiết ở mức lý trí, xong cuối cùng khiến nó rung động ở một mức khác hơn trước khi đẩy nó xuống cõi tình cảm. Một lần nữa ở cõi tình cảm, các Elohim lại làm việc như vậy với khuôn đúc, khiến cho nó chi tiết hơn nữa, khiến cho nó – theo một nghĩa nào đó – năng hoạt hơn, rồi lại gia tăng rung động của khuôn đúc cho tới khi đẩy nó xuống cõi vật lý.

Có thể con sẽ nói, dựa trên những gì con đã được dạy dỗ trong kiếp này: “Vậy chứ quá trình tiến hóa thì để đâu?” Quá trình tiến hóa không hề bị loại bỏ, vì những gì các Elohim đẩy xuống cõi vật lý vẫn chưa là một hành tinh đã được hoàn tất, theo nghĩa là đã có đủ tất cả mọi dạng sống mà con thấy ngày nay hay đã thấy trong quá khứ. Tuy nhiên cái mà các Elohim đẩy xuống cõi vật lý là một hành tinh, dù không có đúng kích thước hiện thời, nhưng ít nhất đã có cái khuôn đúc cơ bản mà con tìm thấy ở mọi hành tinh, ngay cả ở trái đất hiện thời. Như thày vừa nói, cái đó phần nào khác hơn, nhưng nó đã được đẩy xuống cõi vật lý và đã không xuất hiện lần hồi trong cõi vật lý. Không phải là bụi vũ trụ đã lần hồi tụ lại để hình thành trái đất, mà trái đất trong khuôn đúc cơ bản của nó đã được đẩy xuống cõi vật lý, và nếu con nhìn quá trình này ở mức giác quan vật lý thì nó đã xuất hiện ra – trong nghĩa đen – từ “hư vô”. Sau khi khuôn đúc cơ bản của trái đất được đẩy xuống cõi vật lý thì từ từ một quá trình tiến hóa đã khởi sự, cũng do các Elohim hướng dẫn. Rồi sau một khoảng thời gian rất, rất dài, quá trình lần hồi đó đã tạo ra một trái đất đầy đủ điều kiện sinh sống cho các làn sóng của những dòng sống đầu tiên.

6.6. Vật chất không thực

Điều mà thày đang trao cho con ở đây là một ý niệm vô cùng quan trọng. Ngay cả những gì thày gọi là thực vẫn là do một cái tâm tạo ra, hay trong trường hợp này, do bảy cái tâm tạo ra. Con có thể thấy trong thế giới ngày nay, người ta có một triết lý duy vật bảo rằng không có gì hiện hữu ngoài thế giới vật chất. Triết lý này cũng bảo tâm con là một sản phẩm của những tiến trình vật chất trong bộ não của con. Ý tưởng, cảm xúc của con đều là sản phẩm của tiến trình vật chất trong bộ não. Có nghĩa là theo triết lý duy vật, tâm thật ra không có thực – mà chỉ vật chất mới có thực. Việc chúng ta xem xét điểm này quan trọng là vì con không thể lớn lên trong thế giới hiện đại mà không bị nó ảnh hưởng. Có thể nói, có một con quái vật vô cùng hùng mạnh trong tâm thức tập thể tin rằng chỉ có những gì mang chất vật lý mới là thực.

Điều thày cố chỉ ra cho con ở đây là trên thực tế, không có vật chất. Vật chất không hiện hữu như một chất riêng biệt vì vật chất đã được tâm tạo ra. Vật chất là một tạo vật của tâm. Con thấy không, điều mà các nhà duy vật muốn con tin – vì đó cũng là điều họ tin, hay đúng hơn hầu hết bọn họ, nếu chúng ta bỏ ra các sa nhân chỉ sử dụng triết lý duy vật để mà khuynh loát con người – là có một quá trình đã đem vật chất vào hiện hữu. Và một khi vật chất đã được đem vào hiện hữu, nó sẽ tiếp tục hiện hữu mãi mãi hoặc trong một thời gian rất dài. Nói cách khác, vật chất có một thực tại nào đó, và thực tại này hiện hữu độc lập với tâm. Điều mà các nhà duy vật đó muốn con tin là tâm con chỉ có thể là chủ quan, nhưng vật chất thì khách quan. Vật chất có một hiện hữu khách quan, độc lập với tâm.

Lý do chúng ta xem xét ảo ảnh này quan trọng là vì, tất nhiên, nó đã được sa nhân chế tạo ra. Nó đã được chế tạo ra vì một mục đích rõ ràng là tước mất quyền năng của quần chúng. Toàn bộ mục đích của triết lý duy vật là khiến cho mọi người tin rằng tâm mình không có quyền năng thay đổi vật chất. Do đó, một khi trái đất đã ở trong một tình trạng nào đó, một khi vật chất đã rơi xuống một độ dày đặc nào đó, thì không có gì mà loài người có thể làm được để thay đổi sự thể. Chuyện chỉ có thể là như thế vì mọi điều kiện hiện thời đã được tạo nên bởi những định luật tự nhiên khách quan, vượt trên mọi cá nhân, mà không sức mạnh nào của con người có thể thay đổi được.

Con có thể quay sang đối cực ngược lại là tôn giáo truyền thống, và tương tự, con cũng có thể thấy một triết lý đang tước mất quyền năng con người. Người ta bảo con là toàn bộ thế giới đã được sinh tạo bởi Thượng đế, thậm chí Thượng đế Toàn năng. Và đương nhiên, điều này có nghĩa là các điều kiện hiện hành trên trái đất đã được Đấng Sáng tạo Toàn năng tạo ra – một lần nữa lại có nghĩa là tâm con người, ngay cả tâm của tập thể loài người, cũng không có quyền năng thay đổi được.

Con thấy rõ là con đã lớn lên trong một xã hội mặc dù có hai đối cực có vẻ trái ngược nhau, nhưng cả hai lại thật sự giống nhau ở điểm là cả hai đều tước mất quyền năng của con. Cả hai đều truyền bá một triết lý bảo rằng nhân loại không có quyền năng thay đổi các điều kiện hiện hành trên trái đất. Một triết lý như vậy chỉ có thể đến từ sa nhân, và đó là tại sao con cần xem xét điểm này rất cẩn thận. Con cần khởi sự tra vấn tại sao con lại tin vào chuyện đó, liệu nó thực hay không, cho tới khi nào con đạt đến kết luận – không dựa trên suy luận trí thức mà dựa trên một kinh nghiệm nội tâm trực nhận – rằng nó không thật. Làm thế nào con sẽ đến được kết luận đó? Vì khi con tham dự khóa nhập thất của thày, con kinh nghiệm được là cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật đều không thật. Các kết luận, các triết lý của họ, không thật. Điều duy nhất mà con cần làm là đưa điều này xuống tâm ý thức của con hầu con có thể, trong một sáng ngộ trực giác như ánh chớp, kinh nghiệm thực tại ở đây. Thày cũng biết một số các con đã thực hiện được điều này, nhưng dù sao đi nữa, thật không có gì sai trái nếu con có trải nghiệm thần bí mấy lần, và như vậy con lần hồi tăng cường cảm nhận là họ sai lầm khi họ bảo tâm không thể ảnh hưởng vật chất.

6.7. Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất

Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất chứ? Tại vì ngay từ đầu, toàn bộ vũ trụ vật chất là do tâm tạo ra, do tâm của các Elohim và sinh thể tâm linh khác tạo ra. Kể từ khi địa cầu bước vào một vòng xoáy hướng hạ, rất nhiều điều kiện mà con chứng kiến trên địa cầu cũng là do tâm tạo ra, tức là tâm tập thể của nhân loại. Tâm tập thể này phần lớn đã bị sa nhân đánh lừa và khuynh loát sau khi chúng bắt đầu đầu thai ở đây. Giờ đây con có vòng xoáy hướng hạ này trong đó tâm thức tập thể, do sa nhân sai khiến, dần dần kéo địa cầu xuống một mức ngày càng thấp hơn. Sự kiện này mang một số hệ quả, kể cả những xung đột, thiên tai cùng nhiều sự mất quân bình khác trong thiên nhiên. Nhưng trước tiên, nó khiến cho vật chất dày đặc hơn, vì trước khi vòng xoáy hướng hạ này khởi sự, vật chất không đến nỗi dày đặc hơn bây giờ – qua đó thày muốn nói là vật chất từng rung động ở một độ rung cao hơn. Tại sao điều này lại quan trọng? Vì vật chất càng dày đặc thì tâm sẽ càng khó lòng thay đổi vật chất hơn.

Con có hiểu chăng sa nhân đã làm gì? Chúng đã – trong nghĩa đen – thiết lập một tiến trình qua đó chúng đã đánh lừa và thao túng để loài người kéo thấp tâm thức tập thể xuống và do đó cũng khiến cho vật chất dày đặc hơn. Sa nhân được hưởng lợi như thế nào? Chúng có lòng sốt sắng bất tận muốn khuynh loát, kiểm soát, tàn phá và giết hại người khác qua những phương thức vật lý. Cho nên vật chất càng dày đặc thì công việc kiểm soát nhân loại của chúng càng dễ dàng hơn. Vì khi vật chất càng dày đặc thì loài người càng ít khả năng cưỡng lại chúng qua quyền năng của tâm, và do đó chỉ còn cách cưỡng lại qua những phương tiện vật lý mà thôi. Trong địa hạt này, sa nhân luôn luôn có mòi chiếm được thế thượng phong vì chúng sẵn sàng ra tay làm những chuyện mà các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng như những các avatar đã đến địa cầu sau đó không sẵn sàng làm. Cả hai nhóm người này không sẵn lòng giết hại vô số sinh mạng hầu, chẳng hạn, tăng cường thế lực cho một đế quốc, một chủ thuyết chính trị hay một tôn giáo nào đó. Nhưng sa nhân thì sẵn sàng làm chuyên này, và chúng cũng sẵn sàng tiêu diệt những cá nhân nào chống đối chúng. Vì thế mà chúng mới giành được thế thượng phong.

Khi vật chất bớt dày đặc, khi con người nhận thức rõ hơn về quyền năng của tâm mình, sa nhân sẽ không có được cùng những cơ hội để giành lấy quyền kiểm soát. Điều mà sa nhân đã làm là, trong nghĩa đen, chúng đã tìm ra cách kéo vật chất xuống độ dày đặc hiện tại. Và giờ đây, điều mà chúng cố làm với triết lý của chúng trong tôn giáo lẫn trong chủ nghĩa duy vật, là tìm cách khiến cho nhân loại chấp nhận vật chất không bao giờ có thể được nâng lên một độ rung cao hơn, và các điều kiện hiện thời không bao giờ thay đổi được trong cốt lõi, bởi vì: “Mọi chuyện là như vậy đó, không có gì ta có thể làm được để thay đổi. Chắc chắn không có gì ta có thể làm được để thay đổi qua quyền năng của tâm.”

6.8. Hóa giải lập trình trên chính mình

Con yêu dấu, đó là một tâm thức vô cùng thuyết phục đã được áp đặt lên hành tinh này từ quá lâu rồi (ít ra là tôn giáo) và nó đã tác động đến tâm thức tập thể đến độ con không thể khôn lớn ở đây mà không bị nó ảnh hưởng. Điều con cần làm bây giờ là khởi sự giải hóa bản thân khỏi sự lập trình mà con đã nhận lãnh suốt những năm tháng lớn lên, cả trong kiếp này lẫn những kiếp trước. Đây không phải là một công việc con có thể hoàn thành trong một ngày. Thày không yêu cầu con nghĩ rằng sẽ đến một điểm khi đùng một cái, con sẽ bỗng dưng giải thoát khỏi tâm thức đó. Tất nhiên là điểm đó sẽ đến, nhưng nó sẽ không xảy ra trong vòng năm phút. Thày cần con nỗ lực làm việc trên chuyện này, và thày cần con nhận ra là con có những phàm linh nội tại tin tưởng vào sự lập trình đó và con sẽ cần thời gian để tháo gỡ chúng đi.

Dù sao thì thày cũng cần con thực hiện sự xoay chuyển đó ở đây, trong tâm ý thức của con, qua đó con bắt đầu nhận ra là có một sự phân biệt mà con cần làm khi con xem xét các điều kiện vật lý trên trái đất. Trước hết, có một số điều kiện mà tâm con người không có quyền năng thay đổi. Để nói cho đơn giản, khi các Elohim tạo lập trái đất, trái đất tròn. Trong tâm con người không có quyền năng thay đổi hình tròn của trái đất cho dù mọi người trên hành tinh có cố gắng biết mấy với quyền năng tâm mình để biến nó thành hình bầu dục – chuyện này không thể. Con người không thể lật bỏ khuôn đúc cơ bản.

Tuy nhiên, rất nhiều điều kiện khác trên địa cầu, kể cả như thày đã nói, độ dày đặc của vật chất (thày biết điểm này rất khó cho con hình dung, nhưng dù sao thì nó vẫn đúng) có khả năng được thay đổi qua quyền năng của tâm. Điều quan trọng là con bắt đầu làm cuộc xoay chuyển, trên cơ bản con bắt đầu nhận ra, ít nhất con bắt đầu suy ngẫm, rằng bất kỳ điều kiện nào mà con gặp đều mang tiềm năng chuyển đổi qua quyền năng của tâm. Câu hỏi mà giờ đây con cần suy ngẫm là: “Chúng ta đang nói về cái tâm nào?”

6.9. Tâm cá nhân và tâm tập thể

Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa tâm cá nhân và tâm tập thể. Thày đã nói là độ dày đặc hiện thời của vật chất đã được tạo dựng trong một khoảng thời gian rất dài bởi tâm tập thể bao gồm tất cả mọi sinh thể đang đầu thai trên hành tinh, không những ở một thời điểm nhất định mà suốt một quá trình rất dài. Là một cá nhân, con sẽ làm sao đây để lật ngược lại? Phải, đương nhiên là một cá nhân, con không có quyền năng lật ngược lại tâm tập thể của tất cả mọi người.

Con có thấy thày đang dẫn con đến đâu? Thày đang cố dẫn con đến điểm con nhận ra là thày đang ở một thế cân bằng rất tinh tế. Một mặt, thày cần giúp con bắt đầu tra vấn những gì con đã được dạy dỗ. Thày cần con bắt đầu nhận ra vật chất là một tạo vật của tâm. Nhưng mặt khác, thày cũng cần con đừng rơi vào những mộng ảo quyền năng vĩ đại mà thày Nada đã có nói đến, là khi quá nhiều người tâm linh hay đệ tử Thời mới, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, tin rằng một ngày kia mình sẽ đạt được quyền năng của tâm to lớn đến độ mình chỉ cần búng ngón tay là thay đổi trên trái đất sẽ xảy ra như trong phép lạ.

Thày cần con lạc quan, nhưng một sự lạc quan thực tế, qua đó con không dựng lên một kỳ vọng mình sẽ làm được nhiều hơn là mình có thể thật sự làm được trong tư thế của một cá nhân. Nếu con cho phép mình bước vào những kỳ vọng thiếu thực tế đó, thì con đang đẩy mình vào con đường thất vọng. Có những cuốn sách và khóa học ở ngoài kia tuyên bố là chỉ cần một vài chương sách ngắn hay một vài ngày để họ dạy con cách làm kết đọng (precipitate) tiền của hay vàng bạc từ hư không. Tất cả những ai mua sách đó hay học những khóa đó rốt cuộc đều thất vọng vì họ không thể toại nguyện được kỳ vọng đó.

Ở tầng thứ hai này, thày cố gắng cho con sử dụng Tia thứ Hai của Minh triết để xây dựng một dự kiến thực tế về những gì có thể làm được. Con cần nhận ra ở đây là các điều kiện hiện hành trên địa cầu là do tâm tập thể tạo ra. Là một cá nhân, con không thể lật ngược tâm tập thể. Con không có quyền năng đó. Vì vậy thật là không thực tế nếu con dựng lên một kỳ vọng là con có thể học được một loại quyền năng cho tâm lật bỏ tâm thức tập thể. Điều này không chỉ đi ngược lại Luật Tự quyết, mà nó cũng không phải là quả vị Ki-tô.

6.10. Dự kiến thực tế

Con thấy đó, con yêu dấu, các sa nhân đã tìm ra cách đạt được một số quyền năng, ít ra ở một mức độ nào đó, để cưỡng ép hay lật bỏ tâm của tập thể. Đó là cách mà Adolf Hitler đã làm để lôi kéo đa số quần chúng nước Đức ủng hộ ông ta. Tuy vậy, không một sinh thể Ki-tô nào sẽ làm như thế, tất nhiên. Cho nên con thấy là ở vị thế một sinh thể Ki-tô, là một người đang bước chân trên con đường quả vị Ki-tô, con không có mảy may ham muốn nào thu hoạch quyền năng thao túng tâm tập thể, hay ngay cả tâm của đúng một người. Đó không phải là quan tâm của con. Do đó con cần lượng định một cách thực tiễn và nói: “Tôi có thể tập trung vào điều gì? Tôi có thể tập trung vào dự kiến nào tôi có thể thực hiện được khi đi theo những bước khai ngộ của Saint Germain?”

Và đây là gợi ý của thày. Khi con ngày càng bước lại gần hơn với tầng tâm thức 144, sẽ có một giai đọan khi con bắt đầu có những quyền năng của tâm khiến con có thể, ít ra là trong một bản địa giới hạn, thăng vượt độ dày đặc của vật chất. Nếu con xem xét một số lý lẽ được người ta đưa ra, con sẽ thấy chẳng hạn nhiều nhà duy vật sẽ tìm cách hết sức để phủ nhận các phép lạ của Giê-su. Thậm chí con thấy cả một số tín đồ đạo Cơ đốc phủ nhận, hay ít ra bỏ ngoài tai, những phép lạ của Giê-su. Tuy nhiên những công việc mà Giê-su đã làm có một ý nghĩa. Một số phép lạ (không phải mọi phép lạ được ghi chép trong kinh điển mà một số) quả là có thực, theo nghĩa là Giê-su đã thành công vượt qua độ dày đặc của vật chất – ví dụ như biến hóa một chất thành chất khác, làm yên cơn bão, đi bộ trên mặt nước, vân vân và vân vân. Đó là vì Gie-su đã gần đạt đến tầng tâm thức 144. Tất nhiên con cũng biết khóa tu này nhằm đưa con đến tầng 96, và sau tầng 96 vẫn còn một khoảng dài trước khi con lên được tầng 144. Ở mức này, thật là không thực tế nếu con xây dựng ý tưởng là khi con đạt đến tầng 96 thì con sẽ có thể thực hiện phép lạ như Giê-su. Con yêu dấu, chuyện này không thực tế lắm đâu.

Tuy nhiên, con đã thấy Giê-su làm gì khi thày thực hiện những việc gọi là phép lạ đó – thực sự không phải là phép lạ mà chỉ đơn giản là sự áp dụng định luật tự nhiên và quyền năng của tâm? Phải, điều thày Giê-su làm là hoặc thày đã chữa lành ở mức cá nhân, hoặc thày đã làm phép lạ mà không điều khiển tâm người khác. Khi thày biến nước thành rượu, thày đã biến hóa chất vật lý đó, nhưng thày không biến đổi tâm. Thày làm việc trên một chất vật lý chứ không trên tâm của người khác. Khi thày đi bộ trên mặt nước, thày đã không thay đổi tâm của các môn đệ, nhưng tất nhiên thày đã cho phép Peter vươn lên một mức tâm thức cao hơn để Peter cũng đi bộ được trên mặt nước cùng thày. Peter đã không duy trì được tâm thức đó và bắt đầu chìm xuống nước, và điều này cho con thấy là thật sự, việc nâng cao tâm thức của người khác một cách giả tạo không mấy ích lợi.

Đó là lý do tại sao các thày đang trao cho con một khóa học tuần tự sẽ dần dần nâng cao tâm thức con dựa trên chính nỗ lực của con, dựa trên việc xây dựng những chứng đạt nội tâm thay vì dẫn con vào một trạng thái hưng phấn chỉ kéo dài chốc lát vì nó không thể được duy trì. Điều mà Giê-su đã làm cho Peter thật ra là để chứng tỏ rằng một người ở một mức tâm thức thấp hơn có thể được tạm thời nâng lên, nhưng thật sự nó không đem lại tác dụng gì, vì như con cũng thấy sau phiên xét xử, Peter đã chối bỏ Giê-su tới ba lần cho dù ông đã được ban cho kinh nghiệm đó.  

Điều thày cần con làm ở tầng thứ hai này là xây dựng một dự kiến thực tế về những gì mình có khả năng làm được sau khi con hoàn tất khóa tu này. Thày muốn gợi ý cho con, trước tiên con hãy nhận ra là rất nhiều ước mơ mà người ta vẫn có – cho dù con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay là người theo Thời mới hay cả những người bình thường – không thể được thỏa mãn trong khuôn khổ Định luật Tự quyết. Nếu con có ước mơ làm cho nhiều người thay đổi đời họ, hay cách hành xử của họ hay trạng thái tâm họ, thì ước mơ đó không nằm trong các thông số của Luật Tự quyết – trừ khi con có thể truyền cảm hứng cho họ làm như vậy. Nhưng rất, rất nhiều người lại mơ ước là chẳng hạn, mình có được quyền năng khiến cho ai nấy bị áp đảo bởi sức mạnh của tánh linh đến độ họ nhận ra nơi con quyền năng to lớn đó và con là nhân vật xuất chúng đó. Chuyện đó không hợp với Luật Tự quyết đâu con. Con thấy là Giê-su đã không làm như vậy ngoại trừ trong một vài trường hợp khi điều kiện rất khác.

Điều con nhận ra ở đây là con cần điều chỉnh kỳ vọng của mình hầu con không tự đặt ra cho mình một mục tiêu có dính dáng đến chuyện thao túng quyền tự quyết của người khác. Nếu con làm vậy, tất nhiên là con sẽ tạo nghiệp, và đây chính là điều có thể dẫn con tới điểm khi ở tầng tâm thức 96, con bị rớt trong cuộc khai ngộ quyết định mà thày đã có nói tới. Con sẽ tìm cách gia tăng quyền năng của mình thay vì tìm cách nâng cao toàn thể.

Ở đây thày cũng mong con xem xét là con muốn đặt ra cho mình một mục tiêu khả thi dựa trên các điều kiện hiện hữu trên trái đất, dựa trên sự kiện con không có khả năng khống chế tâm thức tập thể. Mục tiêu đó cũng cần “hợp pháp”, dựa trên sự cân nhắc về Luật Tự quyết, để con không tìm cách điều khiển tâm người khác. Có nghĩa là trong giai đọan này của đường tu, thày yêu cầu con tập trung thật sự vào một mục tiêu liên quan chủ yếu đến chính bản thân con, một mục tiêu không đòi hỏi người khác phải thay đổi tâm họ, cuộc đời họ hay cách hành xử của họ để thỏa mãn mục tiêu của con.

Thày cũng yêu cầu con xét xem con có thể làm gì để giúp thăng tiến Thời Hoàng kim của thày. Thày đã có nói ở đây là cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96 là liệu con có tiếp tục trụ tâm vào chính mình hay con sẽ bắt đầu tập trung vào toàn thể. Điều thày đang hướng dẫn con đi tới là con cần định ra một mục tiêu không đòi hỏi mình phải áp đặt quyền lực của mình lên người khác, nhưng đồng thời, mục tiêu đó cũng không quá tập trung vào hoàn cảnh cùng những điều kiện cá nhân của con, mà có được tầm quan trọng nào đó đối với toàn thể. Ở điểm này, thày yêu cầu con xem xét là việc đồng sáng tạo có hai yếu tố.

6.11. Hai khía cạnh của đồng sáng tạo

Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là con thị hiện một điều gì đó một cách trực tiếp – giống như thày đã có nói về các Elohim – dưới dạng một chất vật lý hiện ra từ “hư vô”. Trước đó thì không có chất vật lý nào cả, mà giờ đây lại có một hành tinh vật lý. Đây là thuật thị hiện bằng kết đọng (precipitation). Thày cũng yêu cầu con xem xét khía cạnh omega của đồng sáng tạo, là khi con nắm lấy các điều kiện đang hiện diện trên địa cầu và con cải thiện chúng.

Chẳng hạn, con có thể thấy là cho dù vòng xoáy hướng hạ đã từ rất lâu khiến cho vật chất dày đặc hơn cũng như đã kéo xã hội ngày càng thấp xuống hơn, vòng xoáy này đã được đảo ngược. Trong thời gian qua, nền văn minh đã đi vào một vòng xoáy hướng thượng và đã có nhiều tiến triển trong các điều kiện sinh sống. Đó phần lớn là lý do tại sao con có thể ngồi đây mà tận hưởng thú vui đọc một quyển sách. Con có thì giờ đọc quyển sách đó thay vì bỏ hết thì giờ ra cong lưng làm lụng trên đồng ruộng rồi lăn ra ngủ khi về tới nhà.

Đời sống đã cải thiện, nhưng làm thế nào chuyện đó đã xảy ra? Nó đã xảy ra phần lớn là vì một số người đã có khả năng hòa điệu với cõi thăng thiên và đem xuống những tư tưởng đã cải thiện một số điều kiện sống trên địa cầu. Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là sự kết đọng trực tiếp. Còn khía cạnh omega của đồng sáng tạo là đưa ý tưởng tử cõi thăng thiên xuống cõi vật lý.

Thày yêu cầu con, trước tiên, hãy định ra một mục tiêu cho bản thân hầu ở cuối khoá tu này, con ở trong một trạng thái tâm qua đó con có khả năng nhận được tư tưởng từ thày hay từ một chân sư thăng thiên khác mà con đã chọn, là những tư tưởng liên quan đến một lãnh vực đời sống mà con quan tâm đặc biệt. Nói cách khác, đây không phải là chuyện làm thị hiện của cải từ hư vô – đó không phải là muc tiêu của con lúc này – mà là thị hiện một ý tưởng. Thày cũng yêu cầu con xem xét một mục tiêu khác nữa cho bản thân, là thay đổi hoàn cảnh cá nhân trong đời mình hầu không còn mâu thuẫn nào giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tế, vật lý hàng ngày của con. Đây thật ra là một điều mà thày sẽ đề cập nhiều hơn trong bài giảng tới, nhưng ở đây thày muốn cho con một ý niệm về mục tiêu của khóa học này:

  • Con trở thành cánh cửa mở cho những ý tưởng từ các chân sư thăng thiên nhằm cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống.
  • Con đem lại sự hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn của con.

Đó chính là điều mà thày mong muốn trao cho con qua bài giảng này, và thày mong sẽ nối lại câu chuyện với con ở tầng kế tiếp.

Con là một nghệ nhân điêu khắc năng lượng thuần khiết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và thày vô cùng vui mừng trao cho con phần đầu của các cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua dưới thày tại khóa nhập thất của thày có tên là Hang Biểu tượng. Hãy cho thày bắt đầu với phần trình bày về nơi nhập thất này.

Có thể con đã quen thuộc với các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên cùng các giáo lý mô tả chi tiết hơn về nơi nhập thất này. Có thể con đã được thấy hình ảnh những đại sảnh mà người ta bảo là có tạc ghi nhiều biểu tượng huyền bí hay bí truyền mang một số ý nghĩa đặc biệt, và nếu con hiểu các biểu tượng này, con sẽ có khả năng làm thị hiện (kết đọng) bất cứ gì con muốn. Tất nhiên, đó là một lời dạy nhắm tới một mức tâm thức thấp hơn so với những lời dạy các thày trao truyền ngày hôm nay, cho nên các thày đã phải đánh động đến những gì học viên mong muốn ở mức đó. Các vị thượng sư khác đã cố gắng hết sức để giúp con vượt lên trên mức tâm thức đó, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

4.1. Ý nghĩa thật của các biểu tượng

Thật có nghĩa là gì khi gọi khóa nhập thất của thày là hang “biểu tượng”? Để hiểu, con hãy cho thày trở ngược về một lời dạy của nhà hiền triết Hy lạp cổ Plato nhiều năm trước đây. Plato nói rằng có một cõi cao hơn vượt khỏi thế giới vật lý, vật chất, một cõi mà ông gọi là “những hình dạng lý tưởng”. Chúng ta cũng có thể nói, các hình dạng lý tưởng này là những biểu tượng. Chính sự tương tác giữa các hình dạng lý tưởng này nơi cõi cao hơn định đoạt những gì sẽ thị hiện trong cõi vật lý, cũng như những hình tướng mà mọi vật khoác lấy trong cõi vật lý. Đó là một cách mô tả chính xác hơn về Hang Biểu tượng, nhưng hiển nhiên hôm nay chúng ta có thể đi xa hơn nữa.

Các thày đã giảng dạy là con có một cơ thể vật lý, và vượt lên trên, con còn có một cảm thể, một trí thể và một bản sắc thể. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Các thày có dạy là con nhận ánh sáng và năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con. Khi năng lượng này đi qua ba thể cao kia, nó sẽ khoác lấy hình tướng của bất cứ cấu trúc, hình ảnh, biểu tượng, hình dạng nào mà con có nơi ba thể đó. Đây thực sự là cách hình dung tiến trình đồng sáng tạo.

Cái mà Plato gọi là “thế giới hình dạng lý tưởng” phần nào là cõi tâm linh, là cõi thăng thiên, nhưng người ta cũng có thể bảo đó là ba thể phàm cao hơn kia của con. Con có một số hình tướng trong ba thể cao này. Quả thật, trong ba thể đó con có thể có một số hình tướng lý tưởng hơn, thuần khiết hơn, tinh xảo hơn, chi tiết hơn những gì thị hiện ra trong cõi vật lý. Thực tế là hầu hết mọi người đều có một hình dạng lý tưởng, một hình ảnh lý tưởng, một biểu tượng lý tưởng nào đó trong ba thể cao. Và bây giờ câu hỏi trở thành như sau: “Tại sao nó không thị hiện ra được trong cõi vật lý?”

4.2. Những người có tầm nhìn chỉ chú trọng đến mình

Khi con nhìn nhân loại, con sẽ biết là con người đang ở rất, rất nhiều tầng cấp tâm thức khác nhau. Hầu hết mọi người trên hành tinh này ở một mức thấp hơn nhiều so với tâm thức mà con có khi con bắt đầu khóa tu này [quyền sách này], ít ra là nếu con đã làm theo sự hướng dẫn của sáu vị thượng sư kia. Con nhìn vào nhiều người và con có thể thấy là trong ba thể phàm cao hơn của họ, không nhất thiết họ đang mang những hình dạng mà Plato gọi là lý tưởng. Họ có một tầm nhìn rất hạn chế, họ có một số hình ảnh và ý tưởng rất méo mó. Tuy vậy, con sẽ thấy là trong ba thể cao của hầu hết mọi người, những hình tướng đó vẫn còn cao hơn những gì được biểu thị trong cõi vật lý, vật chất, ít ra là trong đời sống riêng tư của họ.

Và câu hỏi trở thành: “Cái gì ngăn cản con người thị hiện vào cõi vật lý những hình dạng mà họ mang trong ba thể cao?” Câu hỏi này có thể ứng dụng đồng đều cho một người ở tầng tâm thức thấp nhất cũng như một đệ tử của chân sư thăng thiên ở mức của con. Hiển nhiên, nếu con đi xuống tầng tâm thức thấp nhất, con sẽ thấy là thật ra có những người ở đó có khả năng thị hiện trong cõi vật lý những thứ rất gần với các hình dạng mà họ có trong ba thể cao, và buồn thay, những gì họ có trong ba thể cao quả thực là những hình dạng vô cùng thấp, vô cùng méo mó và ô uế. Con có thể thấy một số người ở mức tâm thức thấp vẫn có được một viễn kiến cao hơn nào đó, chẳng hạn như một ông vua muốn thị hiện một cung điện lộng lẫy. Ông ta có khả năng hình dung ra cung điện đó và cũng có khả năng đem một cái gì gần giống như vậy vào thị hịên vật lý, nhưng tiếc thay, viễn kiến của ông tất nhiên là hoàn toàn vị kỷ. Việc xây dựng cung điện sẽ đòi hỏi sức lao động của hàng vạn người làm nô lệ cho ông.

Con thấy đó, có một số người có khả năng hình thành một viễn kiến trong ba thể cao và đem nó vào hiện thực vật lý. Có thể đó không phải là một viễn kiến phá hoại. Con không thể bảo là một số cung điện nguy nga mà con tìm thấy tại hầu hết mọi nước đều nhất thiết là xấu xí hay méo mó, và quả thực một số có thể khá đẹp từ một góc nhìn trần thế nào đó. Tuy vậy, khi con biết các cung điện đó đã được tạo dựng như thế nào thì con thấy những kẻ nảy sinh ra viễn kiến đó đã có một mức tâm thức rất thấp, rất vị kỷ, chỉ chú trọng đến bản thân. Để thị hiện viễn kiến của họ, hẳn là họ đã phải dùng đến sức nô lệ của hàng vạn con người.

Và con thấy là ở một tầng tâm thức thấp kém, người ta quả là có khả năng thực hiện một viễn kiến trong cõi vật lý, nhưng thứ nhất, viễn kiến đó vị kỷ, và thứ hai, cách thực hiện của họ cũng vị kỷ.

4.3. Làm thế nào một thời đại hoàng kim có thể thị hiện

Đối với một đệ tử của chân sư thăng thiên, câu hỏi bây giờ trở thành như sau: “Đó có phải là điều con muốn đạt hay không?” Liệu con có nghĩ là bằng cách theo học khóa tu này, thày sẽ trao cho con một công thức bí mật nào đó, một biểu tượng bí mật nào đó sẽ cho phép con thị hiện bất cứ gì con muốn? Con thấy đó, con yêu dấu, ở tầng khai ngộ đầu tiên tại khóa nhập thất của thày, tất nhiên con đang đối mặt với sự phối hợp giữa Tia thứ Nhất của Ý chí và Quyền năng với Tia thứ Bảy của Tự do. Khi con nhìn vào lịch sử nhân loại, con có thể thấy một số kẻ đã tập trung được một động lượng ý chí và quyền năng rất to lớn nhưng họ lại hoàn toàn mất quân bình về mặt tự do. Nói cách khác, để một ông vua thể hiện được ý chí của mình, ông ta đã phải sử dụng quyền lực, tước mất tự do của hàng vạn người hầu ông xây được cung điện đó, công trình kiến trúc đó.

Hiển nhiên, đây không phải là điều thày sẽ dạy con trong khóa này. Không thể nào thày sẽ dạy con sử dụng sức mạnh của ý chí để lật bỏ quyền tự quyết của người khác, cho dù của đúng một người hay của hàng vạn người. Con yêu dấu, con có hiểu là như các thày đã nói rất nhiều lần, các chân sư thăng thiên tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết hay chăng? Từ một góc nhìn nào đó, con có thể nói mục đích của thày là thị hiện một Thời Hoàng kim trên trái đất, và trong Thời Hoàng kim đó, không một ai sẽ thiếu thốn những thức cần thiết của đời sống và không một ai sẽ phải đau khổ. Phải, đó là mục đích của thày, con yêu dấu, nhưng làm thế nào thày sẽ hoàn thành được chứ? Thày không đang hình dung là Thời Hoàng kim sẽ được biểu hiện bởi một vài ông vua, một vài hoàng đế hay một vài nhà lãnh đạo oai phong nào đó, tuy họ có viễn kiến nhưng lại thực hiện viễn kiến của họ qua sự cưỡng ép, thao túng, tước đoạt quyền tự quyết của những người dân mà họ cai trị. Đó không phải là phương thức thị hiện Thời Hoàng kim mà thày hình dung.

Thày biết con có thể nghĩ: “À, đối với con thì chuyện đó tất nhiên rồi.” Vậy liệu đối với con, chuyện có tất nhiên hay chăng là thày cũng không có ý định thị hiện Thời Hoàng kim qua trung gian một số ít người tâm linh, cho dù với ý định tốt lành, sẽ lấn át ý muốn của đa số dân chúng? Chúng ta đã đề cập đến lớp 10% trên cùng, lớp 80% ở giữa và lớp 10% ở dưới cùng, và lẽ tự nhiên, các sa nhân đang đầu thai và những ai đã bị tâm thức sa ngã chiếm đoạt hết tâm trí, hình thành số 10% có tâm thức thấp nhất này. Đây là những người rất nhiều khi sẽ dùng vũ lực để ép uổng ý chí số 80% dân chúng phải đi theo âm mưu của họ. Nhưng cũng có những đệ tử của chân sư thăng thiên tưởng rằng vì mình thuộc lớp 10% cao nhất thì mình cũng có thể ép uổng ý chí số 80% đó theo viễn kiến và ý định cao hơn của mình.

Các thày đã cố giải thích thật rõ ràng cho con, đặc biệt qua các lời dạy về ngã gốc, về các avatar đến địa cầu, và về cách thức con có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình và đạt được tiềm năng tâm linh cao nhất của con. Các thày đã cố nói thật rõ qua các lời dạy đó là các thày không muốn con đi ngược lại hay ép buộc ý muốn của đa số quần chúng. Đây không phải là cách thức thày muốn thị hiện Thời Hoàng kim của thày. Và điều này có nghĩa là ở cuối khóa tu này, nếu con làm theo sự hướng dẫn của thày và sẵn lòng bước lên cao hơn qua cả bảy tầng khai ngộ, thì thày sẽ dẫn con lên tới tầng tâm thức 96.

4.4. Cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96

Các thày đã có nói là ở tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ quyết định. Ở tầng 96, con sẽ đạt được một mức điều ngự nào đó để bẻ cong được vật chất bằng tâm mình. Do đó con trực diện với khai ngộ chủ yếu như sau: “Liệu con sẽ bước lên mức cao hơn của quả vị Ki-tô nơi con sẽ tìm cách nâng cao tổng thể, hay là con sẽ bắt đầu đi xuống mức thấp hơn nơi con sẽ sử dụng khả năng điều ngự của mình để bẻ gẫy ý chí người khác, để cưỡng ép ý chí người khác?” Đây là cuộc khai ngộ quyết định. Lẽ tự nhiên, mục tiêu của thày là giúp con vượt qua khai ngộ này và bước lên tới mức quả vị Ki-tô.

Đó là tại sao ngay từ đầu thày đã đề cập đến vấn đề này, bởi vì đối với thày, việc thiết lập một khung cảnh đúng đắn cho những cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua tại khóa nhập thất của thày thật là quan trọng. Con hẳn cũng biết là các thày đã nâng tâm thức con lên một mức cao hơn hẳn so với khi con mới khởi sự khóa tu. Điều này có nghĩa là thày cần tháo gỡ điều mà Nada đã đề cập khi nói về những mơ mộng hão huyền mà đệ tử tâm linh có thể có. Quả thực đó là một loại mộng tưởng rất phổ biến và rất thuyết phục mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên thường có, là cho rằng khi con bước lên cao hơn trên đường đạo, các khai ngộ sẽ ngày càng dễ dàng hơn. Có nhiều đệ tử tâm linh, đệ tử Thời mới, đệ tử của chân sư thăng thiên, mơ mộng rằng một ngày kia họ sẽ vượt qua một khai ngộ then chốt nào đó, rồi từ đó trở đi mọi chuyện sẽ dễ dãi – và kể như họ đã tới đích. Tất nhiên, chuyện đó không thực tế chút nào. Đó không phải là cách vận hành của con đường khai ngộ.

4.5. Con đường khai ngộ vận hành thế nào

Chúng ta có thể tiếp cận câu hỏi này một cách khác. Ta có thể nói là với tầng khai ngộ thứ 48, con nhìn cuộc sống xuyên qua phin lọc của một số ảo tưởng mà con đã khoác vào. Do đó, khai ngộ dẫn con từ tầng 48 đến 49 đòi hỏi con nhìn vượt quá các ảo tưởng mà con đang có, rồi đi lên một bước cao hơn khi con lột bỏ ảo tưởng chủ yếu của tầng 48. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là khai ngộ ở tầng 96 cũng từa tựa như thế. Con vẫn đang nhìn xuyên qua một số ảo tưởng đáng kể là những ảo tưởng còn sót lại từ tầng 96 đến 144. Con vẫn phải xem xét hoàn cảnh của mình và nhìn cuộc khai ngộ xuyên qua những ảo tưởng đó, và chúng vẫn khiến con bị đui mù.

Tất nhiên con có thể bảo là ở tầng 96, con không còn nhiều ảo tưởng như ở tầng 48. Ở tầng 48, điều khiến con khó nhìn ra cuộc khai ngộ mà con phải đối mặt ở mức đó không phải là tất cả các ảo tưởng trên mức 48, mà là đúng cái ảo tưởng ở ngay mức đó khiến con khó khăn vượt qua khai ngộ. Và ở tầng 96 cũng vậy, không phải tất cả các ảo tưởng mà con đã buông bỏ cho tới nay sẽ khiến con vượt qua khai ngộ dễ dàng hơn, và cũng không phải tất cả các ảo tưởng ở trên mức đó khiến con gặp khó khăn. Cái tạo khó khăn cho con là chính cái ảo tưởng ở mức con đang cố vượt qua. Nhìn ra ảo tưởng ở tầng 96 thật không dễ gì hơn tầng 48. Và cũng vậy, việc nhìn ra ảo tưởng ở tầng 144 sẽ không dễ gì hơn bất kỳ tầng nào khác. Con thấy đó, con yêu dấu, dù con ở tầng nào đi nữa, ảo tưởng ở tầng đó cũng sẽ khó khăn y như ở mọi tầng khác. Cho nên thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng khi con tiến bước cao hơn thì đường tu sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Tuy vậy, chúng ta có thể nói là từ một góc độ nào đó, ảo tưởng mà con đối diện ở tầng 48 sẽ trực tiếp hơn, hiển nhiên hơn, rõ rệt hơn, dễ thấy hơn rất nhiều khi con phải xác định cách hành xử nào là phải hay không phải. Điều này đúng theo một nghĩa nào đó. Ở những mức tâm thức thấp hơn, có một sự tương phản nhất định về mặt vượt qua khai ngộ giữa cái phải với cái không phải. Con không thể thấy tương phản đó ở tầng 48. Con dễ dàng thấy được tương phản ở tầng 96, nhưng ở tầng 96 con không thể dễ dàng thấy được sự khác biệt giữa việc vượt qua khai ngộ hay không vượt qua.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là các ảo tưởng ngày càng trở nên vi tế hơn khi con bước lên cao hơn. Ở các tầng cao, việc xác định xem chọn lựa nào là đúng đắn hay không mấy đúng đắn trở nên khó khăn hơn so với các tầng thấp. Con cần buông bỏ mơ mộng cho rằng khi con đến tầng 96, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn kể từ đó. Con cần sẵn lòng đối mặt với cuộc khai ngộ ở mỗi tầng trong số bảy tầng mà thày sẽ cống hiến cho con, và con không được mang hy vọng là một ngày kia thày sẽ trao cho con một công thức tối thượng nào đó sẽ khiến mọi chuyện đều dễ dàng và con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn.

4.6. Quân bình trong tự quyết

Con thấy đó, như thày Nada đã có đề cập mấy lần trong các bài giảng của thày, có một nhu cầu thiết yếu là con quân bình ý chí cá nhân của mình với ý chí của người khác cũng như với viễn quan tổng thể về hành tinh. Con có thể nói: “Con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và con muốn giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Đây là một mong muốn xây dựng và đáng trân trọng. Con cần xét xem, như Nada cũng có giảng, làm thế nào con có thể có những phàm linh nội tại dựa trên cơ chế bù đắp hay những cơ chế khác, tức là con có một viễn kiến về Thời Hoàng kim của Saint Germain mà lại không đồng thuận với chính viễn quan của thày. Thậm chí thày đã có nói về điểm này trong bài mở đầu của thày sau các bài giảng của Nada, khi thày mong muốn con tẩy sạch khỏi tâm trí con mọi mơ mộng về cách thức Thời Hoàng kim sẽ biểu hiện như thế nào.

Con muốn giúp thị hiện những gì chứ? Đó có phải là Thời Hoàng kim như thày nhìn, hay là Thời Hoàng kim như con nhìn – có lẽ dựa trên một số hình ảnh phổ biến đang chạy lông bông trong tâm thức tập thể? Nói thật trong nhiều trường hợp, đó là những hình ảnh dựa trên những gì sa nhân mường tượng cho một thời vàng son, nghĩa là họ mường tượng chính họ sẽ nắm lấy quyền kiểm soát. Cái nhìn của sa nhân về thời hoàng kim là sẽ có một vài người lãnh đạo tạo dựng những xã hội vô cùng tinh vi và phức tạp được áp đặt lên ý chí của đa số quần chúng. Một số những sa nhân này còn thành thật tin rằng một xã hội như vậy sẽ đem lại lợi ích cho mọi người, vì chúng không thể tin là con người có khả năng biết mình muốn gì hay mình có viễn quan như thế nào về một xã hội tốt đẹp hơn. Tất nhiên đây không phải là viễn quan của thày.

Viễn quan của thày là thị hiện một thời hoàng kim dựa trên tâm thức tập thể được nâng cao hầu đa số dân chúng trên địa cầu có được một viễn quan cho một xã hội tốt đẹp hơn. Con người sẽ thật sự có được một nhận thức bên trong, một sự chấp nhận bên trong, rằng một xã hội như vậy có khả năng thị hiện, và nó đang thị hiện, đang trên đà thị hiện. Đây là điều mà con đã chứng kiến tại rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới khi trong vòng khoảng 100 năm qua, người dân đã tiến bộ rất, rất xa khi họ chấp nhận rằng sự trù phú vật chất là một khả năng mà nước họ có thể đạt được. Con có thể thấy là ba thế hệ về trước, thế hệ ông bà cố của những người dân đó đã không thể nào tin và chấp nhận là xã hội ngày nay có thể hiện hữu. Họ sẽ coi xã hội hôm nay là một giấc mơ hão huyền thật xa vời.

Viễn quan của thày là nâng cao mọi người, và làm thế nào chúng ta thực hiện được chứ? Chúng ta thực hiện không bằng cách cưỡng ép mọi người, mà bằng cách khiến cho lớp 10% ở trên cùng nâng cao viễn kiến của mình, để các con là những người đang đầu thai, đang tham gia vào tâm thức tập thể, có thể kéo đa số đi lên. Không phải là con sẽ ép buộc họ phải nhìn thấy, mà con khiến cho họ có khả năng nhìn thấy. Rồi họ sẽ bắt đầu nhìn thấy và chấp nhận một viễn kiến cao hơn. Vậy con cần làm gì – nếu có thể nói như vậy – để con đặt ý chí của con cho thẳng hàng với ý chí của Saint Germain? Phải, ở đây con cần nhìn nhận là không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con, như một người đồng sáng tạo, có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn mà không xét đến mình là một phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

4.7. Ý chí cá nhân và ý chí rộng lớn hơn

Các thày đã giảng dạy là một số trong các con là avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Các thày có nói là trên một hành tinh tự nhiên, vật chất bớt dày đặc hơn, và cũng dễ dàng hơn rất nhiều để con có viễn kiến ở những tầng cao hơn của tâm và thị hiện viễn kiến đó trong cõi vật lý. Nhưng các thày cũng có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con không ở trong tâm thức nhị nguyên, cho nên con không bị rơi vào ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ mình là một cá nhân tách biệt sinh sống giữa những cá nhân tách biệt khác. Con không bị ảo tưởng là hành vi của mình đối với người khác không ảnh hưởng gì đến mình. Con biết mình là một phần của tổng thể. Và đối với các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng vậy, họ biết điều đó trước khi sa nhân đến đây.

Nhưng có một sự khác biệt giữa một avatar và một cư dân nguyên thủy, theo nghĩa là các cư dân nguyên thủy đã chưa phát triển được một cá thể mạnh mẽ như các avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Đó là lý do tại sao con thấy 80% dân chúng trên trái đất bị tâm thức tập thể ảnh hưởng rất nhiều. Và đó cũng là tại sao các thày nói đến việc nâng cao tâm thức tập thể để cho những người đó, những người thuộc số 80% này, nắm bắt được viễn kiến do số 10% ở trên cùng khởi xướng. Dĩ nhiên, trong số 10% trên cùng đó cũng có một số là dân cư nguyên thủy đã phát triển tới mức đó. Điều thày muốn nói ở đây là khi con đến địa cầu như một avatar, con đã không đến với viễn kiến mình là một loại lãnh đạo chuyên chế sẽ cưỡng bách ý chí của dân chúng.

Con đã đến đây với viễn kiến là mình sẽ tạo cảm hứng cho người khác. Con cũng đã đến đây với sự hiểu biết, với kinh nghiệm từ một hành tinh tự nhiên là mình không dùng khả năng đồng sáng tạo của mình trong chốn không người, như thể việc mình làm không ảnh hưởng đến ai khác. Con dùng khả năng đồng sáng tạo dựa trên ý chí của con nhưng ý chí này không phải là một ý chí tách biệt. Nó đứng thẳng hàng, đồng thuận với tổng thể, với một viễn quan rộng lớn hơn – trước tiên là với Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể nói: “Làm thế nào một vị đồng sáng tạo tân lập trên một hành tinh tự nhiên có thể đồng thuận ý chí của mình với một viễn quan toàn bộ khi y chỉ có một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm?” Phải, y không thể, nhưng y có thể đồng thuận ý chí cá nhân với ý chí của Hiện diện TA LÀ của y. Khi con làm vậy, Hiện diện TA LÀ của con sẽ đứng thẳng hàng với tổng thể, với viễn quan toàn bộ của hành tinh đó. Và do đó, con không sử dụng ý chí của mình để đi ngược lại ý chí của những vị đồng sáng tạo khác chung quanh con. Ở mức này, đây là một điểm rất quan trọng mà con cần ghi nhớ.

Con cũng cần nhìn nhận là mặc dù các thày có nói là việc thị hiện những gì mình muốn dễ dàng hơn trên một hành tinh tự nhiên, điều đó không có nghĩa là con có thể có bất kỳ viễn kiến nào con muốn và thị hiện viễn kiến đó. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, vẫn có một số điều có thể gọi là “điều kiện”, về cách thức con sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình. Một số người sẽ gọi đó là những giới hạn, nhưng thày ưa dùng từ này hơn vì một lý do đặc biệt.

4.8. Làm cho ý chí thấp đồng thuận với ý chí cao

Vì vậy, thày muốn cho con viễn kiến là trên một hành tinh tự nhiên, con không sáng tạo trong hư vô. Con là một nghệ nhân, và thày dùng từ này vì thày muốn đối chiếu với một loại nghệ nhân mà con quen thuộc trên địa cầu – một nhà điêu khắc. Một nghệ sĩ điêu khắc không làm việc với không khí để nặn ra hình dạng; y làm việc với một vật liệu cụ thể. Có nghĩa là khi con xem đến việc đồng sáng tạo một bức tượng, con phải trước tiên dùng sức mạnh ý chí để chọn lựa loại vật liệu nào mà con sẽ dùng. Ngay cả thời xưa, các nhà điêu khắc đã có nhiều loại vật liệu để sử dụng. Họ có thể dùng đất sét. Đất sét là một vật liệu rất mềm, rất dễ nặn thành gần như bất kỳ hình dạng nào. Nếu con thiếu kiên nhẫn và muốn thị hiện thật nhanh thì con dùng đất sét. Vấn đề là đất sét sẽ không giữ được lâu dài, và cho dù nó được nung nóng, tuổi thọ của nó cũng sẽ hạn chế.

Một khi con có nhiều kinh nghiệm điêu khắc hơn, con có thể nói là nhu cầu thị hiện dễ dàng một viễn kiến nào đó sẽ không còn quan trọng lắm đối với con. Vì giờ đây con muốn thị hiện một cái gì có tuổi thọ dài hơn, có nghĩa là con cần chọn một vật liệu bền bỉ hơn. Con có thể chọn đá vôi chẳng hạn. Nó khó nặn tạc hơn đất sét nhưng nó lâu bền hơn, tuy vậy nó không lâu bền nhất và cũng không là vật liệu đẹp nhất. Đá hoa cương lâu bền hơn nhiều, nhưng cũng rất khó đẽo. Đá cẩm thạch dễ đẽo hơn đá hoa cương và, như nhiều người đồng ý, lại mang một vẻ đẹp, một màu sắc, một ánh sắc mỹ lệ hơn.

Con thấy được ở đây, như thày vừa nói, một trong những mơ mộng mà nhiều đệ tử tâm linh thường có, là họ nghĩ bằng cách đạt được một số khả năng thần diệu, họ có thể bù đắp cho sự mất mát mà họ đã cảm thấy khi họ gặp sa nhân lần đầu và bị sa nhân bài bác, Họ mơ ước thị hiện được một cái gì đó ngoạn mục đến độ không ai có thể bác bỏ, không ai có thể làm ngơ. Khi con biết là mình đang ở trên địa cầu nơi vật chất có độ dày đặc nào đó, con sẽ thấy ngay chuyện này cũng không là một ước mơ thực tế.  Cho nên ở tầng đầu tiên này, thày cần con – và thày biết thày đã làm chuyện này trước đây rồi – nhưng thày vẫn cần con lấy một quyết định ý thức là mình sẽ để cho những giấc mơ xa vời kia chết đi. Con hãy để cho chúng ra đi, bởi vì điều con muốn làm ở mức này là con muốn sử dụng sức mạnh ý chí để chọn lựa vật liệu mà con sẽ dùng hầu thị hiện tác phẩm nghệ thuật của con.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng liệu con đã có một viễn kiến rõ ràng về những gì con muốn thị hiện hay chưa?” Thày sẽ trả lời: “Có, con đã có một viễn kiến rõ ràng khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng về những điều con muốn thị hiện trong kiếp sống này.” Không phải là chuyện con ngồi đây với mức tâm thức hiện thời của con, viễn kiến hiện thời của con, rồi quyết định với tâm vỏ ngoài là mình muốn thị hiện cái gì, mà là chuyện con quyết định với tâm ý thức là con muốn đặt cái tâm ý thức đó đứng thẳng hàng với ý chí cao hơn mà con đã dùng để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, thẳng hàng với ý chí cao hơn của Saint Germain cùng viễn quan của thày cho Thời Hoàng kim. Đây là việc mà thày cần con làm ở mức này. Thày cần con xem xét điều này. Thày cần con xem xét những giấc mơ cùng bất kỳ mong muốn nào, viễn kiến nào mà con có thể đã có khi muốn cưỡng ép ý chí của loài người trên địa cầu, ngay cả vì lợi ích của họ.

4.9. Xem mình là một nghệ nhân

Thày cần con thực hiện một sự xoay chuyển trong tâm con khi con bắt đầu xem mình là một nghệ sĩ và đời mình là một tác phẩm nghệ thuật. Đối với nhiều người trong số các con, điều này sẽ đòi hỏi con điều chỉnh to tát, vì cho tới giờ con đã nhìn đời con một cách khác. Một số trong các con có trong đầu một lãnh vực hoạt động đặc thù nào đó mà con muốn bước vào, hoặc con đã bước vào, hoặc con mơ ước bước vào, nơi con có thể phụng sự xã hội. Đó có thể là lãnh vực chính trị, có thể là giáo dục, là khoa học, là kinh tế, là truyền thông, là nhiều thứ khác nữa. Đó cũng có thể là lãnh vực gia đình, chăm sóc gia đình, nuôi nấng con cái và nhiều thứ nữa. Con đã có xu hướng nhìn cuộc đời xuyên qua một phin lọc dựa trên lãnh vực mà con chú ý. Trong nhiều trường hợp, con đã có xu hướng nhìn vào những phương cách hoạt động thực tế của lãnh vực đó. Chẳng hạn trong chính trị, nền chính trị vận hành ra sao? Mình phải cần gì để dấn thân vào chính trị? Hay chẳng hạn mình cần làm gì để trở thành một vị dân cử?

Trong nhiều trường hợp, con đã từng nhìn vào vấn đề như thế, giống như vị sứ giả này chẳng hạn khi ông còn ở tuổi thiếu niên. Ông đã có một viễn kiến bước vào chính trường tại Đan Mạch nơi ông sinh trưởng, và trở thành thủ tướng xứ đó. Con yêu dấu, thày có thể nói với con là với sự chứng đạt của ông trong tiền kiếp, nếu ông đã dành trọn chú tâm vào việc này thì ông đã có thể trở thành Thủ tướng Đan Mạch thật, nhưng đó không phải là viễn kiến cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Rất may ông đã có thể xem xét chính trị và nhận ra đó là lãnh vực của sự thỏa hiệp. Ở đó, con không thể nhìn vào các nguyên lý cao hơn, nhìn vào viễn kiến cao hơn về những gì thực sự cần thị hiện, mà con phải xét đến những gì có khả năng thành hình trong một tình hình chính trị nhất định. Thường khi con phải đổi chác, phải thỏa hiệp để có được một vị thế quyền lực. Ông đã nhìn ra là ông không sẵn sàng thỏa hiệp, và do đó ông đã quyết định không theo đuổi một sự nghiệp chính trị.

Thày biết, rất nhiều người trong số các con cũng đã làm một điều tương tự trong lãnh vực của con. Con đã nhìn vào các cơ chế vận hành ở đó, con đã nhận ra một số điều mà con không muốn làm, một số thỏa hiệp mà con không sẵn sàng bước vào, và do đó con đã trở nên chán nản. Thày không nói là con phải làm điều mà sứ giả này đã làm và từ bỏ lãnh vực mình quan tâm. Rất có thể đối với đa số các con, Sứ vụ Thiêng liêng của con chính là việc theo đuổi lãnh vực quan tâm đó. Tuy nhiên, để thực sự đem lại những điều mà con muốn đem lại trong Sứ vụ Thiêng liêng, con cần phải khắc phục cảm giác chán nản đó, cảm giác rằng những cơ chế vận hành của những điều con muốn thị hiện trên địa cầu thật quá khó khăn, quá méo mó, quá thiếu quân bình, đến nỗi con không muốn tiếp xúc chút nào với lãnh vực đó, hoặc con không thấy làm thế nào mình có thể thị hiện được điều gì cao hơn trong lãnh vực đó.

4.10. Tránh chán nản

Con hiểu chứ khi Nada bảo rằng sự chán nản là dụng cụ thiện xảo nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ? Sa nhân đã cố hết sức để làm tha hóa mọi lãnh vực sinh hoạt của con người trên hành tinh này, chính là với mục tiêu khiến cho những ai bắt đầu có được chút phân biện Ki-tô phải nhìn vào lãnh vực đó, nhìn vào sự tha hóa đó, nhìn thấy những mất quân bình đó, nhìn thấy những thỏa hiệp đó, rồi trở nên chán nản đến độ họ không muốn bỏ sức ra đem lại thay đổi. Con yêu dấu, con có thấy rất nhiều đệ tử tâm linh bị dằn vặt giữa hai lực kéo-đẩy này, hai đối cực này hay không? Một đằng, con mơ mộng về những cách con muốn thị hiện một cái gì thật quan trọng. Đằng khác, con lại bị chán nản và cảm thấy không có gì mình có thể làm được trên thực tế để đem lại thay đổi. Con có thấy hai đối cực đó tương tác với nhau như thế nào không?

Sự kiện con thấy những thỏa hiệp cùng khó khăn đó khiến con bị chán nản, nhưng chính điều đó – hầu con có thể tiếp tục sống trên hành tinh này – lại đẩy con đi vào mộng mơ và nghĩ rằng có một công thức thần diệu, một biểu tượng huyền bí nào đó sẽ cho phép con đâm xuyên qua mọi thỏa hiệp để vẫn thị hiện được thành quả kỳ diệu, ngọan mục. Con có thấy bao nhiêu người trong số các con đã bị dằng xé giữa hai lực đó, và chuyện này đã không nhất thiết dễ dàng hơn khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên? Các thày cho con một viễn kiến về những gì có khả năng thành hiện thực, các thày đã nhấn mạnh rằng chính con là người có thể khiến nó xảy ra. Thế nhưng con vẫn thấy điều mà Chân sư MORE có nói đến trong một bài giảng trước, là cái “khoảng cách” – khoảng cách giữa giáo lý và trạng thái tâm thức của con, cuộc sống bình thường của con cùng những gì con nghĩ con có khả năng thị hiện.

Mong muốn của thày với bảy tầng khai ngộ này là giúp con khắc phục, đóng lại khoảng cách đó hầu không còn kẽ hở nào giữa những giáo lý mà các thày ban truyền và những gì mà thực tế con thấy mình có khả năng thị hiện trong đời mình. Nhưng thày sẽ không làm vậy bằng cách cho con một cây gậy thần. Thày sẽ làm vậy bằng cách giúp con xoay chuyển tâm thức.

4.11. Chọn trung gian nghệ thuật

Xoay chuyển đầu tiên mà thày yêu cầu con thực hiện là con xoay chuyển cách con tiếp cận cuộc sống thành một cách tiếp cận nghệ thuật. Tất nhiên thày sẽ cho con bảy tầng, nhưng ở tầng cấp đầu tiên này, điều đó có nghĩa là con chọn lựa trung gian nghệ thuật mà con muốn sử dụng. Đâu là phương tiện nghệ thuật mà con muốn sử dụng để biểu đạt sự sáng tạo của con? À, trên địa cầu có trung gian nghệ thuật nào? Con sẽ nói: “Đó, có vật chất, mọi thứ đều là vật chất.” Và thày sẽ trả lời: “Có thật vậy không?”

Các thày đã đưa ra nhiều lời dạy về đề tài này qua các tầng tu học trước. Con có thể nhìn thế giới ở mức vĩ mô nơi mọi thứ được coi là vật chất. Xong con có thể đi xuống mức vi mô của các phân tử, mức của nguyên tử, mức của hạt hạ nguyên tử, mức của các làn sóng năng lượng thuần khiết. Con có thể thấy mọi thứ không là vật chất vì vật chất là một mô thức giao thoa, một mô thức giao thoa vô cùng phức tạp, của những làn sóng năng lượng. Đâu là trung gian sáng tạo? Có phải là vật chất hay là năng lượng? Hay có lẽ đó là một chất vi tế hơn cả cái mà người thường gọi là năng lượng?  

Con thấy không, cái mà thế giới khoa học gọi là năng lượng là một thứ gì giống như điện lực hay ánh sáng mặt trời, nhưng đó vẫn là một chất vật lý – ít ra là phần nào. Có một năng lượng vi tế hơn, là năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí, năng lượng ở tầng cấp bản sắc và năng lượng ở tầng cấp tâm linh. Đó là những tầng năng lượng vi tế hơn. Có một cách để nhìn vấn đề này không như cách con nhìn năng lượng trên địa cầu. Chúng chỉ đơn giản là những tín hiệu bật-tắt tí hon – gần giống như khi con nhìn thấy trên màn hình tivi hay máy tính có chiếc diode nhỏ, hoặc bật hoặc tắt. Khi bật, diode có thể khoác vào nhiều màu sắc khác nhau, và nhiều chiếc diode sẽ tạo chung một hình ảnh trên màn hình.

Con yêu dấu, khi con xem tivi, chẳng hạn một bộ phim chiến tranh, liệu con có nghĩ những gì con thấy trên màn ảnh thực sự là những người thật đang chạy quanh bắn súng vào nhau không? Dĩ nhiên là không, bởi vì con dư biết là những gì con nhìn thấy trên màn ảnh tivi chỉ là hình ảnh. Rồi khi con quay mặt khỏi màn hình, hay có lẽ ngay cả khi con nhìn vào chiếc máy tivi, khi con nhìn lên tường sau lưng tivi, nhìn những bức tranh treo trên tường, nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy có nhà hay có đồng ruộng, cây cối – khi con nhìn tất cả những thứ đó, mà con gọi là “thế giới thực”, thì tất cả những thứ con đang thấy là gì? Đó có phải là những vật thực được cấu tạo bằng vật chất, hay chúng thật sự cũng chỉ giống như những hình ảnh mà con vừa thấy trên màn hình tivi nơi có một đơn vị tí hon đang bật hay tắt, và thật nhiều những đơn vị như thế hợp chung lại thành một mô thức phức tạp mà tâm con chuyển thành bức tranh treo trên tường?

4.12. Tại sao khó lòng thị hiện điều mình muốn

Con yêu dấu, tại sao lại có một khoảng cách giữa những gì con có thể hình dung trong viễn quan và những gì con có thể thị hiện? Đó là vì nếu con đang cố thị hiện một cái gì đó dựa trên những biểu tượng và hình dạng đã có sẵn trong thế giới vật chất, thì con sẽ gặp phải sự cưỡng kháng và chống đối toàn diện, không những từ tâm thức tập thể mà cả từ chính vật chất.

Tự thân vật chất trở nên đông đặc thành một hình dạng. Chúng ta có thể nói là năng lượng hoàn toàn lỏng và có thể khoác lấy bất kỳ hình dạng nào, nhưng rồi một biểu tượng, một hình ảnh được phóng chồng lên năng lượng đó. Khi đó, năng lượng bị kéo thấp xuống cõi vật chất nơi nó trở thành cái mà con gọi là vật chất, và vật chất này bị khóa chặt vào hình dạng đó, khóa chặt vào khuôn đúc đó.

Khi con tìm cách lật bỏ khuôn đúc đó đi, có một sự kháng cự xảy ra, vì một khi năng lượng đã khoác lấy một hình dạng nào đó thì sẽ có kháng cự chống lại sự thay đổi. Đây không nhất thiết là một sự kháng cự có ác ý, nhưng khi một tinh linh (elemental being) đã khoác lấy hình dạng một cái cây thì tinh linh cũng đã được thấm nhuần nhu cầu muốn duy trì hình ảnh đó. Do đó mới có một sự kháng cự, ngay cả từ thiên nhiên hay bất cứ gì trong cõi vật lý, chống lại sự thay đổi. Đó là tại sao thày cần con bắt đầu cuộc xoay chuyển này, và tất nhiên thày sẽ nói nhiều hơn về điểm này trong các bài tới.

Ở đây thày cần con nhận ra trong ý thức rằng với cương vị một nghệ sĩ trên hành tinh địa cầu, con phải đối diện với một công việc vô cùng khó khăn do độ dày đặc của vật chất. Sự cưỡng chống vô cùng mạnh mẽ. Tâm thức tập thể dày đặc, và con không sáng tạo trong những điều kiện lý tưởng. Cho nên con cần rất, rất thận trọng khi chọn lựa trung gian mà con sẽ sử dụng để tạo ra tác phẩm điêu khắc của con. Thày cam đoan với con là con không muốn chọn trung gian vật chất, là trung gian của những hình dạng vĩ mô, rồi tìm cách thị hiện ở tầng mức đó.

Đây là điểm mà nhiều người đã theo học các khóa tu tập về thuật thị hịên kết đọng (precipitation) và thuật dùng tâm điều khiển vật chất, đã bị thất bại và không đạt được kết quả mà họ mong muốn. Họ đã khởi đầu ở tầng vật lý với một mong muốn, thường dựa trên sự bù đắp. Họ bắt đầu ở tầng vật lý xong họ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện căn nhà tuyệt đẹp này.” Xong họ đã tìm cách – dù họ có biết về ba cõi cao của tâm phàm hay không – sử dụng sức mạnh của tâm để phần nào phóng chiếu ra vũ trụ và khiến nó quay ngược trở về như một thị hiện vật lý. Thày không bảo là chuyện này không thể làm được cho những thứ đơn giản như một căn nhà, nhưng cho những thứ nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con thì đó không phải là một cách tiếp cận xây dựng.      

Con không thể khởi đầu với những hình dạng đã có sẵn trong cõi vật lý rồi cố làm cho nó tốt hơn hay cố kiện toàn nó. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con có thể bảo là con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện một căn nhà tuyệt đẹp.” Xong con tạo ra viễn kiến cao nhất mà con có thể nghĩ ra về căn nhà đó. Xong con tập trung vào tâm bản sắc. Con phóng chiếu hình ảnh đó từ tâm ý thức vào tâm bản sắc, xong con hình dung ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xuyên hình ảnh đó, chảy xuống cõi lý trí, rồi xuống cõi tình cảm, rồi xuống cõi vật lý. Xong dựa trên những điều mà các thày đã nói, con nghĩ rằng sau khi con đã làm xong tất cả những bước đó thì tạo vật của con sẽ phải thị hiện nơi cõi vật lý. Điều thày nói với con là mặc dù chuyện đó có thể xảy ra, nhưng đó không phải là quả vị Ki-tô.

4.13. Chọn điểm khởi đầu

Quả vị Ki-tô là con không khởi đầu ở cõi vật lý. Con không khởi đầu ở mức vật lý với những điều kiện hiện hành và cố hình dung ra cách thức làm sao cho chúng tốt đẹp hơn. Quả vị Ki-tô là khi con nói: “Các điều kiện trong cõi vật lý không lý tưởng. Tại sao chúng không lý tưởng? Bởi vì có ai đó đã có một viễn kiến hạn chế, một viễn kiến nảy sinh từ nhị nguyên, một viễn kiến có thể đã nảy sinh từ tâm thức sa ngã, và họ đang phóng chiếu hình ảnh này lên năng lượng thuần khiết. Do đó, nếu chúng ta muốn thực sự thay đổi sự thể trong cõi vật lý, chúng ta cần vươn lên một viễn kiến cao hơn. Chúng ta cần giải phóng tâm mình khỏi sự ràng buộc vào những gì đang sẵn thị hiện, hầu chúng ta không khép tâm lại, mà chúng ta có thể mở tâm ra để nhận được một viễn kiến cao hơn từ trên.”  

Viễn quan của thày về Thời Hoàng kim cao hơn tất cả những gì hầu hết mọi người trên trái đất có thể mường tượng được. Do đó không có chuyện lấy những thứ đã có sẵn và làm cho nó đẹp hơn hay công phu hơn hay tinh xảo hơn. Thày đã có đề cập đến những người, những đệ tử của chân sư thăng thiên, đã mơ mộng về những thành phố mỹ lệ với đường phố lát vàng và những tòa nhà cũng làm bằng vàng. Họ chiêm ngưỡng một số đền thờ cổ Hy Lạp cùng những dinh thự tuyệt đẹp hiện có trên trái đất ngày nay, và họ phóng chiếu trong tâm những thành phố với đại lộ còn rộng hơn nữa và cao ốc còn cao hơn nữa, lát vàng hay làm toàn bằng vàng.

Nhưng đó không phải là viễn quan của thày về thành phố trong Thời Hoàng kim. Viễn quan của thày rất, rất khác. Điều thày muốn nói là như sau: Nếu con khởi sự với một cái gì đã sẵn thị hiện và sử dụng làm nền tảng cho những gì con có thể đồng sáng tạo, thì con đang tạo ra khó khăn và kháng cự rất lớn cho con. Có thể con sẽ thị hiện được một cái gì đó theo cạch đó, nhưng đó không phải là cái con đã hình dung trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó sẽ không là tiềm năng cao nhất của con, và đó cũng sẽ không là quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt ra ngoài hiện trạng, chứ không làm cho hiện trạng công phu hơn và do đó cũng chai cứng hơn.

Thày cần con làm cuộc xoay chuyển này. Thày cần con khởi sự xoay chuyển và bắt đầu tự xem mình là một nghệ nhân, nhưng con không đang đẽo tượng từ vật chất. Con không đang lấy một tảng đá rồi tạc đẽo cho tới khi con có một bức tượng. Con đang điêu khắc bằng cách sử dụng năng lượng thuần khiết, năng lượng vi tế hơn trong cõi bản sắc cao, mà đôi khi các thày gọi là cõi ê-the để chỉ rõ năng lượng đó vượt khỏi cõi vật lý.

Con đang khởi sự với một khoảng không gian trống rỗng, một trang vở trắng xóa, một trạng thái trinh nguyên. Có những tín hiệu bật-tắt là những đơn vị năng lượng nhỏ nhất có thể có trong cõi chưa thăng thiên của con. Con đang khởi sự với màn hình hoàn toàn trống trải đó và con sắp sửa vươn lên để nắm lấy viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xong một khi con có viễn quan đó, con sẽ chồng nó lên màn hình trống trải, rồi đem nó xuống qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm đưa vào cõi vật lý.

Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì con nhìn thấy chung quanh con ngay bây giờ. Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì đang thị hiện, mà những gì có khả năng thị hiện – nếu viễn quan của con sạch bong không có gì đã sẵn thị hiện.

16 | Con không là nô lệ của thời gian

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Điều thày muốn trình bày trong bài giảng này là một số chủ đề có vẻ không liên quan nhưng thật sự có liên quan với nhau. Hãy cho thày bắt đầu với một điều tuyệt đối cần thiết trên con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, là con hiểu rằng cái ngã mà con đã có khi con tìm thấy giáo lý lần đầu và thức tỉnh với sự hiện hữu của một đường tu tâm linh, ngã này không thể đưa con đến quả vị Ki-tô hay quả vị Phật.

Các con vừa đọc bài thỉnh về ngã gốc qua đó con học được là ngã gốc phải chết đi thì con mới tái sinh vào một ngã mới [từ quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Tất nhiên đây là một tiến trình hoàn toàn có giá trị, nhưng con không nên đặt mình vào tâm thái nghĩ rằng ngay cả nếu con cảm thấy ngã gốc đã chết, thì ngã mới mà con tái sinh vào đó là cái ngã con sẽ đem theo con cho tới khi thăng thiên. Chắc chắn con đừng rơi vào ảo tưởng cho rằng đây là cái ngã sẽ thăng thiên.

16.1. Thăng thiên sau khi cân bằng toàn bộ nghiệp quả

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã cho con một số lời dạy về tiến trình thăng thiên và cái có thể gọi là “tâm lý của sự thăng thiên” cao hơn hẳn những gì các thày đã trao truyền trong mọi đợt truyền pháp trước đây. Không có nghĩa là các giáo lý trước không có giá trị hay không thể đưa hành giả đến điểm thăng thiên. Có một số người trong tiền kiếp đã gần điểm thăng thiên đến độ các giáo lý trước đã có thể dẫn họ đi những bước chót đến mức sẵn sàng thăng thiên, nhưng loại người như vậy không nhiều lắm. Con cũng biết là trong đợt truyền pháp trước có dạy là con có thể thăng thiên sau khi chỉ cân bằng 51% nghiệp quả của mình. Thày sẽ nói là có rất rất ít người đã có thể dùng giáo lý trước để cân bằng được 100% nghiệp quả (cũng có nghĩa là giải quyết xong tâm lý mình) và nhờ vậy thăng thiên khỏi địa cầu. Có thể nói là họ “sạch bong”, sạch không còn bất kỳ chướng ngại nào và ngay lập tức họ trở thành một chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, với giáo lý các thày trao truyền ngày nay đi sâu hơn hẳn vào tâm lý con người, mục đích của các thày là giúp cho một nhóm đông đảo hơn có thể cân bằng nghiệp quả, giải quyết tâm lý của mình rồi có được một ít thời gian trong trạng thái này trước khi họ rời bỏ thân xác vật lý và thăng thiên khỏi hành tinh. Con cần nhìn nhận việc tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự. Điều này hiển nhiên mang nhiều hệ quả, nhưng một hệ quả là một số điều giảng dạy trước đây tuy đúng đắn vẫn chưa đầy đủ và chỉ là một cái nhìn giới hạn, một cái nhìn đơn giản hóa về chủ đề.

Quá nhiều người trong các đợt truyền pháp trước đã không đặt câu hỏi: “Nếu một chân sư thăng thiên là một sinh thể đã cân bằng mọi nghiệp quả thì liệu một người thăng thiên – gọi tạm như vậy – đã cân bằng 51% nghiệp quả có trở thành một chân sư thăng thiên sau khi ‘thăng thiên’ hay không?” Người ta cũng đã không hỏi: “Nếu một người đã cân bằng 51% nghiệp quả và do đó không phải trở lại đầu thai vật lý, liệu vị này đã thực sư thăng thiên và trở thành chân sư thăng thiên hay không?” Câu trả lời hiển nhiên là “Không!” Làm sao con có thể trở thành một chân sư thăng thiên nếu còn vẫn còn nghiệp chưa cân bằng và tâm lý chưa giải quyết từ trái đất? Nếu việc này xảy ra thì thật không lô-gíc, con yêu dấu. Cho nên các con, ít ra một số các con, cần nhìn nhận đó là một lời dạy được giản dị hóa chứ không phải là tầm hiểu trọn vẹn về đề tài này. Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con cần giải quyết xong xuôi mọi chuyện con cần giải quyết trên địa cầu trước khi con có thể thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Như Mẹ Mary có giải thích, tất nhiên cũng có một số người chỉ còn sót lại nghiệp quả đối với chính mình, có nghĩa là nói chung, những gì còn sót lại chỉ là tâm lý chưa giải quyết mà họ có thể giải quyết ngoài hiện thân vật lý.

Vậy tại sao lại có sự đặc miễn chỉ cần cân bằng 51% nghiệp quả? Chính là vì có quá ít người thăng thiên. Với độ dày đặc của tâm thức tập thể, thật quá khó thăng thiên với 100% nghiệp quả đã cân bằng và tâm lý đã giải quyết. Để đẩy nhanh tiến trình nâng cao tâm thức tập thể, một sự đặc miễn đã được ban ra là nếu có ai cân bằng được – giải quyết được – 51% thì người đó không phải trở lại hiện thân vật lý. Họ có thể gia nhập một chương trình đặc biệt ở cõi ê-the nơi họ nhận được sự trợ giúp để giải quyết bất cứ gì còn sót lại. Làm như vậy sẽ dẫn họ đến điểm thăng thiên trọn vẹn nhanh chóng hơn so với tiến trình tái đầu thai trong một cơ thể vật lý, rồi lớn lên cho đến tuổi trưởng thành để có thể đón nhận đường tu tâm linh và bước chân một cách ý thức hơn. Điều này đã gia tốc tiến trình khi một số người đã có thể giải quyết bất cứ gì vẫn chưa giải quyết, rồi thăng thiên nhanh chóng hơn thay vì phải trở lại đầu thai.

Loài người đã bước vào một chu kỳ mới và các thày có chủ ý giúp đỡ một nhóm đông đảo hơn nhiều đi qua tiến trình giải quyết trọn vẹn tâm lý của mình trong khi còn đang hiện thân. Việc này nhắm trước hết vào các avatar, nhưng giáo lý cũng hoàn toàn có giá trị và hữu ích cho những cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt được một mức tăng triển tâm linh nào đó. Nó cũng hữu ích cho những ai tuy không đúng nghĩa là avatar nhưng có thể đã đến từ một số hành tinh khác đã thăng thiên và họ đã không thể thăng cùng với hành tinh của họ hay cùng với các dòng sống còn lại của hành tinh họ.

16.2. Tinh túy của đường tu là để cho ngã chết

Tất nhiên đây là thách thức mà các thày đã đặt trước mặt con. Con cần nhận ra ở đây là khi con kinh qua một giai đoạn nhất định, chẳng hạn khi con phát hiện ngã gốc như một avatar và con để cho ngã này chết đi, con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới. Chắc chắn có những cái ngã con đã tạo ra sau khi con tạo ra ngã gốc. Con vẫn có một cái nhìn nào đó về bản thân, một cái nhìn nào đó về trái đất, có nghĩa là khi con tạo ra một ngã mới sau khi khắc phục ngã gốc thì ngã mới này không nhất thiết là cao nhất. Hay nói đúng hơn, ngã này không phải là cao nhất có thể. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức, sẽ có một số điểm nơi con cần đứng lui lại, xem xét ý niệm bản ngã của mình lúc đó và một lần nữa để nó chết đi hầu con có thể lại tái sinh. Con có thể tái sinh trong Ki-tô, con có thể tái sinh trong Phật. Có lẽ con đang bắt đầu nhận ra là tinh túy của đường tu tâm linh là thấy mình có một ý niệm bản ngã giới hạn và mình để cho nó chết đi.

Cho tới giờ các thày đã đề cập đến một số ngã đặc thù là những cái ngã phản ứng được tạo ra để ứng phó với một tình huống đặc thù trên trái đất. Chẳng hạn như khi con tìm thấy con đường tâm linh, con tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên – và con bắt đầu học hỏi, bắt đầu thực hành, và có lẽ con gia nhập một tổ chức mang một số nét văn hóa tổ chức – thì kỳ thực con đang tạo dựng một ngã mới. Điều này con không bao giờ ngừng làm, không những trong kiếp này mà cả trong tiền kiếp. Con tạo dựng một số ngã, nói đúng ra không để phản ứng lại một hoàn cảnh chấn thương đặc thù. Kỳ thực con tạo dựng những cái ngã để đáp ứng với cái hiểu và cái biết mà con đang có. Con đang vươn lên một tầm nhận biết cao hơn và con tạo ra một ngã mới dựa trên tầm nhận biết cao hơn này. Khi con lên đến những tầng cao của đường tu, con cần trở nên ý thức về quá trình này, vì suốt một thời gian dài, quá trình xảy ra trong tiềm thức và con không biết là mình đang tạo ra một ngã mới.

Đến một điểm con cần ý thức quá trình này, con cần nhìn thấy: “Tôi đã kinh qua những gì từ khi tôi nhận biết ý thức về đường tu? Trải nghiệm của tôi là gì, sáng ngộ nào tôi đã thu hoạch?” Nói chung con nhìn lại đường tu của con cho tới điểm này và con có thể thấy: “Tôi đã kinh qua những gì, tôi đã chấp nhận những niềm tin nào dựa trên giáo lý tôi đã đi theo, tôi đã tham gia những tổ chức nào? Và kết quả là tôi đã tạo ra những loại ngã nào?” Như Quan Âm có nói, một số người bước vào giáo lý với mong muốn cảm thấy cao trội, và có thể họ sẽ không bao giờ buông được cái ngã cao trội họ đã tạo dựng do là đệ tử của chân sư thăng thiên. Tuy vậy, đa số các con không có vấn đề này nhưng các con đã có tạo dựng những cái ngã khác.

Một lần nữa, không có sự chê trách nào ở đây. Một phần tự nhiên trên hành trình phát triển là con tạo dựng những ngã mới này dựa trên nhận biết và mong muốn của con, những gì con muốn biểu đạt, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn thực hiện ở đây trên trái đất. Tất cả các thày cũng từng làm y như vậy. Thày chỉ muốn con nhận biết là nhiều các con đã tới điểm sẵn sàng trở nên ý thức về tiến trình này. Con hãy nhìn vào bản thân và xét xem cho tới giờ con đã tạo dựng loại ngã nào, và liệu ngã này có dựa trên một tầm nhìn hạn hẹp, một cái hiểu hạn hẹp. Khi con làm vậy, một số các con sẽ nhận ra là mình có một cái ngã được tạo dựng trên cơ sở một tầm nhìn nhất định về đường tu, một tầm nhìn nhất định về bản thân từ nhiều năm trước. Nhưng bây giờ trong một phần tâm con, con đã đạt được một cái hiểu cao hơn, một cái nhìn cao hơn, những sáng ngộ cao hơn, một góc độ cao hơn. Cho nên con cần dần dần nhìn thấy là cái ngã con đã tạo ra ở một giai đoạn trước trên đường tu không còn giúp con tăng triển nữa. Thật ra nó còn giới hạn sự tăng triển của con theo một cách nào đó, nó đang cầm chân con lại vì cái nhìn của con đã lỗi thời, đặc biệt về các khả năng của con.

16.3. Những cái ngã giới hạn khả năng của con

Các thày đã từng giảng bằng nhiều cách về việc con cần kinh qua giai đoạn khắc phục sự thúc giục muốn làm một việc gì đó trên trái đất. Tất nhiên việc kinh qua giai đoạn này hoàn toàn cần thiết, nhưng một khi con đã đi muốt giai đoạn này thì con nhận ra mục đích thực sự của con ở đây là để là chính mình, để biểu đạt chính mình. Biểu đạt chính mình có nghĩa là con cho phép Hiện diện TA LÀ của con biểu đạt chính nó xuyên qua con, vì con ngộ ra khi con là chính mình thì cũng có nghĩa con ở trong một trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Vậy con có thể được lợi lạc nếu con nhận ra là ngay từ thuở chấn thương nhập đời, con đã tạo dựng một số ngã mang một cái nhìn nhất định về những gì con có thể làm trên trái đất, những gì con được phép làm trên trái đất, những gì con phải làm trên trái đất, và những ngã này có thể đã được củng cố hay điều chỉnh cho tinh vi hơn khi con tìm thấy con đường tâm linh.

Các thày đã có nói là khi con phát hiện một con đường tâm linh, con xem mình là một đệ tử tâm linh. Các thày cũng nói là có một giai đoạn phát triển rất dài khi đường tu tâm linh là một khái niệm hữu ích, xây dựng. Nhưng nếu trong thời gian hiện thân còn lại của con, con vẫn tiếp tục xem mình là một đệ tử thì sẽ tới một điểm nó không còn xây dựng nữa, bởi vì khái niệm đường tu ngụ ý: “Tôi ở một tầng cấp nào đó. Có một tầng cấp cao hơn tôi có thể leo lên nhưng tôi chưa lên đến đó.” Chẳng hạn con có thể nói: “Tôi đang ở tầng tâm thức thứ 88, có tất cả 144 tầng và tôi chưa ở tầng 144.” Tự thân câu nói này không thành vấn đề vì hiển nhiên con sẽ cần thời gian để lên đến tầng 144 và một số các con sẽ không lên đến đó cho tới khi con gần sẵn sàng rời bỏ hành tinh. Nhưng dù sao thì giữa tầng 88 với 144, có một số giai đoạn mà các thày đã đặt tên, chẳng hạn là quả vị Ki-tô. Có thể có một điểm khi con mang trong tâm một hình ảnh mình là một đệ tử đang tiến về hướng quả vị Ki-tô nhưng mình vẫn chưa đến đó. Nếu con mãi mãi bám giữ ý niệm bản ngã này thì làm thế nào con trở thành Ki-tô đang hiện thân được?

Nhưng này con yêu dấu, lại có nhiều ví dụ đệ tử của chân sư thăng thiên đã nghe nói về con đường quả vị Ki-tô và quyết định với tâm vỏ ngoài và tham vọng vỏ ngoài: “Phải, tôi đã là Ki-tô Hằng sống rồi đó.” Thế là họ xông ra ngoài, cho rằng họ phải làm những gì họ phải làm: phán xử sa nhân, đánh thức người khác, phóng tia sáng xanh vào người khác hay bất cứ gì khác. Thày không nói đến những chuyện như vậy mà thày nói đến thời điểm khi con đã tận dụng các dụng cụ mà các thày cho con, con đã chân thành nỗ lực khắc phục ngã gốc cùng nhiều ngã khác, cho nên con đã đạt đến một mức nào đó nhưng con vẫn cứ bám giữ một ý niệm bản ngã được tạo ra ở một mức thấp hơn. Ở mức trước đây, việc đặt quả vị Ki-tô làm mục tiêu là một điều chính đáng khi con chưa đến đó. Giờ đây con đã đạt đến một mức nào đó, ví dụ tầng 110. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với tầng này. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với mỗi tầng tâm thức từ 97 trở lên – mặc dù chúng ta có thể nói là sẽ tới điểm các cấp độ quả vị Ki-tô dần dần hoà quyện vào các cấp độ quả vị Phật. Nếu con đến tầng 110 mà vẫn còn giữ hình ảnh mình đã tạo ra ở tầng 95 thì hình ảnh này đang cầm chân con lại.

16.4. Công nhận quả vị Ki-tô của mình

Sẽ tới điểm con cần nhìn nhận, như sứ giả này ở một thời điểm đã sẵn sàng nhìn nhận là ông đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó. Điều này không có nghĩa là ông rơi vào hoang tưởng cho rằng mình đã đến mức tối thượng, nhưng ông đã đạt được một mức nào đó và ông cần phải thực tế và công nhận điều này. Sự thể cũng giống như vậy đối với nhiều các con. Thật ra con đã đạt được một mức nào đó trên đường tâm linh nhưng con chưa dám thừa nhận vì con vẫn giữ ý niệm bản ngã con đã tạo ra ở mấy cấp thấp hơn điểm hiện thời của con.

Đúng, tất nhiên là luôn luôn có rủi ro con có thể làm vậy quá sớm khi con chưa hẳn sẵn sàng, nhưng chúng ta cần chấp nhận rủi ro này vì trên thực tế, chuyện xảy ra thường hơn là con không thừa nhận tiến bộ của mình. Điều thày muốn nói ở đây – một lần nữa để khai triển những gì Quan Âm đã giảng – là một số người xây dựng một ý niệm bản ngã vào thời điểm họ khám phá giáo lý lần đầu xong họ cứ nghĩ là họ phải đem nó theo mình. Đây là một ảo tưởng toàn diện và cũng rất nguy hiểm. Không có ai đã từng thăng thiên mà lại thăng thiên với cái ngã họ đã có ở khởi đầu kiếp đầu thai chót hay khi họ tìm thấy đường tu. Không có ai đã từng thăng thiên với ý niệm bản ngã của họ khi họ đạt đến tầng 144, vì hành động cuối cùng trước khi thăng thiên chính là để cho ngã chót cùng này chết đi và khắc phục ảo tưởng chót cùng này.

Tiến trình thăng thiên thật ra là tiến trình để cho hết ngã này tới ngã khác chết đi và sẵn lòng tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Để cho một cái ngã chết đi, con phải sẵn lòng chất vấn cái mà chúng ta có thể gọi là ảo tưởng, thậm chí cả sự nhận biết mà ngã dùng làm cơ sở. Con có thể nói là ở tầng 88, con đã thu hoạch một sáng ngộ mà con không có ở tầng 87. Đó là một sáng ngộ có giá trị, chỉ có điều đó không phải là sáng ngộ cuối cùng. Nếu con xây dựng một ý niệm bản ngã dựa trên sáng ngộ này, con không thể thực sự bảo rằng sáng ngộ này là một ảo tưởng, nhưng nếu con nghĩ đó là một sáng ngộ tối hậu nào đó, hay một cái ngã tối hậu mà con đã tạo dựng, thì chắc chắn đây là một ảo tưởng. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói mỗi lần con bước lên tầng tâm thức kế tiếp, có một cái ngã chết đi và một ngã khác sinh ra, nhưng con không nhất thiết phải ý thức điều này ở mỗi bước. Nhưng đúng là có những thời điểm con cần đứng lui lại và nhìn vào ý niệm bản ngã của mình. Và một trong những thời điểm này là khi con bắt đầu nhìn nhận là con đã đạt được, con đã chứng được một cấp độ nào đó của quả vị Ki-tô. Hiển nhiên cái ngã con có trước đó dựa trên ý tưởng rằng quả vị Ki-tô vẫn nằm đâu đó trong tương lai ở một mức cao hơn, cho nên ngã này phải chết đi. Và để ngã này chết đi, con phải thấy nó, thấy sự giới hạn của nó.

Giống như trường hợp Quan Âm đã giảng, nếu có ai đã xây dựng cảm nhận là mình cao trội, có thể họ sẽ rất khó lòng chất vấn cái ngã họ có. Đây là tại sao, tiếc thay, các thày chứng kiến một số đệ tử của chân sư thăng thiên bị kẹt cứng trong một ý niệm bản ngã nhất định và đơn giản không thể bước tới cho đến hết kiếp đó. Các thày rất muốn nhìn thấy điều này không xảy ra cho bất cứ ai đã nghe nói hay tìm thấy giáo lý. Có bảo đảm được không? Tất nhiên là không, nhưng ít nhất các thày đã nói ra rất rõ. Giáo lý đã được ban ra và các thày phải trao tự do cho giáo lý, phải trao tự do cho mọi người sử dụng giáo lý theo ý họ.

16.5. Hiện tượng “tiểu đạo sư”

Bây giờ có một chủ đề khác mà thày muốn đề cập ở đây là toàn bộ khái niệm về thời gian. Hôm qua thày đã đưa ra một số nhận xét về thời gian [Xem chương chót trong sách này] nhưng thày muốn nói thêm một chút về chủ đề này. Con có thể lấy nhiều góc nhìn khác nhau về một đề tài như thời gian. Con có thể mô tả nhiều cách khác nhau. Điều thày sẽ trao con ở đây chỉ là một cách thôi, không phải là cách tuyệt đối, chót cùng hay duy nhất.

Thời gian là gì? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói thời gian không có sự hiện hữu khách quan. Nếu con lấy quyển sách Những kiếp sống của tôi, có rất rất nhiều yếu tố quan trọng trong sách này nhưng từ góc độ thày đang trình bày ở đây, yếu tố quan trọng nhất được đưa ra ở ngay phần giới thiệu, viết rằng: “Mọi người trên trái đất đều đang có một trải nghiệm chủ quan. Tất cả mọi vấn đề trên trái đất đều được gây ra bởi một số người muốn nới rộng trải nghiệm chủ quan của họ để nó trở thành có vẻ phổ quát do sự kiện người khác chấp nhận trải nghiệm chủ quan của họ thay vì chính trải nghiệm chủ quan của mình.”

Đây là điều con thấy lặp đi lặp lại suốt chiều dài lịch sử, rõ ràng và điển hình nhất trong các tôn giáo khi có ai đó đi theo một tôn giáo xong khởi xướng một cuộc thánh chiến để cải đạo mọi người khác, hay trong trường hợp cùng cực, sát hại những người không chịu cải đạo. Con cũng thấy một điều tương tự xảy ra trong số đệ tử của chân sư thăng thiên. Thày không chỉ đang nói đến mong muốn cải đạo người khác để người ta đi theo giáo lý chân sư, mà thày muốn nói đến sự kiện đôi khi các thày chứng kiến đệ tử của mình sử dụng một yếu tố trong giáo lý mà họ xem là rất quan trọng – mà họ xem là đã giúp họ hay có ý nghĩa đối với họ – rồi họ nắm lấy cái này và muốn người khác phải chấp nhận quan điểm này.

Một lần có một đệ tử của chân sư thăng thiên đã gọi đó là hội chứng “tiểu đạo sư”, qua đó người ta có xu hướng – sau khi đã theo học giáo lý được một thời gian – tạo ra một đẳng cấp nào đó hay có thể một bè phái nơi họ cảm thấy mình là đệ tử cao cấp, và họ tự xưng là một loại “tiểu đạo sư” với ý định tập hợp các đệ tử khác thành một đoàn môn đệ sẽ đi theo cách diễn giải và cái nhìn đặc thù của họ về giáo lý.

Thày không chê trách ai ở đây. Thật không thể tránh được chuyện này xảy ra trong bất kỳ phong trào tâm linh hay tôn giáo nào. Điều tự nhiên là một số đệ tử tinh tiến hơn bắt đầu chỉ dạy cho các đệ tử khác. Nhưng điều thày nói đến ở đây là nhiều người như vậy bước vào tâm thái chẳng khác gì cái tâm thái mà con thấy nơi mọi phong trào tôn giáo khi họ tìm cách cải đạo người khác. Con cũng gặp tâm thái này nơi các nhà khoa học duy vật tìm cách cải tạo người khác theo mình. Con chui vào tâm thái này khi con tự thuyết phục là cách mình nhìn giáo lý, nhìn cuộc sống, nhìn Thượng đế, nhìn khoa học hay bất kể gì khác là cách tối hậu hay cách đúng đắn duy nhất, cho nên nếu người khác chấp nhận đi theo quan điểm của mình thì sẽ tốt biết mấy cho họ. Này con, với tất cả những lời dạy mà các thày đã trao cho con, con phải có thể – và tất cả các con sẽ có thể nếu các con sẵn lòng – bước lui lại để nhận ra là cho dù con ở tầng tâm thức nào, thậm chí cả tầng 144, con vẫn đang có một trải nghiệm không tuyệt đối. Trải nghiệm của con không phải là phổ quát theo nghĩa là nó phải áp dụng cho mọi người.

Cho dù con ở tầng 144, thật không chính đáng nếu con cố khiến người khác phải sống đời họ dựa trên trải nghiệm của con. Trong phần giới thiệu sách cũng có nói là con có thể đạt tới điểm con không còn một trải nghiệm chủ quan theo nghĩa thấp, nhưng con vẫn đang có một trải nghiệm cá nhân, và lý do khá giản dị. Ở các tầng tâm thức thấp hơn, con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã vỏ ngoài và ngã này là một tập hợp tất cả ngã tách biệt kia. Ở các tầng thấp đó, con không có sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con bước lên cao hơn, con lột bỏ một số ngã vỏ ngoài này. Trải nghiệm của con ngày càng ít chủ quan hơn, ít bị pha màu hơn bởi các ngã tách biệt, bởi tâm thức tách biệt, bởi tâm thức nhị nguyên. Con ngày càng trở nên hòa điệu hơn với Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể phổ quát toàn vũ, đó là một sinh thể cá biệt.

Hiện diện TA LÀ trải nghiệm hoàn cảnh trên địa cầu xuyên qua cá thể đó. Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm về trái đất khác với Hiện diện TA LÀ của một người khác, và điều này hoàn toàn chính đáng, hoàn toàn ổn thỏa. Điều thày nói ở đây là thế này: Tới một điểm trên đường tu con sẽ cần xoay chuyển và nhìn nhận là người khác không nhằm mục đích có được cùng trải nghiệm như con đang có. Họ nhằm có trải nghiệm riêng của họ. Điều này không có nghĩa là con không thể nói chuyện với họ, tìm cách giúp họ hay tạo cảm hứng cho họ hay bất cứ gì khác, mà có nghĩa là tới một điểm con sẽ bước cao hơn và tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, qua đó con không còn tìm cách áp đặt trải nghiệm cá nhân của mình lên người khác.

Cũng không có nghĩa là con cần, theo thành ngữ quen thuộc, “câm miệng lại” và không nói năng gì với người khác mà trái lại, thay vì cố thay đổi cách họ trải nghiệm cuộc đời, con chia sẻ trải nghiệm của con. Có một sự khác biệt – thày cũng biết là có khi điều này có vẻ không khác biệt gì hết hay sự khác biệt quá vi tế – nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa việc áp đặt trải nghiệm của mình lên người khác và việc chia sẻ trải nghiệm. Cách thứ nhất mang một yếu tố ép buộc, còn cách thứ hai thì không. Đây là một thử thách, một sự khảo hạch mà con cần vượt qua, và con có khả năng vượt qua với các giáo lý con đã có trong tay.

16.6. Không phải ai ai cũng muốn thoát khổ

Đến một điểm con sẽ chỉ đơn giản lột bỏ cái ngã đang cho con lòng ham muốn đó vì đó là một cái ngã phản ứng với các điều kiện trên trái đất. Các thày có nói, ví dụ con thấy con người đau khổ. Trước khi con đến đây như một avatar, con đã đoán chừng, con đã chờ đợi là nếu con chỉ cho mọi người cách khắc phục đau khổ thì họ sẽ đón nhận lời con và cố gắng thoát khổ. Lý do là vì con, như một avatar và dựa trên trải nghiệm của con, sẵn lòng khắc phục các giới hạn cùng niềm đau khổ của mình. Nếu có ai chỉ cho con cách nào thoát khỏi khổ đau, con sẽ sẵn lòng làm theo và con chờ đợi mọi người cũng giống như con. Một lần nữa, điều này dựa trên trải nghiệm của con. Việc chờ đợi người khác sẽ muốn thoát khổ là chuyện lô-gíc trên một hành tinh tự nhiên nhưng không áp dụng được trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tại sao một số người trên địa cầu đau khổ? Tại vì họ chưa chán chê trải nghiệm khổ đau. Khi con bảo họ không được đau khổ và làm thế nào họ có thể chấm dứt đau khổ, họ không thấy nó can hệ đến họ. Đó là chính con đang cố gắng thúc ép trải nghiệm chủ quan của con (rằng họ không được khổ đau) lên họ. Tới một điểm con cần làm việc trên ngã này để nhìn thấy nó. Con buông nó ra, con từ bỏ mong muốn khiến người khác sống theo cách nhìn của con. Một khi con đã buông bỏ ngã này, con có thể bước lui lại một chút và nhận ra là bất cứ khi nào con cảm thấy một sự bó buộc nào đó trong cách mình quan hệ với người khác, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự căng thẳng, thì đó là vì có một cái ngã. Ngã này khởi nguồn từ chính thái độ, chính lòng ham muốn thúc ép kinh nghiệm chủ quan của mình lên người khác để khiến họ phải sống cuộc đời của họ dựa theo trải nghiệm chủ quan của con, thay vì đơn giản chấp nhận rằng trải nghiệm chủ quan của con hoàn toàn có giá trị với con, nhưng trải nghiệm chủ quan của họ cũng hoàn toàn có giá trị với họ cho dù trải nghiệm này có là gì ở giai đoạn hiện thời của họ.

Thật ra không bao giờ cần thiết hay chính đáng để con bảo: “Trải nghiệm chủ quan của tôi sẽ tốt hơn cho người khác. Sẽ tốt hơn nếu họ có trải nghiệm của tôi, hay ít ra nếu họ sống đời họ theo trải nghiệm của tôi chứ không theo trải nghiệm của họ.” Việc một người có trải nghiệm chủ quan của một người khác không bao giờ là tốt hơn. Điều luôn luôn tốt hơn cho họ là họ có trải nghiệm chủ quan mà chính họ đang có, vì đây là cách duy nhất họ có thể tăng triển.

16.7. Thời gian là một trải nghiệm chủ quan

Hồi nãy thày đang bắt đầu nói về thời gian thì có vẻ như thày đã chệch sang đề tài ngã tách biệt và vấn đề con áp đặt trải nghiệm chủ quan của con lên người khác, nhưng thày đã nói gì chứ? Thày nói rằng thời gian là một trải nghiệm chủ quan, đó là sản phẩm của một trải nghiệm chủ quan. Thời gian, trong cách nhìn của con người trên trái đất, không phải là một hiện thực khách quan. Nó hoàn toàn là một trải nghiệm chủ quan, tất nhiên được tạo ra một cách tập thể suốt một thời gian rất dài. Con người đã bỏ ra rất nhiều năng lượng của lý trí-cảm xúc-bản sắc để tạo ra cái nhìn hiện thời về thời gian, và cái nhìn này có thể được xem như một ngã tách biệt có mặt trong tâm thức tập thể. Con người nghĩ rằng thời gian rất đường thẳng, rằng họ không thể thay đổi thời gian. Con không thể đi trở ngược thời gian, con không thể thay đổi quá khứ. Như các thày đã giảng, sa nhân muốn con tin là con không thể thoát ra khỏi các lỗi lầm con đã phạm phải trong quá khứ.

Có một trải nghiệm về thời gian đã trở nên rất phổ thông trên địa cầu và tại sao như thế? Thật sự là vì sa nhân đã muốn đem trải nghiệm chủ quan của chúng về thời gian rồi xuất khẩu nó, phóng chiếu nó lên mọi người trên trái đất, và phần lớn chúng đã thành công trong việc này. Đó là tại sao thật ra các phim ảnh, sách báo thách thức quan niệm của con người về thời gian phần nào chính đáng. Mặc dù con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý để du hành thời gian như trong phim kể truyện người ta chế được cỗ máy vật lý để trở ngược về quá khứ, nhưng phần nào loại phim như vậy vẫn giúp thách thức cái nhìn rất cứng nhắc về thời gian mà người ta thường có.

Bây giờ câu hỏi là như sau. Phải, đúng là có một cái nhìn tập thể về thời gian nhưng con là một đệ tử tâm linh trưởng thành. Con đã tu tập rất nhiều, con đã phần lớn tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Đến một điểm con cần xem xét: “Đâu là cái nhìn chủ quan của tôi về thời gian, cái nhìn cá nhân của tôi về thời gian?” Hiển nhiên ở một mức cá nhân, con thấy là con đã làm một việc trong quá khứ và việc này đã tạo ra một số hậu quả mà con đem vào cái con xem là tương lai. Con mang quan điểm là hoàn cảnh hiện thời của con bị ảnh hưởng bởi quá khứ của con ở một mức độ nào đó. Thậm chí con có cả những giáo lý tâm linh sẽ củng cố cho quan điểm này, theo nghĩa là con đã tạo nghiệp trong tiền kiếp và nghiệp này đang tác động đến hoàn cảnh hiện thời của con. Rất nhiều người cảm thấy nếu có gì xảy ra cho họ: “Ồ, chắc hẳn đây là kết quả nghiệp chướng của tôi.”

16.8. Một cái nhìn cao hơn về nghiệp quả

Trong nhiều trường hợp, con yêu dấu, những gì xảy ra cho một đệ tử tâm linh không phải là kết quả nghiệp chướng cá nhân của con. Đó là kết quả của sự kiện con đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Có rất nhiều chuyện có thể xảy ra do người khác gây ra, do hành động hay trạng thái tâm thức của họ gây ra, hay do một nghiệp chướng tập thể gây ra nhưng không phải do nghiệp chướng cá nhân của riêng con. Đó là tại sao như thày đã nói, có thể tới một điểm con sẽ lợi lạc nếu con bước lui lại và xem xét cái nhìn về bản thân mà con đã tạo ra dựa trên giáo lý tâm linh, ngay cả dựa trên giáo lý về nghiệp quả. Có thể con đã xây dựng cái nhìn: “Phải, tôi mang nghiệp từ tiền kiếp. Nếu có điều gì tệ hại xảy ra cho tôi, đó là do nghiệp này và tôi cần đọc thỉnh đọc chú hay tập yoga hay bất cứ gì khác hầu chuyển hóa nghiệp quả cho nó không còn nữa.” Nếu như con đã bước trên đường tu được khá lâu và đã thực sự thỉnh cầu đủ lửa tím để hoán chuyển toàn bộ năng lượng cấu tạo nghiệp chướng của con thì điều gì xảy ra? Có nghĩa chăng là con đã cân bằng nghiệp quả của con? À, con đã chuyển hóa năng lượng. Đó là một khiá cạnh của nghiệp quả, nhưng các chân sư kia đã dạy con điều gì về những hình ảnh con còn cầm giữ từ quá khứ?

Nếu con mang hình ảnh về bản thân là con chưa cân bằng hết nghiệp quả thì thật ra con vẫn chưa thoát khỏi nghiệp quả của con. Có lẽ vẫn có một cái ngã thực sự không muốn nhìn nhận là con không còn nghiệp nữa, vì ngã này lo sợ nếu có gì xấu xảy ra cho con, làm sao con sẽ giải thích được ngoại trừ đó là kết quả của nghiệp chướng? Con có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng và tự hỏi tại sao Thượng đế lại để cho chuyện xấu kia xảy ra cho mình nếu con không có nghiêp quả. Con cho rằng lý do chuyện xấu xảy ra cho con là vì con đang bị trừng phạt về những việc xấu con đã làm trong quá khứ. Nhiều người suy nghĩ như vậy.

Nhưng con yêu dấu, dựa trên giáo lý các thày đã cho con, con có thể bước lên một bực và nhận ra là nhiều các con thật ra đã hoàn tất quá trình mà nhiều phong trào tâm linh, ngay cả các phiên bản về nghiệp ở Đông phương, đã mô tả là sự cân bằng nghiệp quả. Nếu có điều tệ hại xảy ra cho con, đó không phải là kết quả của nghiệp chướng cá nhân, không phải là kết quả một lầm lỗi con đã phạm phải, mà là sự kiện con sống trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Như các chân sư khác đã nói, con không thể nào tiên đoán chắc chắn và chính xác các sự việc xảy ra. Con hãy dùng câu chuyện ẩn dụ về sự khác biệt giữa viên đạn từ cây súng trường và chùm đạn bắn ra từ súng shotgun. Con không thể đoán trước đường bay của một hạt nhỏ trong nguyên chùm đạn từ lúc nó được bắn ra cho đến lúc nó chạm mục tiêu. Không thể nào tiên đoán được vì quá nhiều hạt nhỏ đang chạm vào nhau, giao với nhau và biến đổi nhau và vì thế chúng cũng đổi đường bay.

16.9. Vũ trụ không phải là một cỗ máy

Điều tương tự cũng xảy ra trong hiện tại. Con không thể bảo là một người đã cân bằng nghiệp quả cho nên không có gì tệ hại được phép xảy ra cho họ. Vì con vẫn đang sống trong một cơ thể vật lý trong một môi trường nhất định, có một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp được tạo ra bởi người khác và được duy trì bởi người khác. Không có cách nào, ngay cả đối với một chân sư thăng thiên, để tiên đoán chính xác biến cố nào sẽ xảy đến trong phần đời còn lại của con. Mọi sự quá hỗn loạn, quá bất ngờ đến độ nhiều nhà khoa học phải gọi đó là những “biến số ẩn giấu”. Đối với một chân sư thăng thiên, các biến số này không ẩn giấu. Chỉ có điều, con yêu dấu, vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ, nó không phải là một cỗ máy. Có thể có một hoàn cảnh mà các thày là chân sư thăng thiên có thể nhìn thấy tất cả mọi yếu tố góp phần vào đó, nhưng các thày vẫn không biết được chính xác một người sẽ chọn làm gì. Tất nhiên các thày có thể thấy được xác suất họ sắp sửa chọn làm cùng một việc mà họ đã chọn làm suốt 50 kiếp vừa qua, nhưng các thày không thể biết chắc và do đó không thể tiên đoán chính xác phần còn lại của kiếp này sẽ mang hình dạng ra sao. Nó tùy thuộc vào chọn lựa của con cũng như chọn lựa của nhiều người khác, nó tùy thuộc vào cách tất cả mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp này sẽ tương tác như thế nào, giao thoa như thế nào với nhau.

Thật không có cách nào mà bảo được trên một hành tinh như trái đất là nếu con không còn nghiệp quả thì không có gì xấu xa có thể xảy đến cho con trong phần còn lại của kiếp này. Chuyện này đơn giản không thể có. Cho nên con cần buông bỏ ngã này. Con cần chấp nhận: “Tôi đã cân bằng nghiệp quả của tôi,” xong con cũng cần chấp nhận: “Vì tôi đang sống trên một hành tinh như trái đất cho nên có thể một chuyện gì đó sẽ xảy ra cho tôi mà không phải là nghiệp của tôi. Nhưng tôi sẽ không trách Thượng đế, tôi sẽ không tự trách mình, tôi sẽ không trách ai hết. Tôi sẽ chấp nhận nó như nó là, sử dụng nó tốt nhất và bước đi tiếp.”

Điều này đòi hỏi một sự xoay chuyển, và đây cũng là một phần của sự chấp nhận mình là một sinh thể Ki-tô. Con yêu dấu, khi Giê-su khởi sự kiếp đầu thai chót của thày, thày có mang một ý niệm bản ngã nào đó. Xong thày đã tuần tự bồi đắp và tinh chế ý niệm bản ngã này, cho nên khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày đã làm vậy với một ý niệm bản ngã nào đó. Dựa trên bản ngã này, thày đã có một số chờ đợi như khi thày bảo là không có gì thật sự tệ hại có thể xảy ra cho mình. Và nếu có thì Thượng đế sẽ gửi thiên thần xuống làm phép lạ để giải cứu thày khỏi sa nhân. Giê-su đã giải thích đây chính là cái ngã mà thày đã phải cho phép chết đi khi thày treo thân trên thập tự giá.

Con không phải chờ cho đến khi con mãn thời gian hiện thân này để buông bỏ những ngã đó. Con có thể khởi sự làm vậy ngay bây giờ. Con có thể tới điểm thực sự chấp nhận là con đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó, và nếu có việc gì “xấu xa” xảy ra cho con thì rất có thể đây là một phần con đường quả vị Ki-tô của con khi con phải kinh qua trải nghiệm đó, phải chứng tỏ một cách ứng xử cao hơn và không dính mắc. Con phải chứng tỏ làm thế nào con có thể ứng phó với trải nghiệm này mà không còn ngã gốc hay những cái ngã con đã khắc phục.

16.10. Thời gian có và cũng không có

Vậy thời gian là gì? Tại sao thày đã nói là thời gian không có? À, là vì thời gian không có một sự hiện hữu khách quan nào, ít ra theo cách nhìn của mọi người. Bây giờ để minh họa cho điểm này, hãy để thày trình bày một điểm thày đã gợi ý trước đây. Theo truyền thống, hình học nói rằng có ba chiều kích trong không gian: chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Con có hệ thống tọa độ truyền thống với ba trục và con bàn về một thế giới ba chiều nơi con có thể di chuyển. Con có thể đi bộ ở lầu này, đi tới và đi lui, nhưng con cũng có thể đi lên lầu trên nếu có một lầu trên, hay con có thể đi xuống lầu dưới. Con có thể di chuyển trong cả ba chiều.

Bây giờ cũng theo truyền thống, các nhà khoa học bảo rằng thời gian là chiều thứ tư, nhưng họ cũng nói thời gian hoàn toàn đường thẳng cho nên con không thể đi ngược thời gian. Tất nhiên con không thể nhảy về phía trước bước vào tương lai. Thực tế là từ nhãn quan thăng thiên, các thày nhìn thời gian cũng giống như các chiều kích kia tức là một chiều kích không đường thẳng. Con có thể đi tới hay đi lui trong thời gian. Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường rộng lớn, một mặt phẳng rộng lớn, và con bắt đầu bước tới theo một hướng. Bây giờ con tưởng tượng có ai đến nói với con: “Bạn sẽ không bao giờ đi lùi lại được, bạn chỉ có thể bước tiếp theo cùng một hướng.” Phải, đó là điều đã xảy ra cho thời gian. Tất nhiên con cần hiểu điều này thấu đáo. Ví dụ con đến một thành phố. Có một quảng trường ngay trung tâm thành phố. Con đang đứng giữa quảng trường rồi bắt đầu bước tới theo một hướng, giả sử con bước một trăm mét. Con quẹo ở góc phố và quang cảnh con vừa thấy hồi nãy bây giờ không còn nữa, nó khác đi rồi. Con đã di chuyển vị trí của con trong không gian cho nên con có một tầm nhìn khác, một quang cảnh khác so với khi con cất bước. Con đứng ở nơi con đang đứng trong không gian.

Con có thể đi trở về điểm khởi đầu nhưng con không thể trở về đó chỉ bằng một bước nhảy. Con phải đi một số bước để về đó. Con cũng có thể di chuyển về một phía khác nhưng một lần nữa, con không thể nhảy xa đằng trước. Con phải đi từng bước một. Chúng ta có thể nói là ở bất kỳ điểm nào trong không gian, con đều có một tầm nhìn nhất định, một quang cảnh nhất định, thậm chí một ý niệm bản ngã nhất định. Có một cái ngã, một ý niệm bản ngã dựa trên điểm con đang đứng ngay bây giờ và những gì con có thể nhìn thấy. Về cơ bản, hiện tượng này cũng xảy ra y như vậy trong thời gian – thời gian cũng y như vậy trên cơ bản. Ở bất cứ thời điểm nào con cũng đứng ở một vị trí nhất định trên một dòng thời gian – nếu có thể gọi như vậy – nhưng thật sự đó là một điểm trong không gian của thời gian, một điểm trong chiều kích thời gian. Bất cứ lúc nào con cũng ở một vị trí đặc thù và ngay lúc đó con có một ý niệm bản ngã đặc thù.

Bây giờ sự khác biệt trong chiều kích thời gian là như sau: Giả sử con khởi đầu nơi quảng trường đó ở trung tâm thành phố. Con có một chiếc máy ảnh có khả năng chụp hình chính xác những gì mắt con thấy đằng trước khi đầu con hướng về một hướng. Con đứng đó, con chụp hình. Con bước đi một bước, con lại chụp hình và tấm hình cho thấy nhãn quan của con đã thay đổi như thế nào. Tất nhiên quang cảnh sẽ không khác lắm, tuy nhiên với mỗi bước đi nếu con cứ tiếp tục chụp hình thì sau khi con đi được một trăm mét chẳng hạn và đã quẹo quanh góc phố, hình chụp đã thay đổi khá nhiều. Bây giờ giả sử con mang theo con tất cả những hình chụp này, để cái nhìn của con về nơi con đang đứng trong không gian bị tác động bởi tất cả những cái nhìn trước đây mà con đã có trong không gian.

Trong cốt yếu, đây chính là điều con làm trong chiều kích thời gian. Đã có một thời điểm khi con hình thành một cái ngã, chẳng hạn ngã gốc. Từ đó trở đi, con đã mang ngã này theo con và ngã này đã thiết lập một khuôn khổ quy định cách con nhìn cuộc sống trên trái đất, cách con nhìn bản thân con trên trái đất. Thay vì chụp một tấm ảnh mới cho mỗi lúc, cho mỗi bước, con đã không ngừng bồi đắp thêm cho tấm ảnh cũ. Và điều này quyết định cách con nhìn chính con và cuộc đời trong giây phút bây giờ, có nghĩa là trên cơ bản, con đã đem theo con một cái gì đó từ quá khứ, và con yêu dấu, chính cái này là ý nghĩa của thời gian đối với con.

16.11. Cỗ máy du hành thời gian của riêng con

Thời gian chủ quan của riêng con chính là các hình ảnh được tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con. Đây là tại sao từ một nhãn quan thăng thiên, các thày thấy được thời gian chỉ là một chiều kích khác và mình có khả năng di chuyển trong chiều kích này. Con có thể học cách di chuyển trong chiều kích này. Như Chân sư MORE có nói, các thày đã cho con một cỗ xe vượt thời gian với giáo lý của các thày. Các thày đã cho con khả năng đi trở ngược và nối kết lại chẳng hạn với hình ảnh mà con đã tạo ra trong chấn thương nhập đời hay bất kỳ hình ảnh nào con tạo ra trong một kiếp trước. Con có thể nhận biết hình ảnh đó, thấy rõ nó đã tạo ra một ngã tách biệt, và con để cho ngã chết đi mà không cố giải quyết hoàn cảnh con đã không thể giải quyết vào lúc đó. Con không thay đổi gì hết trong cõi vật lý. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết đi, và trong tiến trình chót cùng, con nhận ra có một hình ảnh do ngã này cầm giữ và con tẩy xóa hình ảnh này đi, con tẩy xóa ký ức này đi.

Đấy là một cỗ máy vượt thời gian. Đấy là du hành trong thời gian. Tất nhiên khi con đạt đến các tầng nhận biết cao hơn cùng các tầng quả vị Ki-tô cao hơn nữa, con sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy một số hoàn cảnh tương lai. Nhiều các con đã có cái nhìn hé thoáng về một hoàn cảnh, hay con gặp những hoàn cảnh mà con có cảm tưởng mình đã gặp rồi trong quá khứ. Đột nhiên con nhận ra là con ở trong một tình huống vật lý mà con đã nhìn thấy trước đây trong giấc mơ hay trong khải tượng. Đây là một ví dụ làm thế nào con cũng có thể du hành vào tương lai. Có một số trường hợp việc nhìn thấy trước tương lai sẽ hữu ích và thích hợp đối với một sinh thể Ki-tô, tuy nhiên đây là một khả năng con cần sử dụng thận trọng. Thật không có lý do chính đáng nào khiến con muốn biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra cho con trong thời gian hiện thân còn lại của con, vì như các thày có nói, làm thế nào con tăng triển từ một tầng tâm thức lên tầng cao hơn? Con tăng triển bằng cách đáp ứng các tình huống dựa trên mức tâm thức hiện thời của con nhưng con vẫn sử dụng tình huống này để với lên một tầm nhìn cao hơn – đó chính là cách con tăng trưởng.

16.12. Sống trong hiện tại khi hiện tại là một khoảng thời gian

Có một lý do khác nữa khiến con phải thận trọng khi dùng khả năng này. Giả sử con đang có một viễn quan về những gì sẽ xảy ra trong mười năm nữa, một tình huống sẽ xảy ra mười năm nữa. Con có thể lấy ví dụ của Giê-su có khải tượng là mình sẽ bị đóng đinh ở thành Jerusalem. Liệu khải tượng này về tương lai có được tạc vào đá hay không? Các thày chẳng đã nói với con là quá khứ không được tạc vào đá và con có thể đi trở ngược để thay đổi nó hay sao? Vậy làm sao tương lai có thể tạc được vào đá? Giữa thời điểm bây giờ và mười năm nữa, con sẽ kinh qua rất nhiều trải nghiệm, rất nhiều bước. Chính con sẽ lấy nhiều quyết định và người khác cũng sẽ lấy nhiều quyết định. Mặc dù con có thể di chuyển trong chiều kich thời gian và hé thấy tương lai, nhưng con không thể biết được điều này sẽ trở thành hiện thực. Đó là tại sao việc nhìn thấy tương lai rồi tin tuyệt đối nó sẽ xảy đến là một điều phần nào phản xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm là đằng khác. Rất có thể con sẽ có những quyết định và người khác cũng có những quyết định sẽ chuyển đổi phương trình, chuyển đổi sự tương tác vô cùng phức tạp giữa các sóng năng lượng, khiến cho những gì con hé thấy không trở thành hiện thực. Nói cách khác, nếu con nhìn thấy tương lai thì nó sẽ chỉ xảy ra nếu không có gì thay đổi.

Nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên, con có thể đoan chắc là có gì đó sẽ thay đổi, cho nên tấm hình chụp về tương lai mà con đang có rất có thể sẽ không còn chính xác nữa trong vòng mười giây. Vậy tại sao con lại cần đến nó? Tại sao con lại muốn có nó? Thật sự khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, con sẽ càng bớt quan tâm đến tương lai, con càng ít mong muốn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhiều người đạt đến một cấp độ quả vị Ki-tô hay quả vị Phật nào đó không còn quan tâm đến quá khứ, không còn quan tâm đến tương lai. Họ chú tâm vào hoàn cảnh ngay trước mặt, không cứ là giây phút hiện tại như một khoảnh khắc trong thời gian, mà vào hoàn cảnh hiện thời của họ và hoàn cảnh này có thể kéo dài một khoảng thời gian. Chẳng hạn nếu con cố đạt một mục tiêu như xây một căn nhà chẳng hạn, con không thể xây nhà trong giây phút hiện tại. Con không thể xây nhà nếu con sống trong hiện tại và chỉ chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại. Tất nhiên con không bàn đến quá khứ xa xôi hay tương lai xa xôi. Con quyết định: “Tôi sẽ khởi sự tiến trình dẫn tôi đến việc xây căn nhà này.” Rồi có thể con sẽ tốn một năm để xây căn nhà. Nhưng bây giờ con đã kinh qua tiến trình này được ba tháng và con vẫn có thể nhìn trở ngược thời gian và bảo: “Đây là cách tôi đã hoạch định ba tháng trước đây.” Con vận hành trong một khoảng thời gian kéo dài một năm để xây căn nhà.

Đó là tại sao thày nói là con không nhất thiết, như một sinh thể tiên tiến, sống trong hiện tại và hiện tại này là một khoảnh khắc. Con có một khoảng thời gian để làm việc nhưng con không bị gánh nặng của những sự việc xảy ra hai triệu năm trước hay trong kiếp trước hay trong tuổi thơ ấu. Con không vẫn đổ lỗi cho cha mẹ đã nuôi con như thế nào khi con còn nhỏ. Con không quan tâm đến những gì sẽ xảy đến trong mười năm nữa. Con ngộ ra một điều, con ngộ ra tinh túy của những gì các thày đã dạy con. Con không ở đây để hoàn thành một mục tiêu vật lý đặc thù nào. Mục đích đời con không phải là xây căn nhà kia. Mục đích của việc xây nhà là để cho con một trải nghiệm. Thật chẳng có gì quan trọng nếu con xây căn nhà rồi hai năm sau có trận động đất phá sập hoàn toàn, vì con vẫn đã có được trải nghiệm xây dựng căn nhà. Nếu căn nhà bị động đất phá hủy thì con lại có thêm chính trải nghiệm này.

Con có thấy không, con yêu dấu, sẽ tới một điểm con đã khắc phục những cái ngã muốn kiểm soát mọi khía cạnh của đời con và do đó cũng muốn có khả năng kiểm soát tương lai. Có một cái ngã rất rất quan tâm đến chuyện kiểm soát tương lai vì ngã này đã được thiết kế, được lập trình để đảm bảo là con không bao giờ gặp lại trải nghiệm đau đớn con đã gặp trong quá khứ. Cho nên ngã này muốn kiểm soát tương lai để con có thể tự bảo vệ khỏi mọi chuyện xấu xa xảy đến cho mình. Một khi con buông bỏ nó cùng những cái ngã khác, con thấy rõ là con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Thật chẳng nghĩa lý gì trên một hành tinh phi tự nhiên mà lại cố sống cùng loại đời sống mà con đã quen sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên hành tinh tự nhiên, con có thể xây một căn nhà và nó sẽ ở đó vĩnh viễn. Không có rủi ro động đất, hỏa hoạn, bão lụt hay bất cứ chuyện gì có tiềm năng phá hủy nhà con, nhưng trên hành tinh phi tự nhiên sẽ không như vậy. Cho nên con vẫn có thể quyết định: “Tôi muốn có trải nghiệm xây nhà ở đây trên trái đất,” nhưng khi đó, con sẽ mở tâm để nhận ra là trong trường hợp căn nhà bị phá hủy – và tất nhiên thày không bảo là căn nhà sẽ bị phá huỷ – thì đây chỉ là thêm một loại trải nghiệm con có thể có trên địa cầu. Do đó con có thể nói: “Ồ, quả là bổ ích khi tôi trải nghiệm chính mình trong hoàn cảnh này khi căn nhà của tôi bị phá tan tành.” Đây chỉ là một trải nghiệm khác, một cơ hội khác để con là chính con bất kể điều kiện gì trên trái đất.

16.13. Tự do trải nghiệm cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, tới một điểm con sẽ bắt đầu xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Xuôi chảy với Dòng sông sự Sống không có nghĩa là không có gì xấu xa xảy ra cho con – con không thể bị đau ốm, con không thể bị tan nát nhà cửa, con không thể bị mất tiền bạc, con không thể thế này, không thể thế kia – mà thật ra nó có nghĩa là con sẽ không có một trải nghiệm tồi tệ nào, bởi vì cho dù điều gì xảy ra, con cũng không trải nghiệm nó xuyên qua cái ngã tách biệt phải xét đoán mọi thứ là tốt hay xấu. Đấy là khi con tự do xuôi chảy với Dòng sông sự Sống do con không có định kiến nào về những gì phải hay không được xảy ra. Con hãy lấy ví dụ tình cảnh của Giê-su khi thày bảo các tông đồ là thày sẽ đi Jerusalem, sẽ gặp khổ nạn, sẽ bị trấn áp và đóng đinh. Peter nói với thày: “Xin ngài tránh xa, chuyện này sẽ không xảy ra đâu.” Tại sao Peter lại nói như vậy? Vì ông có một ngã tách biệt với một cái nhìn rất đặc biệt, một cái nhìn tôn thờ thần tượng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho Ki-tô Hằng sống. Đây là một cái nhìn hoàn toàn chủ quan mà Peter đang cố phóng chiếu lên Giê-su, và vì Giê-su ở một mức quả vị Ki-tô cao hơn Peter nên thày đã từ chối tuân theo hình ảnh chủ quan của Peter. Để giúp Peter bứt ra khỏi hình ảnh chủ quan này, thày mới nói: “Lùi ra sau ta, Satan.”

Theo một nghĩa nào đó, con có thể mô tả tâm thức Satan là khi con phóng chiếu một hình ảnh chủ quan lên người khác và muốn họ chối bỏ trải nghiệm chủ quan của riêng họ để hoặc họ có trải nghiệm của con – mà tất nhiên họ không thể thực sự có được – hoặc ít ra họ sống cuộc đời họ dựa trên trải nghiệm chủ quan của con. Đến một điểm con sẽ khắc phục cái ngã cứ muốn đánh giá từng trải nghiệm, từng sự việc xảy ra cho mình theo thang điểm tốt hay xấu, đúng hay sai, được hay không được xảy ra. Con không còn sợ hãi những gì không được xảy ra. Con sẵn lòng xuôi chảy với bất kỳ tình huống nào xảy đến mà con nhận ra là không thể tránh được.

Bây giờ nếu con nhìn lại một tổ chức của chân sư thăng thiên trước kia, con có một vị sứ giả và trong tổ chức hầu hết mọi người đều xem bà đã đạt được một tầng tâm thức rất cao. Nhiều người đã hành xử đối với bà y như Peter đã hành xử đối với Giê-su. Họ phóng chiếu một cái nhìn lên bà về những gì phải hay không được xảy ra. Thế rồi chuyện gì đã xảy ra? Bà lâm trọng bệnh và nhiều người đâm ra bối rối, xốn xang, tức giận về điều xảy ra. Họ đã có một cái nhìn là bà phải hướng dẫn họ cho hết phần còn lại của đời họ, phải giúp họ bước trên đường tu mà không phải nhận trách nhiệm về bản thân vì họ chỉ cần đi theo chân đạo sư.

Thế rồi khi bà không còn khả năng làm công việc này nữa, họ nổi cơn phẫn nộ và vô cùng xét đoán. Một số còn viện cớ này để bác bỏ cả đường tu, họ từ chối bước đi tiếp trên đường tu, họ quay trở về lối sống ăn chơi, lối sống hưởng thụ, và họ lại làm tất cả những thứ họ đã nhịn không làm suốt một thời gian dài. Con yêu dấu, tại sao lại có chuyện như vậy? À, là vì như các thày đã gợi ý trước đây, có quá nhiều đệ tử không sẵn lòng chuyển bước đi tiếp. Cho nên đây là một cách để bắt buộc họ phải đương đầu với một điều trong tâm họ mà họ đã không sẵn lòng đương đầu cho tới nay.

16.14. Để cho thời gian co sụp

Để quay lại điểm đầu, trải nghiệm chủ quan của con về thời gian dựa trên bất kỳ ngã nào con đã tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con, vì chúng đang ảnh hưởng đến cách con nhìn bản thân và cuộc sống trong giây phút hiện tại. Chúng cũng ảnh hưởng đến những gì con nghĩ về tương lai. Nếu con nhìn thấy tương lai của mình ngay bây giờ, đó sẽ là một tương lai dựa trên các ngã tách biệt con đang có ngay bây giờ và cách chúng ảnh hưởng tương lai của con. Khi con bắt đầu vứt bỏ các ngã này đi thì ngay lúc đó con thay đổi phương trình tương lai của con. Con cũng đang thay đổi quá khứ của con. Theo một nghĩa nào đó, con đang triệt tiêu, con đang tẩy xóa, con đang xóa sạch quá khứ của con.

Các thày đã có nói là con không thể nào thăng thiên trong quá khứ. Con cũng không thể thăng thiên trong tương lai. Con chỉ có thể thăng thiên trong hiện tại. Điều gì xảy ra khi con ở tầng 144 và như các thày đã giảng, con đứng đó và chỉ cần một bước nữa thì con sẽ bước vào cõi thăng thiên? À, ngay lúc đó con cần nhìn lại trái đất, con cần nhìn xem có bất cứ gì níu kéo con trở về đó hay không. Cái có thể níu kéo con trở về đó là bất cứ dính mắc nào con có, bất cứ ngã nào, bất cứ gì từ quá khứ mà con cảm thấy chưa được giải quyết. Đó chính là quá khứ của con đang kéo con về. Đằng khác nếu con có bất cứ gì trên trái đất mà con chưa làm, chưa hoàn tất, bất cứ gì mà con muốn làm, muốn trải nghiệm, thì cái đó là tương lai của con đang kéo con về trái đất.

Con thấy đó, để có thể thăng thiên, con phải đạt tới điểm không còn quá khứ nào trên địa cầu vì không có gì chưa giải quyết mà con kéo lê theo con. Đồng thời, con không có tương lai nào trên địa cầu vì con không có viễn kiến muốn làm bất cứ gì trên địa cầu. Khi, nếu có thể gọi như vậy, dòng thời gian của sự có mặt của con trên trái đất co sụp lại – sự co sụp của một hàm sóng, theo từ được dùng trong vật lý lượng tử – và khi thời gian không còn kéo dài được nữa, tức là không có quá khứ, không có tương lai và thời gian co sụp lại thành một khoảnh khắc độc nhất, thì đó chính là khoảnh khắc con thăng thiên. Đây mới thực sự là ý nghĩa tối hậu của câu nói: “Thời gian không có, thời gian không còn nữa.”

16.15. Làm hòa với việc mình ở đây

Làm thế nào con có thể dùng các lời dạy này để làm hòa với việc mình ở đây trên địa cầu? À, tự thân các lời dạy này có thể giúp con xoay chuyển tầm nhìn của con. Để thày lấy ví dụ một trải nghiệm mà sứ giả này đã có khi ông còn nhỏ và ông kinh qua một trải nghiệm rời khỏi thân xác (out-of-body experience). Ông đã bước ra ngoài cơ thể của ông, đi vào một đường hầm rồi một vùng ánh sáng, sau đó ông trở lại trong cơ thể. Ông nhận ra là mặc dù trải nghiệm này vô cùng thâm sâu, ông không có nhu cầu lặp lại. Trải nghiệm này đã chứng tỏ cho ông – không phải về mặt lý thuyết mà ở một mức độ trải nghiệm – là có gì đó vượt khỏi thế giới vật chất, và cái đó giúp ông ngộ ra là mình sẽ không mãi mãi ở lại trong thế giới vật chất. Cho nên ông đã từ bỏ nhu cầu cố gắng có thêm trải nghiệm tâm linh, và kể từ đó ông đã không làm bất cứ gì để có trải nghiệm tâm linh. Có một số trải nghiệm tâm linh đã xảy ra tự phát nhưng ông chưa bao giờ nỗ lực hay cưỡng ép để có trải nghiệm như vậy. Con có thể làm giống như thế.    

Con có thể xoay chuyển và ngộ ra là sau khi con thăng thiên, thời gian mà con chứng kiến trên địa cầu sẽ không áp dụng cho con nữa. Theo nghĩa đen, con có cái người ta gọi là sự vĩnh hằng, nhưng đó không thật là vĩnh hằng bởi vì ở cõi thăng thiên luôn luôn có sự tiến bộ. Con có một khoảng thời gian dài gần như vô lượng so với khoảng thời gian con có trên trái đất. Ngay cả khi con nhìn vào chiều dài hai triệu năm con đã sống trên trái đất, thời gian con có ở cõi thăng thiên dài hơn vậy một cách bất tận.

Con có tiềm năng làm cuộc xoay chuyển là nói: “Tại sao tôi lại vội rời bỏ nơi đây đến như vậy? Có lẽ chăng tôi muốn trải nghiệm cảm giác ở cõi thăng thiên là như thế nào?” Phải, nhưng nếu con có nguyên một vĩnh hằng để trải nghiệm cõi thăng thiên và con chỉ có một thời gian giới hạn trên địa cầu, tại sao con lại vội vã lánh xa địa cầu để trải nghiệm những gì con sẽ dư thì giờ trải nghiệm? Tại sao con không làm hòa với việc mình ở đây trên trái đất, biết rằng mình sẽ chỉ ở lại ngắn ngủi, và sau đó con nói: “À, vì tôi chỉ có một thời gian hạn chế trên địa cầu, tại sao tôi không tận dụng tốt nhất thời gian tôi có? Tại sao tôi không tìm kiếm những trải nghiệm tốt đẹp nhất mà tôi có thể có trong thời gian sót lại trên địa cầu, thay vì cứ luôn cảm thấy như thể mình bị chậm trễ và phải rởi khỏi nơi đây cho bằng được?”

Con yêu dấu, các thày đã nói điều này trước đây rồi. Có những chân sư đã thăng thiên (và họ đã cần thăng thiên trong một thời hạn nào đó) nhưng họ đã nhìn lại địa cầu từ cõi thăng thiên và nghĩ: “À, ước gì tôi đã thong thả, ước gì tôi đã có nhận biết để vui hưởng cuộc sống trên địa cầu trọn vẹn hơn, vui hưởng các trải nghiệm tôi có thể có, vui hưởng mình là chính mình trong các hoàn cảnh mình sống qua trong cõi vật lý.” Thày hy vọng một số các con sẽ được cảm hứng từ sự kiện này để sử dụng cuộc sống tối đa hầu con không nghĩ như thế sau khi thăng thiên.

Thày cũng có thể nói là con càng an bình với việc mình ở địa cầu thì con sẽ càng tận dụng được trải nghiệm của mình, càng tác động mạnh mẽ đến tâm thức tập thể, càng kéo tâm thức tập thể đi lên. Đương nhiên con sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên khi con thăng thiên, nhưng thày có thể cam đoan với con là sức kéo của con sẽ mãnh liệt hơn gấp bội khi con vẫn còn điểm trụ neo của một cơ thể vật lý trong bát cung vật lý, song song với một mức nhận biết cao hơn khi con đón nhận trọn vẹn việc mình ở đây, mình an bình, mình vui hưởng cuộc sống ở đây trên địa cầu.

Con yêu dấu, như chính thày đây sau khi chứng ngộ dưới cây Bồ đề và vượt qua thử thách của quỷ Mara, thày cũng đã đạt tới điểm có thể vui hưởng trọn vẹn việc mình ở đây trên trái đất. Cám dỗ của Mara là gì? Đó là thày phản ứng lại chúng, khiến thày không thể an bình trọn vẹn, không thể là chính mình trọn vẹn, không thể vui hưởng trọn vẹn mình là chính mình trên trái đất do tất cả các điều kiện đó. Trong những năm chót của thày khi thày giảng dạy, thày đã có một cảm nhận liên tục là mình vui hưởng sự trải nghiệm các tình huống trải bày ra trước mắt mình trong cõi vật lý, vui hưởng việc tương tác với các đệ tử, nhìn thấy đệ tử tăng triển hay không tăng triển cho dù trường hợp của họ là gì. Thày không có chủ đích. Thày không có tiếc nuối. Thày không có một ý định nào về những gì phải xảy ra. Thày chỉ vui hưởng là bản thân mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào thày chứng kiến trong cõi vật lý. Con yêu dấu, đó là một niềm vui rất lớn. Và điều này cũng có nghĩa là tất nhiên, thày không có hối tiếc nào về quá khứ.

16.16. Không tiếc quá khứ, không sợ tương lai

Chủ đề chót mà thày muốn đề cập – và thày biết thày đã lạm dụng sự kiên nhẫn của con rồi đó – nhưng con thấy không, mục đích đưa ra bài truyền đọc dài dòng này là để dạy con về tính kiên nhẫn. Thày không thể làm vậy một cách lý thuyết. Con phải trải nghiệm. Liệu con có đang vui hưởng trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm chính con đang lắng nghe bài truyền đọc của Phật? Con có vui hưởng trải nghiệm này không? [cử tọa: “Có.”] À, riêng thày chắc chắn đang vui hưởng trải nghiệm trao truyền bài giảng này cho con.

Chủ đề chót của thày. Quá nhiều đệ tử tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi nghĩ: “Ồ, tại sao tôi đã không tìm thấy giáo lý này sớm hơn? Tôi đã lãng phí bao nhiêu thời giờ. Tôi đã đến tuổi này rồi, tôi chỉ còn bấy nhiêu năm nữa thôi. Tại sao tôi đã không tìm ra giáo lý sớm hơn?” Xong họ nói: “Bây giờ tìm thấy giáo lý rồi, tôi cần tận dụng mỗi giây phút trong ngày để đọc chú và theo đuổi tăng triển tối đa.” Nói chung, họ quên không vui hưởng hiện tại, vui hưởng trải nghiệm của mình. Con yêu dấu, điều này liên quan đến một chủ đề rộng lớn hơn nhiều, là khi con bắt đầu suy nghĩ trong viễn quan dài hạn của một người avatar rằng có lẽ con đã ở đây hai triệu năm rồi. Con đã kinh qua đủ mọi trải nghiệm, làm thế nào con có thể tránh chuyện hối tiếc quá khứ? Làm thế nào con có thể tránh chạm đến chấn thương nhập đời và không hối hận việc này đã xảy ra, hối hận cách phản ứng của con, hay những gì con đã làm nhiều kiếp trước đây và những gì con đã làm trong kiếp này, vân vân và vân vân? À, chìa khóa cho vấn đề này các thày đã trao con rồi đó, cụ thể là con biết rõ dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ, con vẫn có khả năng tẩy xóa nó đi.

Như các thày đã giảng, không có biến cố khách quan nào còn hiện hữu trong một khoảng không gian vật lý nào của quá khứ. Bát cung vật lý đã bước tới rồi. Tất cả còn sót lại là những gì nằm trong tâm thức của con, và con có sự hiểu biết, con có các dụng cụ để tẩy xóa nó đi. Nếu con biết con có khả năng tẩy xóa bất cứ gì đã xảy ra trong quá khứ, tại sao con lại phải hối tiếc về quá khứ? À, chính con thì không hối tiếc mà có một ngã tách biệt đang có những hối tiếc này. Chính con có thể nhìn ra ngã tách biệt đó, buông nó ra và nói: “Mi đã ảnh hưởng ta đủ lâu rồi. Thế là xong. Mi đã ra đi.”

Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng cuộc sống vì giờ đây con đạt tới điểm nhận ra là nếu quá khứ không tác động đến con nữa thì tại sao con lại cần lo sợ về tương lai? Tại sao con cần lo sợ mình có thể lầm lỗi trong tương lai?

Một số các con đã đạt đến một mức nào đó trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy mình đã vứt bỏ được một số điều đau buồn từ quá khứ, nhưng vẫn còn một nỗi sợ hãi những gì có thể xảy ra trong tương lai. “Nếu như tôi phạm lỗi lầm thì sao? Nếu như tôi làm một việc gì mà tôi không nên làm?” Con biết không, con yêu dấu, bất cứ gì con có thể làm trong tương lai cũng chỉ là thêm một chọn lựa khác. Với trạng thái tâm thức của con hôm nay đã cao hơn, có rất ít xác suất chọn lựa của con hôm nay sẽ trầm trọng như trong quá khứ. Nếu các chọn lựa quá khứ trầm trọng đến vậy mà còn có thể tẩy xóa được – như con đã trải nghiệm – thì chắc chắn bất cứ gì xảy ra trong tương lai cũng có thể được tẩy xóa. Vậy tại sao con phải lo sợ về tương lai?

Nếu con không có hối tiếc nào về quá khứ thì mặt bên kia của đồng tiền là con cũng không có nỗi sợ nào về tương lai. Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng giây phút hiện tại, như thày vừa nói, trong khoảng thời gian mà con đang hoạt động. Khoảng thời gian này không phải là một khoảng cố định. Nó uyển chuyển tùy theo con đang làm gì. Như thày đã giảng, nếu con chú tâm xây một căn nhà, con sẽ cần đến một khoảng thời gian để hoàn tất căn nhà trong cõi vật lý. Nếu con chú tâm vào việc đánh răng thì tất nhiên con sẽ không cần đến nguyên một năm, vân vân. Con có cái nhìn rất linh hoạt uyển chuyển này về thời gian, nó đi vào rồi nó đi ra và nó thay đổi trong những tình huống khác nhau.

16.17. Đừng trở thành kẻ nô lệ của thời gian

Đó cũng là một khía cạnh trong việc đạt tới điểm con không là kẻ nô lệ của thời gian. Thời gian không sai khiến được trải nghiệm của con trên địa cầu. Con có thể nói là hầu hết mọi người đều là nô lệ của thời gian. Thời gian là ông chủ của họ. Con có thấy biết bao người luôn nhìn đồng hồ không, vì họ phải có mặt ở một nơi nhất định vào một thời điểm nhất định. Con đạt tới điểm con chỉ xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Tất nhiên là thời gian hiện hữu. Có một phạm vi thời gian nào đó. Con nhìn về tương lai. Hay con nghĩ trở ngược về một thời quá khứ khi con đã quyết định thực hiện một ý định nào đó, vân vân. Nhưng con không bị thời gian sai khiến. Thời gian không là chủ nhân của con. Con không là kẻ nô lệ. Thời gian chỉ là một công cụ.

Chẳng khác gì khi con di chuyển trong không gian. Nếu con di chuyển trong không gian và thấy mình ở một nơi mình không muốn, con chỉ việc di chuyển đến một vị trí khác trong không gian, và thời gian cũng giống như vậy. Con tẩy xóa một chuyện gì đó từ quá khứ. Con di chuyển đến một vị trí khác. Thật không thành vấn đề cho con. Con không bị nó sai khiến.

Một lần nữa, đây là một niềm vui lớn cho thày được trải nghiệm chính mình đang tương tác với các con. Thày đã tương tác với mỗi người và từng người trong số các con như con đã cho phép thày làm như vậy suốt bài truyền đọc này. Thày có thể lại làm vậy nữa khi con nghe lại hay khi con đọc bài giảng. Có lẽ con đã không để ý điều này nhưng con có thể dần dần để ý thấy trong tương lai. Con có thể đạt tới điểm trải nghiệm: “Làm thế nào tôi thực sự trải nghiệm chính mình trong Hiện diện của Phật Gautama?” Con có thể có cùng trải nghiệm này với bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào khác gần gũi nhất với tim con. Con yêu dấu, đó là ý nghĩ chót mà các thày mong muốn cho con trong đơn vị, trong khóa giảng này mà các thày vừa trao cho con về cách làm thế nào con khởi sự với ngã gốc rồi khắc phục được nó để con có thể an bình với việc mình ở đây trên trái đất.

Các thày vô cùng biết ơn các con đã sẵn lòng tổ chức và tham gia vào các buổi hội nghị dẫn đến hội nghị hôm nay. Hiển nhiên các thày rất mong chờ những gì các thày sẽ có thể trao cho con trong tương lai. Các thày có rất rất nhiều lời dạy khác mà thày sẽ không tiết lộ bây giờ vì một phần của toàn bộ trải nghiệm là con trải nghiệm giáo lý mà không có lời báo trước hay kỳ vọng nào cả. Con sẽ dễ trải nghiệm hơn với tâm trẻ thơ không phóng chiếu bất kỳ phin lọc nào lên đó. Và như vậy, lời dạy sẽ có tác động tối đa trên con. Và như vậy các thày gửi lòng biết ơn sâu xa nhất đến các con.

9 | Tự dạy mình tẩy xóa ký ức

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị ở Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày muốn khai triển những gì thày đã trao con hôm qua cùng những gì Mẹ Mary đã trao con và hướng về đề tài làm thế nào con có thể khắc phục quá khứ của con. Trong số các con hôm nay có một người nói với sứ giả này là ông vẫn cảm thấy bị kẹt trong quá khứ, sống trong quá khứ, nhìn lại quá khứ, thậm chí còn ao ước một thiên đàng đánh mất mà mình đã trải nghiệm ở một thời điểm trong quá khứ. Nhiều, rất nhiều người tâm linh khắp nơi trên thế giới mang cảm nhận là mình đã đánh mất cái gì đó và tất nhiên, đúng là con đã mất một cái gì. Con đã mất sự trong trắng mà con có trước khi đến đây, và theo một nghĩa nào đó, giáo lý của các thày cũng có thể gọi là một nỗ lực để giúp con hồi lại, giành lại sự trong trắng này.

Bây giờ, làm thế nào con thoát ra khỏi cảm giác mình sống trong quá khứ, bị vướng buộc vào quá khứ? À tất nhiên, các thày đã trao cho con nhiều dụng cụ và giáo lý rồi. Rõ ràng là một khi con làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, đã cuốn hút con vào những nghĩ ngợi về một số tình huống đã qua thì việc này sẽ giúp con thoát ra khỏi. Khi con giải thể một số ngã, khi con thấy chẳng hạn nếu con đã phải chịu một chấn thương, đã tạo ra một cái ngã để đáp trả lại nó, để phản ứng lại nó, thì khi nhận diện được ngã và để cho nó chết đi, ít nhất con sẽ thoát ra khỏi tình huống đó.

9.1. Khắc phục nỗi sợ phải lấy quyết định

Hơn vậy, có những cái ngã không thực sự do con tạo ra để phản ứng lại một tình huống đặc thù. Chúng được tạo ra để phản ứng lại cảm giác mình là người đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Chúng ta còn có thể nói là những ngã này có mặt rất rõ ràng trong tâm thức tập thể. Thật khó lòng mà không bị chúng ảnh hưởng, đặc biệt sau khi con phải chịu một chấn thương nhập đời và bị sốc là các điều kiện trên trái đất có thể khác xa đến vậy so với những gì con đã hình dung trước khi đến đây. Thật quá dễ để con khoác vào một số những ngã tập thể này đã được tạo ra suốt một thời gian rất dài, và như các thày đã nói, chúng được tạo ra để đối phó với một hoàn cảnh mà con người không thể sống chung. Con không thể sống nổi với hoàn cảnh, con không thể trốn chạy khỏi nó, cho nên con phải tìm được cách ứng phó với nó, để ít nhất con có thể sống cho dù là không thoải mái hay an bình.

Có những cái ngã đã quanh quẩn trong tâm thức tập thể từ rất lâu, và một trong những ngã này tất nhiên – để khai triển những gì Mẹ Mary vừa giảng – là cái ngã bảo rằng con phải toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Ngã này khiến con cảm thấy là nếu con đã làm chuyện gì mà chính con hay người khác gọi là lỗi lầm, thì con sẽ không thể trốn thoát khỏi nó. Thậm chí tôn giáo còn thường bị người ta sử dụng để lập ra chuẩn mực cho cách cư xử của mọi người. Nếu con làm chuyện gì mà tôn giáo của con liệt vào loại tội lỗi, con cảm thấy mình bị ô uế bởi tội lỗi này cho đến ngàn đời. Người ta còn đưa ra khái niệm về tội tổ tông, qua đó con sinh ra đã là người có tội do những gì cha mẹ con đã làm hay tổ tiên con đã làm, đi ngược về tận thời Adam và Eva. Rõ ràng con có thể thấy những loại tư tưởng như vậy vi phạm hoàn toàn thực tế của quyền tự quyết. Nhưng chúng ta không nên đi quá sâu vào chuyện này mà hãy tập trung vào sự kiện là có đủ loại ngã muốn con nghĩ rằng một khi con đã làm một việc gì con chấp nhận là sai lầm thì con không thể thoát ra khỏi, và như các thày đã nói, con không thể gỡ bỏ tình huống vật lý đó.

Vậy thì làm sao con có thể thoát khỏi quá khứ con đây? À, thày là chân sư, là Thượng sư của Tia thứ Nhất của Ý chí Thượng đế, vậy làm thế nào con thoát khỏi quá khứ của mình? Nói cho cùng, con phải lấy một quyết định để được tự do. Hiển nhiên thày đã không giúp con nhiều lắm khi thày nói: “Con phải lấy một quyết định để được tự do khỏi quá khứ.” Đa số các con sẽ cảm thấy: “Nhưng con làm thế nào chứ?” Thậm chí con có thể sợ lấy quyết định nữa là đằng khác. Nhưng con cần nhận ra ý chí là một động lực vô cùng đũng mãnh – cái ý chí muốn là con người mà con là, ý chí muốn là một người sáng tạo, ý chí muốn sáng tạo một điều gì chưa có mặt bây giờ.

Đây là một mối đe dọa to lớn cho sa nhân cùng sự kiểm soát của chúng trên địa cầu. Chúng không muốn con sáng tạo. Chúng không muốn con khởi lên một điều gì mà chúng không thể đoán trước. Nếu chúng không thể đoán trước thì chúng không thể kiểm soát. Để dùng cách diễn tả của Nada, chúng muốn “đập dí” sự sáng tạo của con để nó không phá rối hiện tình trong xã hội mà chúng kiểm soát. Một cách để chúng làm vậy là qua cái chuẩn mực bảo rằng con phải toàn hảo nếu không thì con tồi tệ, và chúng khiến con cảm thấy là con đã lầm lỗi. Nhưng làm thế nào con đã lầm lỗi chứ? Bằng cách lấy một quyết định.

Có một cái ngã đã có mặt trong tâm thức tập thể từ lâu đời, nó bảo rằng việc lấy quyết định thật nguy hiểm, và như một cá nhân, con thật sự nên ngừng lấy quyết định. Con nên tuân theo chuẩn mực, tuân theo tiêu chuẩn, tuân theo quy luật, hành xử y như mọi người khác. Theo một nghĩa nào đó, con vẫn lấy quyết định nhưng trong một khuôn khổ được quy định rất hạn hẹp. Con không đang có những quyết định sáng tạo – những quyết định mới mẻ, những quyết định thử nghiệm. Con chỉ đang “làm”, đang quyết định giống y như mọi người khác đã từng quyết định. Ngã này phóng chiếu vào con là nếu con làm vậy, con sẽ an toàn, con sẽ chuẩn, con sẽ không lầm lỗi, con sẽ không bị lên án, con sẽ không bị coi rẻ. Con thấy ở đây có một cái ngã tập thể rất mạnh mẽ không muốn ai có những quyết định sáng tạo cá nhân. Ngã này nói: “Bạn đừng lấy quyết định, bạn không thể phạm lỗi.”

9.2. Quyết định là mình không sợ quyết định

Đương nhiên nếu con đã đến trái đất như một người đồng sáng tạo, như một avatar, hay nếu con là một cư dân nguyên thủy đã phát triển đến một tầng tâm thức nào đó, con không thể an bình nếu con rơi vào tâm thái đó. Nếu con đem ngã này vào bốn thể phàm của con, con không thể an bình với việc mình ở trên trái đất vì con thừa biết là con không đang hoàn thành mục tiêu của mình khi đến đây. Con không đang hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, con không tăng triển, con không tự thăng vượt. Con không thể an bình với ngã đó. Chừng nào con không sẵn lòng lấy quyết định thì con sẽ không thể an bình – chỉ giản dị vậy thôi. Con cần làm gì để vượt qua bế tắc, vượt qua thế lưỡng nan này? À con yêu dấu, con cần lấy quyết định – chỉ giản dị vậy thôi.

Và đây cũng là điểm mà ngay cả giáo lý các thày trao truyền đôi khi cũng có thể cho con một cái nhìn hơi méo mó. Con chỉ việc trở về thời thập niên 1930 khi Saint Germain lần đầu tiên ban truyền kỹ thuật thỉnh cầu ngọn lửa tím, con thấy một số học trò của chân sư thăng thiên suy luận rằng tất cả những gì họ cần làm là thỉnh cầu đủ ngọn lửa tím thì một buổi sáng họ sẽ thức dậy sẵn sàng thăng thiên. Tất nhiên là chuyện này không bao giờ xảy ra, và như các thày đã nói, đây không phải là một con đường máy móc.

Con có thể lấy các lời dạy mà các thày ban ra ngày nay và bảo: “À, tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh, thì tôi sẽ giải tỏa năng lượng cảm xúc đang kéo tôi trở về quá khứ, rồi tôi cần giải thể những ngã này thì một ngày kia tôi sẽ được tự do khỏi quá khứ.” Tất nhiên, việc giải tỏa năng lượng và loại bỏ ngã sẽ giúp con giảm thiểu lực kéo của quá khứ trên con. Nhưng đâu là cái “tôi” mà quá khứ lôi kéo? Các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, đơn giản để diễn tả là có một thành phần trong con người phàm của con – cái bản thể đang hiện thân – và thành phần này không phải là bốn thể phàm của con, không phải là ngã tách biệt của con, cũng không phải là ý niệm nhân cách của con, mà là cái gì vượt khỏi những thứ đó. Đó là cái cho con sự tự nhận biết giúp con bước lui lại khỏi hoàn cảnh hiện tại, khỏi ý niệm bản sắc hiện tại của mình, và quyết định là con muốn thay đổi.

Mỗi khi con nhận diện: “Ồ, tôi có một ngã tách biệt trong bản thể tôi đang phóng chiếu là có vấn đề này tôi phải giải quyết,” cái gì là cái có khả năng nhận ra như vậy? Đó là cái Ta Biết. Đó là thành phần trong con có khả năng ý thức được tâm thức của con, ý thức được những gì đang diễn ra trong tâm thức con. Con thấy là nhân cách vỏ ngoài của con, chẳng hạn, hoàn toàn bị bao trùm trong hoàn cảnh hàng ngày. Nhân cách vỏ ngoài không thể bước lui lại và nói: “Bây giờ đến lúc tôi cần hành xử khác hơn.” Nhưng đó là điều cái Ta Biết có thể làm khi nó ý thức được khả năng này của nó. Nó có khả năng bước lui lại.

Một ngã tách biệt không thể bước lui lại, nó không thể nói: “Ồ, tôi muốn giải thể chính tôi.” Cái Ta Biết có thể bước lui lại và nói: “Tôi muốn giải thể ngã này vì nó không phải là cái ta của tôi, nó không phải là con người tôi là.” Mỗi khi con nhận biết có một ngã tách biệt, đó chính là cái Ta Biết đang sử dụng khả năng của nó để ý thức những gì đang xảy ra trong tâm con. Con có thể nói đó là thành phần trong tâm con có khả năng ý thức về phần còn lại của tâm. Đây chỉ là một cách diễn tả.

Vậy con sẽ cần gì để cho một ngã tách biệt chết đi? Ấy, cái Ta Biết phải lấy một quyết định, và đâu là quyết định con phải lấy để cho bất kỳ ngã nào chết đi? Như các thày đã giảng, có một cái ngã phóng chiếu ra là có một vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn để khai triển thêm bài giảng vừa rồi của Mẹ Mary, lấy ví dụ có một ngã tách biệt phóng chiếu là con cần phải toàn hảo, nếu không thì con rất tệ. Ngã không bao giờ có thể chất vấn chuyện này, nó sẽ tiếp tục phóng chiếu vào con là con cần cố gắng trở nên ngày càng tốt hơn để có thể toàn hảo. Hoặc có một ngã khác phóng chiếu là khi con không toàn hảo – và hiển nhiên, con không bao giờ toàn hảo được – thì con phải cảm thấy tủi hổ. Rồi có một ngã khác nữa phóng chiếu là con phải ngừng cố gắng vì rõ ràng con không đủ tốt, hay có gì đó sai quấy với con, vân vân.

Các ngã này không bao giờ có thể khắc phục được sự lập trình của chúng. Điều cái Ta Biết cần làm là nhìn ra ảo tưởng đằng sau sự phóng chiếu của ngã, nhìn ra vấn đề do ngã phóng chiếu là không thực và vì vậy không có giải pháp. Không hề có giải pháp nào. Toàn hảo là gì? Chưa bao giờ có ai định nghĩa được toàn hảo là gì vì nó không thể được định nghĩa, vì đó là một khái niệm vô nghĩa. Cho nên con yêu dấu, đó là một vấn đề không thể giải quyết. Con không thể trở nên toàn hảo. Một khi cái Ta Biết thấy được điều này, nó có thể lấy quyết định: “Tôi không còn muốn chú ý của tôi bị buộc chặt vào việc cố giải quyết vấn đề bất khả này.” Và con để cho ngã chết đi.

9.3. Con đường thoát khỏi quá khứ

Đối với việc khắc phục quá khứ thì có lẽ nó hơi khác một chút. Cho dù con cũng có một cái ngã phóng chiếu là con không thể thoát khỏi quá khứ, nhưng đâu là vấn đề mà ngã này phóng ra? Đó không hẳn là một vấn đề đơn giản vì ngã không thật sự phóng chiếu là có gì đó con cần giải quyết – vì không có chuyện gì để giải quyết. Quá khứ, theo ngã này, đã được khắc trên đá nên con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Điều mà ngã thật sự phóng chiếu là con phải cảm thấy tồi tệ về những gì đã xảy ra trong quá khứ và con phải tiếp tục cảm thấy như vậy. Thật không có vấn đề gì cần giải quyết ở đây, theo nghĩa là ngã không cho con một lối thoát.

Một số các ngã kia, chúng cho con một lối thoát, ít ra ảo tưởng là một ngày con có thể trở nên toàn hảo. Nhưng ngã này không cho con lối thoát vì con không thể thay đổi quá khứ dựa theo những gì nó phóng chiếu. Tất nhiên con có thể nhìn ra đây cũng là một tình huống bất khả, nhưng hầu hết mọi người đều đã được lập trình từ nhiều tiền kiếp để tin rằng có một sự thật nào đó ở đây, theo nghĩa là con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, con không thể gỡ bỏ những gì con đã làm. Nếu con đã phạm vào cái gọi là lỗi lầm thì con không thể hoàn nguyên.

Vậy con có thể làm gì để vượt quanh vấn đề, để nhìn nó một cách khác? Con có thể khai triển những gì thày đã trao cho con trong bài giảng trước khi thày nói là mọi chuyện con làm đều được làm với năng lượng cơ bản, dạng cơ bản của Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo bốn thể phàm của trái đất, bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất trên trái đất. Có một năng lượng ở đó, và tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng này. Đơn giản, như các thày đã giảng, năng lượng này giống như những cái chấm trên một màn hình có thể bật hay tắt, có thể khoác vào những màu sắc và hình thù khác nhau, có thể sắp xếp thành những mô thức khác nhau.

Như thày đã nói, con cần bắt đầu luyện tập để thấy được năng lượng đằng sau các hình ảnh mà tâm con phóng chiếu lên năng lượng. Hiển nhiên đây không phải là một công việc dễ dàng như các thày mô tả, vì một lần nữa, từ rất lâu tâm thức tập thể đã bị đông đặc lại chung quanh một số hình ảnh như chẳng hạn thế nào là tội lỗi, thế nào là sai trái. Con phải xấu hổ vì đã làm chuyện sai trái, và con phải cảm thấy là mình không bao giờ có thể được chuộc lỗi. Tất cả những thứ này và nhiều, rất nhiều thứ nữa có mặt trong tâm thức tập thể, nhưng con vẫn có thể luyện tập để nhận ra là tất cả đều được tạo bằng năng lượng và năng lượng thì chỉ là năng lượng. Đó chỉ đơn giản là năng lượng.

Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó, như trong ví dụ thày đã cho là màn hình chiếu bóng có một số hình ảnh con đang xem, nhưng thực sự đó chỉ là những mô thức ánh sáng. Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó trong quá khứ xuyên qua một cái ngã đặc thù bảo rằng con đã phạm lỗi lầm và con không bao giờ có thể chuộc lỗi và con phải xấu hổ. Con có thể nghĩ là tình huống đó đã xảy ra cho nên nó có một thực tế khách quan nào đó. Nó không chỉ là một chuyện chủ quan. “Không, chuyện đó đã xảy ra. Người khác đã thấy nó xảy ra. Thượng đế đã thấy nó xảy ra.” Mắt trời nhìn thấy mọi chuyện và mắt trời đã thấy nó xảy ra, và Thượng đế sẽ mãi mãi cầm giữ hình ảnh lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Mọi người khác sẽ mãi mãi cầm giữ lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nói cách khác theo sự phóng chiếu của các ngã và sa nhân, một tình huống đã xảy ra trong quá khứ với một thực tế khách quan. Và đây là điểm con có thể bắt đầu chất vấn điều này và ngộ ra một sự thật vô cùng, vô cùng đơn giản.

9.4. Quá khứ của con không có thực tế khách quan

Thượng đế, như các thày đã nói: Thượng đế Sáng tạo không ngó đến bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho đến khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ hoàn toàn không nhìn đến nó. Tâm thức Thượng đế mãnh liệt đến độ nó sẽ có đủ loại tác động, và ngài đã ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo của ngài. Nói chung, một bầu cõi chưa thăng thiên ra đời khi Thượng đế tạo ra một bầu cõi, gửi sinh thể đồng sáng tạo vào đó rồi nói: “Bây giờ các con hãy đi ra và làm bất cứ gì các con muốn trong bầu cõi này vì ta sẽ không nhìn đến nó.” Khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ nhìn, nhưng trước đó thì không. Thượng đế đích thực không phán xét con, không lên án con và không cầm giữ hình ảnh về những gì con đã làm trong quá khứ. Loại thượng đế nào mới cầm giữ? À, các thượng đế giả do sa nhân tạo ra, nhưng liệu đó có phải là thượng đế mà con cần quan tâm hay không? Thày không nghĩ vậy, con yêu dấu, khi con biết những gì con biết.

Nếu Thượng đế không cầm giữ hình ảnh về sự việc trong quá khứ, thì hình ảnh những việc con đã làm sẽ tồn tại ở đâu? Đâu là nơi một hình ảnh khách quan sẽ tồn tại? À, con có thể nói: “Trong các Hồ sơ Akasha.”

Phải, trong Hồ sơ Akasha có ghi lại những gì con đã làm trong quá khứ, nhưng đó không phải là một bản ghi những gì con đã nhìn thấy, hay sa nhân đã nhìn thấy, hay người khác đã nhìn thấy. Đó là một bản ghi những sóng năng lượng, những mô thức sóng năng lượng. Hồ sơ Akasha chỉ đơn giản ghi nhận mà không đưa ra một phán xét nào về cách con nhìn tình huống xảy ra. Những hình ảnh mà con gán lên đó, những xét đoán mà con gán lên đó bảo rằng con đã lầm lỗi, không hề được ghi lại trong Hồ sơ Akasha. Các mô thức sóng năng lượng được ghi lại ở đó nhưng chỉ vậy thôi. Hồ sơ Akasha không nhìn sự việc một cách ý thức và đưa ra lời phán xét việc làm của con là sai trái và con phải cảm thấy như thế nào.

Vậy thì những ý tưởng kia bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng được cất ở đâu chứ? À, chúng có thể nằm trong tâm của người khác, và một số những người này có thể là sa nhân. Vậy cái nằm trong tâm người khác – và chắc chắn cũng nằm trong tâm sa nhân – cái đó có khách quan không? Không đâu, đấy là một xét đoán hoàn toàn chủ quan.

Có một nơi khác nữa mà bản ghi các lầm lỗi cũ của con có thể được cất giữ là trong bốn thể phàm của chính con, trong chính tâm con – nhưng cái này có khách quan không? Cũng không, đấy không phải là một thực tại khách quan vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung tâm thức con, kể cả những ngã tách biệt đã pha màu nhận thức của con.

Hẳn con thấy được điều thày đang nói chứ, con yêu dấu? Không hề có một thực tế khách quan nào trong những gì con đã làm trong quá khứ. Phải, có một mô thức sóng năng lượng nào đó trong Hồ sơ Akasha, nhưng toàn bộ ý tưởng cho rằng con là kẻ có tội, rằng con là người xấu, rằng con đã lầm lỗi, thì cái này không có bất kỳ thực tế khách quan nào. Nó không được ghi lại ở bất cứ đâu.

Các thày là chân sư thăng thiên, các thày không giống như Thượng đế của Kinh Cựu ước. Các thày cũng không cầm giữ một hình ảnh nào về con. Các thày có thể thấy một số điều con làm nhưng các thày không phán xét con với tâm thức nhân gian. Các thày không phán xét con gì hết. Các thày chỉ nhìn con từ nhãn quan các thày, và điều này thì các thày đã cho con hé thấy nhiều lần, nó rất khác với nhãn quan con người. Một lần nữa, những gì con đã làm trong quá khứ không hiện hữu trong bất kỳ thực tại khách quan nào cả. Chỉ có chính con hay những người khác mới có thể phú cho nó một sự hiện hữu lâu dài. Đây tất nhiên là một trong những ân sủng của việc tái đầu thai – nếu có thể nói như vậy. Nếu con sống thọ một ngàn năm và có những người con đã quen biết cả ngàn năm, thì họ vẫn có thể giơ ngón tay lên bảo rằng: “Bạn có nhớ bạn làm gì cách đây 992 năm không?” Nhưng với tuổi thọ ngắn ngủi mà các con có, họ chỉ có được vài chục năm để giơ ngón tay như vậy. Ở đây con thấy được là có một thực tế đi đôi với việc đầu thai, và thực tế này là như sau: Con có thể đem theo con từ kiếp này sang kiếp khác các hình ảnh cá nhân chủ quan của mình về những gì mình đã làm trong một tiền kiếp, con có thể đem chúng theo con trong bốn thể phàm của con – thường thường thì con không ý thức, nhưng con có thể đem chúng theo với con. Còn những người khác, họ không đem theo các hình ảnh này với họ. Họ có thể mang theo một cảm nhận nào đó về mối quan hệ với con nhưng không phải là chi tiết cụ thể.

9.5. Biết ký ức được lưu trữ ở đâu

Nói cách khác, nếu con lấy một tình huống đã xảy ra cho con cách đây 300 năm có liên quan đến hai người khác, con có thể đặt mình vào một trạng thái hồi quy thôi miên (hypnotic regression), quay trở lại tiền kiếp đó và lấy lại ký ức đó. Con có thể đưa hai người kia cũng trở về tiền kiếp, lấy lại và đánh thức lại ký ức của họ về kiếp đó, và họ sẽ nhớ lại những gì chính họ đã làm cùng cách nhìn của họ về tình huống. Nhưng họ sẽ không nhớ được chi tiết những gì con đã làm cùng cách nhìn của con về tình huống. Con cần hiểu ở đây là con mang với con từ tiền kiếp những gì chính con đã làm và cách nhìn của con, nhưng người khác thì không thể nhớ lại việc con đã làm 300 năm về trước. Con cần nhìn nhận ở đây là ký ức của con về quá khứ chỉ thực sự hiện hữu trong bốn thể phàm của con mà thôi.

Như các thày đã có nói, con không có quyền năng thay đổi các thể phàm của người khác, nhưng con quyền năng làm chủ bốn thể phàm của con và loại bỏ những gì con muốn loại bỏ ra khỏi chúng. Trở về với câu nói của thày rằng Hồ sơ Akasha không ghi lại cách con nhìn việc làm của con mà chỉ ghi lại một số mô thức sóng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đi dạo trong công viên gần nhà nơi đó có một sân chơi cho trẻ em, con nghe thấy tiếng ồn ào rất lớn ở đó và con lại gần để tìm hiểu xem chuyện gì. Con thấy một người đàn ông đứng đó nhìn xuống bãi chơi cát, la hét rất to tiếng. Con tiến lại gần và nhận ra một người cha đang nói chuyện với đứa con hai tuổi đang xây một lâu đài cát xinh xinh trên bãi chơi cát. Ông ta quở trách đứa con hai tuổi sao lại xây lâu đài cát xấu xí, sao nó hư đốn vì lâu đài sẽ không bao giờ được xóa bỏ, sao nó đã làm hỏng cát, sao tội của nó rất lớn – đủ lời mắng nhiếc mà người cha đổ lên đầu con mình. Đứa bé trông rất sợ hãi, nó không thích bị la mắng.

Thoạt đầu con rất bối rối trước tình huống này, nhưng rồi con nhận ra là điều người cha thực sự muốn nói là đứa bé khi xây lâu đài bằng cát đã phạm một lỗi lầm sẽ không bao giờ tẩy xóa được. Bất chợt không suy nghĩ, con bước vào nói: “Này ông bạn, ông hãy nhìn này,” và con lấy tay gạt phăng chiếc lâu đài cát đi, khiến cho cát trở lại tình trạng nguyên sơ của nó. Không còn hình thù gì ở đó nữa mà chỉ còn cát thôi. Con nói: “Đấy, ông có còn trách con ông là nó đã phạm một lỗi lầm không bao giờ xóa bỏ được hay chăng?” Người cha tất nhiên không biết nói gì cho nên con bước đi, và trong khi con bước ra khỏi sân chơi thì con nghĩ: “Hay thật, mình vừa chặn họng được ông này.”

Thế rồi trước sự ngỡ ngàng của con, con nhận thấy một tấm gương đứng ngay ở đó, con chợt soi vào gương và con ngộ ra: “Ủa, mình có đang làm y như vậy đối với chính mình hay chăng? Mình có đang tự mắng nhiếc vì mình đã xây một lâu đài bằng cát, đã phạm một lỗi lầm không bao giờ tẩy xóa được, trong khi kỳ thực bất cứ gì mình đã làm trên hành tinh này đều được làm với năng lượng mềm mại như cát, và mình có thể đưa năng lượng trở về trạng thái không phân biệt của nó cũng dễ dàng như đống cát mình vừa gạt phăng hồi nãy?” Con ngộ ra đây chính là điều con đã từng làm – không phải là con mà là một ngã tách biệt đặc thù trong bản thể con đã từng làm, không những trong kiếp này mà rất có thể trong nhiều tiền kiếp, có lẽ suốt hai triệu năm trời. Đây là một trong những cái ngã tập thể mạnh mẽ nhất ở đây trên trái đất, nó khiến con người nghĩ rằng một khi mình đã xây một lâu đài cát bị dán nhãn là “sai lầm” hay “tồi tệ” thì lâu đài sẽ không bao giờ tẩy xóa được.

9.6. Quyết định xóa bỏ lâu đài cát

Nhưng đó là một lâu đài cát. Thày không cần biết con đã làm bất cứ gì trong một kiếp trước. Một số đệ tử của chân sư thăng thiên đã có những hé thoáng hay hồi tưởng hay hồi quy về tiền kiếp, và họ nhìn thấy họ đã khiến cho cả một nền văn minh sụp đổ. Nhưng thày không cần biết con đã làm gì, con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một lâu đài bằng cát và con có thể gạt bay nó đi. Con sẽ cần gì để gạt bay nó đi? Trong nhiều trường hợp khi con làm gì đó tác động đến người khác, con đã tạo ra điều các thày gọi là nghiệp, mà thực sự chỉ là một dạng năng lượng tha hóa. Con có thể làm một số chuyện. Con có thể hối chuộc với người kia, và nhiều người trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Cho dù con đã làm ai tổn thương trong một dĩ vãng xa xôi, con đã đền bù trong kiếp trước rồi.

Con có thể đọc chú, đọc thỉnh để làm tan năng lượng. Con có thể giải thể cái ngã đã khiến con hành xử như vậy, và con yêu dấu, nhiều người trong các con đã làm rất nhiều việc như vậy rồi trong các kiếp trước. Nhiều người trong các con có khả năng sử dụng các dụng cụ do các thày trao truyền đã rất nhanh chóng đạt tới mức con đã đền bù, con đã làm những gì cần làm để được tự do khỏi quá khứ, ngoại trừ chỉ một điều thôi, và điều này là lấy quyết định ý thức là con sẽ gạt bay lâu đài cát kia đi. Lâu đài cát là hình ảnh con cầm giữ trong tâm mà con đang áp chồng lên cát, lên năng lượng, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Như thày đã nói, đó là ký ức của con về một sự cố. Đó chính là hình ảnh con đang cầm giữ, và khi con nhận biết mình đã làm gì đó trong quá khứ vẫn đè nặng lên mình, thì con hãy dùng các dụng cụ, con hãy làm những gì cần làm. Con phải nhận biết, con phải nhạy cảm với sự kiện là sẽ tới điểm khi điều duy nhất, điều tuyệt đối duy nhất, còn sót lại cho con làm là gạt bay hình ảnh con cầm giữ trong tâm con.

Cái đó đòi hỏi con lấy một quyết định, quyết định ngừng bám lấy hình ảnh đó về bản thân, rằng mình là một người xấu xa đã phạm phải lỗi lầm hay những chuyện như vậy. Con có nhận ra điều thày vừa nói cách đây mấy phút? Đấng Sáng tạo không ngó đến những việc con làm trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Ngài đã nói: “Một bầu cõi chưa thăng thiên là một bãi chơi cát vũ trụ.” Không có gì con làm có thể khiến cho cát bị tổn thương, không có gì con làm có thể trở nên vĩnh hằng. Con hãy đơn giản gạt bay cái hình ảnh con cầm giữ trong tâm rằng mình là người xấu, mình là người có tội, mình là một kẻ thất bại không có quyền ở đây, không muốn ở đây, thù ghét ở đây – tất cả hình ảnh loại đó. Sẽ tới điểm con phải đơn giản nhìn vào hình ảnh và gạt bay nó đi. Không có gì phải giải quyết, không có gì phải làm ở đây, hãy chỉ gạt bay nó đi và cho phép mình quên mất là hình ảnh đã từng hiện hữu.

9.7. Chất vấn thực tế của “thế giới thực”

Con có thể luyện tâm mình để nhìn xa hơn các hình ảnh và thấy được năng lượng đang rung động nhịp nhàng đằng sau hình ảnh. Con còn có thể luyện tâm để thấy thế giới vật lý là một rạp hát. Khi con bước lên sân khấu và đi ra phía sau dàn trang trí, con thấy tất cả chỉ là chuyện dàn dựng. Không có gì ở đây là thực, không có gì ở đây là thường hằng. Nó trông có vẻ thực từ một góc nhìn nào đó, cụ thể là từ góc nhìn của khán giả. Đâu là mục đích của một vở kịch trong nhà hát? À, là để cho khán giả một loại trải nghiệm đặc thù. Nếu con đang theo dõi kịch Hamlet của Shakespeare và có những diễn viên xuất sắc hiểu cách nhập vào vai diễn, thì con cũng có thể nhập vào vai đó và có một trải nghiệm độc đáo khi xem màn trình diễn. Cũng đúng y như vậy với mọi thứ khác xảy ra trong cái con gọi là “thế giới thực”.

Có lẽ ảo tưởng lớn nhất mà sa nhân đã áp đặt lên nhân loại là bảo rằng mọi chuyện xảy ra trên trái đất là “thế giới thực.” Chẳng có gì thực trong đó theo một nghĩa khách quan. Toàn bộ mục đích của trái đất là đem lại cho các dòng sống một trải nghiệm đặc thù. Tất nhiên, con yêu dấu, để có được trải nghiệm này thì con phải tin là nó thực. Là một đệ tử tâm linh tinh tiến, sẽ tới điểm con sẵn sàng chất vấn cái thực của trải nghiệm mà mọi người khác đang có. Liệu có một thế giới khách quan chăng? Như các nhà vật lý học đã đặt câu hỏi, liệu thế giới có mặt ở đó hay không khi không có ai đang nhìn? Câu trả lời là năng lượng có ở đó, nhưng các hình ảnh do tâm con người tạo ra khi họ nhìn năng lượng thì không có đó. Chúng không có thực tại khách quan nào cả.

9.8. Tẩy xóa quá khứ

Con yêu dấu, con có hiểu những gì thày nói ở đây? Không, con không hiểu, và đó là tại sao con cần suy nghiệm điều này và suy nghiệm thêm nữa. Nếu có cây đổ trong rừng và không có ai ở đó, thì liệu nó có tạo tiếng động hay không? Nếu cây đổ thì sẽ có một số sóng năng lượng hiện hữu, là sóng năng lượng cấu tạo cái con gọi là cây. Các sóng này chuyển động cho tới khi chúng tương tác với các sóng năng lượng cấu tạo mặt đất. Điều này tạo ra một mô thức giao thoa sẽ gửi ra những sóng năng lượng khác nữa mà con nhận thức là âm thanh. Các sóng năng lượng vẫn ở đó nhưng đó không phải là âm thanh. Đó chỉ là sóng năng lượng mà thôi.

Bây giờ con thử lấy tình huống này. Chúng ta đang ở Đông Âu cho nên chúng ta hãy thử nhìn vào việc Liên Xô chiếm đóng Đông Âu. Nếu không có người nào ở đây thì liệu chuyện này đã có xảy ra hay không? À, nếu không có ai ở đây thì nó đã không xảy ra, sẽ không có ai để khiến nó xảy ra. Vấn đề ở đây là, liệu đã có một sự cố khách quan nào diễn ra hay không? Có, đã có một mô thức nào đó, một sự tương tác nào đó, một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp, nhưng trải nghiệm mà người ta có không nằm ở mức sóng năng lượng, nó nằm trong tâm con người. Người ta gọi đó là cái gì đó, người ta nhìn nó theo một cách nào đó.

Thày không đang chê trách ai ở đây, con yêu dấu. Thày không chê trách các dân tộc Đông Âu cảm thấy mình bị Liên Xô đàn áp, ức chế. Thày không đổ lỗi cho họ mà thày chỉ muốn nói là đã có một tình huống khách quan theo nghĩa là một số người đã thực hiện điều con gọi là chiếm đóng Đông Âu, trấn áp người dân nước khác. Có những người đã làm công cụ cho việc thực hiện điều này trong cõi vật lý. Nhưng cách con người trải nghiệm điều này là sản phẩm của một mô thức giao thoa, một sự tương tác giữa các sóng năng lượng được kích hoạt bởi đoàn quân chiếm đóng của Liên Xô với các sóng năng lượng trong tâm những người bị chiếm đóng. Đã có một trải nghiệm mà mọi người ở cả hai bên đã nếm trải, nhưng đây không phải là một trải nghiệm khách quan. Kỳ thực con có khả năng bước lui lại để có được một tầm nhìn hoàn toàn mới lạ về chuyện này. Thay vì nhìn các biến cố mà mọi người đều đồng ý là đã diễn ra, con có khả năng nhìn các sóng năng lượng để thấy chúng giống như hạt cát trong bãi chơi cát. Bất kể có bao nhiêu người đã tham gia vào biến cố này, các năng lượng vẫn có thể dễ dàng được tẩy xóa và đem trở về trạng thái nền của chúng.

Tất nhiên, đây sẽ là một công việc phức tạp vì mọi người liên hệ sẽ phải quyết định buông bỏ các hình ảnh của mình về quá khứ. Nếu chẳng hạn như dân tộc Estonia hội tụ lại, nhìn vào quá khứ của mình và nói: “Chúng tôi như một tập thể sẽ buông bỏ mọi cảm xúc mình đã có về quá khứ. Chúng tôi sẽ hoàn toàn để cho các cảm xúc này ra đi. Thậm chí chúng tôi sẽ không tha thứ cả cho người Nga về những gì họ đã gây cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ buông bỏ toàn bộ ý tưởng là có gì đó cần phải tha thứ. Chúng tôi sẽ gạt bay các hình ảnh mình còn cầm giữ.” Nếu mọi người đều làm vậy thì rất có thể dân tộc Estonia sẽ vô cùng mau chóng thoát ra khỏi quá khứ của họ.

Thày không nói đây là một kịch bản có nhiều xác suất xảy ra trong vòng hai tuần tới. Nhưng thày sẽ nói, cách duy nhất để bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào thoát ra khỏi quá khứ là đạt tới điểm họ có thể nói: “Bất cứ gì đã xảy ra chỉ là lâu đài cát. Trong tầm nhìn vũ trụ dài hạn thì nó cũng chỉ đáng kể như một lâu đài cát. Nó chỉ là một tương tác của sóng năng lượng. Thật là vô nghĩa mà cầm giữ một hình ảnh về nó, gọi nó là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ. Câu hỏi thật sự ở đây là: Chúng ta có muốn thoát ra khỏi nó hay không? Và nếu chúng ta muốn thoát ra thì chẳng có gì ở đây phải giải quyết. Chúng ta không phải trừng phạt bất cứ ai. Chúng ta không phải thay đổi bất cứ gì trong cái quá khứ không thể thay đổi. Chúng ta chỉ phải nhận ra là điều buộc chặt chúng ta với quá khứ là hình ảnh của chúng ta về quá khứ. Chúng ta phải quyết định gạt bay nó đi. Thế là chúng ta tự do.”

Tất nhiên, họ sẽ phải làm công việc dọn sạch tất cả các năng lượng cần được tiêu hủy, tất cả các ngã cần được giải quyết cùng tất cả những thứ như vậy. Thày không bảo là nó rất có thể xảy ra, con yêu dấu, mà thày chỉ nói là nó có khả năng xảy ra, và thày nói vậy để con – ở mức cá nhân của con – có thể nhận ra là mặc dù việc khiến mọi người đồng ý là một chuyện phức tạp, nhưng tuyệt đối không có gì ngăn cản con nhìn vào quá khứ của chính con. Con có khả năng buông bỏ bất kỳ hình ảnh nào mà con nhận biết, khi con dùng dụng cụ của các thày để quay trở về các chấn thương trong tiền kiếp, để nhìn lại hoàn cảnh trong rạp hát, xem lại buổi trình diễn, và con có thể thấy sinh thể đó bị đóng băng trong thời gian và các sinh thể kia cũng bị đóng băng trong thời gian là vì con còn cầm giữ một hình ảnh về nó. Con có khả năng nhìn thấy nó và để cho nó ra đi, để cho nó chảy tan ra, con yêu dấu. Đây là những gì con có quyền năng làm được và con có thể dùng các dụng cụ này.

9.9. Gạt bay đi hình ảnh ký ức

Như thày đang nói với con ngay bây giờ, sẽ tới một điểm khi con đã dùng đủ các dụng cụ đến độ điều duy nhất còn sót lại là con nhận biết là con, trong tâm con, còn bám giữ một hình ảnh và con quyết định gạt bay nó đi. Khi con lấy bài giảng vô cùng thâm thúy của Mẹ Mary, điều con đã thực sự quyết định làm, điều đã đem con đến hành tinh này chính là sự kiện con đã muốn – Hiện diện TA LÀ của con đã muốn – trải nghiệm chính mình trên hành tinh này, trong môi trường này. Đấy, những cái ngã con mang, những hình ảnh con giữ về quá khứ bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng đang ngăn chặn con trải nghiệm chính mình trên hành tinh này. Con không đang trải nghiệm cái ta thực của con mà con đang trải nghiệm cuộc sống trên trái đất qua một cái ngã đặc thù.

Các thày đã giảng là cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết – đây chỉ là từ ngữ thôi con – nhưng theo một nghĩa nào đó, cái Ta Biết trung hòa đối với việc con ở trên trái đất. Nó có một sự tò mò nào đó về việc ở trên trái đất: “Khi mình trải nghiệm tình huống này thì mình sẽ cảm thấy gì?” Đây là tại sao con đã bước vào rất nhiều hoàn cảnh trong tiền kiếp, vì cái Ta Biết bảo rằng: “Mình sẽ cảm thấy gì đây, mình sẽ trải nghiệm chính mình như thế nào trong hoàn cảnh này đây?” Khi con khoác vào và tạo ra các ngã tách biệt thì trải nghiệm của con bị những ngã này pha màu. Điều các thày nói với con là con có khả năng quay trở về điểm khi cái Ta Biết, trong tư cách là nhận biết thuần khiết, một cái ta trung hòa, sẽ chỉ đơn giản trải nghiệm các điều kiện một cách trung hòa. Con cũng có thể vươn lên cao hơn và trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm hoàn cảnh đó như thế nào. Đây là khung tham chiếu tối hậu cho phép con bước ra khỏi sự đồng hóa với các điều kiện con gặp, ở trong bốn thể phàm của con lẫn ở ngoài bốn thể phàm của con.

Các thày đã dạy con là con mang những ngã đó trong bốn thể phàm. Ngã đó là gì chứ? Chúng được cấu tạo bằng sóng năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật này, những cái chấm này mà một mô thức đã được áp chồng lên. Thế thì ngã chỉ là một hình ảnh, và con có thể nhìn vào ngã và quyết định gạt bay nó đi. Các thày đã bảo con trước đây là con hãy để cho ngã chết đi, nhưng nếu con thấy sự hữu ích trong việc xem ngã là một hình ảnh và tưởng tượng con chỉ cần tẩy xóa hình ảnh này y như một lâu đài trên bãi cát, thì con hãy sử dụng cách hình dung này thay vào đó. Cách nào hiệu quả hơn cho con thì con cứ dùng.

Con cần tìm ra cách để dần dần nhận diện là thực tế duy nhất ở đây, điều duy nhất còn sót lại, là hình ảnh và con đang tẩy xoá hình ảnh này đi. Con cho nó ra đi. Điều này, con yêu dấu, không đến nỗi khó khăn lắm nếu con dùng tất cả các dụng cụ mà con có. Thày hoàn toàn công nhận là con không thể làm vậy trong vòng năm phút. Không có ai trong các con có thể làm được ngay lập tức, nhưng vậy thì đã sao? Nếu con đã đầu thai trên trái đất này suốt hai triệu năm trời và chỉ trong vòng vài năm con có thể khắc phục tất cả những tập khí cũ đó, tất cả những ngã đó mà con đã khoác vào, thì thật nhanh quá sức rồi đó. Khi con nhìn trong chiều dài thời gian vũ trụ thì nó ngắn chưa bằng một chớp mắt.

9.10. Khắc phục sự nóng lòng

Chỉ còn một điều nữa mà thày muốn nói. Thày cũng biết là thày đã cho con rất nhiều rồi, nhưng thày là chân sư MORE cho nên thày sẽ cho con nhiều hơn, và điều này đơn giản là như sau. Ở một mức độ nào đó, điều này cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt đến một tầng nào đó, nhưng trước hết nó áp dụng cho các avatar. Nếu con nhìn một avatar đã đến trái đất và sống ở đây rất lâu đời – hai triệu năm không phải là thời gian tất cả các con đã sống ở đây, nhưng một số – nhưng dù sao thì tất cả các con đã ở đây rất lâu. Đâu là đặc tính mà con thấy nơi mọi avatar? Đơn giản là điều này, con yêu dấu: sự thiếu kiên nhẫn. Các con đều rất, rất thiếu kiên nhẫn.

Trước hết, các con thiếu kiên nhẫn với chính mình. Một lần nữa, câu này không có ý chê trách gì con. Con yêu dấu, nếu con đã quen biết thày khi thày còn trong hiện thân vật lý thì con đã có thể thấy tính thiếu kiên nhẫn gần như lên đến cực điểm – nếu con đã thấy Saint Germain, hay thậm chí con có thể thấy câu chuyện về Giê-su nóng lòng đối với các tông đồ như thế nào. Con yêu dấu, các thày không chê trách gì con nhưng các thày sẽ nói là tất cả các con đều có thể được lợi lạc nếu con nhận biết là mình mang xu hướng vô cùng nóng lòng đối với bản thân mình. Khi có ai nói là con có khả năng thực hiện một điều gì, con cảm thấy mình chỉ cần búng tay là phải làm được ngay. Con hãy cho con một chút thời gian – cho con một chút thời gian.

Thậm chí con có thể ngẫm xem là sa nhân rất lão luyện trong việc khiến cho các sinh thể tâm linh bị trật đường rày trên con đường phát triển quả vị Ki-tô, đặc biệt là các avatar. Chúng rất giỏi làm chuyện này. Khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, chúng sẽ cố khiến con khoác vào một số ngã nhất định sẽ làm trật bánh xe tăng triển của con. Một trong những ngã này là ý tưởng khiến con nóng lòng, rằng con phải có khả năng thực hiện một việc gì đó rất nhanh. Con có thể nhận ra đây là một ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con yêu dấu. Hãy cho con một chút thời gian. Con hãy thiền quán về Phật Gautama vì thày thật sự là vị chân sư có thể giúp con khắc phục tính thiếu kiên nhẫn, giúp con nhận ra rằng thời gian mặc dù nó có ở đó nhưng nó không quan trọng gì lắm. Liệu con sẽ tốn năm phút hay năm năm? Thật chẳng quan trọng gì lắm, và như vậy con có thể khắc phục tính nóng lòng này. Con có thể cho mình một chút thời gian.

Thày nói ra điều này vì đối với hầu hết các con, vấn đề không phải là con hóa ra dễ dãi và nói: “Ồ chân sư bảo là tôi có rất nhiều thời gian, cho nên tôi sẽ thư giãn và thôi không đọc thỉnh và cũng không học sách về ngã gốc nữa. Tôi sẽ không quan tâm đến chuyện đó. Tôi sẽ chỉ lo vui hưởng cuộc đời và tự ban cho mình một ly sô-cô-la ngon lành.” Đây không phải là mối nguy cho hầu hết các con. Nó có thể là mối nguy cho một số, và con cũng thấy nhiều người trong lãnh vực Thời mới có đúng cái tư duy này: “Mọi chuyện đều tốt đẹp cho nên chúng ta hãy thư giãn và tận hưởng cuộc đời.” Dẫu vậy, vấn đề của con là con thiếu kiên nhẫn, và tính thiếu kiên nhẫn sẽ làm gì con? Nó ngăn cản không cho con an bình với việc mình ở đây.

Chủ đề của hội nghị này là gì? An bình với việc mình ở đây trên trái đất. Con hãy để ý tính thiếu kiên nhẫn, thấy nó là một cái ngã, và con chỉ quyết định là con không cần quá khắt khe với chính mình. Con không cần hoàn thành mọi chuyện trong vòng năm phút vì theo một nghĩa nào đó, thời gian không có. Thời gian là một ảo tưởng tập thể do tâm thức tập thể tạo ra. Nó được phép tồn tại vì đối với một số người, ý tưởng rằng thời gian có thể cạn kiệt chính là động lực duy nhất sẽ khiến họ ngừng làm những gì họ đang làm.

Với lời này, thày đã nói xong những gì thày muốn trao cho con – ít nhất trong bài giảng này – cho nên thày cảm ơn sự chú ý của con. Thày muốn các con biết, con yêu dấu, là với số người có mặt ở đây lẫn số người trên chương trình phát sóng, các con đã tạo được một tầm ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể, ở Đông Âu lẫn ở tất cả mọi quốc gia nơi các con sinh sống hay kết nối. Các bài thỉnh mà các con vừa đọc rất nhiều uy lực, rất sâu sắc và chúng tác động rất mạnh mẽ, đặc biệt khi có thật nhiều người cùng đọc tạo nên một hiệu ứng nhân lên gấp bội. Thày có thể cam đoan với con là con đã hoàn tất một công việc rất tuyệt vời trong hội nghị này, và thày muốn bày tỏ lòng biết ơn cùng sự khen ngợi của các thày. [Các tham dự viên trong hội nghị cùng đọc các bài thỉnh trong sách Chữa lành chấn thương tâm linh]

7 | Sáng tạo trong một thế giới lượng tử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và như các con cũng bắt đầu nhận thấy, ý định của thày là bắt được chú ý của con và khiến các chân sư khác phải chờ phát biểu trong hội nghị này. Dù sao thì các thày ở cõi thăng thiên không có chuyện cạnh tranh với nhau, ngược hẳn với những gì con thấy quá thường trên địa cầu với quá nhiều ganh đua. Cạnh tranh sinh ra từ đâu? Nó sinh ra từ một số ý tưởng rất vi tế do sa nhân cài đặt cho rằng có cái đúng và cái sai, có cái gì tuyệt đối, có cái gì tối thượng. Cho nên một người có thể đúng hay có thể sai, có thể thắng hay có thể thua. Chính tư duy này đã xâm nhập, đã thấm sâu vào hầu như mọi khía cạnh của xã hội.

Con có thể nói là có sự cạnh tranh rõ rệt trong một cuộc thi đấu thể thao khi ai nấy tranh đua để xem ai là người chạy nhanh nhất, ai là người nhảy cao nhất, v. v… Trong trường hợp này, sẽ có một người chiến thắng còn những người kia thì phải tìm chỗ đứng thấp hơn trong tôn ti đẳng cấp vừa xuất hiện. Dựa trên những gì con có thể thấy trong các cuộc tranh tài thể thao, con có thể nói là không có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, ít ra không phải là cùng kiểu cạnh tranh. Nhưng kỳ thực có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo để xem tôn giáo nào nắm được chân lý cao nhất, tôn giáo nào là tôn giáo chân chính duy nhất. Nếu con nhìn Giáo hội Công giáo tuyên bố chỉ có tôn giáo họ có thể đảm bảo sự cứu rỗi của con, thì đây là một tư duy cạnh tranh: ”Chúng tôi là số một, thật ra chỉ có độc nhất chúng tôi, chúng tôi là kẻ chiến thắng, còn mọi người khác là kẻ thua cuộc. Những người kia không theo đạo chúng tôi là kẻ thua cuộc và họ sẽ bị xuống địa ngục.”

Ý tưởng này thâm nhập rất sâu xa vào tư duy của hành tinh. Như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để trái đất bị nát bét là phóng ra ý tưởng có cái đúng và cái sai. Có một chuẩn mực, và con cần phải so sánh mọi việc mình làm hay mọi sự xảy ra với chuẩn mực này, con đánh giá xem nó đúng hay sai.

7.1. Hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh

Trong hội nghị này các thày trình bày về việc giúp con người làm hòa với việc mình ở trên địa cầu. Điều thày sẽ nói ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy. Thày sẽ dùng ví dụ của các avatar vì đây là ví dụ rõ nét nhất. Con thấy đó, con yêu dấu, một trong những khác biệt tinh tế giữa hành tinh tự nhiên và phi tự nhiên là trên một hành tinh tự nhiên không có sự cạnh tranh. Các thày đã có nói là một trong những bí ẩn cốt lõi khởi lên từ quyền tự quyết là việc con ở đây trên hành tinh này trong khi có người khác sống trong môi trường gần kề bên con và cả trên hành tinh. Làm thế nào con quân bình được việc thực thi quyền tự quyết của con với quyền tự quyết của mọi người khác?

Sa nhân chỉ có một giải pháp độc nhất cho chuyện này, đó là chúng tìm cách nâng ý muốn của chúng lên thành ý muốn thống trị mà ai ai cũng phải tuân theo. Đây không phải là cách vận hành ở hành tinh tự nhiên. Ở hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh. Làm thế nào các sinh thể trên hành tinh tự nhiên, những người đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, tránh được xung đột, tránh bị cảm thấy đối chọi với nhau? Thật ra họ không tránh làm vậy, mà họ chỉ không tạo ra cạnh tranh do họ không ở trong tâm thái tách biệt. Họ không tự xem mình là sinh thể tách biệt.

Trên một hành tinh tự nhiên, con không xem mình có một ý chí tách biệt với ý chí của mọi người khác. Con thấy mình là thành phần của một tổng thể và có nhiều sinh thể khác cũng là thành phần của tổng thể này. Tổng thể này lớn đến đâu tùy thuộc vào mức độ tăng triển của con, mức độ nhận biết mà con đã đạt được. Đối với một số người trên hành tinh tự nhiên, tổng thể mà họ là thành phần có thể là một nhóm nhỏ, từa tựa giống như cái con gọi là gia đình trên trái đất. Trên hành tinh tự nhiên có những người chỉ mới khởi đầu là người đồng sáng tạo và họ sống trong những nhóm nhỏ như vậy, trên nhiều phương diện cô lập với phần còn lại của dân cư trên hành tinh của họ. Họ bắt đầu tăng triển trong một nhóm nhỏ nơi họ có thể dễ dàng quân bình ý chí cá nhân của họ với ý chí của những người đồng sáng tạo khác. Họ tránh khỏi xung đột vì họ đều quen biết nhau, họ biết rõ người khác muốn gì và họ có thể hợp tác.

Khi các sinh thể tăng triển nhận biết trên hành tinh tự nhiên, họ mở mang nhận thức về các sinh thể khác trên hành tinh, và giờ đây họ nhận thức được một nhóm lớn hơn. Điều xảy ra là bấy giờ họ tụ họp lại ở những nơi có người với cùng sở thích. Ngay cả trong sách Những kiếp của tôi, con cũng đọc thấy lời tường thuật về vai chính trong truyện tham gia vào kịch nghệ, rồi sau đó vào chính quyền, rồi sau nữa vào việc tu tập tâm linh. Con có thể nói là trên hành tinh tự nhiên, con có thể có chẳng hạn một số thành phố dành riêng cho nghệ thuật biểu diễn, một số thành phố dành riêng cho âm nhạc, một số cho nghệ thuật thẩm mỹ, một số cho khoa học, vân vân.

Người nào có cùng sở thích như vậy sẽ tập hợp lại và hình thành một đơn vị. Có thể trong một thành phố sẽ có nhiều đơn vị khác nhau và họ đều quen biết nhau, họ không xung đột và ý chí của họ không đụng độ. Họ đến với nhau quanh một mục tiêu chung mà họ cùng đeo đuổi. Mỗi người biết rõ là mình có một khu vực, một quả cầu nơi mình biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, và ở đó, họ tự do biểu đạt sáng tạo của họ mà vẫn ăn khớp, phù hợp với tổng thể rộng lớn. Giữa người này với người kia không có đụng độ, không có tranh đua, mà họ cùng làm việc với nhau hướng đến một mục tiêu chung.

Đây cũng chính là điều đã xảy ra trên trái đất trước khi con người rơi xuống nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng cảm nhận được điều này trong bản thân mình – cảm giác vô cùng vi tế, trực nhận, là họ phải có thể hợp tác với nhau chung quanh một mục tiêu chung mà không bị xung đột. Yếu tố đã phần lớn che lấp trực nhận này là sa nhân, là chuẩn mực đúng-sai. Một người có thể sai hay có thể đúng, và chỉ có một cách đúng thôi. Trên một hành tinh tự nhiên không có đúng-sai mà có nhiều cách đúng. Mọi cách đều đúng và mọi cách đều là những biểu đạt sáng tạo cá nhân. Không có gì sai hay đúng, và ngay cả chuyện cân nhắc đúng-sai cũng không khởi lên trong tâm con người trên hành tinh tự nhiên.

7.2. Đồng sáng tạo xảy ra thế nào trên hành tinh tự nhiên

Vậy khi con đến một hành tinh phi tự nhiên như trái đất thì chuyện gì xảy ra, con trải nghiệm thế nào như một avatar? Ở hành tinh tự nhiên con làm việc trong một đơn vị với người khác, với các sinh thể khác. Đây là một đơn vị hài hòa vì các con có một mục tiêu chung. Hãy thử lấy một ví dụ thực tế. Các con có mục tiêu chung là xây cất một toà nhà thật đẹp. Con có một viễn kiến toàn bộ về tòa nhà nhưng toà nhà đòi hỏi nhiều kỹ năng khác nhau: có thợ nề, có thợ mộc, có thợ sơn, có thợ làm đồ sắt, có người trang trí, có người lo về nghệ thuật, người này người nọ. Đủ loại kỹ năng cá nhân sẽ cần thiết để hoàn tất tòa nhà. Không có cạnh tranh vì mỗi nhóm người như vậy đều có một lãnh vực riêng nơi họ có thể biểu lộ sáng tạo, một phạm vi ảnh hưởng riêng của mình. Họ không đụng độ với nhau mà họ cộng tác để thực hiện mục tiêu chung là xây tòa nhà. Con hiểu là trên một hành tinh tự nhiên có một khoảng không gian chung, một viễn quan chung, một mục đích chung, và ở trong đó có những khu vực cá nhân cho sáng tạo. Là một cá nhân đồng sáng tạo, con là một phần của tổng thể, con biết con làm việc với người khác nhưng con cũng cảm thấy là mình có dư không gian để biểu đạt sự sáng tạo của mình.

Hệ quả là gì? Con yêu dấu, hệ quả là một người đồng sáng tạo làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật trên hành tinh tự nhiên cũng y hệt như trên trái đất. Có Ánh sáng Mẫu-Vật, và con dùng tâm con để tạo thành một hình ảnh, con áp chồng hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thế rồi Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào hình tướng đó. Và sự khác biệt giữa hành tinh tự nhiên với trái đất là như sau. Ở một hành tinh tự nhiên, con không dùng cơ thể vật lý của mình nhiều lắm; hầu hết tạo vật của con trên hành tinh tự nhiên đều được kết đọng (precipitate). Cơ thể vật lý có một số công dụng vì nó không được con xem là tách biệt với ba thể kia. Con ý thức, con nhận biết mình đang đồng sáng tạo với tâm mình – với tâm bản sắc, lý trí lẫn cảm xúc – để đưa vật thể vào cõi vật lý. Không giống như trên trái đất nơi con nghĩ là hầu hết mọi chuyện con cần làm để đem vật vào cõi vật lý phải được thực hiện bởi cơ thể – hay bởi một phần nối dài của cơ thể là một loại máy móc hay công nghệ – thì trên hành tinh tự nhiên, con nhận biết rõ hơn hẳn là con dùng tâm con. Con nhận biết là con đang đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con và phóng chiếu chúng ra, áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi một nhóm người hội tụ xung quanh một mục tiêu chung, điều xảy ra là tâm họ phối hợp lại với nhau ở mức bản sắc, và sau đó họ sáng tạo trong khuôn khổ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cũng gần giống như khi các thày nói về cách sáng tạo của Đấng Sáng tạo, thì trước tiên Đấng Sáng tạo tạo ra một khoảng trống, xong phóng chiếu một bầu cõi vào khoảng trống, và trong bầu cõi này các hình tướng có thể được sinh tạo. Tương tự như vậy trên hành tinh tự nhiên, những người đã quyết định đồng sáng tạo, chẳng hạn xây một toà nhà, thì họ sẽ đến với nhau. Trước tiên họ cùng thiền định với nhau và họ hình dung, họ tạo ra khoảng trống. Họ tạo ra khoảng trống xong họ dùng tâm phóng chiếu ra một quả cầu. Họ đổ đầy khoảng trống với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động tới một mức nào đó, tức là Ánh sáng Mẫu-Vật đã sẵn sàng khoác lấy hình tướng nhưng hình tướng chưa được phân biệt. Giờ đây, tất cả những người có chân trong tổng thể đó biết rõ là họ đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật này. Họ có sự kết nối trong tâm họ nhưng đồng thời mỗi sinh thể cũng biết là mình có một quả cầu riêng nơi mình đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật, và vì vậy mình đang dùng tâm mình để tạo thành hình ảnh được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

7.3. Việc đến địa cầu tạo cảm giác như thế nào

Điều xảy ra trên hành tinh tự nhiên là Ánh sáng Mẫu-Vật rất dễ khoác vào hình tướng được một cá nhân đồng sáng tạo phóng chiếu lên nó. Ở đó không có sự chống đối. Cho nên khi con đến như một avatar từ một hành tinh tự nhiên, con mang sẵn thói quen là làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật thật dễ dàng. Con có thể dễ dàng phóng chiếu một tâm ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và nó sẽ lấy ngay hình tướng này. Một trong những cú sốc lớn mà con gặp phải khi con đến địa cầu như một avatar là trên địa cầu tiến trình đồng sáng tạo nhàn nhã này không thể xảy ra. Nó không thể xảy ra vì mấy lý do. Một lý do là vì Ánh sáng Mẫu-Vật ở một hành tinh tự nhiên có độ rung cao hơn Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo trái đất. Độ rung càng cao thì ánh sáng càng linh hoạt, càng dễ khoác vào hình tướng mà con phóng chiếu lên nó với ba thể cao của con. Ánh sáng có rung động cao sẽ uốn theo tâm ảnh dễ hơn vì nó không dày đặc, không đông cứng bằng.

Con đến trái đất và cú sốc đầu tiên con gặp phải là vật chất ở đây sao dày đặc đến thế, Ánh sáng Mẫu-Vật sao dày đặc đến thế. Con cũng cần nhận ra ở đây là trên điạ cầu thật hiếm hoi – không phải là không có nhưng khá hiếm hoi – một nhóm người có thể tụ lại xung quanh một mục tiêu chung, một viễn quan chung. Cũng có một số ví dụ khi hàng triệu người cộng tác với nhau để xây kim tự tháp hay xây dựng một thành phố, v. v… Nhưng trong hầu hết trường hợp, điều này đã xảy ra theo một cách mà chúng ta có thể gọi là quản lý từ trên xuống, tức là có một người giống như một nhà độc tài phán quyết: “Chúng ta sẽ xây cung điện này.” Thế là ông ta cưỡng bách mọi người phải tuân theo viễn quan này và xây cung điện. Không có nghĩa là ai ai cũng đã đồng tình với viễn quan này hay đã chấp nhận đó là điều họ muốn làm. Họ bị buộc phải làm cho nên họ làm theo. Con có thể nói là mặc dù họ làm việc với nhau nhưng họ không hợp tác trong cùng tinh thần hợp nhất mà con thấy trên hành tinh tự nhiên.

Con yêu dấu, kết quả của sự thể này là khi người ta không có viễn quan chung, khi người ta không chấp nhận viễn quan và nó bị áp đặt lên họ, thì họ không thể phối hợp tâm họ để trước hết tạo ra khoảng trống rồi sau đó đổ đầy khoảng trống này với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Con không thể tiếp cận cái chúng ta có thể gọi là “nguyên liệu thô” có thể rất dễ dàng khoác vào hình tướng. Nguyên liệu này có khả năng được tạo ra trên trái đất, như nếu con có một nhóm người đến được với nhau trong một trạng thái hợp nhất hài hòa thì họ có khả năng tạo ra nguyên liệu này. Sẽ khó hơn là trên một hành tinh tự nhiên nhưng có thể làm được. Trên trái đất rất hiếm khi người ta làm được vì thường thường sa nhân đã có thể chen chân vào tiến trình và buộc mọi người phải tạo ra một cái gì sẽ tôn vinh sa nhân. Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh tự nhiên con sẽ không thấy ai tạo ra một cung điện để vua chúa hay hoàng đế ngồi trên ngôi báu ra vẻ oai phong lẫm liệt.

Trên trái đất, con không có một nguyên liệu thô có thể dễ dàng khoác vào hình tướng. Song song với việc con không có một nguồn năng lượng chung, con cũng không có một tình trạng nơi mỗi người đồng sáng tạo, mỗi một cá nhân đều có quả cầu riêng, lãnh vực riêng của mình để có thể sáng tạo. Con không có một không gian chung và con không có một không gian cá nhân để đồng sáng tạo. Điều con thấy trên trái đất là khi người ta muốn sáng tạo một cái gì, họ không thể tạo ra quả cầu riêng biệt chứa Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Họ phải làm việc với quả cầu chung, với năng lượng chung, với cái các thày đã gọi là sự rung động cơ bản hay rung động nền của hành tinh. Đây là nguyên liệu thô của họ. Hay nói cách khác, tất cả mọi người trên trái đất phải dùng cùng một nguyên liệu thô.

Đồng thời con cũng thấy là trên trái đất, con rất khó có quả cầu sáng tạo riêng của con. À, con có thể nhìn lịch sử và thấy được một số người đã xoay sở để tạo ra một quả cầu sáng tạo nào đó. Có thể đây là những nhà văn có khả năng viết một tác phẩm vượt khỏi tâm thức tập thể. Có thể là những họa sĩ đã vẽ những bức tranh hoàn toàn mới lạ, không theo cách truyền thống chút nào. Đó là vì những người này đã có thể tạo ra một khoảng trống trong tâm họ được phần nào che chắn khỏi tâm thức tập thể. Con cũng thấy được là những hình thức sáng tạo này là nỗ lực sáng tạo cá nhân. Một họa sĩ ngồi trong xưởng vẽ của ông tạo ra bức tranh mà không có ai khác ở đó.

Nhưng khi con có một hoàn cảnh với hai hay nhiều người hơn cộng tác thì lập tức con có một cơ chế vận hành hoàn toàn khác, qua đó họ không còn không gian cá nhân của họ nữa. Họ cùng nhau làm việc trong một không gian chung, và trong bản chất, điều này có nghĩa là những gì cá nhân con làm sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể của mọi người trên hành tinh. Một lần nữa, con có thể tìm thấy những tình huống có một nhóm người đã xoay sở để tách ra riêng rẽ, chẳng hạn nơi một tu viện hay một cộng đồng hẻo lánh, cho nên họ đã có thể phần nào cách ly khỏi tập thể, nhưng họ vẫn phải làm việc với cái năng lượng cơ bản dày đặc hơn. Họ vẫn phải làm việc trong một môi trường nơi mặc dù họ đã tự cách ly đôi chút, họ vẫn không được tự do khỏi tâm thức tập thể, cho nên có sự nhiễu sóng không ngừng từ tâm thức tập thể.

7.4. Đồng sáng tạo vận hành như thế nào trên địa cầu

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang xem xét làm thế nào con có thể thực sự đồng sáng tạo một điều gì trên một hành tinh như trái đất. Về cơ bản, đây là cùng một tiến trình như ở hành tinh tự nhiên nhưng với một vài khác biệt. Trên hành tinh tự nhiên, con hình thành một hình ảnh trong tâm ý thức của con. Con sử dụng tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc, nhưng còn hình thành hình ảnh này trong tâm ý thức. Xong con gửi một xung lực vào hệ thống năng lượng. Con gửi vào đó một sóng năng lượng, hay đúng hơn một sóng năng lượng phức tạp, một khuôn đúc sóng năng lượng mang một hình ảnh trên đó. Con gửi nó từ cõi vật lý, từ tâm ý thức, vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, nơi nó đi nguyên chu trình quay trở về qua cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc, rồi vào cõi vật lý. Điều đáng nói là trên một hành tinh tự nhiên không có gì can thiệp vào tiến trình này. Những gì con gửi ra từ tầng vật lý, từ tầng ý thức, sẽ trở lại tầng vật lý trong dạng thuần khiết của nó.

Nhưng trên trái đất thì khác hẳn. Con lập ra hình ảnh với tâm ý thức, phóng chiếu nó vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc trên trái đất rồi cho nó đi hết quy trình trở lại cõi vật lý. Vì trái đất là một môi trường vẩn đục và dày đặc đến như vậy cho nên sóng năng lượng mà con gửi ra gặp phải nhiều sự nhiễu sóng, cả trên đường đi lên lẫn đường đi xuống trở lại vật lý. Điều này có nghĩa là gần như con không thể nào hình thành một hình ảnh trong tâm rồi gửi nó ra mà biểu hiện được nó y như con đã hình dung. Đứng về mặt thực tiễn thì chuyện này không thể xảy ra.

Tại sao thật quan trọng con nên biết điều này trong tư cách một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đã tinh tiến trên đường tâm linh? Bởi vì đây là cách duy nhất con có thể làm hòa với việc con ở đây. Đây là cách duy nhất con có thể tránh khỏi cảm nhận là mình ngu ngốc, mình bất cập, mình không tốt đủ. Đây là cách duy nhất con có thể tránh phán xét nỗ lực sáng tạo của mình dựa theo tiêu chuẩn của sa nhân, tức là nỗ lực này phải toàn hảo, nếu không thì nó không tốt đủ. Trên cơ bản, đây là điều sa nhân đã tạo ra. Chúng đã tạo ra trên trái đất một tư duy bảo rằng: Nếu sáng tạo của con không toàn hảo – dựa trên một chuẩn mực không bao giờ được định rõ – thì nó không tốt đủ. Do sự dày đặc của môi trường trên trái đất, gần như không ai có thể lập ra một hình ảnh trong tâm mà biểu hiện ra được hoàn cảnh vật lý. Cho nên nếu con chấp nhận lối suy nghĩ của sa nhân thì con không thể thoát khỏi tình trạng mãi mãi cảm thấy là bất cứ gì mình sáng tạo cũng không tốt đủ. Nếu con mang tư duy này của sa nhân rằng nó phải toàn hảo theo một chuẩn mực nào đó thì con không bao giờ có thể thoả mãn với tạo vật mình đã đồng sáng tạo.

7.5. Sẽ bao giờ có gì tốt đủ hay không?

Đó chính là tại sao thày cho con lời dạy này để con khởi sự tái lượng định cách tiếp cận của con đối với mọi chuyện con làm – bất cứ chuyện gì con làm trên trái đất. Con thử nhìn xem cách mình làm cha mẹ, nhìn xem xã hội mang tư duy con phải là bậc cha mẹ toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Thế nào là bậc cha mẹ toàn hảo? Có người sẽ bảo đó là cha mẹ có con cái toàn hảo, nhưng con dư biết là con cái của con đã đến đây với một tâm lý từ rất nhiều tiền kiếp, và nhiệm vụ của con làm cha mẹ không phải là thay đổi hay kìm nén tâm lý đó. Có bao giờ con có được một đứa con toàn hảo – nếu có chuyện toàn hảo nơi một đứa trẻ? Với thái độ thường thấy như vậy trong xã hội ngày nay, làm cha mẹ có nghĩa là con tự buộc mình phải cảm thấy bất mãn cho đến hết kiếp, vì con mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được tiêu chuẩn toàn hảo đó.

Nếu con muốn là một nhà văn thì cũng tương tự như vậy. Nhiều người mong muốn viết lách gì đó nhưng họ bị ám ảnh bởi nhu cầu đánh giá xem tác phẩm của mình có đủ tốt hay không, đến độ họ cảm thấy: “Ồ, nó sẽ không bao giờ tốt đủ,” và họ không dám phổ biến. Rốt cuộc nhiều người trong số đó trở thành những nhà bình phẩm hay biên tập viên chuyên nghề lượng định tác phẩm của người khác để không bao giờ mình có rủi rỏ bị người ta bình phẩm – nhưng đây là một vấn đề khác.

Thật sự đây là một khuôn nếp con gặp trong mọi khía cạnh của đời sống khi con thấy rất rất nhiều người mang tư duy là hoặc mình toàn hảo, hoặc mình không đủ tốt. Do đó họ không dám biểu đạt một cái gì từ nội tâm của họ. Thay vào đó, họ đi tìm một vị thế đánh giá công việc của người khác. Họ là người luôn luôn chỉ trích nhưng chính họ thì không bao giờ là đối tượng của sự chỉ trích. Có ai bình phẩm người bình phẩm bao giờ đâu? Thế là họ khóa chặt dòng sáng tạo của họ và củng cố cho tư duy phán xét của sa nhân.

Nhưng một lần nữa, con ở đây như một avatar đã đến địa cầu. Từ hành tinh tự nhiên, con đã quen có thể thị hiện bất cứ gì mình hình dung. Xong con đến địa cầu, con hình dung cái gì đó, con gửi xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất nhưng cái quay trở lại, cái được thị hiện, thì không đúng y như cái con đã hình dung. Thật là dễ cho nhiều người trong chúng ta – thật ra hầu hết chúng ta – bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã và nói: “Ồ, nếu cái thị hiện khác xa cái tôi hình dung đến vậy thì chắc chắn tôi không tốt đủ. Bỗng nhiên tôi là một người đồng sáng tạo không tốt đủ vì tôi không thể thị hiện những gì tôi hình dung.”

Thày vừa nói con điều gì, con yêu dấu? Trên trái đất con không có một con đường thông thoáng để viễn quan con được gửi ra và quay trở về mà không bị nhiễu sóng. Con có một môi trường năng lượng vô cùng hỗn tạp với quá nhiều cảm xúc xuất phát từ lòng sợ hãi, quá nhiều ý tưởng méo mó trong cõi lý trí, quá nhiều hình ảnh sai lạc trong cõi bản sắc. Khi con gửi một sóng năng lượng vào các cõi này, một sự nhiễu sóng khổng lồ sẽ xảy ra. Con biết rất rõ là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa làm thay đổi cả hai sóng.

Chúng ta có thể nói là khi con gửi ra một xung lực sáng tạo, xung lực này là một làn sóng năng lượng. Khi nó di chuyển qua bốn tầng của cõi vật chất, nó chạm mặt một số sóng năng lượng khác từ tâm thức tập thể. Khi hai sóng tương tác thì cả hai đều biến đổi. Có nghĩa là khi con gửi ra một viễn quan sáng tạo, nó gặp phải một năng lượng tiêu cực và sự tương tác này biến đổi cả hai làn sóng. Kỳ thực con đã đóng góp vào việc nâng cao tâm thức tập thể qua nỗ lực sáng tạo của con, nhưng con không thấy được chuyện này. Điều con thấy là cái quay trở về con thấp hơn rất nhiều những gì con đã hình dung, cho nên con cảm thấy: “Liệu mình đã làm được gì hữu ích hay không?” Nhưng con đã. Con đã nâng cao năng lượng đến giao thoa với viễn quan của con. Tất nhiên là năng lượng này cũng đã làm nhiễu viễn quan của con khiến nó không được biểu hiện trong dạng thuần khiết của nó.

Tại sao thày lại nói điều này cho con? Một lần nữa, là vì đơn giản con không thể phán xét nỗ lực sáng tạo của mình ở đây trên trái đất theo một trong hai cách, hoặc theo cách con vẫn quen làm trên hành tinh tự nhiên, hoặc theo cách sa nhân muốn con phán xét nỗ lực của con. Con phải nhận thức con đã quen phán xét nó như thế nào trên hành tinh tự nhiên, cũng như sa nhân muốn con phán xét nó như thế nào ở đây, và con vứt bỏ cả hai cách. Con khẳng định là cả hai không hiệu lực trên một hành tinh như trái đất.

7.6. Phán xét nỗ lực sáng tạo của mình trên trái đất

Sứ giả này đã lớn lên trong một môi trường quen sử dụng súng ống, cho nên thày đã cho ông hình ảnh này mà thày sẽ dùng ở đây. Có hai loại súng thông thường được người ta dùng để săn bắn trên trái đất. Một loại gọi là súng trường, loại kia gọi là shotgun. Súng trường bắn ra một viên đạn, còn súng shotgun bắn ra cả chùm đạn nhỏ hơn. Hẳn các con đã thấy những mục tiêu ở trường bắn – mục tiêu làm bằng giấy có những vòng tròn đồng tâm và ở giữa là vòng tròn số 10. Khi con nhắm mục tiêu bằng súng trường, con có thể đặt viên đạn ngay vòng số 10 vì đó là viên đạn độc nhất và đường đạn tương đối chính xác. Bây giờ con tưởng tượng con đứng trước mục tiêu với khẩu shotgun và người ta bảo con đặt một hạt nhỏ tí ngay điểm số 10 y như con vừa làm với súng trường, chuyện này có thể làm được không?

Có thể chứ, nhưng con sẽ không có cách chi đoán trước được kết quả của phát bắn, vì con bắn ra một chùm đạn nhỏ với đường đạn không rập khuôn và không chính xác lắm, ít ra là một đường đạn con không thể tính trước được. Trong số mấy trăm hạt nhỏ đó có thể có một hạt sẽ trúng số 10, nhưng cũng có thể không có hạt nào. Con có thể bắn một trăm lần mà vẫn không có hạt nào trúng số 10. Con không thể làm gì khác được. Vấn đề không ở chỗ con sẽ nhắm nòng súng cho chính xác hơn, mà vấn đề là thực tế vật lý của súng shotgun.

Ý thày muốn nói ở đây là sa nhân bảo con: “Bạn phải bắn trúng số 10 mỗi lần như một,” nhưng súng của con là một khẩu shotgun. Thật chẳng nghĩa lý gì mà con phải phán xét nỗ lực của mình như thể con có một cây súng trường, bởi vì con không thể chắc chắn là con sẽ bắn trúng số 10. Nếu chuyện này xảy ra thì nó hoàn toàn ngẫu nhiên, chúng ta có thể nói như vậy, vì chắc chắn đây không phải là chuyện khoa học chính xác. Con yêu dấu, sa nhân đòi hỏi con phải làm chuyện bất khả thi, thế nhưng chúng phán xét con như thể cái bất khả thi đó là khả thi. Điều này không thực tế, giản dị là nó không thực tế. Con không thể xét mình là bất toàn do con đã không làm nổi một chuyện không thể làm – đó là điều vô lý. Ấy thế nhưng con đã bị lập trình hết kiếp này đến kiếp khác để con tự đánh giá mình theo kiểu đó.

Đây là một lập trình rất sâu đậm, nó vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Con yêu dấu, con đã có các dụng cụ rồi đó và con sẵn sàng nâng mình lên khỏi tâm thức đó. Đối với một số các con, đây chỉ là vấn đề xoay chuyển tâm con. Đối với một số khác, nó sẽ đòi hỏi một chút nỗ lực vì con mang những cái ngã tách biệt mà con cần nhìn thấy, con cần thấy chúng như chúng là, và để cho chúng chết đi. Một lần nữa, con đã có các dụng cụ rồi, và điều con nhận ra là khi con buông các ngã đó ra, khi con thoát ra khỏi ý tưởng là mình phải có thể làm chuyện bất khả thi – ý tưởng là nếu mình không làm được chuyện bất khả thi thì mình bất toàn – thì con có thể tìm ra một cách hoàn toàn mới để an bình trên trái đất, một cách hoàn toàn mới để là người sáng tạo và nỗ lực sáng tạo. Con có thể gửi ra một xung lực mà không bị nản lòng bởi những gì quay trở lại, vì con biết xung lực của con đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao tâm thức tập thể, cho dù những gì quay trở lại không hoàn toàn đúng như con đã gửi ra.

7.7. Trở nên ngày càng sáng tạo hơn

Con yêu dấu, khi con nâng cao tâm thức của con, lý tưởng là con nên ngày càng sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là con phải trở thành một nghệ sĩ, một nhạc sĩ hay bất cứ gì khác. Con có thể trở nên ngày càng sáng tạo hơn khi con khởi lên những ý tưởng mới, những cách làm tốt hơn. Thậm chí con trở nên sáng tạo hơn theo nghĩa là con thiện nghệ hơn trong việc biểu hiện cuộc sống thường nhật mà con thực muốn. Đây không luôn luôn là chuyện biểu hiện một cái gì giống như một tác phẩm nghệ thuật chẳng hạn, mà con xem đời sống thường nhật là một hình thức nghệ thuật khi con biểu hiện cách sống mà con muốn có. Đây cũng là một hình thức sáng tạo.

Con yêu dấu, con nhìn xem bao nhiêu nghệ sĩ, bao nhiêu nhà văn, vân vân… và con thấy một số đã rất lập dị, thậm chí còn hơi ngông cuồng nữa. Nhiều người vô cùng bất mãn với chính tác phẩm của họ, họ chưa bao giờ cảm thấy những gì họ tạo ra là đủ tốt, họ chưa bao giờ vẽ được nàng Mona Lisa với nụ cười đúng y như họ muốn nàng phải có. Thực tế ở đây là hầu hết các nghệ sĩ vĩ đại nhất, danh tiếng nhất, mặc dù họ có thể được quần chúng ái mộ nhưng chính họ lại không toại nguyện với nỗ lực của họ, và lý do thật giản dị. Con nhìn vào Mona Lisa và con nhìn vào bức tranh. Con không thể thấy được viễn quan mà Leonardo da Vinci đã có trong tâm khi ông vẽ bức tranh. Con không thể thấy được là những gì ông vẽ xuống tấm vải không đúng như những gì ông mường tượng trong tâm và do đó ông không hài lòng với nó. Điều tương tự cũng xảy ra với hầu hết mọi nghệ sĩ khác.

Tác phẩm không đúng hoàn toàn như những gì họ muốn. Một lần nữa, trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không thực tế và không xây dựng mà chờ đợi là con có thể thị hiện trong vật lý đúng như những gì con hình dung trong tâm. Đơn giản là nó không thực tế. Khi con chấp nhận sự thể này, con có thể bắt đầu làm hòa với sự kiện là mặc dù con không biểu hiện đúng như con hình dung, nhưng con vẫn đang giúp cho thế giới tốt đẹp hơn vì con đang gửi ra những xung lực năng lượng nâng cao tâm thức tập thể.

Con có thể đi xa hơn và đơn giản nhận ra là con không ở đây để đưa ra một tác phẩm toàn hảo nào đó. Con ở đây để đưa ra một cái gì cao hơn những gì hầu hết mọi người có thể hình dung. Không quá cao đến độ họ không thể nối kết, nhưng con chứng tỏ là có một cách tốt hơn, có một hình thức sáng tạo cao hơn. Không có toàn hảo nào mà con cần với tới, con yêu dấu. Như các thày đã nói rất nhiều lần, nếu con đạt được tầng tâm thức thứ 96 thì con đã tự nâng mình lên cao hơn hẳn tâm thức tập thể rồi. Thật chẳng ích gì mà con phải tự mắng nhiếc vì mình chưa đến được tầng 144.

Dù con có đang ở tầng nào thì cũng hoàn toàn chấp nhận được. Các thày chấp nhận con như con người con là, ở tầng tâm thức đó. Các thày không đòi hỏi con phải ở tầng 144. Các thày chỉ nhìn xem làm cách nào đưa con lên tầng kế tiếp. Một khi con hiểu điều này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình với việc mình ở nơi mình đang đứng. Do đó con cũng có thể an bình với việc mình ở trên địa cầu nơi các nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ tạo được đúng kết quả con hình dung. Thay vì tự trách móc, con chỉ chấp nhận mọi chuyện là như vậy.

7.8. Cách tiếp cận lượng tử đối với sự sáng tạo

Chúng ta thử trở về với ngụ ngôn về súng trường và súng shotgun. Có thể con không bắn trúng số 10 với súng shotgun nhưng chắc chắn con có thể bắn trúng mục tiêu nói chung, và điều này cũng giống vậy trên trái đất. Con cần cảm thấy thỏa mãn nếu con bắn trúng mục tiêu chứ không nhất thiết phải trúng hồng tâm ở chính giữa. Con có thể đi xa hơn một chút và nhìn vào những gì các nhà khoa học đã khám phá về thế giới lượng tử, thế giới của các hạt hạ nguyên tử. Họ phát hiện ra electron là một hiện tượng kỳ lạ. Họ phát hiện ra sự hiện hữu của một điều họ gọi là “vấn đề đo đạc lượng tử.” Con có thể đo vị trí của một electron nhưng khi đó, nếu con biết vị trí này thật chính xác, con sẽ hoàn toàn không biết gì về vận tốc của nó, động lượng của nó. Và ngược lại, con có thể dùng một phương pháp khác để đo động lượng, nhưng nếu vậy thì con không biết gì về vị trí của nó. Con không thể biết mọi chuyện cùng một lúc. Có nghĩa là con không thể tiên đoán chính xác electron sẽ ở đâu trong tương lai.

Điều này, một lần nữa, ngược lại với hình ảnh cố hữu về một vũ trụ tựa như cỗ máy đồng hồ, theo đó nếu con biết các điều kiện sơ khởi thì con có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Trong gần một thế kỷ qua, các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là việc tiên đoán như vậy không thể xảy ra trong thế giới lượng tử. Và ngay cả trong thế giới vĩ mô, điều này cũng không thể làm được. Các nhà khoa học đã tưởng điều này có thể làm được chỉ vì họ nghĩ là họ chỉ cần xem đến một số rất ít điều kiện. Kỳ thực, có rất nhiều điều kiện hơn là khoa học thời Newton biết đến, và do đó có những ẩn số mà họ đã không thể xem xét. Ngay cả ở mức vĩ mô họ cũng không thể tiên đoán được, nhưng với vật lý lượng tử thì các nhà khoa học đã chứng minh là việc tiên đoán chính xác không thể xảy ra. Điều con có thể làm là con có thể đo đạc một số lớn electron, rồi sau đó suy ra một giá trị trung bình để nhờ vậy con tiên đoán xác suất một electron đơn lẻ có thể ở vị trí nào ở một thời điểm nào đó. Con có thể tiên đoán một xác suất chứ không phải một kết quả chính xác. Điều này cũng có thể áp dụng cho các nỗ lực sáng tạo của con. Con có thể lập ra một hình ảnh về cái con muốn biểu hiện, con có thể gửi nó ra ngoài, nhưng con không thể tuyệt đối chắc chắn là nó sẽ thị hiện đúng y như vậy. Chỉ có một xác suất mà thôi.

Như vậy có nghĩa là con không thể bảo hình ảnh phải thị hiện chính xác. Con cần thực tế và nói: “Chắc chắn cái tôi gửi ra sẽ bị nhiễu sóng, cho nên cái quay trở về sẽ phần nào bị sự giao thoa làm cho méo mó đi, và nó sẽ không hoàn toàn đúng như cái tôi đã hình dung.” Rồi con cần đạt tới điểm nhận ra là con đã gửi ra viễn quan cao nhất mà con có thể vào thời điểm đó. Con đã phóng nó ra với mãnh lực tối đa mà con có thể trong trạng thái tâm thức của con lúc đó. Cái quay trở về đơn giản là cái cao nhất mà con có thể sản xuất trong những điều kiện vốn có là chính trạng thái tâm thức của con lẫn trạng thái tâm thức tập thể. Trong những điều kiện con phải làm việc, đó là thành quả tốt nhất có thể. Con không cần phải đánh giá là nó không toàn hảo hay tồi tệ vì nó không đúng hẳn như con hình dung. Vậy điều con có thể làm là nói: “Thôi được, có sự khác biệt giữa những gì tôi gửi ra và nhận trở lại, làm thế nào tôi có thể giảm thiểu sự khác biệt đây? Làm thế nào tôi cho nó bớt đi?”

Con có thể làm vậy bằng cách nâng cao tâm thức của con, loại bỏ một số ngã đó đã có thể khiến con có một viễn quan bất toàn hay thấp hơn khả năng của con, hay chúng đã có thể khiến con không dùng đủ uy lực khi con phóng chiếu nó ra. Con có thể thanh lọc bốn thể phàm để sự nhiễu sóng càng ít càng tốt trong các thể của chính con. Lẽ tự nhiên, những gì có mặt trong các thể cao của con sẽ giao thoa với viễn quan con gửi ra, ngay cả với khả năng hình thành viễn quan của con. Đấy là điều con có thể làm, và sẽ thật chính đáng nếu con nói: “Đã có sự khác biệt giữa cái tôi hình dung và cái tôi thị hiện. Tôi cần làm việc trên bản thân tôi và tâm thức của tôi.” Điều này không có nghĩa là con bất mãn với chính con. Con yêu dấu, cho dù con có đạt đến tầng tâm thức 144 thì trên địa cầu con vẫn không thể thị hiện đúng y như con hình dung. Tại sao vậy? Là vì như thày đã nói, trên trái đất con không có một quả cầu cá nhân nơi tâm con là tâm duy nhất tác động lên một phần cụ thể của Ánh sáng Mẫu-Vật và nhờ vậy nội dung trong tâm là hình tướng chính xác mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Ở đây con làm việc trong một không gian chung. Con phải chấp nhận là con đang ở trên một hành tinh với vật chất dày đặc và một tâm thức tập thể cũng dày đặc.   

7.9. Hãy bằng lòng với việc nâng cao tâm thức

Con phải cho phép những thứ đó can thiệp vào viễn quan của con vì một phần mục đích con sống và sáng tạo ở đây là để nâng cao tập thể. Con làm vậy bằng cách gửi ra một viễn quan cao nhất có thể và cho phép nó giao thoa, tương tác với tập thể. Có lẽ con chỉ thấy được là tập thể đang kéo thấp viễn quan con xuống, nhưng sự thật là viễn quan con cũng kéo tập thể đi lên. Đây chính là một phần ý nghĩa của việc đồng sáng tạo trên một hành tinh phi tự nhiên. Khi đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, con có quả cầu riêng của con, con có thể thị hiện đúng y như trong tâm con. Nhưng đây không phải là sự thể trên một hành tinh phi tự nhiên. Con không có quả cầu riêng của mình, cho nên con không thị hiện đúng được như con hình dung. Dẫu sao thì khi con kinh qua tiến trình này, tiến trình sáng tạo này, con cũng giúp nâng cao tâm thức tập thể.

Sứ giả này trong những năm đầu làm sứ giả đã cảm thấy phần nào bất mãn vì sách của ông đã không trở thành sách bán chạy nhất – hay đúng hơn không phải là sách của ông vì ông không xem là sách của mình mà là sách của các chân sư. Ông nghĩ: “Tại sao mọi người không chịu đọc lời dạy của các chân sư thăng thiên?” Và ông đã học cách nhận ra đây chỉ đơn giản là một viễn quan không thực tế. Thật không thực tế mà chờ đợi mọi người trên trái đất sẵn sàng nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, vậy tại sao con lại chờ đợi là một quyển sách của chân sư thăng thiên sẽ đứng đầu trên danh sách bán chạy?

Sách bán chạy là sách phù hợp với mức tâm thức của mọi người, bởi vì nếu không, họ sẽ không thể thấy được trong sách có gì, thậm chí không thể nhìn nhận điều này. Ông đã học được là ông không thể đánh giá nỗ lực sứ giả của mình dựa trên sự kiện sách bán chạy hay không. Ông chỉ đơn giản bằng lòng với sự kiện sách đã có mặt trong bát cung vật lý, nơi người ta có thể tìm đọc ngay bây giờ hay mai hậu trong những thập niên tới. Đây không phải là vấn đề có bao nhiêu người, vì sự thành công của con như một người đồng sáng tạo trong bát cung vật lý không tùy thuộc vào sự công nhận của 80% quần chúng. Thày tin rằng con cũng thấy là nó không tùy thuộc vào sự công nhận của lớp 10% thấp nhất, đặc biệt là của sa nhân. Như một người đồng sáng tạo với một nhận thức tâm linh nào đó, con sẽ không bao giờ, không bao giờ có được sự công nhận từ sa nhân. Chuyện này giản dị sẽ không xảy ra, con yêu dấu. Con sẽ không bao giờ có sự công nhận đó được, cho nên việc chờ đợi chỉ là một kỳ vọng không thực tế. Con phải buông nó ra.

7.10. Nhìn nhận là con không thể làm hài lòng một số người

Con phải đạt tới điểm nhìn nhận là trên hành tinh này có những người con không thể làm hài lòng. Một số các con có thể có người thân thiết trong gia đình thuộc loại này. Vấn đề không nhất thiết là bảo họ là sa nhân, mà vấn đề là nhìn nhận: “Tôi sẽ không bao giờ làm hài lòng được người đó. Vậy tại sao tôi lại bận tâm? Tại sao tôi không chuyển quan tâm sang những người tôi có thể quan hệ tích cực? Tại sao tôi phải ở gần những người hay chỉ trích, tiêu cực hoặc luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn? Tôi có quyền chuyển sang những ai tôi cảm thấy đồng điệu thay vì những kẻ bị phiền hà bởi rung động của tôi và muốn bài bác tôi.” Khi con ngừng phán xét bản thân theo tiêu chuẩn của sa nhân hay quan điểm của người khác – là những người có thể bị ảnh hưởng bởi tiêu chuẩn của sa nhân – thì con có thể bắt đầu cảm thấy là mình thực sự có thể sáng tạo trên địa cầu.

Con có thể an bình sáng tạo cho dù nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ biểu hiện được những gì con có thể hình dung. Con cần nhìn nhận ở đây là khi con là một avatar hay một đệ tử tâm linh tiên tiến – kể cả khi con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu – con có khả năng hình dung một điều gì đó vượt xa những gì một người trung bình có thể hình dung, vượt xa những gì có mặt trong tâm thức tập thể. Lẽ tự nhiên khi con gửi ra xung lực này vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, nó sẽ gặp nhiễu sóng từ tâm thức tập thể vì nó gặp phải rất nhiều năng lượng thấp. Nhưng đây không phải là một thảm họa. Không phải là lỗi con nếu nó không thể hiện đúng như con đã hình dung. Con cần nhận ra là nó vẫn đem lại tác dụng tích cực, cho nên nỗ lực sáng tạo của con vẫn đáng công sức.

7.11. Một động lực cao hơn khi sáng tạo

Tất nhiên khi con nhận ra điều này, khi con xoay chuyển như vậy, con đạt tới điểm con không còn sáng tạo bởi vì con muốn: (1) biểu hiện một kết quả đặc thù nào đó, và (2) được người khác công nhận và chứng thực.

Những thứ đó không còn thôi thúc con nữa. Tiền bạc không còn thôi thúc con. Cái thôi thúc con là điều thày đã đề cập trong một bài giảng trước và cũng là mục đích thực sự của con khi con đến địa cầu, đó là con trải nghiệm chính mình ở đây. Con có thể tới điểm làm người sáng tạo mà phần thưởng cho sự sáng tạo của con không phải là những gì được thị hiện trong vật lý, không phải là sự công nhận, không phải là tiền bạc, mà là kinh nghiệm biết rằng con đã cố gắng trong môi trường đặc thù này. Con đã cố gắng – con đã thị hiện một cái gì cao hơn những gì có trước đó.

Phần thưởng của con chỉ đơn giản là thu hoạch kinh nghiệm này. Con có thể đạt tới điểm, cho dù con đang hiện thân trong vật lý, là con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Khi con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ đang trải nghiệm các nỗ lực sáng tạo của con như thế nào, đây là hình thức khen thưởng cao nhất cho nỗ lực của con. Tự thân nỗ lực này trở thành phần thưởng cho chính nó. Nó trở thành một tiến trình tự củng cố mà qua đó con sẽ không ngừng với lên cao hơn, không phải từ một cảm nhận thiếu thốn mà từ cảm nhận là con biết mình có khả năng hoàn thành một điều gì đó. Biết được những gì mình đã hoàn thành đem lại cho con cái biết là con có thể hoàn thành nhiều hơn. Con không bất mãn, con không luôn cảm thấy nó không đủ tốt, mà con cảm thấy những gì con đã tạo ra thực sự tốt đủ.

Vì con đã tạo ra cái đó, giờ đây con thấy là con có thể tạo ra cái gì cao hơn nữa, và con có thể cứ tiếp tục làm vậy. Không từ một cảm nhận thiếu hụt mà từ một cảm nhận dồi dào, một cảm nhận là con đầy ắp. Con đầy ắp. Con không có “lỗ hổng” nào trong bản thân mà con tìm cách lấp đầy. Niềm vui bây giờ là cảm thấy ly nước đang tràn ra ngoài. Đây là cảm nhận liên tục là cái chén của dòng chảy sáng tạo của con đang tràn ra ngoài và được gửi vào môi trường của con. Chính cái đó cho con niềm vui, niềm toại nguyện và sự tràn trề đến độ nó tràn cả ra ngoài. Cái đó, thày mong muốn con có được, con yêu dấu, và thày hy vọng một số các con sẽ dùng những lời dạy này để đạt được. Vì đó cũng chính là điều con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là tiềm năng cao nhất của con trong kiếp sống này mà con đã muốn chứng được.

11 | Lên tiếng từ một tâm thái an bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su, và ở đây thày muốn đưa ra một số nhận xét về một chủ đề có thể gây bối rối. Thày hiểu hoàn toàn là chủ đề này gây bối rối cho một số các con. Đó là chủ đề quả vị Ki-tô, làm thế nào con thực thi quả vị Ki-tô của con khi lên tiếng trên trái đất. Nếu con ở trong tư duy đường thẳng, con có thể nói là các lời dạy mới nhất mà các thày trao truyền – trong năm qua hay lâu hơn một chút – mâu thuẫn với giáo lý các thày đã trao truyền trước đây. Các thày đã nói là một phần của quả vị Ki-tô của con là lên tiếng, và bây giờ có vẻ như các thày lại bảo rằng con không nên lên tiếng và thay vào đó con nên làm việc trên các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt của con và khắc phục chúng.

Con yêu dấu, chìa khóa để giải quyết điều có vẻ bí ẩn như vậy là nhận ra con đường tâm linh có một số giai đoạn. Có một số tầng khai ngộ mà con kinh qua trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Các thày đã trao con một khóa học về tự điều ngự, và khoá học này được thiết kế để đưa con người từ tầng tâm thức thứ 48 lên tầng 96. Tầng 96 là điểm con bắt đầu thực thi quả vị Ki-tô, nhưng hiển nhiên, có một khoảng cách giữa tầng 96 với tầng 144. Con có thể thấy là tất nhiên, những gì con đạt được hay có khả năng đạt được ở tầng 96 chưa phải là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa cho đến tầng 144, con có khả năng thể hiện và biểu lộ – nếu có thể gọi như vậy – những trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô.

11.1. Khía cạnh trải nghiệm của quả vị Ki-tô

Điều này có nghĩa là khi các thày đưa ra một giáo lý áp dụng cho đệ tử ở tầng 96 hay khoảng đó, dĩ nhiên đây không phải là cùng giáo lý các thày sẽ đưa ra cho những ai ở các tầng cao hơn. Chẳng hạn như khi thày đưa ra khóa học về quả vị Ki-tô [Chìa khóa Chỉ đạo cho quả vị Ki-tô Cá nhân] cùng nhiều giáo lý lúc ban đầu trong đợt truyền pháp này, thì giáo lý đã được đưa ra cho tầng tâm thức khởi sự. Những gì các thày trao truyền bây giờ nhắm đến các tầng quả vị Ki-tô cao hơn, qua đó con cần nhìn nhận là trên đường tu tâm linh có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần một sự tương tác giữa một đằng là việc tiếp nhận giáo lý cùng sự hiểu biết, và đằng khác là việc thực hành, biểu đạt các giáo lý này và thu hoạch trải nghiệm. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm nào đó qua sự kiện con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Trong những giai đoạn sơ khởi của đợt truyền pháp này, điều mà thày cùng các chân sư khác đã bảo học trò làm là hãy đi ra ngoài và lên tiếng với tầm hiểu biết và nhận biết mà mình có lúc đó. Nhưng tất nhiên, các thày cũng dư biết là học trò sẽ bước ra với một khối lượng ngã tách biệt nào đó và sẽ cảm thấy một sự cưỡng bách phải lên tiếng. Các thày biết là một số đã rất bất đắc dĩ lên tiếng vì những ngã tách biệt mà họ đã vun trồng trong tiền kiếp bảo họ là chuyện lên tiếng thật nguy hiểm, thật không an toàn, và họ không nên lên tiếng gì hết.

Các thày biết là một số người khác lại có tham vọng lên tiếng, hoặc vì họ muốn làm việc gì quan trọng, hoặc họ muốn được các chân sư thăng thiên công nhận, được người khác hay thế giới công nhận, hay đủ loại động cơ khác mà con người có thể có. Các thày cũng biết mình cần phải trao giáo lý cho con người rồi để yên cho mọi người muốn dùng thế nào cũng được, vì cho dù họ có lên tiếng hay không, họ vẫn có được một số trải nghiệm sẽ giúp họ tiến bộ tới mức họ sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

Và đó là điều đã xảy ra. Đã có đủ số người vươn lên tới mức họ sẵn sàng nhận được giáo lý cao hơn mà các thày đang ban ra bây giờ. Chúng ta có thể nói là một khối tới hạn (critical mass) trong số các con đã vươn đến mức này, nhưng thày cũng ưa nói là một khối người không phán xét (uncritical mass) trong số các con đã vươn đến mức này vì các con đã vươn lên bằng cách khắc phục thái độ phán xét mà qua đó con cảm thấy phải chỉ trích, phải xét đoán, phải đánh giá mọi chuyện. Đây chính là điểm đặc trưng cho các tầng quả vị Ki-tô cao hơn.

11.2. Quả vị Ki-tô không là một tiến trình đường thẳng

Ở các tầng quả vị Ki-tô thấp hơn, con bắt đầu nhận biết là theo cách nhìn của con ở tầng này, có nhiều sự việc không phải lẽ trên trái đất. Chúng không phù hợp với tầm nhìn cao hơn, chúng không phù hợp với cách mọi chuyện nên diễn ra và chúng cần được thay đổi. Như các thày đã có nói về các avatar đến hành tinh này với cảm nhận mình phải thay đổi nhiều thứ trên trái đất, thì trong những giai đoạn sơ khởi của quả vị Ki-tô con thường bước ra với thái độ là con phải thay đổi một điều gì đó. Con phải khiến cho mọi người nhìn thấy những gì họ chưa thấy, con phải đem lại một sự khác biệt và tạo sự thay đổi.

Đây chính xác là thái độ nhiều avatar đã có khi đến trái đất. Kỳ thực con cần trải nghiệm này trong kiếp sống này để gắn kết lại với động lượng đó. Có những avatar khác đến trái đất mà không lên tiếng, họ không muốn lên tiếng và họ quyết định là họ không muốn lên tiếng trên hành tinh này. Một số những người này đã không bước ra lên tiếng, nhưng điều này vẫn cho họ trải nghiệm nhận được giáo lý và làm gì với giáo lý.

Tuyệt đối không có gì sai trái khi con làm vậy. Như các thày đã nói rất nhiều lần, con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó và con có quyền tự biểu đạt dựa theo tầng tâm thức này – không có gì sai trái và các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Như Nada đã giải thích cặn kẽ trong sách của thày, các thày chấp nhận con cho dù con có ở tầng tâm thức nào và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp được con thăng lên tầng kế tiếp.

Đương nhiên điều này không có nghĩa là các thày muốn con ở lại tầng thấp của quả vị Ki-tô cho đến mãn kiếp. Các thày muốn con có một trải nghiệm nào đó về các tầng thấp, thế rồi phối hợp với những lời dạy các thày đang cho con, các thày muốn giúp con vươn lên những tầng quả vị Ki-tô ngày càng cao hơn. Rồi sẽ tới điểm con đạt đến tầng quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì mình đã làm trước đó. Thày biết là một số người sẽ rơi vào một tư duy đường thẳng vì họ muốn nghĩ là nếu họ đã nhận được một giáo lý chân truyền từ một chân sư thăng thiên về quả vị Ki-tô, thì giáo lý này là tuyệt đối, do đó tất cả những gì họ cần làm là cứ việc đi theo cho đến hết kiếp này.

Thày biết có những người muốn nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là họ không nắm bắt được ý nghĩa của quả vị Ki-tô trong tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ, và do đó thày không thể cung ứng cho họ. Các thày là chân sư thăng thiên có thể ban một số lời dạy cho những người mang tư duy này, nhưng nếu họ không lưu ý đến lời dạy, nếu họ không xoay chuyển thái độ của họ, thì theo quy luật – thậm chí cả Luật Tự quyết – các thày phải để yên cho họ và không tìm cách bắt họ nhìn ra những gì họ không muốn nhìn thấy.

Vì vậy cho nên các thày sẽ tập trung nỗ lực vào những ai sẵn lòng nhìn ra là trên con đường quả vị Ki-tô sẽ đến lúc con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này của quả vị Ki-tô. Đây không phải là một chuyện con làm chỉ một lần. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Thật ra ở những tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

11.3. Đặc tính tuần tự của quả vị Ki-tô

Điều các thày nói với con bây giờ với các giáo lý về avatar, về việc khắc phục chấn thương nhập đời, khắc phục các ngã tách biệt, là ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được – điều cần thiết vì đây là một phần của đường tu – là con lên tiếng với mức nhận biết mà con có, với các ngã tách biệt mà con có lúc đó. Ngay cả nếu nó khiến con bước ra ngoài và cư xử một cách hơi mất cân bằng, có thể quá mạnh mẽ, có thể quá ngoan cố, có thể quá “lửa xanh” (như Chân sư MORE gọi như vậy), thì cách hành xử này của con vẫn chấp nhận được vì con không thể làm gì khác hơn. Chính nhờ con làm vậy mà con nhận được sự phản hồi, con nhận được một khung tham chiếu cho phép con nhìn ra là có lẽ mình phải điều chỉnh cách tiếp cận của mình.

Đó chính là điều sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.” Trong bản chất, như các thày đã có giảng, điều này cũng giống như trường hợp một đứa trẻ mới học đi xe đạp phải cần đến hai bánh xe nhỏ ở hai bên (bánh xe tập) để giúp nó giữ thăng bằng. Phải tới một điểm đứa trẻ đã học được cách giữ thăng bằng trên xe đạp thì nó có thể vứt bỏ hai bánh xe tập đi. Nếu con thấy một người lớn đi xe đạp mà vẫn gắn bánh xe tập thì con sẽ nghĩ người này vẫn chưa nắm được một điều gì đó.

Đường tu tâm linh cũng tương tự như vậy. Đó là vì sao các thày đã nói là con cần xem xét phương thức vận hành của con [modus operandi, xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Con cần xét xem con nhìn trái đất như thế nào: Đây có là một hành tinh thân thiện hay thù địch? Cơ thể này thân thiện hay thù địch? Thượng đế thân thiện hay thù địch? Các chân sư thăng thiên là những vị thày thân thiện hay thù địch? Con cần xem xét những điều đó. Con cần nhìn vào bản thân. Thậm chí con có thể nói: “Tôi có một cái nhìn thân thiện hay một cái nhìn thù địch về chính mình?” Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó tất nhiên nó cần được phép chết đi.

Điều thày muốn cho con ở đây về quả vị Ki-tô và việc lên tiếng là như sau: Việc khắc phục ngã gốc của con, khắc phục tất cả hay hầu hết các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình với việc mình ở trên trái đất – là mục đích của chúng ta trong hội nghị này – không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng. Nhưng có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả nào đó. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác.

Con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho người khác một khung tham chiếu mà họ không đang có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này. Con cho họ những gì trước đó họ không có. Con cho họ một nền tảng để họ chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì. Đây không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn. Đó là tại sao điều cốt yếu là con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con sẽ tốn một chút thời gian, các thày cũng biết vậy, nhưng điều quan trọng là con bắt tay vào việc để vươn lên tới mức con có thể phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình khi con lên tiếng.

11.4. Phát biểu từ sự an bình nội tâm

Khi con làm vậy, con sẽ hoàn thành hai chuyện: Con sẽ giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn đối với những gì con nói. Và con sẽ giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù người ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng. Con không bực tức, con không cảm thấy mình bị chối bỏ khi người ta không tiếp nhận những gì con nói. Kỳ thực con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra, con đã đem nó ra trước công chúng, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Con yêu dấu, một số các con có thể cần phải kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng nếu con đã lên tiếng, để con chỉ nói rất ít. Sứ giả này có mô tả ông cảm nhận như thế nào: ông không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Dù vậy ông vẫn lên tiếng về đủ loại đề tài, nhưng ông không lên tiếng vì ông có một quan điểm mà ông muốn người ta chứng thực. Đây là điểm con cũng có thể đạt tới, và ở đây thày khuyên con nên xem xét hai điều khi con lên tiếng.    

Một là con có thể chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận, cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con có thể chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng con, cái hiểu của riêng con, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Điều này hoàn toàn khác với việc con đi ra bảo người khác là họ phải nghĩ gì hay tin gì và tìm cách thuyết phục hay cải đạo họ. Con chỉ đơn giản chia sẻ tiến trình của con, và như các thày có nói nhiều lần con yêu dấu, cho dù sa nhân có nghĩ gì, cho dù người khác có nghĩ gì và họ không muốn con làm phiền họ như thế nào, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con vẫn có quyền biểu đạt bản thân con cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ mà con đã có và quá trình mà con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phải phản ứng lại. Con có thể cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng. Đồng thời nó cũng không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người khác chứng thực hay đồng ý với con. Cách họ phản ứng lại những gì con nói thật không quan trọng gì với con. Đây là một khía cạnh của việc lên tiếng. Con hãy chia sẻ bản thân con, chia sẻ sáng ngộ của con, tiến trình của con. Hãy chia sẻ cái đó.

Còn cách kia để lên tiếng mà thày đề nghị với con là thay vì con trình bày điều gì là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ, con nói về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm hay một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con có thể làm vậy bằng nhiều cách. Chỉ lấy một ví dụ, hôm qua có một người hỏi sứ giả này về vấn đề người nhập cư vào châu Âu, và ông bày tỏ quan điểm đây là hậu quả của việc các nước giàu có ở Âu châu đã không làm đủ. Các nước này đã không sử dụng sự giàu có của mình để trợ giúp người dân châu Phi đạt được mức sống cao hơn ở ngay xứ họ. Cho nên thật sự các biến cố này đang ép buộc các nước giàu phải nhìn ra những gì họ không chịu nhìn thấy, để họ nhận lãnh trách nhiệm mà của cải của họ đã giao phó cho họ. Ông bày tỏ là thật ra tình thế đã bó buộc các nước giàu phải lấy một số chọn lựa. Hoặc họ có thể tiếp tục cho phép người di dân nhập cư với tất cả các hậu quả gây ra cho xã hội họ – họ sẽ làm gì đây với quá nhiều người như vậy? Liệu họ sẽ giam giữ hết trong “trại tập trung” hay họ sẽ tìm cách hội nhập, nhưng làm thế nào hội nhập quá nhiều người như vậy đến từ một nền văn hóa khác lạ? Rõ ràng là hầu hết các nước này sẽ hiểu ra là nếu họ cứ tiếp tục cho phép người di dân vào nước thì họ sẽ khiến cho các hệ thống hiện hữu của họ bị quá tải.

Hoặc vấn đề này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn hẳn, hoặc có một chọn lựa khác là họ phải tìm cách chặn đứng làn sóng di dân, và ở đây lại có hai chọn lựa. Họ có thể dùng lực lượng hải quân đem tàu vào Địa trung hải đánh chìm bất cứ thuyền bè nào chở người di dân từ Phi châu. Đây là một cách chặn đứng làn sóng, nhưng tất nhiên nó không phù hợp với cách nhìn của hầu hết các nước Âu châu về chính mình. Nếu đây không là một biện pháp khả thi thì đâu là chọn lựa duy nhất còn lại? Đó là xây dựng một cách giải quyết hoàn toàn mới mẻ, là đi đến các nước Phi châu và cải thiện mức sống ở ngay đó hầu người dân không còn muốn bỏ nước ra đi. Không phải là những ai sinh ra ở châu Phi đều có một mong muốn tối thượng và vô độ muốn di dân sang châu Âu. Hầu hết đều thích ở lại châu Phi hơn do họ đã quen với khí hậu nóng ấm, và họ thật không muốn đến sống ở những nước như Đan Mạch chẳng hạn nơi mùa đông thật ảm đạm lạnh lẽo. Họ thà ở lại xứ họ nếu họ có thể có được một mức sống tạm đủ. Đây chính là điều sẽ đòi hỏi các nước Âu châu, ngay cả Liên Âu, có một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và dành ra nguồn lực để thực hiện, thay vì như hiện nay chỉ có một chương trình viện trợ nước ngoài mang tính chất vá víu mà chẳng giải quyết được vấn đề.

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách con có thể trình bày một vấn đề mà không bảo người khác đúng hay sai, không bảo người khác phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả. Đâu là hậu quả của sự việc đang xảy ra? Vì hẳn là ở đây có một tình trạng đang diễn ra. Chúng ta không thể búng ngón tay để làm cho nó biến mất, cho nên chúng ta sẽ đối phó như thế nào? Chúng ta tự nhìn mình như thế nào, và điều này có nghĩa thế nào đối với những chọn lựa mà chúng ta có thể chọn trong thực tế?

11.5. Ki-tô không có quan điểm cố định

Con có thể chuyển cách thức vừa rồi sang nhiều lãnh vực khác của xã hội bởi vì, con yêu dấu, con không nhất thiết – như một sinh thể Ki-tô – phải có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong tình thế này. Cái nhìn bao quát của con như một sinh thể Ki-tô ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô là con muốn mọi người – mọi người can hệ đến tình trạng này, ngay cả một xã hội hay một dân tộc hay Liên Âu hay Hoa Kỳ hay ai khác nữa – trở nên ý thức hơn để họ có thể có những chọn lựa nhận biết hơn. Và đó là mục đích của con: nâng cao sự nhận biết, chứ không cứ là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên. Cho nên con sẽ hòa nhập một cách tự nhiên vào mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức, chứ không phải tạo ra một kết quả đặc thù như Saint Germain đã nói mấy lần.

Đó là một số gợi ý rất sáng giá cho một số các con đang ở tầng mức này. Thày hoàn toàn nhận ra đây cũng là một thử thách cho con, vì để bước ra ngoài và lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, nó đòi hỏi con phải chữa lành chấn thương nhập đời của con. Nó đòi hỏi con phải khắc phục các ngã tách biệt đó đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác. Như các thày đã nói mấy lần, con cần khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Một lần nữa con yêu dấu, tại sao các thày đã không cho con những lời dạy này mười năm về trước? Bởi vì vào lúc đó, các thày chưa cho con các dụng cụ để con có thể thực hành lời dạy. Giờ đây các thày đã cho con các dụng cụ và đó là tại sao các thày cũng cho con lời dạy. Một lần nữa, các thày đã phải làm việc một cách tuần tự. Các thày làm vậy vì nhiều lý do và như các thày có giảng, các thày rất vui mừng có được một số lượng không phán xét trong các con đã vươn lên đến mức sẵn lòng tiếp nhận lời dạy, suy ngẫm lời dạy, học sách, áp dụng các kỹ thuật và thực sự bỏ ra nỗ lực mà nhiều các con đã bỏ ra để chữa lành chấn thương nhập đời đó.

Hãy đừng nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Đừng bị nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt khởi lên trong con. Sứ giả này đã làm việc trên tâm lý mình nhiều hơn hầu hết mọi người suốt 40 năm trời và ông đã khắc phục được chấn thương nhập đời của ông, nhưng ông vẫn có ngã tách biệt khởi lên. Lẽ tự nhiên nếu con đã sống nhiều, rất nhiều kiếp trên trái đất này, đã có rất nhiều trải nghiệm khó khăn trong nhiều kiếp, thì con đã tạo ra nhiều ngã tách biệt và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết. Vậy có sao đâu, con yêu dấu?

11.6. Con được phép không lên tiếng

Điều thày sẽ làm bây giờ với bài truyền đọc này là thày cho phép con bỏ qua một bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Thày cho phép con, nếu con muốn, bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Thày làm điều này vì thày muốn con có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp mà một số các con đã xây dựng, qua đó con đã phần nào xung đột hay ít ra có mối quan hệ đối nghịch với nhiều người khác. Con yêu dấu, thật không cần thiết con phải đi ra khích bác mọi người để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Nếu con nhìn quanh thế giới, con có thể thấy rất nhiều người ở ngoài kia đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn – rất nhiều người như vậy.

Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện và mong đợi là kết quả sẽ khác đi thì con điên rồi đó. Đã có rất nhiều người lên tiếng kiểu này từ rất lâu nay. Chúng ta cần khác hơn. Chúng ta cần một tiếng nói khác. Chúng ta cần những người có khả năng phát biểu một cách khác, như thày vừa vạch ra, bằng cách chia sẻ chính bản thân của mình và trình bày các hậu quả. Nhưng vượt khỏi cả những thứ đó, chúng ta cần những cách lên tiếng khác, chẳng hạn khi con trình bày về một tầm nhìn cao hơn. Thay vì tạo ra cảm tưởng: “Đây là sự thật duy nhất, đây là những gì bạn phải tin, nếu không thì bạn ngu lắm,” thì con có thể nói: “Nhưng giả sử có một cách khác để nhìn sự việc này thì sao? Nếu như có một góc cạnh khác về vấn đề này thì sao? Thế còn điều kia, và thêm điều kia, và điều kia nữa thì sao?”

Đây có thể là một điều quá mới mẻ, quá khác lạ, quá hiếm khi áp dụng, đến độ người ta sẽ ngạc nhiên và bất chợt người ta sẽ nói: “Ừ nhỉ, đây là một điểm chúng ta chưa bao giờ nghe nói tới. Chúng ta lắng nghe xem.” Kỳ thực nó có thể đem vào hiện thực điều mà các thày đã có đề cập về nước Mỹ là các thày mong muốn thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, không những ở Mỹ mà ở mọi quốc gia. Chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, qua đó họ luôn luôn mang sẵn hậu ý muốn mô tả sự việc theo một cách mặc dù họ tuyên bố là họ khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Toàn bộ lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên này từng chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay, các thày mong muốn nhìn thấy nó được thay thế bởi một tiếng nói khác. Thẳng thắn mà nói, nếu chính các con không thể đưa ra tiếng nói khác biệt này thì ai đây sẽ có thể? Để lên tiếng với một tiếng nói khác, con phải khắc phục những ngã tách biệt kia, và các con đây là những người trên toàn hành tinh này đang đến gần nhất với mục tiêu đó. Thày không đang nói vậy để áp lực con mà để cho con một lượng định thực tế. Một số các con khi nghe hay đọc câu nói này của thày sẽ biết liền: “Phải, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Thật ra đây là điều tôi mong muốn. Tôi không bao giờ muốn lên tiếng theo cách tôi đã từng làm, cách này luôn luôn cho tôi một phản ứng tiêu cực. Tôi đã muốn tìm một tiếng nói khác để lên tiếng và giờ đây tôi bắt đầu nhìn ra. Chắc chắn tôi sẽ làm việc trên bản thân mình cho đến khi tôi tìm được tiếng nói nội tâm của tôi, tiếng nói đích thực của tôi. Và khi tôi tìm thấy, tôi sẽ lên tiếng. Tôi nhất định sẽ lên tiếng.”   

Với lời này, con yêu dấu, thày cảm ơn con đã dành sự chú ý, đã hiện diện ở đây hay trên làn sóng trực tuyến. Thày cảm ơn tất cả những ai đã đón nhận các lời dạy mới từ quyển sách Các kiếp của tôi trở đi và đã sẵn lòng đem ra áp dụng. Thày biết là nhiều người trong các con đã nghiệm thấy những tiến bộ to lớn. Một số các con còn bày tỏ là ngày hôm nay con không thể nào tin được mình đã đổi khác đến chừng nào so với một năm trước. Đây là niềm vui lớn nhất của các thày: nhìn thấy học trò của mình đón nhận giáo lý và sử dụng để vươn lên cao hơn, qua đó con cảm thấy mình có tiến bộ, mình có an bình. Sự kiện một số người đã ngộ đạt như vậy trong vòng một năm có nghĩa là tất cả các con cũng đều có thể làm được trong một thời gian vừa phải. Không có một người nào ở đây, không có một người nào đã đón nhận các lời dạy này mà không mang tiềm năng đạt được trạng thái an bình đó trong một thời gian tương đối ngắn – ngắn hơn rất, rất nhiều so với thời gian con đã bước chân trên đường tu tâm linh, ít ra đối với những ai đã bước chân được vài năm.

Lẽ tự nhiên, nếu con chỉ mới nhập cuộc vào tuần rồi thì sẽ không hẳn là như vậy. Dẫu sao thì con yêu dấu, các thày vô cùng phấn khích – nếu chúng ta có thể dùng từ này cho một chân sư thăng thiên không thể nào nản chí. Các thày rất vui mừng nhìn thấy tiến bộ mà tất cả các con đã có. Mặc dù một số các con có thể cảm thấy mình tiến bộ chưa đủ, nhưng thày có thể cam đoan với con là con đã có tiến bộ, và bước đột phá mà con đang tiến đến, nó gần hơn là con tưởng. Với lời này, con hãy nhận sự biết ơn của thày. Con hãy nhận Ngọn lửa Vui mừng của thày, vì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với các con theo cách này, được trải nghiệm các con, con yêu dấu. Trải nghiệm chính các con.

Đây là niềm vui lớn cho thày. Thày sẽ nói là tất nhiên con không nên nghĩ là khi thày phát biểu qua trung gian một người sứ giả, đây là thời điểm duy nhất thày có thể trải nghiệm con. Thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào nhưng thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nếu con lấy nội dung bài thỉnh này cùng với bài truyền đọc trước về cách vận hành của con – mong muốn trốn tránh các chân sư – thì tất nhiên là thày sẽ tôn trọng. Kỳ thực, một số các con có thể được trợ giúp bằng cách quyết định mời thày đến trải nghiệm con. Có thể con sẽ chỉ cần, một lúc nào đó khi con yên lặng, nhắm mắt lại, trụ vào tim và nói: “Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.” Có lẽ khi làm vậy, con sẽ có thể trải nghiệm được thày và thày nghĩ việc này sẽ làm con vui.

5 | Giành lại quyền được quên mà Thượng đế đã ban cho con

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày rất vui mừng trao cho con bài giảng tiếp nối bài năm ngoái về đề tài vô cùng sâu xa và quan trọng này, là chấn thương nhập đời và làm thế nào con khắc phục được chấn thương đó. Con có thể xem những gì Phật Gautama vừa giảng trong phần vấn đáp về thời gian và sự kiện là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy du hành thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ [Xem chương chót trong sách này]. Như Gautama vừa nói, quả thật Mẹ Mary đã cho con một cỗ máy vượt thời gian qua bài thực tập của thày về cách con có thể quay trở về trải nghiệm chấn thương nhập đời đó [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh].

Thày muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian nữa. Con thấy đó, con yêu dấu, điều sa nhân muốn con nghĩ là quá khứ đã được tạc vào đá và không thể thay đổi. Một khi con đã lầm lỗi trên trái đất, con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã đi thăm Vạn lý Trường thành ở Trung quốc hay Kim tự tháp ở Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hay bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá đồ sộ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó với hai bàn tay trần? Phải, con không thể, và tại sao như vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là chất xi-măng giữ đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy theo kích thước những viên đá. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như con có thể đập đá ra thành vụn nhỏ như cát? Và giả sử con có một cái máy phóng tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì chuyện gì sẽ xảy ra?

À, đây chính là quyền năng mà các thày đã trao cho con qua các bài chú, bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập vỡ tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số người đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao thì các thày không có ý định gửi học trò của mình đi vòng quanh thế giới đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều các thày quan tâm hơn nhiều là giúp con đập đổ những bức tường kiên cố trong chính tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân.

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như các thày đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm tan năng lượng, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như các thày cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải có một trải nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con được thực sự tự do. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

5.1. Ý thức được tiến trình thấy

Đây là điều thày muốn cống hiến cho con. Con cần khởi sự – mới đầu có thể từ từ – nhưng con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó có thể hình dung, tưởng tượng, và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết qua trí năng, rằng toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang chấn thương nhập đời này trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, đơn giản là nó đã bị thời gian tẩy xóa. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – do cái cọ vĩ đại của thời gian đã biến mọi sự thành cái đang là bây giờ. Như Gautama nói: Cái đang là bây giờ quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một hiện thực vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một dấu in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao của con, và theo một nghĩa nào đó cũng trong cơ thể vật lý của con.

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào con thoát khỏi dấu in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (nhưng đặc biệt là bộ não) và tâm vỏ ngoài của con nhìn và nhận thức tình huống – nói chung, nhận thức mọi chuyện? Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả này, là một bức tường khá vững chắc, và cái con thấy thật ra là một hình ảnh. Các thày đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy bức tường mà nó chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, giống như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là khi bộ não áp đặt một số hình ảnh lên trên các tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không đang thấy. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không đang thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu đến từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusion) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận diện. Một khi nó có đủ xung động để hình thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó áp chồng cái mô thức lưu trữ này lên những gì con đang nhìn và nói: “À, đây là cái đó.”

Tất nhiên, chuyện này đã tiếp diễn trên trái đất suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi sự từ số không, nó không phải tự huấn luyện từ đầu và xây dựng từng hình ảnh về cái này là gì, cái kia là gì. Não bị buộc chặt vào động lượng tập thể đó, cho nên nó đã mang sẵn một số lập trình: “Đây là ngọn cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân”. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô thức mà không những chính con đã nhìn thấy từ trước mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy từ trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn bằng ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp nữa, khi nói chung, vỏ não thị giác nhận ra hình thù. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và chất liệu của bức tường, nhưng bộ não có thêm chức năng khác là chuyển thành lời nói, chẳng hạn: “Đây là một bức tường”. Thêm một lớp phủ được đắp lên hình ảnh, và như vậy loài người đã có một động lượng rất lâu đời áp chồng ngôn từ lên mọi thứ.

5.2. Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, thật ra con đã tự giới hạn mình vì con củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ vật sẽ giống như cách con dán nhãn và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không thể nhìn xa hơn sự lập trình – ít ra là hầu hết mọi người không thể. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này.” Con đã buộc mình vào động lượng tập thể, và con đã xây dựng động lượng riêng của con trong bao nhiêu tiền kiếp.

Khi các thày nói là có một giai đoạn hay một tình huống trong quá khứ con phải trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn – và các thày có cho con một ví dụ, như trong sách Những kiếp  của tôi mô tả nhân vật chính trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn – thì con bị lập trình, bộ não của con bị lập trình để nó áp chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm này như thế đó”. Và bây giờ câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào con có thể thực sự thoát khỏi một tình huống trong quá khứ của con? Chừng nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao của con, cái dấu in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã gắn liền với tình huống, chừng nào những thứ này còn được cất giữ ở đó thì con không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Điều thày nói với con là con có thể bắt đầu tái huấn luyện chính mình. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ có thể hữu ích nếu con thử lấy một vài trong số rất nhiều những ảo thị đã được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mang hình dáng hoặc một cô gái trẻ đẹp, hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù, vân vân. Nếu con chưa bao giờ xem ảo thị thì con nên xem thử để nó giúp con hiểu là con thực sự không thể nào tin vào giác quan của mình. Con không thể tin được bộ não vì trong não có một lập trình khiến con thấy vật theo một cách không phải là cách nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy gì đó trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con hoàn toàn mải mê với bộ phim đến độ con có cảm giác mình đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có thể luyện tập để nhận ra là những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không biểu hiện một thực tại vật lý nào (vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn vậy, con có thể tập nhìn chúng như những mô thức gồm có vô số chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể tới mức luyện tập cho mắt đổi tiêu cự đôi chút, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những mảng tia sáng đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như vậy một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể luyện tập để thấy bức tường này sau lưng sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức mà thôi.

Hồi con còn nhỏ, chắc đã có người chỉ con dùng kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên báo. Và con thấy được những gì có vẻ là một số mảng hình hay một số hình thù kỳ thực chỉ là những chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì chấm càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm càng cách xa nhau. Tất cả chỉ là những chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn thấy hình thù. Cho nên con có thể luyện tập để tập trung vào chấm thay vì hình ảnh. Rồi con có thể áp dụng kỹ thuật này vào mọi tình huống trong đời, tuy ngay lúc này việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.

5.3. Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành đơn vị nhỏ hơn

Điều thày mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này khi con cảm thấy một sự việc đau đớn đã xảy ra. Bây giờ con có thể xem xét: Khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con khơi dậy là gì, hay hình ảnh mà ba thể cao của con khơi dậy là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một nhãn quan đường thẳng là nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi hình ảnh đó, vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, và con không thể thay đổi nó được. Không có gì con có thể làm để thay đổi nó.

Tất nhiên, đây là điều sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng luyện tập để đưa những hình ảnh này lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là hình thù và hình ảnh mà con đang có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những mô thức nguyên tử, hạt electron, hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành bộ phận nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào có thể. Như thày nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát để con có thể dời chuyển viên đá dễ dàng hơn. Đây là điều con có thể luyện tập để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hay những hình ảnh mà con đã kềm nén nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.

Con có thể luyện tập để nhận ra một cách ý thức: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã áp chồng lên ánh sáng.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại thật sát thì tất cả những gì con thấy chỉ là chấm, vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thày yêu cầu con hãy luyện tập, và một lần nữa, điều này liên quan đến việc con bước vào nỗi đau, tuy nhiên bây giờ con không bước vào nỗi đau nhưng con bước vào một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm.

Con bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho đến khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra những cái chấm này chính là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được áp chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn chấm mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng có thể dễ dàng biểu diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đang biểu diễn hình ảnh con đang có. Hơn thế nữa, thật ra những chấm này có thể được giải phóng khỏi cái khuôn đúc đã được áp chồng lên chúng, hầu chúng trở về với trạng thái nền (ground state), là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung hòa và không biểu hiện bất cứ hình ảnh nào.

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung lên và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, làm phân hủy hình dạng của hình ảnh, chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước của biển cả, hay cát của sa mạc, hay không khí của trời xanh. Nhưng chúng trở thành vô đặc tính, vô hình dạng. Hình ảnh được giải thể và con để cho nó ra đi. Giống như thể con đang lấy một quyết định, và ở một điểm nào đó con đang lấy một quyết định, và con nói: “Tôi để cho hình ảnh này chết đi. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

5.4. Bí quyết để lãng quên

Con yêu dấu, quá nhiều người khắp thế giới bị những tình huống từ quá khứ ám ảnh một cách liên tục, hay ít ra một cách thường xuyên, và dường như họ không thể nào quên được. À, vậy bí quyết để lãng quên là gì chứ? Đó là con nhận ra ký ức của con được lưu trữ (như các thày đã nói) một phần dưới dạng năng lượng, năng lượng cảm xúc. Chẳng hạn, lòng sợ hãi, sự tức giận hay bất cứ gì khác đều được cất giữ, và con có thể giải thể năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh của con. Hơn vậy, ký ức cũng được lưu trữ dưới dạng hình ảnh trong bộ não, trong ba thể cao của con. Các hình ảnh này đã được áp chồng lên những hạt mà con có thể gọi là hạt lượng tử, là Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất kỳ tên gọi nào con muốn. Đây là những hạt có khả năng khoác vào, hay được sắp xếp thành đủ loại hình thể, đủ loại hình thù, đủ loại mật độ và màu sắc khác nhau. Con có khả năng tháo gỡ các hình ảnh mà tâm con đã phóng chiếu lên hạt và giải phóng hạt khỏi hình ảnh. Khi con thực sự làm như vậy, hình ảnh sẽ không còn đó nữa và, thần diệu thay, ký ức cũng biến mất.

Khi con suy ngẫm về điều này, ký ức là một cái gì con có trong cõi vật chất, trong bốn tầng của cõi vật chất. Phải có một cỗ xe có khả năng chuyên chở ký ức. Hầu hết các ký ức được lưu trữ như thế nào? Dưới dạng hình ảnh thị giác. Các thày đã có đề cập đến các Hồ sơ Akasha và có một sự tương đồng nào đó với ba thể cao của con, ở chỗ là có một môi thể lưu trữ – là những hạt nói trên – có khả năng khoác vào hình ảnh và nhờ vậy duy trì hình thù này vĩnh viễn.

Con có thể luyện tập để đi vào bên trong, nhìn lại hình ảnh đó, nhưng sau đó con nhìn vượt khỏi hình ảnh và giải phóng các hạt để chúng trở về trạng thái nền của chúng. Khi chúng trở về trạng thái nền, hình ảnh tan rã và chính cái đó là cỗ xe của ký ức. Một khi cỗ xe của ký ức tan rã thì ký ức cũng tan theo, con yêu dấu. Đây là cách làm thế nào con có thể quên được.

Công việc này có thể đòi hỏi nỗ lực từ con, nhưng thú vị ở đâu nếu con không có việc gì để mà nỗ lực? Có thể con sẽ chán ở đây trên hành tinh này, và như nhiều các con đã bày tỏ, thật không có nhiều việc lắm để cá nhân con làm hay trải nghiệm, không có nhiều công việc cho con. Tất nhiên là có việc này là con muốn được tự do. Nhiều người trong các con muốn tiến bước, nhưng con không thể tiến bước cho đến khi con cũng tự do khỏi ký ức.

Con yêu dấu, trong một quyển sách được trao truyền trong một đợt truyền pháp trước có một lời tường thuật về ba người đệ tử đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, và họ được cho xem Hồ sơ Akasha trình chiếu một tình huống trong quá khứ của họ. Thế rồi thày đã lấy một viên ngọc, dùng viên ngọc này để phóng tia sáng vào tình huống đó và xóa bỏ nó trong Hồ sơ Akasha. Đây là một lối minh họa được sử dụng trong quá khứ khi các thày giảng dạy cho một tầng tâm thức thấp hơn. Nó có một độ thực tế nào đó, theo nghĩa là con có thể huấn luyện tâm mình để trở thành cánh cửa mở cho một tia sáng từ một cõi cao hơn. Tia sáng có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó có thể đến từ một chân sư thăng thiên mà con đã lựa chọn – và lẽ tự nhiên, thày cống hiến sự trợ giúp của thày ở đây. Nếu con hòa điệu với thày và con hình dung là thày đang gửi đến con một tia sáng vào hình ảnh đó, và qua đó thày khiến cho các hạt rung động nhanh hơn đến độ chúng nhảy ra khỏi mô thức định sẵn trong hình ảnh và trở về trạng thái nền của chúng, thì đây cũng có thể là một bài hình dung hữu ích cho con.

5.5. Không có gì là rắn đặc

Con cần trước tiên luyện tập để thấy được hình ảnh mà con mang trong tâm thật sự được cấu tạo bằng những hạt đó, và vì vậy hình ảnh sẽ linh hoạt uyển chuyển. Nó có thể dễ dàng tan rã, nó không được tạc trên đá, nó không phải là một bức tường kiên cố. Tất nhiên con có thể tiếp tục làm vậy và nhận ra là một bức tường không có gì kiên cố, nhưng quan tâm của thày ở đây là thày không muốn con làm những loại thủ thuật này mà con dành nỗ lực để thực hiện kỳ công thực sự sáng giá là xóa bỏ các ký ức đau buồn của con, cho dù từ những kiếp trước hay từ kiếp này.

Con yêu dấu, tất nhiên đây không phải là một điều con đã được dạy ở lớp mẫu giáo. Vì vậy, có thể nó sẽ đòi hỏi ở con một nỗ lực nào đó, một sự suy tư nào đó. Nó đòi hỏi con tái trang bị, chuyển hóa tâm con để dần dần chấp nhận là không có gì trong thế giới vật lý và vật chất, không có gì trong cả bốn cõi của vật chất, là rắn chắc như đá. Không có gì là không thể thay đổi, vì tất cả mọi thứ đều được cấu tạo bằng những hạt ánh sáng kia mà trên đó một hình ảnh đã được áp chồng lên.

Những hạt ánh sáng này kỳ thực không phải là hạt ánh sáng như khoa học bảo con là ngay cả hạt hạ nguyên tử cũng đều là hạt. Nếu con đã đọc về vật lý lượng tử, con sẽ biết là các nhà khoa học bị bối rối bởi sự kiện một electron có thể hiện ra dưới cả hai dạng hạt lẫn sóng. Họ gọi đó là lưỡng tính sóng-hạt và họ không làm sao giải thích được. Thực tế là ý tưởng cho rằng cái lưỡng tính hạ nguyên tử kia là một hạt, chỉ là một hình ảnh mà các nhà khoa học mang theo trong tâm họ vì nó gắn liền với một cái gì họ có thể thấy được bằng giác quan vật lý. Họ mang theo hình ảnh này trong tâm và họ muốn áp chồng hình ảnh này lên thế giới lượng tử mà họ vừa khám phá. Cách duy nhất để hiểu được tầng cấp lượng tử là nhận ra rằng nó tuyệt đối không liên hệ gì đến thế giới vĩ mô mà con thấy với giác quan của con.

Cách duy nhất để thực sự hiểu được thế giới lượng tử cùng mối tương quan của nó với thế giới vĩ mô là nhận ra thế giới vĩ mô không được tạo bằng hình thù. Nó được tạo bằng hạt, hay đúng hơn, bằng những thực thể nhỏ hơn mà trên đó hình ảnh đã được áp chồng lên. Một hòn đá không phải là hòn đá, đó là một tập hợp những thực thể ánh sáng, những đơn vị ánh sáng, đã bị cưỡng ép vào một mô thức nhất định và chúng đang biểu hiện mô thức này ra bên ngoài. Rất có thể chúng sẽ được giải phóng khỏi mô thức để trở về với trạng thái nền của chúng, hay chúng có thể biểu hiện một mô thức khác. Một lần nữa, có thể các con hơi bị đuối sức khi phải hình dung toàn bộ thế giới vật lý là linh hoạt và được tạo bằng hạt hay bằng những thực thể nhỏ hơn, nhưng chắc chắn con thấy được là những hình ảnh con cầm giữ trong tâm, những hình ảnh về quá khứ, cũng không được tạo bằng một chất vật lý kiên cố như đá. Thật vậy, chúng được tạo bằng một loại thực thể khác, cho nên chúng linh hoạt uyển chuyển.

Kỳ thực, toàn bộ vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng cái mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có những đơn vị cực nhỏ. Nếu chúng ta muốn dùng cùng thuật ngữ của khoa học, chúng ta có thể nói là thật vô nghĩa mà bàn về hạt, vì một hạt trải ra trong không gian. Đó là một cái chấm với một kích thước nào đó. Còn các đơn vị cấu tạo Ánh sáng Mẫu-Vật, măc dù chúng không nhỏ một cách vô hạn, nhưng chúng nhỏ đến độ chúng vượt khỏi khả năng phát hiện của giác quan vật lý hay ngay cả các loại dụng cụ dựa trên ánh sáng khả kiến (visible light), bước sóng (wavelength) của ánh sáng khả kiến.

Con cũng biết là kính hiển vi có khả năng phóng lớn các vật thể nhỏ. Nó giúp con nhìn thấy những vật con không thể thấy bằng mắt trần. Dẫu vậy, những gì con có thể thấy bằng kính hiển vi có giới hạn vì kính hiển vi quang học chỉ có thể hoạt động với ánh sáng khả kiến. Ánh sáng khả kiến có một bước sóng tối thiểu, và bất kỳ vật nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng sẽ không thể thấy được trong kính hiển vi quang học. Chuyện này không thể làm được. Vấn đề cũng tương tự như vậy với các thực thể nói trên, các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật, chúng không thể được phát hiện bởi bất kỳ dụng cụ nào do khoa học chế tạo vì đây là những dụng cụ vật chất, mà Ánh sáng Mẫu-Vật thì không vật chất. Nó trở thành vật chất khi có một hình ảnh được áp chồng lên nó.

Ngay cả trong thế giới lượng tử, con cũng có tình trạng một hạt có thể xuất hiện từ hư vô rồi lại biến mất. Các nhà khoa học bàn về một trạng thái chân không (vacuum state), một trường lượng tử (quantum field) hay một số tên gọi khác, là khi một hạt có thể đột nhiên xuất hiện rồi biến mất vì nó đi vào hay đi ra khỏi một trạng thái nào đó. À, đây là cách con có thể hình dung Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể nói là Ánh sáng Mẫu-Vật không nằm trong cõi vật lý nhưng nó có thể được kéo vào quang phổ vật lý (physical spectrum). Thế rồi những cái chấm nhỏ đó của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được sắp xếp lại thành một mô thức nào đó, nhưng Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ ở lại trong mô thức này trong cõi vật lý chừng nào còn có cái gì phóng chiếu hình ảnh lên nó. Lý do trái đất có một số biểu hiện do con người tạo ra kéo dài trong thời gian là vì tâm thức tập thể liên tục phóng chiếu một số hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

5.6. Con có những ký ức tiềm thức

Điều thày đang giảng cho con là lý do con mang ký ức về quá khứ – hay một hồ sơ, một ghi nhận về quá khứ hay bất kỳ tên gọi nào khác – là vì tâm con đang áp chồng hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Sự thể này ngăn cản không cho các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền của chúng và lại đi ra khỏi cõi vật lý. Con có thể phản bác: “Nhưng làm sao con làm chuyện này được khi con không mang một ký ức ý thức nào về chấn thương nhập đời của con?” Con có mang một ký ức tiềm thức.

Ký ức không chỉ là ký ức có ý thức mà thôi, và đây là tại sao chúng ta có thể nói là những gì con nhớ một cách ý thức thì gọi là ký ức, còn những gì con không nhận biết ý thức gọi là hồ sơ. Đôi khi các thày đã dùng cách phân biệt này. Con cũng có thể nói là có ký ức ý thức hay vô thức. Tất cả các con đều biết là thỉnh thoảng có một sự kiện nào đó mà con biết rõ con đã nghe nói trong quá khứ nhưng con không thể hồi tưởng ngay bây giờ một cách ý thức. Thế rồi khi con suy nghĩ thêm, nó bỗng bật lên và bây giờ con nhớ lại. À, hiển nhiên ký ức này đã có mặt ở đó cho dù nó không nằm trong tâm ý thức của con, và các tình huống từ quá khứ cũng tương tự như vậy. Chúng còn nằm đó là vì tâm tiềm thức của con không ngừng phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều con có thể luyện cho tâm con làm là nhìn ra hình ảnh không phải là một hình ảnh vật lý, một hình ảnh cố định không thay đổi. Nó được cấu tạo bằng những cái chấm nhỏ li ti của Ánh sáng Mẫu-Vật. Xong con có thể quyết định trong ý thức và nói: “Vụt” và làm cho hình ảnh tan biến. Để điều này có thể xảy ra, có thể con sẽ cần đọc một lượng bài chú và bài thỉnh để làm tan năng lượng cảm xúc. Như các thày đã nói, có thể con sẽ phải tới điểm xem nó như là một ngã tách biệt, nhìn ra là có một cái ngã tách biệt kỳ thực đang duy trì hình ảnh đó, đang muốn duy trì hình ảnh đó. Con có thể quyết định ngừng nuôi dưỡng nó với năng lượng và chú ý của con. Khi con làm theo những bước khác mà các thày đã cho con trước đây, thì có thể sẽ tới điểm khi tất cả những gì còn sót lại chỉ là ký ức. Con đã làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, con đã làm tan ngã tách biệt, con đã để cho nó chết đi, nhưng vẫn còn lại một ký ức mà vì một lý do nào đó con nghĩ con phải bám lấy.

Trong một số trường hợp, có một cái ngã nghĩ rằng nó phải bám lấy ký ức và con có thể đạt tới điểm nhìn ra ngã này. Thậm chí, thỉnh thoảng, đây chỉ là vấn đề làm cuộc xoay chuyển ý thức, một quyết định ý thức là: “Tôi không phải bám giữ tất cả mọi ký ức về những chuyện đã xảy ra cho tôi trên hành tinh này.”

Tại sao, con yêu dấu, tại sao con không phải nhớ lại? Các sa nhân và tự ngã của con sẽ la hét vào mặt con: “Không, bạn không thể đơn giản quên nó đi! Chuyện đó đã thực sự xảy ra! Chính bạn đã làm chuyện đó, bạn phải ghi nhớ mãi mãi!” Tại sao con cần ghi nhớ mãi mãi chứ con? Các thày đã dạy con điều gì? Cho dù con đã kinh qua chuyện gì trên hành tinh này, đã trải nghiệm nó như thế nào xuyên qua phin lọc bốn thể phàm của con, thì Hiện diện TA LÀ của con có một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Kinh nghiệm này mới là kết quả vững bền, là thành quả lâu dài mà con muốn thành tựu qua việc hiện thân trên trái đất. Kinh nghiệm này được lưu trữ vĩnh viễn trong căn thể của con. Đấy chính là cái thực. Đấy chính là cái tồn tại. Đấy chính là điều con đã muốn gặt hái từ việc hiện thân trên trái đất.

Còn những ký ức kia mà con mang trong bốn thể phàm không có giá trị nào trường tồn. Tại sao chúng lại phải tồn tại? Tại sao con lại phải đem chúng theo con? Tại sao con không nhìn chúng và nói: “Vụt, thế là mi đã tan mất”?  

Con yêu dấu, con hãy đơn giản chấp nhận là con có quyền quên đi. Chừng nào con còn có năng lượng tha hóa và ngã tách biệt thì con không thể quên được, nhưng một khi con đã làm tan cả hai thì con có quyền được quên. Đây là một quyền con người, một nhân quyền – chúng ta có thể nói như vậy – và quyền này phải nằm trong danh sách những quyền hạn bất khả xâm phạm mà Đấng Sáng tạo đã phú cho mọi con người. Con có quyền được quên, một quyền mà Thiêng liêng đã ban cho con.

Thày hy vọng là con sẽ nắm lấy lời dạy này và bắt đầu sử dụng quyền này. Nếu con muốn thày giúp đỡ, thày HƠN là sẵn sàng giúp con.

Lấy lại quyền được quên, là quyền Thượng đế đã ban cho con

Bài giảng của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia. Bài này trích từ cuốn sách “Làm hoà với sự hiện diện của mình trên địa cầu” (Making peace with being on Earth).

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE. Thật là vui mừng cho ta đến đây để gửi con phần tiếp theo của bài giảng hồi năm ngoái của ta về đề tài vô cùng quan trọng và sâu sắc này là chấn thương nhập đời và làm thế nào vượt qua chấn thương đó. Con có thể xem lại những gì Phật Gautama đã nói trong phần vấn đáp vừa rồi về thời gian. Thày nói là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những sự việc xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ. Như thày Gautama nói, Mẹ Mary quả thực đã cho con một cỗ máy vượt thời gian trong bài thực tập về cách thức trở về với kinh nghiệm chấn thương nhập đời [xin tham khảo sách “Chữa lành chấn thương tâm linh”]

Ta muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian. Con yêu dấu, con thấy đó, các sa nhân muốn con nghĩ rằng quá khứ được khắc cứng trong đá và không thể thay đổi. Một khi con đã phạm phải một lỗi lầm trên địa cầu thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi nó. Vậy con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã thăm viếng Vạn lý Trường thành bên Trung quốc hay Kim tự tháp Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hoặc bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố xưa cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá khổng lồ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó xuống với hai bàn tay trần? Phải, con không thể làm được, và tại sao vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là cái xi-măng giữ viên đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu viên đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy thuộc vào kích thước những viên đá. Điều gì sẽ xảy ra nếu con có thể đập nhỏ đá ra thành vụn tựa như cát vậy? Và giả như con có một cái máy phóng ra một loại tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì điều gì sẽ xảy ra?    

Thật vậy, đó chính là quyền năng mà chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con qua các bài chú và bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số đông đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao đi nữa, chúng tôi không hề có ý định gửi học trò chúng tôi đi khắp thế giới mà đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều chúng tôi quan tâm là đập đổ những bức tường kiên cố trong tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng đối với các sinh thể sa ngã.   

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như chúng tôi đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm cho năng lượng tan rã, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như chúng tôi cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải trải qua một kinh nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con thực sự tự do. Đó không phải là một tiến trình máy móc.

Nhận biết tiến trình thấy

Đây là điều ta muốn đề nghị với con. Con cần khởi sự – mới đầu chỉ cần từ từ – con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó hình dung, tưởng tưởng và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết trong trí thức, tức là toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang cái chấn thương nhập đời đó trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, nó đã bị thời gian xóa sạch. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – cái cọ khổng lồ của thời gian đã biến mọi sự thành sự thể của hiện tại. Và Gautama bảo: Hiện tại quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một thực tại vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một vết in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao hơn của con, và trong một nghĩa nào đó cũng trong thể xác vật lý của con.     

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào thoát khỏi vết in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (đặc biệt là bộ não) và ngoại tâm của con nhìn và nhận thức tình huống – đúng hơn, nhận thức mọi chuyện. Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả, là một bức tường khá vững chắc, và cái gì con thấy thật sự là một hình ảnh. Chúng tôi đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy một bức tường mà chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà chỉ phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, y như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.  

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là bộ não khi nó áp đặt một số hình ảnh lên trên những tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không nhìn thấy. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không nhìn thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusions) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái gì ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn vào chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận ra. Một khi nó có đủ xung động để tạo thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó chồng cái mô hình nó cất giữ đè lên trên cái mà con đang nhìn, và nó nói: “À, đây là cái đó.”    

Hiển nhiên, điều này đã tiếp diễn trên địa cầu suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi đầu từ con số không, nó không phải tự đào tạo từ đầu và xây đắp từng hình ảnh của cái này hay cái kia. Nó bị buộc chặt vào động lượng tâm thức tập thể nói trên, cho nên nó đã mang sẵn một số chương trình nội tại: À, đây là cái cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô hình mà không những con đã nhìn thấy trước rồi mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn qua ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp mới trong khi vỏ não thị giác chỉ nhận ra hình dạng mà thôi. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và nét lồi lõm của bức tường, nhưng não có một chức năng khác để chuyển dịch thị giác đó thành lời nói, và nó nói: “Đây là bức tường”. Có thêm một lớp được đắp lên trên hình ảnh, và như vậy loài người đã mang theo một động lượng rất lâu đời đặt ngôn từ lên mọi thứ.  

Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, con đã thực sự tự giới hạn mình vì con đã củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ rằng vật đó sẽ giống như cái mà con đã dán nhãn, và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không có khả năng nhìn xa hơn sự lập trình đó – it ra là hầu hết mọi người. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này”. Con đã buộc con vào động lượng tập thể, và con cũng xây dựng động lượng của con trong suốt bao nhiêu tiền kiếp.   

Hồi nãy ta có nhắc tới một thời điểm hay một tình huống khi con đã trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn, và như cuốn sách “Những cuộc đời của tôi” (My Lives) có cho một ví dụ nơi nhân vật trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thì con đã được lập trình, bộ não của con đã được lập trình hầu nó đặt chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm đó như thế đó”. Và câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào con có thể thực sự giải thoát khỏi một tình huống của quá khứ? Cho đến khi nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao hơn của con, cái vết in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã liên kết với tình huống, cho đến khi nào mà những thứ đó còn ở đó thì con sẽ không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Ta nói với con là con nên khởi sự tập tành lại chính con. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ thật hữu ích nếu con thử nhìn lại rất nhiều những ảo thị từng được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mà con có thể nhận ra là một cô gái trẻ đẹp hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù vân vân và vân vân. Nếu con chưa bao giờ nhìn ảo thị thì con nên thử nhìn để nó giúp con hiểu ra là con thực sự không thể tin vào giác quan của mình. Con không thể tin vào bộ não vì trong đó có sự lập trình khiến con nhìn thấy đồ vật không đúng như nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy hình ảnh trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con sẽ hoàn toàn mải mê với bộ phim, đến độ con có cảm giác con đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có khả năng tự rèn luyện để nhận ra rằng những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không thể hiện một thực tại vật lý nào (bởi vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn thế nữa, con có thể tập nhìn thấy chúng như là những mô hình gồm có vô số những chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể đạt đến mức khi con tập cho mắt con nhìn lệch tiêu cự cho hơi mất nét, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những trường tia sáng đủ màu đang được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như thế một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể rèn luyện để thấy bức tường này sau lưng vị sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức nào đó.

Hồi con còn nhỏ, thế nào cũng có người bảo con thử dùng cái kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên tờ báo. Và con có thể thấy được những gì có vẻ là những hình thù thực sự chỉ là những cái chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì những cái chấm đó càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm đứng càng xa nhau. Tất cả chỉ là những cái chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn ra hình thù. Cho nên con có thể tự huấn luyện để tập trung vào những cái chấm thay vì vào hình ảnh. Rồi con áp dụng vào mọi tình huống trong đời, nhưng ngay lúc này thì việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.  

Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành mảnh nhỏ

Điều ta mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này, khi con cảm thấy một điều gì đau đớn đã xảy ra. Con thử xét xem là khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con đưa lên, hay hình ảnh mà ba thể cao hơn của con đưa lên, là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một góc cạnh đường thẳng nào đó, rằng nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi hình ảnh đó, bởi vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra và con không thể thay đổi được. Con không thể làm gì được để thay đổi nó.  

Nhưng tất nhiên, đấy là điều mà các sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng tập tành để đưa những hình ảnh đó lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là những hình thù và những hình ảnh mà con có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những khuôn mẫu hạt nguyên tử, hạt electron và hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào mà con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành những mảnh nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào. Như ta nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát hầu con có thể đem đá đi dễ dàng hơn. Đây là điều mà con tập tành để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hoặc những hình ảnh mà con đã kềm nén xuống nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.  

Con có thể tu tập để nhận ra một cách ý thức rằng: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã chồng lên đó.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại gần sát thì tất cả những gì con thấy được chỉ là những cái chấm, bởi vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thì ta yêu cầu con hãy tự rèn luyện, và một lần nữa, điều này cũng liên quan đến chuyện con bước vào nỗi đau. Nhưng bây giờ con không bước vào nỗi đau nữa mà đó chỉ là một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm con.  

Con hãy bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho tới khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra rằng chính những cái chấm này là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được đặt chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn những cái chấm kia mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng sẽ dễ dàng trình diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đã diễn xuất hình ảnh mà con hiện có. Hơn thế nữa, những cái chấm đó có thể thực sự thoát khỏi cái khuôn đúc đã được áp đặt lên chúng, hầu chúng có thể trở về với trạng thái nguyên thủy, là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung dung và không hiển thị bất cứ hình ảnh nào.  

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, khiến cho hình thù trên hình ảnh bị phân hủy và chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước trong đại dương, hay cát trong sa mạc, hay không khí trong bầu trời xanh. Chúng trở thành vô hình thù, vô hình tướng. Hình ảnh được giải thể và con để yên cho nó ra đi. Giống như con đang lấy một quyết định, và ở một điểm con sẽ lấy một quyết định, và con nói: “Tôi đề cho hình ảnh này chết. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

1 | Sống với những gì con không thể chung sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thật là niềm vui và đặc ân rất lớn cho thày được khai mạc hội nghị này và được chào đón các con – những người có mặt ở đây trong vật lý cũng như những người nối kết qua internet. Chủ đề nguyên thủy được đề nghị cho hội nghị này là: “Làm thế nào giúp cho con người ở Đông Âu được hòa bình,” nhưng các thày cảm thấy không chỉ người ở Đông Âu mới có thể được lợi lạc từ những bài giảng các thày muốn ban truyền. Chắc chắn con người ở khắp mọi nơi đều gặp khó khăn để cảm thấy an bình với việc mình sống trên trái đất. Con yêu dấu, điều các thày mong muốn đạt được trong hội nghị này là trao cho con một số lời dạy không chỉ dành riêng cho các avatar hay các đệ tử của chân sư thăng thiên, mà về lâu dài có thể dành cho tất cả mọi người trên địa cầu, ngay cả các cư dân nguyên thủy của địa cầu hoặc những ai tới đây từ những hành tinh khác đã rơi xuống dưới mức tự nhiên của hành tinh đó.

1.1. Xét lại cái gì là bình thường

Hiển nhiên, con yêu dấu, con đã lớn lên trên địa cầu và hầu hết các con đã lớn lên với một hình ảnh cho rằng có lẽ trái đất là hành tinh duy nhất trong vũ trụ có bất kỳ dạng sống nào. Có lẽ đây là một hành tinh rất quan trọng đối với Thượng đế – nếu con đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo. Có lẽ con đã lớn lên với ý tưởng mình là một loài vượn đã tiến hóa, và xác suất để sự sống hiện diện nhỏ đến độ nó chỉ xảy ra trên rất ít hành tinh. Do con đã lớn lên với quan điểm cho rằng rất có thể địa cầu là hành tinh duy nhất, dần dà con đã chấp nhận rất nhiều điều kiện được thấy trên trái đất mà không hay biết. Điều này không có nghĩa là con đã chấp nhận chúng là tốt, nhưng có thể con đã chấp nhận chúng là bình thường, là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. “Chuyện nó tất phải như vậy thôi.”

Tất nhiên, điều này dính liền với giáo lý các thày đã trao cho con những năm qua rằng một khi con bị kẹt vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên thì con không thể thoát ra khỏi trừ khi con có một khung tham chiếu chỉ cho con thấy là ở ngoài trạng thái tâm thức này có một cái gì, có một cách nhìn khác hơn về cuộc sống. Con yêu dấu, lẽ tự nhiên khi con đã lớn lên trong môi trường hiện thời trên trái đất, con đã không nhận được một khung tham chiếu như vậy. Ví dụ, không ai nói cho con biết là có những hành tinh tự nhiên nơi rất nhiều hiện tượng con thấy trên trái đất không hề biểu hiện, không hề xảy ra. Con đã lớn lên với cảm giác là thật chẳng ích gì mà chất vấn những chuyện đang xảy ra, vì hiển nhiên đó là chuyện bình thường. Điều cần làm là con tìm cách sống chung với nó mà thôi.

1.2. Khả năng thích ứng có may lẫn rủi

Con thấy đó, con yêu dấu, ở đây chúng ta đang chạm đến một đề tài – theo một nghĩa nào đó – vừa là một điều may lẫn một điều rủi. Tất nhiên, nó liên hệ phần nào đến một hiện tượng đã được các nhà tiến hóa học nói đến, là làm thế nào một giống loài có thể thích ứng với môi trường của nó. Mặc dù nhiều nhà tiến hóa học luôn luôn bênh vực chủ thuyết về sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, nhưng nếu con thực sự nhìn vào lịch sử tiến hóa, con sẽ thấy kẻ sống còn không phải là kẻ mạnh nhất, không phải là kẻ hung hãn nhất như một số nhà khoa học đó muốn con nghĩ. Không đâu con yêu dấu, người sống còn là những người dễ thích nghi nhất. Lý do loài người đã lan tràn đến mọi nơi trên trái đất và là giống loài thành công nhất trên trái đất – ít ra từ một góc nhìn tiến hóa – là vì con người có khả năng thích nghi cao hơn bất kỳ loài nào khác mà con gặp trên địa cầu. Tại sao loài người thích nghi giỏi hơn mọi loài động vật? Vì con người không phải là một con thú. Con không phải là một loài cao hơn loài vượn một bước như các nhà tiến hóa học muốn con tin. Con là một sự nhảy vọt lượng tử so với loài vượn vì con có sự tự nhận biết, và chính khả năng tự nhận biết này đã giúp con người thích nghi với rất nhiều điều kiện khác nhau.

Một loài thú phần lớn được lập trình để cư xử một cách nhất định. Có nghĩa là con thú, nếu nó gặp phải một môi trường thù địch, sẽ không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi cách cư xử của mình như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?” Và nó cũng không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi môi trường như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?”  Một loài thú không có khả năng đó, nhưng con người thì có, và điều này chứng tỏ cho bất cứ ai sẵn sàng nhìn vào dữ kiện, là con người không phải là con thú. Con không là một con thú đã tiến hóa xa hơn, vì người ta không thể tìm thấy một loài thú nào có khả năng này ở một cấp độ thấp hơn. Thày biết sẽ có người nghĩ ra một vài ví dụ, nhưng sự thật là con không thể tìm thấy loài thú nào có một cấp độ tự nhận biết thấp hơn loài người để từ cấp độ đó nó có thể từ từ tiến hoá đến cấp độ tự nhận biết của loài người. Để những loài thú cao cấp nhất đến được mức loài người, chúng sẽ phải thực hiện một bước nhảy vọt lượng tử ví chúng phải được trao cho khả năng tự nhận biết đó từ một nguồn cao hơn – khả năng này không thể do tiến hóa.

Khả năng thích nghi của loài người là một điều may theo nghĩa con có thể thích ứng với nhiều môi trường khác nhau. Nhưng đó cũng là một điều rủi theo nghĩa chính khả năng này có thể khiến con nhìn vào điều kiện hiện tại của địa cầu và quyết định: “Ồ, tôi chỉ cần sống chung với nó. Tôi không thể nào thay đổi nó được. Thật chẳng có ích gì mà đặt nó thành vấn đề. Tôi chỉ có thể sử dụng nó tốt nhất mà thôi.” Và do đó suốt chiều dài lịch sử, loài người đã thích ứng với rất nhiều điều kiện mà họ đã có thể thay đổi nếu họ ý thức là họ có khả năng thay đổi, nếu họ có viễn quan là mọi chuyện có thể thay đổi như thế nào cùng sự sẵn lòng thực hiện cuộc thay đổi. Đây chính là khả năng mà các sa nhân đã dùng để kiểm soát quần chúng hết thời này đến thời khác, hết văn minh này đến văn minh khác, thậm chí từ thuở xưa hơn cả lịch sử được ghi chép. Những gì con gọi hiện nay là lịch sử, tất nhiên, là một sự xuyên tạc do sa nhân vì chúng không muốn con biết đến quá trình lịch sử của các nền văn minh đã biến mất nhưng đã tiến xa hơn hẳn nền văn minh hiện đại.

Lý do là vì, một lần nữa, chúng không muốn con có một khung tham chiếu cho thấy là đã từng có những nền văn minh quá khứ tiến hóa cao gấp bội nền văn minh hiện tại nhưng các văn minh đó đã sụp đổ do ảnh hưởng của sa nhân. Và như vậy, nền văn minh của con không những có khả năng tiến hoá xa hơn nữa mà cũng có khả năng suy tàn – nếu con cho phép sa nhân tiếp tục sai khiến mọi chuyện. Chúng không muốn con có khung tham chiếu này mà con đã có thể nhận được nếu con biết lịch sử các nền văn minh đã qua. Chúng muốn con tin rằng các con là một giống loài với một quá trình rất ngắn, cho dù là một vài triệu năm theo như khoa học công nhận, hay là 6000 năm theo người Cơ đốc cực chính thống cũng như hầu hết các tín đồ tin vào kinh Cựu ước cho rằng Thượng đế đã tạo ra địa cầu trong dạng hiện hữu chỉ mới gần đây thôi. Lẽ tất nhiên, Thượng đế (trong tư cách là sinh thể cao nhất trong vũ trụ mà chúng ta gọi là Đấng Sáng tạo) không hề tạo ra địa cầu trong dạng hiện thời, vì chắc chắn ngài đã có thể hình dung ra một hành tinh không có bóng dáng chiến tranh, loạn lạc, bạo lực cùng tất cả mọi thứ khác.

Con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây – những người tâm linh, cho dù con là một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đang bắt đầu nâng cao tâm thức mình – là một điều vô cùng giản dị. Con đã kế thừa từ giống loài của con, từ tâm thức tập thể, từ cha mẹ, từ các thế hệ trước, khả năng thích nghi với các điều kiện vật chất, khả năng chấp nhận các điều kiện này là bình thường và tìm được cách sống chung với chúng. Đây là một khả năng đã phục vụ nhân loại một cách nào đó, nhưng đối với con là người tâm linh, đã đến lúc trên bước đường tăng triển con phải xem xét nó và quyết định: “Tôi sẽ vươn lên cao hơn động lượng tập thể muốn thích nghi với các điều kiện vật lý.” Các thày đã nói với con những gì suốt những năm qua qua các lời giảng? Rằng con không ở đây để chấp nhận các điều kiện hiện thời và thích nghi với chúng. Con ở đây để nâng cao điều kiện hiện thời, nâng cao tập thể, thậm chí nâng cao cả các điều kiện vật lý. Con không thể làm điều này nếu con là một con thú có kỹ năng thích nghi. Con chỉ có thể làm được khi con công nhận mình là một sinh thể tâm linh và con quyết định: “Tôi sẽ vươn lên khỏi cái kỹ năng chấp nhận, thích nghi với các điều kiện hiện hành.”

1.3. Các điều kiện con không thể sống chung

Để hiểu điều này đầy đủ và thực hiện những gì thày đang trình bày với con, con cần nắm vững bối cảnh các thày đã rất cẩn thận trao cho con – bắt đầu từ trước hội nghị năm ngoái ở đây tại Estonia nhưng chắc chắn cũng ngay trong hội nghị đó – là các giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã gốc [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy của địa cầu, đã tới một lúc con phải chạm mặt với những điều kiện khốc liệt đến độ con phải gánh chịu chấn thương nhâp đời đó – hay chấn thương điạ cầu đó, là từ mà các thày dùng đối với các cư dân nguyên thủy. Sau đó con đã tạo ra ngã gốc là một cái ngã phản ứng. Điều con cần bắt đầu suy nghiệm ở đây là cho dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy, một khi con đạt đến một nhận biết nào đó thì trong nội tâm, con biết là mọi sự không nhất thiết phải xảy ra như chúng đang xảy ra trên trái đất. Có một giải pháp thay thế, có một cách khác hơn, và mọi sự có thể tốt hơn. Có thể con không diễn đạt được điều này bằng lời nói, ngay cả con không ý thức được rõ ràng, nhưng con có một khung tham chiếu rằng những chuyện đang diễn ra ở đây trên địa cầu không phải là cao nhất.

Điều lạ lùng ở đây – và điều này rõ rệt nhất nơi các avatar cho nên thày sẽ dùng ví dụ này – là như một avatar con đến hiện thân lần đầu trên địa cầu, và cho dù con không giữ được ký ức ý thức về cuộc sống trên hành tinh tự nhiên, con vẫn mang một cảm nhận mạnh mẽ rằng nhiều điều mình gặp trên trái đất không phải là cao nhất và có một cách sống khác hơn. Mọi sự không cứ phải y như vậy. Thế là giờ đây con bị mắc kẹt – nếu có thể nói như vậy vì đây là điều hầu hết chúng ta đều cảm nhận – mắc kẹt trong xác thân vật lý dày đặc này giữa thế giới vật lý dày đặc này. Chung quanh con là những người khác cũng mang một xác thân vật lý, và cho dù con có cảm gì hay nghĩ gì thì họ cũng có khả năng làm con tổn thương, khả năng sử dụng xác thân vật lý của họ để làm hại xác thân vật lý của con.

Con không thể làm gì để tránh chuyện này một khi con ở trong cơ thể vật lý. Cho dù người ta có làm gì con, con cũng không thể tránh khỏi sự kiện con đang ở trong một cơ thể vật lý và con nhìn, con trải nghiệm những gì xảy ra trên trái đất. Các thày đã từng nói là con có thể là một avatar nhìn xuống địa cầu và con quyết định mình muốn đến đây đầu thai, và hiển nhiên con có thể thấy được nhiều điều kiện không phải lẽ, nhưng con không thể kinh nghiệm các điều kiện này từ xa. Con sẽ không trải nghiệm địa cầu bằng xương bằng thịt cho đến khi con bị mắc kẹt, bị dính chặt trong một xác thân vật lý. Một khi con ở đây, một khi con ở trong xác thân này thì bỗng chốc con trải nghiệm địa cầu là như thế nào. Thậm chí con trải nghiệm năng lượng ở đây quá dày đặc, tâm thức tập thể quá dày đặc với biết bao lòng căm hận, thù địch lẫn sợ hãi. Con trải nghiệm nó một cách con không bao giờ tưởng tượng nổi như một avatar. Thực tế là một phần nỗi chấn động mà con cảm thấy liên hệ đến một điều kiện đặc thù – một điều kiện với nhiều xác suất nhất hay có lẽ là điều kiện chủ chốt – mà con đã xem xét trước khi đến địa cầu rồi quyết định là mình muốn góp phần loại trừ nó khỏi địa cầu. Giờ đây con ở trong cơ thể, con đang trải nghiệm điều kiện này, con thấy nó dữ dội đến chừng nào, nó nặng nề đến chừng nào, nó khó khăn đến chừng nào, thì con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với nó. Tôi không thể sống với điều kiện này có mặt trên trái đất.”

Có thể cá nhân con không bị tra tấn như được mô tả trong sách Những kiếp của tôi. Không phải tất cả các con đều phải hứng chịu kiểu tấn công cá nhân hung ác đến vậy. Một số các con bị cú sốc chỉ do đã chứng kiến người ta phải sống và khổ đau như thế nào. Là avatar, con chưa bao giờ chạm trán với sự thể như vậy trên một hành tinh tự nhiên và con cảm thấy không một ai phải sống trong điều kiện như thế. Cho nên con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với tình trạng này trên hành tinh này. Tôi không thể sống trong một môi trường có tình trạng này hiện hữu.”

Đó là phản ứng của con. Con chiu rút vào chính mình, theo nghĩa đen. Con bị chấn động đến độ gần giống như con cố kéo nguyên hào quang của mình trở vào bên trong một điểm an toàn nơi con có thể quên đi sự có mặt của điều kiện đó. Thế nhưng con không thể làm vậy vì như thày vừa nói, con bị kẹt cứng trong cơ thể vật lý của mình. Không có cách nào thoát ra khỏi cơ thể vật lý. Thế rồi khi cú sốc ban đầu tan đi đôi chút, con phải đối mặt với một thực tế vô cùng phũ phàng. Tất cả mọi thứ trong cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể của con nói với con: “Tôi không thể sống trên hành tinh này khi điều kiện này có mặt. Tôi không thể sống với nó.”  Nhưng cơ thể vật lý của con khi nó đói meo, nó sẽ bảo con phải sống trên hành tinh này và con phải làm mọi điều cần thiết để giữ cho cơ thể sống còn.

1.4. Xem cơ thể là kẻ thù

Đây là lúc nhiều người trong các con trải nghiệm một sự phân rẽ giữa cơ thể vật lý và ba thể phàm cao hơn. Gần như thể con phải dựng lên một loại hàng rào nào đó giữa thể vật lý và ba thể cao để bảo vệ các thể cao khỏi những gì xảy ra trong cõi vật lý, có lẽ cả những gì cơ thể vật lý trải nghiệm. Nếu con đã bị tra tấn chẳng hạn, con sẽ phải tạo ra rào cản này để nỗi đau của cơ thể không tác động quá dữ dội lên ba thể cao. Hầu hết các con đã dựng lên sự phân rẽ này mà con vẫn mang theo cho đến giờ. Con có thể thấy làm thế nào suốt các thời đại, người tâm linh đã xem cơ thể mình là một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh. Họ thường nói đến những ham muốn của thể xác, ham ăn, ham tình dục, đủ loại dục vọng khác nhau, và họ xem đó là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh.

Nền tảng của điều này là cú sốc tiên khởi khi con toan dựng lên hàng rào đó như một cơ chế phòng thủ. Tất nhiên ở một mức độ nào đó, con nhận ra là xác thân vật lý của con nằm trong cõi vật lý và người khác cũng có xác thân của họ. Họ có thể xông tới làm hại xác thân con nhưng họ không thể làm tổn thương ba thể cao của con dễ như vậy. Nếu con có thể phóng chiếu hay tạo ra một rào cản thì phần nào con có thể tự bảo vệ mình. Điều thày nói với con là tất cả các con đều đã chạm mặt cơ chế đó và con đã cảm thấy: “Tôi không thể sống với điều kiện này trên trái đất.” Thực tế phũ phàng là con phải sống ở đây trên trái đất. Vậy con làm gì đây? Làm thế nào đối phó đây? Như thày vừa nói, con thường hay đối phó bằng cách buộc mình vào cái cơ chế thích nghi tập thể đã được tạo ra bởi mọi người khác trong gia đình con, trong dân tộc con, trong văn hóa của con, trong nền văn minh của con – thậm chí trong toàn bộ giống loài và có thể nói trong tâm thức tập thể nói chung. Con tự buộc mình vào đó và con nhận ra là trên một hành tinh như thế này, con phải thích nghi thôi. Con phải chấp nhận các điều kiện như chúng đang trải bày, và con tận dụng theo cách tốt nhất. Phần nào đó sâu thẳm trong tiềm thức của con, con đã lấy quyết định: “Tôi không thể sống với chúng nhưng tôi sẽ phải sống với chúng, và để sống với chúng, tôi phải chấp nhận niềm tin này hay niềm tin kia.”

Có thể con đã chấp nhận chuyện này không thể tránh, không thể né khỏi, và nếu con làm một số việc thì con sẽ tránh được cái điều kiện mà con không thể chung sống. Con có thể tránh không đích thân trải nghiệm nó, con có thể cách ly khỏi nó. Con thấy nhiều người ở các nước tiền tiến đã tự cách ly khỏi rất nhiều điều kiện đang diễn ra trong thế giới thứ ba, chẳng hạn nhiều người ở nước tiền tiến không thể sống nổi nếu chính con mình bị chết đói hay thiếu ăn, nhưng họ lại có thể sống nổi nếu hàng triệu trẻ em trong thế giới thứ ba bị chết đói hay thiếu ăn. Một lần nữa, thày không đang chê trách mà thày chỉ đưa ra một ví dụ về cơ chế mà qua đó con có thể tự cách ly khỏi một điều kiện để vẫn sống được trên hành tinh này, vẫn sinh hoạt được trên hành tinh này.

1.5. Cơ chế sống còn

Điều chúng ta đi đến ở đây chỉ đơn giản là một cơ chế sống còn. Thậm chí nó có thể là một cơ chế sống còn vật lý, qua đó con cố gắng tự cách ly bằng cách tránh đầu thai nơi những khu vực trên địa cầu gặp nhiều chiến tranh, nhiều bệnh tật hay nạn đói hay bất cứ gì khác. Đối với đa số các con, nó chủ yếu là một cơ chế sống còn ở tầng cấp cảm xúc, lý trí hay bản sắc hầu con có thể tồn tại trên một hành tinh mang sẵn điều kiện mà con không thể chung sống. Bởi vì nếu phần nào con cách ly khỏi nó và cá nhân con không chạm mặt trực tiếp với nó, thì con có thể sống với sự có mặt của nó trên hành tinh – nhưng ở một nơi nào khác chứ không ở ngay nơi con sống.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày không nói điều này để trách móc con. Các thày đều đã đầu thai trên địa cầu và đã từng làm y hệt như con để có thể sống ở đây. Điều thày muốn nói là đối với các con đã theo học giáo lý cho đến điểm này, các con đã sẵn sàng nhìn vào vấn đề này. Con đã sẵn sàng nhìn vào các cơ chế sống còn và con cũng sẵn sàng khởi sự vươn lên cao hơn để con có thể sống trọn trên địa cầu chứ không chỉ sống còn mà thôi. Con thực sự an bình với việc mình ở đây và do con đã an bình, con có thể vui hưởng cuộc sống trên địa cầu. Thậm chí con vui hưởng việc biểu hiện chính mình, biểu hiện cái ta thực của mình ngay đây trên địa cầu.

Lẽ tự nhiên con yêu dấu, khi con tới đây và nếu con là một avatar (hay ngay cả một cư dân nguyên thủy), các con đều có mong muốn biểu hiện bản thể thực của con, khả năng sáng tạo thực của con trên địa cầu và con biết đó là cách duy nhất địa cầu sẽ cải tiến. Cách duy nhất con có thể giúp địa cầu tiến bộ là khi con biểu lộ con người mà con thực là, biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Nhưng khi con tạo ra cái cơ chế sống còn đó, kỳ thực con đã nói: “Chừng nào cái điều kiện mà tôi không thể chung sống còn hiện hữu trên trái đất, tôi sẽ không thể tự do biểu hiện chính mình, tôi không thể sáng tạo.” Nhiều các con thậm chí đã cảm thấy – nếu có thể gọi như vậy – một tình đoàn kết nào đó với những người đang đau khổ trên trái đất. Nhiều các con đã tạo ra một cơ chế vô cùng sâu đậm trong tiềm thức nơi con có lòng trắc ẩn đối với một nhóm người đặc thù đang đau khổ vì một điều kiện đặc thù. Nói chung, ở một thời điểm con đã quyết định: “Tôi không thể an bình, tôi không thể hạnh phúc, tôi không thể sáng tạo, tôi không thể tự biểu đạt chừng nào những người kia còn bị đau khổ bởi điều kiện đó.”

1.6. Đóng chặt sáng tạo không phải là giải pháp

Con yêu dấu, đó là một cách phản ứng rất dễ thông cảm. Như thày vừa nói, tất cả chúng ta đều đã bước vào đó. Các thày đã thăng thiên cũng đã đạt tới một điểm khi các thày nhận ra là mặc dù phản ứng đó dễ thông cảm, nó không xây dựng, vì tại sao con đã đến địa cầu như một avatar chứ? À, vì con muốn loại trừ chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào con có thể đóng góp loại trừ chiến tranh? Chỉ bằng cách biểu lộ sự sáng tạo của bản thể cao hơn của con. Nếu con đóng chặt sáng tạo lại (vì con cảm thấy gắn kết với người đau khổ) thì con cũng đóng chặt khả năng thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện. Con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách đau khổ y như những người đang đau khổ, và con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách cắt đứt sáng tạo của mình, bước vào một trạng thái sống vắng bóng mọi niềm vui vì con cho rằng con không thể vui được khi người khác còn đau khổ. Đây không phải là cách thức loại trừ một tình trạng mà con đã đến đây để góp phần loại trừ.

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa nếu con muốn tác động tích cực đến địa cầu, con sẽ không thể làm được điều này bằng cách suy nghĩ hay nhìn vấn đề y như mọi người khác vốn nhìn. Con không thể giúp khắc phục một vấn đề, một điều kiện, bằng cách thích nghi với điều kiện đó như mọi người vốn thích nghi. Các thày cần con bắt đầu suy ngẫm điều này và như thày đã nói, bắt đầu xét xem: “Đâu là những điều kiện trên địa cầu khiến tôi xốn xang nhiều nhất? Đâu là những điều kiện khiến tôi xốn xang nhiều nhất?” Thày Nada đã có giảng điều này trong sách của thày [Những Khai ngộ Thần bí về An bình] khi Nada yêu cầu con làm bài tập trong sách, nhưng các thày cũng đã yêu cầu con xem xét vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Bây giờ thày đây lại yêu con lần nữa. Thày yêu cầu các con trong tư cách nhóm hãy duyệt lại và thảo luận về vấn đề này. Đâu là những điều kiện trên trái đất khiến con không thể chung sống trong phần sâu thẳm của bản thể con? Rồi có lẽ các con thảo luận xem con đã làm thế nào để vẫn sống được trên trái đất trong khi điều kiện đó vẫn hiện hữu và con đã phải làm gì để đạt đến điểm đó. Xong con có thể bắt đầu xét xem làm thế nào con có thể tự giải thoát khỏi điều kiện đó.

Con thấy đó con yêu dấu, một lần nữa, điều vô cùng quan trọng là con cần nhìn nhận những gì các thày đã nói ở đây. Khi con đến địa cầu – dù con là avatar hay một cư dân nguyên thủy phải chạm mặt với sa nhân lần đầu – con ở một tầng tâm thức nào đó. Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, và do sự kiện con ở đây (mặc dù như thày vừa nói, có thể con đã thích nghi với một số điều kiện hay con đã rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ) thì con vẫn đã thu hoạch một nhãn quan khác hơn, một độ trưởng thành cao hơn sau khi sinh sống trên một hành tinh như thế này. Có nghĩa là giờ đây con có thể nhìn vào quyết định ban đầu của mình khi con quyết định sẽ thích nghi thế nào với hoàn cảnh. Con có thể nhìn nó từ một góc độ rộng lớn hơn. Con có thể thấy nó giới hạn con ra sao và do đó con đạt tới điểm nhận diện nó là một cái ngã. Con đã tạo ra một cái ngã cho phép con sống trên địa cầu trong khi điều kiện đó vẫn có mặt, nhưng ngã này cũng có chức năng cắt đứt khả năng sáng tạo của con. Con có thể nhận diện ngã đó, xem xét nó từ ngoài, nhận ra nó không phải là con và do đó con có thể quyết định để cho nó chết đi.

1.7. Thoát khỏi vấn đề mà không giải quyết vấn đề

Con hãy ghi nhận tất cả mọi điều các thày vừa trình bày. Ngã này có thể nghĩ là con không thể an bình trên địa cầu chừng nào một điều kiện nào đó hiện hữu. Do đó nó có thể phóng chiếu vào con là con cần phải giải quyết điều kiện đó trước khi con có thể an bình, nhưng như các thày đã nói, thật sự không phải vậy. Chính con – cái Ta Biết – có khả năng nhìn ra đó chỉ là một cái ngã đang phóng chiếu quyết định phi lý này vào con, và con có khả năng quyết định: “Đây không phải là quyết định mà tôi muốn sẽ quy định tôi, quy định cuộc sống của tôi trên địa cầu này nữa.” Con có thể quyết định để cho ngã chết mà không cần phải giải quyết vấn đề, cái vấn đề mà ngã đã phóng chiếu cho con giải quyết.

Vì vậy con yêu dấu, công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên mà thày giao cho con trong hội nghị này là mở ra cuộc thảo luận về các đề tài này. Trước hết con hãy nhận diện các điều kiện con không thể sống với. Con yêu dấu, con cần nhận thức là có một phần của cơ chế thích nghi qua đó nhiều người trong các con, những người tâm linh, đã cảm thấy mình cần phải tỏ ra tích cực, mình cần có một cái nhìn tích cực về cuộc sống trên trái đất. Cho nên đôi khi con có xu hướng phủ nhận các cảm xúc tiêu cực của mình. Con đi vào phủ nhận, con che giấu chúng, và con không nhìn nhận là mình đã có cảm xúc tiêu cực. Như ngay cả Phật Gautama cũng có nói, điều hoàn toàn chấp nhận được là con công nhận mình có một số cảm xúc rất mãnh liệt về một số điều kiện trên trái đất. Hoàn toàn chấp nhận được là con đưa chúng lên mức nhận biết ý thức để con có thể thỉnh gọi và làm tan biến năng lượng. Và nhờ vậy, con nhìn ra cái ngã đã tạo ra những cảm xúc này và để cho ngã đó rốt cuộc chết đi.

Con không thể làm được điều này nếu con luôn luôn muốn duy trì cái cảm nhận cực đoan của một số người theo phong trào Thời Mới: “Ô mọi chuyện đều tốt hết.” Như các thày đã nói, con là một người biết suy nghĩ thì con không thể nhìn vào các điều kiện trên trái đất rồi bảo là mọi chuyện đều tốt hết, vì rõ ràng là không. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con biết rõ điều này nhưng thỉnh thoảng con vẫn có những cảm xúc mà con không nhận diện – mà con không thật sự sẵn lòng nhận diện vì chúng làm con sợ hãi đôi chút. Con không biết làm gì với chúng nhưng thày nói với con điều này: Con hãy nhận diện các cảm xúc này, đây là một phần bài tập của con cho hội nghị này. Và một khi con đi vào sâu hơn, các thày sẽ giúp con đối phó với chúng, khắc phục chúng và giải thoát khỏi chúng để con có thể an bình với việc mình ở đây trên hành tinh này. Và nhờ con an bình cho nên con có thể thực sự góp phần vào việc loại trừ một điều kiện nhất định.

Và như vậy, thày cảm ơn con với bài truyền đọc khai giảng này, thày cảm ơn con đã hiện diện, đã tham dự hội nghị này, đã sẵn lòng làm thành viên của mạn đà la này. Con có khả năng thực hiện một điều gì đó cho tâm thức tập thể mà chưa một nhóm người nào đã từng làm theo cách này – một nhóm người sẵn lòng thực hiện việc này một cách ý thức trong bát cung vật lý. Và thày cảm ơn con đã làm vậy.

3 | Trải nghiệm chính mình trên địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và thày muốn tiếp nối bài truyền đọc trước của thày cùng cuộc thảo luận của các con. Thày biết ơn các con đã sẵn lòng chia sẻ cảm nghĩ của mình về việc hiện diện trên trái đất. Cho dù các cảm nghĩ này có tích cực hay không mấy tích cực, điều quan trọng là con chia sẻ và sẵn sàng thừa nhận cảm xúc của mình. Lẽ tự nhiên, không cảm xúc nào là sai trái. Cảm xúc mà con có là những cảm xúc con có. Chắc chắn đây là một hành tinh thật khó khăn, đặc biệt nếu con đến từ bối cảnh một hành tinh tự nhiên. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của trái đất và đã sống ở đây lâu hơn nhiều, con sẽ không có cùng cảm xúc đó, mà lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy đây là một hành tinh tích cực hơn hẳn so với sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và địa cầu. Điều quan trọng là con cần thừa nhận cảm xúc của mình, vì như các thày đã nói nhiều lần, con không thể thực sự khắc phục được cảm xúc, khắc phục được ngã cho đến khi con ý thức có ngã hiện hữu, ngã có mặt ở đó, và ngã có một số cảm xúc.

3.1. Ai đang có cảm xúc?

Một khi con đưa cảm xúc ra ánh sáng, con có thể bắt đầu xem xét: Cảm xúc đến từ đâu? Thậm chí con có thể đặt câu hỏi: “Ai đang cảm xúc như vậy, là chính tôi hay một cái ngã?” Lẽ tự nhiên, đó là một cái ngã đang cảm xúc như vậy vì cảm xúc có liên hệ đến trái đất. Có nghĩa đó là một cảm xúc phản ứng, và chỉ một cái ngã phản ứng mới có thể có cảm xúc như vậy. Nhưng con – trong tư cách mà các thày gọi là cái Ta Biết – thật ra con không cảm xúc. Cảm xúc có thể có mặt trong cảm thể của con và con có thể trải nghiệm thế giới qua sự pha màu, qua cái phin lọc của cảm xúc đó, nhưng con không thực sự cảm xúc. Thày cũng hiểu là con cảm thấy như thể mình đang có cảm xúc, và hậu quả là cảm xúc đang con. Lý do là vì con bị đồng hóa với một cái ngã và con chưa nhìn ra đó là một ngã tách biệt, đó không phải là con. Đấy là tại sao con có công thức – mà các thày đã trao cho con trước đây – về cách làm thế nào con nhận diện được các ngã này, làm thế nào con xoay chuyển ra khỏi chúng và cuối cùng để cho chúng chết đi.

Khi con làm vậy, và một khi con đã thỉnh cầu sự tiêu hủy hay biến hóa của năng lượng chất chứa trong ngã, thì con có thể giải thoát khỏi cảm xúc đó. Nhờ vậy con có thể tự do đón nhận cuộc sống của mình trên trái đất với một cảm nhận tích cực. Lý do các thày yêu cầu con biểu lộ bất kỳ cảm xúc nào con có là để con không phải sống thời gian còn lại của mình trên hành tinh này với gánh nặng của các cảm xúc tiêu cực rất mãnh liệt này. Thày có thể cam đoan với con là chính thày đây khi còn hiện thân đã có những cảm xúc rất tiêu cực về việc mình ở trên trái đất. Hoàn toàn không có chuyện thày muốn cho con hình ảnh là thày có gì khác con, rằng thày cao hơn con đến độ thày không có những cảm xúc đó. Thày đã từng có nhiều cảm xúc giống như các con vừa bày tỏ hôm nay.

3.2. Cảm nhận của con về người khác

Nếu con xem những gì được nói ở đây, con có thể thấy là nói chung, có một sự khác biệt giữa cảm nhận của con về trái đất và cảm nhận của con về con người. Sẽ hữu ích nếu con có thể – chỉ trong suy nghiệm riêng tư – nhìn xem con cảm thấy gì về người khác. Xong con có thể tìm cách phân biệt. Liệu cảm tưởng mà con có, chẳng hạn rằng “người ta thật ngu ngốc”, liên quan đến mọi người hay chỉ một số người? Và nếu vậy thì loại người nào? Nhiều khi con sẽ thấy là những cảm xúc mãnh liệt nhất về người khác đều liên quan đến sa nhân. Cảm xúc đó do sa nhân gây ra. Điều sa nhân đã làm gì con hay con đã chứng kiến sa nhân làm gì tới người khác khiến con có cảm xúc rất mãnh liệt về con người. Xong con có thể bắt đầu phân biệt xem, có lẽ, con không có cảm xúc này về mọi người. Có nghĩa là con có thể bắt đầu có một quan hệ khác hơn với hầu hết mọi người mà con gặp, vì chắc chắn hầu hết mọi người con gặp đều không là sa nhân, mặc dù nhiều người trong các con – không phải tất cảmột số các con – đã có quan hệ với sa nhân trong kiếp này hay nhiều kiếp trước.

Thày có nói trước đây là thày mong muốn con đừng nhìn thày như thể thày là sa nhân, đừng liên hệ với thày xuyên qua những hình ảnh và kỳ vọng do sa nhân tạo ra. Thày cũng mong muốn con quan hệ với người khác như thể họ không phải là sa nhân, để con phân biệt và nhận ra là các cảm xúc mãnh liệt nhất của con về người khác liên quan đến sa nhân. Do đó con không thể đánh giá hay liên hệ với người khác, với mọi người khác, dựa trên các cảm xúc này. Có nghĩa là con có thể bắt đầu làm dịu bớt cái nhìn của mình về người khác để con thấy không phải ai ai cũng như vậy. Con không dựa trên sa nhân để suy diễn về mọi người, và con không để cho sa nhân tô màu cái nhìn cùng quan hệ của con với mọi người.

Nhiều người trong các con cảm thấy là mình đã đến đây phần nào để giúp người khác bằng nhiều cách, có lẽ cũng để giáo huấn người khác. Tất cả các con đều cảm thấy là, đúng vậy, con đã bị sa nhân đối xử thật tàn tệ, nhưng nhiều các con cũng cảm thấy mình bị đa số con người trên địa cầu đối xử thờ ơ. Hoặc họ đã không đếm xỉa gì đến con, hoặc họ đã phần nào thiếu thân thiện, không muốn bị phiền hà. Đây là một cảm giác rất phổ biến trong số các avatar, nói chung trong số những người tâm linh, rằng người ta không muốn lắng nghe con. Họ không muốn nghe con trình bày về cáí hiểu tâm linh, cái biết tâm linh của con. Họ không muốn bị xáo trộn mà chỉ muốn sống theo cùng lối sống như cũ, họ không muốn thay đổi. Nhiều các con đã cảm thấy lẻ loi. Con đã cảm thấy bị ruồng bỏ. Chính do cơ chế này mà con đã cảm thấy mình không thuộc về nơi đây. Điều này không dính dáng trực tiếp đến sa nhân mặc dù sa nhân cũng đã cố trấn áp con vì con dạy cho con người những điều sa nhân không muốn họ biết. Dù sao thì phản ứng mạnh mẽ hơn mà con gặp phải là từ những người chỉ không muốn nghe con nói bất cứ gì con muốn nói, họ không muốn nghe thông điệp của con đem lại.

3.3. Quyền tự quyết và cảm nhận của con về con người

Đây là một đề tài sẽ cần con làm việc thêm từ phía con trước khi con có thể đạt tới điểm làm hòa với sự kiện – một sự kiện mà con có thể quan sát thấy – là hầu hết mọi người trên địa cầu không muốn nghe một lời dạy tâm linh. Như các thày có nói, thật ra họ không muốn thoát khỏi khổ đau của họ cho dù con có thể chỉ cho họ cách làm thế nào. Để làm việc này, rất có thể con sẽ phải xem xét những gì thày vừa nói về nhu cầu phát triển một lòng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Điểm này có hai phần. Con tôn trọng quyền tự quyết của người khác và đồng thời con cũng tôn trọng quyền tự quyết của chính con. Quả thật có hai khía cạnh mà con cần suy ngẫm. Trước nhất, như một avatar từ hành tinh tự nhiên, con đến từ một môi trường nơi không ai cưỡng ép quyền tự quyết của ai. Đây là một trong những đặc tính chủ yếu của một hành tinh tự nhiên. Cư dân trên hành tinh tự nhiên không có nhu cầu cưỡng ép quyền tự quyết của ai khác.

Khi con đến đây, con mang sẵn lòng tôn trọng quyền tự quyết, nhưng rất có thể sau khi chạm mặt với sa nhân và chứng kiến cách họ khuynh loát mọi người trên trái đất như thế nào, thì con quên mất lòng tôn trọng này. Thậm chí con còn có thể khoác lấy thái độ là bởi vì con người đã bị sa nhân cưỡng bức và khuynh đảo, cho nên việc con tìm cách đánh thức họ dậy một cách hơi mạnh bạo cũng chấp nhận được. Con không khuynh đảo giống như sa nhân, nhưng con ép họ phải nghe những gì con nói.

Một số các con có thể nhìn lại một số lời dạy cũ mà các thày đã trao truyền về ý nghĩa việc là Ki-tô trên địa cầu, rằng con ở đây để lay chuyển hiện trạng chứ không ở đây để bỏ mặc mọi người trong cùng trạng thái như trước. Con thấy Giê-su thách đố mọi người, lật bàn của kẻ đổi tiền, thách thức các thày thông giáo và người Pha-ri-si, thách đố những ai thày gặp, ví dụ như qua câu “Ai trong số các người sạch tội thì cứ việc ném đá trước đi!” cùng nhiều tình huống khác. Con có thể nhìn vào đó và nói: “Nhưng nếu chúng ta ở đây để tạo sự thay đổi tích cực và nếu con người bị mắc bẫy sa nhân đến vậy, thì có thể chúng ta cần phải mạnh tay đâm thủng sự kháng cự đó để chạm họ với một thông điệp nào đó.” Không cứ các luận điểm này là vô giá trị nhưng câu hỏi là như sau: Con đang hành xử từ tâm thái nào đây? Điều các thày kêu gọi các con làm – các con là avatar – là bước lên mức cao nhất con có thể trên trái đất. Con có thể làm bất cứ gì con chọn làm trên trái đất, nhưng hành động của con không dựa trên các ngã phản ứng đó, nó không đến từ ngã gốc cùng tất cả mọi ngã khác con đã tạo ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, người ta có thể nhìn Giê-su với tâm vỏ ngoài, chụp lấy các lời dạy về quả vị Ki-tô xong quyết định với tâm vỏ ngoài: “Đây là những gì tôi sẽ làm để đánh thức mọi người.” Suốt những thập niên các thày trao truyền giáo lý qua nhiều tổ chức khác nhau, các thày đã chứng kiến một số người phản ứng theo kiểu đó. Con thấy ở Kazakhstan, Chân sư MORE đã ban bài truyền đọc vô cùng sâu sắc về một đợt truyền pháp trước, khi người ta háo hức dùng “tia sáng xanh” để xông ra ngoài đánh thức người khác [Xem sách Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh Cao nhất]. Điều con nhận thấy là mặc dù mục đích cũng chính đáng nhưng cách thực hiện thì lại dựa trên những cái ngã vỏ ngoài mà họ đang mang. Gần giống như thể một số người đã sống qua bao nhiêu kiếp bực dọc với việc mình có mặt trên trái đất, đến độ giờ đây họ cảm thấy các chân sư thăng thiên vừa cho họ toàn quyền xông ra ngoài để hung hăng chiếu “tia sáng xanh” vào người khác. Giờ đây họ làm vậy để đền bù cho tất cả những kiếp dài bực dọc kia, giờ đây họ có thể hoàn thành mục tiêu họ đã đặt ra.

Con thấy không, con yêu dấu, những người đó không an bình với việc họ ở trên địa cầu. Giê-su cũng không luôn luôn an bình khi thày thách thức người khác. Nhưng điều này không có nghĩa là con không thể vươn đến mức con có thể sống trên địa cầu và có lẽ thách thức người khác – nếu việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con và cũng là điều con cảm nhận – nhưng con làm vậy từ một tâm thái an bình. Như vị sứ giả này có nói hồi nãy, con không đang cố thay đổi người khác để tránh một cảm xúc tiêu cực trong chính mình hay về chính mình, vì con đã giải quyết xong cảm xúc đó nơi chính con. Con đã loại bỏ các ngã tách biệt đó và nhờ vậy con an bình khi con tương tác với người khác.

3.4. Ép buộc người khác vì lợi ích của họ

Vậy thì làm thế nào con đạt tới điểm cảm thấy an bình khi tương tác với người khác cho dù họ có phản ứng thế nào đối với con? Con cần kinh qua tiến trình mà sứ giả này đã mô tả và nhận ra là trước khi ông đến đây, ông tưởng ông đến đây để thay đổi địa cầu, nhưng dần dà ông đã sẵn lòng nhận ra đó không phải là cách hiểu cao nhất về lý do ông đến địa cầu. Kỳ thực ông đến địa cầu để thay đổi chính mình, để ông có một số trải nghiệm và nhờ vậy phát triển lòng chấp nhận trọn vẹn đối với quyền tự quyết mà trước đó ông không có – một sự chấp nhận mà nhiều các con đây cũng đã không có trên một hành tinh tự nhiên.

Đây là một bí ẩn! Trên một hành tinh như trái đất nơi con chứng kiến sa nhân không ngừng khuynh loát và cưỡng bức quyền tự quyết của loài người, làm thế nào con chống chọi được đây? Làm thế nào đối phó? Con sẽ xô đẩy quyền tự quyết của người khác đến chừng nào vì con nghĩ đó là lợi ích của họ? Sứ giả này đã sẵn lòng nhận diện một sự thật đơn giản: Mặc dù có những sa nhân ác ý thao túng quyền tự quyết của nhân loại, nhưng cũng có nhiều sa nhân tin rằng chúng thao túng quyền tự quyết của người khác vì lợi ích của những người đó. Chúng tin là chúng đang tranh đấu cho một chính nghĩa cao cả, và cứu cánh này quan trọng đến độ nó có thể biện minh cho phương tiện, là cưỡng ép quyền tự quyết của những người không biết gì hơn.

Thậm chí con còn có thể nhận ra là sa nhân, khi chúng khuynh đảo con người trên trái đất, phần lớn cũng mang cùng một nỗi bực dọc giống như con, là người ta không chịu đáp ứng, người ta không ưa thay đổi, và người ta chỉ muốn sống theo cùng một lối sống hết kiếp này đến kiếp khác. Con có thể dần dần nhận ra là con không thể, trong tư cách một avatar, cho phép mình có thái độ bảo rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện, rằng việc thúc ép người khác vì lợi ích của họ là chuyện chấp nhận được. Điều này con chỉ có thể nhận ra khi con suy ngẫm sự thật này: Quyền tự quyết là tuyệt đối. Đấng Sáng tạo đã tạo ra một tạo vật rồi đã gửi những sinh thể tự nhận biết vào đó, trao cho họ quyền tự quyết tuyệt đối. Họ hoàn toàn tự do thăm dò bất cứ việc gì có thể làm được với quyền tự quyết.

Một khía cạnh của sự việc này là khi con hoàn toàn có quyền tự quyết, con không khởi sự với mức tâm thức cao nhất. Con khởi sự với một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, nhỏ như cái chấm, và con dùng quyền tự quyết của mình dựa trên bản ngã này. Thật ra, dù con ở tầng tâm thức nào đi nữa, và dù con có là một chân sư thăng thiên hay không, thì con vẫn luôn luôn sử dụng quyền tự quyết của mình dựa trên ý niệm bản ngã của con lúc đó. Con không thể làm gì khác hơn.

Câu hỏi đặt ra là: Ngã đó thấy nó tách biệt như thế nào so với các sinh thể khác? Tất cả các con đều đã lớn lên trong một môi trường nơi con không đơn độc – ở đó có nhiều sinh thể khác. Bí ẩn ở trung tâm quyền tự quyết là: “Làm thế nào tôi quân bình được quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người quanh tôi?” Đây là bí ẩn cốt lõi, và kỳ thực con sẽ không giải quyết nó được cho đến khi con thăng thiên. Cho nên thày không chờ đợi là con sẽ nhất thiết – ở tầng tâm thức hiện thời của con cho dù đó là tầng nào – giải quyết được nó trọn vẹn. Thày chờ đợi là con sẽ suy ngẫm về bí ẩn này và bước về hướng thực sự chấp nhận quyền tự quyết cùng ý nghĩa của tự quyết.

3.5. Con sẽ phải dấn sâu vào tách biệt đến chừng nào?

Điều con nhận ra ở đây là khi Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho những người đồng sáng tạo, ngài ban cho họ quyền tự do thám hiểm bất cứ điều gì có thể làm được với ý chí tự do. Một trong những điều này là con có thể đóng vai một cái ngã tách biệt. Và câu hỏi thực sự là như sau: Con sẽ cần dấn thân vào tách biệt sâu đến bao nhiêu trước khi con ngộ ra đó không còn là điều con muốn làm nữa?

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói sa nhân cũng giống như những nhà thám hiểm. Chúng thám hiểm: “Tôi có thể dấn thân bao xa vào tách biệt trước khi tôi không chịu nổi nữa?” Con có thể nói là phải có người đi vào tách biệt để tâm thức tập thể có ý niệm về: Đâu là hậu quả của việc chọn lựa trong tách biệt? Con có thể đi vào một cuộc thảo luận triết lý hơn và nói: “Liệu những người đó có sử dụng ý chí tự do hay không? Liệu sa nhân có một ý chí tự do hay không khi tầm nhìn của chúng dựa trên một ý niệm bản ngã vô cùng tách biệt?”

Đó không phải là điều thày muốn đào sâu ở đây. Điều thày muốn nói là con có quyền tự quyết theo nghĩa là bất kể bản ngã của con là gì, bất kể con đã phát triển bản ngã nào, con vẫn được phép chọn những chọn lựa mà con có thể thấy từ ngã đó. Những chọn lựa này đều mang hậu quả và con sẽ trải nghiệm hậu quả đó. Có thể nói đây chính là cơ chế an toàn. Con càng đi sâu vào tách biệt, càng khiến cho môi trường của mình dày đặc hơn, thì con sẽ càng phải đấu tranh nhiều hơn để dùng quyền tự quyết xuyên qua ngã đó. Cho nên đó chính là điều sẽ rốt cuộc đưa con tới điểm con phải thốt lên: “Nhất định phải có một cách thực thi ý chí của tôi cao hơn cách này. Nhất định phải có một ý chí tự do hơn cái tôi đang có ngay bây giờ.”

Là một avatar, điều con có thể làm là nói: “Để quyền tự quyết trải bày ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nơi tôi đang sống, phải có một số sinh thể dấn thân vào tách biệt sâu như sa nhân đã dấn thân. Phải có những hành tinh nơi các sinh thể này có thể tự bày tỏ, và địa cầu là một trong những hành tinh đó.” Nếu thế thì câu hỏi còn lại sẽ là: Tại sao trong tư cách là avatar con đã chọn đến hành tinh này? Con đã chọn đến đây là vì con cũng muốn có được trải nghiệm sinh sống trên một hành tinh nơi một số người đã đưa ý chí “tự do” của họ đến những mức vị kỷ và tách biệt cùng cực. Con muốn có trải nghiệm đó. Điều này, rất có thể con đã quên mất, và con cũng quên mất lý do tại sao. Sứ giả này cho đến nay đã ngộ ra là ông đã muốn trải nghiệm đó vì ông muốn đạt được một sự chấp nhận trọn vẹn về quyền tự quyết mà ông không có được trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng đây vẫn chưa là cái hiểu tối hậu.

3.6. Tự trải nghiệm trên một hành tinh dày đặc

Thật ra con đã không đến đây vì con muốn thay đổi người khác hay thay đổi hành tinh. Con đã không đến đây vì con muốn giải cứu hay cứu độ bất cứ ai, hay vì con muốn phán xử sa nhân hay thay đổi sa nhân. Con đã không đến đây chỉ vì con muốn có một tầm hiểu sâu sắc hơn về quyền tự quyết. Con đã đến đây là vì con muốn trải nghiệm bản ngã của con trong loại môi trường này. Con muốn trải nghiệm chính mình là con người như thế nào trong một môi trường dày đặc như trái đất.

Con có thể nói: “Làm sao tôi có thể ngu ngốc đến độ muốn điều đó?” Nhưng đây không phải là vấn đề ngu ngốc. Con thấy đó, con yêu dấu, trên các hành tinh tự nhiên có nhiều sinh thể khác nhau. Có nhiều loại hành tinh tự nhiên khác nhau. Hành tinh được mô tả trong sách Những Kiếp của Tôi chỉ là một ví dụ hành tinh tự nhiên. Có những hành tinh tự nhiên nơi con gặp một số sinh thể vô cùng nhiệt tình muốn tiến triển. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có một số sinh thể nhiệt tâm muốn tiến triển hơn người khác. Có thể đến một điểm con cảm thấy con đã thám hiểm một hành tinh tự nhiên đầy đủ hết mức rồi, con đã trải nghiệm mọi chuyện có thể được trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên.

Đúng vậy, con đã có thể đi tới một hành tinh tự nhiên khác biệt với hành tinh con từng sinh sống và con đã có thể có được một trải nghiệm khác hơn. Một số các con biết được là có những hành tinh phi tự nhiên, và đơn giản con đã quyết định: “Tôi đã nếm trải đủ mọi chuyện tôi có thể tưởng tượng nổi về cuộc sống trong một môi trường như hành tinh tự nhiên, nhưng bây giờ tôi muốn nếm trải xem cuộc sống sẽ ra sao trên một hành tinh phi tự nhiên.” Đây là một mong muốn rất chính đáng, rất có giá trị, vì thật ra nó giúp nâng cao tâm thức tập thể trong toàn bầu cõi. Cho nên mới có những sinh thể – là những sinh thể đã đi xa nhất có thể ở hành tinh tự nhiên – bảo rằng: “Để đạt một trình độ tự điều ngự cao hơn, tôi muốn trải nghiệm một môi trường hoàn toàn khác lạ vì tôi muốn trải nghiệm chính mình là như thế nào, mình phản ứng như thế nào, mình tự nhìn mình như thế nào trong loại môi trường đó.”

Các thày đã cho con lời dạy trước đây là để bước vào hiện thân trên một hành tinh như địa cầu, con phải bước xuống tầng tâm thức thứ 48. Con phải đi xuyên qua mọi tầng ở trên tầng 48, khoác vào từng ảo tưởng một cho tới khi con khoác vào tất cả mọi ảo tưởng ở tầng 48. Sau đó con đi vào hiện thân lần đầu tiên như một avatar ở tầng này, và con nhìn hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này, con phản ứng lại hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này.

Con yêu dấu, không có gì trục trặc sai trái ở đây. Con có hiểu chăng? Không có gì trục trặc trong quá trình này. Con chỉ đơn giản làm những gì phải làm để con có thể đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Chuyện này không ngu ngốc. Chuyện này không sai trái. Đây là một chọn lựa con đã lấy. Những gì con muốn trải nghiệm đúng như những gì con đã trải nghiệm trên địa cầu, cụ thể là con đã đến đây với một trình độ tâm thức nào đó tương ứng với hành tinh. Có thể nói, tầng tâm thức thứ 48 đại khái là tầng cơ bản, tầng tự động ở địa cầu. Đây là tầng con bước xuống để trải nghiệm cảm giác mình là mình trên hành tinh địa cầu. Điều con thực sự muốn là trải nghiệm: “Tôi cảm thấy thế nào khi tôi là tôi trên địa cầu?” Và điều này, con đã trải nghiệm đó. Con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng có thật là tôi đã trải nghiệm điều này? Nếu tôi trải nghiệm nó qua tầng tâm thức thứ 48, nếu tôi đã hứng chịu chấn thương nhập đời (mà con bảo là không thể tránh được, nhưng dù sao nó cũng rất đau đớn) và nếu tôi đã tạo ra ngã gốc cùng tất cả những ngã kia và tôi đã trải nghiệm địa cầu xuyên qua đó, thì liệu tôi có thực sự trải nghiệm chính mình là như thế nào không?”

Con yêu dấu, thày hiểu là con không thể hiểu ngay tức thì khi thày nói với con điều đó, nhưng chắc chắn con có thể suy ngẫm. Con có thể dần dần đạt tới điểm nhận ra là mặc dù rất nhiều trải nghiệm con đã có trên trái đất đã bị pha màu bởi một trạng thái tâm thức nào đó, một ngã vỏ ngoài nào đó, nhưng đằng sau tất cả, con vẫn trải nghiệm được cảm giác mình là như thế nào trong một môi trường như vậy. Cái này vượt khỏi các ngã vỏ ngoài cùng phản ứng của ngã vỏ ngoài. Nó sẽ đòi hỏi con làm việc một chút để kết nối với nó.

3.7. Kết nối với bản chất tâm linh của con

Các thày đã từng giảng cho con về việc kết nối với nhân tính cơ bản của con, nhưng có thể nói là vượt lên trên, đây còn là vấn đề kết nối với bản chất tâm linh của con, với cá thể cơ bản của con. Các thày đã gọi đó là Hiện diện TA LÀ của con, và các thày có nói là cá thể chân thực của con được chứa đựng trong Hiện diện TA LÀ. Tuy nhiên con yêu dấu, đó là gì chứ? Đâu là nơi con đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu? Không phải trong ngã vỏ ngoài. Không phải trong ngã gốc. Thậm chí không phải luôn trong cái Ta Biết. Cái đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu là Hiện diện TA LÀ của con. Ở tầng mức đó, con đã có trải nghiệm mình là như thế nào trên địa cầu. Con đã có trải nghiệm này ngay từ khi con đến đây lần đầu tiên.

Hiển nhiên, thày cũng biết con không kết nối được với nó một cách ý thức. Con đã có một trải nghiệm khác ở tầng mức cái Ta Biết khi con đồng hóa với các ngã vỏ ngoài, với bốn thể phàm, và con đã trải nghiệm xuyên qua phin lọc đó. Điều các thày muốn nói với con ở đây là với giáo lý các thày đã trao truyền về việc khắc phục ngã gốc cùng các ngã kia, con thực sự có khả năng đạt tới điểm trải nghiệm – con, cái Ta Biết, có thể trải nghiệm khi con đang đầu thai – những gì Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm. Con có khả năng trải nghiệm là chính mình, là Hiện diện TA LÀ hiện thân trên địa cầu, trong khi con đầu thai trên địa cầu. Trải nghiệm này là cách tối hậu để con làm hoà với việc mình ở đây trên trái đất.

Nhưng này con, thày muốn trình bày với con là hầu hết các con – thật ra thày có thể nói tất cả các con – đều đã từng có những thoáng trải nghiệm thế nào là chính mình trên địa cầu. Đôi khi con đã có một cảm nhận vô cùng vi tế nhìn cuộc sống một cách khác hơn. Có lẽ đó là một cảm nhận yêu thương, một cảm giác nối kết, một cảm giác nhìn địa cầu mà không đeo vào cái phin lọc bình thường của sự phán xét; con chỉ ngắm nhìn cái đẹp, có thể là cái đẹp của thiên nhiên, có thể là cái đẹp của con người, hay có lẽ vẻ đẹp của đứa bé ngủ say. Cho dù đó là gì đi nữa, đây là những khoảnh khắc con bắt được một vẻ đẹp nào đó.

Đằng sau cái đó còn có thể có cảm nhận là con hoàn toàn trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không phân tích hay phán xét mà con chỉ trải nghiệm. Con đang trải nghiệm nó không qua tất cả những cái ngã tách biệt kia, mà kỳ thực con trải nghiệm như sinh thể mà con thực là. Không có phán xét, không có phân tích, không có mục đích. Không có gì mà con phải làm. Con chỉ trải nghiệm địa cầu. Đây là một trải nghiệm mà dần dần con có thể có được ngày càng thường xuyên hơn. Chúng ta có thể gọi đó là con ở trong tâm thái trung hòa, nhưng chúng ta cũng có thể mô tả nó nhiều cách khác. Con có thể nói là con ở trong một trạng thái hợp nhất, một trạng thái nối kết, con không cảm thấy mình lẻ loi ở đây trên trái đất. Con không cảm thấy mình không thuộc về nơi đây vì con đang nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và vì vậy con cũng thuộc về mọi nơi khi con nối kết như vậy.

Điều hoàn toàn thông cảm được là sự kiện hầu hết các con đã không cảm thấy mình ở nhà mình trên hành tinh này. Chính thày đây cũng đã không cảm thấy mình ở nhà khi thày còn hiện thân. Ngay cả trong kiếp đầu thai chót, thày cũng không cảm thấy ở nhà. Khi thày đứng đó trước cây thập giá và chứng kiến con trai mình lìa đời, thày đã không cảm thấy ở nhà chút nào trên hành tinh này. Thày chỉ muốn đi khỏi nơi đây. Dẫu vậy, thày cũng có những lúc cảm nhận được sự nối kết đó, sự hợp nhất đó, và thày an bình khi ở đây. Đối với con khi con tiếp tục làm việc trên ngã tách biệt và loại bỏ ngã gốc, con có thể đạt tới điểm con nói: “Tại sao tôi lại chọn đến trái đất nhỉ? Bởi vì tôi, sinh thể rộng lớn hơn mà tôi LÀ, đã muốn trải nghiệm chính tôi trong loại môi trường này.”

Khi con không bị tất cả ngã tách biệt kia lôi kéo vào các khuôn nếp phản ứng, con có thể có được trải nghiệm này. Bất kể hành tinh này như thế nào, bất kể nó gian nan thế nào, con người khó khăn thế nào, con vẫn cảm thấy con đang là chính mình trên hành tinh này. Thày hiểu hoàn toàn là đối với đa số các con, cảm giác này sẽ bắt đầu khi con một mình, khi con ở trong một tâm thái thiền định, tĩnh lặng và không có gì bên ngoài quấy rầy con. Sau đó con có thể có những hé thoáng nhận biết cao hơn. Thày cũng gợi ý là mặc dù thày đã không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, và Giê-su cũng không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, nhưng thày vẫn muốn gợi ý cho con là hầu hết các con đều có khả năng trong kiếp này đạt tới điểm cảm thấy như vậy trong mọi lúc. Nó chỉ trở thành một hậu cảnh cho trải nghiệm của con trên trái đất.

Có thể con sẽ vẫn gặp một số tình huống rất căng thẳng khi con không nhận biết ý thức là cảm giác đó có mặt. Con tập trung vào tình huống mà con phải đương đầu. Một khi tình huống được giải tỏa, con có thể học cách quay trở lại trạng thái nhận biết nối kết rộng lớn hơn, hầu con không bao giờ cảm thấy đơn độc ở đây. Con không bao giờ cảm thấy là mình không thuộc về nơi đây vì con nhận ra địa cầu không phải là nhà mình. Không có gì trong bát cung vật chất là nhà mình. Hiện diện TA LÀ của con mới là nhà của con. Khi con kết nối với Hiện diện TA LÀ đó, thì bất cứ nơi đâu con cũng ở nhà, vì môi trường vỏ ngoài không thật quan trọng nữa.

3.8. Những gì phải hay không được xảy ra trên địa cầu

Con sẽ cần gì để tiến lên trạng thái đó? Thày biết thày đang đặt ra một mục tiêu hơi cao. Thày không chờ đợi con sẽ làm được trong vòng năm phút. Con cần gì để khởi sự? Con cần phải suy ngẫm trước hết về quyền tự quyết. Khi con hiểu những gì thày vừa nói, rằng trái đất chỉ đơn giản là một hành tinh cho các sinh thể đã chọn thám hiểm xem họ có thể dấn thân vào tách biệt sâu đến chừng nào trước khi họ không chịu nổi nữa, thì con có thể thấy thật là vô nghĩa mà đặt ra cái gì phải xảy ra hay cái gì không được xảy ra trên một hành tinh như trái đất.

Có thể con mang một ký ức nào đó về hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn trái đất và thấy con người đau khổ đến chừng nào do chiến tranh, xung đột hay điều này điều nọ. Con có thể bảo là con người không được đau khổ, cho nên các biểu hiện kia không được có mặt. Đây là một mối quan tâm chính đáng trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không có giá trị trên một hành tinh phi tự nhiên. Nó không xây dựng. Nó chỉ đặt con vào một tâm trạng phản xây dựng sẽ ngăn cản con an bình với sự có mặt của con trên trái đất. Khi con xét đoán là một điều gì không được xảy ra trên trái đất thì ngay giây phút đó, con đã tự đặt mình vào một chiếc hộp nơi con không thể an bình.

Con cần tìm được cách chuyển tâm để nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trên địa cầu đều là do có ai đó chọn biểu hiện điều đó vì họ cần đến trải nghiệm đó. Nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết – và con sẽ cần lòng tôn trọng này để có thể an bình trên một hành tinh như thế này – thì con có thể nói: “Tôi cần cho phép những người đó đau khổ như họ đã chọn đau khổ. Tất nhiên tôi cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của tôi để tôi không phải đau khổ giống như họ. Tôi không phải đồng cảm với họ. Thậm chí tôi không phải thương hại họ. Tôi không phải chú ý đến đau khổ của họ nếu cái đó lấy mất sự an bình của tôi.”

Điều thày muốn nói ở đây là con cần phải kinh qua một giai đoạn, như các thày đã có trình bày, là con lựa bỏ ra khỏi đời con một số chuyện không mang tính xây dựng cho sự tăng triển của con. Con nói: “Ngay bây giờ, thật không xây dựng cho tôi nếu tôi cảm thấy thương hại hay trắc ẩn đối với những người đang đau khổ. Vì vậy, tôi có thể chấp nhận là tôi không dành sự chú ý của mình cho nỗi đau khổ của họ.”

Có thể điều này không phải là mãi mãi, nhưng con cần phải đi muốt cơ chế này mà thày đang mô tả, khi con cảm thấy có điều gì không được xảy ra và nó tước đi an bình của con. Để con tìm thấy an bình, thật cần thiết và cũng chấp nhận được là con kinh qua một giai đoạn khi, trên cơ bản, con bỏ qua sự đau khổ của người khác và tập trung vào việc khắc phục tất cả những ngã tách biệt kia, những ngã phản ứng kia. Có thể sẽ tới một ngày khi con đạt được một mức độ bình an nội tâm thì bấy giờ, con có thể quay ra ngoài và tìm cách giúp đỡ người khác, thách đố người khác hay bất cứ gì con cảm thấy cần làm, nhưng con làm vậy từ một trạng thái an bình nội tâm thay vì từ một trạng thái bất an, một trạng thái bực dọc, một trạng thái nơi con không ngừng xét đoán là có điều gì không được có mặt ở đây.

3.9. Con không ngu ngốc

Con thấy không, con yêu dấu, những gì sứ giả này vừa nói quả là đúng. Khi con cảm thấy mình ngu ngốc đã đến đây, thì tự động con cũng bắt đầu xét đoán là người khác ngu ngốc khi họ không đáp ứng với con và không để cho con giúp họ. Điều này cũng có nghĩa là con đang tự giam mình trong một chiếc hộp nơi con tự phán xét là mình có thể ngu ngốc hay sai lầm khi đến địa cầu.

Con yêu dấu, điều trước tiên, chính sa nhân đã đặt ra chuẩn mực này trên địa cầu và con đã dần dà chấp nhận chuẩn mực của sa nhân. Giờ đây con đang tự phán xét mình y như sa nhân phán xét con, chứ không như các chân sư thăng thiên nhìn con. Hơn thế nữa, con yêu dấu, con cũng không đang tôn trọng quyền tự quyết của con. Như thày đã nói: Tại sao con chọn đến địa cầu chứ? Là vì con muốn tự trải nghiệm chính mình trong môi trường này. Con yêu dấu, làm thế nào chọn lựa này sai lầm được chứ? Làm sao có chuyện sai lầm khi con mong muốn trải nghiệm chính mình trong một môi trường đặc thù? Đây chính là mục đích và ý nghĩa của một người đồng sáng tạo. Chắc chắn là khi con vươn lên những tầng nhận biết cao hơn thì mục đích của con là tự trải nghiệm trong một môi trường đặc thù, và bằng cách nhìn xem mình đáp ứng thế nào với môi trường này thì con tăng trưởng. Không bao giờ có thể có gì sai quấy trong chọn lựa này. Đơn giản, đó là một chọn lựa rất chính đáng và sáng giá. Con đã chọn đóng góp để nâng cao bầu cõi của con bằng cách đến một hành tinh như địa cầu và trải nghiệm chính mình ở nơi đây.

Con có thể nói: “Thế còn chuyện con muốn giúp nâng cao địa cầu thì sao? Chẳng phải tất cả chúng con đều là người đồng sáng tạo và mục đích chúng con là nâng cao toàn bầu cõi, và hiển nhiên một hành tinh phi tự nhiên chẳng cần được nâng lên hay sao?” Điều này đúng, nhưng câu hỏi là: Làm thế nào con giúp nâng cao địa cầu, một hành tinh như địa cầu? Không phải bằng cách làm cái gì đó! Nếu con đã quên, con hãy đọc lại quyển sách của thày Nada một lần nữa, ở đó thày giảng về việc ở đây mà không làm gì và làm thế nào con người đã tạo ra tất cả mọi vấn đề khi cố làm một cách cưỡng ép. Làm thế nào con thực sự nâng cao được địa cầu? Bằng cách ở đây, bằng cách ở ngay đây.

Không cứ là những gì con có thể làm hay có thể nói bên ngoài sẽ thay đổi được địa cầu, mà là chính sự kiện con đã đến đầu thai, và vì vậy ở một mức độ nào đó, con là một điểm trụ neo, một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Nếu con thực sự muốn đóng góp thay đổi địa cầu, con hãy trở thành một cánh cửa càng ngày càng mở rộng hơn cho Hiện diện TA LÀ. Con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Con không xét đoán trong tâm vỏ ngoài là con phải làm hay không được làm gì, rằng ánh sáng phải chiếu toả như thế nào, rằng thay đổi nào là cần thiết và người khác phải phản ứng ra sao. Con yêu dấu, con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Đây là cách thực sự thay đổi địa cầu. Không bao giờ có chuyện con phải xuống đây ở tầng tâm thức 48 và ngay lập tức là một cánh cửa hoàn toàn rộng mở cho Hiện diện TA LÀ của con, mà đây là một tiến trình vì con khoác vào tâm thức tầng 48 rồi chứng tỏ làm cách nào con có thể vươn lên từ đó.

Con yêu dấu, hãy nhìn lại các kiếp sống của con, rồi nhìn xem con đang đứng ở điểm nào. Tại sao con đang ngồi đây nghe bài truyền đọc này? Vì con đã chứng tỏ được tiến trình nâng cao tâm thức của con, con đã chứng tỏ được điều đó qua cuộc đời của con cho tới điểm này. Thày không bảo là con sai lầm, hay thiếu sót, hay con làm chưa đủ. Thày chỉ nói là con có khả năng đưa tiến trình này xa hơn nữa, cho đến một điểm con chứng tỏ làm cách nào người ta có thể khởi sự ở một tầng tâm thức nào đó, đạt được an bình nội tâm và hoàn toàn an bình với việc mình ở đây trên một hành tinh như thế này. Đó chính là tiềm năng cao nhất của con, là những gì hầu hết các con đều đã ấn định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình là tiềm năng cao nhất. Con đã muốn đến đây để chứng tỏ sự an bình.

Cho nên không có chuyện gì đáng trách, không có chuyện con đã làm gì sai trái. Con đã làm đúng y như những gì con cần làm. Con chỉ cần bước thêm một số bước để đạt đến an bình nội tâm khi con thật sự vui hưởng trải nghiệm bản thân mình trên hành tinh này mà con gọi là trái đất. Cho dù có khó khăn đến đâu, con vẫn có thể tránh bị lôi kéo vào tất cả những khó khăn đó, con vẫn có thể trải nghiệm Bản ngã của mình, trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang nhìn và đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Đó, con yêu dấu, là an bình.

Bất kể hành tinh này có như thế nào, con hãy yên tâm là ngay từ giây phút con hiện thân ở đây lần đầu – cho dù cái Ta Biết hay ngã vỏ ngoài đã nếm trải những gì – thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn hoàn toàn an bình với mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Hiện diện TA LÀ của con biết rõ là cái ta thực của con không thể bị bất cứ gì xảy ra trên trái đất tác động. Con đã biết điều này trước khi con đến đây, và con yêu dấu, đó là tại sao việc con đến đây không phải là một lựa chọn ngu ngốc. Con chỉ quên mất nhận biết này mà thôi.

Các thày đã cho con các dụng cụ để con hồi lại nhận biết đó, và nhờ vậy con cũng hồi lại niềm an bình mà con đã có trước khi đến đây.

Tại sao tiết lộ tuần tự?

Bài truyền đọc của Phật Gautama qua Kim Michaels ngày 24/6/2018 nhân buổi hội thảo tại Kazahstan. Đây chỉ là một trích đoạn. Phần còn lại của bài truyền đọc này, cùng với một bài thỉnh dựa trên bài truyền đọc, có thể được tìm thấy trong cuốn sách “Fulfilling you highest spiritual potential”.

Phật TA LÀ. Gautama là danh tính mà ta đã dùng khi làm việc với cuộc tiến hóa của địa cầu. Một số các chân sư khác vừa cho các con một tầm nhìn về những đợt truyền pháp trước của chân sư cũng như về kết quả đạt được. Ta muốn khai triển tầm nhìn này, quay trở lại thời điểm khi ta hiện thân trong xác thân vật lý và giảng dạy trong cõi vật lý cách đây 2500 năm.

Thần tượng hóa đức Phật

Truyện kể rằng sau khi ta đi theo con đường tu khổ hạnh và ngộ ra những giới hạn của đường tu này, ta đã chứng ngộ Bát chánh đạo, hay con đường của Phật, và nhập niết bàn. Ta giác ngộ. Rất, rất nhiều Phật tử cho đến tận ngày nay sau bao nhiêu thế kỷ vẫn nhìn sự kiện trên với một hình thức thần tượng hóa. Họ cho rằng hoặc ta là đấng duy nhất có khả năng giác ngộ, hoặc ta là bậc chứng đạt tối thượng, hoặc nữa, ta đã đạt đến trạng thái giác ngộ tối hậu tuyệt đối.      

Nói cách khác, họ nghĩ là sự giác ngộ ta đạt được 2500 năm trước là trạng thái tuyệt đối, cao nhất sẽ không bao giờ vượt qua được. Tuy nhiên, khi con xem xét thực tế mà các chân sư đã giảng dạy về 144 tầng tâm thức, thì con có thể tự đặt câu hỏi này: Khi ta giác ngộ cách đây 2500 năm và đạt đến tầng tâm thức thứ 144, liệu tầng 144 thời đó có cùng là tầng 144 thời nay hay không? Nếu con trả lời, “Phải, đó là cùng một trình độ tâm thức” thì kết quả sẽ là gì? Kết quả là hành tinh này đã không hề tiến bước trong suốt 2500 năm qua. Nghĩa là giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm đã không đưa tâm thức nhân loại lên cao một mảy may nào và do đó đã thất bại trong mục đích. Nhưng kỳ thực, tầng 144 ngày hôm nay cao hơn tầng 144 thời 2500 năm trước rất nhiều, cũng như nó cao hơn cách đây 2000 năm khi Giê-su chứng đạt, thậm chí cao hơn cả cách đây 100 năm khi các chân sư MORE (El Morya) và Kuthumi giác ngộ ở mức này, và ta có thể đưa ra nhiều ví dụ khác.

Tâm thức được nâng lên như thế nào?

Vậy thì điều gì nâng cao tâm thức? Trước hết như khía cạnh Omega, tâm thức tập thể được nâng lên. Điều này xảy ra khi trên địa cầu có đủ một túc số những cá nhân đã nâng được tâm thức mình, họ kéo theo số 80% hay 90% còn lại và do đó mức dưới cùng cũng được nâng theo. Có thể có những thời điểm khi một sự chuyển vọt xảy ra trong tỉnh giác tập thể và con người quyết định không thể chấp nhận một số biểu hiện nào đó được nữa. Kết quả là tầng tâm thức dưới cùng của nhân loại được nâng lên và những sinh thể ở tầng tâm thức đó sẽ không được phép đầu thai nữa.  

Nhưng tầng tâm thức cao nhất thì sao, cái gì nâng nó lên? Để điều này xảy ra, phải có một người lên đến tầng 144 của thời đó, rồi phát huy cao hơn nữa trong thời gian họ còn tại thế và chưa thăng thiên. Trong một nghĩa nào đó, đây là điều mà ta đã làm cách đây 2500 năm, tuy rằng ta đã nhập niết bàn ở mức thứ 144 của thời đó. Khi ta trở lại xã hội trong sứ vụ giáo huấn, ta đã không trở lại với một tâm thức đã đạt đến tuyệt đối. Ta vẫn còn tinh tấn, vẫn phát huy và tự thăng vượt trong suốt những năm tháng giảng dạy. Và ta đã nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Giê-su, tất nhiên, cũng đã làm một điều tương tự, và mọi chân sư khác cũng vậy, và đó là cách thức tâm thức cao nhất được nâng lên. Một số trong các con cũng có tiềm năng đóng góp vào tiến trình này, nghĩa là con đạt tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời xác thân và sử dụng thời gian đầu thai của mình để giúp nâng tầng này lên cao hơn.    

Vậy như con thấy, toàn bộ quan niệm cho rằng một giáo lý có thể là tuyệt đối, hay một trạng thái tâm thức có thể là tuyệt đối, hoàn toàn là ảo tưởng. Ảo tưởng đó tất nhiên là Maya, là một hình chiếu của các sinh thể sa ngã. Vì chúng không thể thăng vượt nên chúng cũng không muốn ai khác thăng vượt. Chúng nghĩ ra đủ mọi cách gian xảo để khiến cho mọi người tin là mình không thể thăng vượt được. Chúng muốn con nghĩ rằng ta đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu tuyệt đối, rằng ta là một ngoại lệ và không ai khác có thể chứng đạt cao hơn. Chúng cũng muốn con tin rằng Giê-su đã đạt tới một trình độ mà không ai có thể sánh kịp.

Trong suốt 2500 năm qua, thật sự chỉ có tương đối ít người sử dụng được giáo lý đạo Phật để đạt tới tầng tâm thức thứ 144 rồi lên cao hơn nữa. Một số các vị đó được biết đến trong truyền thống Phật giáo, nhưng cũng có những vị khác không được biết đến do họ không có sứ vụ ngoài quần chúng. Chắc chắn khi ta nhìn lại, Phật giáo đã có đóng góp vào bước tiến của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

Mỗi giáo lý thích hợp cho một tầng tâm thức

Một khi con hiểu được tâm thức ngày nay cao hơn 2500 năm trước (tức là nguyên cái thang tâm thức đã dời chuyển lên cao hơn), thì con cũng thấy được giáo lý thời đó đã được giảng dạy cho những người ở một tâm thức thấp hơn trình độ trung bình của thời nay. Điều này phần nào cho thấy sự cần thiết của một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là ở bất kỳ thời điểm nào, giáo lý chỉ có thể giảng dạy cho trình độ tâm thức hiện diện nơi những con người thời đó. Nhưng giáo lý không nhất thiết chỉ nhắm vào những mức trung bình hay mức thấp nhất của nhân loại, bởi vì cũng có một số giáo lý được truyền dạy cho những hành giả trong số 10% trên cùng.

Dù sao thì con luôn luôn cần nhìn nhận là khi một giáo lý đặc thù được đem ra truyền dạy, giáo lý đó phần lớn phải phù hợp với trình độ tâm thức trên hành tinh vào thời điểm đó. Nếu lời dạy này đem lại kết quả thì tâm thức sẽ chuyển vọt. Và khi ấy, chuyện gì sẽ xảy ra? Điều lý tưởng có thể xảy ra là có một số người nhận được lời dạy và đem ra thực hành để đạt tầng thứ 144. Lúc đó họ sẽ trở thành những công cụ của tiến hóa để đem lại một giáo lý mới, đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, hay một cách diễn giải mới cho giáo lý cũ. Và như vậy họ có thể đem lại một giáo lý phù hợp với mức tâm thức cao hơn vừa đạt được nhờ giáo lý cũ. Hiển nhiên điều này có nghĩa là trong lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ được dừng lại. Và trên một khía cạnh nào đó, điều này cũng thật đáng buồn – nếu chúng ta có thể dùng từ này – nếu những người theo giáo lý cũ tự khép kín lại đối với mọi điều mới mẻ, trở thành những kẻ giáo điều, và cũng trở thành những nhân tố làm cho giáo lý bị mất đi hiệu quả. Quả thực họ đã không cho phép giáo lý thăng vượt lên.      

25 | Sẵn sàng nhận giáo lý

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật. Gautama là danh hiệu ta dùng khi làm việc với các dòng tiến hóa trên trái đất. Một số chân sư thăng thiên đã cho con tầm nhìn ngược trở về các đợt truyền pháp trước kia của các chân sư thăng thiên và nhìn kết quả của những lần ấy. Thày muốn mở rộng tầm nhìn thêm, trở về thời gian thày còn hiện thân và truyền pháp ở cõi vật lý cách đây 2,500 năm.

25.1. Tôn sùng Phật

Kinh điển nói là sau khi thày tu tập theo con đường khổ hạnh và nhận ra những hạn chế của nó, thày khám phá bát chánh đạo hay con đường đạo của Phật, và thày đạt niết bàn, thày giác ngộ. Nhiều, nhiều Phật tử, ngay cả bây giờ sau nhiều thế kỷ nhìn các điều này với tâm sùng bái. Hoặc họ cho rằng thày là sinh thể duy nhất đạt giác ngộ từ xưa tới nay, hoặc thày là sinh thể cao nhất hoặc thày đạt được một trạng thái giác ngộ tối hậu, tuyệt đối.

Nói cách khác, họ nghĩ trạng thái giác ngộ mà thày đạt được cách đây 2,500 năm là một trạng thái tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được và không bao giờ vượt qua được. Tuy thế, nếu con xét đến hiện thực mà các thày truyền dạy cho các con về 144 tầng tâm tức, thì con có thể tự đặt câu hỏi: Khi thày đạt giác ngộ cách đây 2,500 năm, thì lúc đó thày đạt tới tầng tâm thức 144. Tầng tâm thức 144 cách đây 2,500 năm có giống y hệt tầng tâm thức 144 ngày nay chăng? Giờ đây, nếu câu trả lời là: “Đúng, giống y hệt nhau,” thì hệ quả là gì? À, hệ quả là hành tinh đã không tiến bộ gì cả trong 2,500 năm vừa qua. Hệ quả là giáo lý mà thày đã trao truyền 2,500 năm trước đây đã không nâng tâm thức của hành tinh lên và do đó đã không đạt được mục đích. Sự thực là tầng 144 ngày nay cao hơn rất nhiều tầng 144 vào 2,500 năm trước, hay 2,000 năm trước khi Giê-su đạt tầng đó, hay ngay cả khoảng 100 năm trước khi chân sư MORE và Kuthumi đạt được tầng này, và sẽ tiếp tục như thế.

25.2. Tâm thức được nâng lên như thế nào

Vậy thì điều gì nâng tầng tâm thức đó lên? À, trước tiên thì tâm thức tập thể được nâng lên và đây là khía cạnh omega. Chuyện này xảy ra khi đủ túc số tới hạn các cá nhân đã nâng cao tâm thức của họ và kéo theo 80% hay 90% thành phần thấp nhất và do đó tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên. Cũng có thể có lúc tâm thức tập thể xoay chuyển và con người quyết định là họ không còn nhấp nhận một sự biểu hiện nào đó nữa. Hệ quả là tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên và những người ở tầng tâm thức thấp nhất cũ không được phép hiện thân nữa.

Tuy nhiên điều gì nâng tầng tâm thức cao nhất lên? Ấy, một ai đó phải đạt được tầng 144 của thời của họ và sau đó tiến lên cao hơn trước khi thăng thiên. Đó là điều thày đã làm 2,500 năm trước đây, dù rằng thày nhập niết bàn ở tầng 144 của thời đó. Khi thày trở lại để làm sứ vụ giáo hóa, thày không trở lại với trạng thái tâm thức tuyệt đối. Trong những năm thày giáo hóa, thày vẫn tiếp tục tăng trưởng, tiến triển và thăng vượt chính mình. Thày nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Lẽ tất nhiên, Giê-su cũng làm như thế, các chân sư khác cũng làm như thế và đó là cách tầng 144 được nâng lên. Một số các con có tiềm năng góp phần vào tiến trình đạt tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời thân vật lý, do đó vẫn tiếp tục tiến cao hơn khi còn hiện thân và nhờ vậy con giúp nâng tầng này lên.

Con thấy chăng là toàn bộ khái niệm cho rằng một giáo lý có thể tuyệt đối, một trạng thái tâm thức có thể tuyệt đối, hoàn toàn là một ảo tưởng, nó là màn huyễn của Maya, lẽ tất nhiên nó là phóng chiếu của sa nhân. Họ không thể thăng vượt chính họ và vì vậy họ không muốn ai khác thăng vượt chính mình. Họ đã chế ra đủ loại mánh khóe tinh xảo để khiến con người nghĩ rằng điều này bất khả thi. Họ muốn con nghĩ rằng thày đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu, tuyệt đối, thày là một trường hợp ngoại lệ, không ai có thể tiến xa hơn thày. Họ cũng muốn con nghĩ rằng Giê-su đạt được một tầng tâm thức không ai làm theo được.

Trong 2,500 năm qua, quả thực đã có một số tương đối nhỏ cá nhân đã dùng giáo lý Phật giáo để cũng đạt tới tầng 144 và vượt quá tầng này. Một số người được biết tới trong truyền thống Phật giáo, một số người khác không được biết tới vì họ không có sứ vụ công cộng. Điều chắc chắn là khi thày nhìn trở về quá khứ, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến triển của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

25.3. Mỗi giáo lý đều nhắm tới một tầng tâm thức

Như vậy, khi con nhận ra là tâm thức ngày nay cao hơn tâm thức cách đây 2,500 năm (toàn bộ 144 tầng tâm thức đã dời lên cao hơn ngày trước) thì con cũng có thể thấy là giáo lý được trao truyền rất lâu trước đây thực sự đã được trao truyền cho một tầng tâm thức thấp hơn là tầng tâm thức trung bình ngày nay. Lẽ tất nhiên điều này phần nào cho thấy nhu cầu tiết lộ tuần tự. Điều này cũng cho thấy là bất cứ giáo lý được trao truyền ở một thời điểm nào cũng chỉ có thể được trao truyền cho một tầng tâm thức lúc đó. Điều này không có nghĩa là giáo lý được trao truyền cho tầng tâm thức trung bình hay tầng tâm thức thấp nhất, vì có một số giáo lý nhắm tới những người ở tầng 10% cao nhất.

Tuy nhiên, con luôn cần nhận ra rằng khi một giáo lý đặc trưng được trao truyền, chính yếu nó được trao truyền dựa trên tầng mức tâm thức của hành tinh vào thời điểm đó. Nếu giáo lý thành công, thì tâm thức sẽ xoay chuyển. Lý tưởng thì chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? À, trong hoàn cảnh lý tưởng thì có một số người hấp thu giáo lý đó, dùng giáo lý để đạt tầng tâm thức 144. Sau đó họ trở thành dụng cụ để đem lại một giáo lý mới, hay đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, một cách diễn giải mới về giáo lý cũ. Do đó, họ có thể đem lại một giáo lý thích ứng với tầng tâm thức mới đã được đạt tới nhờ giáo lý cũ. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là trong hoàn cảnh lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ ngưng. Điều này cũng có nghĩa là một điều đáng buồn (nếu chúng ta muốn dùng từ ngữ này) là khi các môn đồ của một giáo lý trở nên giáo điều, đóng tâm lại với bất cứ điều gì mới và do đó họ trở nên công cụ quả thực phá hủy hiệu lực của giáo lý. Họ không cho phép giáo lý thăng vượt.

Khi thày truyền pháp 2,500 năm trước đây, con thấy (nếu con đọc một số kinh điển) là thày kể một câu truyện hay một giai thoại. Sau đó cũng giai thoại này, dùng cùng lời lẽ, được nhắc lại ba lần. À, điều này cần thiết vì sự dày đặc của tâm thức vào thời điểm đó và cũng vì thời đó không có văn bản ghi lại. Lúc đó chỉ có truyền thống truyền khẩu và thay vì con người có một văn bản để đọc nhiều lần thì họ nghe ba lần và nhờ vậy nắm bắt rõ hơn. Điều này dẫn tới một đề tài mà thày muốn đề cập là đề tài lặp đi lặp lại.

25.4. Các chân sư có lặp đi lặp lại không?

Các thày có bao giờ lặp đi lặp lại khi trao truyền các bài truyền giảng chăng? Một số các con sẽ nói ngay tức khắc: “Có, các thày thường nói về cùng đề tài, các thày thường trao truyền một giáo lý gần như y hệt giáo lý đã được dạy trước đó.”

Ấy, con yêu dấu, vậy các thày lặp đi lặp lại không? Hay các thày luôn luôn trao truyền một giáo lý dựa trên tâm thức lúc đó và tâm thức người đón nhận – những người mà các thày nhắm tới. Khi con nhìn trái đất, thì con thấy sự chuyển động không ngừng của khuôn đúc rất rất phức tạp của tâm thức đại chúng, cũng như là của tâm thức cá nhân của tất cả những người ở trên một tầng tâm thức nào đó – tầng thứ 48. Những người ở dưới tầng này thường không chuyển động hay họ chuyển động theo tâm thức đại chúng vì họ bị tâm thức đại chúng chế ngự.

Khi con đi lên trên tầng 48, con bắt đầu giành lại được cá tính của con và điều này có nghĩa là con luôn luôn di động. Nếu con có thể nhìn một hình ảnh biểu trưng cho trái đất ở tầng tâm thức, thì con sẽ thấy một mô hình vô cùng phức tạp những dòng sóng năng lượng và hình ảnh. Để minh họa điều này (thày nhấn mạnh đây là một minh họa, không hoàn toàn sát sự thật và chính xác), ta có thể nói là tâm thức tập thể trên trái đất trông giống mô hình rất tinh vi của những sóng năng lượng đang rung động để tạo thành một số hình ảnh. Giống như con người có thể có hình ảnh trong tâm họ, tâm tập thể cũng có thể có hình ảnh. Nó giống như mấy tấm hình chụp mà từ xa trông như một tấm hình nhưng khi lại gần thì con thấy là hình lớn được tạo thành từ nhiều hình chụp nhỏ riêng rẽ. Ta cũng có thể so sánh nó với khái niệm ảnh ba chiều (hologram), duy có điều là tất cả những hình nhỏ tạo nên tổng thể không giống nhau vì những nhóm người khác nhau và những cá nhân khác nhau có những hình ảnh khác nhau, ít nhất là khác nhau một chút, ở trong tâm họ. Đây là một tấm hình vô cùng phức tạp. Giờ đây, nếu con thấy được nó, con sẽ thấy là nó không bao giờ đứng yên, nó luôn luôn di động. Nói cách khác, đây là một tiến trình. Có lúc đi lên, có lúc đi xuống, nhưng không bao giờ đứng yên.

Sẽ không bao giờ có trường hợp con có thể chụp một bức hình của tâm thức tập thể và hai giờ đồng hồ sau con chụp lại và có cùng một tấm hình. Con có thể chụp tấm hình với khoảng thời gian ngắn nhất và tốc độ màn trập ngắn nhất mà máy hình của con có thể làm được, giả dụ như một phần 5,000 của một giây. Ngay sau đó con chụp lại và hai tấm hình sẽ không giống nhau. Mọi chuyện di động nhanh đến độ đó. Khi các thày trao truyền một bài truyền đọc, nó dựa trên phương trình rất phức tạp đang hiện hữu trong tâm thức tập thể của toàn thể, nhưng đặc biệt hơn là trong tâm thức tập thể của nhóm người mà các thày đang hướng dẫn.

Giờ đây, những người nghe bài giảng hay đọc bài giảng, nếu họ thực hiện tiềm năng cao nhất của bài giảng thì họ dùng bài giảng để xoay chuyển tâm thức của họ. Điều này có nghĩa là một khi họ cho phép tâm xoay chuyển, thì phương trình của tâm thức đại chúng lẫn tâm thức nhóm và tâm thức cá nhân đều xoay chuyển. À, lẽ tất nhiên, ngày nay ta có công nghệ cho phép con thu âm bài truyền đọc và in nó ra. Con có thể đọc bài truyền đọc lần đầu tiên, con có thể hấp thu nó ở mức cao nhất mà con có thể có ở tầng tâm thức hiện hành của con. Con có thể trải nghiệm sự xoay chuyển và lúc đó phương trình tâm thức của con đã xoay chuyển. Sau đó, con có thể trở lại, đọc bài truyền đọc lần thứ nhì, và dù các từ ngữ vẫn y hệt như trước, nhưng trải nghiệm của con khi đọc lần thứ nhì không giống trước vì tâm con đã xoay chuyển khi đọc lần đầu. Có nghĩa là lần thứ nhì này con có thể hấp thu điều gì đó mà con không hấp thu lần đầu.

Thày không nói là lần đầu tiên con đọc một bài truyền đọc, thì con cần rút tỉa được hết mọi thứ theo khả năng của mình. Thày chỉ muốn nói là con cần cho phép bài truyền đọc xoay chuyển tâm thức của con, để con có một trải nghiệm xoay chuyển. Nếu con làm vậy, con có thể đọc trở lại cùng bài truyền đọc đó (năm phút sau đó hay năm tháng sau đó) và con sẽ không có cùng trải nghiệm. Có nghĩa là con có thể xoay chuyển tâm thức lần thứ nhì, nắm bắt nhiều hơn từ bài truyền đọc và có nghĩa là lần thứ ba con cũng có một trải nghiệm khác và tiếp tục như thế. Điều này có thể tiếp tục xảy ra trong một thời gian dài cho nhiều người trong các con. Điều này có nghĩa là khi con tới điểm con đọc một bài truyền đọc và con không cảm thấy xoay chuyển thì có thể có hai nguyên do. Một là con đã rút tỉa được hết những gì con có thể lấy được từ bài truyền đọc đó vào lúc này và do đó con cần học cái gì khác để tiếp tục xoay chuyển tâm thức. Nguyên do thứ hai là con đã đóng tâm lại vì con cảm thấy là con đã biết điều mà bài truyền đọc đang cố nói.

Giờ đây, ta lấy trường hợp con không nghe lại cùng một bài truyền đọc nhưng con nghe các thày trao truyền một bài truyền đọc khác nói về cùng một số khái niệm. Một lần nữa câu hỏi là: Con có xoay chuyển tâm thức khi nghe bài truyền đọc đầu tiên trong đó các thày đề cập đến chủ đề đó? Nếu con có xoay chuyển, thì con có thể nghe bài truyền đọc thứ nhì và sẽ rút tỉa được điều gì mà con không rút tỉa được khi nghe bài đầu. Do đó, con thực sự không cảm thấy là các thày đang lặp đi lặp lại.

25.5. Sự phức tạp của các bài truyền đọc

Con nhận ra rằng trong buổi hội nghị này, những người trong các con thực sự muốn mở tâm với các thông điệp mà các thày trao truyền, với năng lượng mà các thày tỏa xuống, thì các con đã xoay chuyển tâm thức nhiều vô cùng. Điều này có nghĩa là nếu con quay trở lại và nghe lại bài truyền đọc đầu tiên của thày Quan Âm, thì con sẽ rút tỉa được nhiều hơn từ bài này so với lần con nghe trực tiếp. Đó là vì bài truyền đọc kích động tiến trình xoay chuyển dẫn con tới tình trạng hiện hành.

Giờ đây một lần nữa, các thày thực sự không bao giờ lặp đi lặp lại cho dù các thày dùng từ ngữ rất tương tự và nói về cùng các khái niệm. Trong một số trường hợp, đó là vì các thày quả thực đang nói chuyện với một cử tọa khác một chút. Có thể nói là một số điều mà các thày đã nói trong hội nghị này đã được nói ra vì các thày ở một vị trí địa dư đặc thù và đang nói với những người sống trong khu vực này, là vùng Á châu nới rộng.

Giáo lý các thày không bị giới hạn bởi vị trí địa dư. Có một số yếu tố trong các bài truyền đọc được trao truyền trong hội nghị này thích nghi cho riêng vị trí địa dư này. Một số yếu tố khác thích ứng với sự kiện là ngay cả trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ khi giáo lý về ngã gốc được trao truyền ở Estonia, đã có sự xoay chuyển, không những trong tâm thức tập thể mà cũng có trong tâm thức của nhóm đệ tử. Những đệ tử đã thu nhập những bài truyền đọc này và áp dụng chúng, đã góp phần lớn tạo nên sự xoay chuyển đó.

Điều mà các thày trao truyền bây giờ dựa trên phương trình rất phức tạp đang có mặt bây giờ và ở đây. Lẽ tất nhiên các con không trải nghiệm nó vì sẽ bị choáng ngợp. Các thày thực sự trải nghiệm nó khi các thày lên kế hoạch trao truyền một bài truyền đọc. Đó là lý do tại sao thày giản dị cho con biết để con biết các thày làm việc như thế nào, tại sao đôi khi các thày nói về cùng các khái niệm nhưng từ những góc độ khác. Con hầu như có thể nói là tuy các từ ngữ giống nhau, nhưng khuôn đúc, hình học trên các cõi cao hơn (cõi tình cảm, lý trí và bản sắc) có thể rất khác. Điều này có nghĩa là từ tầm nhìn của các thày, các thày thấy rõ ràng những khác biệt và các thày cũng thấy là đôi khi từ ngữ chủ yếu là chén thánh để các thày rót những khuôn đúc hình học vào ba thể cao hơn.

25.6. Lạm dụng một giáo lý tâm linh

Giờ đây, chúng ta lấy giáo lý này và nhìn trở về khoảng thời gian 2,500 năm từ khi thày giảng Kinh Pháp Cú và Bát Chánh Đạo. Điều đạt được, lẽ tất nhiên, là có sự xoay chuyển tâm thức nhưng sự xoay chuyển này không đạt được tiềm năng cao nhất – tại sao vậy?  À, lý do chính là lúc nào cũng có một nhóm đệ tử có khuynh hướng dùng giáo lý với tâm đường thẳng, phân tích. Họ muốn phân tích giáo lý, đặt giáo lý vào một bối cảnh đường thẳng hay dòng thời gian. Họ đã làm điều mà các chân sư khác đã nói tới trong hội nghị này: họ dùng giáo lý để xác chứng và củng cố các ngã tách biệt mà họ đã tạo ra do chấn thương nhập đời.

Các avatars luôn luôn muốn hiểu, và đây là một mong muốn lành mạnh và chính đáng. Điều con cần nhận ra là mong muốn này có thể bị pha màu và thậm chí bị phá hoại bởi các ngã tách biệt này. Một số ngã có nhu cầu kiểm soát để chúng có thể tin là bây giờ chúng đã tìm thấy một giáo lý tuyệt đối giải thích sự vận hành của vũ trụ, đây có thể là pháp Phật hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo, thuyết Cộng sản, thuyết duy vật hay bất cứ gì khác.

Sau đó họ sẽ dùng giáo lý trước để xây dựng ý niệm giáo lý này tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng và phân tích yêu thích điều này. Do đó, không những họ phá hoại sự tiến triển của chính họ, nhưng (ta có thể nói như vậy) khi những đệ tử này trở thành giáo sĩ đoàn của một tôn giáo, thì họ có thể phá hoại sự tiến triển của toàn bộ phong trào bằng cách cản trở sự thăng vượt của giáo lý. Đây là điều con đã thấy xảy ra với nhiều tôn giáo và đó là lý do vì sao con thấy thày thách thức các thày Bà la môn của Ấn giáo. Con cũng thấy Giê-su thách thức các thày Thông giáo và Pha-ri-si của Do thái giáo.

Mục đích của thày là chỉ cho các con, những đệ tử chân sư thăng thiên, là đây chỉ là khuynh hướng của một số ngã tách biệt, hoặc muốn đặt mọi chuyện trong một bối cảnh tuyệt đối, hoặc muốn an toàn, hoặc muốn có cảm giác là mình quan trọng hay đã đạt được thành quả nào đó. Bất cứ điều gì ngã vỏ ngoài cần, nó có thể dùng tâm đường thẳng. Kết quả là bắt đầu từ thời điểm 2,500 năm trước (lẽ tất nhiên từ cả trước đó từ thời Ấn độ giáo và suốt tận các tổ chức chân sư thăng thiên), các thày đã thấy một tỷ lệ đệ tử có tâm thức này: họ mở tâm với giáo lý nhưng họ tiếp cận giáo lý bằng tâm vỏ ngoài, phân tích, tâm rất đường thẳng tất nhiên bị pha màu bởi các ngã. Tâm đường thẳng rất nhạy cảm với sự lặp đi lặp lại vì tâm đường thẳng, tất nhiên, mang tính chất đường thẳng vì nó có một dòng thời gian. Nó luôn luôn so sánh hiện tại với quá khứ và trong một số trường hợp phóng chiếu tới tương lai.

Khi tâm đường thẳng gặp một giáo lý tâm linh, thì nó rút tỉa từ đó những gì nó rút tỉa được, chủ yếu là một hiểu biết vỏ ngoài, trí năng, thuận lý, lý luận. Nó dùng hiểu biết này để phân tích giáo lý, phân rẽ nó thành nhiều thành phần và nói: “Được rồi, phần này đi vào danh mục này trong kho dữ liệu của tôi, phần kia đi vào danh mục kia.” Lúc đó, khi người đệ tử nghe một giáo lý khác nói về những khái niệm tương tự, tâm đường thẳng sẽ nói: “Ồ, tôi không cần cất ý niệm này vào danh mục vì tôi đã có nó trong kho dữ liệu rồi, đây là một sự lặp lại.” Nó lờ khái niệm đó, nó không nhận ra điểm vi tế là khái niệm này được giảng một cách khác. Tâm đường thẳng không thể nhận ra bất cứ điểm gì mới mẻ khi nghe lại.

Đó là lý do vì sao con có những đệ tử trong mọi tổ chức chân sư thăng thiên, trong mọi tôn giáo và triết lý thần bí khác mà các thày đã trao truyền (lẽ tất nhiên trong cả những giáo lý mà các thày không trao truyền, nhưng do sa nhân và đoàn chưởng giáo giả chế ra). Các thày đã thấy các đệ tử đó đi vào trạng thái tâm cho phép họ tới điểm cảm thấy: “Giờ đây, tôi nắm được căn bản của giáo lý.” Kể từ đó, trên cơ bản họ ngưng tiến triển. Hoặc nếu có điều mới lạ hiện ra mà họ chưa có trong kho dữ liệu thì họ sắp xếp nó vào một danh mục. Người đệ tử sẽ tới điểm cảm thấy: “Tôi đã hiểu được khuôn đúc tổng thể của giáo lý.” Kể từ điểm đó, họ nghĩ là tất cả mọi điều khác được giảng sau đó chỉ là chi tiết phải phù hợp vào khuôn đúc tổng thể đó.

25.7. Sơ tâm

Tuy nhiên, con yêu dấu, khi con cho phép mình tạo ra khuôn đúc đó trong tâm (là bây giờ con đã nắm được căn bản của giáo lý), thì điều con nắm được dựa trên tầng tâm thức hiện hành của con. Nó không là – nó không là – hiểu biết và trải nghiệm cao nhất. Quả thật, sự khác biệt giữa các đệ tử đến với một giáo lý, sau đó ngưng tiến triển và dậm chân tại chỗ và các đệ tử vẫn tiếp tục tiến triển là các đệ tử loại thứ hai không dính mắc vào chuyện nắm bắt tổng thể giáo lý. Họ quả thực sẵn sàng tiếp cận giáo lý với cái tâm mà Giê-su gọi là tâm trẻ thơ hay người Phật tử gọi là Sơ tâm (tâm của người bắt đầu), cái tâm nhìn mọi sự như mới.

Thoảng hoặc, con cho phép mình bỏ qua bên cái mà con nghĩ là sự nắm bắt cơ bản hay nắm bắt tối hậu giáo lý. Con cho phép mình vào trạng thái tâm trung hòa và con đọc và nghe giáo lý như mới. Lúc ấy con sẽ nhận được một điều gì ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước kia nhưng chưa nhận được điều đó. Đó là lúc giáo lý, ngay cả khi con đã đọc nó nhiều lần, có thể tạo sự xoay chuyển tâm con. Nói cách khác, sự lặp lại (mà một số đệ tử nhận thấy) ở trong tâm chân sư thăng thiên hay trong tâm người đệ tử?

Thày góp ý với con là câu trả lời thật sự không quan trọng. Vì điều quan trọng là sự tiến triển hay không tiến triển của con không nằm trong tâm các chân sư thăng thiên – nó nằm trong tâm của con. Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là, như các chân sư khác đã gợi ý, khi con khắc phục được ngã gốc và các ngã tách biệt khác phát xuất từ nó, thì con thật sự có thể thăng vượt tâm đường thẳng, phân tích. Con không còn nhu cầu phải kiểm soát hết mọi thứ, phải có nắm bắt căn bản về vũ trụ. Lúc ấy con có thể tiếp cận giáo lý với một mức độ tự do cao hơn trước kia nhiều vì con không bị pha màu bởi các ngã tách biệt này.

25.8. Các ngã tách biệt sợ giáo lý mới

Trên cơ bản, tất cả các con có thể thấy là ở một số điểm trên con đường tu, con đã nhận được một giáo lý mới khuấy động điều gì đó trong con, kích động điều gì đó trong con. Thí dụ, khi Giê-su giảng về tự ngã, thì một số đệ tử bị kích động bởi các bài giảng này. Thậm chí có một số đệ tử sợ phải đọc bài giảng kế tiếp về tự ngã vì tự ngã của họ lo sợ bài giảng sẽ phơi bày khía cạnh đó của tự ngã.

Con sẽ luôn luôn có khuynh hướng là ngã tách biệt cảm thấy nó đang kiểm soát con và đường tu của con, và nó sợ một giáo lý mới có thể đe dọa cảm giác nó đang làm chủ tình hình. Nếu con nhận ra điều này trong con, thì con chỉ cần dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để bước lui lại và nhận ra đây chỉ là một ngã tách biệt đang cảm thấy như vậy. Đây không phải là con vì con không thể bị đe dọa bởi bất cứ điều gì có thể giúp con vượt thăng chính mình. Cái Ta Biết, khi nó ý thức bản thể thực của nó, không thể bị đe dọa bởi bất cứ giáo lý nào.

25.9. Từ kết quả tới tiến trình

Khi con đã khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, thì con có thể tiến tới điểm con có tiềm năng xoay chuyển. Các chân sư khác đã đặt nền móng, đã nói về điều này và thày không có gì nhiều hơn để nói thêm ngoại trừ chỉ cho con thấy sự xoay chuyển là con chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Các thày đã trao cho các con giáo lý là con bắt đầu (đa số các con) như những avatars trên các hành tinh tự nhiên. Con bắt đầu với một ý niệm bản ngã giới hạn. Con đã mở rộng nó bằng cách thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của con. Nhiều người trong các con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ hình dung một hoàn cảnh hay hình thể nào đó trong cõi vật lý và sau đó thị hiện hình thể đó.

Quả thực con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ khiến vật chất tuân theo những hình ảnh và khuôn đúc trong tâm con. Con đã tu tập để đạt được tâm làm chủ vật chất. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy sự đau khổ, thì con nghĩ: “Tôi muốn xuống dưới đó và thị hiện một kết quả tích cực để giải thoát con người khỏi khổ đau.” Các chân sư khác đã nói là động cơ nguyên thủy đưa con xuống đây không phải là động cơ cao nhất. Để thực sự có tự do thăng thiên, con cần xét lại động cơ của con dựa trên tâm thức cao hơn mà con có bây giờ. Qua đó, con buông bỏ động cơ lúc trước và các niềm tin đằng sau nó. Như một avatar thì niềm tin chính mà con cần buông bỏ để thăng thiên là gì? À, đó là con cần xoay chuyển từ chú tâm vào thành quả sang chú tâm vào tiến trình.

Các thày có nói với con là trên cõi thăng thiên có sự phát triển không ngừng, và con có thể tiến triển đến tận tâm thức Đấng Sáng tạo. Các thày có nói là không ai trên trái đất sẽ đạt được trạng thái giác ngộ tối hậu mà sau đó không thể tiến triển nữa. Con hãy tự hỏi: “Đấng Sáng tạo đã tạo ra cái gì? Phải chăng là một kết quả, một kết quả cố định, hay một tiến trình kéo dài mãi mãi, mãi mãi?” Lẽ tất nhiên câu trả lời là Đấng Sáng tạo không chú tâm vào việc tạo một kết quả mà chú tâm vào tiến trình. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ để tạo thuận lợi cho tiến trình này. “Tiến trình nào?,” con có thể hỏi. Tiến trình tự thăng vượt, mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống.

Tâm đường thẳng sẽ hỏi: “Ấy, nhưng sự thăng vượt hàm ý có sự chuyển động từ một giai đoạn lên giai đoạn kế tiếp. Nếu tôi cứ tiếp tục hết đoạn đường phía trước, thì sẽ phải tới một điểm tối hậu của sự thăng vượt nơi tôi đạt đến tầng tối hậu và không thể thăng vượt nữa. Nếu tôi phóng chiếu ngược về sau, phải có một điểm mà trước đó không có thăng vượt vì thăng vượt khởi sự ở đó lần đầu tiên.” Con yêu dấu, đây là giới hạn chính của tâm đường thẳng. Dòng sông sự Sống không có khởi đầu và không có kết thúc. Tâm đường thẳng sẽ không bao giờ nắm được điều này. Các ngã tách biệt mà con đã tạo ra trên trái đất sẽ không bao giờ nắm được điều này. Cái Ta Biết có thể nắm điều này. Nó không thể hiểu, con không thể hiểu là không có khởi đầu, không có kết thúc nhưng con có thể trải nghiệm, con có thể trải nghiệm dòng chảy và sự liên tục của dòng chảy.

25.10. Làm sao các avatars có thể ngăn chặn sự thăng thiên của mình

Con có tiềm năng dùng các giáo lý và dụng cụ để xoay chuyển, và sự xoay chuyển này là chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Tại sao điều này lại quan trọng nhiều như vậy? Bởi vì, con yêu dấu, các thày đã nói gì về sự thăng thiên? Con tới điểm con đứng trước cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên. Nếu con bước qua thì con thăng thiên, nhưng để có thể bước qua, con phải quay đầu nhìn lại trái đất để xem có điều gì thu hút con trở lại không.

Chuyện gì xảy ra nếu con xuống trái đất như một avatar với viễn quan muốn đạt một kết quả nào đó nhưng con vẫn chưa đạt được kết quả đó? À, như vậy làm sao con thăng thiên được? Câu trả lời đơn giản là: Con không thể! Điều này có nghĩa là con có thể tới điểm là trong mọi diện khác con đã hội đủ điều kiện thăng thiên. Nhưng trong lãnh vực đặc biệt này con chưa hội đủ điều kiện vì con chưa chịu thua, con chưa buông bỏ, con chưa bỏ đi sự dính mắc muốn đạt kết quả đó trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là con đang cho phép sự thăng thiên của con tùy thuộc vào chọn lựa của người khác trên trái đất, khi họ ở trong trạng thái tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Hiển nhiên, lý do tại sao con không tạo được kết quả mong muốn trên trái đất là vì những người khác không muốn thay đổi. Điều này có nghĩa là trong vị thế một avatar, con nay có thể rơi vào tâm thức sa ngã và bước ra tìm cách ép uổng người khác phải thay đổi, nhưng lẽ tất nhiên, làm điều này sẽ không cho phép con thăng thiên.

Con cũng có thể đi vào trạng thái không biết phải làm gì. Con như đang lơ lửng trong trống không, con đang di động thì bị khựng lại, như người ta nói. Con quả thật có thể ngồi yên một thời gian (thậm chí trong nhiều kiếp sống) không biết làm sao giải quyết bài toán bí ẩn là có điều gì trên trái đất mà con không thể để dở dang được.

Con thấy chăng ở đây câu hỏi trọng yếu cho người avatar? Con nghĩ rằng (hay ít nhất con có khuynh hướng nghĩ như vậy cho tới khi con khắc phục được các ngã gốc) điều duy nhất đưa con tới trái đất là để làm dịu nỗi đau khổ ở đây và đem lại một thay đổi tích cực. Con cảm thấy nếu con không tạo được sự thay đổi đó, thì có thể là con đã lầm lẫn khi tới đây, có thể là con đã lãng phí thời giờ, có thể là con không thể rời nơi đây, hay bất cứ điều gì khác. Con bất an, con không toại nguyện. Cách duy nhất để con thăng thiên như một avatar, không phải là con thành tựu viễn kiến ban đầu khi xuống đây, nhưng là con thăng vượt nó, con tiêu tán nó, con vứt nó đi, con buông bỏ nó, con không dính mắc với nó, con cho cái ngã chết đi và con nói: “Nó có đáng gì đâu đối với con? Con sẽ đi theo thày – Giê-su, Phật, Saint Germain, thày MORE,” hay bất cứ ai mà con xem là vị thày riêng của con. 

Bằng cách dùng các giáo lý về ngã gốc, con có thể tới điểm giải quyết vấn đề. Người sứ giả này đã trải nghiệm điều này sau nhiều tháng làm việc với các giáo lý này. Trong ông có sự xoay chuyển và bỗng nhiên ông nhận ra, ông trải nghiệm, ông hoàn toàn chấp nhận: “Tôi không phải làm gì hết trên trái đất.”

Điều này không có nghĩa là con thăng thiên ngay tức khắc. Con có thể tiếp tục hiện thân, con có thể sống một cuộc đời năng động. Thậm chí, con có thể, từ một nhãn quan vỏ ngoài, làm nhiều chuyện nhưng con không hành động qua sự pha màu của ngã gốc và các ngã khác nữa. Các ngã này cảm thấy con phải làm điều gì đó, con phải thành tựu điều gì đó, việc con tới trái đất phải đáng công sức mình. Việc con tới trái đất đã đáng công sức con vì con đã xoay chuyển tâm thức và như các thày khác đã nói, đây chính là mục đích cao hơn. Khi con làm hòa với điều này, đấy là lúc con đã đạt được một phần của quả vị Phật, nếu ta có thể nói quả vị Phật có nhiều mức độ.

25.11. Là Phật hành động

Lúc đó, con có thể là Phật hành động trên trái đất nhưng điều này không thể xảy ra cho tới khi con khắc phục điều mà ta có thể gọi là sự dính mắc gốc đó. Thày mong muốn có thể trao truyền giáo lý này 2,500 năm trước đây nhưng không làm được lúc ấy vì phương trình của khuôn đúc trong tâm thức tập thể chưa sẵn sàng. Bây giờ thì nó đã sẵn sàng. Lẽ tất nhiên, dù các thày nhấn mạnh nhiều đến các giáo lý này tại hội nghị này và hội nghị trước, không có nghĩa là tất cả mọi người đã sẵn sàng nhận các giáo lý này.

Con có thể nhìn đoàn đệ tử theo học giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này và các giáo lý chân sư thăng thiên khác, và không phải tất cả đệ tử đều sẵn sàng nhận giáo lý về ngã gốc. Họ chưa áp dụng hết các giáo lý trước bởi vì, như các chân sư khác đã nói, các thày đã cẩn thận xây dựng để tới mức có thể trao truyền các giáo lý này. Con cần có giáo lý về tự ngã. Con cần có giáo lý về nhị nguyên và tư duy cuồng đại. Con cần có giáo lý về 144 tầng tâm thức. Con cần có khái niệm về xoay chuyển lên cao hơn, khắc phục các phàm linh nội tại và tự ngã tách biệt và do đó xoay chuyển từ một tầng tâm thức lên tầng trên.       

25.12. Mơ mộng một giáo lý cao hơn

Một lần nữa, sẽ có những đệ tử sẽ dùng tâm vỏ ngoài để quyết định: “Chúng tôi cần những giáo lý này và cần chúng ngay bây giờ.” Nhưng họ có thể chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý vì họ chưa dùng đủ các giáo lý mà họ đã có rồi, họ chưa xoay chuyển tâm thức đủ. Nói chung, con có thể nói là điều mà các thày thấy (khi nhìn lại khoảng thời gian 2,500 năm qua và xa hơn nữa) là lúc nào cũng có một số đệ tử không nắm bắt được cơ chế căn bản mà thày mô tả ở đây: Là con cần lấy một giáo lý và cho phép nó xoay chuyển tâm thức của con.

Chỉ khi nào con làm xong điều đó thì con mới sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn. Sẽ luôn luôn có một nhóm đệ tử rơi vào trạng thái tâm cảm thấy chút ít bực bội vì họ biết trong nội tâm là họ đã không tiến triển tới mức có thể đạt được với giáo lý mà họ đã có. Thay vì chịu nhìn vào chính mình và nhận ra lý do vì sao họ không tiến triển, thì họ đổ lỗi rằng lý do họ không tiến triển là vì có một giáo lý cao hơn mà họ chưa được nhận. Phải chi họ có được giáo lý cao hơn đó, thì sau đó họ sẽ sáng ngộ, họ sẽ tiến bộ. Đây là một vòng xoáy bất tận.

Các thày đã thấy một số người đến với một giáo lý chân chính, đón nhận giáo lý này, đạt tiến bộ nhưng sau đó dậm chân tại chỗ, không muốn tiến xa hơn vì họ không muốn xoay chuyển để đi vào con đường tu nội tâm và nhìn chính mình. Họ ngưng trệ và họ đứng tại chỗ. Đôi khi họ trở nên bực bội, cảm thấy mình là nạn nhân, hay trách cứ người khác về chuyện họ không có giáo lý. Thậm chí họ trách cứ vị đạo sư đã không thăng tiến đủ vì đây là lý do vì sao họ không thăng tiến được. Hoặc họ chỉ trích giáo lý, chỉ trích những người khác. Hoặc, như các chân sư khác đã nói, họ cảm thấy vì họ đã học giáo lý từ lâu, nên chắc chắn họ đã đạt tới một tầng cao. Do đó, họ cảm thấy có quyền phê phán và dùng tia màu xanh để tấn công những người mới tới học.

Tất cả những tình huống này có thể xảy ra nhưng con yêu dấu, con thấy chăng, sự thật là như sau. Nếu con đổ lỗi cho người thày, giáo lý, người khác, điều kiện vật lý, chiêm tinh, sa nhân, thời tiết hay cái này cái nọ – khi con còn chỉ tay đổ lỗi cho cái gì ở bên ngoài, nghĩ rằng sự tiến bộ của con tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, thì con chưa hoàn toàn đi theo con đường tu nội tâm. Nếu con chưa hết lòng theo con đường tu nội tâm, thì con chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý về ngã gốc – con chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này. Con hãy đoan chắc là con đã nắm bắt ý nghĩa của con đường tu nội tâm, hết lòng đi theo nó, sẵn sàng nhận trách nhiệm về đời mình và nhìn vào tâm mình trước khi con nhận các giáo lý này.

Lẽ tất nhiên, các thày trao truyền các giáo lý này vì quả thực có một số đông đệ tử đã theo học các giáo lý và áp dụng chúng một thời gian, và họ sẵn sàng. Cho nên, các thày rất hân hoan, các thày rất, rất biết ơn là các con đã nâng mình lên tới điểm có thể nhận các giáo lý này và đồng thời là dụng cụ để lan tỏa các xung lực này vào tâm thức đại chúng.

Khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện – nghĩa là khi đệ tử chưa sẵn sàng thì vị thày không thể xuất hiện. Niềm vui lớn nhất của chân sư thăng thiên là gì? Là có thể xuất hiện và trao truyền giáo lý. Niềm biết ơn lớn nhất mà các thày có là gì?  Đó là khi các đệ tử đã làm cho họ sẵn sàng, cho phép các thày xuất hiện với một giáo lý mới. Các con yêu dấu, thày có lòng biết ơn sâu xa với các con vì các con đã làm như vậy. Các thày biết ơn các con vì có hội nghị này. Tất cả các con, những người tổ chức hội nghị cho đến những người tham dự, các thày biết ơn tất cả các con. Trong ngọn lửa Biết ơn này, lòng biết ơn của tâm Phật, thày niêm các con và thày niêm hội nghị này trong tình yêu của tim thày.

23 | Là Ki-tô trong Thời Hoàng kim của Saint Germain

Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain. Thày muốn giảng thế nào là Ki-tô Hằng sống và Phật Hằng sống đang hành động trong Thời Bảo bình. Thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động trong Thời Song ngư? Nó có nghĩa là con hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và con đi vào một trạng thái hợp nhất với thày để nhận được một điều gì đó từ thày, hoặc cho đời sống cá nhân của con hoặc để phụng sự người khác và xã hội.

23.1. Cần làm gì để đưa ra một ý mới

Giờ đây con có thể nhìn vào những thay đổi đã được đem lại trong Thời Song ngư và con có thể thấy là tất cả những người đã có thể đem lại đóng góp tích cực trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống và xã hội, những người đó đã hòa điệu được phần nào với Ki-tô hành tinh, là Giê-su trong thời đại đó. Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những ý được đưa ra trong 2,000 năm qua đều chỉ đến từ Giê-su nhưng chúng đến xuyên qua Giê-su như vị trưởng giáo của Thời Song ngư. Do đó ta có thể nói là nếu con nhìn vào nhiều người đã đem lại ý mới trong một số lãnh vực, thì họ đã hòa điệu được với Giê-su, do đó họ đã mở tâm ra đón nhận một số ý.

Giờ đây nếu con nhìn một số những người này, thì con có thể thấy là nhiều người còn không phải là tín đồ tôn giáo hay tâm linh. Nhiều người có một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết, một số thói quen khác lạ, ngay cả một số niềm tin chắc chắn là không phù hợp hay không thẳng hàng với giáo lý chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, họ phần nào hòa điệu được với các thày nên xuyên qua đám mây mờ của tất cả những chuyện vỏ ngoài trong tâm của họ, đã có một khe hở để ý tưởng có thể đi xuống tâm họ – và điều này tất nhiên cũng sẽ xảy ra trong Thời Bảo bình. Để có thể hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Saint Germain, con người không cần biết là thày hiện hữu, tin giáo lý các chân sư thăng thiên, đi theo giáo lý này, thực tập giáo lý này. Họ không cần giải quyết hết các vấn đề tâm lý của họ. Lý do thật giản dị. Việc đem tới một ý tưởng mới có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Khía cạnh alpha là ý tưởng đến từ cõi thăng thiên. Khía cạnh omega là để có thể nhận được một ý tưởng và áp dụng nó, thì những người này phải có chuyên môn trong một lãnh vực đặc thù. Nếu thày muốn đem lại một ý mới trong ngành giáo dục, thày cần người có kiến thức, có chuyên môn, có kinh nghiệm nào đó trong ngành này. Lẽ tất nhiên thày cũng cần một người có thể hòa điệu với thày, ít nhất là trong một khoảng khắc ngắn và do đó nhận được ý đó.

Có rất nhiều người chân thật mong muốn thấy một lãnh vực nào đó của đời sống được cải thiện. Những người đó có kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của họ, họ đã nghiên cứu và bỏ tâm trí vào tiến trình đem lại một ý mới, một sự cải tiến. Nhưng trong một số trường hợp, họ có thể có một hiểu biết không hoàn hảo về lãnh vực của họ hay về sự cải thiện cần đem lại nhưng họ có một mong muốn chân thật.

Khi con tìm hiểu về một số khoa học gia đã đem lại ý tưởng mới trong lãnh vực khoa học, con sẽ thấy là có đôi lúc họ bị choáng ngợp. Họ căng thẳng quá và họ quyết định ngưng nghỉ, không chú tâm vào đề tài nghiên cứu hàng ngày của họ. Khi họ rút lui và buông không nghĩ về đề tài thì bỗng nhiên có một khe hở mở ra cho một “lóe sáng cảm hứng” giáng xuống và ngay lúc đó họ nhìn vấn đề với một góc nhìn mới. Họ thấy được một ý mới và lúc đó họ có thể tiến tới.

23.2. Cảm hứng vượt quá bộ óc vật lý

Ngay cả những nhà khoa học duy vật nhất cũng nhìn nhận rằng họ cần một cảm hứng nào đó. Họ không muốn suy đoán xem cảm hứng này từ đâu tới, nhưng ta không cần suy đoán nhiều để nhận ra là cảm hứng đó không đến từ bộ óc vật lý. Nếu bộ óc đã có thể đem lại ý tưởng thì chắc chắn trong thời gian nhà khoa học dốc sức dùng bộ óc vật lý để tìm giải đáp cho vấn đề thì bộ óc vật lý đã phải đưa ra cho vị đó đáp số.

Nhà khoa học có được lời giải khi đứng lui lại, không dùng tâm vỏ ngoài nữa, và khi ấy có một khe hở cho cảm hứng tràn vào từ một cõi cao hơn. Do đó trong Thời Bảo bình, ta có thể nói tiến trình này sẽ càng ngày càng được biết nhiều hơn, trở nên thông thường hơn, theo nghĩa con người bắt đầu hiểu và công nhận trực giác thực sự là chìa khóa.

Trực giác thường chỉ được mở khóa khi con đã đi qua giai đoạn tiếp cận vấn đề với tâm vỏ ngoài, hết sức tìm cách hiểu nó, thực sự muốn tìm cách cải thiện và khi ấy con tạo nền móng. Giống như ý tưởng các thày đã đưa ra trong Thời Song ngư về Chén Thánh được nâng lên để thuốc tiên của Tánh linh có thể rót vào. Nếu không có chén thánh, thày không thể rót gì vì sẽ chỉ uổng phí mà thôi. Ở đây có tác động alpha và omega. Omega nâng chén thánh của tâm lên và sau đó alpha mở tâm ra, dùng khả năng trực giác thay vì tâm vỏ ngoài để mở tâm ra đón nhận ý tưởng từ trên xuống.

Có thể nói đây là tiến trình là Ki-tô hành động trong Thời Bảo bình. Con hòa điệu với thày, vì dù có những chân sư khác (và chắc chắn sẽ có những chân sư khác sẽ mang lại ý tưởng mới), họ sẽ sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là. Lẽ tất nhiên, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và biết mình đặc biệt đồng cảm với một chân sư nào đó, con nên chú tâm vào chân sư đó và không nhất thiết vào thày. Thày không muốn nói là con chỉ chú tâm vào riêng thày mà thôi nhưng thày muốn nói là những ý tưởng mới sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là người lãnh đạo.

23.3. Kết quả nỗ lực của các chân sư

Bây giờ thày muốn gia tốc sang một đề tài khác. Thày muốn nhìn trở lại những tổ chức chân sư thăng thiên trước mà các thày đã bảo trợ, như thày MORE đã làm hôm trước. Thày muốn con xem xét câu hỏi: thày đã bước ra làm việc công khai trong thập niên 1930 và bảo trợ Phong trào TA LÀ (I AM Movement) và sau đó các thày đã bảo trợ một số tổ chức khác, vậy kết quả của những nỗ lực này là gì? Có bao nhiêu đệ tử chân sư thăng thiên đã thực sự tới điểm biểu lộ quả vị Ki-tô, nhận được ý mới từ các chân sư thăng thiên và mang chúng vào một lãnh vực nào đó của xã hội? À, thày không muốn ở đây bàn luận số lượng. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là quả thực số người biểu lộ quả vị Ki-tô không nhiều như các thày hy vọng. Thày muốn bàn thảo nguyên nhân vì sao lại như vậy.

Điều thày muốn cho các con thấy là trong hai ba năm vừa qua, các thày đã cho các con một cái nhìn sâu sắc hơn về cách các thày nhìn vấn đề làm sao làm việc với nhân loại khi chưa thăng thiên. Các thày đã nói tới những khó khăn gặp phải, giống như khi thày Giê-su nói các thày giống như những người bán xe cũ dùng chước “nhử hàng thấp mời hàng cao.” Các thày cần đưa ra giáo lý hấp dẫn mức tâm thức hiện hành của con người để họ chịu học giáo lý. Sau đó, khi họ đã đi vào rồi, thì các thày hy vọng có thể trao cho họ một giáo lý cao hơn giúp họ tăng triển thay vì ve vuốt tự ngã và khiến nó cảm thấy hơn người khác.

Điều các thày đã phải làm trong những giai đoạn trước – vấn đề mà các thày đối diện lúc ấy – là tâm thức tập thể rất, rất dày đặc. Để các đệ tử chịu tham gia (thậm chí để thức tỉnh họ thấy được con đường đạo, để khiến họ bước vào đường đạo), các thày phải truyền cho họ một cảm giác phấn khởi, một mong muốn làm điều gì đó. Một số đệ tử mô tả trạng thái này như là họ “đang bốc lửa”, họ đang “nổ lửa”. Các thày cần làm thế vì lý do đơn giản là tạo động lượng giúp các đệ tử thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng. Tuy thế, vấn đề không tránh được là đệ tử quá nồng nhiệt trong việc thay đổi thế giới cho Saint Germain đến độ bị mất quân bằng. Các thày có nói trước đây là nhiều đệ tử có cái nhìn đúng về điều cần làm nhưng lại có cái nhìn sai lệch hay thiếu sót về cách thực hiện.

23.4. Đệ tử mất quân bằng

Các thày đã thấy nhiều người đệ tử biết đến sự hiện hữu của Saint Germain và ước muốn đem lại thời đại hoàng kim của thày. Các đệ tử này bừng bừng hứng khởi muốn bước ra ngoài xã hội, muốn phất tay thay đổi toàn thế giới và họ tiếp cận người khác một cách rất bất quân bằng nên họ đã khiến người khác tránh xa họ hoặc họ đã gánh chịu phản ứng tiêu cực từ người khác.

Các thày thấy nhiều đệ tử bước ra ngoài xã hội với phong cách bán hàng rất bất quân bằng giống như cách hành xử của các nhóm Cơ đốc tái sinh và nhiều nhóm khác. Họ bỗng nhiên cải đạo theo một hệ thống niềm tin nào đó và sau đó bước ra ngoài xã hội và nghĩ rằng họ phải cải đạo toàn thế giới theo đạo của họ. Họ bị tâm thức tập thể chống đối và gặp phản ứng tiêu cực của những người khác, do đó họ từ trạng thái hưng phấn giả tạo rơi xuống chỗ chán nản. Một số trở nên nản chí, ngay cả bỏ giáo lý đi hay quyết định rút lui. Lẽ tất nhiên các thày không muốn thấy phản ứng này nơi đệ tử, nhưng vào thời điểm đó, không thể tránh được điều này xảy ra nơi một số đệ tử.

Một số đệ tử khác chọn một hướng quân bằng và dài hạn hơn. Họ tìm cách cân bằng nghiệp quả hay làm những gì họ thấy cần làm để tiến triển trên đường tu tâm linh. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại trở nên thụ động và không thực sự cảm thấy mình có thể đóng góp gì cho xã hội. Nhiều người lý luận rằng điều họ có thể đóng góp cho xã hội là qua việc đọc chú. Lẽ tất nhiên, việc đọc chú có giá trị nhưng điều đó khiến họ trì hoãn hay hủy bỏ quả vị Ki-tô của họ, vì họ có tiềm năng cao hơn là chỉ đọc chú. Con có thể nhìn lại các phong trào đó và thấy họ bỏ ra rất nhiều thì giờ đọc chú. Tuy nỗ lực này có kết quả tích cực, nhưng trong một số trường hợp nó đã khiến người đệ tử trì hoãn quả vị Ki-tô của họ. Họ không biểu hiện quả vị Ki-tô, và để tránh phản ứng tiêu cực họ lý luận trong tâm rằng: “Tôi cầu thỉnh ngọn lửa tím là đủ rồi, tôi không cần bước ra ngoài và tiếp cận với xã hội.”

Mặt khác, có những đệ tử quá háo hức bước ra ngoài để cải đạo người khác đến độ rơi vào phản ứng bất quân bằng. Để tránh đề tài này trở nên quá nghiêm nghị, thày muốn thêm vào đây một chút hài hước. Bên Hoa Kỳ có một tổ chức tên là Những Người Theo dõi Cân nặng (Weight Watchers) và có một câu chuyện hài hước về những người này là khi họ hội họp, tất cả nắm tay nhau và hát vì đấy là cách duy nhất để bảo đảm là không ai ăn uống được! Con cũng có thể chế ra câu chuyện hài hước tương tự về đệ tử chân sư thăng thiên: Vì sao họ phải đọc chú nhiều giờ như vậy? Bởi vì đấy là cách duy nhất khiến họ không ra ngoài và gặp rắc rối! Đây là một phần lý do các thày phải khuyên các đệ tử của các tổ chức trước đọc nhiều giờ chú như vậy. Đó là cách duy nhất để ngăn cản một số người đi ra ngoài xã hội và hành động với phản ứng rất bất quân bằng vì họ đã quá hăng hái, quá bốc lửa muốn thay đổi thế giới cho Saint Germain.

Họ tức khắc nghĩ rằng thay đổi thế giới cho Saint Germain hay cứu rỗi thế giới có nghĩa là thuyết phục tất cả người khác theo giáo lý chân sư thăng thiên và tổ chức cá biệt của họ. Thày muốn nói thật rõ, dù các thày đã nói điều này từ trước, là trong Thời Bảo bình các thày không hề mong muốn mọi người nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Chắc chắn là các thày không mong muốn tất cả mọi người nhìn nhận một giáo lý hay một tổ chức chân sư thăng thiên đặc thù, kể cả giáo lý mà các thày đang trao truyền qua vị sứ giả này.

23.5. Không có mục đích cải đạo mọi người

Có thể là khi xã hội tiến sâu hơn vào Thời Bảo bình sẽ có một sự công nhận phổ quát về sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên và một sự đón nhận phổ quát giáo lý chân sư thăng thiên. Thày nói “có thể” vì không thể nào tiên đoán khoảng thời gian. Khi nào thì chuyện này xảy ra? Nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó nhưng khi nào? Trong tương lai gần, chắc chắn là trong thời gian còn lại của kiếp sống các con, con cần phải minh định rõ trong tâm là biểu hiện quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải đi ra ngoài xã hội và cải đạo tất cả mọi người theo giáo lý đặc trưng này hay chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên hay giáo lý của các thày. 

Là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình có nghĩa là, trước tiên hết, như thày đã nói, con hòa điệu với thày và nhận được một ý tưởng mà con có thể thực hiện trong chính cuộc sống của con, qua đó con giúp ích những người chung quanh trong vòng ảnh hưởng cá nhân của con, hay đem lại lợi ích nào đó cho xã hội. Đây không phải là chuyện bước vào một cuộc thánh chiến để cải đạo người khác đi theo một hệ thống tin tưởng đặc trưng.

Quả thực một trong những thử thách của Thời Song ngư là khắc phục được tâm thức thánh chiến này. Lẽ tất nhiên con có thể thấy được nhiều người trong đó có cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã không vượt qua được thử thách này. Điều chúng ta cần trước tiên hết trong Thời Bảo bình là các đệ tử làm việc giải quyết tâm lý cá nhân của mình, dùng giáo lý (đặc biệt là giáo lý về chấn thương nhập đời và về tất cả những ngã mà con đã tạo ra, từ ngã gốc đến các ngã khác) để giải quyết ngã gốc và các ngã khác. Điều này có nghĩa là theo khía cạnh alpha của đường tu, con được tự do hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên, vì các ngã này không ngăn chặn sự hòa điệu của con nữa.

Mặt khác, theo khía cạnh omega, con có tự do bước ra ngoài xã hội và cống hiến người khác những gì con nhận được từ các thày, nhưng con làm việc này một cách hoàn toàn quân bình. Nói cách khác, con không làm việc này vì con bị ảnh hưởng của chấn thương nhập đời và ngã gốc của mình. Con không làm việc này vì con muốn bù đắp bất cứ gì, con muốn được trọng vọng, con muốn người khác công nhận giá trị của con hay bất cứ lý do nào phát xuất từ các ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chuyện con tới đây và cảm thấy bị hất hủi.

Khi con nhìn lại các đệ tử chân sư thăng thiên trong quá khứ, tại sao họ đã không biểu hiện và không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của họ? Ấy chính là vì họ chưa giải quyết ngã gốc của họ. Tại sao thời ấy các thày không trao truyền các giáo lý liên hệ? Bởi vì các giáo lý này, vì nhiều lý do, không thể trao truyền được trong Thời Song ngư và qua một tổ chức đã được đặc biệt thành lập để đạt mục tiêu mà thày More đã mô tả khi trước. Hành tinh, tâm thức tập thể, các đệ tử chân sư thăng thiên giản dị là chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này.

23.6. Làm việc với các ngã tách biệt của con

Các con có thể thấy là các thày đã đợi mười lăm năm với người sứ giả này để trao truyền các giáo lý này. Các thày đã cẩn thận dẫn con từ từ tới điểm có hiểu biết giúp con chấp nhận và áp dụng các giáo lý này. Thày muốn nói một điều rất rất rõ và rất rất thẳng: tất cả các con đã học hỏi các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này, thày mạnh mẽ khuyên bảo các con sử dụng những giáo lý mới nhất về avatar, chấn thương nhập đời, ngã gốc và các ngã khác và cách khắc phục chúng.

Con đừng giả sử là con đã làm những chuyện này rồi. Nếu con chưa học và áp dụng các giáo lý này, con đừng giả sử là con không cần làm việc với chúng. Nếu con xem trọng chuyện hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự các chân sư thăng thiên thì con phải dùng các giáo lý này. Con hãy tuần tự làm việc để khắc phục ngã gốc và các ngã khác để việc phụng sự của con không bị pha màu hay thậm chí bị điều khiển bởi các ngã ngày và chấn thương nhập đời. Con sẽ không hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con cho tới khi con thoát khỏi tất cả tập hợp các ngã này. Thày muốn trao cho các con lời giảng về chuyện này, một lần nữa dựa trên các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây.

Làm sao con nhận ra con có ngã gốc hay con chưa giải quyết nó? Lẽ tất nhiên các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về đề tài này nhưng thày muốn giảng thêm. Điều các thày thấy nơi nhiều đệ tử là các con gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên vì có cảm nhận rõ ràng là mình có mặt trên trái đất để làm một chuyện gì, các con cảm thấy phải làm một điều gì. Giờ đây, các thày đã nói với các con là nhiều người trong các con (đa số các con) đã tới trái đất như một avatar muốn tới trái đất để làm điều gì đó. Các thày cũng đã giảng là tầm nhìn mà con có trước khi xuống đây không phải là tầm nhìn cao nhất, do đó quả thực con đã tới đây với cảm giác bắt buộc phải làm điều gì đó.

Sau đó, khi con bị chấn thương nhập đời, thì một số các con đã xây dựng một ngã khác cho con một cưỡng bách mới, hoặc một chuyển hướng mới cho cưỡng bách đầu tiên, qua đó bây giờ con phản ứng lại một điều kiện trên trái đất và cảm thấy mình phải làm điều gì liên quan tới điều kiện này. Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con cảm thấy một sự cưỡng bách phải làm điều gì đó, một sự thúc đẩy muốn làm điều gì đó (mà con cảm thấy con phải làm), thì con biết nó đến từ ngã gốc và các ngã khác. Con biết có cái gì đó con chưa giải quyết.

23.7. Cá nhân hóa cuộc sống trên trái đất

Giờ đây, một chuyện khác cũng xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời (như các chân sư khác, đặc biệt là thày MORE đã giải thích), là tất cả mọi chuyện trên trái đất, cuộc sống của con trên trái đất, đều giống như liên hệ thẳng đến cá nhân con, và con bắt đầu cá nhân hóa mọi chuyện. Điều đó thực sự nghĩa là gì? Ấy, điểm chính yếu là con trở nên rất nhạy cảm về cái ta của mình, con rất nhạy cảm về cái ta của mình.

Gần như có một phần của con người con luôn luôn giám sát mình, phân tích, đánh giá, phán xét cách con đang sống, nhưng con không làm vậy dựa trên quan sát nội tâm – con làm vậy dựa trên quan sát người khác phản ứng với con ra sao. Nhiều người trong các con có thể nhận ra điều này trong tâm mình. Có một phần của con luôn luôn đang giám sát con và lượng định và phê phán. Có một phần của con làm chuyện này vì sau khi bị chấn thương nhập đời, con đã tạo ra ngã tách biệt để làm chuyện đó.

Các thày đã nói là Cái Ta Biết có khả năng tự nhận biết nhưng điều thày đề cập ở đây không phải là tự nhận biết – ta có thể gọi nó là sự nhạy cảm về cái ta vì con nhạy cảm về cái ta của mình. Con rất rất nhạy cảm với cách người khác phản ứng với con. Chuyện xảy ra ở đây là khi con tới trái đất, con bị chấn thương nhập đời và cảm thấy bị chê bai hay phớt lờ. Con tạo ra một ngã muốn bù đắp điều đó, muốn hủy bỏ vấn đề, hủy bỏ điều sai trái mà con cảm thấy đã xảy ra.

Có một ngã thúc đẩy con muốn được chú ý. Một phần động lực thúc đẩy con làm điều gì trên trái đất đến từ mong muốn được chú ý, con muốn làm điều gì quan trọng mà người khác sẽ nhìn nhận và công nhận. Con có một ngã muốn được người khác chấp nhận và ngã này thúc đẩy con làm điều gì đó. Có thể là nó đã thúc đẩy con suốt đời làm người khôi hài luôn luôn kể chuyện diễu, hay làm người thông tuệ luôn luôn biết điều người khác không biết. Có vô số những ngã này nhưng căn bản là con muốn được người khác nhìn nhận và xác chứng giá trị của mình cho nên con làm những việc đó để được điều này.

Mặt khác con lại có ngã nhạy cảm lúc nào cũng lượng định xem người khác phản ứng ra sao với mình. Khi họ không hoàn toàn chấp nhận con, con cảm thấy mình không thoải mái bằng nhiều cách. Con có thể cảm thấy mắc cở, con có thể cảm thấy bị hất hủi, con có thể cảm thấy mình kém cỏi, con có thể cảm thấy mình đã sai lầm. Bất kể dạng nào, lúc nào cũng có một cảm xúc đi kèm theo.

Con ở trong thế kéo-đẩy này và cuộc đời con xoay quanh cơ chế đó. Một mặt, con đi tìm sự chấp nhận của người khác và mặt kia con né tránh phản ứng tiêu cực của họ. Con thấy chăng là có một ngã thúc đẩy con muốn người khác phản ứng lại con để con được họ chấp nhận, nhưng ngã kia lại sợ mọi phản ứng tiêu cực? Con luôn luôn ở trong trạng thái phải liều lĩnh. Đây là một chuyện nhiều rủi ro vì con bị thúc đẩy tìm cầu sự chú ý của người khác nhưng nếu họ phản ứng không chấp nhận thì con rơi vào ngã kia với phản ứng tiêu cực. Cả cuộc đời con có thể bị điều khiển bởi hai ngã này. Lẽ tất nhiên điều này đã xảy ra với nhiều người, nhưng các thày đã thấy nhiều đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào khuôn nếp này.

Quả thật, vị sứ giả này đã rơi vào khuôn nếp đó trong phần đầu cuộc đời ông, lúc nào ông cũng bị thúc đẩy để cư xử theo cách đó. Với một số các con, khuynh hướng này bắt đầu từ tuổi thơ ấu nhưng lẽ tất nhiên với tất cả các con, nó đã có từ nhiều kiếp. Nhiều người trong các con kinh nghiệm là khi mình còn nhỏ, con tìm ra rất nhanh là con có thể làm cho người lớn cười. Con cảm thấy thoải mái khi con làm cho người lớn cười. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày hôm nay nhưng nếu họ không cười, con cảm thấy xốn xang. Một lần nữa, có lực kéo và đẩy này.

Một số các con nhận ra khi còn nhỏ, con khôn hơn trẻ em khác cho nên con có thể có những ý mà trẻ em khác không nghĩ ra được. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày nay để người khác nể phục con vì con đưa ra những ý hay, và một số các con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để làm việc này. Nhưng khi người khác không đồng ý, con rơi vào phản ứng tiêu cực.

Điều thày mong muốn là con tới điểm giải quyết được cả tập đoàn ngã gốc và các ngã khác. Toàn thể lực kéo và đẩy này, toàn thể trận chiến gay go đang xảy ra trong tâm con tan biến đi. Con không còn bị mắc kẹt vì vừa tìm cầu điều bất khả thi, vừa hổ thẹn và xốn xang khi không đạt được điều bất khả thi đó. Con thấy là điều đó bất khả thi, không cần thiết và hoàn toàn không thật.

Khi con thấy được điều này, khi con tách mình ra khỏi các ngã này, thì con có thể nhìn chúng và giản dị bỏ chúng đi. Con không cần giải quyết vấn đề mà ngã phóng chiếu vào con. Con không cần đạt được điều kiện, con không cần thay đổi toàn thế giới để cảm thấy thoải mái hơn. Con chỉ cần để cho ngã chết đi. Đây là điều thày mong thấy nơi con. 

23.8. Con không phải là Ki-tô qua một ngã tách biệt

Đây là cách con có thể bắt đầu là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình. Thay vì bị điều khiển bởi những ngã vỏ ngoài này thì con có thể nhận sự điều khiển từ bên trong, từ thày. Con thấy chăng, con yêu dấu, đâu là vấn đề chính mà thày thấy nơi các đệ tử chân sư thăng thiên khiến họ không ảnh hưởng được thế giới ở mức họ có thể làm được? Lý do chính xác là vì họ có những ngã đó, những ý tưởng đó trong tâm vỏ ngoài của họ. Họ đến với một giáo lý chân sư thăng thiên, họ lấy một điều gì đó từ giáo lý mà họ nghĩ chứng thực cách họ tiếp cận cuộc sống xuyên qua một ngã tách biệt này. Lúc đó, họ thực sự tin rằng cách là Ki-tô trên trái đất là hành động xuyên qua ngã tách biệt đó.

Một số đã tạo ra một ngã tách biệt khiến họ cảm thấy phải thách thức tất cả mọi người. Các người khác sống trong một trạng thái ảo tưởng, họ không muốn bước ra khỏi trạng thái đó – con phải thách thức họ (con nghĩ thế). Giờ đây con đã gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên, và con có nhiệt tâm muốn bước ra ngoài xã hội và thức tỉnh mọi người. Bỗng nhiên cái ngã dựa trên mong muốn thách thức người khác nghĩ nó là Ki-tô đang thách thức người khác.

Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cảm thấy là chính họ đã trải nghiệm mình thức tỉnh khi nghe một bài truyền đọc trong đó các thày nói một điều gì với giọng mạnh mẽ và nghiêm khắc. Điều này khiến họ thấy một điều mà trước đó họ không thấy. Đôi khi các thày cần phải nói với một giọng nói đầy uy lực để đâm thủng sự dày đặc của tâm thức đại chúng và tâm thức con người. Giờ đây các đệ tử này mong muốn tạo trải nghiệm này nơi người khác. Họ nghĩ rằng họ phải bước ra ngoài xã hội và phóng tia sáng xanh tới người khác và nói chuyện với họ với giọng rất mạnh mẽ và nghiêm khắc để họ thức tỉnh. Nhưng lối cư xử này bắt nguồn từ đâu? Nó đến từ cái ngã cảm thấy bị hất hủi khi bị chấn thương nhập đời và kể từ ngày ấy nó tìm cách làm điều gì để người khác không thể phớt lờ hay bác bỏ. Đây là một phản ứng bất quân bằng. Nó sẽ không đem lại kết quả và con sẽ không bao giờ cảm thấy an bình, không bao giờ cảm thấy dễ chịu. Con sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn thành điều con tới đây để hoàn thành khi con còn hành động xuyên qua các ngã này. 

Một lần nữa, như các chân sư khác đã nói trong hội nghị này, các thày đã trao cho con các giáo lý, các thày đã trao cho con dụng cụ. Con yêu dấu, thày xin con dùng chúng vì khi con dùng chúng và khi con khắc phục được ngã gốc đó, thì con sẽ cảm thấy giống như người sứ giả này. Ông đã nói rằng trong bốn mươi năm nỗ lực trên đường tâm linh, dùng đủ loại giáo lý và bài tập, dùng đủ loại dụng cụ tâm lý và pháp trị liệu, không thứ nào đem lại cho ông sự tiến triển đột phá như các giáo lý về ngã gốc này. Điều này cũng có thể xảy ra cho con và đã xảy ra cho một số các con đã dùng nó. Con yêu dấu, con biết là Giê-su đã cho con nhiều ý tưởng và đã nói rằng con không cần phải chú tâm vào tất cả các ý này. Con chỉ cần lấy ý nào hấp dẫn con, nhưng thày hy vọng là ý về ngã gốc sẽ hấp dẫn tất cả các con vì tất cả các con đều được lợi lạc từ nó.

Giờ đây thày có thể bảo đảm với con là nhiều người trong các con, và nhiều người sẽ bị thu hút bởi giáo lý trong tương lai, các con có tiềm năng làm điều có giá trị và quan trọng trong xã hội. Để con hoàn thành được điều mà các thày ở Hòa Lan gọi là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, giản dị là con phải khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, như thế sự đóng góp vào xã hội của con không bị pha màu bởi các ngã này. Nếu như thế, con sẽ không đạt được tiềm năng cao nhất của con và con yêu dấu, các thày mong muốn con đạt được tiềm năng cao nhất, tiềm năng cao nhất mà con đã chọn. Con chọn nó vì con biết con có thể làm được, vì con sẽ gặp được giáo lý này và sẽ chấp nhận nó. Cố nhiên thày trông chờ con, tất cả các con sẽ đóng góp gì đó vào Thời Bảo bình.

23.9. Tôn sùng người sứ giả

Giờ đây con biết các thày có nói về sự sùng bái Giê-su trong Thời Song ngư. Các thày đã nói tới điều này trong 70-80 năm qua trong các tổ chức chân sư thăng thiên. Giê-su đúng lý là một tấm gương cho người đi trên con đường tu dẫn tới quả vị Ki-tô nhưng nhiều, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên vẫn chưa giải thoát họ khỏi hình ảnh sùng bái Giê-su, do sa nhân dựng lên và phóng chiếu qua giáo hội Công giáo và các giáo hội Cơ đốc giáo khác. Họ vẫn nghĩ Giê-su ở trên cao tít và không cách chi họ làm được điều Giê-su đã làm. Các thày đã cố gắng xua tan sự sùng bái này và chắc chắn quyển sách Các Kiếp sống của Tôi là một bước quan trọng để giúp mọi người phá bỏ sự sùng bái Giê-su.

Các thày cũng muốn đoan chắc là các đệ tử đã mở tâm đón nhận các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này không dựng lên một sự sùng bái nào đó đối với ông. Nếu con nhìn lại cuộc đời của ông, thì con sẽ thấy ông sinh ra trong một gia đình bình thường, được nuôi dạy bình thường. Các thày không bao giờ nói và ông cũng không bao giờ nói là ông có gì đặc biệt, hay vì lý do nào đó ông đã tiến hóa hơn khi tới trái đất hay trong các kiếp trước ông đã trải qua những tiến trình khiến ông tiến hóa hơn ngày hôm nay. Thày cũng biết là trong các đợt truyền giảng trước, người ta đã nói rằng làm một sứ giả rất rất là khó và phải được huấn luyện trong hàng triệu năm. Các thày không bao giờ nói điều này về người sứ giả này vì các thày không muốn dựng lên sự sùng bái ông. Con biết là ông tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, ông áp dụng giáo lý này, ông cố gắng giải quyết các vấn đề tâm lý của mình và ông tuần tự tiến trên đường tu cho tới khi ông tới điểm mở tâm ra để làm điều gì đó, để có một quan hệ trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên. Trước khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật (Ask Real Jesus), ông trải qua kinh nghiệm mà ông đã mô tả là ông cảm thấy ông buông bỏ các tham vọng nhân gian của mình và lúc đó ông cảm nhận được Hiện diện của Giê-su.

Lúc đó, có thể nói ông ở trong cùng tình thế như Giê-su trong bữa tiệc cưới ở Cana. Ông đứng trước ngã ba đường và ông có thể đi đường này hay đường kia. Ông có thể nói: “Ồ, tôi không thể làm điều này được” hay ông có thể làm điều ông đã làm và nói: “Tôi sẵn sàng làm điều này mặc dù tôi nhìn nhận mình chưa toàn hảo, tôi chưa hoàn toàn giải quyết tâm lý mình, tôi chưa hoàn toàn biểu hiện quả vị Ki-tô.” Điều này có nghĩa là khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật, chắc chắn là ông chưa hoàn toàn trong tâm thức Ki-tô. Chắc chắn là ông ở một mức tâm thức thấp hơn nhiều so với ngày hôm nay.

23.10. Con không cần phải toàn hảo

Câu hỏi ở đây là: Con có cần phải toàn hảo để làm một điều nào đó cho các chân sư thăng thiên? Câu trả lời là “Không.” Các thày mong đợi tất cả các con không dựng lên một sự tôn sùng nào đó đối với người sứ giả này và nói: “Ồ, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm.” Giờ đây, con có thể nhìn những gì người sứ giả này đã làm trong công việc đón nhận giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý và thêm giáo lý cho tới khi số lượng trở nên, thành thật mà nói, choáng ngợp đối với đa số các con. Con có thể nói: “Nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể mang lại nhiều giáo lý đến thế, tôi không bao giờ có thể làm điều mà người sứ giả này đã làm.” Con hoàn toàn đúng, con yêu dấu, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm. Điều con có thể làm là làm điều người sứ giả này không thể làm vì tất cả các con đều là những cá thể độc nhất. Con có một Hiện diện TA LÀ độc nhất, con có tiểu sử độc nhất trên trái đất, con có kinh nghiệm độc nhất trong kiếp sống này và do đó con có thể làm điều mà người sứ giả này không làm được.

Có một điều con có thể làm là đem lại món quà mà không ai khác đem lại được. Như các thày đã nói trước đây, không có so sánh trong sự độc đáo. Con hãy nhìn vị sứ giả này như một nguồn cảm hứng nhưng con đừng thần tượng ông và cho rằng mình không thể làm được điều gì đặc biệt so với điều ông đã làm. Không có lý do gì để con so sánh mình với bất cứ ai. Trọng tâm là: Giải quyết tâm lý của mình, hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, là cánh cửa mở để  biểu lộ cá thể độc đáo của mình. Con hãy lấy những chọn lựa mà con, như Cái Ta Biết đang hiện thân, hoàn toàn được phép chọn lựa: đó là điều con muốn biểu hiện, điều con muốn trải nghiệm, điều con muốn vui huởng trên trái đất.

Mỗi người và tất cả mọi người trong chúng con đều có tiềm năng đi tới một nhóm người nào đó mà không ai khác tới được. Có thể nói rằng người sứ giả này có thể tới một mạn đà la gồm một số người nào đó. Có rất nhiều người khác trên trái đất ông không tới được. Nhiều người trong các con có thể tới được những người này. Mỗi người trong các con đều có một mạn đà la gồm những người mà con có thể tiếp cận được, con có thể giúp tiến lên cao hơn.

Do đó, thày giản dị nói với con: Hãy lấy cảm hứng từ người sứ giả nhưng đừng nản chí khi nhìn người sứ giả. Hãy dùng ông như nguồn cảm hứng và nói: “Tôi nhìn thấy đây là một người đã tìm được sứ mệnh độc đáo của mình, món quà độc đáo của mình. Tôi muốn xét xem ông ta làm như thế nào và tôi ứng dụng được điều gì, tôi học được điều gì từ hành trình của ông.” Sau đó, con chú tâm vào việc đem lại món quà của con, sự đóng góp của con. 

Con yêu dấu, một số các con có một lãnh vực chuyên môn trong thế giới và con có tiềm năng đem lại một số ý trong lãnh vực chuyên môn này. Ngay cả nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, tiềm năng của con là đem lại một ý tưởng, thì con hãy chú tâm vào ý tưởng đó và bình an biết rằng đây là cống hiến của con. Con hãy đoan chắc đây là ý tưởng cao nhất mà con có tiềm năng đem lại thể theo Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, con cũng hãy nhìn nhận là điều con có thể thấy nơi người sứ giả này là, khi con xuống đầu thai trên trái đất, con có một Sứ vụ Thiêng liêng, và sứ vụ đó có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao. Lẽ tất nhiên con muốn đoan chắc là con biểu hiện tiềm năng cao nhất, nhưng người sứ giả này đã biểu hiện tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của ông một thời gian trước đây rồi. Những gì ông đã mang lại từ lúc ấy vượt quá tiềm năng đó. Nhiều người trong các con cũng có thể vượt quá tiềm năng cao nhất mà con quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con soạn ra Sứ vụ với tầm nhìn con có lúc ấy. Bây giờ thì con đã nâng tâm thức lên cao hơn, hay ít nhất con có tiềm năng nâng tâm thức bằng cách khắc phục ngã gốc, thì con có thể lên cao hơn thế. Lẽ tất nhiên, các thày luôn luôn vui mừng khi thấy các đệ tử của mình vượt thăng chính họ. Không phải là các thày mong cầu kết quả đặc trưng nào nhưng các thày mong thấy các đệ tử thăng vượt chính họ.

Con yêu dấu, khi một đệ tử đạt tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các thày không muốn người này ngừng ở đó trong phần còn lại của kiếp sống. Lẽ tất nhiên, các thày muốn người đệ tử đó tiếp tục thăng vượt chính mình và đây là điều mà một số các con quả thực có tiềm năng làm được. Với tất cả những giáo lý các thày đã trao truyền, các con có tiềm năng né tránh những cạm bẫy mà các thày đã thấy trong các đợt truyền giáo trước, khi các đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào tư duy mà các thày đã mô tả.

23.11. Tìm ra một hướng đi quân bằng

Con có tiềm năng theo một hướng đi quân bằng hơn khiến con có thể bắt đầu thực sự tạo được ảnh hưởng. Con có thể bước ra ngoài và biểu hiện mình như Giê-su đã khuyến khích con làm qua mạng Internet. Một lần nữa con không cần lúc nào cũng nói đến chân sư thăng thiên hay giáo lý chân sư thăng thiên. Con hoàn toàn tự do dùng một số ý tưởng của các thày và trình bày chúng trong một bối cảnh trung hòa mà không cần nói chúng phát xuất từ các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, vấn đề các thày thấy trong quá khứ là các đệ tử nghĩ rằng điều quan trọng nhất là làm sao đem con người tới chỗ chấp nhận giáo lý chân sư thăng thiên. Không đâu, con yêu dấu, điều quan trọng nhất là làm sao con người chấp nhận một số ý tưởng sẽ giúp xã hội hay các cá nhân tiến lên.

Con đừng dựng lên rào cản trước mặt những người này và bắt họ phải nhảy qua rào cản và chấp nhận chân sư thăng thiên trước khi họ nhận ý tưởng. Con cứ thoải mái trao cho họ ý tưởng và để cho các ý tưởng này tự làm việc trong tâm họ. Con không làm vậy để gặt hái một kết quả bởi vì, con yêu dấu, khi con đã loại bỏ ngã gốc và các ngã khác, thì con không đến với mọi người để tạo nên một cảm xúc trong con hay để né tránh một cảm xúc trong con. Con có thể là cánh cửa mở, có nghĩa là con tự do trao cho họ ý tưởng và con tự do để họ tự do đón nhận nó. Nhiều nhiều lần, con yêu dấu, một ý tưởng đi vào tâm của họ, họ có thể gạt bỏ nó ở tầng tâm ý thức nhưng nó đi vào tâm họ và bắt đầu một tiến trình hóa kim cần thời gian để nó trồi lên trên tâm ý thức. Đôi khi nó cần vài năm và bỗng nhiên một hôm tâm những người này xoay chuyển và giờ đây họ chấp nhận ý tưởng đó mà không thực sự hiểu tại sao.

Con hãy an vui với việc trao ý tưởng và để cho ý tưởng làm việc của nó. Trên cơ bản, đây là chuyện đã xảy ra cho con khi con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Có ý tưởng nào đó đã thu hút con vào giáo lý nhưng có một số ý khác cần một thời gian dài để trổ mầm và giúp con tới chỗ của con ngày hôm nay. Con sẵn sàng đối phó với ngã gốc và khắc phục nó, và qua đó khắc phục chướng ngại lớn nhất trong lịch sử các avatar đã ngăn cản họ có ảnh hưởng mà họ có tiềm năng có trên trái đất.

Tới đây thì thày muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với hội nghị này, đối với những người tổ chức và những người tham dự. Tất cả các con đều là một phần của khía cạnh omega khi các con tương tác với các thày trong hội nghị và các con trở thành các trạm phát sóng các ý tưởng vào tâm thức đại chúng.

Con có thể thấy là có dòng chảy hình số tám giữa các thày Ở Trên và các con ở đây trong hội nghị. Có dòng chảy số tám theo đường dọc và có dòng chảy số tám theo đường ngang giữa các con ở đây và những người khác trên thế giới và tâm thức đại chúng. Đây là điều các thày muốn thiết lập một cách thường trực. Lẽ tất nhiên nó đã có phần hiện hữu nhưng các thày muốn dòng chảy số tám đường ngang này mạnh mẽ hơn nhiều. Nó chỉ có thể xảy ra khi mỗi cá nhân các con thiết lập dòng chảy số tám với các thày và nó chỉ có thể xảy ra khi con gỡ bỏ các rào cản (một lần nữa) và con đã có sẵn giáo lý để hoàn thành việc này.

Con yêu dấu, thày gửi tới con niềm biết ơn sâu xa. Với tư cách Trưởng giáo của Thời Bảo bình, lòng biết ơn của thày bao gồm sự biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên, đặc biệt là quý thày đã có thể nói chuyện trong hội nghị này và lẽ tất nhiên thày Gautama sẽ nói sau đây. Tới đây thì thày niêm các con trong tình yêu mà Thày LÀ, thực sự là tình yêu có thể khiến vật chất ca hát. Vật chất trong bốn thể phàm của các con đã ca hát trong hội nghị này, và thày hy vọng con sẽ giữ cho nó ca hát một thời gian dài, đúng thực là ca hát trong một thời gian vô hạn định, trong suốt thời gian còn lại của con ở đây – và xa hơn nữa.

11 | Tâm trạng khó xử khi ở trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Vairochana qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

Thày quả thực là vị Phật Thiền định được biết tới như Vairochana. Lẽ tất nhiên, thày cũng là, dưới tầm nhìn của các con, Chân sư Thăng thiên Vairochana. Thày tới đây để cho các con một cái nhìn về cách con có thể tới gần hơn quả vị Phật hành động trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Để đạt mục đích này, các thày là các Phật Thiền định trước kia có đưa ra khái niệm là điều ngăn trở con là Phật hành động là các chất độc tâm linh. Thuốc giải các độc tố này là các ngọn lửa cá biệt mà các thày đại diện. Lẽ tất nhiên, giáo lý này không đi ngược lại các giáo lý mà các con đã được trao truyền liên quan đến ngã gốc và các ngã tách biệt xuất phát từ ngã gốc. Con có thể nói một cách chắc chắn là mọi ngã đều dựa trên một, hay nhiều hơn một, chất độc tâm linh.

11.1. Không biết mình là ai

Một số các con biết thày là thuốc giải của chất độc vô minh, và chất giải độc, minh triết của thày là Minh triết Toả khắp. Vô minh là gì? Ấy, nó tất nhiên có rất nhiều hình dạng và dáng vẻ và ta có nhiều cách để diễn tả nó bằng ngôn từ. Chắc chắn một cách diễn tả là nói vô minh là không biết cái ta, không biết mình là ai.

Lẽ tất nhiên, đây có vẻ là một nghịch lý. Các thày đã trao truyền giáo lý về cái Ta Biết đi xuống bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên. Đây là một giáo lý rất thâm thúy. Một số các con đã nghiên cứu giáo lý này đến độ có cảm giác con hiểu nó bằng trí năng và hầu như coi nó là đương nhiên. Con không hoàn toàn biết giáo lý đó thâm thúy như thế nào, đúng thực là cách mạng như thế nào nếu ta so sánh với đa số các giáo lý có mặt trên trái đất trong suốt chiều dài lịch sử.

Hầu như con có thể sử dụng một giáo lý tâm linh để tạo ra một hình thức vô minh mới khi con cảm thấy, với tâm vỏ ngoài, là con biết giáo lý đó. Do đó, con không tìm một hiểu biết sâu sắc hơn, hay đúng hơn, một trải nghiệm sâu sắc hơn. Con đã hầu như coi cái Ta Biết như một khái niệm khác.

Khi con thực sự xem xét giáo lý về cái Ta Biết, thực sự nắm bắt được nó, trải nghiệm thực tại của nó, thì con nhận ra, con trải nghiệm, là cái Ta Biết chỉ là một khái niệm nhưng nó cũng hơn một khái niệm. Con không thể hoàn toàn thể nhập giáo lý khi con nhìn cái Ta Biết với tâm vỏ ngoài, đặc biệt là tâm trí năng, phân tích. Con chỉ có thể thấy rõ giá trị của giáo lý khi con trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng. Khi con có trải nghiệm đó, thì con thấy giá trị của giáo lý, con hoàn toàn thể nhập và áp dụng giáo lý. Khi con còn ngồi nhìn với lý trí, tạo nên khái niệm cái Ta Biết và nhìn nó từ ngoài xa, thì con chưa sử dụng giáo lý.

Ta có thể nói là với mọi giáo lý đã được trao truyền trong suốt chiều dài lịch sử, kể cả giáo lý được Gautama truyền dạy 2,500 năm về trước, thì nếu con dùng giáo lý để tạo một khái niệm chứng thực cảm nhận xa cách, thì con đã dùng sai giáo lý – ít ra, nếu con không cố gắng vươn lên hơn nữa.

11.2. Từ giáo lý đến trải nghiệm

Cái gì là phương châm, châm ngôn, câu đầu môi của người đệ tử tâm linh chân chính? Ấy, điều đầu tiên là con cần biết hiểu giáo lý không đủ, con cần trải nghiệm thực tại đằng sau giáo lý. Một giáo lý được diễn tả bằng lời nói, tất nhiên chỉ là một loại bảng chỉ đường, một biểu tượng dẫn tới một trải nghiệm vượt quá ngôn từ. Chỉ khi nào con có trải nghiệm thì con mới tận dụng được giáo lý. Đây có lẽ là vấn đề vô minh lớn nhất nơi các đệ tử tâm linh. Họ nghĩ rằng giáo lý vỏ ngoài, và hiểu nó bằng tâm vỏ ngoài, là đủ. Họ không vượt lên trên ngôn từ để tới trải nghiệm. Phương châm đầu tiên là: “Vượt quá giáo lý để tới trải nghiệm.” Châm ngôn thực mà người đệ tử tâm linh có thể dùng cho mình là: “Bao giờ ta cũng có thể trải nghiệm nhiều hơn.” Bao giờ ta cũng có thể trải nghiệm nhiều hơn!

Thày LÀ vị Phật Thiền định có thuốc giải – kỳ thực, thày thuốc giải của chất độc vô minh. Nếu con hòa điệu với thày, trải nghiệm Hiện diện của thày, thì con có thể khắc phục mọi vô minh. Trên lý thuyết, con có thể hòa điệu với thày, nhập một với thày, và chỉ trong giây khắc mọi vô minh của con sẽ bị thiêu hủy bởi Hiện diện của thày. Các thày không chủ trương điều này vì các con ở đây để có một trải nghiệm, nhiều loại trải nghiệm.

Các thày đã trao truyền giáo lý là khi con xuống trái đất lần đầu, con trải qua giai đoạn trầm mình trong cõi này. Sau đó, con trải qua giai đoạn thức tỉnh, và con xuống đây để có trải nghiệm là con dần dần đi xuống, dần dần trầm mình, và sau đó dần dần thức tỉnh. Con không ở đây để trải nghiệm thức tỉnh trong một khoảnh khắc. Con tới đây để trải nghiệm thức tỉnh dần dần, thức tỉnh từng bước nhỏ bằng cách nâng tâm thức mình lên đến tầng 144.

Ta có thể nói giai đoạn thức tỉnh bắt đầu ở tầng 48 và con dần dần thức tỉnh cho tới khi con tới tầng 144. Con chưa hoàn toàn tỉnh thức khi con ở tầng 144, nhưng lúc đó con đã đạt được tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất. Sau đó, con thăng thiên từ trái đất và bước vào một vòng xoắn thức tỉnh lên những tầng tâm thức càng ngày càng cao trong vị thế một chân sư thăng thiên. Các thày là chân sư thăng thiên luôn luôn tiếp tục tăng triển tâm thức. Ngay cả ở cương vị các Phật Thiền định, vẫn có tăng triển. Đó là lý do vì sao thày nói, nếu con muốn tiến một bước quan trọng trong việc khắc phục vô minh, thì con hãy chú tâm vào bất kỳ trải nghiệm nào mà con đang hiện có, lúc nào cũng có nhiều điều khác để trải nghiệm.

11.3. Định nghĩa vô minh

Vô minh là gì? Có vô minh trên một hành tinh tự nhiên chăng? Ấy, có đó, có vô minh theo nghĩa khi con bắt đầu như một sinh thể mới trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự với một nhận biết nhỏ như cái chấm. Sau đó con dần dần nới rộng nhận biết đó ra. Con cũng có thể nói là ngay trên cõi thăng thiên cũng có vô minh, theo nghĩa thày có tự nhận biết như một Phật Thiền định, nhưng thày không phải là đấng Sáng tạo. Thày không ở tầng tự nhận biết của đấng Sáng tạo, do đó thày vô minh vì thày không trải nghiệm những gì có thể trải nghiệm ở tầng tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Nhưng con cần hiểu là trên cõi thăng thiên, và ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, không có những loại rào cản ngăn chặn hiểu biết mà con có trên trái đất.

Trên cõi thăng thiên, thật sự không có rào cản ngăn chặn hiểu biết nào hết. Con có thể đi bất cứ đâu con muốn. Đó là lý do tại sao, khi ông Mark Prophet thăng thiên như Chân sư Thăng thiên Lanello, lời đầu tiên ông thốt lên là: “Tôi ở bất cứ đâu trong tâm thức Thượng đế.” Ông nhận ra rằng ông nay không còn hiện thân trong cõi vật chất nữa thì ông có thể đi tới bất cứ nơi nào trong tâm thức Thượng đế. Không có rào cản nào ngăn con tới nơi con muốn tới. Lẽ tất nhiên, trên cõi thăng thiên vẫn có tiến trình dần dần nâng cao sự tự nhận biết của mình. Không ai có thể chỉ một bước chuyển từ tâm thức chân sư thăng thiên lên tầng tâm thức của đấng Sáng tạo.

Trên một hành tinh tự nhiên, con cũng tiếp cận hiểu biết, kinh nghiệm, thông tin dễ hơn trên trái đất. Con có thể thăm dò bất cứ gì ở tầng tâm thức đó của hành tinh tự nhiên. Nhưng trên trái đất, vì đã trở thành một hành tinh phi tự nhiên, có nhiều rào cản ngăn cản con hiểu biết, và ngay cả trải nghiệm. Ta có thể nói là nếu con nhìn phía sau của thày thì con thấy một bức màn lớn. Làm sao con tạo vô minh trên trái đất? À, các thày có giảng là khi con đi xuống tầng tâm thức 48, thì con khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức mà con đi xuống, bắt đầu với ảo tưởng ở tầng tâm thức 144, sau đó 143, vân vân. Với mỗi ảo tưởng, coi như con dựng lên một bức màn như bức màn sau lưng thày. 

Công dụng của bức màn này là gì? Khi con đứng bên này bức màn thì con không thể thấy những gì đằng sau nó. Ta có thể nói đây là toàn bộ chức năng của một hành tinh có vật chất dày đặc. Nó cho phép con có một ý niệm bản ngã khiến con không thấy một số chuyện. Mục đích là gì? Mục đích là để con có thể thăm dò tất cả những gì có thể làm được với tự nhận biết và quyền tự quyết.

Quyền tự quyết cho phép con được quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con muốn. Con trải nghiệm bằng cách nào? Bằng cách tạo ra một cái ngã và trải nghiệm thế gian, cuộc đời và chính mình xuyên qua ngã đó. Trên một hành tinh tự nhiên, có một số loại ngã mà con không thể tạo ra, vì trên một hành tinh tự nhiên con có nhận biết cao hơn trên trái đất. Tỷ dụ, con không thể tin rằng con là một sinh thể hoàn toàn tách biệt, và chung quanh con là những sinh thể tách biệt khác.

Con không thể tin rằng con có thể làm người khác tổn thương mà không bị ảnh hưởng. Trên một hành tinh tự nhiên, con trải nghiệm con là một phần của tổng thể, và bất cứ điều gì con làm đều ảnh hưởng tổng thể. Bất cứ điều gì người khác làm đều ảnh hưởng con. Có một số trải nghiệm của ngã mà con không thể có trên một hành tinh tự nhiên. Do đó sự kiện có hành tinh phi tự nhiên hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền tự quyết vì như vậy những ai muốn trải nghiệm một ý niệm bản ngã hạn hẹp hơn có thể đầu thai nơi đó.

Ta có thể nói một cách tổng quát nhất là vô minh có mặt khi con có rào cản ngăn chặn những gì con có thể thấy, có thể biết, có thể trải nghiệm. Con tạo ra một ngã hạn hẹp bằng cách khoác vào các ảo tưởng, dựng lên rào cản trong tâm mình, để có một số chuyện con không thể thấy. Đó là cách con có trải nghiệm trầm mình. Luật tự quyết cho phép con đi hết những gì con có thể tưởng tượng trên con đường giới hạn ý niệm bản ngã của mình. Tuy nhiên, các thày đã giảng là khi đó con sẽ trải nghiệm các hậu quả của chọn lựa của mình khi ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó xuyên qua ý niệm bản ngã của con. Đúng, điều này quả thật đúng, nhưng việc này có một khía cạnh khác. Đó là con cũng sẽ trải nghiệm chính mình.

11.4. Trải nghiệm chính mình

Ta có thể nói có hai khía cạnh, alpha và omega, khi con là người đồng-sáng tạo. Trong các bài giảng trước, các thày đã chú tâm nhiều đến quyền tự quyết. Con có quyền tự quyết, con có ý chí lấy chọn lựa. Con có ý chí phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-Vật và đồng-sáng tạo. Khía cạnh alpha là con có tự nhận biết. Lẽ tất nhiên, tự nhận biết có thể có nhiều nghĩa.

Sự tự nhận biết mà con có trên cõi thăng thiên cao hơn rất nhiều sự tự nhận biết mà con có trên một hành tinh tự nhiên, và sự tự nhận biết này cao hơn rất nhiều cái con có trên trái đất. Tuy nhiên, bất kể loại ngã nào mà con tạo ra, bất kể độ vô minh mà ngã đó có, con không thể hoàn toàn mất tự nhận biết. Con có thể giới hạn nó, ta có thể nói con có thể giới hạn khía cạnh tự (ngã), nhưng con vẫn sẽ có một hình thức nhận biết. Con không chỉ trải nghiệm những gì Ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó qua cái ngã, con cũng trải nghiệm chính mình xuyên qua ngã đó.

Ta có thể nói là cái Ta Biết, là nhận biết thuần khiết, thực sự cần trải qua một tiến trình. Khi cái Ta Biết được tạo ra, nó không biết nó phải làm gì với chính nó trong tư cách một sinh thể không hình tướng. Nó cần trải nghiệm hành trình trầm mình vào một hình thức ngã hạn hẹp và sau đó dần dần thức tỉnh. Chỉ khi nó đã trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh thì nó mới có thể hoàn toàn chấp nhận nó là một sinh thể vô hình tướng. Chỉ khi nó trải nghiệm trở lại nó là một sinh thể vô hình tướng, và hoàn toàn chấp nhận nó là một sinh thể vô hình tướng, thì nó mới có thể thăng thiên. Nói cách khác, cái Ta Biết không thể được tạo ra và ngay sau đó quyết định thăng thiên.

Điểm chủ yếu trong ý niệm cái Ta Biết là nó thăm dò các lãnh vực của quyền tự quyết cho tới khi nó chán ngán những trình độ biểu hiện quyền tự quyết có thể có trong một bầu cõi chưa thăng thiên – và sau đó nó thăng thiên. Sau đó, nó bắt đầu thăm dò quyền tự quyết ở một tầng cấp mới, lần này nó nhập một với Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ có một tầm nhìn hoàn toàn khác sau khi đã gửi một phần của chính nó vào bầu cõi chưa thăng thiên, tầm nhìn này nó không thể có nơi cõi thăng thiên. Ta có thể nói đây là mục đích vì sao các bầu cõi chưa thăng thiên được tạo ra, ngay cả vì sao các bầu cõi được tạo ra với độ dày đặc ngày càng cao vì như vậy chúng cho con một tầm nhìn khác. Hiện diện TA LÀ có được một tầm nhìn khác khi gửi một phần của chính nó xuống trải nghiệm các cõi dày đặc hơn từ bên trong.

11.5. Cho con người một khung tham chiếu

Vì sao con người trên trái đất vô minh? À, đó là vì họ vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Giờ đây, thể theo lời bài cầu thỉnh tuyệt diệu mà các con đã đọc trước bài truyền đọc này, và lẽ dĩ nhiên bài truyền đọc của Gautama là căn bản của bài cầu thỉnh đó, thì nhiều người trong các con đã đến trái đất như một avatar. Các con đến từ các hành tinh tự nhiên. Con tới trái đất, và khi con tới đây con có trong tâm ý tưởng là con đến đây để giải thoát con người khỏi khổ đau, khỏi vô minh. Con thấy từ hành tinh tự nhiên là trên một hành tinh phi tự nhiên, con người có một ý niệm bản ngã thấp hơn nhiều. Họ bị mắc bẫy trong một hình thức vô minh tạo ra khổ đau.

Khổ đau này không có trên hành tinh tự nhiên, do đó con nghĩ: “Con người bị mắc bẫy trong vô minh, và tôi cần đến đây, tôi muốn đến đây để giúp họ giải thoát khỏi vô minh.” Như Gautama đã giảng trong bài truyền đọc [được ấn hành trong quyển Chữa lành chấn thương tâm linh, cùng với bài cầu thỉnh được nêu lên ở trên], trước khi con thăng thiên như một avatar, con cần khắc phục ý muốn đó. Con cần làm hòa với luật tự quyết. Con cần làm hòa với sự kiện con người có quyền chọn lựa ở trong một ý niệm bản ngã giới hạn những gì họ có thể thấy. Họ có quyền có trải nghiệm đó. Con không ở đây để thay đổi trải nghiệm của họ, để ép buộc họ phải thay đổi. Con ở đây để cho họ một khung tham chiếu.

Đây là một điều cơ yếu mà con cần nhận ra trên con đường tới quả vị Phật, vì khi con còn duy trì ý tưởng là con (như sinh thể mà con thấy con là) ở đây để tạo thay đổi hay để áp đặt thay đổi lên trái đất, thì con không thể là Phật cũng như là Ki-tô Hằng sống. Con sẽ hành động xuyên qua các ngã vỏ ngoài đó. Con yêu dấu, con cần nhận ra là khi con xuống đây, khi con bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc và các ngã khác, thì ngã gốc và tất cả các ngã bắt nguồn từ ngã gốc đã được tạo ra trong vô minh.

Con có nghe câu Giê-su nói về người mù dắt người mù. Ấy, khi con còn hành động xuyên qua ngã gốc và các ngã tách biệt khác, thì con là người mù đang tìm cách dắt người mù. Họ có thể mù hơn con, nhưng kỳ thực sự khác biệt này tương đối và chẳng có bao nhiêu giá trị. Khi con vẫn còn bị mù quáng bởi ngã gốc (là một ngã phản ứng, nó phản ứng lại các điều kiện con trải nghiệm trên trái đất), thì con không thể thoát khỏi các điều kiện thế gian. Con yêu dấu, nếu con không giải thoát khỏi điều kiện thế gian, thì làm sao con giúp người khác giải thoát?

Con đang tìm cách nâng họ ra khỏi trạng thái vô minh của họ và mang vào trạng thái vô minh của con. Đây không phải là cách hành xử của Phật. Phật là người, trước tiên, cải sửa chính mình để khắc phục vô minh mà con khoác vào sau khi con tới trái đất. Một lần nữa, thày không lên án con. Con không làm gì sai trái. Chuyện giản dị là như một avatar đầu thai xuống trái đất, để có thể làm tấm gương cho người khác noi theo, thì con phải trầm mình vào trái đất. Con làm việc này bằng cách tạo ra ngã gốc sau khi bị cú sốc khi con trải nghiệm sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và một hành tinh phi tự nhiên.

11.6. Không thể tránh được chấn thương nhập đời

Các thày đã trao truyền khái niệm là nhiều người trong các con đã bị sa nhân tấn công rất hung hãn. Điều này là sự thật, nhưng ngay cả trên một hành tinh phi tự nhiên không có sa nhân, một avatar khi đi xuống một hành tinh như vậy cũng bị chấn thương nhập đời vì sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và một hành tinh phi tự nhiên quá lớn, và con không thể chuẩn bị khi còn đang ở trên hành tinh tự nhiên. Con giản dị không thể trải nghiệm, khi ở trên hành tinh tự nhiên, thế nào là sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Con phải đầu thai xuống hành tinh phi tự nhiên để có thể trải nghiệm điều đó, và kinh nghiệm đó sẽ cho con một cú sốc.

Nhiều cư dân nguyên thủy của trái đất không trải nghiệm một cú sốc tương tự vì họ đã sống trên trái đất và đã trải nghiệm sự tuột dốc dần dần dẫn tới điểm sa nhân có thể đầu thai ở đây. Họ bị cú sốc, gọi là chấn thương địa cầu, khi họ gặp sa nhân. Ngay cả nếu con không gặp sa nhân, thì con, như một avatar, cũng vẫn bị chấn thương nhập đời khi con đầu thai xuống một hành tinh phi tự nhiên.

Con không có lý do gì để hối tiếc những gì đã xảy ra. Điều quan trọng là con nhận ra là chỉ khi nào con thức tỉnh khỏi những ảo tưởng của ngã gốc, thì con mới có thể hoàn thành mục tiêu mà con có khi con xuống hành tinh này. Con không thể là Ki-tô hành động, con không thể là Phật hành động. Con không thể đem lại ánh sáng, con không thể là tấm gương, con không thể cho con người một khung tham chiếu. Con không thể giúp họ thoát khỏi vô minh vì con bị mắc kẹt trong hình thức vô minh của chính mình.

Ngã gốc giúp con làm gì? Nó cho phép con quên đi cú sốc ở trên trái đất, dù đó là chấn thương do sa nhân tạo ra hay chỉ vì con trải nghiệm một tương phản. Cú sốc lớn đến độ nó khiến con cảm thấy, nó khiến con nghĩ: “Tạo sao tôi lại tới hành tinh này?” Điều này khiến con bất an nhưng lúc đó con không có câu giải đáp, và do đó con đã tạo ra ngã gốc như một bức màn, như một rào cản. 

Giờ đây, khi con còn nhìn cuộc sống trên trái đất xuyên qua ngã gốc, thì con không thấy cú sốc, con không thấy chấn thương. Lẽ tất nhiên, nó vẫn còn đó. Đó là lý do vì sao con không thể hoàn thành mục tiêu khiến con tới đây trừ khi con dùng kinh nghiệm cao hơn mà con đạt được trên trái đất và sự tăng trưởng mà con đã đạt được ở đây để đi trở về chấn thương nhập đời, nhìn nó và làm hòa với sự việc con ở trên trái đất bằng cách của riêng con.

11.7. Giải đáp chuyện khó xử về việc sống trên trái đất

Ta có thể nói là trước khi con xuống đây như một avatar, con có trong tâm một lý do khiến con muốn tới đây. Khi con xuống đây và trải nghiệm đời sống ở đây như thế nào, thì con bắt đầu hoài nghi lý do đó. Điều con cần làm bây giờ ở tầng tâm thức hiện tại của con là đi trở về, nhìn lý do khiến con tới đây và giải đáp tình trạng khó xử mà con phải chạm trán khi ở đây. Điều này giản dị có nghĩa là con cần nhìn lý do khiến con tới đây dưới một ánh sáng mới. Con cần phải thấy là một số khía cạnh của lý do khiến con tới đây dựa trên điều mà Gautama đã gọi, trong bài truyền đọc của thày, là ham muốn quá đáng. Con cần tới điểm con buông bỏ nó, con từ bỏ nó, con quẳng nó đi để con không còn dính mắc vào những gì con hoàn thành hay không hoàn thành trên trái đất.

Như Gautama có giảng, con vẫn còn trói buộc giá trị của mình vào thành quả, vào việc mình làm, vào kết quả mà con tạo ra. Giờ đây thì con đã trải nghiệm độ dày đặc của trái đất, và con nhận ra là con không thể nào tạo được kết quả mà trước khi con đến đây con nghĩ con có thể hoàn thành. Thay vì bị bất toại nguyện, con cần tới điểm con làm hòa với sự kiện là con tới đây để tăng trưởng, và đây là cách nhanh chóng nhất giúp con tăng trưởng, khi con có tâm thái trước khi con xuống đây. Con cần làm hòa với việc con đã tới đây, đã sống ở đây, đang ở đây ngay lúc này. Nếu con chưa làm hòa với việc mình tới đây, và mình đang ở đây, thì con không thể làm hòa với việc rời khỏi nơi này vì con nghĩ còn chuyện gì đó con cần thành tựu mà con chưa thành tựu. Khi con còn cảm giác đó, và vì con là một người đồng-sáng tạo rất nhiệt thành, thì con không thể ra đi.

Khi con xuống đây như một avatar, đó là vì con có ước muốn tăng trưởng lớn lao và điều này có nghĩa con không thể để chuyện gì dang dở, chưa hoàn thành. Nếu như một avatar con đã định cho mình một mục đích ở tầng thấp, thì con nghĩ mục đích đó phải được hoàn thành trước khi con đi bước tiếp. Điều các thày kêu gọi con làm là đạt được một tầng trưởng thành hơn như một avatar, và nhận ra là có hai cách bước tiếp khi mình có một mục đích. Một cách là hoàn thành mục đích cho tới khi con thấy trải nghiệm như thế đủ rồi, cách kia là nhìn mục đích và nhận ra nó không phải là mục đích cao nhất. Nó không thực sự biểu đạt con người mà con là. Do đó, con giờ đây thấy là khi con từ bỏ mục đích đó, thì con thấy một mục đích cao hơn. Con thấy mục đích cao nhất luôn luôn là tăng trưởng sự tự nhận biết. Đó là lúc con tới điểm làm hòa với việc giá trị của con dựa trên con người mà con là, dựa trên Hiện diện TA LÀ thay vì dựa trên những thành đạt, cho dù những thành đạt này được tạo ra trên trái đất hay trên một hành tinh tự nhiên.

Những thành đạt của con trong bầu cõi chưa thăng thiên này không quy định giá trị của con. Con người mà con là mới quy định giá trị của con. Đây là một hình thức vô minh đặc trưng mà con có trước khi con tới đây. Con không hoàn toàn nắm bắt và chấp nhận là con có giá trị vì con là chính mình chứ không phải do những gì con làm.

Giờ đây các thày nhận ra đây là một thách thức rất vi tế cho các người đồng-sáng tạo. Lẽ tự nhiên, con được tạo ra với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm. Làm sao con nới rộng ý niệm bản ngã đó? Bằng cách làm, bằng cách đồng-sáng tạo. Con trải qua một giai đoạn trong đó ý niệm giá trị của con như một người đồng-sáng tạo trong một bầu cõi chưa thăng thiên dính liền với những gì con đồng-sáng tạo, những kết quả mà con tạo ra. Điều mà các thày giản dị muốn con nhận biết là có một lúc con cần bước lên một tầng cao hơn và bắt đầu giải thoát mình khỏi ý niệm giá trị của mình dính liền với kết quả tạo ra. Con cần tới điểm con bắt đầu vui hưởng tiến trình đồng-sáng tạo thay vì kết quả của việc đồng-sáng tạo.

Đây là một chủ đề mà thày sẽ để các vị thày khác khai triển, vì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao.

13 | Nỗi giận tiềm ẩn của người tâm linh

Chân sư Thăng thiên Akshobya qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Thiền định Akshobya, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Akshobya nhưng tất nhiên, thày hơn mọi tên gọi. Chất độc mà thày đã chọn làm việc giữ quân bằng cho trái đất là giận dữ và thù hận. Giận dữ là gì? À, ngôn ngữ bị giới hạn khi mô tả cảm xúc vì cảm xúc thường phức tạp, chúng hơn ngôn từ.

13.1. Dồn mình vào góc tường

Chúng ta hãy chú tâm vào hai loại sinh thể. Chúng ta có sa nhân, chúng ta có avatar. Sa nhân có nỗi giận sâu thẳm đối với Thượng đế, các sa nhân khác, con người, các avatar, các sinh thể Ki-tô, các sinh thể Phật. Nói tóm lại họ giận mọi thứ trừ chính họ. Ấy, thực ra nỗi giận của họ sự giận dữ chính họ nhưng họ không thấy điều này.

Giờ đây, nếu con nhớ lại bài giảng trước thì con thấy là vô minh tạo ra một bức màn, và con không thấy những gì đằng sau bức màn. Khi một avatar tới trái đất và bắt đầu hoài nghi, hay nhận cú sốc khi nhận ra lý do nguyên thủy khiến mình tới đây sẽ không thể hoàn thành, thì con tạo ra ngã gốc để che giấu cú sốc là con phải duyệt lại cách hành xử của mình.

Giống như vậy, trong bầu cõi đầu khi một sinh thể sa ngã, sa nhân đó đã xây dựng một ý niệm bản ngã cao đẹp vì cho rằng mình đang làm điều tốt. Khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối đầu sự thực là điều họ làm không tốt, vì nó chỉ vị kỷ, thì sa nhân đó cũng trải nghiệm một cú sốc và đã tạo ra một ngã để che giấu cú sốc từ lúc đó. Sa nhân đó đã có thể tránh duyệt lại cách hành xử của y và tới điểm xem xét: “Ồ, có gì trong thái độ, cách hành xử, niềm tin của tôi, cách tôi nhìn đời, cách tôi nhìn thế gian, không phải là cách cao nhất? Phải chăng tôi phải thay đổi cách tôi nhìn thế gian?”

Ta có thể nói rằng khi con tới trái đất như một avatar, con bị cú sốc khi nhận ra lý do con tới trái đất không thể hoàn thành được. Con tạo ra ngã gốc để tránh không phải đối phó với câu hỏi: “Có gì trong lý do tôi tới đây, thái độ của tôi, cách tôi nhìn trái đất, cần phải thay đổi chăng?” Con đã tạo ra ngã đó để tránh phải xem xét một vấn đề sâu xa hơn. Nhưng chuyện xảy ra khi con tiếp tục đầu thai (như một sa nhân từ một bầu cõi cao hơn hay như một avatar xuống trái đất) thì qua kinh nghiệm sống, con trải nghiệm là có một số vấn đề dường như con không thể giải quyết.

Lý do con không thể giải quyết vấn đề là vì con không chịu xem xét vấn đề nguyên thủy bị ngã gốc che giấu. Qua hành động tạo ngã gốc, con đã giới hạn cái thấy của mình, và do đó có một số vấn đề con không thể giải quyết. Khi con tiếp tục đầu thai, con tạo ra càng ngày càng nhiều ngã khác là hậu duệ của ngã gốc, và các ngã này tạo thêm càng ngày càng nhiều giới hạn. Vì mỗi lần con tạo ra một ngã, thì con tạo một giới hạn. Với mỗi giới hạn, con lại có thêm một vấn đề con không thể giải quyết cho tới khi con giải quyết cái ngã.

Con có thể nói là mỗi ngã giới hạn cái thấy của con. Với một cái thấy giới hạn thì có một vấn đề mà con không thể giải quyết, nhưng con làm gì? Con không thể giải quyết vấn đề nhưng con phải phản ứng lại vấn đề. Con xử lý việc này ra sao? Con tạo thêm một ngã dựa trên một giới hạn khác, và điều này tạo một vấn đề khác mà con không thể giải quyết.

13.2. Nỗi giận tích lũy

Cảm xúc dần dần trở nên càng ngày càng mãnh liệt, và đó là lý do vì sao, như Chân sư MORE có nói, ngay cả đệ tử tâm linh cũng có thể càng ngày càng tích lũy thêm sự bực bội. Con trải nghiệm là con đang ở trong một hoàn cảnh không thoải mái. Con cảm thấy bị giới hạn, con cảm thấy bị vây hãm. Con trải nghiệm bị điều kiện vây hãm và con không có uy lực để thay đổi hoàn cảnh. Con bị giới hạn bởi các vấn đề mà con không thể giải quyết – đó là cách con cảm nhận tình hình. Lý do con cảm nhận như vậy là vì con nhìn vấn đề xuyên qua một cái ngã, nhưng con không thấy điều này. Do đó, con thấy có một vấn đề mà con không thể giải quyết. Như các thày đã nói, con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công vì con cảm thấy bị vây hãm và không thể đi nơi nào khác. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy.

Nỗi giận tích lũy vì càng ngày càng có nhiều vấn đề mà con không thể giải quyết. Vì mỗi lần con phản ứng lại một vấn đề, thì con tạo ra một ngã khác và điều này lại tạo thêm một vấn đề khác, và con cảm thấy như vấn đề không bao giờ dứt. Đây là câu chuyện con quái vật trong hang động cứ mọc lên bảy cái đầu mới mỗi khi con chặt đứt một đầu của nó. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy. Đó là sự bực bội, là năng lượng tích lũy, là căng thẳng càng ngày càng mãnh liệt, và đây là lý do khiến con giận dữ. Đó là lúc con tới điểm áp lực trở nên mạnh đến độ con không thể tránh biểu lộ nỗi giận. Lẽ tất nhiên, con không biểu lộ nỗi giận với chính mình, mà biểu lộ nó tới người khác.

Nhận ra các điểm khác biệt giữa trường hợp sa nhân và avatar có lợi ích nào cho con? Sa nhân đã có một khoảng thời gian dài hơn rất nhiều để tích lũy sự bực bội của họ, và do đó nỗi giận của họ mãnh liệt hơn. Nỗi giận của họ có cường độ cao đến độ nó đã chuyển dạng thành thù hận. Khác biệt này vi tế và không quan trọng lắm. Lẽ tất nhiên thù hận có cường độ hơn giận dữ rất nhiều và nó hướng thẳng tới một số điều kiện mà con đã nhận diện là nguyên do, nguyên do chính của vấn đề. Đối với nhiều sa nhân, đối tượng này là Thượng đế vì họ nghĩ Thượng đế là nguyên do các vấn đề của họ. Nhiều sa nhân có nỗi giận rất mãnh liệt đối với Thượng đế nhưng vì họ không thể làm gì để trừng phạt Thượng đế (tuy đó là điều họ muốn làm) nên họ đem nỗi giận này trút lên người khác và tìm cách trừng phạt các người đó. Đó là lý do vì sao, khi con là một avatar xuống trái đất, họ nhìn con như một mối đe dọa và họ tìm cách trừng phạt con.

13.3. Các avatar giận chính mình

Con thực sự làm gì với nỗi giận? À, nỗi giận bắt nguồn từ cảm giác bực bội vì con không có quyền lực để giải quyết một vấn đề. Sau đó, có một cơ chế tâm lý vận hành là nếu con trải nghiệm con có thể trút cơn giận lên một người khác (và khiến người đó cảm thấy khổ sở với chính họ như chính con cảm thấy với chính mình) thì con cảm thấy mình có uy lực. Con không có uy lực để giải quyết vấn đề đã khiến con giận dữ, nhưng con có uy lực khiến người khác cảm thấy khổ sở. Điều này giúp con khuây khỏa được một lúc, vì dù sao con cũng có chút ít uy lực.

Đó là lý do vì sao con thấy một số người (ngay cả trong các phong trào tâm linh, như Chân sư MORE có đề cập đến) đã biểu lộ hành động mà họ cho là dùng ánh sáng xanh để giúp người khác thức tỉnh, nhưng kỳ thực họ đang biểu lộ nỗi giận của họ. Nếu con đi sâu vào tâm lý con người, thì con thấy vì sa nhân đã có rất nhiều thời gian để tạo ra thật nhiều ngã, nên họ thù hận người khác, Thượng đế, Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất cứ gì khác.

Với nhiều avatar thì lòng thù hận hay nỗi giận của họ hướng về chính họ. Họ cảm thấy một sự bực bội nào đó, và nhiều khi, trong tâm con, con thấy đây là sự bực bội với một số điều kiện trên trái đất. Thí dụ, nhiều khi con cảm thấy có một số điều kiện trên trái đất đang giới hạn con và khiến con cảm thấy không vui với chính mình. Sự thực là nếu con nhìn sâu hơn, thì cảm xúc này bắt nguồn từ cú sốc khi con nhận ra mục đích nguyên thủy khiến con tới trái đất không thể hoàn tất được. Do đó, con cảm thấy giận chính mình vì đã lấy chọn lựa tới đây: “Tại sao tôi lại có thể ngu dốt như vậy khi quyết định tới hành tinh này?” Nhiều người trong các con sẽ nhận ra là con đã tạo ra ngã gốc và các ngã khác để che giấu nỗi giận đó. Nay các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về chấn thương nhập đời, thì một số các con đã thực sự tới điểm sẵn sàng nhận diện cảm xúc đó trong tâm mình, và đây là một điều rất quan trọng mà con cần làm.

13.4. Tạo ra ngã để đè nén nỗi giận

Như một người tâm linh, điều rất quan trọng là con cho phép mình nhận ra là con có các ngã đó, con có sự bực bội đó, con có nỗi giận đó. Như một người tâm linh, điều quan trọng khác là con chấp nhận là con đã tìm cách tạo ra các ngã đó để đè nén nỗi giận vì con nhận ra, ở một tầng nào đó của con người mình, là một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Điều quan trọng, như vị bào huynh quý của thày có nói, là con nhận ra là khi con tiếp nhận một giáo lý tâm linh, thì con thực sự có thể tạo ra một số ngã dựa trên giáo lý đó. Con tiếp nhận giáo lý Phật an lạc, Phật không dính mắc, do đó, con cảm thấy, nếu con là một đệ tử của Phật, thì con phải tạo ra một ngã để đè nén nỗi giận. Con có thể đi về phương Đông và thấy nhiều vị tăng ni đã là đệ tử trung thành và nhiệt tình của Phật giáo trong nhiều chục năm trong kiếp sống này, thậm chí trong nhiều kiếp trước. Họ có vẻ rất an bình, rất hài hòa và một số quả thực như thế. Nhiều người trong các vị đó đã quả thực tạo ra những ngã rất, rất dũng mãnh nhằm đè nén nỗi giận để nó không bao giờ biểu lộ ra – nhưng nó vẫn còn đó. Các thày kêu gọi các con, là đệ tử chân sư thăng thiên đã mở tâm đón nhận giáo lý này, đừng sợ nhận ra là trong con người mình có một hay nhiều ngã có sự giận dữ.

Một số các con đã kinh qua khổ đau mãnh liệt đến độ đã lấy vào một số phóng chiếu của sa nhân và hỏi: “Tại sao Thượng đế không thay đổi phương trình tự quyết, tại sao Thượng đế lại để con người bị đau khổ, tại sao Thượng đế lại để tôi bị đau khổ?” Con cảm thấy có nỗi giận nào đó với Thượng đế vì ngài đã ban cho con quyền tự quyết. Con có thể cảm thấy (khi con kinh qua đau khổ cùng cực trên trái đất, là điều không thể có trên hành tinh tự nhiên): “Tại sao Thượng đế lại để tôi lấy chọn lựa xuống trái đất? Thậm chí, tại sao Thượng đế lại cho tôi quyền tự quyết?” Đây là một phóng chiếu của sa nhân mà con đã mang vào tâm mình, nhưng điều quan trọng là con nhìn nhận mình có ngã đó. Chỉ khi con nhận ra là trong bốn thể phàm của mình có ngã cảm thấy giận dữ đó, thì con mới có thể tách mình ra khỏi ngã đó.

13.5. Khắc phục nỗi giận

Vậy con có thể làm gì? À, lẽ tất nhiên con có thể theo phương pháp mà các thày đã trao truyền, nhận diện ngã tách biệt, nhận ra là ngã tách biệt cảm thấy giận dữ đó đang phóng chiếu một vấn đề. Tỷ dụ, nó có thể phóng chiếu vấn đề là: “Thượng đế đáng lẽ phải thay đổi luật của ngài và không cho phép quyền tự quyết đem lại khổ đau như thế này.” Khi con còn ở bên trong ngã đó, thì con phóng chiếu ra ngoài, con nghĩ: “Làm sao tôi có thể khiến Thượng đế thấy sai lầm của ngài và thay đổi tình trạng này?” Lẽ tất nhiên con không thể. Khi con hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con không thể nói chuyện với đấng Sáng tạo và nói: “Tại sao ngài không thay đổi luật của ngài?”

Đấng Sáng tạo không thể nghe con, con không thể vươn tới tâm thức đấng Sáng tạo. Ngã đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp. Tất cả các ngã mà con đã tạo ra đều đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp vì vấn đề chỉ hiện hữu do nhận thức của ngã đó, một nhận thức giới hạn. Vấn đề không phải là một vấn đề có thực, nó là một vấn đề nhân tạo, được tạo ra bởi một nhận thức giới hạn. Vấn đề không bao giờ có giải đáp. Cách giải quyết duy nhất là thấy ngã tách biệt có một nhận thức giới hạn. Nó không phải là con. Con là cái Ta Biết. Con có khả năng bước ra ngoài ngã đó và đón nhận một nhận biết cao hơn, mà các thày đã trao truyền với giáo lý về quyền tự quyết.

Do đó, con có thể tới điểm thấy ngã đó không thật, vấn đề không thật, có nghĩa là con không cần giải quyết vấn đề. Con không cần khiến đấng Sáng tạo thấy luật tự quyết là một sai lầm. Do đó, con có thể tới điểm thấy ảo tưởng và buông bỏ nó. Sau đó, con có thể nhìn ngã tách biệt và nhận ra là cách giải thoát khỏi nó không phải là giải quyết vấn đề mà là để cho ngã chết đi.

13.6. Thuốc giải chất độc giận dữ

Giờ đây các thày đã trao truyền cho các con các dụng cụ để giải trừ chất độc giận dữ, nhưng thày vẫn muốn giúp con bằng cách cống hiến thuốc giải độc tố giận dữ của thày. Thuốc giải này gọi là Minh triết Như Tấm gương. Con yêu dấu, khi thày yêu cầu con xem xét sự kiện con có một cái ngã giận dữ, thì ban đầu con có thể cảm thấy rất quan ngại. Con sợ là nếu con, như một đệ tử tâm linh, nhìn nhận nỗi giận của mình thì con sẽ tự lên án mình. À, Chân sư MORE đã trao cho các con chìa khóa để khắc phục ngã phán xét.

Nếu con chú tâm vào chuyện này trước và loại bỏ ngã phán xét đó, thì con sẽ không phán xét mình đã có nỗi giận. Con có thể nhìn nó một cách trung hòa. Điều thày cống hiến con là Minh triết Như Tấm gương. Nếu con bỏ thời gian đọc câu chú, hòa điệu với Sinh thể của thày, thì thày sẽ giúp con nhận ra chuyện đó. Thày sẽ giúp con hòa điệu với Minh triết Như Tấm gương để con có thể tới điểm con thấy trong tấm gương những gì bên trong mình mà không phán xét.

Giờ đây thày biết rất rõ là con có thể xem xét tình trạng trái đất, và có lẽ phụ nữ dễ nghĩ theo chiều hướng này hơn nam nhân. Nhiều phụ nữ không thích tấm gương vì nó cho họ thấy như họ là, không như điều họ cảm thấy họ phải biểu hiện ra. Có một chấn thương liên quan đến phụ nữ đã được tạo ra trên trái đất nhưng con cũng có thể khắc phục nó bằng Minh triết Như Tấm gương của thày bằng cách tự đặt cho mình một câu hỏi. Con yêu dấu, nếu con đang ăn điểm tâm và có một miếng thức ăn giắt vào răng, thì con có muốn sinh hoạt suốt ngày với miếng thức ăn giắt vào răng mà mọi người đều thấy, hay con muốn nhìn vào tấm gương trước khi con ra khỏi nhà, thấy miếng thức ăn, gỡ nó đi và được giải thoát khỏi nó suốt cả ngày?

Lẽ tự nhiên, với nỗi giận cũng vậy. Con có một ngã cảm thấy giận dữ. Con yêu dấu, chuyện con đến trái đất như một avatar và tạo ra một ngã giận dữ, là điều không thể tránh vì đây là một hành tinh rất thấp, rất dày đặc. Điều này không thể tránh. Tất cả chúng ta đều đã tạo ra một ngã tương tự, kể cả Giê-su, như được chứng minh trong quyển Các kiếp sống. Con có muốn sống phần còn lại cuộc đời với ngã đó hay con muốn nhìn vào tấm gương mà thày cống hiến, lấy nó ra khỏi răng, loại nó ra khỏi bốn thể phàm, cho nó chết đi và được giải thoát khỏi nó trong suốt phần còn lại của cuộc đời?

13.7. Minh triết Như Tấm gương không phán xét

Một lần nữa, điều này dính liền với việc các thày chấp nhận con vô điều kiện và không phán xét con. Con yêu dấu, thày là một Phật Thiền định, thày hiện diện ở một tầng tâm thức cao hơn tâm thức trái đất rất, rất nhiều. Tuyệt đối không có gì trên trái đất xáo trộn thày. Không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày. Vì không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày, nên thày không cảm thấy bị đe dọa bởi bất cứ gì trên trái đất. Vì thày không cảm thấy bị đe dọa, nên thày không cần phán xét điều gì trên trái đất, do đó thày không phán xét con. Thày chỉ mong muốn giải thoát con. Thày cống hiến Minh triết Như Tấm gương vì khác với các tấm gương trên trái đất, Minh triết Như Tấm gương mà thày là giúp con có thể, khi con hòa điệu với nó, thấy mà không phán xét. Con có thể thấy một ngã mà không thấy qua một ngã khác. Nói cách khác, con có thể thấy ngã giận dữ mà không thấy nó qua ngã phán xét. Con chỉ thấy nó.

Minh triết Như Tấm gương là như thế. Nó không nhị nguyên, nó giúp con thấy một điều kiện nhị nguyên mà không phán xét nó qua một điều kiện nhị nguyên hay một ngã khác. Không có cách nào vượt lên trên sự giận dữ ngoài cách làm tan biến ngã giận dữ. Khi con đã giải quyết ngã gốc, thì con rất dễ nhìn các ngã giận dữ và khiến chúng tan biến đi. Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại tới trái đất? Tôi có một chờ đợi thiết thực, hay tôi đã có một ước muốn không thiết thực, một ước muốn quá đáng theo nghĩa đó là một ước muốn bất khả thi, không thể hoàn thành.”

Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại muốn thay đổi người khác khi họ có quyền tự quyết?” Sau đó, con có thể tới điểm không cảm thấy bị đe dọa bởi sự kiện người khác bác bỏ con, người khác không thay đổi. Con không có trong mình một ngã cảm thấy bứt rứt vì người khác vẫn đang đau khổ. Do đó, con không cần phải thay đổi họ để giải quyết cảm xúc bên trong chính mình. Con có thể buông bỏ sự phán xét cho rằng đau khổ là không tốt, và các người đó đáng lẽ không được đau khổ.

13.8. Giải thóat ý chí của mình khỏi ý chí của người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng là trong con có một ngã dựa trên nhận thức mà con có trước khi con tới đây, nhưng nó được tạo ra sau khi con thấy độ dày đặc của hành tinh này và con cảm thấy: “Nhưng tôi không thể thay đổi người khác, họ không chịu lắng nghe tôi, họ không đáp ứng lại những gì tôi làm.” Lúc đó, con tạo ra cái ngã cảm thấy đáng lẽ con không nên tới đây. Mỗi khi con thấy người khác đau khổ, thì con cảm thấy sự bực bội bắt nguồn từ ngã đó. Con dấy lên lòng từ bi trước nỗi khổ đau của người khác nhưng con cảm thấy không thể giúp họ thay đổi để không đau khổ nữa.

Điều này khiến con đau khổ. Nó khiến con đau khổ vì con cảm thấy việc con tới đây vô nghĩa và điều này dính liền với cảm giác bực bội nơi con. Phương pháp tối hậu để giải quyết nỗi giận là thấy được ngã đó, và thấy là cảm giác của con về việc con hiện thân trên trái đất vẫn còn dính liền với người khác và sự khổ đau của họ. Cách con cảm nhận chính mình và việc con xuống đầu thai trên trái đất là, một lúc nào đó, con đã quyết định là khi người khác còn đau khổ, thì con không thể thoải mái với việc mình ở trên trái đất, con không thể cảm thấy an bình sống trên trái đất. Thậm chí con không thể cho phép mình cảm thấy vui tươi và hạnh phúc khi người khác còn đau khổ.

À, bây giờ con có thể tới điểm giải quyết tầm nhìn hạn hẹp của con về luật tự quyết. Con nhận ra là người khác có quyền chọn lựa đau khổ trong một thời gian dài cho tới khi họ chán ngán kinh nghiệm đó và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Con vẫn có quyền tự quyết, và việc con trói buộc các chọn lựa của mình vào các chọn lựa của người khác, là điều không phải, là điều phạm luật. Như một đệ tử tâm linh, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình có nghĩa là ngưng không để những chọn lựa của mình bị ảnh hưởng bởi chọn lựa của người khác. Con ngưng không để các chọn lựa của mình chờ đợi người khác lấy một số chọn lựa. Con nhận ra là con cần hoàn toàn (và đây là trách nhiệm tối thượng khi con đầu thai trên trái đất) giải thoát quyền tự quyết của mình khỏi ý chí của người khác.

Con cần tới điểm con có thể lấy chọn lựa cho chính mình mà hoàn toàn không tùy thuộc vào người khác. Con cần nhận ra là con có quyền chọn lựa sống an bình, sống hạnh phúc trên trái đất ngay cả khi người khác vẫn chọn lựa đau khổ. Khi con có thể nhận ra điều này, thì con nhận ra không có lý do gì để con cảm thấy bực bội khi sống trên trái đất. Lúc đó, con có thể nhìn cái ngã cảm thấy luật tự quyết sai lầm, luật tự quyết phải được thay đổi. Con có thể nhìn cái ngã (tất cả mọi ngã cảm thấy bực bội, cảm thấy giận dữ) và con buông bỏ nó – con để cho nó chết đi.

Con có thể thấy là ở đây không có vấn đề gì cần giải quyết. Con chỉ để cho ngã chết đi. Con có thể để nó chết đi bằng cách nhìn vào tấm gương vì Minh triết Như Tấm gương giúp con không những thấy những gì có trong tâm thức mình, mà cũng giúp con ngước nhìn lên và thấy là con hơn những ngã đó rất nhiều. Con là cái Ta Biết là một sinh thể vô hình tướng, do đó con không bị mắc kẹt trong các ngã đó – trừ phi con để cho mình bị mắc kẹt. Con hơn thế, con là Hiện diện TA LÀ ở trên, và nó tự nó xứng đáng tự trong bản chất của nó. Do đó, giá trị của con trên trái đất không tùy thuộc các kết quả mà con đạt được trong việc thay đổi người khác.

Một lần nữa, con có thể tới điểm con tiến thêm một bước tới gần hơn việc chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Đây là một chủ đề mà các chân sư khác sẽ khai triển thêm, vì tất cả các thày đang xây dựng chủ đề tiến trình thay vì kết quả.

Khi con còn bị mắc kẹt trong các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh, thì con không thể chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Con sẽ chú tâm vào kết quả vì các ngã phóng chiếu tới con là có một kết quả mà con phải thể hiện. Đó là một kết quả bất khả thi và các thày muốn giúp con thấy điều này bằng cách phơi bày các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh. Tới đây thì thày đã trao cho các con món quà của thày.

15 | Bình đẳng làm tan biến lòng tự cao và tự ti

Chân sư Thăng thiên Ratnasambhava qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Ratnasambhava. Thày là thuốc giải của độc tố kiêu mạn. Kiêu mạn là gì? À, lẽ đương nhiên kiêu mạn có nhiều cấp độ, có nhiều dạng. Ta cần khẳng định là ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có kiêu mạn. Lý do giản dị là khi con bắt đầu hiện thân như một người đồng-sáng tạo, thì con có một ý niệm bản ngã rất bé nhỏ (như các thày đã nói: nhỏ như cái chấm), và phận sự của con là dần dà phát huy nó bằng cách thử nghiệm. Con đồng-sáng tạo dựa trên cái ngã mà con có, trải nghiệm kết quả, sau đó nới rộng cái ngã, đồng-sáng tạo tiếp, và cứ như thế.

15.1. Kiêu hãnh tự nhiên và phi tự nhiên

Chuyện hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh là khi con trải qua tiến trình đó trong một thời gian dài, thì con trải nghiệm mình có một sự thiện xảo nào đó, một thành đạt nào đó. Con đã đạt được khả năng hình dung và biểu hiện nào đó, không những chỉ là các vật thể mà thậm chí cả hoàn cảnh sống. Hầu như không thể tránh (và sự thực là không có gì đáng chê trách) là khi con tăng trưởng nhận biết để sáng tạo, thì con phát triển ý niệm con đã thành tựu được gì đó. Con đã đạt được một trình độ trưởng thành, tinh tiến và thiện xảo nào đó. Lẽ tự nhiên, con có thể quay lại nhìn ý niệm bản ngã mà con có khi trước và thấy là con đã phát huy nó như thế nào, con đã tăng trưởng như thế nào, con có cảm nhận là con thực sự có thể thể hiện một cái gì đó.

Con có thể lấy lời dạy của Giê-su: “Tự ta không làm được gì.” Trên một hành tinh tự nhiên, con trải nghiệm trực tiếp là con không đang thể hiện với tư cách một ngã tách biệt mà con là một phần của tổng thể, năng lượng của con tới từ Hiện diện TA LÀ của con. Con biết khả năng thể hiện của con không chỉ do các thành đạt của con, tuy nhiên con phát triển ý niệm là con, như cái ngã mà con thấy con là, có khả năng thể hiện. Điều này tất nhiên hoàn toàn đúng – con quả thực có khả năng đó. Con đã phát huy ý niệm bản ngã và con có khả năng thể hiện một cái gì đó mà con không thể thể hiện lúc ban đầu.

Ta có thể nói con có một niềm kiêu hãnh tự nhiên khi con cảm thấy hãnh diện về những thành đạt và khả năng của mình. Đây có là một chất độc tâm linh theo sát nghĩa chăng? À, quả thực là không nếu xét theo cách con dùng từ chất độc tâm linh trên một hành tinh phi tự nhiên, vì con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt. Con không ở trong nhị nguyên và do đó con không có niềm tự hào như con thấy trên trái đất.

Con cần hiểu là những người trong các con đã tới trái đất như một avatar, thì các con đã tới với cảm nhận mình đã có một số thành đạt, có khả năng thể hiện – tuy rằng, khi con xuống đầu thai thì con mất đi nhận biết có ý thức về các khả năng này. Con cần nhận ra là con mang theo mình một cái gì đó từ khoảng thời gian con sống trên hành tinh tự nhiên.

15.2. Các avatar đầu thai trên trái đất

Các thày có giảng là khi con xuống đầu thai trên trái đất, ngay cả khi con là một avatar, bất kể trước đó con đã có thành đạt gì, thì con phải xuống ở tầng tâm thức 48, và mang vào tất cả các ảo tưởng ở mỗi tầng từ tầng tâm thức của con xuống tới tầng đó. Điều này có nghĩa là tâm ý thức của con ở tầng tâm thức 48.

Con làm gì trên một hành tinh tự nhiên? À, con cũng xây dựng một cái gì tương tự như cái các thày đã gọi là bốn thể phàm trên trái đất. Con xây dựng một ý niệm bản sắc, con xây dựng một hiểu biết về cách vận hành của tiến trình đồng-sáng tạo, và con xây dựng một số cảm xúc. Con mang theo những thành phần này, ít ra là một phần, khi con xuống trái đất và con dùng chúng để hình thành các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của con. Nói cách khác, khi con tới trái đất như một avatar, con không bắt đầu từ số không khi con tạo ra bốn thể phàm để hiện thân tại đây. Con mang theo mình một cái gì đó từ hành tinh tự nhiên. Điều này có nghĩa là, tuy tâm ý thức của con ở tầng 48 (và do đó con không nhớ một cách ý thức là con tới từ một hành tinh tự nhiên), con vẫn có một số cảm giác, một số ký ức. Con cũng có một số khả năng, vì lẽ tất nhiên, con dễ quán triệt tiến trình đồng-sáng tạo hơn một dòng sống mới được tạo ra ở tầng đó.

Khi con tới trái đất, con trải nghiệm là con khôn ngoan hơn, tài ba hơn, con có nhiều khả năng hơn đa số những người đang hiện thân trên trái đất. Giờ đây, điều rối rắm là như một avatar, lẽ tất nhiên, con bị chấn thương nhập đời. Chuyện đã xảy ra là sa nhân tìm cách hạ nhục con và nói là con không có quyền ở trên trái đất, con đáng lẽ không được tới đây, vân vân. Khi đó con tạo ra ngã gốc, và do đó con không thấy thế khó xử mà sa nhân đã đặt con vào. Điều này khiến con tạo ra những ngã khác có cảm giác là nay con cần phải chứng minh giá trị của mình trên trái đất. Con cần biện minh, con cần giải thích sự hiện diện của mình. Con cần chứng minh cho chính mình là con xứng đáng, con có quyền ở trên trái đất, con không phải là người xấu, vân vân.

15.3. Lòng tương kính đối với sa nhân

Tình trạng này có thể dẫn tới việc tạo ra các ngã rất thiết tha được một thành đạt nào đó, một khả năng đặc biệt nào đó trong thế giới vật chất, kể cả với thân thể vật lý. Con thấy có nhiều avatar trong nhiều kiếp sống đã trở nên thiện xảo với thân thể của họ. Có những trường hợp họ đã trau dồi võ thuật và trở nên những chiến sĩ thượng thặng. Họ đã phát triển khả năng đặc biệt trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc, thể dục, thể thao vân vân.

Khi con trải qua nhiều kiếp sống cố gắng chứng minh giá trị của mình, thì có hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất, con sẽ trải nghiệm là xét theo quan niệm bên ngoài con không bao giờ thực sự mãn nguyện với những thành đạt của mình. Con không bao giờ làm vừa ý sa nhân, con không bao giờ chứng minh được giá trị của mình dưới mắt họ. Đồng thời, con cũng không chứng minh được giá trị của mình duới mắt đa số con người trên trái đất. Họ có thể nhìn con với đôi mắt khâm phục vì con có khả năng mà họ không có, nhưng điều này không thực sự khiến con mãn nguyện.

Con tích lũy một sự bực bội, và điều này có nghĩa là để cảm thấy mình thành đạt, con có nếp sống mà người ta gọi là chuột chạy đua hay chạy trên máy chạy. Con phải chạy càng ngày càng nhanh, làm càng ngày càng nhiều, thành tựu càng ngày càng hơn. Sự thực là ngày nay con thấy nhiều người không bao giờ cảm thấy đủ dù họ thành tựu bao nhiêu. Bất kể số tiền họ kiếm được, bất kể thành quả họ gặt hái trong lãnh vực nào đó, bất kể bao nhiêu danh vọng họ đạt được, họ vẫn không bao giờ cảm thấy đủ.

Tỷ dụ, con thấy một số thể tháo gia lúc trẻ đã đi dự Thế vận hội và đoạt được nhiều huy chương và phá nhiều kỷ lục thế giới. Họ cảm thấy hưng phấn tột bực vì họ cảm thấy được sự chứng nhận tối hậu. Sau đó, vì dòng chảy tàn nhẫn của thời gian dần dần đuổi bắt họ nên họ không còn đạt được những thành quả đó nữa. Lúc đó, họ rơi vào trầm cảm vì họ không còn được chứng nhận nữa nhưng họ vẫn cảm thấy cần sự chứng nhận này.

Nhiều avatar đã trải qua hoàn cảnh này từ kiếp này sang kiếp khác, tốn rất nhiều công sức để xây dựng khả năng nào đó trong kiếp sống này, để rồi mất nó và kết thúc kiếp sống cảm thấy chán nản và thiếu tự tin. Điều này có thể khiến một số dòng sống dần dần xây dựng một ngã thường trực hơn mà họ mang từ kiếp này sang kiếp khác, và ngã này cho họ cảm giác tự tôn. Lúc đó họ dùng tâm thức nhị nguyên, lẽ tất nhiên lúc nào cũng hàm ý hay dính liền với tâm phán xét giá trị. Họ đã bị rơi vào cạm bẫy của sa nhân và dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một ngã có niềm tự hào cao vời vợi coi mình đặc biệt, tinh tiến hơn người khác và do đó được quyền có địa vị nào đó, đặc quyền nào đó, vân vân. 

Điều thày muốn nói là qua tiến trình này một số avatar đã bị lừa để hành xử giống như sa nhân. Con có thể nhìn về thời Trung cổ và thấy là có một số vị vua và giới quý tộc cảm thấy họ xứng đáng được hưởng đặc quyền. Một số trong các người đó là sa nhân và một số là avatar. Họ thường giao tiếp với nhau, như quyển sách Các kiếp sống của tôi đã mô tả, vì con thường thấy là sa nhân thực ra cũng có nhiều khả năng thể hiện kết quả vật lý, do quá trình rất dài của họ. Sa nhân và avatar đã hầu như phát triển tinh thần tương kính vì cả hai nhóm nhận ra là nhóm kia đã có một số thành đạt.

15.4. Nhìn nhận là trong con có ngã tự hào

Điều này tất nhiên không áp dụng cho sa nhân trên cõi bản sắc và cũng không áp dụng cho mọi sa nhân đầu thai trên trái đất. Nhưng con có thể có tình huống một số sa nhân trên trái đất (không nhất thiết là các sa nhân xấu ác nhất) đã phát triển một tình bằng hữu với các avatar vì họ tôn trọng khả năng thể hiện thành quả vật lý mà cả hai nhóm đều có. Do đó, họ củng cố lẫn nhau niềm tự hào của họ.

Có những avatar đã cảm thấy rất khó cắt đứt dây trói buộc họ vào các dòng sống đó, các sa nhân đó. Một avatar có thể cảm thấy rất, rất khó cắt đứt những dây trói đó. Con không dễ nhìn nhận mình đã phát triển lòng ngưỡng mộ và kính trọng sa nhân. Con có thể làm chuyện này bằng cách nhận ra đây là, lẽ tất nhiên, một cái ngã trong con đã phát triển điều này, và ngã đó là một hậu duệ của ngã đã cho con cảm giác tự hào.

Giờ đây, giống như trường hợp giận dữ, con không phải cảm thấy tội lỗi. Không ai lên án con vì con nhìn nhận là trong tâm mình có yếu tố tự hào. Khi con nhìn sự vận hành, sự vận hành tâm lý, trong đời sống của một avatar, đã tới một hành tinh như trái đất, đã phải kinh qua những chuyện mà con đã kinh qua, thì con không thể tránh tạo ra ngã đó. Giản dị là con sống trên trái đất, con ở trong một thân thể vật lý, con phải giáp mặt các điều kiện trên trái đất (mà các thày đã nhiều lần nhắc lại là rất khó khăn, rất dày đặc). Khi con ở tầng tâm thức nào đó, thì con cần phản ứng lại các điều kiện đó với tầng tâm thức đó. Cách duy nhất để phản ứng ở tầng 48 là con tạo ra một ngã dựa trên ảo tưởng ở tầng 48. Một lần nữa, con có thể thấy là con không thể tránh tạo ra các ngã đó. Các thày chỉ giản dị kêu gọi con nhìn nhận là con có các ngã đó, và nhận ra là đã đến lúc con để cho chúng chết đi. Một lần nữa, các thày đã trao cho con giáo lý và dụng cụ để làm công việc này.

Lẽ tất nhiên, sa nhân có niềm tự hào ăn sâu, rắn đặc hơn rất nhiều những gì một avatar có thể tạo ra trong một thời gian ngắn. Dù con có đầu thai trong hai triệu năm trên trái đất, thì đây vẫn là một khoảng thời gian rất ngắn so với sự có mặt của sa nhân từ các bầu cõi trước. Điều con nhận ra ở đây là niềm tự hào của họ mãnh liệt hơn rất nhiều và rất dính liền với giận dữ.

Lẽ tất nhiên đây là một hình thức vô minh rất dày đặc mà họ có. Thày không nói là lòng tự hào của con tương đương với lòng tự hào của sa nhân, tuy chúng có điểm tương đồng và con có thể có lòng tương kính đối với họ. Con có thể rũ bỏ lòng tự hào dễ hơn sa nhân rất nhiều. Tuy lẽ tất nhiên họ cũng có tiềm năng dùng cùng tiến trình mà con đã dùng: nhận diện một ngã, để cho nó chết đi. Lẽ tất nhiên, một sa nhân rất khó bước ra ngoài ngã mà họ đang mang, nhìn nó từ bên ngoài, nhận diện nó là một ngã không thực, và để cho nó chết đi, nhưng việc này vẫn khả thi và trên căn bản tiến trình vẫn là một.

15.5. Bình đẳng làm tan biến kiêu mạn

Món quà mà thày muốn cống hiến các con là minh triết của thày, là Minh triết Bình đẳng, vì đây là chất giải tối hậu cho độc tố kiêu mạn. Lẽ tất nhiên, minh triết này có nhiều tầng. Như một avatar, ở tầng thứ nhất con nhận ra một cách ý thức là một trong những chất độc mà con phải khắc phục trên trái đất là lòng kiêu mạn. Con đã tạo ra một ngã có tính kiêu mạn. Vậy con có thể làm gì để xoay chuyển tâm thức và không còn tự đồng hóa với ngã đó nữa?

À, con bắt đầu bằng cách sử dụng Minh triết Bình đẳng để nhận ra điều mà các thày đã dạy về tâm thức nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực, nhưng nó lúc nào cũng gán lên các đối cực này một phán xét giá trị: một bên tốt, một bên xấu. Con có thể sử dụng, hòa điệu và kêu gọi sự Hiện diện của thày bằng cách dùng câu chú của thày để thực sự trải nghiệm là nhị nguyên không có thật.

Do đó, con nhận ra ý niệm một đối cực tốt hơn cái kia, bên này tốt bên kia xấu, chỉ giản dị là một ảo tưởng. Con có thể thấy là nhị nguyên có cái gì không thật. Thày biết rất rõ là nhiều người trong các con đã học giáo lý của các thày về nhị nguyên, nhưng vẫn có cái mà Chân sư MORE gọi là “khoảng cách” giữa giáo lý và trải nghiệm sự hiện thực của giáo lý. Đây là chỗ Minh triết Bình đẳng có thể giúp con.

Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa trong việc dùng Minh triết Bình đẳng. Con ngồi đây, con có giác quan vật lý, con có nhận biết có ý thức. Thày muốn con nhìn vào trái đất, nhìn vào cuộc sống với mắt tâm của con. Con thấy tất cả những điều kiện đa dạng mà con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình. Con thấy sự đa dạng lạ thường đó. Con thấy có một số người đang khổ đau, một số người đang giao chiến, một số người đang có cuộc sống an bình, vân vân. Lẽ tự nhiên, con khó nhìn tất cả các điều này mà không khởi lên tâm phán xét giá trị, nói rằng một số điều kiện không cao nhất vì chúng tạo khổ đau, và một số điều kiện khác chắc chắn phải cao hơn vì chúng không tạo khổ đau. Giờ đây, với Minh triết Bình đẳng, con có thể bắt đầu bước lui lại khỏi kịch bản rất đa dạng đó. Thày muốn con xem xét sự kiện mọi vật thể mà con thấy trên trái đất đều được cấu tạo từ vật chất. Cái gì cấu tạo ra vật chất? À, khoa học cho con biết là vật chất được cấu tạo bởi nguyên tử. Các hiện tượng vật chất mang nhiều hình dạng, nhưng chúng đều được cấu tạo từ các viên gạch căn bản là nguyên tử. 

Con biết là có 108 nguyên tử – đúng ra thì có nhiều hơn nhưng khoa học chỉ mới khám phá ra 108 nguyên tử. Con biết là bất cứ hiện tượng vật chất nào mà con có thể phát hiện bằng giác quan đều do các nguyên tử đó tạo thành, hoặc từ một nguyên tử hay nhiều nguyên tử phối hợp với nhau. Con yêu dấu, khi con nhìn ở tầng vĩ mô với giác quan của con, thì con có thể thấy có một người đang có một vết thương chưa lành đang chảy mủ và trong đó lúc nhúc ruồi và dòi bọ. Với tâm ý thức bình thường của con, hiện tượng này giống như một sự lố bịch vì nó tạo khổ đau.     

15.6. Nhiều tầng lớp ý nghĩa

Giờ đây, con hãy cho phép mình thấy là hiện tượng đó được tạo nên bởi vật chất, và vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử. Nếu con có thể xoay chuyển viễn quan của con để chỉ thấy các nguyên tử (nói cách khác, thay vì thấy một vết thương chưa lành thì con thấy một tổ hợp nguyên tử, thay vì thấy dòi bọ đang bò trong vết thương thì con thấy một tổ hợp nguyên tử), thì phán xét giá trị ở cấp vĩ mô là hiện tượng này xấu, có nghĩa lý gì ở cấp các nguyên tử chăng? Các nguyên tử có nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã thể hiện một dòi bọ và điều này xấu?” À, lẽ dĩ nhiên chúng không nghĩ vậy! Chúng chỉ thể hiện cái khuôn đúc đã được gán lên chúng. Điều thày muốn nói ở đây là: Phán xét giá trị tốt xấu hiện hữu ở cấp vĩ mô trong tâm vật lý, nhưng nó không hiện hữu ở tầng sâu hơn. Nó không có nghĩa gì cả ở tầng sâu hơn.

Điều con cũng nhận ra là khi con hòa điệu với tầng sâu hơn của các nguyên tử, thì các nguyên tử không bị trói buộc vào hình tướng. Các nguyên tử có thể dễ dàng thoát khỏi hình tướng dòi bọ để hợp thành một đóa hoa tuyệt đẹp. Đối với các nguyên tử, hợp thành hình tướng này không khó hơn hình tướng kia. Chuyện hoàn toàn khả thi là các nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ được giải thoát và trở thành thành phần của một bông hồng. Sự thực là những nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ có thể trước đó đã cấu tạo một bông hồng. Con thấy là không có gì ở cấp vĩ mô của thế giới vật lý có tính chất thường hằng. Chúng đều phù du. Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể đi xuống một tầng sâu hơn nữa. Nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt cơ bản. Các hạt cơ bản nằm ở lằn ranh giữa vật chất và năng lượng, do đó chúng thực sự một phần là sóng năng lượng. Con có thể đi xuống tầng sâu hơn và chỉ thấy các sóng năng lượng. Mọi thứ đều do sóng năng lượng tạo thành, đều là một mô thức rất rất phức tạp nhiều sóng năng lượng giao thoa với nhau. Ở tầng sóng năng lượng, một lần nữa phán xét giá trị ở tầng vĩ mô lại không có giá trị, không có ý nghĩa gì. Ở đó chỉ có các sóng năng lượng.

Lúc đó, con có thể xem xét tất cả các đế quốc oai dũng do con người dựng nên, tất cả các cấu trúc mà họ đã xây dựng để bồi đắp lòng kiêu mạn, ý niệm họ thành đạt, ý niệm họ đặc biệt. Con hãy nhìn những thành quách quyền lực này và tự hỏi: “Ở tầng sóng năng lượng, chúng có thường hằng chăng, chúng có uy lực chăng?” “Không đâu!”

Con có thể nhận ra là những chuyện xảy ra trên trái đất chỉ là một trò chơi. Đó là một màn kịch mà con người dựng lên để có một số trải nghiệm cho tới khi họ chán ngán trải nghiệm đó. Sau đó, như một đệ tử tâm linh, con có thể bắt đầu xem xét: “Con có thật sự cần cảm thấy mình hơn người khác chăng? Có phải chăng là trong nhiều kiếp sống con đã có trải nghiệm này, và đã đến lúc con suy ngẫm: “Tôi đã chán chuyện này chưa? Có phải chăng là tôi đã chán ngán trò chơi hơn kém nhân tạo, phù du và vô nghĩa này?”

15.7. Tự ti cũng là kiêu mạn

Giờ đây, một số các con có thể nhận ra là con có một ngã khác không cảm thấy tự tôn mà cảm thấy tự ti. Con yêu dấu, đây thật sự cũng là một hình thức kiêu mạn vì con vẫn gán một phán xét giá trị lên chính mình. Con nghĩ mình có thể làm gì ở đây? Con đang nghĩ là con biết rõ hơn Thượng đế là con thấp kém. Thượng đế không tạo ra con thấp kém. Con không được tạo ra như một sinh thể thấp kém, nhưng nay con nghĩ con biết mình thực sự là một sinh thể thấp kém – và đây là kiêu mạn. Con nghĩ con biết rõ hơn đấng Sáng tạo, hơn Cội nguồn của mình. Con có thể tới chỗ nhận ra là con chán ngán cảm nhận thấp kém hay cao cả hay bất cứ hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng ra.

Con có thể tới điểm viễn quan của con bỗng nhiên xoay chuyển và con thấy sâu hơn tầng vĩ mô. Con thấy là ở tầng sâu hơn của nguyên tử, của sóng năng lượng, của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì tất cả các hình ảnh này đều không thật, đều vô nghĩa. Sau đó, con tới điểm thấy không phải con tin như vậy, mà là một ngã tách biệt. Ngã tách biệt giống y như một máy điện toán: nó cũng không thật. Do đó, con có thể tới điểm nhìn nó và nói: “Ta để cho mi chết đi. Ta không muốn mi trong con người ta nữa, ta để cho mi chết đi.”

Khi ngã đó trút khỏi con thì con cảm thấy một cảm giác tự do vĩ đại. Dù con cảm thấy tự tôn hay tự ti, thì qua bao nhiều kiếp sống, cảm giác đó, ảo tưởng đó đã trở nên càng ngày càng khó duy trì. Mỗi ngày con phải nỗ lực nhiều hơn để duy trì nó. Có nghĩa là nó khiến con căng thẳng hơn. Con cần dồn vào đó nhiều năng lượng tinh thần và chú tâm hơn. Một khi con ngưng không làm việc đó nữa, thì bỗng nhiên sự chú tâm của con được giải thoát. Bỗng nhiên, con có cảm giác an bình mà con không thể có khi con ở trong vòng vận hành của tự tôn-tự ti.

Đó là Minh triết Bình đẳng mà thày cống hiến các con. Con quả thực có thể thiền quán chung quanh chủ đề Minh triết Bình đẳng. Con có thể thực tập những bước mà thày đã vạch ra, hay con cũng có thể thực tập một bài hình dung. Con hình dung trái đất với tất cả các ngọn núi cao, tất cả các thành thị tráng lệ. Sau đó, con thấy, nếu con có thể khiến thời gian trôi nhanh hơn, tất cả các ngọn núi bị bào mòn, tất cả các thành thị bị đổ nát, tất cả mọi thứ đều trở thành cát bụi, gạch vụn, nguyên tử, sóng năng lượng. Rốt cuộc chỉ còn sự bình đẳng hoàn toàn của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Các thày có nói là Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được nâng lên và có được tự nhận biết, nhưng đó là Ánh sáng Mẫu-Vật chứ không phải những cấu trúc được xây dựng từ Ánh sáng Mẫu-Vật trên một hành tinh như trái đất. Chúng sẽ không bao giờ đạt được tính chất thường hằng. Do đó, khi Ánh sáng Mẫu-Vật có tự nhận biết, thì nó sẽ trút bỏ các hình tướng đó. Chúng sẽ dần dần sụp đổ và không còn gì nữa cả cho tới khi chỉ còn ánh sáng thuần khiết tồn tại.

Con có thể hình dung và thiền quán trên chủ đề này, và thực tập này sẽ giúp con thoát khỏi vòng vận hành không những của lòng tự tôn-tự ti mà ngay cả tất cả các hậu duệ của tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng nâng cái này lên và so sánh cái này với cái kia. Tới đây thì thày cảm ơn các con đã chú tâm nghe bài này và đón nhận món quà của thày.

17 | Phân biện cho con biết khi nào là đủ

Chân sư Thăng thiên Amitabha qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amitabha (A Di Đà). Thày là thuốc giải của chất độc được gọi là thèm muốn, tham lam và khát ái. Lẽ tất nhiên, những cảm xúc này là biểu tượng của một hiện tượng phức tạp. Tham lam là gì? Khái ái là gì? Đa số coi khát ái là khát ái vật lý, là những ham muốn của cơ thể vật lý, và coi tham lam là sự ham muốn tiền tài, nhưng thực ra chúng hơn thế rất nhiều. Đó thực sự là cảm giác con không bao giờ thấy đủ với một thứ nào đó, và điều này phần nào là một sự nghịch lý. 

17.1. Chất độc trở thành cỗ máy chạy

Nếu con xem lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền, thì các thày có nói là những sinh thể tự nhận biết được đấng Sáng tạo ban cho quyền tự quyết. Họ có quyền sáng tạo và có bất cứ trải nghiệm nào mà họ mong muốn, và có thể tiếp tục có những trải nghiệm đó khi họ còn mong muốn và cho tới khi họ chán ngán. Vậy tại sao ta lại nói việc con muốn càng ngày càng nhiều một thứ gì đó là một chất độc tâm linh? Có phải chăng ham muốn có càng ngày càng nhiều tiền là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Có phải chăng thèm khát tình dục, thức ăn hay bất cứ khoái lạc xác thân vật lý nào khác là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Con chỉ cần tận hưởng những thứ đó, có tối đa những gì con muốn để mau chóng tới điểm chán ngán chúng.

Có một số trường phái triết học Đông phương chủ trương có hai con đường dẫn tới giác ngộ. Một là con đường hiền giả trong đó con buông bỏ lạc thú thế gian, và con đường kia là tận hưởng các lạc thú đó cho tới khi con chán ngán. Tất cả các quan điểm này đều là quan tâm chính đáng. Tuy nhiên, chức năng của một chất độc (và đây là lý do vì sao các thày gọi chúng là chất độc) là nó giam con vào cạm bẫy. Nó giăng bẫy để con rơi vào vòng lẩn quẩn, vào cỗ máy chạy không ngừng nghỉ khiến con chạy lòng vòng, có thể con chạy càng ngày càng nhanh nhưng không thực sự đi đến đâu. Sự thực là, nếu con lấy một người đang tận hưởng các lạc thú của xác thân vật lý, thì nếu y không bị ảnh hưởng bởi chất độc tham lam và khát ái thì y quả thật có thể tới điểm chán ngán các lạc thú đó trong vòng vài kiếp sống và sau đó buông bỏ chúng.

Điểm chính là với dòng thời gian, chất độc đã được tạo ra trên trái đất bởi sa nhân. Khi con người đem chất độc đó vào người mình, thì họ không thể nào thấy đủ. Họ không thể có cảm giác thỏa thuê vì chất độc tham lam và thèm muốn ngăn chặn cảm giác thỏa thuê, cảm giác thấy đủ.

Lẽ tất nhiên, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về các ngã mà con đã tạo ra. Con tạo ra một ngã cảm thấy thiếu khả năng khi sống trên trái đất. Một avatar thường tạo ra một ngã như vậy khi bị chấn thương nhập đời. Con cảm thấy có cái gì thiếu thốn, có cái gì trống vắng, có cái gì thiếu hụt trong con người mình. Ngã đó chủ yếu được lập trình để khỏa lấp lỗ hổng đó và nó tạo ra các ngã khác nói: “Nếu bạn có đủ tiền thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ tình dục thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ trọng vọng thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn hoàn thành đủ công việc thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi đủ số người khác thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi điều kiện này hay điều kiện nọ trên trái đất thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.”

Trong trường hợp một avatar thì câu chuyện trải bày như sau: con tới trái đất để đem lại một thay đổi tích cực. Con kinh qua một chấn thương. Nó khiến con cảm thấy có lỗ hổng, trống vắng. Con tạo ra các ngã phóng chiếu tới con là nếu con có đủ điều kiện này hay điều kiện nọ, thì con sẽ cảm thấy đầy đủ.

Lẽ tất nhiên, cảm giác này dính liền với động lượng tập thể mà sa nhân bắt đầu tạo ra ở bầu cõi thứ tư khi họ bắt đầu sa ngã, và tiếp tục được bồi đắp cho tới ngày nay. Khi con bị chất độc đó ảnh hưởng, thì con không bao giờ cảm thấy đầy đủ. À, con có thể cảm thấy phần nào đủ trong những phút giây ngắn khi con có những trải nghiệm rất cùng cực. Như một huynh đệ của thày có nói, con có trường hợp một thể tháo gia phá kỷ lục thế giới và đoạt huy chương Thế vận hội và có cảm tưởng ngây ngất trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại cảm thấy không đủ. Hoặc y cần thêm nữa hoặc y rơi vào bệnh trầm cảm lúc nào cũng theo sau trạng thái ngây ngất, vì nó là đối cực của sự ngây ngất. Cái gì bay lên cao sẽ phải rơi xuống. Đó là lý do vì sao ước muốn chính đáng có một loại trải nghiệm nào đó bị tha hóa bởi chất độc để trở thành một sự tìm cầu không bao giờ dứt càng ngày ngày càng muốn nhiều hơn mà không bao giờ thấy đủ, không bao giờ khiến con người cảm thấy mãn nguyện.

17.2. Minh triết Phân biện

Có nhiều người trên trái đất bị sa vào cạm bẫy của các ham muốn (mà các avatar thường không có) lạc thú vật lý và tận hưởng một số điều trên trái đất. Vì con là một avatar nên đây không là mối quan tâm cho con. Các người kia sẽ dần dần được kéo lên khi tâm thức tập thể được nâng lên, và một số trong các người đó sẽ có thể khắc phục các ham muốn đó và tiến lên làm chuyện khác. Khi tâm thức tập thể được nâng lên thì con người quả thực sẽ có thể hòa điệu với Minh triết Phân biện và bắt đầu tự hỏi họ có bao giờ cảm thấy đủ chăng. Con cần uống bao nhiêu ly bia? Con cần có bao nhiêu túi xách tay trong tủ, vân vân và vân vân. Con thấy chăng, sự thực là bên phương Tây là nơi đã có nền văn hóa tiêu thụ từ nhiều thập niên thì đã có người bắt đầu tự đặt những câu hỏi tương tự, và lẽ tất nhiên họ đã làm vậy từ khá lâu nay.

Điều thày muốn cống hiến con, như một avatar, là sự trợ giúp của thày để con nhận được minh triết là thuốc giải độc của thày. Đó là Minh triết Phân biệt (discriminating) hay Minh triết Phân biện (discerning). Có sự khác biệt giữa phán xét giá trị và phân biệt hay phân biện. Phân biệt được dùng với ý nghĩa cao của nó, không phải là ý thường dùng ví dụ như phân biệt đối xử với ai đó dựa trên chủng tộc. Đó là lý do vì sao thày chọn dùng từ phân biện, Minh triết Phân biện.

Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể bắt đầu tự hỏi mình những câu hỏi đó. Con có thể bắt đầu nhận diện là con có, thí dụ, trong con người mình ước muốn thấy một thay đổi nào đó trên trái đất. Con mong muốn thấy con người thức tỉnh và không chìm đắm trong một sinh hoạt khiến họ đau khổ. Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể nhớ lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền về quyền tự quyết, và tự hỏi xem có hợp lý chăng là con có ước muốn đem lại một thay đổi, hay thấy có sự thay đổi, khi sự thay đổi này tùy thuộc các chọn lựa của người khác.

Con có thể dùng giáo lý để hòa điệu và trải nghiệm thực tại là con không thể, trong cương vị một avatar, cho phép mình có một ngã phóng chiếu tới con là tâm thái của mình, sự an bình nội tâm của mình, tùy thuộc vào chọn lựa của người khác. Con có thể tới điểm thấy là con có một ngã đang phóng chiếu tới con là con phải giúp đem lại một sự đổi thay nào đó và con không thể cảm thấy đầy đủ khi con người vẫn còn bị đau khổ, thí dụ như bị một căn bệnh hay bị thảm tử vì chiến tranh. Điều này có nghĩa chính yếu là trong cả hai trường hợp, con không thể cảm thấy đầy đủ cho tới hết kiếp sống này. Nạn chiến tranh hay tảy trừ được một căn bệnh có thể sẽ không xảy ra khi con hết kiếp sống này, tùy theo số tuổi của con bây giờ.

Như vậy có nghĩa là cho đến hết kiếp sống này, con phải sống với lỗ hổng đó. Con có thể tới điểm nhận ra là con không muốn như vậy. Lúc đó, một lần nữa con có thể dùng giáo lý để nhận ra là một ngã tách biệt đã cho con cảm giác là nhu cầu đó phải được hoàn thành. Con có thể nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

Con cũng có thể dùng Minh triết Phân biện để hòa điệu, thiền quán về minh triết đó. Con có thể hình dung nó như một lưỡi dao rất mỏng, rất sắc, làm bằng một chất liệu rất cứng. Hoặc con hình dung nó như một tia laser có thể chọc thủng sự dày đặc của tâm thức nhị nguyên, và qua đó phân biện cái thật và cái không thật, cho phép con thấy đâu là một ước muốn bất khả thi, một ước muốn không thể hoàn thành.

17.3. Xem xét động cơ nguyên thủy của con

Sau đó, con có thể xem xét động cơ nguyên thủy đã thúc đẩy con tới đây, và một lần nữa, thấy là con có một ước muốn không thể hoàn thành trước khi con tới đây. Con chỉ có thể hoàn thành ước muốn đó bằng cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác và điều này vừa trái luật vừa không phải là điều con muốn làm. Nếu con thực sự trụ trong Minh triết Phân biện thì con sẽ thấy là con thực sự không có một ước muốn cao khi con muốn thay đổi chọn lựa của người khác. Đó là một ước muốn trái luật, bất khả thi, không thể hoàn thành, dựa trên một trạng thái tâm thức thấp hơn trạng thái tâm thức mà con có ngày hôm nay.

Lúc đó, con có thể bắt đầu tách những ngã đó ra, tách mình ra khỏi các ngã đó, nhận diện chúng và thấy chúng như chúng là. Thường có thể có nhiều hơn một ngã. Có thể con cần vật lộn một chút với chúng, vì một lần nữa, vấn đề là: con tới đây với thiện ý. Con bị một cú sốc và bắt đầu nghi ngờ ý định của mình, nghi ngờ viễn quan nguyên thủy của mình. Con có thể cần làm việc để tới điểm có thể thấy và nhìn nhận đó là một viễn quan thấp. Viễn quan đó dựa trên một ảo tưởng và do đó con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ cái ngã muốn biện hộ cho lý do vì sao con tới đây, muốn biện minh, giải thích, chứng thực là chuyện con làm không có gì sai trái.

Quả thực là chuyện con làm không có gì sai trái, nhưng nó dựa trên trạng thái tâm thức mà con có lúc đó, và đó không phải là trạng thái tâm thức cao nhất. Đó không phải là trạng thái tâm thức mà con có khi con thăng thiên. Bởi vì con đã trải qua một thời gian dài trên trái đất, con nay có tiềm năng vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và qua đó vươn lên tầng tâm thức nơi con có thể thăng thiên.

Con quả thực không có thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên nhưng con có thể thăng thiên từ địa cầu. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là chuyện con xuống địa cầu là điều chính đáng. Đó là một điều chính đáng trong tiến trình tăng trưởng dài hạn của con. Con chỉ cần nhận ra là lý do mà lúc đó con nghĩ đã khiến con xuống địa cầu không chính đáng, không tối hậu. Minh triết Phân biện có thể giúp con cắt đứt những bợn nhơ trong tâm mình, trong đó cũng có một ngã cảm thấy không bao giờ chán việc tạo thay đổi trên trái đất – cho tới khi tất cả mọi người được giải thoát, và điều đó tất nhiên là một công trình rất dài hạn.

Bằng cách sử dụng Minh triết Phân biện, bằng cách đọc câu chú của thày, hòa điệu với Sinh thể của thày, con có thể giải thoát mình khỏi các động lượng mà nhiều người trong các con đã mang theo mình từ hai triệu năm. Con có thể khắc phục các động lượng đó, mau chóng tiến bộ và đạt được cảm giác an bình hơn mà tất cả các thày mong con đạt được. Con yêu dấu, đây là món quà mà thày tặng con.

19 | Khắc phục ghen tị bằng thành tựu tất cả

Chân sư Thăng thiên Amogasiddhi qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amogasiddhi. Thày là thuốc giải của chất độc ghen tị. Ghen tị là gì? Nó từ đâu tới? Nó phát xuất, như các chất độc khác, từ sa nhân vì sau khi họ sa ngã họ trải nghiệm một điều mà họ không trải nghiệm trước đó. Trước khi họ sa ngã, trong nhiều trường hợp họ đã đạt được thành đạt cao trong việc đồng-sáng tạo, hay ít nhất là trong việc làm chủ cõi vật chất trong các bầu cõi khi họ sa ngã, tức là các bầu cõi thứ tư, thứ năm hay thứ sáu. Một số các sa nhân đó đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ để kiểm soát, tìm cách duy trì một cái gì hay một trạng thái nào, thay vì chịu buông bỏ một trạng thái giới hạn để đồng-sáng tạo một cái gì cao hơn.

19.1. Ghen tị phát khởi như thế nào

Đó là, như các thày đã giảng, nguyên lý căn bản của tiến trình đồng-sáng tạo. Con sáng tạo xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con. Con trải nghiệm sự trải bày vật lý của sự sáng tạo đó. Sau đó, con cải thiện ý niệm bản ngã của mình, nâng nó lên cao hơn, và đồng-sáng tạo một cái gì hơn trước dựa trên ngã mới đó. Tiến trình này đòi hỏi con để cho ngã trước chết đi. Nếu con không chịu làm điều này thì con rơi vào tâm thái tìm cách duy trì hoặc ngã cũ hoặc trạng thái mà con đã đạt được trong cõi vật lý. Khi con chưa sa ngã thì con vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và con quả thực có thể dùng ánh sáng đó để sáng tạo tình trạng kiểm soát đó.

Một số các sa nhân nguyên thủy đã xây dựng ý niệm họ là những sinh thể cao nhất, tinh tiến nhất, thiện xảo nhất, uy dũng nhất trong ốc đảo nhỏ bé mà họ đã tự tạo cho họ. Họ thường có nhiều môn đồ khẳng định và công nhận họ cao cả, họ là người lãnh đạo, họ có uy quyền nhất. Họ có ý niệm bản sắc là sinh thể cao cả, và do đó họ không có nhu cầu ghen tị vì họ nghĩ họ ở địa vị cao nhất. Điều này tất nhiên chỉ xảy ra trên những thế giới mà các con gọi là hành tinh trong bầu cõi này. Lúc đó chỉ có một số nhỏ hành tinh nơi sa nhân được phép xây dựng các nền văn minh “tinh xảo” của họ.

Chỉ khi bầu cõi sẵn sàng thăng thiên thì sa nhân mới phải đối mặt với các chân sư thăng thiên. Chỉ lúc đó họ mới nhận ra là các tạo vật của họ, những gì họ đồng-sáng tạo, không cao cả như họ nghĩ. Sau đó, sa nhân sa xuống bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Lúc đó, họ dần dần nhận ra, khi họ liên hệ với những sinh thể mới được tạo ra trong bầu cõi đó và một số sinh thể khác mà họ gặp (tương đương với các sinh thể mà ta gọi là avatar trong bầu cõi này) là họ bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của họ. Thực ra thì sa nhân không nhận ra điều này nhưng họ trải nghiệm có một số sinh thể khác có nhiều ánh sáng tâm linh hơn họ, nhiều năng lượng sáng tạo hơn họ.

Ta có thể nói là sa nhân không còn là người đồng-sáng tạo nữa vì họ không thể đồng-sáng tạo với Hiện diện TA LÀ, vì họ không còn nhận năng lượng sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ chỉ có thể phản-sáng tạo bằng cách lấy ánh sáng đã được mang vào thế giới, bầu cõi, nơi họ sinh sống. Họ không thể tạo tác cái mới, do đó họ tìm cách, một lần nữa, tạo ra đế quốc nơi họ có thể tôn mình lên địa vị lãnh đạo.

Những môn đồ đã sa ngã theo họ lại tôn vinh họ như lãnh đạo nên họ đã có thể xây dựng những đế quốc như vậy. Thỉnh thoảng một số sinh thể có ánh sáng tâm linh được gửi xuống các hành tinh, các đế quốc đó, để chứng minh cho sa nhân thấy là họ có cái gì mà những sa nhân, thoạt trông rất uy dũng, thiện xảo, không có. Đó là nguồn gốc của ghen tị. Sa nhân thấy ánh sáng nơi người khác, những người vẫn còn là người đồng-sáng tạo, và họ thèm muốn ánh sáng đó. Họ nhận ra ở tầng nào đó trong tâm họ, là họ không thể có ánh sáng đó khi họ còn trong tâm thức sa ngã. Họ không chịu buông bỏ tâm thức sa ngã nên họ không thể có ánh sáng đó.

19.2. Thù hận ánh sáng

Điều này dẫn họ tới điểm thù hận ánh sáng, thù hận các avatar, thù hận những người có khả năng đồng-sáng tạo. Giận dữ là một cảm xúc cùng cực, nhưng thù hận còn cùng cực hơn nữa. Giận dữ khiến con muốn trừng phạt người khác, còn thù hận khiến con muốn tiêu hủy họ. Sa nhân phát triển ý muốn tiêu hủy nhưng ý muốn này rất dính liền với lòng ghen tị vì họ nghĩ (hay con có thể nói là họ trải nghiệm) là họ không thể có điều mà các avatar và người đồng-sáng tạo có. Lẽ tất nhiên, họ có thể có ánh sáng nếu họ chịu buông bỏ ngã sa ngã và đi vào tiến trình dần dần thăng vượt các ngã, vươn lên tầng tâm thức cao hơn và như vậy nhận được lại ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Vì họ không chịu làm điều này nên họ trải nghiệm, theo tầm nhìn của họ, là họ không thể có ánh sáng.

Ngay khi sa nhân tới một hành tinh, như khi họ tới trái đất, thì họ lập tức đưa vào tâm thức nhị nguyên. Họ tạo ra phán xét giá trị giữa những người đúng, những nguời sai, những người cao cả hơn, những người thấp kém hơn, những người uy dũng nhất, thiện xảo nhất và những người không được xem là uy dũng, thiện xảo. Lúc đó, con có một lực lượng sa nhân năng động không nhất thiết muốn tiêu hủy các cư dân nguyên thủy của trái đất (vì họ thực sự muốn kiểm soát những người này) nhưng họ cũng muốn các cư dân nguyên thủy cảm thấy ghen tị sa nhân vì sa nhân có uy quyền và có phần nào khả năng điều ngự cõi vật chất.

Sa nhân tất nhiên tìm cách lấy chất độc mà họ đã mang theo họ và ta có thể nói, xuất cảng nó tới tất cả mọi người trên trái đất và đặt mọi người vào tâm thái so sánh. Lẽ tự nhiên, con chỉ có lòng ghen tị khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và có tâm phán xét giá trị khiến con so sánh mọi thứ dựa trên thang điểm có hai đối cực, trong đó một bên tốt hơn bên kia. Cốt lõi ý tưởng có một điều gì tốt hơn điều khác bắt nguồn từ tâm thức nhị nguyên và chất độc ghen tị.

19.3. Khắc phục ghen tị

Thày là thuốc giải chất độc ghen tị và thuốc này được gọi là Minh triết Thành tựu Tất cả. Lẽ tự nhiên, từ một tầm nhìn nào đó, từ một tầng tâm thức nào đó, nó sẽ như sau: “Tôi trải nghiệm là trên trái đất có những người có cái gì mà tôi không có. Tôi mong muốn có cái đó. Vậy nếu tôi có Minh triết Thành tựu Tất cả của Amogasiddhi, thì tôi phải có quyền năng có được bất cứ điều gì tôi mong muốn trên trái đất, và khi đó tôi không phải cảm thấy ghen tị bất cứ ai vì không ai có gì hơn tôi.”

Đây là cách con người đã nhiều lần suy luận từ khi giáo lý này được trao truyền, nhưng Minh triết Thành tựu Tất cả không chính xác là như vậy. Thày muốn cho các con một vài ý tưởng về đề tài này. Khi con, như một người đang đầu thai trên trái đất, cảm thấy ghen tị, thì con đang cảm thấy ghen tị hay đó là một ngã tách biệt? Dựa trên giáo lý các thày, thì lẽ tất nhiên con biết đó là một ngã tách biệt cảm thấy như vậy. Các thày đã giảng gì về các ngã tách biệt? Chúng phóng chiếu là có một vấn đề cần giải quyết. Có một điều kiện cần được hoàn thành và sau đó con sẽ có được cảm giác nào đó.

Nói cách khác, con đang cảm thấy ghen tị, nhưng nếu con có được điều con thèm muốn, thì con sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Đó là lối suy luận của các ngã đó. Các ngã đó sẽ nói: “Hãy xin thày Amogasiddhi và được Minh triết Thành tựu Tất cả để ta có được điều kiện mà ta mong muốn, lúc đó bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa khi ta, ngã tách biệt, có được điều ta mong muốn.”

Lẽ tất nhiên, Minh triết Thành tựu Tất cả cho phép con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và thấy là điều ngã đó muốn lại là một thí dụ khác của mục tiêu bất khả thi, ước muốn bất khả thi. Ngay cả khi con có được điều mà ngã phóng chiếu là con phải có, thì con vẫn không khắc phục được chất độc ghen tị vì chính chất độc là chất độc.

Niềm tin con thèm muốn điều gì và con cần phải có điều gì chỉ là một ảo tưởng mà chất độc ẩn núp đằng sau. Đây là một sự phân biệt mà ngã không thể thấy. Nó chỉ có thể như một máy điện toán, được lập trình để theo đuổi một mục tiêu. Con thèm muốn uy lực, thì ngã phóng chiếu là con cần phải có uy lực. Con sẽ không bao giờ an bình khi con chưa có uy lực đó. Con yêu dấu, chính sự ghen tị những người có uy lực là chất độc, là điều kiện. Thày muốn cho con một hình ảnh tương tự: ta hãy giả dụ hầm nhà con ngập nước nhưng con không biết là hầm đầy nước. Trong nhà con có một người duy nhất đi xuống hầm, y biết là hầm đầy nước nhưng y không muốn cho con biết điều đó. Thay vào đó, y phóng chiếu vào tâm con hay nói với con là căn nhà của con cần một mái mới và khi con có một mái mới thì con sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Chúng ta giả sử ở đây là tuy con không biết một cách ý thức là căn nhà của con đầy nước nhưng con – bỗng nhiên – cảm thấy bất an khi ở trong nhà mình. Người kia phóng chiếu là nguyên do sự bất an là vì người hàng xóm có một mái mới tuyệt đẹp. Con cần có một mái tốt hơn họ, và sau đó con sẽ cảm thấy thoải mái trở lại. Nhưng nguyên do con cảm thấy bất an là vì hầm đầy nước. Mái nhà mới của con có kiểu cách thế nào chăng nữa thì con có thể rút nước khỏi hầm chăng? Không, vì chất độc vẫn còn đó và chuyện giản dị là có một ngã đang phóng chiếu ảo tưởng là con cần có điều mà ngã thèm muốn.

Nếu con ghen tị người có địa vị hay danh dự nào đó trong xã hội, thì ngã phóng chiếu là con cần danh dự đó, và sau đó con sẽ được bình an. Không phải sự thiếu danh dự khiến con bất an, mà đó là chất độc tâm linh ghen tị khiến con cảm thấy như vậy. Đó là lý do vì sao có được danh dự không chấm dứt lòng ghen tị. Chỉ khi con vứt bỏ chất độc thì con mới chấm dứt được sự bất an.

Làm sao con loại bỏ chất độc? Lẽ tất nhiên, một phần là con tới điểm thấy nó và hiểu chất độc là gì. Con hiểu có một ngã tách biệt đang dùng chất độc để phóng chiếu là con cần làm một điều gì, sau đó con tách mình ra khỏi ngã đó và buông bỏ nó. Phần kia là con đem thuốc giải vào bản thể mình, thuốc giải này có khả năng tiêu trừ, xua đuổi, làm tan biến chất độc. Đó là lý do vì sao các thày cống hiến sự trợ giúp của các thày, của tất cả các thày, để con có thể hòa điệu với bản thể các thày, và mở tâm, mở bốn thể phàm để đón nhận một dòng thuốc giải sẽ tiêu trừ chất độc. Mọi chuyện đều xoay vần chung quanh quyền tự quyết. Đó là lý do vì sao con cần thấy một số chuyện, nhận ra một số chuyện. Các thày sẽ giúp con tới điểm đó, con có thể tới điểm đó bằng cách dùng các giáo lý mà các chân sư khác đã trao truyền về ngã gốc, ngã tách biệt, vân vân.

19.4. Lòng ghen tị sa nhân

Các thày có nói là một số avatar đã có quan hệ nào đó với một số sa nhân – hai bên đã nảy sinh sự tương kính. Các avatar ngưỡng mộ khả năng làm chủ vật chất của sa nhân. Có một một số avatar có lòng ghen tị sa nhân vì sa nhân có tài kiểm soát vật chất, không phải đồng-sáng tạo mà kiểm soát. Đó là lý do vì sao Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy là kiểm soát vật chất thực ra không phải là một thành tựu cao. Nó chắc chắn không phải là một thành đạt thành tựu tất cả, cho dù những gì sa nhân có thể làm được trên một hành tinh như trái đất trông có vẻ vĩ đại. Những gì con có thể thành tựu qua tư duy kiểm soát, tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên, có giới hạn. Tất cả những gì con sáng tạo – phản-sáng tạo  – xuyên qua tư duy sa ngã sẽ chịu định luật thứ nhì của nhiệt động học, như các thày có gọi quy luật này, hay là Thịnh nộ của Shiva, hay là lực co thắt của đấng Mẹ. Nói cách khác, nó sẽ có một đối cực. Sẽ có sự căng thẳng giữa hai đối cực, và rốt cuộc chúng sẽ tiêu hủy lẫn nhau.  

Sa nhân càng có nhiều uy quyền, thì uy quyền này sẽ tạo sự chống đối càng lớn. Do đó, rốt cuộc sẽ tới điểm các thành tựu của hai bên sẽ tiêu trừ lẫn nhau. Đây không phải là thành tựu thực sự. Thành tựu thực sự đạt được qua tiến trình đồng-sáng tạo qua đó con đồng-sáng tạo xuyên qua ngã hiện tại của con, dùng phản hồi để nới rộng ý niệm bản ngã và sau đó đồng-sáng tạo cái gì hơn nữa. Con có thể tiếp tục tiến trình này mãi mãi vì khi con đồng-sáng tạo thì con không tạo ra sự đối kháng chống lại tạo vật của con.

Minh triết Thành tựu Tất cả sẽ chỉ cho con thấy sự khác biệt giữa phản-sáng tạo và đồng-sáng tạo và qua đó giúp con thấy là, như một avatar, con có ước muốn chân thực muốn cải thiện chính mình, muốn tăng trưởng ý niệm bản ngã, muốn gia tăng các thành tựu, nhưng điều này chỉ có thể tác thành qua sự đồng-sáng tạo, chứ không phải qua sự phản-sáng tạo. Cảm giác thành tựu thật mà con có thể có là nhận ra, như Giê-su đã chứng minh, con không thể tự mình làm gì cả bằng ngã vỏ ngoài, ngã hạn hẹp mà con khoác vào khi ở trên trái đất. Chỉ khi con nối kết với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, thì con mới thật sự đồng-sáng tạo.

19.5 Ghen tị Giê-su

Một đề tài khác mà thày muốn nêu lên ở đây là có một số người đồng-sáng tạo, một số avatar, có lòng ghen tị các avatar khác. Tỷ dụ, một chuyện thông thường là các avatar có lòng ghen tị Giê-su hay đức Phật hay một số người khác được công chúng biết đến vì một lý do tích cực nào đó.

Chúng ta hãy chú tâm ở đây vào trường hợp Giê-su. Các giáo hội Thiên chúa giáo đã xây dựng một sự sùng bái Giê-su vĩ đại, và các giáo hội này đã do sa nhân dàn dựng lên để là công cụ cho họ. Ngay cả một số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, vẫn sùng bái Giê-su. Quyển sách mới xuất bản, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su, đã tìm cách phá vỡ sự sùng bái đó và cho các con thấy là Giê-su là một avatar, và các con cũng là avatar, và Giê-su có nói: “Công việc ta làm, các con cũng có thể làm.”  Các chân sư thăng thiên luôn luôn nói: “Việc một người đã làm, tất cả đều làm được.” Điều này cần được hiểu trong khung cảnh những giới hạn của thực tại thực tiễn trên một hành tinh như trái đất.

Điều thày muốn nói ở đây là dù con không biết một cách ý thức là con là một avatar, thì con có cảm giác vi tế, nội tại, trực nhận là: “Tại sao Giê-su lại được nâng lên địa vị khuôn mặt tâm linh cơ yếu của thời Song ngư?” Nhiều người trong số các con có thể cảm thấy trong mình có một ngã nói: “Tại sao là Giê-su mà không phải là tôi?” Giờ đây, con nên hiểu lý do vì sao con có thể cảm thấy như vậy là vì ở một tầng nào đó của bản thể của con (không phải ở tầng ý thức), con nhận ra mình là một avatar, Giê-su cũng là một avatar, và do đó con có tiềm năng đảm trách địa vị mà Giê-su đã đảm trách.

Con biết, ở một tầng nào đó của bản thể của con, là sa nhân đã không nói sự thực khi họ nói rằng: “Giê-su rất độc đáo và quá khác biệt nên bạn không thể nào làm được những gì Giê-su đã làm.” Con có cảm giác nội tại là Giê-su đã nói sự thật khi thày nói là con có thể làm công việc mà thày đã làm. Vì con bị chấn thương nhập đời (hay vì con đã tạo ra ngã gốc, hay vì con muốn bù đắp những mất mát mà con cảm thấy mình đã phải gánh chịu khi xuống trái đất), nên điều này đã khiến con muốn nâng mình lên, chứng minh giá trị của mình, chứng minh vì sao việc con tới trái đất là đúng. Các ý tưởng đó có thể khiến con dấy lên lòng ghen tị: “Vì sao là Giê-su, mà không phải là tôi?”

Đây là chỗ con có thể dùng Minh triết Thành tựu Tất cả để nhận ra là có một thực tại thực tiễn trên trái đất. Có trình tự các chu kỳ nối tiếp nhau. Khi mỗi chu kỳ khai mở, ít ra là khi Thời đại Song ngư khai mở, cần có một người hiện thân các khai ngộ của Thời đại Song ngư.

Chúng ta bây giờ đang bước vào Thời đại Bảo bình, được gọi là thời đại cộng đồng. Do đó, trong Thời đại Bảo bình không có nhu cầu có một người là tấm gương cao cả. Nhưng quả thực là có nhu cầu có nhiều người nêu gương thế nào là Ki-tô trong Thời đại Bảo bình. Trong thời Song ngư có nhu cầu có một người thể hiện tiềm năng là Ki-tô trong thời Song ngư, vì tình trạng của hành tinh và tâm thức tập thể lúc đó. Vì một số lý do, và các thày đã diễn bày một số các lý do đó trong quyển Các kiếp sống của tôi, Giê-su là người được lựa chọn, và đã chọn lựa nâng mình lên tới điểm có thể đảm trách địa vị đó. Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy thực tại thực tiễn đó, và nó cũng có thể giúp con nhìn xa hơn và thấy là các thành đạt của Giê-su không làm giảm đi những thành đạt của chính con. Con là một thành viên của mạn đà la các avatar đã tới hành tinh này. Dù các con có thể đã tới từ những hành tinh khác nhau nhưng các con đều thuộc mạn đà la đó. Mạn đà la đó dựa trên cái Một và điều một thành viên của mạn đà la đạt được sẽ nâng tất cả lên. Con, như một avatar, không có lý do gì để ghen tị những thành đạt của Giê-su vì con đã dự phần vào thành đạt đó – nếu con chấp nhận mình thuộc mạn đà la đó.

Do đó, cũng không có lý do gì để một người trong nhóm các con ghen tị người khác trong nhóm. Có một số người đã đến đây, trải nghiệm việc vị sứ giả này nhận bài truyền đọc, và một phần trong họ đã cảm thấy: “Tại sao là ông ta mà không phải là tôi?” Một số người đã bỏ đi vì họ không giải quyết được lòng ghen tị đó, một số đã nổi giận, một số đã tìm cách hạ bệ người sứ giả và chỉ trích ông điều này điều nọ.

Đây chắc chắn là điều đã xảy ra trong các đợt truyền giáo trước, và quả thực là trong đợt truyền giáo kế trước vị sứ giả đã phải cam chịu nhiều hơn rất nhiều. Một số người đã nghĩ họ có thể làm một sứ giả tốt hơn bà, và đã chỉ trích bà là không giỏi đủ, phạm lỗi lầm này hay lỗi lầm nọ, có biệt tật này hay biệt tật nọ, vân vân và vân vân. Một số những người đó là sa nhân không sẵn sàng cải tạo chính mình, nhưng một số đã là avatar.

Điều con cần nhận ra ở đây là con có tiềm năng thấy là lòng ghen tị đó đến từ một ngã tách biệt mà con đã tạo ra vì con cần bù đắp cảm giác mất mát khi con tới trái đất. Nếu con đối mặt ngã đó và khắc phục nó, thì con sẽ khắc phục được lòng ghen tị người sứ giả. Con có thể thấy là con thuộc mạn đà la và do đó con có một món quà độc đáo mà con có thể mang lại trong Thời đại Bảo bình. Con có thể làm điều này bằng cách cộng tác với vị sứ giả, nhưng con cũng có thể đi ra ngoài xã hội và đem lại món quà của riêng con.

19.6. Chú tâm vào món quà độc đáo của con

Khi con sử dụng Minh triết Thành tựu Tất cả thì con nhận ra là điều con thật sự tới đây để hoàn thành không phải là mục tiêu đã được quy định bởi các ngã tách biệt phát xuất từ ngã gốc. Các mục tiêu đó đều là mục tiêu giả sẽ không giúp con cảm thấy mình đã hoàn thành lý do vì sao mình tới trái đất.

Con cần làm điều mà các thày đã giảng: nhìn vào động cơ thúc đẩy mình tới đây, nhận ra nó không nhất thiết là động cơ cao nhất đã thúc đẩy con và nhận ra là, trước tiên hết, lý do thực đưa con tới trái đất là tăng triển sự tự nhận biết của mình. Đây là nguyên do cận kề hay là lý do omega. Lý do alpha là con tới trái đất để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, qua đó con có thể mang vào bát cung vật lý món quà độc đáo của con. Khi con nhận ra là sự thành tựu tất cả của con là mang lại món quà độc đáo của mình, thì con cũng nhận ra là tuyệt đối không có lý do gì để con ghen tị người khác khi người đó đang biểu lộ món quà độc đáo của họ.

Tất cả các con và mỗi người trong các con đã tới đây như một avatar đều có tiềm năng đem lại cho hành tinh này một món quà tuyệt đối độc đáo. Như các thày có nói: “Trong cái độc đáo không thể có so sánh, và khi không có so sánh thì không thể có ghen tị.” Những gì Giê-su đã làm không tốt hơn hay quan trọng hơn những gì con có thể đem tới. Những gì người sứ giả này đang làm không tốt hơn hay quan trọng hơn món quà của con. Tất cả các con – món quà của các con đều quan trọng như nhau.

Con có thể cần sử dụng Minh triết Bình đẳng để thấy là Thượng đế không phân biệt và đặt phán xét giá trị lên các người đồng-sáng tạo đang là biểu hiện của Tâm Một. Khi con thực sự áp dụng Minh triết Phân biện, con có thể thấy là một Hiện diện TA LÀ không hơn một Hiện diện TA LÀ khác. Không có phán xét giá trị nào áp dụng cho các Hiện diện TA LÀ. Mỗi Hiện diện đều độc đáo.  

Câu hỏi duy nhất – quả thật vậy – có thể đặt ra cho con là: “Cánh cửa của tôi mở đến độ nào cho Hiện điện TA LÀ của tôi?” Nếu con nhìn một người khác và có thể thấy: “Ồ, cánh cửa cho Hiện diện của người này rộng mở hơn là cánh cửa của tôi,” thì lúc đó thay vì khởi lên lòng ghen tị, con nói: “Nhưng tôi chỉ cần nhìn vào các ngã tách biệt mà tôi có đang ngăn chặn tôi là cánh cửa mở, đang đóng lại các khe mở, đang lọc lựa đi những gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi. Khi tôi loại trừ các ngã đó thì tôi đạt được thành tựu tất cả là cánh cửa hoàn toàn mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, và đây là điều cho tôi ý niệm thành đạt tối hậu trên trái đất. Tất cả những mục tiêu kém hơn do các ngã tách biệt quy định đều là mục tiêu giả và chúng sẽ không cho tôi cảm giác thành đạt tối hậu, cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác an bình tối hậu với việc mình ở trên trái đất, đã tới trái đất, đã mang lại món quà và vĩnh viễn rời bỏ trái đất khi thăng thiên.

Đó là điều thày cống hiến các con, nếu các con hòa điệu với thày xuyên qua Minh triết Thành tựu Tất cả. Con quả thực có thể thành tựu mọi điều trên trái đất, không phải tất cả những điều mà các ngã tách biệt của con mong muốn, hay người khác mong muốn, hay sa nhân đã phóng chiếu là con phải mong muốn. Nhưng là tất cả những điều mà Hiện diện TA LÀ của con mong muốn hoàn thành xuyên qua con, và con, như cái Ta Biết, mong muốn hoàn thành khi con nhận ra con là một sinh thể vô hình tướng và con không đồng hóa với các ngã tách biệt – con để chúng chết đi. Con yêu dấu, khi cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, thì nó không trở thành một người máy, một con rối bị giựt dây. Con vẫn còn những chọn lựa mà con phải lấy như cái Ta Biết: con muốn hoàn thành những gì, con muốn trải nghiệm những gì, con muốn vui hưởng những gì. Con không lấy những chọn lựa này xuyên qua sự đồng hóa với một ngã tách biệt. Con lấy chọn lựa tự do trong cương vị một sinh thể vô hình tướng về những gì con muốn trải nghiệm trong hình tướng, những gì con muốn hoàn thành trong hình tướng, những gì con muốn vui hưởng khi vẫn còn trong xác thân vật lý. Đây là những chọn lựa tự do và là những ước muốn chính đáng. Không có gì sai trái khi một cái Ta Biết có ước muốn trải nghiệm một sắc thái nào đó của đời sống trên trái đất, muốn hoàn thành cái gì đó trên trái đất, muốn vui hưởng cái gì đó khi còn hiện thân trong cõi vật lý. Đây là một chọn lựa tự do mà con lấy. Không phải là một chọn lựa mà con bị một ngã tách biệt bắt buộc phải lấy và không bao giờ đem lại cho con cảm giác thành đạt, vui sướng và an bình khi sống ở đây.

Các con yêu dấu, bài giảng này đã đem lại cho thày một cảm giác thành đạt vì thày đã được phép đem lại món quà này và các con đã sẵn lòng nhận nó. Dòng chảy hình số tám đã khép và thày tri ân con đã giúp nó có mặt.

21 | Ý chí của Hiện diện TA LÀ là ý chí của con

Chân sư Thăng thiên Vajrasattva qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

Ta chính thật là Phật Vajrasattva. Thày là thuốc giải của chất độc không-muốn và không-là. Vậy, các chất độc này là gì? Ấy, các thày đã trao truyền cho các con những giáo lý rất thâm sâu về quyền tự quyết. Thành thật mà nói, các giáo lý về quyền tự quyết này vượt quá tất cả những gì đã được trao truyền trước đây trên hành tinh này. Thày không nói như vậy để đề cao giáo lý này nhưng để giúp con nhận định là có nhiều chuyện để con suy ngẫm, vì cách duy nhất để khắc phục không-muốn và không-là là có một hiểu biết sâu sắc về luật tự quyết hơn đa số con người trên trái đất.

21.1. Quyền tự quyết vừa có giới hạn vừa tự do

Thày mong muốn cho con một cái nhìn về chủ đề này. Điều mà các thày đã giảng là đấng Sáng tạo tạo ra những sinh thể đồng-sáng tạo như các phần nối dài có tự nhận biết của chính Ngài, và Ngài cho các sinh thể này quyền tự quyết. Quyền tự quyết. Giờ đây, đa số con người trên trái đất, khi nghe khái niệm hay cụm từ “quyền tự quyết”, thì họ nghĩ là lúc nào ý chí của họ cũng có giới hạn, lúc nào các chọn lựa của mình cũng có giới hạn, những chọn lựa mà con có thể chọn. Như các thày có giảng, điều này đúng theo nghĩa khi con khởi sự như một người đồng-sáng tạo, con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua ý niệm bản ngã của con lúc đó, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày sự phóng chiếu đó.

Ý niệm bản ngã đương thời của con giới hạn quyền tự quyết của con theo nghĩa ý niệm bản ngã của con giới hạn những gì con có thể thấy, hình dung, tưởng tượng. Quyền tự quyết bị giới hạn theo nghĩa các chọn lựa mà con có thể thấy bị giới hạn bởi viễn quan, tầm nhìn của ý niệm bản ngã đương thời của con. Không có giới hạn theo nghĩa con được tự do thăm dò bất cứ gì con có thể làm như một người đồng-sáng tạo trên một hành tinh chưa thăng thiên.

Điều này có nghĩa con được tự do nâng ý niệm bản ngã của mình lên, nới rộng ý niệm bản ngã đó tới mức tối đa có thể đạt được trong một bầu cõi chưa thăng thiên, để sau đó con thăng thiên. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể tiếp tục thực thi ý chí của mình trên cõi thăng thiên. Sự thực là ý chí của con sẽ tự do hơn, tuy sự tự do này khác những gì con có thể hình dung khi vẫn còn hiện thân trong cõi vật lý.

Bằng cách dùng quyền tự quyết con cũng có chọn lựa đi ngược lại và giới hạn ý niệm bản ngã của mình, thậm chí đi vào nhị nguyên, tạo ra một ngã tách biệt và sau đó thăm dò toàn bộ những gì con có thể hình dung và làm xuyên qua ngã tách biệt đó. Giờ đây, có người sẽ nói: “Nhưng tôi không có quyền tự do hoàn toàn làm bất cứ gì tôi muốn xuyên qua ngã tách biệt vì có luật nhân quả, hay vì có những giới hạn khác, hay vì người khác, hay vì cách Ánh sáng Mẫu-Vật vận hành. Nói cách khác, những chọn lựa trước của tôi giới hạn những chọn lựa đương thời của tôi, và như vậy tôi không thực sự có quyền tự quyết.”

Ấy, như các thày có giảng trước đây, thực tại đơn giản là nếu con lấy một chọn lựa và chọn lựa này không có hậu quả, thì con đã không thực sự chọn lựa. Khi con chọn lựa phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con, thì nếu Ánh sáng Mẫu-Vật không gửi trả lại con tín hiệu nào, không trải bày những gì con phóng chiếu lên nó, thì con đã không thực sự lấy một chọn lựa. Như các thày cũng có giảng, những gì con đang trải nghiệm trong thế giới vật chất là kết quả của những gì con đã phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã của con.

Con có chọn lựa nới rộng ý niệm bản ngã đó. Không phải chỉ những điều con nhận trở lại như hoàn cảnh vật lý sẽ thay đổi (ít ra là dần dần thay đổi), mà cách con trải nghiệm những thay đổi vật lý đó sẽ thay đổi ngay tức khắc khi con thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Tuy con trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, nhưng con vẫn có quyền tự do thăng vượt hay hạn chế ý niệm bản ngã của mình, thăng vượt hay hạ xuống.

21.2. Định nghĩa của không-muốn

Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt mà thày muốn giảng cho các con. Thày sẽ bắt đầu, như một thí dụ, với trường hợp các sa nhân. Trong bầu cõi thứ tư có một số sinh thể đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ, kể cả ánh sáng mà họ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của họ, để bắt đầu tạo tác một cách kiểm soát thay vì sáng tạo. Họ đã tạo dựng cho họ một số hành tinh nơi họ đã xây dựng những nền văn minh rất tinh xảo, nhưng có nền văn hóa và môi trường rất kiểm soát. Đây là một cấu trúc rất có thứ bậc, trong đó một hay vài sa nhân có quyền lực tuyệt đối trên hàng tỷ người đầu thai trên hành tinh đó.

Chuyện xảy ra với các sinh thể đó là họ bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, vì có thể nói là dân chúng tuân theo họ và nhiều khi gánh chịu hậu quả việc làm của các lãnh tụ. Các lãnh tụ có thể ngồi trong tháp ngà, như con thấy các nhà vua hay hoàng đế thời xưa, và dân chúng làm mọi công việc và lãnh chịu mọi vấn đề. Các lãnh tụ có thể xây dựng ảo tưởng là quyền tự quyết có nghĩa là họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả.

Lúc đó, ảo tưởng này có thể khiến các sinh thể đó có tâm thái đặc biệt đặt trọng tâm vào chính họ. Tuy họ chưa là sa nhân, nhưng họ trở nên quá vị kỷ đến độ có thái độ, có niềm tin rằng: “Nếu tôi thực sự có quyền tự quyết, nếu tôi – như chỉ riêng tôi, như một sinh thể tách biệt – thực sự có quyền tự quyết, thì toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của tôi.” Ta có thể nói đây là sự trải bày tối hậu của quyền tự quyết. Đây cũng là ảo tưởng tối hậu của quyền tự quyết và quả thật đó là sự chối bỏ quyền tự quyết và do đó là định nghĩa của không-muốn.

Những sinh thể trong bầu cõi thứ tư đó có ảo tưởng, dựa trên trải nghiệm của họ trên hành tinh của họ, và vì hành tinh đó đa phần tuân theo ý chí của họ, là toàn thể vũ trụ cũng phải tuân theo như vậy. Lẽ tất nhiên, họ không nhận ra là phần còn lại của bầu cõi đang thăng thiên và đã gần tới điểm thăng thiên. Họ không nhận ra ảo tưởng của họ cho tới khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối mặt với ảo tưởng đó. Họ bỗng nhiên tỉnh ngộ và họ quyết định là nếu toàn thể vũ trụ không tuân theo ý chí của họ như một cá nhân, thì họ không thực sự có quyền tự quyết. Do đó, đấng Sáng tạo đã lừa họ, đây là một sự gian dối, họ đã không thực sự nhận được quyền tự quyết.

21.3. Ảo tưởng không-muốn

Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể thấy là ảo tưởng này chỉ có thể khởi lên nơi một sinh thể hoàn toàn coi mình là trọng tâm của vũ trụ, không tôn trọng, không có tình anh em, không có sự hợp nhất, không có lòng từ bi đối với tất cả các sinh thể khác. Họ cư xử như thể đây là một hành tinh với hàng tỷ người sống trên đó và tất cả những người đó phải tuân phục ý chí của một cá nhân.

Xa hơn nữa, họ cũng nói là tất cả các tỷ hành tinh khác trong bầu cõi, với không kể siết tỷ tỷ sinh thể, cũng đều phải tuân theo ý chí của họ. Hơn thế nữa, cõi thăng thiên đã thăng thiên và trở nên thường hằng cũng phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Đấng Sáng tạo phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Lẽ tất nhiên, ta có thể nói đây là sự trải bày cùng cực của quyền tự quyết. Con có thể đặt mình vào trạng thái tách biệt, trạng thái coi mình là trọng tâm cùng cực đến độ con tin rằng toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi tâm linh, và đấng Sáng tạo đều phải tuân phục ý chí của con.

Lẽ tất nhiên, điều này có nghĩa là con tin rằng tất cả những sinh thể khác, kể cả các chân sư thăng thiên và đấng Sáng tạo, phải đình chỉ quyền tự quyết của họ để cho con ảo tưởng là ý chí của con hoàn toàn tự do. Lẽ tất nhiên, đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn chỉ có thể có khi con ở trong trạng thái tách biệt dựa trên nhị nguyên.

Khi các sinh thể này phải chạm trán các chân sư thăng thiên, thì một số thực sự nhận ra ảo tưởng của họ. Một số nhận ra điều này và do đó họ được trợ giúp và được thăng thiên cùng với phần còn lại của bầu cõi. Những sinh thể không chịu thấy ảo tưởng, mà chối bỏ đây là ảo tưởng, thì sa ngã và lúc đó họ rơi vào một tình trạng hoàn toàn khác.

Trước đó, họ vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tha hóa ánh sáng đó với tâm thức nhị nguyên và họ dùng ánh sáng để không những xây dựng ý niệm họ là sinh thể tách biệt quan trọng hơn tất cả các sinh thể khác, mà còn dùng hết khả năng để kiểm soát người khác và thậm chí kiểm soát cả vật chất. Giờ đây thì họ đầu thai vào bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Bầu cõi này dày đặc hơn bầu cõi trước. Bỗng nhiên, khả năng kiểm soát vật chất mà họ có trước đó không còn mạnh mẽ như trước.

Cùng lúc họ không nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ, do đó họ không thể vượt qua sự dày đặc của vật chất như họ đã làm được trong bầu cõi đầu của họ. Lúc đó, họ trải nghiệm là họ không thể duy trì ý niệm: “Tôi là người duy nhất có tầm quan trọng và toàn thể vũ trụ phải tuân phục những chọn lựa của tôi.” Lý do họ không thể duy trì ý niệm này là vì, trong bầu cõi mà họ sa vào, họ không có nhiều uy lực bằng khi họ sống trong bầu cõi đầu của họ.

21.4. Nguồn gốc của không-là

Điều này khiến một số sa nhân đã rất tức giận và họ đi vào tâm thái quyết định là họ sẽ làm hết sức mình để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai, chứng tỏ là đấng Sáng tạo đã sai lầm khi ban cho con người quyền tự quyết, và dùng mọi cách để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai. Điều này tất nhiên đặt họ vào một cuộc tranh chấp kịch liệt đã khiến cuộc sống của họ càng thêm khó khăn, khiến tâm thái họ càng thêm căng thẳng. Điều này có nghĩa, như các thày có giảng về định luật, là họ càng ngày càng tạo thêm nhiều chống đối. Điều này được trải bày trên một số hành tinh nơi sa nhân tụ tập trong bầu cõi mà sa nhân rơi vào. Trong bầu cõi trước, hoặc có một sinh thể hay có một số nhỏ nắm quyền kiểm soát một hành tinh và họ đã có thể đồng ý phân chia quyền lực.

Điều này không còn xảy ra trong bầu cõi nơi họ sa vào. Lúc nào cũng có ít nhất hai sa nhân trên một hành tinh và họ không thể đồng ý với nhau. Điều này có nghĩa là nay các sa nhân chống đối lẫn nhau và họ tranh chấp quyền lực với nhau khiến cuộc sống của họ càng căng thẳng hơn, càng nặng nề hơn. Họ càng ngày càng cần gắng sức hơn để xây dựng cảm giác là họ làm chủ tình hình.

Lúc đó có một số sa nhân đã dấn thân vào cuộc tranh chấp quyền lực đó, dùng tất cả năng lượng và chú tâm của họ để đánh bại đối thủ hay chứng minh Thượng đế sai hay bất cứ chuyện gì khác. Có một số khác, ít ra là tạm thời, đã chán ngán cuộc tranh chấp quyền lực. Vì họ không chịu từ bỏ ảo tưởng là vũ trụ phải tuân phục ý chí của họ, và vì vũ trụ hiển nhiên không tuân phục ý chí của họ, nên họ quyết định là họ không muốn sống ở đây. Họ không muốn tham gia vào cuộc sống trong vũ trụ này.

Đây là lúc họ tạo ra và đi vào tâm thái không-là. Họ không muốn hiện hữu, họ không muốn có ý thức, họ không muốn có nhận biết. Ta có thể nói chất độc này có hai mặt hay ta cũng có thể nói là có hai chất độc. Con có hiện tượng này trong tất cả các bầu cõi nơi sa nhân đã sa vào, họ đã tạo ra động lượng rất mạnh mẽ của không-muốn và không-là.

21.5. Sự bí ẩn của không-muốn

Động lượng không-muốn không nhất thiết có nghĩa là con không có ý chí. Có một số người trên trái đất, thường không phải là sa nhân, bị ảnh hưởng bởi chất độc không-muốn đến độ họ không còn ý chí. Con có thể nói đây là trường hợp của những người đã thần phục sa nhân. Họ đi vào trạng thái không-muốn, từ bỏ ý chí của họ để tuân theo ý chí của sa nhân.

Sa nhân không đi vào tâm thái không có ý chí. Họ có ý chí lầm lạc khi họ tìm cách ép buộc vũ trụ phải tuân theo ý chí của họ. Đây là không-muốn theo nghĩa nó đi ngược lại toàn bộ mục đích của luật tự quyết là khi con phóng chiếu điều gì lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày những gì con phóng chiếu. Điều này cho con tiềm năng nới rộng ý niệm bản ngã của mình và do đó nâng cách con thực thi quyền tự quyết.

Trên căn bản, con khiến ý chí của con được tự do hơn khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình. Khi con thu hẹp ý niệm bản ngã thì con khiến ý chí của mình kém tự do tuy rằng con có thể tưởng lầm là mình có thêm quyền lực vì người khác quy phục ý chí của họ dưới ý chí của con – nhưng đây chỉ là một ảo tưởng. Ý chí của con trở nên ngày càng hạn hẹp hơn khi con giới hạn ý niệm bản ngã của mình, con giới hạn những gì con có thể thấy.

Giờ đây con có thể nói đây là một sự nghịch lý vì một số sa nhân thực sự có nhiều hiểu biết về cách vũ trụ vận hành hơn nhiều người trên trái đất. Đúng vậy, vì họ đã thu nhập được hiểu biết này qua nhiều kiếp sống trong nhiều bầu cõi. Điều con cần nhận ra là đây không phải là hiểu biết cao nhất về vũ trụ. Đó là một hiểu biết được thu nhập qua một kinh nghiệm rất dài dùng ngã tách biệt.

Họ không thực sự hiểu cách vũ trụ vận hành, nhưng họ hiểu cách vật chất vận hành. Do đó, họ học được qua kinh nghiệm họ vận dụng vật chất với tâm thức sa ngã và cách đánh cắp ánh sáng từ các sinh thể khác thay vì nhận ánh sáng từ cõi tâm linh. Theo nghĩa đó, họ có đôi chút hiểu biết, họ có đôi chút thiện xảo. Họ có thể có nhiều hiểu biết trên mặt trí thức nhưng đây không phải là hiểu biết thực sự. Đây không phải là hiểu biết phát xuất từ một ý niệm bản ngã nới rộng. Ta có thể nói là có hiểu biết, có minh triết, có hiểu biết trí năng và có trải nghiệm trực tiếp, trải nghiệm trực giác, trải nghiệm thần bí về một trạng thái tâm thức cao hơn.

21.6. Avatar và không-muốn

Sau đó trên trái đất ta có hoàn cảnh các avatar xuống đây và gặp gỡ sa nhân. Lúc đó, tình trạng của một avatar đã tiến hóa trên hành tinh tự nhiên là gì? À, như một avatar, con không có ý niệm mình là một sinh thể tách biệt. Con có ý niệm mình là một sinh thể cá biệt và một số avatar đã trải nghiệm là họ đã tự nâng họ lên trên mức trung bình trong môi trường sống của họ, và họ đã có được khả năng cao hơn những sinh thể khác trên hành tinh tự nhiên của họ.

Họ đã có đôi chút khả năng điều ngự, có cảm giác là họ có thể khiến vật chất tuân phục ý chí của họ. Điều này không có nghĩa là người avatar đã phát triển ý tưởng là toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của mình, vì người đó biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn. Trên một hành tinh tự nhiên con không thấy sự mâu thuẫn giữa việc con thực thi ý chí của mình và những sinh thể chung quanh mình thực thi ý chí của họ. Trên một hành tinh tự nhiên sự mâu thuẫn đó không có. Sau đó, chuyện xảy ra là người avatar, vì một số lý do (không phải với tâm thức sáng ngộ), đã quyết định đi xuống trái đất.

Con xuống đây như một avatar và trước khi con xuống đây, con có ý muốn tạo một thay đổi tích cực trên trái đất. Con rất tự tin là con có thể thực hiện điều này vì con đã quen, khi ở trên một hành tinh tự nhiên, là khi con chuyên cần thì con có thể thể hiện bất cứ gì mình hình dung. Lúc đó, con không nhất thiết hình dung là con muốn xuống đây và trừ khử mọi xấu ác trên trái đất, nhưng đa số các avatar chú tâm vào một vấn đề đặc trưng. Họ quyết định xuống đây để trừ khử một hình thức khổ đau cá biệt, và họ có nhiều tự tin là họ sẽ thực hiện được điều đó. Không nhất thiết là bằng cách làm việc đơn độc vì đôi khi các avatar quyết định xuống đây như một nhóm.

Con tới đây với lòng tự tin là con có thể thực hiện mục tiêu. Sau đó, con tới đây và con trải nghiệm, thứ nhất: sa nhân và cách họ tấn công con, tìm cách hủy tiêu diệt con, và thứ hai: nhân loại nói chung và các cư dân nguyên thủy của trái đất không sẵn sàng chấp nhận những gì con đem lại như con nghĩ. Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong cuộc đời một avatar, con bắt đầu hoài nghi có thể thực hiện mục tiêu của mình, có thể thực sự thể hiện ý chí của mình.

Đây cũng là một cú sốc và một phần của chấn thương nhập đời, khi con không thể hiểu vì sao bỗng nhiên vật chất không tuân phục ý chí của con. Con đã không nhận ra độ dày đặc của trái đất, so sánh với những gì con biết trên hành tinh tự nhiên. Con cũng không hiểu tại sao con người không đáp ứng lại ý chí của con và những cố gắng trợ giúp của con, tuy con đang chỉ cho họ thấy một cách rõ ràng để thoát khổ đau.

Bỗng nhiên, con bắt đầu hoài nghi: “Tôi có thể thực sự thực hiện mục tiêu đã khiến tôi đến đây chăng, và nếu tôi không thể, thì tôi chắc hẳn đã sai lầm khi tới đây. Tôi chắc hẳn đã sai lầm khi quyết định tới đây.” Một avatar khó đối phó với tình trạng này vì trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ nghi ngờ khả năng thực hiện những gì con hình dung và con không bao giờ cảm thấy mình đã lấy một quyết định sai. Con không bao giờ cảm thấy mình đáng lý không nên lấy quyết định đó.

Lúc đó, con bắt đầu nghi ngờ quyết định tới trái đất. Con cảm thấy đây là một quyết định sai, và cảm giác này có phần do con ở trên một hành tinh dày đặc nơi nhị nguyên thịnh hành. Do đó, con bắt đầu tự hỏi: “Vì ý chí con người trên trái đất quá thiếu tự do, vậy thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì?” Khi con gặp sự chống đối của sa nhân và thấy là họ muốn tiêu diệt con, thấy họ nói với con là con không có quyền ở đây, con không có quyền thách thức họ. Khi con gặp sự thờ ơ của các cư dân trên trái đất, thì con có thể (không phải tất cả, nhưng có nhiều, các avatar đã làm như vậy) tạo khe hở trong tâm mình để chất độc không-muốn xâm nhập, chất độc này do sa nhân tạo ra và mang vào hành tinh này.

Bỗng nhiên con bắt đầu cảm thấy: “Bày tỏ ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì chăng? Có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân. Để sống còn, có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân, để tránh bị họ giết và tra tấn trong mọi kiếp sống. Có lẽ tôi không có quyền tìm cách giúp các cư dân trên trái đất thoát khổ nếu họ không muốn thoát khổ.” Lúc đó, thay vì làm chuyện mà các thày khuyến khích các con làm, là duyệt xét lại động cơ khiến con tới đây và nhận ra nó dựa trên một ảo tưởng, thì con quyết định: “Tôi không muốn làm gì cả trên hành tinh này. Tôi không muốn thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này.”

Cũng có một số avatar, như được mô tả trong quyển sách Các kiếp sống của tôi, đã đi vào cực đoan ngược lại, và bày tỏ ý chí của mình một cách rất rất mạnh mẽ và rất rất quyết liệt. Họ muốn chứng tỏ là sa nhân sai hay họ chiến đấu chống lại sa nhân, họ chống trả sa nhân hay họ hành động để con người trên trái đất thực sự thấy là có lối thoát khỏi khổ đau.

Có hai đối cực. Một số từ bỏ ý chí của mình, trong khi một số khác quả thực đã làm theo lối không-muốn tích cực của sa nhân. Một số khác lấy thái độ không-muốn tiêu cực. Kết quả là gì?

21.7. Avatar và không-là

À, kết quả là một giai đoạn rất hỗn loạn, cũng được mô tả trong quyển sách qua việc nhân vật chính đánh nhau với sa nhân trong khoảng một triệu năm. Giai đoạn này dài bao nhiêu tùy mỗi avatar, nhưng đánh nhau quá lâu thì sẽ có một điểm con giản dị bị kiệt sức. Con quá mệt mỏi, con chán ngán đánh nhau. Hoặc con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực quá lâu nên bắt đầu cảm thấy là đời sống trên trái đất càng ngày càng vô nghĩa. Nếu con đang đánh nhau, thì con cảm thấy đánh nhau càng ngày càng vô nghĩa, nhưng điều này cũng nhanh chóng đưa con tới chỗ cảm thấy cuộc sống trên trái đất vô nghĩa.

Đó là lúc con mở cửa trong tâm để chất độc không-là xâm nhập, lúc đó con cũng có thể có khuynh hướng tạo một ngã cảm thấy cuộc đời không đáng sống. Có thể là con cảm thấy cuộc đời trên trái đất không đáng sống nhưng con không thấy lối thoát. Hoặc con cảm thấy là cuộc đời nói chung không đáng sống, không đáng để có ý thức, để có tự nhận biết. Sau đó, con bắt đầu phủ nhận sự tự nhận biết và cảm thấy Thượng đế đáng lẽ không nên cho con tự nhận biết vì nó chỉ tạo khổ đau. Cảm tưởng này dẫn đến đủ loại hình thức chê trách Thượng đế, hay chất vấn tại sao Thượng đế không đổi ý về quyền tự quyết, hay những câu hỏi tương tự. Điều cốt yếu ở đây là, tương tự như mọi chuyện khác mà các thày đã giảng, không phải con cảm thấy như vậy, mà là một ngã tách biệt.

Một khi ngã tách biệt được tạo ra thì nó liên tục phóng chiếu tới con là cuộc đời không đáng sống hay không đáng bỏ sức đấu tranh. Nhiều avatar đã làm gì? À, một số trải qua một giai đoạn tìm cách khiến tâm thức bị tê dại. Họ theo đuổi đủ loại ghiền nghiện khiến họ càng ngày càng bớt ý thức. Một số khác tìm cách rút lui khỏi thế gian, tỷ dụ như làm tu sĩ trong nhiều truyền thống tôn giáo. Hoặc giống như nhiều người tâm linh thời nay, khi họ rút lui khỏi đời sống năng động, không muốn tham gia vào cuộc sống năng động, hoặc sống một cuộc sống tương đối năng động nhưng không thực sự bỏ tâm trí vào, lúc nào cũng ngồi giữa hai ghế, tìm cách làm tối thiểu để đủ sống nhưng không thực sự tham gia vào bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống.

21.8. Lối thóat qua ý chí kim cương

Lẽ tất nhiên, lối thoát là dùng các giáo lý mà các thày đã trao truyền về lý do tại sao con xuống trái đất như một avatar, nhận ra là động cơ đưa con tới đây dựa trên một ảo tưởng, đối phó với ngã gốc để giải thoát mình khỏi ngã gốc. Lúc đó, con bắt đầu thấy là lý do duy nhất khiến con cảm thấy đời không đáng sống, không đáng bỏ sức tranh đấu hoặc con không thể tỏ bày ý chí của mình trên hành tinh này, là vì con chưa hiểu một số chuyện.

Giờ đây thì con bắt đầu hiểu những chuyện đó. Con có thể bắt đầu xem xét những lý do khiến con tới đây. Do đó, con cũng thấy là tâm thức đó, chất độc không-muốn và không-là đó, không có giá trị gì cả. Như mọi chất độc, nó dựa trên một ảo tưởng. Sau đó, nếu con chịu làm theo lời thày hướng dẫn, thì con có thể hấp thu thuốc giải cho độc tố không-muốn, được gọi là Ý chí Kim cương.

Tên gọi này tất nhiên có nghĩa là ý chí đó không thể bị bất cứ điều gì trên trái đất lay chuyển. Con cũng biết là kim cương là chất cứng nhất mà con người hiện nay biết đến và do đó không có gì có thể khiến nó bị suy suyển. Ý chí Kim cương không thể bị ảnh hưởng bởi không-muốn, không-là hay ngay cả phản-ý chí, là ý chí rất hung hãn của sa nhân.

Khi con hòa điệu với thuốc giải đó và cho phép nó thấm vào bản thể của mình, thì nó sẽ tiêu trừ mọi tàn dư của không-muốn và không-là trong con. Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu đạt được một cảm giác an bình cao hơn rất nhiều. Các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ tâm linh thực sự giúp con tới điểm con làm hòa với cách trái đất hiện đang vận hành. Con có thể nhận ra mục đích của nó, sự trải bày của luật tự quyết, sự kiện trái đất không phải là một hành tinh tự nhiên. Tất cả những giáo lý đó mà các thày đã trao truyền có thể giúp con tới điểm con nhận ra mục đích, mục đích thực sựcao hơn, đã khiến con tới trái đất là để tăng trưởng sự nhận biết tới điểm con có thể thăng thiên từ trái đất.

Lúc đó, con có thể trụ vững trong sự kiện là ở tầng Hiện diện TA LÀ của con, có ý chí đi vào một bầu cõi chưa thăng thiên và thăng thiên từ bầu cõi đó. Đây cũng là ý chí kim cương vì nó cao hơn bất cứ mọi chuyện trên trái đất, có nghĩa là không có gì mà cái Ta Biết trải nghiệm trên trái đất có thể thay đổi ý chí của Hiện diện TA LÀ.

Khi con bắt đầu nối kết lại với Hiện diện TA LÀ và nhận ra rằng, như cái Ta Biết, con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, con không hề xa cách nó hay chống đối nó, thì con cũng nhận ra là ý chí của Hiện diện cũng là ý chí của con. Con có ý chí tăng trưởng tâm thức của mình. Con có ý chí thăng thiên. Đó là lúc con có thể bắt đầu thấy là bất kể mọi điều kiện trên trái đất, các điều kiện này – bất kể chúng là gì – tạo cơ hội toàn hảo để con thăng thiên. Con yêu dấu, con có thể thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên, nhưng vì con chưa có những trải nghiệm đa diện mà con có thể có trên một hành tinh phi tự nhiên, nên con không thăng thiên với cùng sự nhận biết.

21.9. Một thăng thiên cao hơn từ hành tinh phi tự nhiên

Tiến trình thăng thiên trên căn bản vẫn là một. Con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, con xây dựng một số ngã. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên con cũng xây dựng các ngã, tuy chúng không hoàn toàn giống các ngã tách biệt trên trái đất. Để thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên con phải tới chỗ thấy chúng là ngã, thấy là con chỉ dùng chúng như cỗ xe trong nỗ lực đồng-sáng tạo và con phải buông bỏ chúng, con phải để chúng chết đi. Con không có những ngã đó khi con xuống hành tinh tự nhiên, do đó con không thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên với các ngã đó.

Trên trái đất con cũng trải qua tiến trình tương tự. Con phải tới điểm thấy là con có một số ngã trong bốn thể phàm của mình và con cần để chúng chết đi. Vì trên trái đất con có nhiều loại ngã hơn trong bốn thể phàm của mình nên con thực sự thăng thiên với một trình độ nhận biết cao hơn. Trong căn thể của con có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn, và do đó khi con thăng thiên từ một hành tinh phi tự nhiên thì Hiện diện TA LÀ của con có một nhận biết cao hơn so với khi con thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là lúc con có thể thực sự làm hòa với việc mình ở đây và nói: “Bất kể những gì tôi nghĩ trước khi tới đây, hành tinh này cho tôi một cơ hội thăng thiên tuyệt diệu.” Sau đó, con có thể tới điểm con không còn nhìn lại quá khứ nữa và nói: “Ồ, tôi đã sai lầm khi tới đây” hay “Tôi đã sai lầm khi ở trong ảo tưởng khiến tôi tới đây.” Con chỉ nhìn vào chuyện đó và nói: “À, tôi ở trạng thái tâm thức đó vào lúc đó và tôi đã lấy quyết định tốt nhất mà tôi có thể lấy lúc đó, vì tôi có cái ngã mà tôi có lúc đó.” Sau đó con có thể buông bỏ mọi cảm giác hối tiếc. Con có thể giản dị an bình với sự kiện đây là con đường thăng thiên mà con đã chọn, và nó hoàn toàn thỏa đáng theo bất cứ tiêu chuẩn nào của cõi thăng thiên.

Do đó, con có thể tới điểm con nói: “Phần còn lại của kiếp sống này là cơ hội toàn hảo, lý tưởng để tôi thăng thiên, để tôi xem xét các phản ứng của mình, nhận diện các ngã còn tồn tại và để chúng chết đi. Cũng để tôi là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ bày tỏ chính nó, để tôi, như cái Ta Biết, tới điểm giải thoát khỏi tất cả các ngã thấp và có ý chí tự do trải nghiệm và biểu lộ chính mình trên hành tinh này.” Đây là lúc con tới điểm, như các thày đã giảng, con xoay chuyển sự chú tâm của mình từ việc đạt kết quả trên trái đất sang việc thực sự chào đón và vui hưởng tiến trình sống trên trái đất, tiến trình biểu lộ chính mình trên trái đất và tiến trình thăng thiên từ trái đất.

Các thày có thêm điều để giảng ngay cả về đề tài này, nhưng thày để công việc này lại cho Gautama. Thày đã trao cho các con món quà mà thày muốn trao, và thày biết ơn các con đã nhận nó. Tới đây thì thày chúc các con: hãy đi trong sự an bình tuyệt đối của Ý chí Kim cương.

9 | Đã đến lúc con biểu lộ quả vị Ki-tô

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, và thày tới đây hôm nay để trao truyền một phần nữa của những bài giảng mà thày dự định trao truyền trong hội nghị này chung quanh đề tài làm sao là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Giờ đây thì các con đã nhận được một bài giảng tuyệt vời và đa diện của Chân sư MORE sớm ngày hôm nay. Bài giảng đó quả thực có nhiều lớp, nhiều tầng cấp để các con suy ngẫm. Con thực sự có thể nói là bài giảng đó diễn tả đầy đủ con đường tâm linh. Nếu con thể nhập hoàn toàn mọi khía cạnh của bài giảng đó, thì câu hỏi là con có cần gì thêm nữa chăng.

9.1. Là Ki-tô mà không cuồng tín

Tất nhiên, vì Chân sư MORE là người trao truyền bài giảng, thì có thêm nữa có thể được trao truyền. Lẽ tự nhiên, giáo lý về ngã gốc cốt yếu cho việc là Ki-tô hành động. Con hãy hình dung một nhóm chiến sĩ Cơ đốc giáo tham dự Thập tự chinh đang ngồi trên yên ngựa bên ngoài một ngôi làng ở miền Trung đông. Họ đặt tâm vào trạng thái hỗn loạn và hầu như đồng thanh hét lên: “Đây là ý muốn Thượng đế!” Sau đó, họ rút kiếm, phi ngựa vào ngôi làng và giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tin rằng họ làm việc này nhân danh Ki-tô và để phục vụ Ki-tô. Họ có phải là Ki-tô hành động không? À, lẽ dĩ nhiên các con biết là không. Tuy nhiên con cần tự hỏi: “Làm sao tôi có thể là Ki-tô hành động mà không đi vào trạng thái tâm bất quân bằng vì quá hăng hái, quá nhiệt thành, gần như là cuồng tín?”

Chân sư MORE có nói đến các đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, và các đệ tử đã phản ứng như thế nào trong các tổ chức đó. Các thày đã thấy nhiều đệ tử trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến họ đã bước ra hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động, tuy rằng một số các đệ tử này tin chắc là họ đang biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tất nhiên các thày đã trao cho con chìa khóa cốt yếu để tránh phản ứng đó. Đó là con cần khắc phục ngã gốc và các ngã khác được tạo ra sau ngã gốc. Cái ngã nhất định cần an toàn, lẽ dĩ nhiên, có thể khiến con trở nên cuồng tín. Một khi con đã xây dựng ý niệm an toàn dựa trên một hệ thống hay niềm tin vỏ ngoài nào đó, thì con không muốn mất đi sự an toàn đó. Do đó, con trở nên cuồng tín chống trả tất cả những gì con nghĩ đang đe dọa ý niệm an toàn đó. 

Quả thật con cũng có thể có một ngã nữa, như các thày đã giảng, quan tâm không muốn bị sai, không muốn bị chứng tỏ là mình sai, muốn mình không bao giờ sai. Vì sa nhân cho con cảm tưởng là con sai trong kiếp đầu thai đầu, nên ngã đó lúc nào cũng muốn làm đúng. Một khi nó đã tự thuyết phục chính nó là nó đã làm đúng hay đang làm đúng, thì nó rất, rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai chăng.

9.2. Người tốt khó cứu rỗi nhất

Con yêu dấu, hai ngàn năm trước đây, thày có một lời tuyên bố khá bí hiểm là một tội đồ dễ được cứu rỗi hơn là một phú ông được vào thiên đàng. Lẽ tất nhiên, khi thày nói “phú ông” thì thày không nhất thiết chỉ một người có tiền của, nhưng là một người cảm thấy mình đã làm nhiều điều thiện. Điều nghịch lý mà ta có thể thấy nơi đạo Cơ đốc, các tôn giáo khác hay ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên, là đôi khi những người rất, rất khó giúp nhất là những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Con hãy nhớ lại lời Chân sư MORE nói về các đệ tử tin chắc là họ xứng đáng được một địa vị trong tổ chức tâm linh vì họ đã lâu năm tham gia tổ chức và chuyên cần theo đúng những thực tập vỏ ngoài và làm đúng mọi chỉ thị. Con có thể thấy một thí dụ, nhưng con cũng có thể vào các giáo đoàn Cơ đốc giáo và thấy những người suốt đời tin chắc là họ đang làm việc thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, họ đang theo lời răn của Ki-tô hãy thương yêu người láng giềng, hãy cư xử tốt với mọi người, hãy tham gia vào công việc từ thiện. Có nhiều vị linh mục Cơ đốc giáo, và nhiều tín đồ không phải là linh mục nhưng đã tham gia vào việc từ thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, cho rằng vì họ đã phụng sự, đã cư xử tốt và suốt đời làm nhiều điều tốt, nên họ bảo đảm sẽ được cứu rỗi trên căn bản những hành động vỏ ngoài đó.

Lẽ tất nhiên, thày có tuyên bố một số câu có thể được diễn giải để mở khóa hiểu biết là điều này không đúng. Vương quốc của Thượng đế ở bên trong ta. Cái gì ở bên trong ta? Đó là tâm hồn của con. Ấy, nếu con không giải quyết tâm lý, khắc phục tất cả các ngã, thì làm sao con vào được vương quốc? Con thấy chăng, điều này, một lần nữa, dính liền với bài giảng của Chân sư MORE về sự tha hóa của đạo Cơ đốc đã tạo ra con đường vỏ ngoài, giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động và bảo đảm. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo theo con đường vỏ ngoài này vì họ không có gì khác và hoàn toàn tin tưởng rằng một khi họ làm tất cả những điều vỏ ngoài đó thì họ đương nhiên sẽ được vào vương quốc sau kiếp sống này.

Đây không phải là mối quan tâm chính của bài giảng này của thày, thày chỉ nêu ra như một ví dụ. Mối quan tâm chính của thày, lẽ tất nhiên, là các đệ tử chân sư thăng thiên. Con cần nhận ra ở đây là một số các con, khi con gánh chịu chấn thương nhập đời hay các biến cố tạo nên chấn thương đó, thì sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm điều gì sai, hay con đã sai lầm khi có mặt trên trái đất, con đã sai lầm khi tới đây.

9.3. Không muốn bị sai

Chuyện luôn luôn xảy ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Như các thày có giảng, một khía cạnh của ngã gốc là con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm chuyện này nữa.” Con làm gì lúc đó? Con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai. 

Con yêu dấu, con đã làm gì sau đó? Qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa, bởi tôn giáo của con bằng cách làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân. Lẽ tất nhiên, dựa trên con đường vỏ ngoài của đạo Cơ đốc, một số các con có động lượng từ các kiếp trước tin rằng nếu con làm các chuyện vỏ ngoài đó, nếu con phụng sự như vậy, thì con chắc chắn hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Các thày đã nói đi nói lại điều gì? Khi con đứng trước cổng vào thiên đàng, nếu con muốn dùng hình ảnh đó (và các thày biết con cần một hình ảnh, nhưng đó chỉ là một hình ảnh) thì con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên và con phải chọn lựa đi qua cổng đó. Con phải lấy một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa tự do, con yêu dấu. Làm sao con, cái Ta Biết, lấy một chọn lựa tự do? Con chỉ làm được khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con. Cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai vì đã luôn luôn làm điều tốt, nó đang ngăn cản con thăng thiên – nếu con không buông bỏ được nó. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Lẽ tất nhiên, con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình. 

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày đã trao truyền giáo lý là các thày thương yêu con vô điều kiện. Các thày chấp nhận con vô điều kiện, nhưng nếu con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của các thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, cảm giác là có một số điều kiện sẽ khiến con bị sai, ngay cả ý niệm là con có thể sai. Con không thể thăng vượt ý niệm đó nếu con vẫn còn cái ngã đó, vì ngã đó không thể chất vấn lập trình cơ bản, ảo tưởng cơ bản đã tạo ra nó.

Cái ngã không thể chất vấn lập trình đó. Khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Con, như cái Ta Biết, có thể bước ra ngoài ngã và thày trao truyền giáo lý đặc trưng này để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên. Một là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ, lúc nào cũng đấu tranh với người khác, làm bất cứ điều gì con muốn mà không màng hậu quả. Nói cách khác con là một người mà một số các con gọi là người xấu. Có một điều khác ngăn cản con bước vào thiên đàng, đó là con là một người mà một số các con coi là người tốt, con muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không “đúng”, theo nghĩa nó không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó. Điều duy nhất có thể phá bế tắc là cái Ta Biết bằng cách nào đó được cảm hứng, được thúc đẩy để bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là một cái ngã, và chỉ có ngã đó tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng. Khi con, cái Ta Biết, nhận ra điều này, thì con nhận ra là ngã đó không phải là con. Con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên.

Vì sao con không thể mang nó theo con vào cõi thăng thiên? Vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế. Không ai có thể trở về thiên đàng trừ những ai đã xuống từ thiên đàng. Không có ngã nào – không có ai – có thể trở về thiên đàng trừ cái ta đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ. Chuyện thật giản dị như vậy đó. Đó chỉ là một cái ngã, nhưng thày cần con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nó chỉ là một ngã khác mà con cần buông bỏ. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động. Vì con đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Nói cách khác, hành động của con có tính chất vị kỷ. Hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là quả vị Ki-tô, không phải là tâm thức Ki-tô.

9.4. Con đã là Ki-tô hành động

Điều này đã được nói ra, và thày muốn đi sang phần khác. Thày nhận ra, như Chân sư MORE có nói, là mỗi khi các thày trao truyền một giáo lý, thì có nhiều người trong các con ngồi nghe, tìm hiểu giáo lý nhưng vẫn có cảm giác có một khoảng cách. Các thày đã trao truyền dụng cụ để con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, và khi con làm xong thì khoảng cách sẽ biến mất. Nhưng thày vẫn muốn đưa thêm vài nhận xét ở đây, vì thày muốn con nhận ra là tất cả các con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và đa số các con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Chỉ là con không ý thức điều này, và con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động. Con đã là Ki-tô hành động một số lần, có thể là với một số các con chỉ xảy ra một ít lần, nhưng tất cả các con đã từng là Ki-tô hành động. 

Điều này lại liên quan đến một khía cạnh khác của đạo Cơ đốc giả, đó là sự sùng bái vĩ đại được dựng lên chung quanh con người thày. Giê-su được đặt lên trên bệ cao như người Con của Thượng đế, một người sinh ra đã toàn hảo, vân vân và vân vân. Một con quái vật rất dũng mãnh đã được tạo ra trong tâm thức tập thể cho rằng muốn là Ki-tô thì con hầu như phải toàn hảo. 

Một số các con cũng đã tạo ra ngã đó, một ngã tương tự. Đúng thực là đa số các con phần nào có ý tưởng là con chỉ có thể được cứu rỗi, vào thiên đàng hay thăng thiên khi con đạt được tiêu chuẩn gần như siêu nhân đó. Do đó, con cảm thấy là khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ý niệm nguyên thủy về Ki-tô là gì? Ý nghĩa việc Ki-tô đầu thai, nhập vào xác thịt là gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt đó.

Như các thày đã giảng, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con. Khi điều đó xảy ra thì con là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con, để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con. Như thày có nói: “Tự ta không làm được gì, đó là cha ta (Hiện diện TA LÀ, Thánh linh) làm việc.” Nó làm việc khi con có cửa mở trong tâm thức của mình.

Như các thày có giảng, con không thể ép việc này xảy ra. Con thực sự không thể làm gì. Con không thể tạo ra một con đường máy móc tự động dẫn con tới điểm con là cánh cửa mở. Con không cần ép nó xảy ra, con chỉ cần ngưng không ép nó không xảy ra. Sự thực là nó mưa xuống cả người công chính lẫn người bất chính. Tánh linh lúc nào cũng tuôn xuống từ Trên cao. Như thày có nói: “Ta sẽ xin Cha ta và ngài sẽ gửi các con một đấng an ủi khác.” Khi thày thăng thiên, một phần động lượng của thày, Tánh linh của thày, được rải truyền xuống trái đất và nó vẫn tuôn xuống trong suốt hai ngàn năm qua. Con không cần hội đủ điều kiện nào để nhận nó, con cũng không thể ép nó tuôn qua con.

Tánh linh lúc nào cũng rải xuống. Con chỉ cần có cửa mở trong bốn thể phàm để Tánh linh có thể tuôn vào. Tất cả các con đã có lúc thoáng nhận, vì lý do nào đó, ngã vỏ ngoài được gạt qua bên, cái Ta Biết bước ra ngoài trạng thái tâm bình thường của nó, trạng thái đồng hóa với một ngã vỏ ngoài bình thường của nó, và bỗng nhiên có một cái gì khác tuôn vào. Cái “gì khác” đó, lẽ tất nhiên, là ý nghĩa thế nào là Ki-tô hành động. Đó là lúc con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người. Đa số con người chưa bao giờ trải nghiệm cái gì khác, cái gì cao hơn trạng thái nhận biết bình thường. Thày nói các con trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận, nhưng con cũng có thể trao tặng người khác bất cứ trải nghiệm nào vượt quá trạng thái tâm thức bình thường của họ. Đó là biểu đạt Ki-tô, đó là Ki-tô hành động.

9.5. Vượt lên trên hình ảnh cố định về Ki-tô

Việc đó có nhiều hình thức, con yêu dấu, và chìa khóa là mở tâm, là dụng cụ để tâm thức Ki-tô biểu hiện, đó cũng là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào. Các thày đã trao cho các con khái niệm là thày đã làm việc đó bằng nhiều cách. Thày đã trao cho một người một ly nước lạnh vì đó là gì người đó cần lúc đó, nhưng thày cũng trao cho người đó cảm giác y được chấp nhận, và đó là điều mà người ấy trước đó chưa từng có, và đó là phần phụ trội vượt quá ly nước.

Có quá nhiều đệ tử tâm linh, và đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đã dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Họ đã tạo ra một hình ảnh rất, rất, rất cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng họ cũng như là thày khi thày hiện thân trên thế gian. Nhiều người trong họ sẽ sững sờ nếu họ gặp thày khi thày hiện thân. Niềm tin của nhiều người sẽ bị lung lay, như niềm tin của nhiều Ki-tô-hữu bị lung lay nếu họ thấy thày như thày thực sự là lúc đó.

Điều con có thể làm được, là dùng cái Ta Biết để nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào. Con thấy trong kinh điển là có những người đã bài bác thày vì thày uống rượu, vì thày sinh ra ở Nazareth, vì thày đã làm chuyện này chuyện kia. Có những người đã bài bác thày vì hình dạng của thày, cách thày phục sức, cách thày cư xử, cách thày phát biểu.

Con yêu dấu, lúc nào cũng sẽ có người tìm thấy lỗi nơi người sứ giả, người đại diện Ki-tô. Điều này tất nhiên bắt nguồn từ sa nhân luôn luôn phán xét Ki-tô Hằng sống. Chính sa nhân và thái độ của họ đã tạo ra thái độ rất phán xét mà con tìm thấy nơi nhiều tổ chức tâm linh, kể cả, lẽ tất nhiên, các tổ chức mà Chân sư MORE đã phơi bày trong bài giảng trước. Con cần trung thực nhìn xem con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào, vì đó sẽ là một trong những lý do vi tế nhưng hữu hiệu nhất để đóng cửa không cho Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy. Thánh linh thổi nơi muốn, không phải nơi con muốn, không phải nơi ngã vỏ ngoài muốn và chắc chắn là không phải nơi sa nhân muốn nó tuôn chảy – vì sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy gì hết.

Điều bí ẩn đơn giản là con có thể nói là sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy và phần lớn họ đã thành công trong việc này. Vì sao Thánh linh không làm gì để cải sửa việc này, như một câu hỏi đã nêu lên hôm nay? “Vì sao Thượng đế không thay đổi kế hoạch của ngài để thuận theo ý kiến của tôi về vũ trụ?” Đó là cốt yếu của tâm thức sa ngã: “Vì sao Thượng đế không thay đổi để tôi không phải thay đổi?” Con có thể nói là Thánh linh đáng lẽ phải làm điều gì để giải tỏa tình trạng bế tắc mà sa nhân đã đặt hành tinh này vào.

Thánh linh tôn trọng quyền tự quyết, và do đó con có thể nói là câu: “Thánh linh thổi nơi nó muốn” không nói lên một hiểu biết đầy đủ. Câu này được đưa ra để cho thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Mặt khác, như thày vừa giảng, Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, vấn đề chỉ là khi không có khe mở thì nó không thể biểu đạt trong bát cung vật lý, và đúng thực là ngay cả trong cả ba bát cung trên cũng vậy.

Đó là lý do vì sao Thánh linh chờ dịp một người mở cửa để nó tuôn chảy. Khi cửa được mở thì dòng chảy có mặt. Các thày đã trao cho các con nhiều ý tưởng, nhiều dụng cụ, và khi con phối hợp với các dụng cụ về chấn thương nhập đời và ngã gốc, thì con sẽ có thể tiến bộ rất, rất đáng kể. Con có thể tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con chỉ đơn giản để nó xảy ra và con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì không những dòng chảy sẽ có mặt mà thêm nữa con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

9.6. Phân tích mình một cách quá đáng

Giờ đây, lúc khởi đầu con quả thực có thể thấy một số quan tâm khởi lên, và nhiều người trong các con đã có kinh nghiệm này. Con đứng trước một hoàn cảnh, và con cảm thấy có một dòng chảy khác thường xuyên qua con, khác với tâm thức bình thường của con. Sau đó, con phân tích và lượng định: “Tôi làm như vậy có được chăng? Đó có phải là biểu lộ cao nhất của Ki-tô chăng? Đó có thật là Ki-tô chăng? Tôi có nên không hành động như vậy chăng? Tôi có nên không nói điều đó chăng?”

Con cần phải sẵn sàng nhận ra là khi con bắt đầu dám biểu lộ mình nhiều hơn, thì con sẽ có những thách đố tương tự khởi lên sau đó. Lúc đó, con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Và con dùng công thức: nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi – con để nó chết đi, con yêu dấu.

Con thấy chăng, khi con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, thì tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Con sẽ tới điểm con nhận ra rằng: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”  

9.7. Không có biểu đạt Ki-tô tối hậu

Có một bước quan trọng trước khi con tới điểm đó, đó là con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Con yêu dấu, nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. 

Vậy điều này nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là khi con có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Đó là điều mà Chân sư MORE đã giảng sáng nay, là có một số đệ tử đã đi vào tâm thái phán xét, thực sự có nghĩa là họ đã dùng tâm phản-Ki-tô để tìm lỗi. Con có thể thấy là một số câu hỏi nêu lên chiều hôm nay được đặt với tầng tâm thức thực sự muốn tìm lỗi nơi giáo lý hay vị thày. Lẽ tất nhiên, đây là điều tâm phản-Ki-tô lúc nào cũng làm.

Con cần nhận ra ở đây là ngoài các ngã của con, mà con mang trong bốn thể phàm, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, tìm cách hạ thấp nó. Nó có hai mục đích. Con có một người đang là cánh cửa mở để Ki-tô biểu lộ và con có một hay nhiều người đang tiếp nhận sự biểu lộ đó. Các lực phản-Ki-tô, tâm phản-Ki-tô, muốn gieo nghi ngờ vào tâm những người đang nhận món quà để họ bắt đầu nghi ngờ và ngay cả bác bỏ nó. Nó muốn gieo nghi ngờ vào tâm người đang là cánh cửa mở và đang trao món quà để người đó nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và do đó có thể dần dần quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Con cần giản dị nhận ra là lực phản-Ki-tô này tất nhiên có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Con thực sự cần nhận ra là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Con chỉ cần nhận ra lực này, và biết nó có mặt. Nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Sau đó, con cần nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này, vì, như thày có giảng, các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Nếu con tìm cách trả lời một câu hỏi, thì bảy câu hỏi khác sẽ bật ra. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con. Khi con chưa hóa giải các ngã thì nó sẽ không đi xuyên qua con mà sẽ chạm một trong các ngã đó và phóng đại nó lên. Khi con đã hóa giải các ngã thì con chỉ để nó đi xuyên qua con. Như thày có nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.” Lúc ban đầu, con sẽ được trợ giúp nếu con quay về hướng thày và thực sự hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con và chú tâm vào thày. Con còn không chú ý tới nó nữa.

Giờ đây, tất nhiên đây là một thăng bằng tế nhị vì tự ngã của con muốn nghĩ là nó không thể sai lầm và do đó con không bao giờ cần chú ý đến các lời chỉ trích. Đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Con có thể tập phân biện trường hợp một người giản dị phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô. Con có thể tập nhận ra sự khác biệt. Một người có thể phản hồi để cho con thấy cách họ phản ứng ở tầng tâm thức của họ. Điều này có thể giúp con điều chỉnh cách con phát biểu khi con tiếp cận những người này, dựa trên hiểu biết về trình độ tâm thức của họ. Khi con cảm thấy là lời chỉ trích đơn giản phát xuất từ phản-Ki-tô đang tìm cách hạ bệ con, thì con chỉ để nó đi xuyên qua con.

Khi thày nói là con cần mở tâm đón nhận phản hồi của người khác, thì thày cũng nói điều này một cách thận trọng, vì con không nên phân tích mình quá đáng. Con cần là cánh cửa mở, cần giữ tâm trung hòa, cần ở trong trạng thái tâm trung hòa và để Tánh linh tự biểu lộ. Thành thực mà nói, đây chính là thách thức lớn nhất khi con bắt đầu có thêm quả vị Ki-tô. Con cần không đóng tâm mình nhưng cũng đừng phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát. Đây là một thăng bằng tế nhị. Thày phải đối đầu khó khăn này khi thày hiện thân trên trái đất, tất cả các thày đều gặp khó khăn này trước khi thăng thiên. Con cần đối mặt khó khăn này và giải quyết theo cách của riêng con vì (một lần nữa) không có một biểu hiện tuyệt đối của quả vị Ki-tô. Do đó, con cần nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai. Con không cần đi vào tư duy thắc mắc: “Làm vậy có sai chăng?”

Con cần buông bỏ tư duy này, con yêu dấu, và mặc dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con thực sự sẽ tới điểm con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

9.8. Muốn giúp người khác quá mức

Khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và rất muốn giúp đỡ người khác, thì việc này có thể là một trở ngại cho đường quả vị Ki-tô của con. Khi đó con có tâm thái: “Làm sao tôi có thể giúp người khác.” Vị sứ giả này đã có tâm thái này trong nhiều kiếp sống, kể cả kiếp này, ngay cả sau khi ông đã trở thành sứ giả. Làm sao ông có thể giúp người khác tốt nhất và làm sao ông không gây trở ngại cho Tánh linh thể hiện xuyên qua ông?

Suy ngẫm chuyện này tất nhiên là điều chính đáng, nhưng con phải tìm ra điểm cân bằng tế nhị. Con trước tiên cần làm việc để khắc phục các ngã vỏ ngoài của mình để con được giải thoát khỏi chúng và không cảm thấy bắt buộc phản ứng lại người khác. Con cần tới điểm con thực sự không phản ứng lại người khác và việc họ chấp nhận hay không chấp nhận những gì họ được cống hiến xuyên qua con. Con quan sát, con có thể học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng. Con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của họ vì con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Nhiều người sẽ tới con khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và họ mang một ngã chưa được giải tỏa, và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ đã dùng giáo lý trên con đường tâm linh để củng cố và công nhận giá trị của ngã đó. Giờ đây, họ tới con và họ muốn con cũng công nhận giá trị của ngã đó. Có khi họ giận dữ, có khi họ thất vọng, có khi họ bắt đầu tố cáo con không là đại diện thật của Ki-tô khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ. Con cần nhận ra điểm này. 

Con yêu dấu, thày nhận ra là một lần nữa các thày đã phóng tới con thật nhiều khái niệm. Con không cần chú tâm ngay lúc này đến tất cả những gì thày nói ở đây. Con cần tìm ra một điều trong bài truyền đọc mà con cảm thấy ứng dụng cho con ngay lúc này và con thể nhập điều đó. Con chấp nhận là các điều khác mà thày nói áp dụng cho người khác ở các tầng tâm thức khác. Có khi một số điều mà thày nói không còn áp dụng cho con vì con đã vươn lên trên tầng tâm thức đó. Có khi có những điều sẽ áp dụng cho con trong tương lai khi con đã vươn lên một tầng tâm thức nào đó.

9.9. Không có khoảng cách giữa con và Tánh linh

Như Chân sư MORE có nói, các thày bị giới hạn khi thuyết giảng bằng ngôn từ. Quả thực con cần tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Khi con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, khi con tới điểm mà Chân sư MORE mô tả là con không coi con đường tâm linh xoay quanh cá nhân mình, đó là lúc không còn cơ chế trong tâm con tìm cách lọc lựa những gì đến từ Tánh linh. Lúc đó ngay cả ý niệm là con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia” cũng không còn nữa. Tánh linh đang gửi đến con một cái gì tuôn chảy xuyên qua tâm con. Con có thể vượt qua cảm giác tách biệt. Nhiều người trong các con không thể nắm bắt điều thày đang giảng nhưng một số có thể. Tất cả các con rốt cuộc sẽ có thể nắm bắt điều đó.

Sẽ có một điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Do đó, con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, có dòng chảy và sau đó con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Vị sứ giả này đã nhiều lần được hỏi là ông trải nghiệm thế nào khi nhận một bài truyền đọc và ông đã tìm cách giải thích một cách tương tự. Không phải là ông thấy ông ở dưới đây, thày ở trên kia và thày đang rải truyền ngôn từ từ cõi thăng thiên, ông nghe được trong tâm và phát biểu ra. Không phải vậy, ông và thày đạt được trạng thái Hợp nhất, và ngôn từ tuôn chảy xuyên qua tâm vị sứ giả và ông nghe thấy chúng cùng lúc với khi chúng được nói ra, vì không có khoảng cách. Do đó, khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Trong tiến trình không có khoảng cách. Không có cấu trúc, không có cơ chế. Đó là một dòng chảy trực tiếp, một biểu đạt trực tiếp và con không phân tích nó trước khi nó xảy ra, vậy con cần gì phân tích khi nó đã xong? Con chỉ để nó tuôn chảy và sau đó để nó là như nó là, để con là như con là, để người khác là như họ là. Hãy để họ phản ứng theo cách họ phản ứng. Khi con trung hòa khi món quà được trao tặng, thì nó xứng đáng được trao tặng. 

Lẽ tất nhiên, người khác chỉ có thể nhận đầy đủ món quà khi họ trung hòa, nhưng trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, là cánh cửa mở để trao tặng món quà. Con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó. Đó là trách nhiệm của họ. Khi con đã thấy rõ điều này trong tâm mình, thì con có thể tránh các cám dỗ và phóng chiếu rất rất vi tế đến từ sa nhân muốn đem con tới điểm lần biểu đạt quả vị Ki-tô đó là lần cuối con cả gan để chuyện này xảy ra xuyên qua con.

9.10. Biểu lộ Ki-tô trên mạng

Thày thực sự có một điều nữa mà thày muốn trao truyền, đó là chúng ta đã tới điểm các thày đã trao truyền đủ giáo lý xuyên qua vị sứ giả này. Trong những người đang theo học giáo lý này, có một số mới gia nhập, một số khác đã học giáo lý này được một thời gian, nhưng các con đã sẵn sàng bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô một cách trực tiếp hơn. Lẽ tất nhiên, có rất, rất nhiều cách để làm việc này nhưng chắc chắn một trong những cách đó là qua mạng Internet.

Trong khóa học về quả vị Ki-tô của thày (sách Chìa khóa chính yếu để đạt quả vị Ki-tô cá nhân) thày đã đề ra cho những ai hoàn tất khóa học công việc viết lại câu chuyện cuộc đời mình. Với hiện tượng viết blog trong thời hiện đại, tại sao không viết câu chuyện này như một blog?

Tại sao không tạo ra một trang mạng hay một blog lấy giáo lý chân sư thăng thiên và áp dụng vào một lãnh vực cá biệt? Con cũng có thể lấy một lãnh vực cá biệt, tìm kiếm tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền liên quan đến lãnh vực đó, lấy ra tất cả những điều mà các thày đã nói và để các ý đó vào một trang mạng. Con có thể viết lại một cách trung hòa với ngôn từ của chính con để người đọc không cần phải tin các chân sư thăng thiên hiện hữu, hay con cũng có thể trích dẫn lời các thày nếu con ghi rõ xuất xứ. Có rất nhiều cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô, và qua đó tiếp xúc được nhiều người hơn là con có thể tiếp xúc tận mặt. Đây cũng có thể là một cách để con luyện tập cách con biểu lộ quả vị Ki-tô và quan sát những phản ứng khởi lên trong con. Con cũng có thể thành lập, nếu con muốn, một nhóm người để hỗ trợ lẫn nhau. Một số các con có kinh nghiệm dùng máy điện toán và có thể giúp những ai ít có kinh nghiệm, và do đó các con bắt đầu hỗ trợ lẫn nhau. Các con cũng có thể giúp lượng định lẫn nhau, phản hồi tới các người trong nhóm, và qua đó chia xẻ nhiều, nhiều điều. Con có thể tạo ra một hiện diện trên mạng Internet hiện chưa có, chưa bao giờ có mặt trên mạng vì các con tới từ những quá trình khác nhau nhưng cũng có những điểm tương đồng, một sự hợp nhất thâm sâu với những điều các con phát biểu, vì các con đã đạt được một trình độ sáng suốt và nguyên vẹn, đã chữa lành tâm lý và buông bỏ các ngã vỏ ngoài.

Đã đến lúc các thày khuyến khích các con làm công việc này. Lẽ tất nhiên các con có quyền tự quyết. Thượng đế không muốn con người bị ép buộc. Các thày không muốn các con tự ép buộc mình làm việc này nhưng quả thật là một số các con đã sẵn sàng làm việc này dưới hình thức nào đó. Đã đến lúc các con đứng lên và ngưng ý nghĩ là vị sứ giả là người duy nhất phải dựng lên các trang mạng. Con hãy nhận ra là con cũng có tiềm năng, kinh nghiệm và chứng đạt để làm một cái gì đó. Một lần nữa, con nên hiểu rõ. Điều con có thể biểu đạt lúc này không phải là biểu đạt tối hậu của Ki-tô, nhưng khi con biểu đạt nó bây giờ thì con có thể hoàn chỉnh nó. Nếu con không biểu đạt nó lúc này thì con sẽ không có cơ hội hoàn chỉnh và con sẽ không tiến triển.

Con hãy xem xét trở lại tình huống bữa tiệc cưới ở Cana. Lúc đó thày đứng trước một ngã rẽ trong cuộc đời. Thày sẽ bắt đầu sứ vụ công chúng của thày hay thày đình chỉ nó? Ấy, nếu lúc ấy Mẹ Mary không thúc bách thày, thì thày đã không làm được việc đó. Thày đang thúc bách con. Nếu thày không chấp nhận sự thúc bách của Mẹ Mary và cả gan tiến hành sứ vụ của thày, thì có chăng một tấm gương ở đầu thời Song Ngư để con người noi theo? Ấy, có thể là thày sẽ làm sau đó – có thể.

Con không thể biết ngày mai sẽ ra sao. Con chỉ có thể biết hiện tại, con chỉ có thể hành động trong hiện tại. Có thể bây giờ là “hiện tại”, là lúc con đứng lên và biến nước lã của tâm thức thế gian trong một lãnh vực nào đó của cuộc sống thành rượu của tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con!

Con yêu dấu, tới đây thì thày cảm ơn con đã chú tâm nghe bài giảng này, thày cảm ơn con đã sẵn sàng làm chiếc loa lan tỏa bài giảng này tới tâm thức tập thể của hành tinh, sẽ đem lại kết quả sâu rộng, vượt quá những gì con có thể biết với tâm vỏ ngoài. Quả thực, con có thể nói là sứ vụ công chúng của thày hai ngàn năm trước đây đã là cực alpha, và những gì các thày đang trao truyền qua tiến trình tiết lộ tuần tự này, không chỉ qua vị sứ giả này và còn xuyên qua nhiều vị sứ giả khác, là cực omega. Khởi đầu của thời đại Song ngư – kết cuộc của thời đại Song ngư, nhưng thực sự, thời Song ngư không thể tới kết cuộc trọn vẹn khi chưa có một biểu đạt công chúng của giáo lý thực của Ki-tô.

Con có thể là một thành phần của biểu đạt đó, một phần của làn sóng công chúng khi bỗng nhiên mọi người có cơ hội giáp mặt giáo lý thực của Ki-tô, một cơ hội mà họ không có được trong suốt thời Song ngư. Khi con người được nhận cơ hội đó, thì lúc ấy chung cuộc sẽ tới, không phải là chung cuộc của thế giới, mà là chung cuộc của thời Song ngư. Lúc ấy, hành tinh có thể hoàn toàn bước vào thời Bảo bình. Chúng ta có thể bắt đầu chú tâm xây dựng thời Hoàng kim của Saint Germain thay vì tìm cách đuổi kịp, cứ tìm cách hoàn tất tất cả những điều chưa được hoàn thành trong thời Song ngư.

Con có thể quan tâm là con đã sẵn sàng làm chuyện này chưa, con có xứng đáng làm việc này chưa. Những quan tâm này bắt nguồn từ ngã gốc và các ngã khác. Do đó, thày chỉ có thể nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta, và ta sẽ biến con thành người chài lưới đàn ông, đàn bà và trẻ em.”

7 | Hiểu thấu tiết lộ tuần tự

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, cũng được biết trong các đợt truyền giáo trước như El Morya, Chân sư M, Bapu hay đơn giản là Morya, do đó thày có nhiều tên. Thày hơn là một cái tên, do đó thày tìm cách vụt đi trước các đệ tử muốn gán một hình ảnh tôn thờ vào một danh hiệu nào đó. Thày biết rõ là nhiều đệ tử sẽ và đã bác bỏ tất cả các điều mà thày giảng ngày hôm nay vì thày đã đổi tên từ El Morya sang Chân sư MORE. Tuy nhiên, điều này thích hợp, vì có những đệ tử phải bác bỏ điều thày đang giảng vì họ không thuộc mạn đà la, đợt truyền giáo mà thày đang hướng bài giảng này tới. Tuy nhiên, có một số đệ tử sẽ được lợi lạc từ bài giảng này, nếu họ chịu mở tâm ra đón nhận.

Mỗi lần các thày bảo trợ một tổ chức, và các thày đã bảo trợ nhiều tổ chức hơn các con (đa số các con) biết, thì có một nhóm người, một mạn đà la, mà các thày nhắm tới khi bảo trợ tổ chức đó. Có một số người khác đáng lẽ không thuộc tổ chức đó. Khi các thày bước sang bảo trợ một tổ chức khác, thì điều thích hợp và tự nhiên là những người thuộc mạn đà la của tổ chức trước không đi theo với các thày. Tuy nhiên, lúc nào cũng có trong một tổ chức một số người không thuộc mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, và do đó, họ tự do đi theo các thày khi các thày chuyển sang bảo trợ một tổ chức khác.

7.1. Con đường tâm linh lúc trước và ngày nay

Giờ đây, các con yêu dấu, thày muốn bắt đầu bằng cách nói thêm về câu hỏi được đặt ra tối hôm qua về cách các thày đã trình bày con đường tâm linh trong đợt truyền giáo trước ở tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải đăng Trên Đỉnh núi), thậm chí đi trở ngược về tổ chức I AM Movement (Phong trào TA LÀ). Thày sẽ nói về sự tương phản giữa cách các thày trình bày con đường tâm linh lúc đó và ngày nay, với các giáo lý mới nhất về cách thể hiện quả vị Ki-tô, cũng như là các giáo lý về ngã gốc, cái Ta Biết, là người đồng-sáng tạo, biểu hiện tiềm năng sáng tạo của mình – là các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong những năm vừa qua. Như vị sứ giả này đã nêu lên, không có sự mâu thuẫn trong bản chất các đợt truyền giáo, nhưng nếu con nhìn từ một tầm nhìn nào đó, thì con sẽ thấy có mâu thuẫn. Con nên hiểu là đợt truyền giáo trước ở Summit Lighthouse đã được các thày tạo dựng với mục đích chính là giúp một mạn đà la đệ tử đạt được một số khai ngộ cốt yếu cho họ.

Điều cốt yếu trong việc phát triển cá nhân của họ là họ đạt được các khai ngộ đó, và điều cốt yếu cho hành tinh là có một số người, một số lượng tới hạn người (critical mass), đạt được các khai ngộ đó. Tổ chức Summit Lighthouse đã thu hút nhiều người khác không thuộc mạn đà la đó. Họ đã được lợi lạc khi tham gia vào Summit Lighthouse, và họ đã đóng góp nhiều cho tổ chức, họ đã đóng góp thêm nhiều vào động lượng, và quả thực họ đã giúp các thày đạt được nhiều thành quả từ tổ chức Summit Lighthouse hơn những gì các thày có thể đạt được qua các người thuộc mạn đà la. Cũng đã có nhiều người tâm linh không gia nhập Summit Lighthouse, một phần vì các thày không hướng họ về tổ chức đó. Đây là một số đề tài mà thày muốn thảo luận trong bài giảng này.

7.2. Đợt truyền giáo cuối cùng của thời Song ngư

Thày muốn bắt đầu với sự kiện tổ chức Summit Lighthouse là, như Giê-su đã trình bày trước đây, đợt truyền giáo cuối cùng (hay ít ra là đợt truyền giáo công chúng cuối cùng) mà các thày có thể bảo trợ trong thời Song ngư. Điều này không có nghĩa, như một số người đã diễn giải, là đó là đợt truyền giáo quan trọng, chung cuộc và tuyệt đối nhất mà các thày trao truyền trong thời Song ngư. Tổ chức Summit Lighthouse đã được lập ra với một số mục đích, nhưng mục đích mà thày muốn thảo luận ở đây, liên quan đến mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, là một mục đích rất đặc thù. Mục đích đó là để giúp một nhóm dòng sống đạt được các khai ngộ của thời Song ngư mà họ chưa đạt được trong thời Song ngư. 

Con có thể nói như thế này: khi hành tinh bước sang một thời đại tâm linh mới, khi hành tinh chuyển từ thời đại trước sang thời Song ngư, thì có một nhóm người mà ta có thể nói, từ một tầm nhìn nào đó, đã là động cơ thúc đẩy sự tăng triển của hành tinh trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Nói cách khác, họ ở một giai đoạn trong tiến trình tăng triển cá nhân khiến họ có tiềm năng đạt được các khai ngộ của thời đại sắp tới. Do đó, khi họ đầu thai trong thời đại đó, họ có thể đẩy mạnh sự tăng triển tâm linh, sự tăng triển của tâm thức Ki-tô, của thời đại đó. Tuy nhiên, để có thể đẩy mạnh tâm thức tập thể, họ phải đạt được các khai ngộ của thời đại đó, các khai ngộ nền tảng của thời đại đó.

Mỗi thời đại có một số khai ngộ nền tảng. Hai ngàn năm trước đây, Giê-su đã khai mở thời đại Song ngư; thày đã tạo dựng nền tảng cho thời Song ngư. Giê-su đã trình bày các khai ngộ đó trong giáo lý nguyên thủy, toàn bộ của thày. Ngay cả trong giáo lý công chúng được bảo tồn trong kinh điển, con cũng tìm được một số lượng tới hạn các khai ngộ này để tạo xoay chuyển tâm thức, đôi khi được trình bày một cách ẩn dụ và đôi khi một cách thẳng thắn hơn.

Thày không nói ở đây là các kinh sách về cuộc đời và lời giảng của Giê-su đã mô tả các khai ngộ này một cách đầy đủ, vì chúng chắc chắn không làm được công việc này. Nhưng Giê-su có trao truyền một khuôn đúc có thể khai triển thành phong trào mà thày hình dung, một phong trào dựa trên Thánh linh, dựa trên Ngôi lời Hằng sống được nói ra. Một phong trào như thế đã có thể đẩy mạnh thời đại Song ngư, đẩy mạnh sự tăng triển của tâm thức tập thể.

7.3. Con người không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư

Chuyện đã xảy ra là không có đủ số người trong mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ của thời Song ngư trong những thế kỷ đầu của thời đại đó. Đó là lý do vì sao sa nhân đã có thể xâm nhập và biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của đế quốc La Mã, và từ lúc đó trở đi, đạo Công giáo coi như đã bị tổn hại không thể cứu vãn. Điều này có nghĩa là không có giáo lý công chúng chỉ dẫn con người đạt các khai ngộ của thời Song ngư.

Lẽ tất nhiên, đây không phải là kế hoạch nguyên thủy nhưng các thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết (thày dùng chữ “các thày” để chỉ các chân sư thăng thiên, vì tất nhiên là trong thời Song ngư chính thày chưa là một chân sư thăng thiên, và do đó thày đã không dự phần vào các cuộc bàn thảo đó). Các chân sư thăng thiên luôn luôn xem xét con người đáp ứng ra sao trước các khai ngộ. Cho dù con người có đáp ứng hay không, các thày luôn luôn tìm một phương cách giúp con người vươn lên cao hơn.  

Trong thời Song ngư, các thày đã tạo cảm hứng và bảo trợ một số tổ chức. Đây là thời Giáo hội Công giáo đàn áp tất cả các người “không tin đạo”. Các tổ chức này đã hoạt động bí mật, các thày đã đề cập đến các hội Rosicrucian và Freemason nhưng cũng có tổ chức khác. Các thày cũng đã bảo trợ một số sáng kiến và tổ chức tại những vùng trên thế giới nơi giáo hội Công giáo không có ảnh hưởng mạnh mẽ. Thày không muốn các con giới hạn tầm nhìn của mình và nghĩ rằng các thày đã chỉ làm việc với một số ít tổ chức. Các thày đã làm việc, như các thày luôn luôn làm, với nhiều cá nhân và nhóm người khi họ sẵn sàng mở tâm đón nhận giáo lý ở một tầng mức nào đó.

Tuy nhiên, điều thày muốn các con nhận ra là khi thời Song ngư đã tới lúc gần chấm dứt, thì chuyện rõ ràng là không đủ số lượng tới hạn người thuộc mạn đà la Song ngư nguyên thủy, không đủ số lượng tới hạn các dòng sống đó, đã đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các thày đã quyết định (và lần này thày có dự phần vào các cuộc bàn thảo vì thày đã thăng thiên) là các thày sẽ thành lập một tổ chức khác với mục đích chính yếu giúp các dòng sống đó đạt các khai ngộ của thời Song ngư. Liên quan đến tổ chức Summit Lighthouse, thì tổ chức này được thành lập với mục đích chính giúp nhóm dòng sống cá biệt đó đạt được những khai ngộ mà họ cần đạt khi thời Song ngư chấm dứt.

Chính thày có thuộc vào mạn đà la ở đầu thời Song ngư chăng? Có, thày thuộc mạn đà la đó. Kuthumi cũng vậy, cũng như là Saint Germain và lẽ tất nhiên Mẹ Mary. Mẹ Mary thăng thiên rất sớm, Saint Germain cần thêm chút thời gian. Kuthumi và thày đi đoạn hậu và cần rất nhiều thời gian để thăng thiên, nhưng các thày rồi cũng đã thăng thiên. Do đó, các thày đã quyết định là thày là vị chân sư chính bảo trợ tổ chức Summit Lighthouse.

Các con nhận ra là mục đích duy nhất (ít ra là mục đích chính) là giúp mạn đà la đặc thù của các dòng sống đó, các người chưa đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nói theo từ ngữ hiện đại thì đây là một hình thức quản trị khủng hoảng. Nói cách khác, thời Song ngư đã gần hết, cát trong đồng hồ cát đã gần cạn, và các dòng sống đó vẫn chưa đạt được khai ngộ. Thày không nói là tất cả các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đều phải đạt được các khai ngộ trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Thày muốn nói là cần một số lượng tới hạn đạt được các khai ngộ đó, và lúc đó chưa đủ túc số đó. Như một hình thức quản trị khủng hoảng, các thày thảo luận và định ra những gì các thày có thể làm để giúp các dòng sống đó (ít ra là một số lượng tới hạn trong nhóm đó) vượt qua trở ngại và đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các cuộc thảo luận đó là khuôn đúc nền tảng của tổ chức Summit Lighthouse và nói chung tất cả những gì đã xảy ra trong tổ chức đó đều liên quan tới mục đích đó.

7.4. Các khai ngộ của thời Song ngư

Đâu là những khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư, không chỉ những người thuộc mạn đà la nguyên thủy và toàn thể nhân loại? À, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su và xem xét khuôn đúc mà Giê-su đã tạo dựng. Sau đó, con có thể xem xét các giáo lý mà các thày đã trao truyền, và lẽ tất nhiên, con yêu dấu, con có thể diễn tả chúng bằng nhiều cách khác nhau. Không phải chỉ có một cách duy nhất để diễn tả chúng bằng ngôn từ, mà có nhiều cách. Con có thể dùng từ vựng khác nhau. Thày không muốn đưa ra cảm tưởng là cách thày diễn tả ở đây là cách diễn tả duy nhất.

Chắc chắn là một cách để diễn tả các khai ngộ của thời Song ngư là: Trong thời Song ngư, con người cần giải thoát mình khỏi ách thống trị và nô lệ của sa nhân. Làm sao con giải thoát mình khỏi sa nhân? Cách duy nhất là đạt được tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là sợi dây điều giải (mediator) Tánh linh và vật chất, nó là cái được Thượng đế gửi xuống. Để làm gì? Không phải để cứu rỗi con người, như các giáo phái Cơ đốc giáo tuyên bố, nhưng để cho con người một khung tham chiếu, giúp con người có một khung tham chiếu khi họ trải nghiệm chứ không chỉ hiểu tâm thức Ki-tô. Con có thể so sánh với tảng đá Ki-tô tất cả các dối trá và ảo tưởng được phóng tới con, được sa nhân lập trình vào tiềm thức của con.

Con thấy là tất cả các ảo tưởng, triết lý, lý thuyết và luận thuyết đều là cát cuốn bay theo gió. Con có thể so sánh chúng với tảng đá không thể lay chuyển, theo nghĩa nó không có tính chất nhị nguyên. Lẽ tất nhiên, nó không đứng yên vì Ki-tô di chuyển cùng với hướng đi lên của toàn thể vũ trụ, do đó ta có thể nói là Ki-tô luôn luôn tiến triển. Đối với các con đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên do nhị nguyên thống trị, thì nó là một tảng đá mà con có thể nương tựa và dùng làm nền móng vững chắc để lượng định các ý tưởng của sa nhân.

Vậy ta có thể nói là các khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư là noi theo gương của Giê-su, tin tưởng Giê-su, làm công việc mà Giê-su đã làm và sau cùng làm những công việc to lớn hơn những gì Giê-su đã làm. Như các thày đã nói nhiều lần, noi theo gương Giê-su thay vì chờ đợi Giê-su sẽ tới và cứu rỗi lúc cuối thời. Vậy câu hỏi trở nên: “Làm sao con người có thể noi theo gương của Giê-su?” Con có thể nhìn lại quá khứ và biện bác là vì con người không có được một bản viết các giáo lý chân thực của Giê-su, nên họ không thể noi theo gương của Giê-su, họ không thể đạt các khai ngộ – có một khoảng cách.

7.5. Khoảng cách giữa giáo lý và ứng dụng

Đây là một đề tài mà thày muốn luận giảng: khoảng cách. Câu hỏi trở nên là: chúng ta hãy giả dụ sa nhân không xía vào công việc của trái đất. Nói cách khác, không có gì ngăn trở các chân sư thăng thiên thể hiện trong bát cung vật lý đúng y những gì các thày muốn thể hiện. Các thày có thể nào trao truyền một giáo lý đầy đủ đến độ bất cứ ai theo và áp dụng giáo lý đều đạt được tâm thức Ki-tô chăng?

Nhiều người trong các con, nếu con xem xét phản ứng của mình trước câu hỏi này, sẽ thấy là trong tâm thức của mình có một niềm tin là: Đúng vậy, điều này phải khả thi. Giờ đây, con yêu dấu, một lần nữa các thày không muốn chê trách con hay khiến con không thoải mái, nhưng thày phải nói rất thẳng thắn là niềm tin này là một ảo tưởng, và nó có thể là một ảo tưởng nguy hiểm. Ảo tưởng này chính thực là lý do chính khiến nhiều người thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đã không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư.

Thày muốn trình bày ở đây một tóm lược ngắn các sự kiện lịch sử. Có những người đã nói: “Tại sao Giê-su không viết lại những giáo lý chân thực của thày để con người có một văn bản đầy đủ, mà họ có thể theo và áp dụng?” Ấy, thày sẽ trả lời câu hỏi này sau, nhưng chúng ta có sự kiện lịch sử là Giê-su đã không viết lại những giáo lý của thày, Giê-su đã không để lại một văn bản chính thức.

Trong mấy thế kỷ đầu, đạo Công giáo là một phong trào đa dạng, khá hỗn loạn gồm nhiều nhóm và môn phái, một phần do các phương tiện truyền thông thiếu vắng của thời đó, và phần khác là Giê-su mong muốn là những người khác nhau, những nhóm khác nhau có thể trải nghiệm Cơ đốc giáo theo cách riêng của họ.

Sau đó, tới thời điểm then chốt trong lịch sử khi sa nhân trong cõi bản sắc đã thành công trong việc thuyết phục một sa nhân đang đầu thai là y đã trực quan Ki-tô và do đó y biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La mã. Từ lúc đó, sa nhân đã vững tay điều khiển Cơ đốc giáo. Con có thể thấy là suốt thời Trung cổ, họ đã dùng khả năng điều khiển Cơ đốc giáo để ảnh hưởng và kiểm soát các nước Tây Âu và xã hội Âu châu. Chuyện đã xảy ra thời đó là một số tổ chức bí mật đã bộc phát: hội Rosicrucian, hội Freemason vân vân. Các tổ chức này dựa trên một con đường tu tuần tự, một con đường dẫn con người đi từng bước về hướng những tầng tâm thức cao hơn, hay ít ra là những khai ngộ cao hơn. Sau đó, chúng ta thấy lịch sử dần dần đi tới điểm ảnh hưởng của giáo hội Công giáo bắt đầu suy thoái. Khoa học xuất hiện, và không lâu sau thì thuyết duy vật trở nên dụng cụ chính của sa nhân. Nhưng sa nhân không thể kiềm hãm con người càng ngày càng nhận ra nhu cầu đi theo một con đường khai ngộ, một con đường tuần tự dẫn tới các tầng tâm thức cao hơn.

Sa nhân đã không thể ngăn nổi nhận biết này tuy họ rất muốn làm được chuyện đó. Đã có lúc nhân loại có nhận biết cao hơn về nhu cầu này, và điều này đã khai mở điều kiện cho phép các chân sư thăng thiên bước ra và công khai tiết lộ sự hỗ trợ của mình và do đó bắt đầu trao truyền giáo lý về con đường khai ngộ.

7.6. Những giới hạn của các sứ giả được bảo trợ

Con có thể nói là một khi các thày có một vị sứ giả được bảo trợ thì chắc hẳn các thày có thể nói bất cứ điều mình muốn qua vị sứ giả đó. Điều này vừa đúng vừa không đúng, vì tuy nhiều người trong các đợt truyền giáo trước không muốn nhìn nhận, các thày có bị giới hạn trong những gì có thể trao truyền qua một vị sứ giả được bảo trợ. Có hai giới hạn. Giới hạn thứ nhất là trình độ tâm thức của vị sứ giả quy định giáo lý trao truyền xuyên qua tâm vị sứ giả đó có thể cao đến chừng nào. Nói cách khác, nếu vị sứ giả chưa đạt được một số khai ngộ, thì tâm của vị ấy rất khó nhận được các khuôn đúc về các khai ngộ cao hơn và chuyển chúng thành ngôn từ.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tiến trình không thích nghi, vì con yêu dấu, có lợi ích gì trao truyền một giáo lý cao đến độ không ai đang đầu thai có thể hiểu thấu được? Nói cách khác, các thày luôn luôn nhìn một sứ giả được bảo trợ và cân nhắc: “Có đủ số người có khả năng tiếp thu tầng giáo lý này chăng?” Nếu không có đủ thì các thày sẽ không trao truyền giáo lý đó vào lúc đó. Lẽ tất nhiên, đó là lý do vì sao các thày đã trao cho các con khái niệm tiết lộ tuần tự.

Một chuyện trớ trêu là trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, đã có những người tin rằng tổ chức của họ và có lẽ nhiều tổ chức trước đó, đã thuộc vào tiến trình tiết lộ tuần tự được các thày bảo trợ, nhưng kỳ lạ thay, tiến trình này ngưng lại khi tổ chức của họ chấm dứt. Khi tổ chức của họ không còn một vị sứ giả thì tiến trình tiết lộ tuần tự vì lý do nào đó chấm dứt. Đây là một điều trớ trêu to lớn, một điều trớ trêu to lớn mà ta cần suy ngẫm. Thày biết là những đệ tử bị vướng mắc trong điểm trớ trêu này có lẽ sẽ không suy ngẫm điều đó, nhưng sự việc này cần được nói ra và phóng chiếu vào tâm thức tập thể.

Điều quan trọng cho tất cả các con đã mở tâm đón nhận, là tiết lộ tuần tự là một tiến trình liên tục mà các thày không dự kiến sẽ chấm dứt trong thời đại Bảo bình. Sẽ có tiết lộ tuần tự liên tục, có thể sẽ có một vài gián đoạn vì một số lý do, nhưng sẽ có tiết lộ tuần tự trong suốt 2000 năm tới của thời Bảo bình. Do đó, trong thời Bảo bình, nghĩ rằng có một giáo lý tối hậu, tuyệt đối hay chung cuộc là chuyện hão huyền. Đó là một giáo lý làm viên gạch dẫn lối trong tiến trình tiết lộ tuần tự trải dài suốt thời Bảo bình. Tiến trình này sẽ trải bày chính xác ra sao tùy thuộc cách con người đón nhận giáo lý, và cũng tùy thuộc Saint Germain ấn định giáo lý nào được trao truyền vì Saint Germain là vị lãnh đạo chính của thời Bảo bình.

7.7. Con đường dẫn tới quả vị Ki-tô không máy móc

Trở lại ý ban đầu của thày, có thể nào các thày, ngay cả vào thời nay khi các thày có một sứ giả được bảo trợ, trao truyền một con đường khai ngộ, một giáo lý có hệ thống phác họa những thực hành, khai ngộ và bước tiến đầy đủ đến độ bất cứ ai chân thành theo đuổi và thực hành sẽ chắc chắn đạt được tâm thức Ki-tô? Ngay cả trong trường hợp không có nhiễu sóng hay giới hạn từ tâm thức tập thể, ngay cả nếu các thày có các điều kiện có thể gọi là “lý tưởng” (tuy các điều kiện lý tưởng này thật sự vô nghĩa và không thể quy định), thì các thày cũng không thể vạch ra một con đường tu có thể bảo đảm kết quả. Lý do, con yêu dấu, là vì con đường quả vị Ki-tô không máy móc, không tự động. Có thể có văn bản tự động, nhưng không có quả vị Ki-tô tự động.

Con yêu dấu, ngay từ khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ thì sa nhân đã tìm cách tha hóa nó. Họ đã làm được chuyện này phần lớn nhờ những gì họ đã tạo ra trong thời Song ngư. Nếu con nhìn vào những gì sa nhân đã làm khi giáo hội Công giáo được thành lập, thì con thấy là họ chối bỏ con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, nhưng họ cũng biết là họ cần cho con người cái gì đó để thay thế. Nói cách khác, họ biết là họ không thể khiến mọi người chối bỏ Thượng đế hay chối bỏ là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ đã tìm cách làm chuyện này, như thày sẽ giải thích ở phần sau, nhưng điều họ bắt đầu với giáo hội Công giáo là họ nhận ra rằng: “Có một số người tin vào một hình thức nào đó của Thượng đế, cõi tâm linh và đời sống sau cuộc sống trần thế. Chúng ta không thể phá hủy những niềm tin này trong ngắn hạn, do đó chúng ta phải cho họ cái gì khác.” Điều sa nhân đã cho con người (chính yếu) là một con đường cứu rỗi máy móc, tự động.

Cơ đốc giáo là gì? Nó là hứa hẹn con được cứu rỗi một cách bảo đảm, tự động, nếu con tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài do giáo hội vỏ ngoài đặt ra. Con thấy chăng, họ bỏ đi con đường nội tâm chân thật dẫn tới quả vị Ki-tô, và thay vào đó họ cho con người một cứu rỗi vỏ ngoài, máy móc, tự động. Chuyện gì đã xảy ra khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ? Nhiều người đã diễn giải theo những gì họ được lập trình để nghĩ trong thời Song ngư, là nếu họ theo con đường khai ngộ đó một cách nghiêm túc, thì họ sẽ bảo đảm đạt được kết quả. Thí dụ, ngày hôm nay có những người trong hội Freemasons tin rằng nếu họ theo đủ 33 bước do tổ chức ấn định thì họ sẽ đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Con thấy chăng, con yêu dấu, sự thực là tuy một con đường tu có mục đích dẫn con tới một tầng tâm thức cao hơn, nhưng thi hành các bước khai ngộ vỏ ngoài không đồng nghĩa với đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Con yêu dấu, con hãy lắng nghe thật, thật kỹ những gì thày đang nói, vì thày đang trao cho các con chìa khóa cơ yếu để các con hiểu thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Con không thể quy định Ki-tô Hằng sống phải cư xử hay không được cư xử như thế nào. Con không thể chế ra một định nghĩa nói rằng: “Ki-tô Hằng sống như thế này, đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống làm, và đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống không làm.”

Lẽ tất nhiên, con có thể định một số điều. Ki-tô Hằng sống sẽ không đi bắn giết người khác, nếu ta muốn nói một cách quá đáng. Có một số chuyện mà Ki-tô Hằng sống sẽ không làm vì Ki-tô Hằng sống không hành động do lòng ích kỷ, sợ hãi hay để chứng minh bất cứ điều gì. Nhưng con không thể chế ra một định nghĩa là Ki-tô Hằng sống phải hành động chính xác ra sao. Đó là lý do vì sao con không thể vạch ra một con đường tu đưa con tới quả vị Ki-tô một cách máy móc, tự động.

Trở lại khái niệm khoảng cách mà thày đã nêu lên, điều thày muốn nói ở đây là: Tại sao Giê-su đã không viết ra giáo lý? Bởi vì nếu Giê-su viết ra giáo lý của thày, thì con người sẽ dùng quyển kinh đó để định ra một con đường vỏ ngoài, máy móc, tự động dẫn tới quả vị Ki-tô. Nói cách khác, họ sẽ nghĩ là họ có thể dùng giáo lý đó (được mệnh danh là giáo lý chính thức của Giê-su) để định ra một con đường máy móc. Sa nhân thể nào cũng đã làm như vậy ngay từ đầu, vì có nhiều người, đặc biệt vào thời đó, chấp nhận chuyện này. Thí dụ, người Do thái chấp nhận ý niệm là muốn được cứu rỗi thì con phải rửa sạch tội lỗi, và con làm việc này bằng cách dùng máu của các con vật tế thần. Ấy, còn gì máy móc hơn thế!

Con thấy là ngay thời nay, người Do thái vẫn theo một số quy luật hành xử vỏ ngoài. Con thấy là con người luôn luôn có khuynh hướng tìm một con đường tu máy móc, và tại sao vậy? Vì họ không muốn làm điều mà Giê-su đã dạy họ: Hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình thay vì nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em.

7.8. Hãy ngưng phóng chiếu vấn đề ra bên ngoài mình

Đâu là cách khác để mô tả khai ngộ cốt yếu của thời Song ngư? Đó là câu nói con người cần ngưng nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em và thay vào đó bắt đầu nhìn vào cái đà trong mắt mình. Nói cách khác, con người cần ngưng phóng chiếu là vấn đề ở ngoài kia, và nguyên do đau khổ của họ là điều kiện bên ngoài. Thay vào đó, họ cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ, nhìn vào phản ứng của họ, nhận ra là các phản ứng đó phát xuất từ một cấu trúc nào đó trong tâm lý của họ, và mạnh dạn tiếp tục công việc quán sát nội tâm, một cách hoàn toàn chân thành, cho đến khi họ thấy điều đang giới hạn họ và do đó có thể buông bỏ nó.

Có những người đã làm được chuyện này trong thời Song ngư. Một số đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo và đã học các kinh sách đầy thiếu sót về Giê-su nhưng tuy thế vẫn hiểu được nhu cầu nhìn vào chính mình, nhìn vào tâm thức của mình. Đâu là thay đổi cốt yếu, quyết định cần xảy ra để đạt được các khai ngộ của thời Song ngư? Đó là con phải ngưng phóng chiếu ra ngoài. Con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và đi vào bên trong.

Giê-su đã đạt quả vị Ki-tô như thế nào? À, điều này tất nhiên không được mô tả trong kinh sách, nhưng Giê-su đã trải qua một tiến trình. Nếu con đọc kỹ thì con có thể thấy một vài gợi ý, tỷ dụ như khi ở bữa tiệc cưới ở Cana, Mẹ Mary đã phải đốc thúc để Giê-su bước ra và bắt đầu sứ vụ công chúng của thày. Con có thể thấy là Giê-su đã rút lui vào nơi hoang vắng trong 40 ngày, và đó là một giai đoạn tự quán sát cao độ. Tất nhiên con cũng biết, từ các giáo lý mà các thày đã trao truyền, là Giê-su đã du hành về phương đông và đã trải qua ở các nơi đó một số hình thức khai ngộ, đã theo một con đường tu. Điều đầu tiên mà Giê-su đã làm (và điều này Giê-su khó diễn tả vào thời đó vì con người không có hiểu biết về tâm lý), là quan sát chính mình, các phản ứng của mình, liên tục nhìn vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nhận ra các giới hạn.

Con yêu dấu, thày có nói là các thày không thể vạch ra một giáo lý bảo đảm kết quả, và sẽ luôn luôn có một khoảng cách. Khoảng cách đó là gì? Đó là: hoặc con người sẽ tiếp cận giáo lý một cách máy móc và muốn theo nó như một con đường vỏ ngoài, hoặc họ sẽ bước lên một mức cao hơn, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và dùng giáo lý để quan sát chính mình và các phản ứng của mình. Một vị thày có thể nào ép buộc đệ tử thực hành tự quán sát chăng? Không, không thể được. Một vị thày tâm linh, và đặc biệt các chân sư thăng thiên, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Các thày không thể và không muốn ép buộc đệ tử. Các thày có thể trao truyền giáo lý, các thày có thể gợi ý. Nếu con xem lại các đợt truyền giáo trước thì con sẽ tìm thấy các gợi ý này, nhưng nhiều người lúc đó đã không thấy được các gợi ý đó.

7.9. Khoảng cách trong tâm con người

Các thày hiểu rất rõ, con yêu dấu, là khi con nhìn lại tổ chức Summit Lighthouse, phong trào TA LÀ (I AM Movement), hội Thông thiên học (Theosophy) và các tổ chức khác mà các thày đã bảo trợ hay đã góp tay vào (và có nhiều tổ chức khác), thì các thày hiểu rất rõ là có một khoảng cách trong tâm các người đệ tử. Họ mong muốn đón nhận giáo lý. Họ mong muốn tìm hiểu giáo lý. Họ mong muốn thực tập những thực tập mà các thày trao truyền. Một số rất hăng hái và trở nên rất nhiệt thành, rất triệt để trong việc thực hành. Tuy nhiên, đọc cầu thỉnh ngọn lửa tím trong mười tiếng đồng hồ làm sao có thể giúp con thực tập tự quán sát, nếu con nghĩ tất cả những gì con cần là thực tập vỏ ngoài?

Nói cách khác, con có thể lấy giáo lý, làm những thực tập mà các thày đã trao truyền nhưng vẫn phóng chiếu ra bên ngoài, vẫn nghĩ con đường tu là con đường vỏ ngoài, thậm chí còn xây dựng trong tâm niềm tin rằng: “Tôi thật sự không cần xem xét chính mình. Tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ ngọn lửa tím.” Hoặc con cũng có thể dần dần xây dựng một niềm tin còn nguy hại hơn nữa, là điều mà nhiều đệ tử Summit Lighthouse đã làm.

Con thấy chăng, con yêu dấu, là con gặp một giáo lý – mà thày thẳng thắn nhìn nhận là các thày đã phần nào chế dầu vào lửa. Giê-su trước đây đã đưa ra hình ảnh là các thày giống như những người bán xe cũ dùng chiến thuật bán hàng gọi là “nhử hàng thấp, mời hàng cao”.  Các thày phải trao truyền một giáo lý vỏ ngoài hấp dẫn đủ để con người có thể chấp nhận và xử lý, và là điều họ cần ở trình độ tâm thức hiện tại của họ. Sau đó, các thày phải hy vọng là một khi họ đã đến với giáo lý, thì họ sẽ sẵn sàng bước lên cao hơn tầng tâm thức đó và nhận lãnh một hiểu biết sâu sắc hơn của giáo lý.

7.10. Mạn đà la của thời Song ngư

Con người cần gì vào lúc đó? À, đây là điểm con cần xem xét những người thuộc vào mạn đà la nguyên thủy ở đầu thời Song ngư. Những dòng sống đó tất nhiên chưa biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng họ có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là một tiềm năng – họ chưa đạt được quả vị Ki-tô. Trong suốt thời Song ngư, các dòng sống này đã đầu thai, đa số hầu như liên tục, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Vì những người này đã đạt một trình độ nào đó ở đầu thời Song ngư, nên mỗi lần đầu thai họ đều có cảm nhận họ phải làm điều gì, họ phải thành tựu điều gì, họ phải tìm ra điều gì. Họ cần tìm ra con đường tu, họ cần phải tiến triển trên con đường đó. Nói chung thì họ đầu thai với cảm nhận đó. Trong số đó, những người đã tìm ra con đường nội tâm thì không có cảm tưởng thiếu vắng to lớn.

Những người này theo con đường nội tâm, nhưng có một số khác không thể (hay đúng ra thày phải nói là họ không muốn) khám phá con đường nội tâm, áp dụng con đường nội tâm, nhìn nhận con đường nội tâm. Qua những kiếp đầu thai trong thời Song ngư, họ càng ngày càng có cảm giác bực bội vì họ biết họ chưa đạt được những gì họ cần đạt. Đồng thời, con yêu dấu, họ bắt đầu nhận ra là họ quả thực có một tâm thức cao hơn nhiều người chung quanh họ. Một số trong họ nhận ra điều này ngay từ lúc đầu và tiếp tục mang theo cảm nhận này.

Cảm giác bực bội vì có hiểu biết nội tại là mình chưa đạt được những tiến bộ mà mình cần đạt, phối hợp với hiểu biết hay quan sát là mình vẫn tiến bộ hơn những người chung quanh, tạo ra nơi những người đệ tử đó một cảm nhận, một nhu cầu về hai chuyện: thứ nhất là họ cần được chứng thực là họ có trình độ cao hơn những người khác. Thứ hai, họ cần cảm thấy họ đang làm chuyện gì quan trọng trên hành tinh này. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không chỉ trích ai. Thày chỉ đang giản dị mô tả cơ chế trong tâm các đệ tử đó.

Khi các thày thành lập tổ chức Summit Lighthouse, các thày biết các đệ tử đó có những nhu cầu đó, và các thày đã trao truyền một số giáo lý đáp ứng những nhu cầu đó. Đó là lý do vì sao đã có một số lời tuyên bố khiến các đệ tử tin rằng sẽ có một tiết lộ tuyệt đối, chung cuộc, và đó sẽ là giáo lý chính cho 2000 năm sau đó, và điều này có nghĩa là họ chắc chắn là những đệ tử rất cao cấp vì họ đã nhận diện được giáo lý.

Một số đệ tử trong đó quả thật có trình độ cao hơn đa số dân chúng trên trái đất, nhưng thực sự thì đây không phải là một chuẩn mực so sánh ở mức cao và do đó không phải là lý do để có niềm kiêu hãnh tâm linh. Lẽ tất nhiên, niềm kiêu hãnh tâm linh không nề hà chuẩn mực so sánh ở tầng cấp nào, vì điều quan trọng cho nó chỉ là: “Tôi có trình độ cao hơn người khác chăng?” Con có thể thấy điều này ở khắp nơi trên thế giới: con người tìm ra đủ cách để cảm thấy hơn người khác dựa trên một số tiêu chuẩn nhân tạo.

7.11. Nhu cầu làm một việc gì quan trọng

Nhu cầu thứ hai của các đệ tử đó là cảm giác họ đang làm việc gì quan trọng. Các thày đáp ứng nhu cầu này bằng các bài chú và bằng cách hướng đệ tử đọc chú giải quyết những vấn nạn thế giới. Tới đây, các con hãy thận trọng: các bài chú có hiệu quả, không thể chối cãi điều này được. Không thể chối cãi là các đệ tử Summit Lighthouse đã có tầm ảnh hưởng quan trọng cơ yếu trên hành tinh và sự tiến triển của hành tinh. Thày hoàn toàn không có ý giảm danh dự hay hạ thấp tầm quan trọng của công việc đã được hoàn thành.

Như vậy con cũng có thể hiểu là thành quả này đã nuôi dưỡng (nếu họ đọc được hay nghe được những lời này) cảm giác là họ rất quan trọng. Bất cứ những gì các thày nói thì con người luôn luôn có thể diễn giải lệch hướng, đây là một rủi ro mà các thày phải chấp nhận. Tuy nhiên, có nhiều người không thuộc mạn đà la nguyên thủy đã tới Summit Lighthouse và đọc cầu chú, và đây là một phụng sự tuyệt vời. Nhưng với những người thuộc mạn đà la nguyên thủy thì có một số đã tiếp thu được giáo lý và thực tập của Summit Lighthouse và đã nhảy vọt, thu hẹp khoảng cách và bước vào con đường nội tâm. Một số đã làm được việc này nhưng một số khác không làm được.

Những người này đã dùng giáo lý của Summit Lighthouse để củng cố điều mà Giê-su và Quan âm đã giảng: Xuất phát từ ngã gốc, con đã tạo ra một cái ngã khác muốn cảm thấy, không những là nó hiểu cách vận hành của vũ trụ, nhưng nó được an toàn và an ninh. Đã có đệ tử ở Summit Lighthouse đã dùng giáo lý của các thày để củng cố cái ngã đó.  

Tuy nhiên, những đệ tử đó cũng giáp mặt một khai ngộ mà đa số không nhận ra. Con thấy chăng, con yêu dấu, trong Summit Lighthouse có ý tưởng là con có thể trượt một khai ngộ và điều này có hậu quả rất tai hại – ý tưởng này thực ra có giá trị phần nào. Thày không nói là các con, hiện đang trong một đợt truyền giáo khác, cần quá chú tâm vào việc này, nhưng con được lợi ích nếu con hiểu vấn đề này.

Như thày có nói, thực tế là có một mạn đà la gồm một số dòng sống ở đầu thời Song ngư có tiềm năng đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm thức tập thể, nhưng với điều kiện các dòng sống đó đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nếu họ không đạt được các khai ngộ này, thì họ sẽ gặp một số vấn đề ở cuối thời Song ngư.

Con cần nhận ra là khi các thày thành lập một tổ chức nhằm giúp các đệ tử chưa đạt được các khai ngộ của một thời đại nào đó, thì các thày phải chấp nhận một số rủi ro. Rủi ro đó là các thày đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Con hiểu rằng trong 2000 năm thời Song ngư, các đệ tử đó đã có thời gian. Nếu trong một kiếp đầu thai con không đạt được khai ngộ, thì con có cơ hội đạt được trong kiếp tới. Nhưng nay con tới đoạn cuối của thời Song ngư. Lúc đó, con có một nhóm đệ tử đang sống kiếp cuối của họ trong thời Song ngư. Nếu họ không đạt được khai ngộ trong kiếp sống đó thì họ khó có thể đầu thai trở lại trong thời Bảo bình. Đây không phải là trường hợp của tất cả mọi người trên trái đất nhưng đó là trường hợp của các thành viên của mạn đà la nguyên thủy. Họ đã có cơ hội biểu hiện quả vị Ki-tô trong thời Song ngư nhưng nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó có thể đầu thai vào thời Bảo bình.

Đây không phải là một tai họa, vì nếu họ không đầu thai được trên trái đất thì chắc chắn có một số hành tinh khác có thể đón nhận họ. Nhưng điều tốt hơn, vì một số lý do, là các đệ tử này ít nhất tới được điểm họ quân bình đủ nghiệp quả để không cần đầu thai trở lại. 

Các thày đã trao truyền một số khuôn đúc và rải truyền Ánh sáng xuyên qua tổ chức Summit Lighthouse với mục đích giúp các đệ tử đó quán triệt khai ngộ của thời Song ngư. Nói cách khác, để giúp họ thu hẹp khoảng cách, bước vào con đường nội tâm và qua đó đạt được khai ngộ của thời Song ngư. Thày sẽ nêu lên một cái nhìn vi tế hơn về việc này.

7.12. Tiềm năng cao và thấp của thời Song ngư

Tiềm năng cao nhất của thời Song ngư là con biểu hiện quả vị Ki-tô, nhưng bao giờ cũng có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Tiềm năng thấp nhất là con vững chắc bước vào con đường nội tâm. Con có thể nói là với các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy, giá chót là vào cuối thời Song ngư họ đã bước vào con đường nội tâm. Nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó đầu thai vào thời Bảo bình. Đó là điều các thày muốn làm: giúp họ tới được điểm đó.

Tổ chức Summit Lighthouse đưa ra một số khai ngộ cốt yếu mà ta có thể nói đã đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Hoặc các đệ tử đó đạt được khai ngộ hoặc họ không đạt được, không có gì ở giữa. Nếu họ không bước vào con đường nội tâm, thì họ trượt. Nếu họ không biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng bước vào con đường nội tâm, thì họ có thể tiếp tục tiến triển. Họ sẽ không hoàn thành được tiềm năng cao nhất của họ, nhưng họ có thể tiến lên. Ngược lại, nếu họ không đạt được khai ngộ của chu kỳ Song ngư thì họ sẽ không thể đầu thai trở lại trên trái đất, ít nhất là trong một khoảng thời gian.

Các thày đã quan sát được gì nơi các đệ tử? Ấy, nhiều đệ tử đã đạt được các khai ngộ và đã ít nhất bước vào con đường nội tâm. Điều này có nghĩa là mục tiêu của Summit Lighthouse đã thật sự được hoàn thành. Các thày đã thành công trong việc giúp một số lượng tới hạn đệ tử thuộc mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ thấp nhất của thời Song ngư và bước vào con đường nội tâm. Với kết quả này, các thày có thể nói là mục tiêu đã được hoàn thành nhưng tiềm năng cao nhất không được hoàn thành vì đã không có nhiều đệ tử đạt được quả vị Ki-tô hay dám biểu hiện quả vị Ki-tô.

Điều đáng chú ý mà thày sẽ trình bày ở đây, là tại sao chuyện này đã không xảy ra. Thày đã trao cho các con chìa khóa để tìm ra giải đáp. Đó là vì tại Summit Lighthouse vẫn còn quá nhiều đệ tử coi quả vị Ki-tô như một con đường vỏ ngoài, như một con đường máy móc: nếu con đọc đủ số bài chú, thì con không thực sự cần xem xét tâm lý của mình.

Các thày có trao truyền giáo lý về nhu cầu giải quyết tâm lý, tuy các thày không thể giảng ở trình độ mà các thày đang giảng hiện nay. Các giáo lý đã được trao truyền lúc đó, cũng như là các dụng cụ tâm linh. Các thày có trao truyền giáo lý, có khi ẩn dụ, về con đường nội tâm. Các đệ tử có thể tìm ra những điều họ cần nếu họ chịu tìm, nhưng có một nhóm đệ tử không chịu tìm. Điều này bắt nguồn từ điều thày đã giảng, là các đệ tử thời Song ngư này đã xây dựng cảm giác bực bội kèm theo cảm giác tự cao.

7.13. Phán xét người khác

Khi cảm giác bực bội nội tâm (do không biết mình đang ở đâu hay biết mình đang không ở nơi mình đáng lẽ phải ở) phối hợp với ước muốn được cao cấp hơn người khác khiến các đệ tử đó có một trạng thái tâm đặc biệt. Đó chính thực là trạng thái tâm của các thày thông giáo (scribe) và pha-ri-si (pharisee) thời Giê-su, mà Giê-su đã nhiều lần thách thức.

Đây là trạng thái tâm rất phán xét người khác dựa trên một cấu trúc vỏ ngoài gồm một số quy luật và luật lệ, thậm chí gồm cả khái niệm con đường khai ngộ, các khai ngộ cốt yếu mà đệ tử cần đạt được, và hình ảnh về cách một đệ tử chân sư thăng thiên phải đi đứng, hành xử và hành động. Các người đệ tử đó muốn tin rằng, khi họ tuân theo các quy luật vỏ ngoài và nghi thức một cách sùng kính, ta cũng có thể nói là một cách cuồng tín, hay như đang bị bệnh loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive-compulsive) (là một câu nói thời thượng của thời nay), thì họ sẽ tự động đạt được tiến bộ.

Giờ đây, con có một nhóm đệ tử gia nhập tổ chức Summit Lighthouse, nhiều người ở tuổi tương đối trẻ. Họ quyết định trở thành nhân viên và làm việc cho tổ chức, họ có thể là nhân viên trong nhiều năm, chăm chỉ làm theo những gì họ được dạy, và thực hành các nghi thức vỏ ngoài. Họ dần dần xây dựng ý tưởng là vì họ đã làm tất cả các công việc vỏ ngoài đó, thì họ phải đạt được một cấp bậc uy quyền nào đó. Do đó, họ phải có khả năng phán xét người khác và có uy quyền để nói lên sự phán xét đó.

7.14. Đệ tử mà El Morya mất

Con yêu dấu, thày không thể nói hay làm gì được để giúp các đệ tử đó. Như một chân sư thăng thiên đã bỏ vào rất nhiều thành quả tâm linh của mình vào việc bảo trợ tổ chức đó, thày phải nhìn nhận một cách thành thực và thẳng thắn là thày đã mất các đệ tử đó. Mặc dù thày đã nỗ lực bảo trợ tổ chức và trao truyền giáo lý, thày đã mất các đệ tử đó. Thày không thể giúp họ. Thày không nói điều này với lòng hối tiếc, nhưng nói lên điều này trong cõi vật lý là một chuyện quan trọng vì một số lý do. Thày đơn giản chấp nhận sự trải bày của luật tự quyết. Thày chấp nhận là thày, như vị chân sư bảo trợ tổ chức, đã không giúp được các đệ tử đó. Thày không nhìn vào chính mình và nói là thày đã thất bại theo nghĩa thày đã không đủ khả năng hay thày đã có thể làm một cách nào khác, thày chỉ giản dị nêu lên sự kiện, thày chỉ nhận xét như vậy. Thày không có gì để nói với hay nói về các đệ tử này – họ đằng nào cũng không muốn nghe. Thày muốn mô tả sự việc này cho những ai mở tâm đón nhận vì chuyện quan trọng là con xem xét việc này. Con có thể nhìn vào thời Song ngư và thấy biết bao tổ chức tôn giáo hay tâm linh, cũng như là các tổ chức chính trị, có mô thức phán xét người khác dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài được quy định trên trái đất. Như các thày đã nhiều lần thuyết giảng trong nhiều bài về tâm thức nhị nguyên và sa nhân, các tiêu chuẩn này tất nhiên do sa nhân quy định.

7.15. Bước vào con đường nội tâm

Điểm quan trọng mà con cần rút tỉa là con đường quả vị Ki-tô không máy móc. Điều quan trọng không phải là học một số giáo lý, thực hành một số thực tập, đạt được một số khai ngộ – điều quan trọng là bước vào con đường nội tâm.  Một khi con đã bước vào con đường nội tâm, thì con vượt lên trên ý niệm có thể trượt thử thách. Nếu con quan sát phản ứng của mình, thì con không thể trượt thử thách. Con có thể chưa thấy một số chuyện, nhưng đó là chuyện con chưa thấy. Nếu con sẵn lòng quan sát chính mình thì con đã đi trên con đường nội tâm, và vấn đề chỉ là con tiến triển bao nhiêu và đi nhanh chừng nào. Có khi con tiến triển nhanh hơn và có lúc khác con cần thì giờ để giải quyết một vấn đề.

Chắc chắn là với giáo lý mà các con đã nhận được về ngã gốc thì con có tiềm năng tiến triển rất nhanh và tới điểm con không những đi vào con đường nội tâm mà còn được giải thoát khỏi cái ngã phản ứng. Lẽ tất nhiên, đây là điều kiện chính yếu để đi vào con đường nội tâm dẫn tới quả vị Ki-tô hay để là Ki-tô Hằng sống, tức là con không phản ứng lại những chuyện xảy ra trên thế gian.

Con có thể nhìn vào tất cả các tổ chức đó và thấy khuynh hướng phán xét, khuynh hướng phán xét người khác. Con hãy nhìn vào khu vực này của thế giới và thấy rằng trong thời chế độ Sô viết, nhiều người dân Liên bang Sô viết tin rằng, vì họ là công dân Liên bang Sô viết, nên họ hơn những người bên ngoài Liên bang Sô viết. Họ rất khinh chê xã hội Tây phương mà họ coi là đồi trụy, hay bất cứ điều gì khác. Con hãy nhìn xem có biết bao nhiêu người ngày nay có thái độ phán xét. Nhiều người dân Hoa kỳ tin rằng Hoa kỳ là quốc gia cao quý nhất thế giới và nhìn các nước khác với con mắt đầy phán xét, và quên nhìn cái đà trong con mắt của tâm hồn dân tộc Mỹ. Con có thể thấy rất, rất nhiều thí dụ tương tự trên khắp thế giới. Con hãy nhìn thời đầu thế kỷ trước, ý niệm hơn người của người dân các nước Đức, Pháp, Anh đã đưa tới Thế chiến Thứ nhất và sau đó Thế chiến Thứ hai. Tinh thần này đã có thể đưa tới Thế chiến Thứ ba nếu các thày không thành công trong việc đưa ra một số biện pháp vá víu, kể cả số lượng lớn các bài chú đã được đọc tại Summit Lighthouse.

7.16. Cái ngã đối phó với việc bị phán xét

Những người trong các con đang hay đã từng biết và tham gia vào Summit Lighthouse, và sẵn sàng mở tâm đón nhận bài giảng này của thày, thì có thể dùng bài này như một phương tiện để làm hòa với kinh nghiệm của mình với tổ chức đó. Một số trong các con có vết thương tâm lý từ thời sinh hoạt trong Summit Lighthouse, trước nhất là vì đã giáp mặt một số người có tâm rất phán xét. Như thày có từng nói hồi thời Summit Lighthouse, có một số đệ tử mà các thày không dám đưa vào tổ chức đó. Lý do chính yếu là vì đây là những linh hồn ngây thơ và các thày không muốn họ giáp mặt tâm thức rất phán xét chi phối tổ chức đó và vẫn còn ảnh hưởng nó ngày nay.

Sau đó, con yêu dấu, con có thể dùng bài giảng này để nhận ra, như vị sứ giả này đã nhận ra trước khi nhận bài truyền đọc này, là để đối phó với tâm thức đó (không những trong Summit Lighthouse nhưng từ sa nhân nói chung và từ các tổ chức mà con đã tham gia trong thời Song ngư, tỷ dụ như Giáo hội Công giáo) con đã tạo ra một cái ngã để đối phó với sự phán xét của người khác, sự lên án của người khác. Chuyện rất quan trọng cho con là con tới điểm nhận diện cái ngã đó, con thấy là nó có trong tâm thức của con, và ở mỗi người nó mỗi khác.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Khi một người phán xét tôi, kết tội tôi, và tố cáo là tôi đã làm điều gì sai, thì tôi đối phó với chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy gì? Cảm xúc của tôi là gì? Niềm tin đằng sau là gì?” Sau đó, con có thể dõi lên thể bản sắc và thấy là nó phát xuất từ ngã gốc như thế nào, và con phản ứng ra sao khi sa nhân chê bai con. Điều này sẽ giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó, và thấy là bất kể vấn đề nào mà ngã đó nêu lên là con cần giải quyết, hay bất kể điều kiện nào mà con cần hội đủ để tránh bị phán xét, chúng đều không thật, đều là ảo tưởng. Ngay cả khi con hội đủ điều kiện, sa nhân sẽ vẫn tiếp tục kết tội con, họ sẽ luôn luôn kết tội con. Một khi con nhận ra điều này, con có thể đi một bước rất, rất quan trọng và không coi cá nhân mình là trọng điểm của con đường tu. Các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày muốn cho con một tầm nhìn khác về vấn đề này.

7.17. Không coi cá nhân mình là trọng điểm của đường tu

Con yêu dấu, con hãy xem xét trường hợp một avatar đã sống lâu năm trên một hành tinh tự nhiên nơi không có sa nhân. Con chưa bao giờ giáp mặt với sự kết tội đó, chưa bao giờ, trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con tới trái đất, và có thể là trong kiếp đầu thai đầu, con giáp mặt sự tấn công trực tiếp và mạnh mẽ của sự kết tội của sa nhân. Chuyện gì đã thực sự xảy ra trong tiến trình đó? Ấy, khi con ở trên hành tinh tự nhiên con ở trong trạng thái tâm mà các thày, khi so sánh với chuyện con trải nghiệm trên trái đất, có thể gọi là “không coi cá nhân mình là trọng tâm”.

Con không quá chú tâm vào chính mình, con chú tâm là một phần của tổng thể, đang làm việc cho tổng thể, đang làm việc để nâng cao tổng thể. Đây là trạng thái tâm tự nhiên trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con xuống trái đất với ý định làm việc cho tổng thể và nâng cao tổng thể. Con đã quen là khi con làm như vậy thì con nhận được một phản hồi tích cực. Ít ra thì con không bị chê bai khi làm vậy. Bỗng nhiên, con trải nghiệm là sa nhân tố cáo, tấn công, lên án, phán xét, chê bai con. Con bị một cú sốc và nghĩ: “Ồ, họ đang làm các chuyện này đối với tôi. Họ nói là tôi có điều gì sai trái. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm chuyện này. Vì sao họ lại nói là tôi có điều gì sai trái? Tôi tới đây với thiện ý tốt nhất. Tôi chỉ muốn tới đây để giúp tổng thể nhưng họ lại nó là tôi sai trái, tôi có điều gì sai trái?”

Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong đời, con phải đối mặt với câu hỏi này. Vì con là một dòng sống có thói quen nhìn vào chính mình và xem xét phản ứng của mình, nên con không quen kết tội và bị kết tội. Con xem xét chính mình, lẽ tự nhiên con xem xét chính mình và nói: “Nhưng, có thể nào họ có lý chăng? Tôi đã làm gì sai trái trên hành tinh này chăng?” Bỗng nhiên, con bị phóng vào mối nghi ngờ và con bị ép buộc phải phản ứng. Lúc đó con làm gì? Các thày có giảng là con tạo ra một cái ngã, đó là ngã gốc.

Đúng vậy, nhưng ngã gốc là gì? Nó là một ngã đặt trong tâm vào cá nhân mình. Bỗng nhiên, từ không đặt trọng tâm vào cá nhân mình trên hành tinh tự nhiên, con tới trái đất, con trải qua một chấn thương, và nay con nhìn cuộc đời của mình trên trái đất qua một ngã một cách rất cá nhân. Trên một hành tinh tự nhiên, ý niệm bản ngã của con rất bao la, nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên con bị dồn vào một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp coi mình là trung tâm của vũ trụ cá nhân của mình. Giống như là con nhìn mọi chuyện từ trung tâm điểm đó, con từ trung tâm điểm đó nhìn ra bên ngoài. Bỗng nhiên, mọi chuyện trở nên cá nhân trên hành tinh này. Bỗng nhiên, con nghĩ là có thể con đã thất bại, có thể con đã làm điều gì sai trái trên hành tinh này. Ngã gốc được tạo dựng chung quanh nỗi sợ thất bại, và đó là lý do vì sao con coi cá nhân mình là trọng tâm khi tiếp giáp mọi sự việc.

Các thày đã cố gắng giảng cho các con là hành tinh này là một hành tinh phi tự nhiên, nơi đây không có gì thường hằng, mọi chuyện như là kết quả của cuộc chơi trong bãi cát. Các thày đã trao truyền các giáo lý đó, nhưng các thày cũng biết các thày đối mặt với tình trạng mà các thày luôn luôn phải đối mặt, đó là khoảng cách. Khi con chưa nhìn ra và giải quyết ngã gốc, thì con không thể ngưng coi cá nhân mình là trọng tâm của cuộc đời mình trên trái đất. Con không thể nhìn vào cuộc đời trên trái đất và nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ cần xây một lâu đài cát khác, hay tôi sẽ chỉ phá lâu đài cát cũ và bãi cát sẽ trở về trạng thái tinh khôi của nó.” Cũng giống như dùng gậy đánh vào mặt nước. Con có đánh mạnh đến đâu, thì mặt nước sẽ vẫn trở về trạng thái tĩnh lặng.

Con yêu dấu, chúng ta đang bước vào thời Bảo bình. Con hãy giống như nước nếu con muốn đạt được các khai ngộ của thời Bảo bình. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi con nhìn vào ngã đó và xem xét cách con phản ứng lại sự phán xét, và sau đó cho ngã đó chết đi, thì bỗng nhiên cuộc đời không còn xoay quanh cá nhân con nữa. Không có lý do nào để phán xét chính mình vì con nhận ra là các thày không phán xét con. Các thày có thể nói là các thày không phán xét con, nhưng khi con còn cái ngã đó, thì con không thể thực sự hiểu thấu lời giảng của các thày. Chắc chắn là con không thể chấp nhận nó. Khi con đã giải thoát khỏi ngã đó, thì con có thể trải nghiệm điều Giê-su đã trao truyền ngày hôm qua: sự chấp nhận vô điều kiện mà các thày dành cho con.

7.18. Kẻ mạo danh El Morya do đệ tử tạo ra

Con yêu dấu, vì sao thày lại có ý đổi tên mình? Bởi vì trong Summit Lighthouse, các đệ tử đã tạo dựng hình ảnh El Morya như một người trọng kỷ luật khắt khe. Có một số đệ tử thực sự tin rằng họ đã đạt được tới trình độ khiến họ có thể, thậm chí có bổn phận, “rọi ánh sáng xanh” vào các đệ tử khác (như lời họ nói) bằng cách cho các đệ tử này biết El Morya sẽ nói gì về tự ngã, hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa, của họ. Họ dung dưỡng hình ảnh là thày là một người trọng kỷ luật khe khắt và đặt ra rất nhiều điều kiện mà các đệ tử phải hội đủ.

Hình ảnh này trở nên quá đậm nét nên thày quyết định là thày muốn làm hai chuyện. Hoặc thày lay động các đệ tử có hình ảnh này để họ có thể bắt đầu thoát khỏi hình ảnh đó. Hoặc thày thu hút đệ tử mới biết thày với một tên mới (Chân sư MORE) và do đó không cần phải đi vào khuôn đúc cũ vẫn còn đó. Điều thực sự xảy ra là các đệ tử tại Summit Lighthouse đã tạo ra một El Morya giả, một người mạo danh El Morya, như một người trọng kỷ luật đầy lòng phán xét. Họ vẫn còn duy trì kẻ mạo danh này cho tới ngày nay. Một số đệ tử tôn thờ kẻ mạo danh đó và nghĩ rằng đó là con người thật của thày tuy rằng thày đã nói là không phải vậy. Các người đó đã mất thày, và thày đã mất họ. Thày chấp nhận điều này. Thày biết là các đệ tử đó sẽ không chấp nhận điều này, vì nếu họ chấp nhận thì họ sẽ phải thay đổi. Họ thật sự sẽ phải nhìn vào chính họ, nhận ra là họ có lòng phán xét lớn, và họ hầu như không thể làm được chuyện này.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng tại sao các đệ tử đó hầu như không thể làm được chuyện đó? Chuyện này rất, rất đơn giản. Nếu con đã xây dựng một động lượng phán xét người khác vì họ đã làm lỗi lầm này hay lỗi lầm khác, thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn nhận là con sai khi phán xét người khác? Ấy, con chỉ có thể phán xử dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Con sẽ phải nhìn nhận là con đã sai. Nếu con nhìn nhận là con sai, thì con vẫn còn động lượng phán xét. Lúc đó, thay vì luôn luôn tìm cái giằm trong con mắt người anh em và phán xét họ, thì nay con đã nhìn nhận cái đà trong con mắt mình, thì con sẽ phải phán xét mình như con đã từng phán xét người khác, có thể là suốt 2000 năm qua hay còn nhiều hơn thế nữa. Những người đệ tử đó sẽ không thể chịu được gánh nặng tâm lý của sự lên án chính mình đó.

Mốt số ít người đã chuyển từ phán xét người khác sang phán xét chính mình, và họ hầu như bị loạn trí hay bị vấn đề tâm lý trầm trọng. Lẽ tất nhiên, thày không muốn bất cứ ai phải gánh chịu gánh nặng này. Nếu các đệ tử có thể đón nhận giáo lý mà các thày trao truyền, thì họ sẽ có thể thấy không phải họ đang phán xét người khác. Đó là một cái ngã tách biệt mà họ đã tạo ra, và họ đã tạo ra ngã tách biệt này khi sa nhân khiến họ phải chịu chấn thương nhập đời.

Do đó, nếu họ sẵn lòng đón nhận giáo lý và dùng các dụng cụ tâm linh, thì họ có thể tách mình ra khỏi cái ngã đó và nói: “Đúng rồi, tôi nhìn nhận là chuyện này đáng lẽ không được xảy ra, nhưng nó đã xảy ra, tuy nhiên thực sự không phải là tôi đã làm chuyện đó, mà là cái ngã tách biệt và bây giờ tôi biết tôi hơn ngã tách biệt đó. Do đó, tôi có thể tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: ‘Tôi cho bạn chết đi.’” Họ có thể nhận ra, nếu họ thực sự đón nhận các giáo lý này, là họ không cần bù đắp vì đã có tâm phán xét. Họ không cần thay đổi gì nơi vỏ ngoài hay chỉnh sửa điều gì hay giải quyết vấn đề nào. Họ chỉ cần nhận diện ra cái ngã và để nó chết đi. Tất nhiên, họ cũng cần đọc một số lượng bài chú để chuyển hóa năng lượng đã bị tha hóa xuyên qua ngã đó, nhưng đây là một chuyện mà họ rất có khả năng làm.

7.19. Tất cả đều có một lối thoát

Tất cả các đệ tử chân sư thăng thiên đều có một lối thoát nếu họ muốn được giải thoát. một lối thoát. Con có thể khắc phục mọi chuyện vì mọi chuyện mà con đã làm, mà con nghĩ đáng lẽ không nên như vậy, đều được làm xuyên qua một ngã tách biệt. Khi con cho ngã đó chết đi thì con được tái sinh, con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Con có thể vẫn còn một số ngã tách biệt khác, do đó con không nên có ảo tưởng là con đã sạch tự ngã, con đã hoàn toàn hay giác ngộ. Con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Mỗi lần con rũ bỏ một cái ngã thì con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Thày chỉ muốn như vậy, con yêu dấu. Tất cả các chân sư thăng thiên chỉ muốn thấy con như vậy, thấy con đi vào tiến trình tái sinh liên tục. 

7.20. Thu hẹp khoảng cách

Một lần nữa, và thày biết là thày đang thử thách sức chịu đựng của các con, thày trở lại khoảng cách! Các thày biết là ngay cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, nhiều người đã đón nhận giáo lý, đã thực hành các thực tập, nhưng họ vẫn cảm thấy có khoảng cách. Họ nhìn vào mục tiêu đạt quả vị Ki-tô và thấy nó ở trên kia, trong khi họ ở dưới này, có một khoảng cách giữa nơi họ đang là và nơi họ phải là, và họ không thấy làm sao thu hẹp khoảng cách.

Họ xem xét giáo lý và họ nghiên cứu giáo lý và nghĩ là phải có điều gì họ đã bỏ sót và không nhận ra đó là cái gì. Các thày nay đã trao cho các con các giáo lý về cách thu hẹp khoảng cách với ngã gốc, và các ngã tách biệt khác.

Điều mấu chốt là nhận ra là con không thể giải quyết bất cứ vấn đề nào mà ngã tách biệt phóng chiếu tới con – con chỉ có thể cho ngã đó chết đi. Đó là lý do vì sao các thày đã nói là con không thể bước vào con đường quả vị Ki-tô khi con còn tìm cách làm việc này xuyên qua một trong các ngã phản ứng đó. Con không thể là Ki-tô xuyên qua một ngã đang phản ứng lại sa nhân.

Một khi con đã khắc phục được ít nhất là một vài ngã đó, và con đã bớt coi cuộc đời xoay quanh cá nhân mình, thì con có thể bắt đầu là Ki-tô. Lúc đó, con không đi trên con đường Ki-tô để cảm thấy an toàn, hơn người, để giải quyết một vấn đề, để bù đắp một sai lầm mà con đã phạm, để được chứng thực hay công nhận. Con trở lại thuở con ở trên hành tinh tự nhiên và làm việc cho tổng thể, ít ra là như con thấy nó lúc này, và đó là chuyện con đã làm trên hành tinh tự nhiên. Con chưa giác ngộ khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa thăng thiên khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa ở trạng thái tâm thức cao nhất mà con có thể đạt được khi con ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con có tâm thái sống không xoay vần chung quanh cá nhân mình.

Ngôn từ đã tới giới hạn của chúng. Thày chỉ có thể cống hiến các con một cái gì vượt quá ngôn từ và đó là tình thương mà thày dành cho tất cả và mỗi người các con. Con yêu dấu, không có gì trên trái đất thật sự dành cho cá nhân con vì không có gì trên trái đất hướng về cái Ta Biết, là cái gì vượt quá hình tướng.

Có một số điều kiện, đặc tính, năng lượng, khuôn đúc liên quan tới cá nhân con. Sự chấp nhận vô điều kiện của Giê-su dành cho riêng cá nhân con. Tình thương của thày dành riêng cho cá nhân con, cái ta thật của con. Ngay cả cái “ta” mà con là trong trạng thái tâm thức hiện tại, thày thương yêu nó như nó là ngay lúc này, và mỗi ngày thày sẽ thương yêu con hơn nữa. Con chỉ có thể chấp nhận cái hơn nữa đó khi con mỗi ngày trở nên hơn nữa bằng cách buông bỏ các ngã đang là ít hơn.

Thày thương yêu con khi con còn các ngã đó nhưng con không thể trải nghiệm tình thương của thày xuyên qua cái ngã. Chỉ khi nào con cho ngã chết đi, thì con mới trải nghiệm là thày thương yêu con hơn nữa, thực sự không phải vì thày thương yêu con nhiều hơn nhưng vì con trải nghiệm tình thương của thày nhiều hơn. Tới đây thì đã quá đủ ngôn từ rồi, quá đủ ngôn từ rồi, con yêu dấu. Không có lượng ngôn từ nào có thể thu hẹp khoảng cách, chỉ có một sự chuyển đổi tâm mới có thể thu hẹp khoảng cách.

5 | Chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.

Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.

5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì

Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”

Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.

Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô

Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.

Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.

Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.

5.3. Con không thể hiểu Ki-tô

Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.

Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.

5.4. So sánh hiểu và nắm bắt

Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.

Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.

Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?

5.5. Ki-tô và quyền tự quyết

Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.

Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.

Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.

Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.

Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.

Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”

Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả

Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.

Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.

Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.

5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô

Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó. 

Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.

5.8. Làm hòa với quyền tự quyết

Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.

Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm. 

Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.

Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.

5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô

Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.

Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.

Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.

5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su

Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.

Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.

Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người

Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.

Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.

Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.

5.12. Đình chỉ phán xét

Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô. 

Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?

Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.

Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.

Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.

Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó.  Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.

Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”

Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.

3 | Khắc phục khía cạnh kiểm soát của ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, hay như đôi khi ta nói, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Tại sao đôi khi thày nói Giê-su và đôi khi thày nói Giê-su Ki-tô? Không có lý do nào cả, các con yêu dấu, ngoài chuyện thày cảm thấy muốn biểu lộ mình ra sao vào lúc đó.

Vì sao một số các con lại đặt chú tâm và tìm hiểu tại sao đôi khi thày làm điều này và đôi khi thày nói điều kia? Đó là, vì con đã bị cú sốc khi gặp gỡ sa nhân, con đã tạo ra một cái ngã trong thể bản sắc muốn cảm thấy nó có sự hiểu biết nào đó về thế giới và thế giới vận hành ra sao để nó có thể cảm thấy an toàn.

3.1. Bao nhiêu người đã biểu lộ quả vị Ki-tô?

Các con yêu dấu, câu hỏi mà thày muốn nêu ra với các con trong bài giảng này là như sau. Đã từ nhiều thập niên nay, các thày là chân sư thăng thiên đã trao truyền giáo lý qua trung gian một số vị sứ giả được bảo trợ và có khả năng nhận truyền đọc trực tiếp từ các thày. Ngay từ lúc khởi đầu của đợt truyền giáo của Lời Hằng sống này, các thày đã trao truyền giáo lý là thày không phải là một thần tượng và là một ngoại lệ như đạo Cơ đốc chính mạch đã mô tả thày. Trái lại, thày đáng lẽ phải là tấm gương cho thấy tiềm năng mà tất cả mọi người đều có. Giờ đây, nếu con nhìn trở lại suốt mấy chục năm trao truyền giáo lý, thì con thấy là các thày đã thu hút trong khoảng thời gian đó nhiều triệu người đã (ít nhất ở một trình độ nào đó) học hỏi giáo lý của các thày. Khi con nhìn trở lại sự kiện này, thì câu hỏi đặt ra là: “Có bao nhiêu người đã có thể dùng giáo lý mà các thày trao truyền để thể hiện và biểu lộ một phần quả vị Ki-tô? Bao nhiêu người đã có thể khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô?” Đây là câu hỏi mà thày muốn các con suy ngẫm, thậm chí thảo luận trong hội nghị này, và dĩ nhiên, sau đó nữa.

Đây không phải là một câu hỏi chung chung vì sao đã không có nhiều người hơn làm việc này. Lẽ dĩ nhiên, như các con ở đây cũng biết, mục đích là xem xét chính mình. Câu hỏi cũng là: “Vì sao tôi chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn?” Giờ đây, con yêu dấu, thày muốn các con biết, vì một số các con chưa hoàn toàn chú ý việc này, là các thày đã (quả thực là ngay từ lúc khởi đầu nhưng đặc biệt là trong những năm gần đây) tìm cách giúp các con xoay chuyển tâm thức của mình.

3.2. Tự do khỏi tâm phán xét

Con thấy chăng, con yêu dấu, là sa nhân đã từ muôn thuở, nhưng đặc biệt là qua các giáo hội Cơ đốc chính mạch, tạo ra quan niệm tội lỗi. Con không toàn hảo vì lý do mơ hồ nào đó, và Thượng đế là một đấng giận dữ trên trời sẽ phán xử con và hoặc sẽ đày con xuống đia ngục hoặc đưa con lên thiên đàng. Họ còn tìm cách phóng chiếu là thày, trong tư cách Ki-tô Hằng sống hay Ki-tô Hành tinh, đang phán xét các con và sẽ hoặc giơ ngón cái lên để cho con vào thiên đàng hay hạ ngón cái xuống để đày con xuống đia ngục. Các thày đã tìm cách giúp con thấy là đây không phải là sự thật.

Trong hai năm vừa qua, đặc biệt là các vị Chân sư Nữ và chính yếu là Mẹ Mary, đã tìm cách giúp con thấy là các thày hoàn toàn không phán xét con, và điều chắc chắn là các thày không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình. Thày muốn con rất rất rất rõ trong tâm là thày không muốn trao truyền giáo lý này và nêu câu hỏi kia ra vì thày muốn con phán xét chính mình và cảm thấy hổ thẹn vì con đã không biểu hiện một trạng thái cao hơn của quả vị Ki-tô. Mục đích của Ki-tô Hằng sống là gì? Mục đích của thày, như Ki-tô Thăng thiên, là gì? Mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là gì? Con yêu dấu, các thày chỉ có một mục đích duy nhất. Thày xin các con hãy ghi chặt trong tâm là các chân sư thăng thiên chỉ có một mục đích duy nhất. Đó là giải thoát con. Tâm con sẽ nói ngay tức khắc: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

3.3. Làm cách nào truyền ra giáo lý

Con yêu dấu, con hiểu chăng là các thày trên cõi thăng thiên luôn luôn giám sát hiện trạng hành tinh? Các thày có tầm nhìn rất dài hạn, và trong một thời gian rất dài, các thày bị giới hạn trong những gì các thày có thể làm, giáo lý nào có thể truyền ra. Con có hiểu chăng là nếu con nhìn lại giáo lý mà các thày đã trao truyền từ gần một thế kỷ vừa qua, thì con có thể tự hỏi: “Tại sao các giáo lý này không được trao truyền sớm hơn?” Ấy, chính thực là các giáo lý đó đã được trao truyền sớm hơn, nhưng trong một khung cảnh riêng tư, thường là bí mật.

Lúc trước không có cách nào trao truyền các giáo lý đó một cách công cộng. Nguyên do một phần là vì sa nhân đã thành công trong việc hủ hóa Cơ đốc giáo và biến Cơ đốc giáo thành dụng cụ chính yếu để thực sự che giấu giáo lý chân thực của Ki-tô, và giáo lý đó có mục đích giải thoát con người. Suốt nhiều thế kỷ, ở Châu Âu và các nơi khác, không thể nào giảng công cộng các giáo lý mà các thày đang trao truyền. Lẽ dĩ nhiên, cũng có thêm khía cạnh hoàn toàn thực tiễn, thực dụng là làm sao phân phối giáo lý.

Các con có lẽ cũng biết là trong thập niên 1930 các thày có bảo trợ một tổ chức tên là Phong trào TA LÀ (I AM Movement). Khi con nhớ lại thời đại đó, là một điều mà những người trong các con đã lớn lên trong thời đại mạng Internet khó lòng mường tượng, thì con thấy là phương tiện truyền thông chính yếu của thời đó là hệ thống bưu điện. Sa nhân đã làm được chuyện gì? Họ đã khiến chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngăn chặn không cho Phong trào TA LÀ, ít nhất là trong một thời gian, sử dụng hệ thống bưu điện. Con thấy là chỉ sau khi mạng Internet ra đời thì các thày mới có cơ hội tốt hơn để trao truyền giáo lý và đem giáo lý tới một cử tọa rộng lớn hơn.

3.4. Điều gì ngăn chặn quả vị Ki-tô

Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng luôn luôn giám sát tâm thức tập thể và sự tăng triển của tâm thức tập thể. Trong hầu hết mọi thời đại đều có một số người, một số ít cá nhân, đã mở tâm đón nhận giáo lý dạy cách giải thoát chính mình. Nhưng chỉ trong một hoặc hai thập niên cuối tâm thức tập thể mới lên tới mức để các thày có thể trao truyền các giáo lý thật sự rất tiên tiến và tinh vi mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, khởi đầu bằng chủ đề tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại cho đến các giáo lý cuối liên quan đến chấn thương nhập đời.

Giờ đây con yêu dấu, thày Quân Âm đã cho các con nhiều chìa khóa quan trọng trong bài truyền đọc, mà thày khuyên các con nên nghiên cứu nhiều lần, nhưng thày sẽ xây dựng thêm trên nền móng mà Quan Âm đã thiết lập. Một lần nữa, câu hỏi: Có nhiều người đã được nhận giáo lý vỏ ngoài là Giê-su Ki-tô không phải là một ngoại lệ mà là một tấm gương mà mọi người có thể noi theo nếu họ chịu chuyên cần áp dụng giáo lý. Nhiều người trong số các người đó cũng đã được trao truyền một số dụng cụ tâm linh thực tiễn như: cầu thỉnh ánh sáng tím, các bài chú và các dụng cụ khác mà họ có thể sử dụng. Vì sao rất nhiều người đã không thể nhập và áp dụng giáo lý và dụng cụ tới điểm họ thể hiện được quả vị Ki-tô? Một lần nữa, thày không trách cứ ai, con yêu dấu. Thày không trách cứ, thầy cũng không nói là con đáng lẽ phải thể hiện một trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô. Các thày chỉ muốn có một cuộc nói chuyện để xem xét một cách bình tĩnh và vô tư cơ cấu đang ngăn chặn con người thể hiện quả vị Ki-tô.

Lẽ dĩ nhiên, lý do vì sao các thày đã rất thận trọng và tuần tự trao truyền các giáo lý vì chúng đều liên quan tới điều mà các thày nay gọi là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Nói cách khác, dù con là một cư dân nguyên thủy của trái đất hay con đã tới đây từ một thế giới khác, một hành tinh khác, có thể là một hành tinh tự nhiên, thì đề tài này cũng áp dụng cho con. Sự kiện đơn giản là (và các thày đã nói điều này nhiều lần nhưng thày lặp lại ở đây): khi con đầu thai lần đầu trên một hành tinh như trái đất (kể cả các con đã đầu thai ở đây nhiều lần rồi) và giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, muốn hành hạ con và người khác, thì con bị một cú sốc, một chấn thương. Chuyện này đã xảy ra cho tất cả chúng ta đã từng đầu thai trên trái đất.

3.5. Chê trách mình vì đã phản ứng

Một lần nữa, không ai chê trách ai, không có lý do gì để cảm thấy tiếc nuối, nhưng một số các con, nhiều người trong các con, vẫn tự chê trách mình. Con yêu dấu, con vẫn nghĩ, như vị sứ giả này vẫn nghĩ cho tới khi ông nhận được giáo lý về ngã gốc vào tháng 12 vừa qua, là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách nào đó để tới đây như một avatar mà không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy, và thày cần con tới điểm thấy một cách có ý thức cái ngã đó, thấy nó là một cái ngã, thấy nó hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Thày cần con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn. Ngã đó cũng là cái ngã sẽ lấy giáo lý mà thày đang trao truyền và nói: “Tôi đáng lẽ phải thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn, và tại sao tôi đã không làm vậy?”

Ấy, con yêu dấu, vì sao con đã không thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn? Con đã không làm được vì con trước đây không có hiểu biết và các giáo lý để đối phó với ngã gốc. Điều duy nhất nào, điều tuyệt đối duy nhất nào, đã ngăn chặn người tầm đạo chân thành biểu lộ quả vị Ki-tô? Con hãy ghi nhận! Thày không nói tất cả mọi người vì khi con nhìn vào tập thể con người trên trái đất, thì họ có nhiều cái ngã khác nhau ở nhiều trình độ khác nhau. Thày muốn nói tới những người tầm đạo chân thành đã nghiên cứu giáo lý của các thày, đã áp dụng giáo lý, có khi suốt nhiều năm. Điều duy nhất nào đã ngăn cản con là Ki-tô Hằng sống đang hành động? Ấy, điều duy nhất đó là ngã gốc.

Quân Âm đã thuyết giảng đề tài này, và thày sẽ tiến thêm bước nữa. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu (hay ít nhất là khi con lần đầu nhận ra là họ có khả năng làm ác vô giới hạn, họ không có giới hạn hay lằn ranh nào ngăn cản họ làm hại người khác hay giới hạn hình thức tàn phá và đau khổ mà họ tạo ra) thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

3.6. Con đã tạo ngã gốc như thế nào

Tình trạng của con như sau: lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con không thể rút mình ra khỏi thân thể vật lý, con không thể giản dị bước lui lại và nói: “Ồ, tôi không muốn ở trên hành tinh này nữa, tôi cởi bỏ thân thể vật lý này và tôi trở về hành tinh nơi tôi ở trước kia.” Con không thể làm việc này được! Con ở đây, con ở trong thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể (các thày đã gọi họ là sa nhân, con có thể đã thấy họ như cái gì khác) sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và tiêu diệt con hay các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con làm sao giải quyết vấn đề này? Ấy, con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc. Như thày Quan Âm có giảng, ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Con cũng nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Điều thày muốn nói là: trước khi con gặp gỡ sa nhân, con cảm thấy tương đối an toàn. Con có một cảm nhận thăng bằng, một cảm nhận liên tục, một cảm giác tin tưởng nơi cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Khi con gặp gỡ sa nhân và thấy họ không có giới hạn nào cho ý muốn làm điều ác, thì con bỗng nhiên đánh mất đi điều mà ta có thể gọi là sự ngây thơ của tuổi thơ. Con mất đi cảm giác an toàn, an ninh, thăng bằng nội tại. Mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác an toàn, một cảm giác thăng bằng nào đó, và nó làm công việc này thế nào? Nó làm công việc này bằng nhiều cách. Nó tạo ra nhiều cái ngã, tùy theo nội dung tâm lý của riêng cá nhân con, tùy theo những gì con trải nghiệm, không những trong kiếp đầu thai đầu khi con gặp gỡ sa nhân và còn trong những kiếp sau đó. Nó là một cơ chế khá phức tạp, tuy nhiên điều thày muốn trao truyền là có một khía cạnh của ngã gốc muốn tạo cảm giác an toàn, thăng bằng, phần nào làm chủ cuộc sống và cuộc sống của con trên trái đất.

Con yêu dấu, một lần nữa các thày không chê trách con. Các thày không nói các điều này sai trái. Các thày không nói là đáng lẽ con không nên làm như vậy – tất cả chúng ta đều đã làm như vậy.  Con có thể làm gì khi bị cú sốc khi gặp gỡ nhũng sinh thể sẵn sàng làm bất cứ gì để tiêu diệt mình? Điều con nay có thể làm, và con đã có giáo lý để làm việc này, là con bắt đầu nhìn vào ngã gốc, khía cạnh của ngã gốc muốn an toàn, muốn kiểm soát.

3.7. Kiểm soát thế giới để cảm thấy an toàn

Ta có thể nói một cách thật thẳng thắn là khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn. Nếu con nhìn một cách thành thực, thì con thấy đây là động lực thúc đẩy rất nhiều sa nhân. Họ cảm thấy không an toàn một cách cơ bản, và vì họ không bao giờ trở về được với cái một (trừ phi họ quay đầu đi ngược lại, là điều mà họ không chịu làm) nên họ không thể khắc phục cảm giác không an toàn, và đó là lý do họ phải có kiểm soát tối hậu.

Vì sao Stalin lại sẵn sàng giết hại hàng triệu người? Vì y có nhu cầu kiểm soát đó. Điều này chỉ cho con thấy là y có một nỗi sợ hãi rất lớn, và do đó y có một trình độ tâm linh rất thấp. Nếu con cần giết người khác để cảm thấy được an toàn, thì dĩ nhiên con có một nỗi sợ khủng khiếp, và nỗi sợ này làm chủ đời con. Do đó, bất kể thế giới thấy con như thế nào, con là một sinh thể bất lực. Con bên ngoài có thể có nhiều quyền lực, nhưng trong nội tâm thì con bất lực. Stalin là một trong những sinh thể bất lực nhất mà con thấy trong lịch sử cận đại. Lẽ dĩ nhiên, Hitler cũng bất lực như vậy, và Mao Trạch Đông còn bất lực hơn cả hai người kia nữa.

Con thấy những điều này và do đó con cần nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền giáo lý này, để giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Con có thể tới điểm nhìn vào nó, thấy nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Giờ đây con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên biết rất rõ là các thày phải giữ một cân bằng tế nhị khi hành xử. Để giải thoát các con, các thày cần làm hai chuyện. Thứ nhất, các thày cần giúp con thấy là con không tự do. Điều này có thể khiến con rất rất bức xúc. Con có biết vì sao con lại bức xúc? Ấy, con cảm thấy bức xúc vì cái ngã kiểm soát mà con đã tạo ra để có được cảm giác an toàn và thăng bằng, cần cảm thấy nó có một hiểu biết cơ bản về cách hành tinh này vận hành.

Lẽ dĩ nhiên, con bị mắc kẹt vì cái ngã đó. Chính cái ngã đó đã giam hãm con hơn bất cứ gì khác. Khi các thày bắt đầu phơi bày sự hiện diện của cái ngã đó, thì nó sẽ phản ứng ra sao? Nó sẽ coi việc phản bác lời giảng của các thày là chuyện sống còn của nó, để con không chấp nhận điều các thày nói, không coi điều các thày nói là quan trọng, không đem ra áp dụng điều các thày nói. Con có thể nhìn vào chính mình, và một thử nghiệm rất tốt là con lấy quyển Các cuộc đời của tôi và xem xét con phản ứng ra sao với quyển sách đó. Quyển sách càng khiến con bức xúc bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là con có cái ngã đã quen cảm thấy, có thể qua nhiều kiếp sống, là nó phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.  

3.8. Khắc phục cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn

Giờ đây con yêu dấu, ta có thể coi là cái ngã đó có phần đúng. Điều kiện chính yếu nào khiến con không được an toàn trên trái đất? Đó là sa nhân. Vì sao họ lại tấn công con? Vì sao họ tìm cách tiêu diệt con? Đó là vì nỗi sợ cơ yếu nhất, lớn nhất của họ là có ai trở thành Ki-tô Hằng sống, có ai dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là nỗi sợ cơ yếu nhất của họ. Do đó, khi có ai tới hành tinh này hay đã nâng mình lên một trình độ nào đó của quả vị Ki-tô, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt người đó và ngăn chặn không để người đó biểu hiện quả vị Ki-tô.

Chuyện gì xảy ra khi con giáp mặt sa nhân và trải nghiệm là họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì trong khả năng họ để tiêu diệt cá nhân con? Con bị một cú sốc, một chấn thương, và kết quả là con tạo ra một khía cạnh của ngã gốc muốn kiểm soát. Một lần nữa, điều này dễ hiểu. Con ở trong cõi vật lý, con trải nghiệm là có người muốn giết con, muốn tra tấn, chê bai, hạ nhục con, làm tất cả gì họ có thể làm để hủy hoại con. Con không thể ra khỏi thân xác này. Con có thể không có khả năng rời xa họ. Con có thể làm gì để có thể sống sót trong tư tưởng và cảm xúc không những trong kiếp sống này mà còn trong các kiếp sống tới? Ấy, cái ngã kiểm soát nhận ra rất nhanh là theo nhận thức của nó, cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ không đụng đến con, và nhận định này đúng. Nếu con không thách thức sa nhân, họ sẽ để con yên. Con nhận ra ở đây là cái ngã kiểm soát đã tạo được cảm nhận là nó sẽ được an toàn, an ninh nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Một số các con đã sống với cảm giác an ninh này trong nhiều, nhiều nhiều kiếp. Đúng thực là tất cả các con đều có ít nhiều cảm giác an ninh. Không phải tất cả các con đều có cảm giác này suốt nhiều kiếp vì một số các con đã phải chịu cảnh chiến tranh hay biến cố chấn thương khác trong một kiếp gần đây. Do đó con không có được cảm giác an ninh trong suốt một khoảng thời gian dài, nhưng một số khác đã có được cảm giác an ninh trong một thời gian rất dài. Chuyện gì xảy ra khi các thày trao truyền giáo lý về ngã gốc và quả vị Ki-tô? Điều xảy ra, như Quan Âm đã giảng, là con trải qua một giai đoạn sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất.

Con cũng có thể lấy giáo lý mà các thày đã trao truyền và sử dụng nó để củng cố một thế giới quan nào đó. Một lần nữa, ta trở lại câu hỏi ở trên: vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý này đã mấy thập niên mà có quá ít người đã có thể biểu lộ quả vị Ki-tô? Đó là vì đa số những người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã không thách thức khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, cái ngã kiểm soát. Họ không bao giờ thách thức nó. Một phần là vì họ không có giáo lý vì các thày đã phải tiến hành một cách tuần tự và dần dần xây dựng cơ sở giáo lý. Một lần nữa, thày không chê trách ai cả. Thày không có cảm nghĩ: “Ồ, họ đáng lẽ phải có khả năng làm chuyện này.” Thày chỉ đơn giản mô tả chuyện đã xảy ra để các con nào mở tâm đón nhận có thể hiểu và vươn lên cao hơn.

3.9. Trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, con người đã làm gì với giáo lý chân sư thăng thiên? Họ đã tạo ý niệm là: “Đúng rồi, tôi thấy là Giê-su đã đầu thai để là một tấm gương và tôi thấy là tôi có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô.” Trong những đợt truyền giáo trước, các đệ tử chú tâm nhiều hơn đến việc hội đủ điều kiện để thăng thiên, giống như con thấy nhiều người trong các phòng trào Cơ đốc giáo chú tâm vào việc được cứu rỗi. Nói cách khác, các thày có giảng trước đây là giáo hội Công giáo đã từ khởi thủy quy định mục đích cuộc sống trên trái đất là chịu đau khổ, rằng con chỉ là một tội đồ, con không có tiềm năng là Ki-tô trên trái đất, điều con cần quan tâm là chuyện gì xảy sau kiếp sống trên trái đất để con có thể được cứu rỗi và lên thiên đàng. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã giản dị lấy giáo lý của các thày và xây dựng ý niệm là mục đích chính yếu của đệ tử chân sư thăng thiên là hội đủ điều kiện thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này xảy ra ở cuối hay sau kiếp sống này.

Quan niệm này, một lần nữa, lại dùng giáo lý để trì hoãn việc là Ki-tô, trì hoãn việc trải qua một thay đổi quyết định. Con như nói rằng: “Ồ, tôi chỉ cần kêu gọi đủ ánh sáng tím trong phần còn lại của cuộc đời để quân bằng ít nhất 51 phần trăm nghiệp, và sau đó tôi sẽ thăng thiên sau kiếp sống này và tôi sẽ không phải là Ki-tô, tôi không phải thách thức sa nhân.” Một lần nữa, thày không chê trách ai mà chỉ muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn, trực tiếp, giản dị về chuyện gì xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, các thày đã bắt đầu trao truyền một số giáo lý xuyên qua vị sứ giả này, thực sự là ngay từ đầu, đã rất thách thức và đi xa hơn những gì được truyền giảng trong các đợt truyền giáo trước, như: tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại. Nếu con nhìn tiến trình trao truyền giáo lý qua vị sứ giả này, thì con thấy đã có một số giai đoạn trong đó các thày đã nâng giáo lý lên một tầng cao hơn. Một số các đệ tử đã từng tham gia các đợt truyền giáo trước đã không chịu được các giáo lý mới này. Họ đã làm gì? Ấy, họ đã phải dựng lên một loại kịch bản cho họ một cớ để rút lui, thậm chí nói vị sứ giả đã trở thành một sứ giả giả, đã không còn được các thày ủy quyền, hay một số điều khác.

Tất cả các chuyện này đều bắt nguồn từ sự kiện các giáo lý đó thách thức ý niệm an ninh của ngã kiểm soát của các người đó. Họ đã dùng các giáo lý trước để củng cố ý niệm họ làm chủ tình hình. Giờ đây thì các thày trao truyền giáo lý mới làm xáo trộn ý niệm làm chủ tình hình nơi một số người. Họ đã tới điểm, ít ra là trong tiềm thức, nhận ra là họ thực sự không thể chấp nhận giáo lý này và đồng thời bảo tồn ý niệm làm chủ tình hình của họ. Giáo lý đã thách thức một trong những ảo tưởng mà họ đã sử dụng để xây dựng ý niệm họ làm chủ tình hình.

Họ tới điểm bắt buộc phải chọn lựa: Con nóng hay lạnh? Con có sẽ theo Ki-tô Hằng sống hay không? Họ đã chọn không theo và họ cần tìm ra một bào chữa, và bào chữa tiện lợi là (giống như trong các đợt truyền giáo trước): “Ồ, vị sứ giả đã không còn được các thày ủy quyền, ông ấy hay bà ấy đang trao truyền giáo lý giả, các chân sư không còn bảo trợ tổ chức này nữa, các chân sư không bao giờ có thể nói những chuyện như vậy, các chân sư không bao giờ nói thẳng là không nên ăn đường.” Vân vân và vân vân. Các thày đã thấy những lời bào chữa này từ đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên nay. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không có ý niệm chuyện gì đáng lẽ phải làm và đáng lẽ không được làm, nhưng các thày phải nói là với tầm nhìn từ cõi thăng thiên, các thày đã tới điểm thấy cái ngã nhân gian, cái ngã kiểm soát này, hành xử quá nhiều lần nên đã đến lúc các thày đơn giản nêu vấn đề một cách thẳng thắn và công khai để không ai có thể giải thích bẻ quẹo đi.

3.10. Mục đích kiếp sống này của con là gì?

Sự kiện đơn giản là: khi thày hiện thân trên trái đất trong một thân thể vật lý, thì thày đã nhiều lần thách thức con người. Một lần nữa, con nhận ra là thày chỉ có ba năm và thày phải thách thức con người: họ muốn theo thày và vươn lên cao hơn, hay họ ở lại nơi họ cảm thấy an ninh, an toàn. Một lần nữa, thày phải làm công việc này ở đây. Một lần nữa, thày sẽ không chê trách ai, thày sẽ không nói con phải làm gì và không được làm gì. Ở đây, con cần nhận ra, con cần quyết định là mục đích của con trong kiếp sống này là gì. Con có thể quyết định là con thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Con có thể tiếp tục thực hành giáo lý ở tầng đó, nhưng con cần tự hỏi phải chăng mục đích mà con muốn hoàn thành, điều mà các thày đã gọi vào đầu mùa hạ, là tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con? “Mục đích của tôi có phải chăng là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì tôi đã làm được cho tới nay?” Nếu đây là mục đích của con, và một lần nữa thày không chê trách con, thày còn không nói là nếu đây không phải là mục đích của con, thì con nên rút lui khỏi giáo lý. Con vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu giáo lý bằng bất cứ cách nào con muốn. 

Điều mà thày cần trải bày trước mắt con là: con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Chuyện này không thể làm được, con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Con có câu ngạn ngữ trong ngôn ngữ Hoa Kỳ: “An toàn hơn ân hận,” nhưng câu này do sa nhân đề ra vì Ki-tô vừa không an toàn vừa không ân hận. Đó là một trạng thái tâm thức mà con chỉ đạt được khi con nhìn vào khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, sẵn sàng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi, như các thày đã giảng và cho con dụng cụ để làm. Một lần nữa, các thày không định ra một mục đích mà các con không thể đạt được vì các thày đã rất thận trọng, đã đi từng bước trong việc trao truyền giáo lý và dụng cụ, để con có thể thành công.  

3.11. Con người đã làm gì để được cảm thấy an toàn

Con yêu dấu, nếu con nhìn ngược dòng lịch sử, thì con thấy có một số người đã rất thiện xảo trong việc kiểm soát ngoại cảnh của họ để được cảm thấy an toàn, đến độ họ đã tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới. Tỷ dụ, con có thể thấy là thời Trung cổ, có nhiều vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc đã thành công trong việc đạt được địa vị cao và sống một cuộc đời thoải mái, đặc quyền. Họ đã xây các bức tường dày và có đạo quân bao bọc chung quanh họ và họ đã sống trong tháp ngà và cảm thấy an toàn vì họ đã tự cô lập và cách ly khỏi những gì xảy ra trên thế giới. Họ không thực sự thấy sự thống khổ của thần dân họ, những người đang gìn giữ nếp sống của họ, giúp họ được cảm thấy an toàn.

Con thấy có những người đã dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một tu viện hay một loại tịnh thất tâm linh nơi họ sống, một lần nữa, cô lập và cách ly khỏi thế gian. Một số các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Đây có thể là một hành động xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu đó là cái ngã kiểm soát của con mong muốn được cảm thấy an toàn, thì nó không còn giúp con tăng triển nữa.

Thày muốn con ngẫm nghĩ chuyện sau đây. Nếu con đọc Phúc âm Tô-ma (Gospel of Thomas) thì con thấy trong đó có nói là con sẽ tới điểm con có được một số hiểu biết và sau đó con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con vượt qua sự xáo trộn thì con sẽ cai quản tất cả, nghĩa là chính tâm mình. Con sẽ là một vị điều ngự, con sẽ có tự điều ngự.

Điều thày đang cho con là hiểu biết con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình. Khi thày trao cho con hiểu biết này, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa – và mạng sống của nó quả thực bị đe dọa. Khi con thấy là con không cần ngã đó nữa, thì con có thể để nó chết đi, và nó sẽ chết đi. Nó không muốn chết, do đó nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó. Con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con dùng các giáo lý và dụng cụ tâm linh để giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, thì con sẽ được bình an. Lúc đó, con sẽ cảm thấy tự do, và con sẽ có một cảm giác tự do mới mà hiện nay con không thể tượng tượng nổi.

3.12. Con an toàn như một sinh thể vô hình tướng

Làm sao con tới được điểm đó? Ấy, các thày đã trao cho các con biết bao nhiêu giáo lý về cái Ta Biết. Tầm quan trọng của giáo lý đó là: con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Các thày có nói là để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này. Điều đã xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời là con đã tạo ra ngã gốc và con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Nếu con thực sự dùng các giáo lý về cái Ta Biết, thì con có thể nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Con có thấy chăng điều thày đang cống hiến con? Thày đang bày ra trước mặt con sự sống và cái chết. Thày đang bày ra trước mặt con hai chọn lựa. Một bên là tâm thức chết, do cái ngã kiểm soát đại diện, nó nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Nó thực sự nghĩ là cách duy nhất để được an toàn (tối hậu) trong thế giới này là kiểm soát toàn bộ thế giới. Đó là cái chết, vì lẽ dĩ nhiên, con sẽ không bao giờ kiểm soát được thế giới hoàn toàn. Không một cá nhân nào sẽ có thể làm được điều này.

Chọn lựa kia là sự sống. Đó là con nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại. Con cần thức tỉnh trở lại. Con cần biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng. Lúc đó, con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và con yêu dấu, chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân. 

Con yếu dấu, thày không muốn chỉ trích bất cứ cá nhân nào, nhưng con thấy là trong quá khứ có những người đã quá quan tâm bị sa nhân tấn công hay tiêu diệt, nên họ lúc nào cũng muốn tự bảo vệ họ khỏi nguy cơ đó. Làm sao con có thể sống như vậy lâu dài? Lúc nào cũng lo bảo vệ mình là một căng thẳng quá lớn, và trong thời đại này, hy vọng là con sẽ không bị sa nhân giết hay tra tấn, vì con người đã vượt qua giai đoạn này. Ta có thể nói là ngày nay, con có thể biểu lộ quả vị Ki-tô an toàn hơn trong quá khứ. Tuy nhiên, con vẫn cần tới được điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con. Đó là lúc con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Làm sao con có thể thở thành Ki-tô hành động? Ấy, con không thể là Ki-tô hành động khi con còn cái ngã kiểm soát trong thể bản sắc, nó cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ khiến con mất an toàn và nó sợ chuyện gì có thể xảy ra nếu con biểu hiện quả vị Ki-tô.

3.13. Khắc phục nhu cầu an toàn

Con yêu dấu, con cần tìm ra cách khắc phục ý muốn kiểm soát thế giới để thỏa mãn nhu cầu an toàn. Đây là điều mà thày đã giúp con nhận thức. Như thày đã nói, các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về ngã gốc, và cách khắc phục nó. Nếu con sử dụng giáo lý đó, nếu con sẵn sàng buông bỏ ngã gốc, nếu con sẵn sàng bị xáo trộn tạm thời cho tới khi con áp dụng giáo lý, thì con sẽ tới điểm con được giải thoát.

Như các thày có nói trước đây, một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Nó được thiết kế với một lập trình và một cấu trúc để giải quyết vấn đề đó. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con là vấn đề có thật, vấn đề đó hiện hữu, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề. Cái ngã kiểm soát đó sẽ phóng chiếu tới con là: “Cái ác có thật, có một nguy cơ thật, con có thể bị hành hạ, con cần cảm thấy an toàn, con cần phải làm điều gì đó để cảm thấy an toàn.” Con yêu dấu, có điểm (mà ngay Thánh kinh cũng đã đề cập) mà thày nói với người muốn chôn cất thân sinh: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con hãy theo ta, và để người chết chôn cất người chết.” 

Con có sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn chăng? Nếu có, thì con hãy nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và để thày dẫn con đi cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nơi cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Con yêu dấu, con muốn gì, cái chết hay sự sống? Đây không phải là một chọn lựa được-hết-hay-mất-hết, như thày đã nói. Thày nhận ra là một số người chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này. Con có thể cần thời gian trước khi cảm thấy sẵn sàng. Nếu như vậy thì con hãy tiếp tục học hỏi giáo lý và áp dụng giáo lý trong phạm vi khả thi. Nhưng một số các con đã sẵn sàng để bước lên một tầng cao hơn.

Con không thể, con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể sánh vai đi cùng thày, con không thể nắm tay thày khi con chưa bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, cái ngã kiểm soát nhất định cần cảm thấy nó làm chủ thế gian. Do đó, nó không thể bỏ lại lưới đánh cá để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ lại tất cả đằng sau. Con không cần bỏ lại tất cả đằng sau theo nghĩa vỏ ngoài, nhưng con cần bỏ ngã đó lại đằng sau. Đó là điều duy nhất ngăn trở con biểu lộ quả vị Ki-tô.

3.14. Các chân sư phải giữ cân bằng tế nhị

Con yêu dấu, các thày luôn luôn phải giữ một cân bằng tế nhị. Con có thể tiếp nhận được tới đâu? Điều gì con không thể chấp nhận? Con sẵn sàng nhận điều gì? Con không sẵn sàng nhận điều gì? Khi thày hiện thân trên trái đất, có nhiều lần thày đã thách thức con người một cách rất trực tiếp. Các thày đã kể câu chuyện là thày đi tới trước mặt một số đệ tử và nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta.” Sau đó, thày quay lưng lại và bước đi, và nếu họ không đi theo thày thì họ đã lỡ cơ hội. Đây không phải là cách các thày ứng xử bây giờ với các giáo lý này. Các thày nhận ra là các con có thể cần thì giờ để thể nhập giáo lý, để hoàn toàn đón nhận một số giáo lý. Các thày không muốn tạo ra hình ảnh là tất cả các con đều phải sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô ngay hôm nay. Các thày nhận ra là một số các con cần phải qua một số bước.

Thày hy vọng là các con cũng nhận ra là các con cũng cần giữ một cân bằng tế nhị. Con phải nhận ra là con theo các giáo lý này vì con muốn tăng triển trên con đường tâm linh, nhưng có một khía cạnh của ngã vỏ ngoài, là ngã gốc, không muốn con tăng triển. Đúng, có những lúc con có thể nói: “Con chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, con cần thêm thì giờ, con cần qua một số bước trước khi con hoàn toàn đón nhận nó.” Con cũng sẽ tới điểm con cần nói: “Có phải chăng là cái ngã kiểm soát của tôi muốn tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng? Thực sự thì tôi đã sẵn sàng, vậy câu hỏi là: ‘Tôi có chịu làm hay không?’” Có lúc con cần đốc thúc mình, có lúc con cần bước lui lại, nhìn vào gương và nói: “Tôi đang ở đâu trên con đường tâm linh? Phải chăng là tôi đã để cái ngã kiểm soát cho tôi cảm giác là tôi sẽ thoải mái nếu tôi ở lại tầng này và không đi xa hơn nữa? Phải chăng tôi đã sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau một cái gì đó, và hoàn toàn đón nhận một ngày mới? Phải chăng tôi đã sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên?” Một số các con vẫn có thể cần theo một giáo lý vỏ ngoài, nhưng cũng có một số đã sẵn sàng để nói: “Tôi có nên mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, hay tôi đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên?”

Một giáo lý lúc nào cũng được trao truyền ở nhiều tầng khác nhau. Ta có thể nói là lúc nào cái ngã kiểm soát của con cũng có một cớ để không áp dụng giáo lý. Con là người quyết định, con có trách nhiệm lượng định: “Lúc nào thì tôi chưa sẵn sàng và lúc nào thì đây chỉ là một cái cớ mà ngã kiểm soát dùng để nói tôi chưa sẵn sàng.”

Đến đây thì thày đã trao truyền những gì thày muốn trao truyền lúc này. Thày cảm ơn các con đã chú ý nghe, đã sẵn sàng chịu đựng một bài giảng, lẽ dĩ nhiên, sẽ gây xáo trộn. Con yêu dấu, con có thật sự chờ đợi là con tới một hội nghị với chủ đề “Là Ki-tô Hằng sống” mà không bị xáo trộn chăng? Bởi vì nếu con chờ đợi như vậy, thì con nên nhìn vào cái ngã đó và nói: “Ồ, bây giờ thì tôi thấy bạn rồi. Tôi không phải là bạn.”

Đây có thể là bước khởi đầu để con tách mình ra khỏi cái ngã đó, và nhận ra là cái ngã đó, lẽ dĩ nhiên, có một chờ đợi không thực tế về ý nghĩa của quả vị Ki-tô. Nó nghĩ con có thể là Ki-tô mà không cần thách thức sa nhân, hay đúng hơn là không cần thách thức ý niệm làm chủ tình hình của ngã kiểm soát. Con yêu dấu, chuyện này không thể xảy ra. Thày đã nói như vậy trước đây. Thày sẽ nói lại một lần nữa, vì thày cần nói cho tới khi con chợt hiểu ra: “Con không thể thờ hai chủ.” “Từ nay về sau, con muốn thờ chủ nào?”

1 | Các ngã theo sau ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels, ngày 20 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Quan Âm, thày được nhiều người trong khu vực này của thế giới biết đến như vị Bồ tát của Từ bi, tuy nhiên thày hơn rất nhiều những gì các con người nghĩ về thày trong khu vực này của thế giới. Lẽ tự nhiên, thày nhìn nhận và hân hoan thấy sự sùng kính mà nhiều người bày tỏ với thày và lòng thương yêu mà họ trút vào các câu niệm chú tuyệt vời, giống như chính các con đã làm trong giờ đồng hồ vừa qua. Các con đã thực sự đạt được thành quả lớn trong việc yên lắng thể tình cảm của trái đất. 

1.1. Vũng nước xoáy của sự sợ hãi

Các trái tim yêu dấu của thày, sa nhân đã làm gì trên thể tình cảm của trái đất? Họ đã làm nhiều chuyện, nhưng điểm cơ yếu mà thày muốn các con chú ý là họ đã gài vào một vũng nước xoáy, vũng xoáy sợ hãi. Vũng xoáy này mạnh lạ thường. Nếu con nhìn vào nhân loại ở khắp nơi trên thế giới, thì con thấy là rất, rất nhiều người sống suốt đời với cảm thể của họ bị buộc chặt, bị điều khiển, và đôi khi bị choáng ngợp bởi vũng xoáy sợ hãi trong cảm thể của hành tinh hay trong tâm thức tập thể.

Rất, rất nhiều người đã sống với nỗi sợ hãi đó, có khi trong nhiều kiếp sống, nên trong kiếp này họ không thể cảm nhận điều gì mà không bị choáng ngợp bởi nỗi sợ trong cảm thể. Con yêu dấu, con không thể trở thành, con không thể , Ki-tô hành động khi con còn sự sợ hãi trong cảm thể. Con chắc chắn không thể là Ki-tô hành động khi nỗi sợ đó dính liền với vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh. Lẽ đương nhiên con không thể là Phật nếu con còn sợ hãi, nhưng một số các con chưa thực sự nhận ra là con không thể là Ki-tô nếu con còn sự sợ hãi trong cảm thể.

Do đó, thày giảng bài này không những cho các con hiện diện ở đây mà cho toàn thể đệ tử khắp nơi trên thế giới. Thày nói với tất cả những ai tự nhận mình là đệ tử chân sư thăng thiên, cho dù họ có công nhận vị sứ giả này hay không, thày nói với tất cả những người tâm linh, những người mở tâm đón nhận khía cạnh tâm linh của sự sống, và thày nói vào tâm thức tập thể: “Con không thể là Ki-tô nếu cảm thể của con bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh này.”

Con yêu dấu, vì sao cảm thể của con lại bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh? Ấy, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về chấn thương nhập đời. Một số các con (không phải tất cả, nhưng một số) khi đầu thai lần đầu trên trái đất, khi phải gánh chịu biến cố chấn thương do sa nhân gây ra, thì con bị cú sốc quá mạnh nên đã bị một vết nứt trong cảm thể của mình. Các đợt sóng năng lượng đầy rung động sợ hãi, bất hài hòa và hỗn loạn đã qua vết nứt này tràn vào cảm thể của con.

Lẽ đương nhiên, các thày đã trao truyền giáo lý qua quyển sách Các cuộc đời của tôi, là nhiều người trong các con là avatar. Lẽ dĩ nhiên, không phải tất cả các con đều là avatar. Một số các con là cư dân nguyên thủy của trái đất. Sau khi sa nhân tới đầu thai ở đây, thì các con cũng phải gánh chịu một hình thức chấn thương đã khiến con bị một cú sốc lớn đến độ con đã mở cửa cảm thể của mình cho năng lượng sợ hãi này tràn vào.

1.2. Giữ con buộc chặt vào sợ hãi

Sa nhân đã rất khôn ngoan, hung hãn và kiên trì trong việc giữ sợi dây buộc cảm thể của con vào động lượng sợ hãi của hành tinh. Con yêu dấu, sợ hãi là một cảm xúc. Sợ hãi hiện diện, ít ra là ở mức cơ bản, trong thể tình cảm. Nó là một năng lượng, một rung động, một động lượng. Nó xô dạt, nó di động, thường khi một cách bất hài hòa và hỗn loạn. Một khi con bị chìm trong đó và bị nó choáng ngợp, thì con có thể làm gì? Ấy, như nhiều người trong các con đã biết, khi mình bị chìm trong nó thì mình không dễ thoát ra khỏi nó. Vì khi con thực sự ở trong rung động sợ hãi, thì cảm thể của con ở trong tình trạng hỗn loạn đến độ thể lý trí của con không thể thủ vai trò chính đáng ngự trị thể tình cảm. Các thày đã trao truyền giáo lý là năng lượng tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống thể bản sắc, qua thể lý trí, thể tình cảm và xuống thể vật lý của con.

Các thày cũng đã trao truyền giáo lý, trong quyển sách mới, là trên trái đất con có thể phải gánh chịu một chấn thương mạnh đến độ dòng năng lượng chảy ngược lại, tức là khi con bị đau đớn thể xác quá mạnh, thì năng lượng chảy ngược lên thể tình cảm, thể lý trí và thể bản sắc, ít ra là phần dưới của thể bản sắc. Một khi con gánh chịu chấn thương đó, thì con đánh mất dòng chảy năng lượng nguyên thủy, và con khó tái lập lại nó nếu con chưa khắc phục được chấn thương nhập đời nguyên thủy.

1.3. Những cư dân nguyên thủy của trái đất

Tuy các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời cho các avatar, nhưng giáo lý mà thày trao truyền ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của trái đất vì các con cũng đã phải gánh chịu một chấn thương. Nó không phải là chấn thương nhập đời theo nghĩa chấn thương xảy ra trong kiếp đầu thai đầu của các con trên trái đất. Nó xảy ra sau khi các con đã đầu thai trên trái đất từ rất lâu, và sa nhân được phép đầu thai ở đây. Do đó nó không phải là một chấn thương nhập đời theo đúng nghĩa, nhưng nó vẫn là một chấn thương. Gọi nó là chấn thương nhập đời hay chỉ vỏn vẹn là chấn thương chỉ là cách dùng ngôn từ, nhưng nó áp dụng cho tất cả các con là những người tâm linh.

Các thày biết rất rõ là khi các thày trao truyền một giáo lý thì giáo lý đó không thể áp dụng cho tất cả mọi người. Quyển sách mới được trao truyền trong bối cảnh một avatar tới từ một hành tinh tự nhiên, và do đó người này còn giữ trong tiềm thức ký ức cuộc sống ra sao trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ đương nhiên, trong quyển sách cũng có giáo lý áp dụng cho cư dân nguyên thủy của trái đất, chính yếu là giáo lý về chấn thương nhập đời, nhưng giáo lý về hành tinh tự nhiên cũng vậy. Các con là những cư dân nguyên thủy của trái đất, các con đã trải nghiệm trái đất ở một trạng thái cao hơn tình trạng từ khi sa nhân tới đây, và trong thời gian trước đó nữa. Nếu trái đất không xuống thấp hơn trạng thái hành tinh tự nhiên, thì sa nhân đã không thể đầu thai ở đây, họ đã không được phép đầu thai ở đây.

Điều thày muốn trình bày với các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, là các con dễ bị vết nứt trong thể tình cảm hơn các avatar. Đối với các cư dân nguyên thủy thì trái đất là khung tham chiếu chính yếu, trong khi đối với các avatar thì khung tham chiếu chính yếu là hành tinh tự nhiên. Các con là cư dân nguyên thủy bị buộc chặt vào trái đất hơn. Do đó, con dễ đi vào rung động sợ hãi chuyện gì có thể xảy ra cho trái đất, chuyện gì có thể xảy ra nơi bát cung vật lý. Có nhiều khả năng là những người trong số các con là những cư dân nguyên thủy đã bị buộc chặt vào vòng xoáy sợ hãi của hành tinh.Nếu đây là trường hợp của con, thì điều rất quan trọng, điều cực kỳ quan trọng, là con cắt đứt sợi dây buộc này trước khi con có thể mang vào quả vị Ki-tô.

1.4. Thoát khỏi nỗi sợ hãi

Con phải làm gì khi con nhận ra là con đang ở trong sự rung động, trong vòng xoáy của sợ hãi? Ấy, như thày đã nói, con không thể làm giống như một số người khác là dùng thể lý trí để bắt đầu suy luận về nỗi sợ, lý luận vì sao nỗi sợ không hợp lý, vì sao nó dựa trên một ảo tưởng, và vì sao con người không nên sợ hãi như vậy. Một số người có thể khống chế nỗi sợ bằng cách đó, nhưng nhiều người thì không làm được, đặc biệt khi họ bị buộc chặt vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

Vậy con làm được gì? Ấy, con không thể dùng thể bản sắc hay thể lý trí để khống chế thể tình cảm. Con không thể dùng thể tình cảm để khống chế thể tình cảm. Ấy, phải chăng chuyện hợp lý, con yêu dấu, là khi con bị ảnh hưởng của dòng năng lượng chảy ngược, thì con có thể dùng thể vật lý để khống chế thể tình cảm, để cai quản thể tình cảm?

Con có thể làm chuyện này bằng nhiều cách, nhưng việc các con đã làm là niệm chú (chanting) trong suốt một giờ vừa qua là một thí dụ dùng khả năng của thân thể vật lý. Con có thể đọc một bài thỉnh, hay đọc một bài chú, nhưng nhiều khi niệm chú như các con vừa làm là hữu hiệu nhất. Con có thể dùng bản thu âm của lời niệm chú để làm chủ thể tình cảm mỗi khi con cảm thấy có sự xáo trộn. Khi con dùng khả năng của thể vật lý để niệm chú, để dùng uy lực của lời nói, uy lực của giọng nói của con, thì con có thể yên lắng thể tình cảm. Một khi con đã có được ít nhiều an tịnh trong thể tình cảm, thì con có thể kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, như Đại thiên thần Michael, Astrea, Mẹ Mary hay các vị chân sư khác, để giúp con cắt đứt sợi dây buộc con vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

1.5. Nghi ngờ là cánh cửa mở cho sợ hãi

Các con nên biết là tuy các thày có nói về dòng năng lượng chảy ngược, nhưng một cảm xúc không bao giờ tự nó có mặt một mình. Một cảm xúc dựa trên một niềm tin trong thể lý trí, và một niềm tin trong thể lý trí dựa trên một ý niệm bản sắc trong thể bản sắc. Trước khi con có thể cắt đứt động lượng, thì con cần nhận ra là sợ hãi không tự nó khởi lên. Nó lúc nào cũng phát xuất từ lòng nghi ngờ. Nghi ngờ là cánh cửa mở đưa sợ hãi vào cảm thể của con, và nghi ngờ bắt đầu trong thể lý trí nhưng nó bắt rễ từ thể bản sắc.

Giờ đây, con yêu dấu, trong một số bài truyền đọc gần đây các thày có đề cập đến những giới hạn của tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Các con đã làm gì trong một giờ niệm chú? Nếu con trụ trong trái tim và thực sự cho phép mình tuôn chảy với lời niệm chú, tuôn chảy với làn sóng âm thanh, tuôn chảy với nhịp điệu, thì con đã vô hiệu hóa tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Lúc đó tâm con mở ra để con thấy mối nghi ngờ đằng sau nỗi sợ.

Con có thể dễ nhận ra và nhìn nhận là con có nỗi sợ, và con sợ cái gì, con sợ điều kiện gì. Nhưng mối nghi ngờ nào trong thể lý trí đã mở cửa cho nỗi sợ? Nó có thể là, như một thí dụ trong số nhiều thí dụ, là con đã bị sa nhân đặt con vào một hoàn cảnh khiến con bị giết, hoặc nhiều người trong gia đình hay xã hội của con bị giết. Do đó, trong thể lý trí của con có mối nghi ngờ là con đã không bảo vệ được mình khỏi tình huống đó, con đã không tránh né được nó, Thượng đế đã không bảo vệ được con, không có lực nào trên thế gian có thể bảo vệ được con.

Một khi con nhận diện mối nghi ngờ, thì nó từ đâu đến? Nghi ngờ là một điều kiện của thể lý trí, và nó bắt nguồn từ sự kiện tâm phân tích có thể xem xét bất cứ vấn đề gì và tìm ra luận cứ ủng hộchống vấn đề đó, và nó có thể tiếp tục như vậy không bao giờ dứt.

Tình trạng này giống như một trận bóng bàn giữa hai ngã nội tại, hai phàm linh nội tại, trong thể bản sắc của con. Một ngã đưa ra một luận cứ với ngã kia. Ngã kia phản bác lại luận cứ đầu và đưa ra một luận cứ khác và con thấy như hai ngã đó đưa banh qua lại – hai ngã đó đánh banh qua lại bằng các luận cứ. Con đứng giữa, không biết luận cứ nào là luận cứ tối hậu, luận cứ nào đúng, luận cứ nào không đúng.

Cái “ta” đứng giữa là ai vậy? Đó là cái “ta” mà con thấy con là trong thể bản sắc. Cái “ta” đó được tạo ra lúc nào? Lúc con nhận chịu chấn thương! Cho dù đó là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, khi con nhận chịu chấn thương đó, thì con tạo ra một bản sắc. Bản sắc đó mang theo nó niềm tin là khả năng của con trên trái đất có giới hạn. Có điều gì đó giới hạn khả năng của con, và do đó có điều kiện nào đó trên trái đất, do sa nhân tạo ra, mà con không thể khắc phục, tránh né hay bảo vệ mình khỏi nó. Con là một sinh thể giới hạn, con tự bản chất là một sinh thể giới hạn – cái ngã đó tin như vậy.

1.6. Giải bùa mê

Vậy con làm sao thoát khỏi thế bí này? Con yêu dấu, vì sao các thày đã không trao truyền giáo lý này một hai năm trước đây, khi nó ứng dụng cho nhiều người? Ấy, đó là vì các thày không muốn trao truyền một giáo lý mà không cho các con một dụng cụ để giải quyết vấn đề mà các thày nêu ra. Cho tới khi các thày trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời, mà nay ta cũng có thể gọi là chấn thương địa cầu, thì các con không có dụng cụ để khắc phục vấn đề. Cho dù con là một cư dân nguyên thủy hay một avatar, thì con đã có những dụng cụ trong quyển Chữa lành chấn thương tâm linh, để bắt đầu nhận ra chấn thương nhập đời và dần dần khắc phục nó.

Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con sẽ cảm thấy – đúng theo nghĩa đen – (như nhiều người trong các con đã có thể chứng nhận) là gánh nặng của thế gian đã trút khỏi hai vai con. Đó là gánh nặng thế gian mà con đã mang trên hai vai từ lúc con nhận chịu chấn thương đó. Nó tạo một khe hở trong tâm buộc con vào các năng lượng thế gian, các năng lượng này có thể là vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh, hay động lượng nào khác trên thể lý trí hay thể bản sắc của hành tinh. Con đã bị buộc vào động lượng đó và do đó con đã mang gánh nặng của các năng lượng này, gánh nặng của năng lượng thế gian. Khi con dùng các dụng cụ và giáo lý để khắc phục chấn thương nhập đời, thì con có thể khắc phục nỗi sợ hay bất cứ mọi động lượng khác mà con có trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và điều này cho con một cảm giác tự do mới.

1.7. Khắc phục nghi ngờ

Con yêu dấu, thày nói sợ hãi bắt nguồn từ nghi ngờ, nhưng nghi ngờ bắt nguồn từ một ý niệm bản sắc giới hạn. Cách duy nhất để thực sự khắc phục sợ hãi là khắc phục nghi ngờ, nhưng làm sao con khắc phục nghi ngờ? Chỉ bằng cách nhận ra con hơn bản sắc đó, con hơn cái ngã mà con mang theo trong thể bản sắc của con. Cái “ta” nào hơn? Ấy, như thày đã nói, cái “ta” nào đang trải nghiệm nỗi sợ? Cái “ta” nào đang nghi ngờ? Đó là cái “ta” mà con đã tạo ra trong thể lý trí khi con phản ứng lại chấn thương mà sa nhân đã áp đặt lên con. Cái “ta” có khả năng nhận ra nó hơn cái “ta” đó là cái mà các thày đã gọi là cái Ta Biết. Cái Ta Biết không thể bước ra ngoài cái “ngã sinh diệt” khi con còn chấn thương nhập đời, vì chấn thương kéo cái Ta Biết vào chỗ tự đồng hóa với ngã sinh diệt, ngã thế gian.

Khi con giải tỏa chấn thương nhập đời, thì con có cơ hội sử dụng khả năng mà các thày gọi là trực giác (các thày cũng gọi nó là nhận biết thuần khiết) khi con trải nghiệm con bước ra ngoài cái ngã, cái ngã thấp. Lúc đó, con có một trải nghiệm, con yêu dấu, và trải nghiệm mà con có được qua nhận biết thuần khiết, lẽ dĩ nhiên, vượt quá bất cứ gì con thấy hay trải nghiệm trong bát cung vật lý. Nó cũng vượt quá bất cứ mọi cảm xúc con có trong thể tình cảm. Nó vượt quá bất cứ mọi lý luận, suy luận, luận cứ mà con có trong thể lý trí. Nó vượt quá bất cứ ý mọi niệm bản sắc mà con có trong thể bản sắc. Một khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết hay trải nghiệm sự nối kết, sự tuôn chảy với Hiện diện TA LÀ, thì con có một tầm nhìn khác về mọi chuyện đang xảy ra trong bốn thể phàm của con. Con chưa thể thực sự đạt được trạng thái này khi con chưa giải quyết chấn thương nhập đời.

Nhưng, con yêu dấu, các thày không bao giờ nói là khi con khắc phục được chấn thương nhập đời thì con đã khắc phục được mọi khía cạnh của tâm lý của con. Con cũng biết thí dụ của những cục nước đá bó chặt với nhau rất chặt chẽ nhưng có một cục nước đá giữ mọi cục kia tại chỗ, và khi con rút nó ra, thì số còn lại sẽ bắt đầu tuôn chảy. Con biết là thời xa xưa con người biết xây vòm hình cung và họ phải chống giữ những tảng đá hai bên cho tới khi họ đặt đá đỉnh vòm lên trên cùng. Ấy, chấn thương nhập đời của con và cái ngã được tạo ra, mà các thày đã gọi là ngã gốc, nó chính là đá đỉnh vòm của vòm hình cung của con người phàm của con, của cấu trúc nhân phàm của con, của cấu trúc bốn thể phàm của con.

Một khi con rút nó ra, thì con sẽ rất dễ dàng bắt đầu di chuyển các tảng đá khác và khống chế chúng. Đó là lúc con có thể bắt đầu nhận diện một số động lượng trong một trong bốn thể phàm của con, và sau cùng trong cả bốn thể phàm của con. Một số các con, và điều này có thể làm các con ngạc nhiên, đã đi trên con đường tâm linh từ nhiều năm hay nhiều chục năm, nhưng con khám phá là con còn một số ghiền nghiện vật lý hoặc một số dây trói buộc con vào một số sinh hoạt vật lý mà con cảm thấy mình phải làm. Một số các con sẽ khám phá mình có một dây trói buộc mình vào vũng nước xoáy tình cảm của tâm thức tập thể, hay một số khuôn nếp cảm xúc khác. Một số các con sẽ khám phá mình có khuôn nếp lý trí muốn tranh cãi, muốn lý luận, muốn lượng định và phân tích mọi chuyện. Một số các con sẽ nhận ra mình có ước muốn hiểu mọi chuyện, và một số các con sẽ khám phá mình có trong thể bản sắc một động lượng, một loại ghiền nghiện, dựa trên ngã gốc.

1.8. Tìm cách hiểu mọi chuyện

Đây không phải là ngã gốc mà là một nhánh của ngã gốc. Sau khi con tạo ra ngã gốc, thì con bắt đầu tạo ra những ngã khác để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất, và chúng có nhiều hình thức khác nhau. Hai ngã chính là con tìm cách lượng định mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất, và tìm cách đặt mọi chuyện trong một bối cảnh rộng hơn ngõ hầu hiểu được chúng. Tất cả các con, kể cả vị sứ giả này, khi bắt đầu học giáo lý chân sư thăng thiên đã dùng giáo lý để tạo ra một thế giới quan, một quan niệm về vũ trụ trong thể bản sắc giúp con hiểu những chuyện xảy ra trên trái đất và những chuyện con đã kinh qua trên trái đất.

Con vẫn nghĩ là thể bản sắc của con cần có một hiểu biết tối hậu có thể giúp con giải thích và hiểu mọi chuyện trên trái đất. Con yêu dấu, chuyện này sẽ không bao giờ, không bao giờ xảy ra. Trước tiên, vì bất cứ ngã nào con có trong thể bản sắc đều không có khả năng hiểu, nhưng thứ đến, vì có một số hiện tượng không thể hiểu được. Đây là một điểm quan trọng mà quyển sách Những cuộc đời của tôi đã nêu ra. Có một số điều sa nhân làm mà ta không thể giải thích hay hiểu bằng tâm đường thẳng, duy lý, phân tích. Đôi khi họ cố ý làm một số chuyện để làm con hoang mang, và có khi khác họ làm một số chuyện không có lý do nào khác ngoài ý muốn làm ác, hay như câu nói trong quyển sách: “Để là một nghệ nhân vẽ tranh với máu nhân loại.” Con không thể nào giải thích chuyện này.

Lẽ dĩ nhiên, con có thể có một hiểu biết nào đó, và đó là điều các thày đã trao truyền trong quyển sách và các giáo lý khác về sa nhân, về những chuyên họ làm, về lý do vì sao họ ở đây. Con yêu dấu, con không thể thực sự hiểu xuyên thấu nếu con không bước ra ngoài cái ngã trong thể bản sắc và nối kết thẳng với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên. Con sẽ nhận được, không phải là một hiểu biết mà một trải nghiệm toàn bộ từ các thày, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, có khác biệt giữa hiểu biếttrải nghiệm. Nhiều người trong các con đã tới điểm sẵn sàng trải nghiệm, sau khi đã bắt đầu làm việc với chấn thương nhập đời và khắc phục chấn thương nhập đời.

Tất cả các con đều đã trải nghiệm một cách nào đó sự hiện thực của giáo lý mà các thày trao truyền, vì nếu không thì con đã không có mặt ở đây. Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con yêu dấu, con có thể đi vào tiến trình nới rộng một cách có ý thức khả năng trải nghiệm thực tại, một thực tại cao hơn. Thực tại cao hơn đó là gì? Ấy, con yêu dấu, nó không dựa trên bất cứ điều gì mà thể bản sắc của con có thể hiểu, thể lý trí của con có thể hiểu, thể tình cảm của con có thể tiếp cận, hay óc vật lý của con có thể xử lý. Nó vượt quá bốn thể phàm của con. Nó là một ý niệm thực tại vượt lên trên bốn thể phàm, và là điều duy nhất giúp con biết cái thật và cái không thật trên hành tinh này, là nơi mà sa nhân đã dùng tâm nhị nguyên để khiến mọi chuyện mờ tối một cách cùng cực.

1.9. Bù đắp những mất mát

Trên đây thày có nói con có hai khuynh hướng trong thể bản sắc. Một khuynh hướng tìm cách hiểu và đặt vào bối cảnh. Khuynh hướng kia tìm cách bù đắp những gì con cảm thấy bị mất mát khi con nhận chịu chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Khi sa nhân cho con cú sốc thì con tạo ra một ngã trong thể bản sắc dựa trên ý niệm mất mát. Có thể là con đã mất một số chuyện vỏ ngoài nhưng con thực sự đã mất gì? Con đã mất đi sự ngây thơ của trẻ thơ, ý niệm nội tại về thực tại. Đó là điều con mất. Từ lúc đó, cái ngã do con tạo ra trong thể bản sắc đã luôn luôn tìm cách bù đắp sự mất mát đó, bằng nhiều cách.

Trong thể bản sắc của con có một cái ngã muốn tìm một bản sắc nào đó. Con thấy một kết quả tối cực của khuynh hướng này nơi một số người cảm thấy họ đặc biệt vì họ thuộc một dòng tâm linh, họ thuộc một dòng họ, họ có một khả năng hay đức tính đặc biệt, họ là một linh hồn già cũ, hay bất cứ lý do nào khác. Quan niệm này đáp ứng nhu cầu của cái ngã muốn bù đắp.

Có nhiều cách khác để đạt cùng mục đích, và tất cả các con khi mới vào con đường tu cũng đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để bù đắp cảm giác mất mát nguyên sơ. Khi con tìm ra giáo lý của các chân sư thăng thiên (mà con tin có mức thực tại cao) thì con bỗng nhiên cảm thấy mình không quá thiếu khả năng, thiếu sót hay bất trọn vẹn như cái ngã trong thể bản sắc cảm thấy. Khi đó một số các con đã tạo ra ngã mới trong thể lý trí luôn tìm cách bù đắp bằng cách tỏ ra mình rất thông minh, thông thái, hợp lý, duy lý, rất giỏi biện luận hay suy luận. Con nghĩ như vậy sẽ bù đắp sự mất mát khi con cảm thấy mất khả năng biết đâu là thực đâu là không thực khi sa nhân gieo mối nghi ngờ vào tâm con. 

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể tình cảm bằng cách dùng thể tình cảm để bù đắp nỗi sợ, khắc phục nỗi sợ, chối bỏ nỗi sợ, đè nén nỗi sợ để con không cảm thấy sợ hãi. Con có thể thấy một số người trong các phòng trào tâm linh đã tạo cho mình hào quang nói nhỏ nhẹ, đi chậm rãi, có vẻ hoàn toàn làm chủ tâm nhưng họ đã làm được chuyện này bằng cách đè nén cảm xúc. Một số các con đã nhận ra là đôi khi mình có cảm xúc khởi lên. Đó có thể là do các con đã có một động lượng rất mạnh trong thể lý trí đè nén cảm xúc, nhưng điều này không lành mạnh và sẽ không giúp con giải thoát khỏi cảm xúc. Con cần tới điểm nhìn nhận là không phải con có cảm xúc, mà là có một ngã trong thể cảm xúc có cảm xúc, và con không phải là ngã đó. Do đó, con có thể để cho ngã đó chết đi và con có thể kêu gọi các chân sư thăng thiên tiêu trừ nó cùng với động lượng năng lượng đằng sau nó.

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể vật lý, ở tầng vật lý. Đối với một số các con, điều này thể hiện qua mong muốn làm việc với thân thể vật lý. Rất rất nhiều lực sĩ tập thể hình trên thế giới tìm cách tập cho thân thể trở nên lực lưỡng và mạnh mẽ để cảm thấy bất bại trên mặt vật lý. Đây là một cơ chế bù đắp cho sự có mặt của ngã trên các thể cao cảm thấy rất yếu đuối nơi thể vật lý. Một số khác thích tập võ. Trong những thời đại trước, võ thuật đã được dùng để giúp một số người phát triển tâm linh. Nếu con sống trong một thời nhiều bạo hành, trong một văn hóa nhiều bạo hành, thì học võ để có khả năng tự vệ có thể là một viên đá dẫn tới phát triển tâm linh. Con yêu dấu, một khi con đã đi vào con đường tâm linh của các chân sư thăng thiên và nhắm tới biểu hiện quả vị Ki-tô, thì con không cần võ thuật nữa, con có thể vượt lên trên nó.

Một số khác đã dùng những cách khác, thú vui khác trong bát cung vật lý. Đó có thể là một số ghiền nghiện vật lý giúp con khuây khỏa cảm giác thiếu khả năng hay yếu đuối mà con bình thường cảm thấy. Một số người khác làm những chuyện khác như: làm một số chuyện vật lý, trở nên thiện xảo trong một số công việc vật lý, như trong sự nghiệp, trong việc làm, du lịch, thông thạo mọi chuyện, có một kỹ năng vật lý. Con có thể thấy một số người trên mạng Internet có kỹ năng vật lý kỳ dị hay khả năng kỳ dị với thân thể, và một lần nữa, đây là một cơ chế bù đắp.

Có rất nhiều hình thức bù đắp và thày sẽ không tìm cách liệt kê hết ra ở đây. Điều quan trọng là một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, thì con có thể bắt đầu truy tìm chúng trong bốn thể phàm của con. Con sẽ có thể bắt đầu tháo gỡ chúng, và con có thể học cách nhận diện và khắc phục khuynh hướng cảm thấy bị bắt buộc phải theo đuổi một số sinh hoạt. Mỗi khi con cảm thấy bị bắt buộc, cũng là điều mà Phật đã gọi là “dính mắc”, thì con biết là có một ngã đang giới hạn con trên con đường tâm linh và ngăn trở con trở thành Ki-tô hành động.

Con yêu dấu, tới đây là chấm dứt bài giáo lý mà thày muốn trao truyền cho các con. Thày nhận ra đây là một bài dài cho ngày đầu ở hội nghị này. Nhưng mặt khác, các con đã tự chuẩn bị quá chu đáo qua các sinh hoạt mà các con đã làm hôm nay và qua một giờ niệm chú, nên thày cảm thấy trao tặng các con món quà hỷ lạc từ tim thày là điều thích ứng. Thày mong các con nhận ra là thày không muốn cho con một gánh nặng vì nay con cần phải xem xét chính mình và cảm thấy khổ tâm vì đã có động lượng này hay động lượng khác.

Thày cho con một cơ hội giải thoát, và trong giải thoát có niềm vui. Thật sự là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì ta có thể nói là chỉ có giải thoát mới đem lại niềm vui, niềm vui thực sự, niềm vui an bình. Nhiều người trên trái đất cho rằng khi họ đạt được một thành tựu nào đó, một chiến thắng nào đó, thì họ cảm thấy vui mừng, họ cảm thấy niềm vui chiến thắng, nhưng đó không phải là niềm vui an bình, niềm vui nội tại hay niềm vui Thiêng liêng.

Ấy, THÀY LÀ niềm vui Thiêng liêng và thày sẽ trao cho con niềm vui Thiêng liêng của thày, nếu con hỏi thày.

19 | Rút không gian khỏi một số điều kiện mất quân bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Một vị Phật có thể thêm gì cho cuộc thảo luận về Sứ vụ Thiêng liêng? Có thể có một vài đệ tử của chân sư thăng thiên mang trong Sứ vụ của mình tiềm năng biểu hiện ít nhất một mức độ nào đó của quả vị Phật trong kiếp này. Tuy nhiên, nhiều người đã sẵn sàng biểu hiện quả vị Phật từ các kiếp trước sẽ không cần đến một lời dạy vỏ ngoài, họ sẽ không đi tìm một giáo lý vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài. Dẫu sao, thày sẽ vẫn trao cho con một vài ý nghĩ về sự khác biệt giữa quả vị Phật và quả vị Ki-tô.

19.1. Hơi thở ra và hơi thở vào

Mặc dù cách đây không lâu các thày đã có đề cập ở một mức độ nào đó, điều thày muốn trình bày ở đây là quả vị Ki-tô là một hoạt động hướng ngoại hơn. Quả vị Phật là một hoạt động hướng nội hơn. Con có thể nói quả vị Ki-tô là hơi thở ra và quả vị Phật là hơi thở vào. Khi con đến hành tinh này trong tư cách avatar, con ở giai đoạn quả vị Ki-tô. Theo một nghĩa nào đó, con thở ra chính bản thân con để hiện thân trên trái đất.

Nhiều các con hiện đang ở trong giai đoạn hướng nội. Theo một nghĩa nào đó, tất cả các con đều ở trong giai đoạn hướng nội khi con lại hít vào chính bản thân mình cho thoát khỏi đủ loại vướng mắc với thế gian này. Đúng là một số các con, như đã nói, có thể chọn ở lại trong đầu thai hầu đóng góp cho Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Tuy vậy, để đạt tới điểm có khả năng hoàn thành tiềm năng đó, con đang đi qua giai đoạn thở vào, con đang rút mình ra khỏi các vướng mắc vào các hoàn cảnh nghiệp tạo, lựa bỏ ra những điều đang khiến con xao lãng Sứ vụ Thiêng liêng của mình, và trước tiên hết, giải quyết chấn thương nhập đời của con để ở trong một tâm thái trung hòa.

Chúng ta có thể nói, theo một nghĩa nào đó, rằng quả vị Phật và quả vị Ki-tô có thể đơn giản được xem là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình tiến hóa. Như các thày đã giảng nhiều lần, con không cần phải toàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Toàn hảo nghĩa là gì? Theo một nghĩa nào đó, nó có nghĩa là con không cần phải giải quyết hoàn toàn tâm lý của con, kể cả chấn thương nhập đời, để bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều các thày đã bày tỏ là con không nên sợ biểu lộ quả vị Ki-tô, và con cần khởi sự làm vậy mà không nghĩ mình đã đạt đến một giai đoạn tối hậu nào đó. Tất nhiên cũng thế, quả vị Phật – bất kể những gì đã được tôn giáo đạo Phật phóng chiếu ra – cũng không phải là giai đoạn tối hậu. Các thày đã nói, không có gì xảy ra trên trái đất là tối hậu. Ngay cả cõi thăng thiên cũng mang tính liên tục không ngừng, thì làm sao bất cứ gì có thể là tối hậu được? Làm sao sự giác ngộ có thể tối hậu? Làm sao niết bàn có thể là một trạng thái bất biến?

Sẽ tới một điểm khi con đã giải quyết một phần rất lớn của tâm lý mình, kể cả chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt của con. Con sẽ có thể gọi đó là các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, vì khi đó trong bốn thể phàm của con có rất ít lực kháng cự lại ánh sáng đang tuôn chảy xuyên qua con. Đây cũng là điểm khi con – một số các con, không phải tất cả, vì nhiều người trong các con vẫn muốn năng động trong xã hội – con bắt đầu dời chuyển nhiều hơn vào tâm thức Phật, sự nhận biết của Phật.

19.2. Phật năng động như thế nào

Không phải là Phật không thể năng động trong xã hội. Có lẽ Phật tìm ra một cách khác để năng động trong xã hội. Đây là một điều rất vi tế, rất cá nhân. Con có thể nhìn thấy sự khác biệt trong cuộc đời của Giê-su khi thày hướng ngoại, thày bước ra ngoài, thày gặp mọi người, nhiều khi còn đối đầu với những người đó, trong khi chính Phật đây thì lại thiết lập một đạo tràng và để mọi người đến với Phật. Phần nào, đây là sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận.

Theo một nghĩa nào đó, Ki-tô bước ra ngoài cũng giống như khía cạnh hướng ngoại của Thượng đế Cha, giai đoạn lan ra. Còn Phật thì giống như Mẹ, giai đọan hướng nội, co lại. Hơi thở ra và hơi thở vào.

Một số các con sẽ đến một điểm khi con bắt đầu ngộ ra là những gì con làm bên ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Điều này không có nghĩa là con phải rút lui ra khỏi cuộc sống năng động ngoài xã hội, thiết lập một đạo tràng hay sống ở nơi hẻo lánh. Con vẫn có thể sống một “cuộc đời bình thường”, có gia đình, có công ăn việc làm, có một sự nghiệp nào đó, nhưng con làm vậy một cách khác.

Con ngộ ra là các hoạt động vỏ ngoài đó không quy định được con. Chúng không thu hút toàn bộ sự chú ý của con. Nhiều khi trong giai đoạn quả vị Ki-tô, con vô cùng tập trung vào công việc mình đang làm và toàn bộ chú ý của con bị lôi kéo vào đó. Như thể con mê mải trong hoạt động. Khi con đạt đến quả vị Phật, gần như có thể nói là con tham gia vào hoạt động nhưng có một phần trong tâm con không bị hấp thu vào đó.

19.3. Tôi đang ở tầng tâm thức nào?

Vậy thì làm thế nào con đến được giai đoạn đó? Về điểm này, thày muốn khai triển thêm những gì Mẹ Mary vừa giảng về nhu cầu làm hòa với việc mình hiện thân, làm hòa với cõi Mẹ, làm hòa với quyền tự quyết, làm hòa với trình độ tâm thức hiện thời của mình. Có thể sẽ tới một điểm con không còn nghĩ tới chuyện: “Tôi đang ở tầng tâm thức nào đây?”

Con biết đây là một quá trình không ngưng nghỉ. Con biết con đang làm hết sức để nâng cao tâm thức mình. Con không quan tâm đến chuyện con đang đứng nơi đâu trên thang điểm. Con cố gắng mà không cố gắng. Con không đang vật lộn. Thậm chí con không có cả mục tiêu. Con không ở trong một tâm thái so sánh.

Con đang, như các thày đã diễn tả bằng ngôn từ, xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con đang xuôi chảy với cuộc sống. Con không có cả một mục tiêu rõ rệt để cố hướng tới. Con không có cả một tầm nhìn sáng tỏ về một Sứ vụ Thiêng liêng dường như đang chỉ ra cho con những bước đi mà con phải bước để đạt tới một mục tiêu nhất định. Con gần như chảy theo cuộc sống, và cho dù tình huống nào có ngóc đầu lên, con cũng không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là mình sẽ làm gì. Con chỉ trực nhận rồi con làm theo.

19.4. An bình trong mọi hoàn cảnh

Để thực sự đến được giai đoạn này, con phải thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng đó, là con an bình với bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp. Có một giai đoạn của quả vị Phật khi con có khả năng thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con mong muốn. Nhưng để đến được giai đoạn đó, con phải kinh qua một giai đoạn tạm thời, là con nhìn nhận con sẽ không bước qua một tình huống cho tới khi con có thể ở trong tình huống mà không bị dính mắc và nhờ vậy được an bình. Con đã làm hòa với tình huống.

Một khi con giải quyết chấn thương nhập đời và chấp nhận quyền tự quyết, con sẽ có thể làm hòa với bất kỳ hoàn cảnh nào. Con không có vết thương cá nhân nào mà con đang cố bênh vực hay đền bù. Cho nên con có thể để cho mọi người tự do đi vào bất cứ tâm thức nào mà họ đi vào, và họ tự do trải bày ra bất cứ gì họ đang trải bày. Điều này không có nghĩa là nếu người ta hành xử một cách mất quân bình và không chịu thay đổi thì con phải ở lại trong hoàn cảnh đó. Nhưng con cũng không chạy trốn khỏi hoàn cảnh để che chở các vết thương riêng của con.

Con có thể tới điểm con tự nhủ: “Liệu tôi có thể ở trong hoàn cảnh này mà vẫn an bình?” Có, con có thể. Con nhận ra là con có thể. Con đã đạt đến một mức độ toàn vẹn, không dính mắc, nơi con có thể an bình trong hoàn cảnh đó cho dù người khác không an bình. Một khi con đến được chứng ngộ này, con có thể đi bước kế tiếp và tự hỏi: “À, nhưng sự kiện tôi có thể an bình trong tình huống này có nghĩa chăng là tôi muốn ở lại trong tình huống?” Rồi con có thể chọn bước ra khỏi tình huống. Việc này có thể làm phiền người xung quanh vì rất có thể con sẽ không đưa ra được một lý do mà họ có thể hiểu, lý do tại sao con lại bước ra khỏi tình huống đó. Con chỉ đơn giản bước ra.

19.5. Vấn đề giải thích

Con yêu dấu, điều gì đã cầm chân nhiều người không đạt được cái mà các thày gọi là sự không dính mắc của Phật? Đó là họ cảm thấy họ cần phải thực hiện hay phải sống đúng theo một tấn tuồng nào đó, một truyện kể nào đó trong tâm họ. Các thày đã có giảng về những tấn tuồng cuồng đại. Nhiều người trong số các con vẫn còn mang cái ngã tách biệt đã dựng lên một hình ảnh về con người tâm linh mà con phải là. Một phần trong đó là con có một ngã tách biệt cảm thấy cho dù con có làm gì hay chọn làm gì, thì con phải có khả năng đưa ra một lời giải thích tại sao con làm vậy – đặc biệt một lời giải thích phải hữu lý đối với ngã tách biệt đó, có lẽ đối với người khác và thậm chí đối với cả sa nhân.

Nói cách khác, con có một vấn đề giải thích. Con có một cái ngã cảm thấy con phải có thể tự biện hộ, con phải có thể giải thích động lực của con, lý do con làm việc con đang làm. Điều này dính liền với ý tưởng một tấn tuồng cuồng đại hay một cốt truyện mà qua đó như một người tâm linh, con làm một số chuyện và không làm một số chuyện khác. Và con làm những gì con đang làm vì một lý do đặc thù chứ không phải một lý do nào khác. Chắc chắn con không thể làm bất cứ gì mà không có khả năng giải thích lý do tại sao con làm.

Nhiều người không thể bước vào sự không dính mắc của Phật vì ngay trong tâm họ có một câu chuyện phải trải bày ra, họ mang tấn tuồng cuồng đại đó, họ mang cái nhìn đó về một người tâm linh. Họ cảm thấy phải luôn luôn sống trọn với câu chuyện đó, và nếu không làm vậy được thì họ phải có thể giải thích tại sao. Ngay cả khi họ có những quyết định nằm trọn trong hình ảnh của họ thì họ vẫn phải có thể giải thích tại sao họ làm vậy.

Các thày đã nói về điều gì? Về việc con làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ ngụ ở cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ có thể có một động lực để biểu đạt một điều gì đó xuyên qua con. Liệu động lực này có thể biểu đạt qua ngôn từ, đặc biệt những ngôn từ mà một mức tâm thức thấp hơn có thể hiểu được? Các thày đã nói đến việc biểu lộ cá thể Thiêng liêng của con. Cá thể này nằm vượt ngoài thế gian này. Con có nhất thiết đưa ra được một lời giải thích hợp lý, thường tình, dựa trên thực tế và nhân quả về lý do tại sao con biểu đạt một điều gì đó hay không?

19.6. Cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống

Con yêu dấu, có những đệ tử tâm linh, đặc biệt trong thế giới Tây phương, đã tiến bộ đáng kể. Những đệ tử này đã sẵn sàng biểu hiện một tầng mức nào đó của quả vị Phật nhưng họ vẫn chưa khắc phục được ngã tách biệt đó. Nếu con đã lắng nghe những gì các thày nói thì điều các thày thực sự muốn nói là con thử để ý xem có hai tiến trình diễn ra song song trên đường tu tâm linh của con. Có một tiến trình mà các thày đã giải thích, cụ thể là con mang trong bốn thể phàm của con một số vết thương hay chấn thương. Điều này đã tạo ra các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt và ngay cả ngã gốc – vẫn chỉ là một ngã tách biệt trong số nhiều ngã khác – và những thứ này nằm trong bốn thể phàm của con. Để hóa giải chúng và được tự do, con phải thực hiện một khía cạnh gần như máy móc là thỉnh cầu năng lượng sẽ biến hóa năng lượng cấu tạo chúng. Con cũng phải làm công việc ý thức là đi sâu vào chúng, nhìn ra niềm tin hay ảo tưởng làm nền tảng cho chúng, rồi một cách ý thức, con chọn một thực tại cao hơn.

Bây giờ điều các thày đang nói là cho dù con đã làm những công việc đó, có thể vẫn còn một cái ngã tách biệt được tạo ra, chẳng hạn, trong khi con bị chi phối bởi chấn thương nhập đời cùng ngã gốc của con. Ngã tách biệt này giờ đây có một cái nhìn về thế nào là con người mà con phải là, thế nào là một người tâm linh mang chấn thương nhập đời đó. Cho dù con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con cũng cần giải quyết cái ngã tách biệt đang cầm giữ hình ảnh cho rằng con phải là người như thế nào.

Con cũng có thể diễn tả điểm này một cách khác, cụ thể là có một tiến trình giải quyết tất cả những thứ kia – có thể nói là các chấn thương, vết thương, ngã tách biệt, phàm linh nội tại giống như những thỏi nam châm đang thu hút nhận thức của cái Ta Biết, đang thu hút sự nhận biết cho nó đồng hóa với chúng. Đây là những cái gì rất đặc thù, cá biệt. Nhưng vượt ngoài những thứ đó ra còn có cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Suốt thời gian dài con từng đầu thai, rất có thể là ở một tầng cấp nào đó, con đã mang những vết thương, chấn thương, ngã tách biệt đó. Nhưng có một tầng cấp khác nơi con đã tạo dựng một cách nhìn tổng thể về cuộc sống trên địa cầu và cách con nhìn chính mình trong quan hệ với cuộc sống trên địa cầu.

Đó là một cái ngã tách biệt, nhưng có lẽ sẽ hữu ích nếu con nghĩ bao quát hơn và thấy đó là cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Nhiều người trong các con, đặc biệt nếu con đã lớn lên trong thế giới Tây phương, mang một tư duy rất đường thẳng cho rằng luôn luôn có nhân và có quả. Đối với con, điều này có nghĩa là mỗi khi con làm việc gì thì đó là quả. Vi vậy con phải có một lý do mà con có thể giải thích cho người khác, đặc biệt những ai bị tác động bởi việc làm của con. Con cũng phải có một lý do mà con có thể giải thích cho chính mình, kể cả tâm vỏ ngoài, thậm chí các ngã tách biệt của con. Nếu con không thể giải thích thì nhất định sẽ có một ngã tách biệt nào đó, có lẽ mấy cái ngã tách biệt, sẽ chất vấn việc con đang làm, có lẽ còn buộc tội con đã làm gì sai trái.

Cũng có thể có những người khác và tất nhiên là sa nhân cũng đang truyền bá trong tâm thức tập thể cách nhận thức chung chung là con luôn luôn phải có một lý do, và lý do này phải thỏa đáng theo một tiêu chuẩn nhất định. Nếu con là người Công giáo thì có những điều người ta chờ đợi con phải làm. Nếu con không làm hay làm cách khác, con phải có khả năng giải thích – và nếu thế, may ra con vẫn được phép làm vậy. Chắc chắn nếu con làm điều gì không thể chấp nhận và con không thể giải thích, thì con sẽ bị lên án. Điều tương tự cũng xảy ra trong hầu hết mọi môi trường khác trên địa cầu, ngay cả các tổ chức tâm linh và Thời Mới, thậm chí – như các thày đã đề cập – các tổ chức của chân sư thăng thiên trong quá khứ đã có một xu hướng phán xét lẫn nhau vô cùng mạnh mẽ.

Điều thày muốn nói là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào quả vị Phật, con có thể được lợi lạc nếu con xem xét quá trình này, xem xét cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Sau đó con sẽ có thể nói: “À, có một khái niệm là khi tôi làm việc gì, tôi phải có một lý do mà tôi có thể giải thích, nhưng tại sao tôi phải làm vậy chứ? Tại sao tôi phải tự biện hộ? Tôi là một sinh thể độc lập với quyền tự quyết y như mọi người. Tôi gần như hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của người khác. Chẳng phải là tôi cũng phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của tôi hay sao, và như vậy tôi có thể nói là tôi không có bổn phận giải thích tại sao tôi làm? Thậm chí tôi không cần giải thích cả cho chính mình. Nếu tôi hành động theo sự thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ của tôi, tại sao tôi phải biện minh và giải thích để tâm đường thẳng có thể nhét nó vào hệ thống tin tưởng mà nó đã bị nhồi sọ trong kiếp này lẫn nhiều kiếp trước? Tôi chẳng có thể nhìn vào tâm này hay sao, xem nó là một ngã tách biệt, và hơn thế, còn xem nó là một cái nhìn tổng thể về cuộc sống mà tôi đã bước vào?” Rồi con nói: “Tôi không muốn tuân theo thế giới quan này, hệ thống tin tưởng này nữa. Tôi không muốn đóng vai trong tấn tuồng cuồng đại này nữa. Tôi không muốn kéo dài truyện kể cá nhân về con người mà tôi phải là trong vũ trụ vật chất này nữa. Tôi sẵn sàng đập tan hàng rào và bước vượt ra ngoài.”

19.7. Cầm giữ không gian trên địa cầu

Đây là những giai đoạn cao nhất của quả vị Ki-tô. Đây là những giai đoạn của quả vị Phật, những giai đoạn sơ khởi. Những ai trong số các con cần đi qua giai đoạn này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có thể dùng lời dạy này để nhanh chóng bước qua tiến trình đó. Khi con tới điểm sẵn sàng làm một việc mà con không thể giải thích, không thể biện hộ theo một cách để người khác có thể hiểu và chấp nhận, hay để tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu và chấp nhận, thì con sẽ trải nghiệm một tầng cấp tự do mới. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con sẽ làm một số chuyện ngông cuồng vỏ ngoài, mà có nghĩa là ở bên trong, con sẽ cảm nhận một tự do mới. Điều này có thể dẫn con đến một giai đoạn khi con suy nghiệm ý nghĩa thực sự của việc là Phật trong hiện thân, hay việc đạt đến một mức độ tâm thức Phật khi con còn đầu thai. Về điểm này, thày sẽ giảng thêm. Mặc dù thày vẫn biết chỉ có một số ít người sẵn sàng nắm bắt được, thày cảm thấy việc truyền rải lời dạy này trong bát cung vật lý là quan trọng.

Người ta bảo rằng đức Phật cầm giữ không gian cho địa cầu. Trách vụ của thày trong Đại đoàn Thăng thiên là Chủ tể Thế gian (Lord of the World) nơi thày ngồi như đức Phật và cầm giữ không gian. Thật khó lòng diễn tả bằng ngôn từ nhưng con có thể nói thế này: Trong Ánh sáng Mẫu-Vật và ngay trong chính không gian, có sẵn một cơ chế khiến cho một số biểu hiện có thể rất nhanh chóng tạo thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó tăng cường, và chẳng hạn đối với một hành tinh, xoắn ốc này có thể khiến cho hành tinh tự hủy diệt.

Về cơ bản, ở đây chúng ta có thể nói là nếu không có gì giảm bớt hiện tượng trên thì những hành tinh nơi sa nhân đã đầu thai sẽ rất nhanh chóng tự hủy diệt. Các hành tinh này sẽ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ và đơn giản sẽ bị năng lượng làm nổ tung. Điều xảy ra trong quá trình này không hoàn toàn giống như quá trình lỗ đen (black hole) nhưng con có thể dùng lỗ đen để minh họa. Con cũng biết là trong một lỗ đen khi con vượt quá một chân trời nhất định, các định luật tự nhiên sẽ ngưng hoạt động. Nói cách khác, nếu một hành tinh bị suy thoái đến mức đó, không gian sẽ co lại và hành tinh sẽ sụp vào bên trong. Vậy Phật làm gì? Phật ngồi đó nơi cõi thăng thiên, cầm giữ sự quân bình tâm linh và ngăn chặn không cho không gian – là không gian trong đó địa cầu có thể tồn tại – bị co lại và sụp xuống để biến thành một điểm dị biệt (singularity).

Chúng ta có thể giải thích điều này cách khác. Mặc dù mọi thứ đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật (mỗi cấu trúc mà con thấy trên địa cầu đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật) nhưng không một cấu trúc nào có thể hình thành trừ khi có một khoảng trống để nó hình thành trong đó. Trước khi một hành tinh được các Elohim tạo dựng, trước hết không gian phải được khoanh tròn cái đã, rồi sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật mới có thể tạo ra các cấu trúc sẽ lấp đầy khoảng không gian đó. Đức Phật cầm giữ không gian. Các Elohim tạo ra địa cầu, rồi các sinh thể cứ thế mà hiện thân và tùy ý sử dụng địa cầu.     

Ở một thời điểm đã có quyết định là trái đất sẽ là một hành tinh nơi sa nhân được phép đầu thai, cho nên lúc bấy giờ cần đến một sinh thể với tâm thức Phật có khả năng cầm giữ không gian cho trái đất hầu trái đất không bị co sụp lại. Tất nhiên, vị Phật đó không phải là thày vì khi đó thày chưa thăng thiên, nhưng hiện nay đây là trách vụ thày đang đảm nhiệm. Thuở đó có một vị Phật khác cầm giữ không gian, cũng như đã có nhiều vị Phật khác kể từ đó đến nay.

Sẽ tới một điểm khi con đạt được một tầng mức nào đó của quả vị Phật thì con sẽ không chỉ bắt đầu hiểu được khái niệm này một cách trí thức, mà con sẽ bắt đầu trải nghiệm thực tại này bên trong bản thân con. Sau đó con sẽ ngộ ra là khi con đạt đến một mức tâm thức Phật trong khi mình còn đầu thai vật lý, con có khả năng hình thành một dòng chảy hình số 8 với thày, với đức Phật mà thày là. Con thấy đó, trong tư cách là Phật, thày nguyện cầm giữ không gian cho trái đất để tất cả chúng sinh đầu thai trên trái đất có thể làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết của họ mà không khiến cho trái đất sụp đổ.

Hiển nhiên, con là một trong những sinh thể đang đầu thai trên trái đất, cho nên con có thể nhận ra một điều sâu xa ở đây. Tại sao trên địa cầu lại có chiến tranh? À, trong nhãn quan rộng lớn, chính thày đang cầm giữ không gian cho phép sa nhân gây chiến. Có phải chỉ sa nhân mới quyết định có chiến tranh trên trái đất? Không, không đâu con. Trên trái đất có chiến tranh là vì loài người đầu thai đang cho phép trong tâm họ, trong bốn thể phàm của họ và trong tâm thức tập thể, có một khoảng không gian nơi chiến tranh có thể hiện hữu.

Nói cách khác, thày đang cho phép không gian tồn tại trong ý nghĩa rộng lớn, nhưng thật ra những gì được biểu hiện trong cõi vật lý đòi hỏi phải có những người đầu thai cung cấp khoảng không gian trong tâm họ để chuyện này xảy ra. Sự kiện thày cầm giữ không gian không có nghĩa là phải có chiến tranh trên địa cầu. Cho nên chiến tranh chỉ có mặt khi những người đang đầu thai cho phép nó xảy ra. Điều con có thể khởi sự làm (khi con đạt đến những tầng đó của tâm thức Phật) là nhìn nhận rằng bởi vì con đang đầu thai vật lý, bởi vì con đã đạt đến mức độ không dính mắc giúp con không còn tìm cách trải bày ra một câu chuyện cá nhân hay một tấn tuồng cuồng đại, cho nên con đang ở trong một trạng thái tâm thức không dính mắc, không ràng buộc. Và vì con không bị ràng buộc cho nên con có sự tùy chọn để quyết định rút lại không gian khỏi một số biểu hiện nhị nguyên.

Thày không khuyên con bắt đầu ngay với chiến tranh vì đó là một vấn đề to lớn, nhưng thày đề nghị con hãy tìm một biểu hiện nào hấp dẫn đối với cá nhân con. Xong con hãy trước hết suy ngẫm điều đó, con rút lại không gian khỏi biểu hiện đó trong bốn thể phàm của con, nhưng sau đó con có thể bắt đầu mở rộng tầm hoạt động, con lần hồi đạt tới điểm con rút không gian khỏi tâm thức tập thể.  

19.8. Một vị Phật có thể làm được bao nhiêu

Thày sẽ nói với con là chỉ một người với tâm thức Phật cũng có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó – không phải chiến tranh, bởi vì nó sẽ đòi hỏi nhiều người hơn với tâm thức Phật. Nhưng trong các lãnh vực khác không mang động lượng mạnh mẽ, quả thật con có thể rút lại không gian. Chẳng hạn, rất có thể sẽ chỉ cần một người với đủ trình độ quả vị Phật để rút không gian khỏi tệ nạn ấu dâm, có nghĩa là không một kẻ ấu dâm nào sẽ có thể đầu thai trên địa cầu sau thời hạn đó.

Tuy nhiên có một số lãnh vực nơi một vị Phật duy nhất không thể thay đổi tình thế, nhưng bằng cách rút lại không gian, con sẽ tạo dễ dàng cho đủ số người đi đến quyết định: “Chúng tôi không còn muốn biểu hiện này trong xã hội chúng tôi hay trên hành tinh chúng tôi nữa.” Và khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Hoàng kim, thì nhận thức toàn cầu sẽ ngày càng nâng lên – và con đã bắt đầu thấy sự tăng trưởng này rồi đó, nhưng nó sẽ còn tăng trưởng hơn nữa. Rồi sẽ tới điểm khi loài người nhận ra là những gì chúng ta cho phép biểu hiện trên hành tinh là thẩm quyền quyết định của chúng ta. Đó là lúc một vị Phật đang hiện thân có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó, và việc này sẽ tạo rất nhiều dễ dãi cho một túc số tới hạn những con người tiến tới quyết định vỏ ngoài: “Chúng ta muốn hành tinh này không còn bóng dáng tệ nạn nô lệ, buôn người, lạm dụng ma túy, hay thao túng nền kinh tế, tất cả những biểu hiện đó.” Và cuối cùng, có thể động lượng sẽ mãnh liệt đến độ sẽ có đủ số người quyết định là chúng ta muốn hành tinh không còn bóng dáng chiến tranh nữa. Điều này có thể xảy ra. Nó sẽ xảy ra.  

Con thấy đó, con yêu dấu, đây là một số lời dạy cho một số các con. Nhiều người trong các con sẽ có thể bỏ nó qua một bên. Nhưng thày đề nghị con đừng bỏ qua cái ý tưởng là tuy con có thể giải quyết ngã gốc cùng các ngã tách biệt khác của con, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, đó là sự xoay chuyển trong thái độ toàn diện của con, trong cách con nhìn chính mình.

19.9. Những người không tiến bước

Nếu con nhìn vào các phong trào tâm linh, con sẽ thấy trong nhiều trường hợp có những người đã tham gia một phong trào, đã đi theo một giáo lý và ngay cả đã áp dụng giáo lý và tu tập một số kỹ thuật suốt nhiều thập niên. Họ có tầm hiểu biết to lớn về đường tu tâm linh, một tầm hiểu biết trí thức và đường thẳng. Thậm chí họ còn có thể dựng lên một nhân cách vỏ ngoài biết “đi đứng đúng điệu, nói năng đúng điệu” và hành xử như một người tâm linh. Vì vậy họ có thể tỏ ra rất tâm linh, hài hòa, cân bằng và tự chủ. Nếu con nhìn với con mắt nội tâm, con sẽ thấy tất cả chỉ là vỏ ngoài. Họ đã không thật sự thay đổi cái nhìn tổng thể về cuộc sống và về chính họ. Thật sự có thể nói là nếu nghĩ theo cách 144 tầng tâm thức, có những người có thể đã theo giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30 năm trời nhưng họ chỉ vươn lên được từ tầng 60 đến tầng 68 chẳng hạn, trong khi họ có tiềm năng vươn lên cao hơn rất nhiều trong thời gian đó. Tại sao họ không lên cao hơn được? Đó là vì cái nhìn tổng thể của họ về bản thân đã không chuyển đổi. Họ đã không sẵn lòng bước qua cuộc xoay chuyển cách mạng đó.

Như thày có nói, có một số người đã không tiến bộ cho dù họ đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài. Cũng có một số người khác đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài, và một cách nào đó, họ đã chứng đạt một mức tâm thức nào đó, nhưng họ đã không xoay chuyển cái nhìn tổng thể về cuộc sống cho tới mức chấp nhận được là họ đã tiến bộ. Như sứ giả này một số năm về trước đạt tới điểm ông nhận ra là một phần tự ngã của ông muốn cảm thấy mình là một đệ tử tâm linh cao cấp, nó muốn tự hào về chuyện này. Ông nhận ra là để tránh cảm thấy tự hào, ông không dám thừa nhận là mình đã tiến bộ. Ông phải kinh qua một quá trình tự nhủ rằng: “Tôi có tin là các giáo lý tâm linh hiệu nghiệm hay không? À, nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và nếu tôi đã áp dụng giáo lý từng nấy năm trời thì tôi đã phải có tiến bộ. Vì nếu giáo lý hiệu nghiệm thì tôi phải tiến bộ. Và nếu tôi không tiến bộ, tại sao tôi cứ mất công áp dụng giáo lý làm gì? Và nếu tôi không tin giáo lý hiệu nghiệm, tại sao tôi lại mất công áp dụng giáo lý? Nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và tôi đã áp dụng giáo lý, thì bắt buộc tôi đã phải có tiến bộ. Nhìn nhận điều này có gì sai trái đâu?”

19.10. Chấp nhận con có thể là một công cụ

Ông trải qua một cuộc xoay chuyển khi ông thừa nhận là ông đã có một số tiến bộ, và đó chính là tại sao ông đã có thể đồng ý khi Giê-su đến gần ông và nói: “Con có sẵn lòng làm điều này cho thày không?” Ông đã có thể chấp thuận: “Thưa vâng, có lẽ quả thật con có thể là một công cụ.” Điều này cũng áp dụng cho con. Nhiều người trong các con đã tu tập, đã tiến bộ, nhưng vẫn còn một sự xoay chuyển mà con chưa trải qua cho nên con không thể nhận công việc đó.

Có những đệ tử. mặc dù đã học giáo lý và dường như cũng đã tu tập, vẫn chưa thực sự xoay chuyển tâm thức ở bên trong. Điều họ đã làm vỏ ngoài là họ đã tạo dựng cái nhân cách cho rằng họ là người tâm linh, cho nên họ tưởng là họ đã chứng đạt nhiều hơn thực tế. Song con có một số đệ tử đã kinh qua những bước tiến nội tâm nhưng họ lại có một nhân cách vỏ ngoài không cho phép họ nhìn ra điều đó, cho nên họ không công nhận bước tiến của họ.

Tất nhiên, đa số các con đều thuộc loại đệ tử đã có tiến bộ, con đã tu tập nhưng con chỉ đơn giản không dám nhìn nhận chuyện này. Con đã không dám đứng lui lại để thấy có một loại ngã tách biệt ngăn cản con nhận ra mình đang đứng ở đâu trên đường tu và tiềm năng của con là gì ở mức hiện tại của mình.

Điều này áp dụng cho hầu hết các con. Con có thể được lợi lạc nếu con suy ngẫm điểm này và sẵn lòng xoay chuyển và nhìn nhận: “Tôi là một đệ tử đã tiến khá xa trên đường tu. Tôi đã phần nào trưởng thành. Tôi có một số chứng đạt tâm linh cho nên tôi có khả năng làm cánh cửa mở. Tôi có khả năng phụng sự. Tôi có khả năng vun bồi sự hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Tôi biết được bước kế tiếp của tôi trong Sứ vụ Thiêng liêng. Tôi thực sự có khả năng làm gì đó trên địa cầu, không phải vì tôi là tác nhân mà vì tôi có thể đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ của tôi và cống hiến một cái gì chính đáng, có giá trị, đáng trân trọng, xây dựng và tốt đẹp.”

Bao nhiêu người trong các con đã dám nhìn nhận điều này nơi bản thân mình? Con yêu dấu, Thánh linh, Hiện diện TA LÀ của con, các chân sư thăng thiên, tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con cứ nhất định bám giữ một cái nhìn hạn chế về chính mình, tất nhiên các thày sẽ không áp đặt lên con và buộc con làm cánh cửa mở. Các thày không thể đạp cửa cho nó mở ra, mà chỉ có con mới có thể mở cửa. Nhiều các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển này rất nhanh chóng, con chỉ cần cả gan chấp nhận là mình đang ở một mức của đường tu – thật không quan trọng đó là mức nào – nơi con có thể là cánh cửa mở một phần nào đó. Thế thì con hãy dám đảm nhận điều này, hãy dám biểu lộ nó. Con hãy bình an với nó. Bình an với bất kỳ phản ứng nào mà con có thể nhận từ môi trường chung quanh.

Con yêu dấu, đây là bài giảng mà thày đã muốn đem lại. Thày cũng muốn cảm ơn con đã có mặt ở đây. Thày bày tỏ lòng biết ơn đối với những ai sẽ học hỏi những lời dạy này, áp dụng lời dạy, áp dụng các dụng cụ và như vậy bắt đầu nắm bắt được các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và cả gan đem ra thực hiện. Với lòng biết ơn của Phật, thày niêm con và thày cũng niêm hội nghị này. Bình an của thày sẽ luôn luôn ở bên con – bất cứ khi nào con muốn!

15 | Phán xử của Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su.  Ý định của thày trong bài giảng này là trao cho con một số lời dạy sẽ không áp dụng cho mọi người, chắc chắn không cho tất cả mọi người có thể tìm thấy lời dạy này hiểu theo nghĩa rộng. Nó sẽ áp dụng cho nhiều người trong số các con, và thày khuyên con không nên ngồi đây và dùng tâm vỏ ngoài để xét đoán xem nó có áp dụng cho con hay không. Con không thể biết được điều này với tâm vỏ ngoài và con không nhất thiết có thể biết được ở mức nhận biết hiện thời của con. Con sẽ biết được khi con vươn lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về các tầng cao hơn này.

15.1. Những người làm ngơ hay phủ nhận các thế lực bóng tối

Con yêu dấu, nếu con nhìn hành tinh địa cầu hôm nay, con có thể thấy như các thày vừa đề cập, là có rất nhiều nhóm người khác nhau ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, với nhiều hệ thống tín ngưỡng cùng nhiều thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, điều thày muốn con lưu ý ở đây là có một thành phần trong lãnh vực tâm linh – những người trong phong trào Thời Mới, thần bí, huyền bí, với tâm cởi mở – tin rằng hoặc không có bóng tối, không có thế lực bóng tối, hoặc trong cương vị là người tâm linh họ không nên chú ý tới các thế lực đó, vì làm như vậy sẽ trao cho chúng quyền năng.

Lẽ tự nhiên, các thày đã ban cho con qua đợt truyền pháp này nhiều lời giảng về các sinh thể sa ngã. Các thày đã cho con những lời dạy về khái niệm avatar, về sự kiện con đã đến địa cầu và đã phải hứng chịu chấn thương từ sa nhân như thế nào. Vậy thì liệu điều người ta bảo có đúng hoặc có thật hay chăng, rằng tà lực không hiện hữu hay con không nên chú ý đến chúng? Đây là một vấn đề tế nhị, theo nghĩa là trên địa cầu chỉ có một ít người không cần chú ý đến tà lực.

Trên thực tế, bất cứ ai là avatar đều phải lưu ý đến việc tìm hiểu sa nhân và những điều chúng làm, vì chúng chính là những kẻ đã tấn công con khi con đến với sứ mạng này, chúng là kẻ đã khiến con tạo ra ngã gốc của con. Chừng nào con còn không sẵn lòng nhìn vào sự hiện hữu của tà lực và cách chúng đã chi phối con như thế nào trong quá khứ, thì con không thể thoát ra khỏi ngã gốc. Và nếu con không thoát ra khỏi ngã gốc thì con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.  

Thực tế đáng buồn là có đến hàng chục ngàn, ngay cả hàng trăm ngàn người trong lãnh vực Thời Mới có một tiềm năng cao trong Sứ vụ của mình, nhưng chừng nào họ còn duy trì thái độ là họ phài làm ngơ trước tà lực và không để ý đến chúng, thì họ vẫn tự cắt đứt khỏi việc hoàn thành tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ của họ. Họ đã đạt đến một trình độ nào đó và có thể họ cảm thấy rất thoải mái ở mức đó, phần nào vì họ có cảm giác: “Làm gì có tà lực nào đang tấn công tôi.” Tất nhiên, tà lực không đang tấn công họ vì họ không là mối đe dọa cho tà lực.

15.2. Điều tà lực sợ nhất

Vậy cái gì là mối đe dọa cho tà lực? Đâu là điều chúng cực kỳ muốn tránh? À, điều chúng muốn tránh là có người đang đầu thai vật lý vươn lên tới mức có thể nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy mình có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất. Đây là điều chúng sợ hãi tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể nào cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra đối với nhiều người trong các con, cũng như đối với một số những ai tìm được lời dạy này trong phạm vi rộng lớn hơn, khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại sự phán xử của Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Khi con nhìn vào cuộc đời của thày, con sẽ thấy thày đối đầu với sa nhân như thế nào, và con có thể nhìn vào chính con ngày nay và suy ngẫm xem điều này có nghĩa gì đối với con hôm nay.

Không nhất thiết phải giống như những gì con thấy trong đời thày, mà có nghĩa là con cần đạt tới điểm con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Con nhận xét điều đó bên trong con – chứ không phải vì thày đang nói với con hay vì con đang đọc bài truyền đọc này. Thày không muốn con đọc bài này rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ lên đường tham gia cuộc thánh chiến, vạch mặt sa nhân, thách thức sa nhân.” Nó phải đến từ bên trong, và con yêu dấu, nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết được chấn thương nhập đời mà sa nhân đã sử dụng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

15.3. Con bị chấn thương nhập đời quy định

Con hiểu chứ, con yêu dấu, có một cơ chế có thể khởi động ngay cả khi con đã có các lời dạy mà con đã nhận được cho tới giáo lý về chấn thương nhập đời. Gần như thể trong cương vị một đệ tử tâm linh, con bước vào một tâm thái cho rằng chỉ cần đạt được ngày càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh, ngày càng nhiều hiểu biết hơn về tự ngã, về tâm lý, về cách chữa lành tâm lý của mình. Gần như thể con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng nếu con nhìn kỹ ngã này, nó cũng nghĩ rằng sự đột phá tối hậu vẫn nằm đâu đó trong tương lai. Một ngày nào đó, đột phá sẽ xảy đến nếu con cứ tiếp tục làm những gì con đang làm bây giờ. Như bào huynh yêu dấu của thày, Saint Germain, có nói: Có một thời con đã tiến bộ một cách tiệm tiến, và cũng có những thời khi con cần thực hiện một xoay chuyển cách mạng trong tâm thức.

Xoay chuyển cách mạng mà con cần thực hiện nếu con muốn bước lên một tầng cao hơn, là nhìn nhận rằng điều quy định con như một sinh thể hiện thân trên địa cầu chính là chấn thương nhập đời của con. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên. Tất cả những thứ khác mà con có thể đã làm – các loại liệu pháp khác nhau, tu học những giáo lý khác nhau, thực hành các dụng cụ tâm linh – đều đã giúp đem lại cho con một sự thay đổi tiệm tiến, và con đã có tinh tấn khi làm vậy. Nhưng chúng sẽ không thực sự xoay chuyển tâm thức của con vì chúng không động đến chấn thương nhập đời – như thể chúng chỉ chạy vòng quanh chứ không đâm thẳng vào vấn đề. Đó là tại sao con cần làm cuộc xoay chuyển và nhận ra là đã đến lúc con biết rõ từ bên trong (vì con nhận diện được sự thật trong lời dạy các thày) rằng bước kế tiếp của con là nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời này. Con không thể cứ đi vòng quanh, con không thể cứ tránh né vấn đề. Con không thể đặt trọng tâm vào điều gì khác, con không thể nghĩ rằng nếu con cứ tiếp tục đọc thỉnh và học hỏi giáo lý thì một ngày kia, đùng một cái, chuyện đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không xảy ra. Có thể con cần phải lấy một quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Quyển sách Các kiếp của tôi có mô tả một cách như vậy, và lẽ tự nhiên, sa nhân có nhiều cách khác nhau để làm chuyện đó. Một số các con đã hứng chịu chấn thương nhập đời khi thiện ý của con bị sa nhân gạt gẫm, con bị chúng lừa dối xong bị chúng phản bội. Nhiều loại cảnh huống khác cũng có tác động. Cho tới khi con phát hiện chấn thương nhập đời đó, con sẽ không thể thực sự hiển thị và chấp nhận quả vị Ki-tô của mình, con không thể chấp nhận mình là Ki-tô trên địa cầu. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì trong cốt lõi, sa nhân đã làm gì khi chúng gây chấn thương nhập đời cho con? Phải, chúng đã tạo ra một sự phân rẽ trong bản thể con, trong bốn thể phàm của con. Cốt lõi của sự phân rẽ này không hẳn là lòng sợ hãi cho dù con có thể nghĩ vậy. Cốt lõi của sự phân rẽ này là lòng ngờ vực. Kẻ thù quỷ quyệt nhất trên đường tu tâm linh kỳ thực là lòng ngờ vực.

15.4. Khắc phục nỗi ngờ vực cốt lõi

Con đã đến đây như một avatar với ý định tốt đẹp nhất, thế rồi sa nhân giáng chấn thương đó lên con, và bỗng nhiên con bắt đầu nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Liệu tôi có quyền đến đây chăng? Ở đây người ta có đón nhận tôi chăng? Liệu tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Liệu tôi có cần biến thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?” Tất cả những nghi vấn như vậy, gần như vô số những nỗi ngờ vực đủ loại.

Trong nhiều trường hợp, con thấy điều đó bên trong con, rằng con có thể tự nghi ngờ rất nhanh chóng. Điều này cũng có mặt tốt của nó, theo nghĩa là con có tâm cởi mở, con cởi mở để nhìn vào bản thân và tự thay đổi. Đây là một điểm tích cực đã giúp con tăng triển trên đường tu. Nhưng con cũng phải nhìn nhận một mối nguy tiềm tàng vì con thấy có những người trên địa cầu với tâm hoàn toàn khép kín. Họ tin tuyệt đối là họ đúng, và ít ra trên bề nổi, họ có vẻ không có chút nghi ngờ gì là họ đúng. Tất nhiên ở mức thật sâu thẳm, ai ai cũng đều mang những nỗi nghi ngờ khác nhau, nhưng nhiều người vẫn đưa ra được một bộ mặt, một nhân cách, qua đó họ phóng chiếu ra bên ngoài rằng họ đúng và họ biết là họ đúng, và hình như họ không có nghi vấn nào hết.

Một số các con quen biết những người như vậy, và một số các con đã ngồi đó tự hỏi: “Làm thế nào họ có thể tự tin đến thế? Tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình đến như vậy?” Nhiều các con sẽ nhận ra là mình mang khuynh hướng tự ngờ vực đó – đặc biệt khi con phải chạm trán với những người có tính tình gọi là vô cùng quyết đoán, áp đảo. “Ồ, hay là có lẽ họ đúng chăng?” Thế là bỗng nhiên con rơi vào một vòng luẩn quẩn trong tâm, và vòng luẩn quẩn này được tạo ra bởi tâm đường thẳng, tâm phân tích.

Tâm phân tích có khả năng làm gì chứ? Nó luôn luôn có thể nghĩ ra đủ loại luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ đề tài nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề. Khi con mang khuynh hướng nghi ngờ đó, tâm phân tích của con luôn luôn có thể đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, hay có lẽ con không nên lên tiếng. Có lẽ con không nên thách thức người đó? Lỡ rốt cuộc họ đúng thì sao? Hay có lẽ họ được quyền xử sự như vậy, và có lẽ con nên bỏ qua và tuân phục họ, hay con nên rút lui và để yên cho họ mà không thách thức họ?

Con hiểu điều thày vừa nói ở trên: Mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng. Chúng đã làm gì chứ? Với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã mưu toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng. Điều chúng tuyệt đối không muốn là con đạt tới một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những gì con nghi ngờ về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con. Chỉ khi nào con xem xét nỗi nghi ngờ thì con mới thấy là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng đó là một ảo tưởng. Tại sao đó là một ảo tưởng? Vì nó nhị nguyên, có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Khi con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực, thì con thấy được đối cực của quan điểm đã khiến con ngờ vực. Khi đó con thấy là con cũng có thể nghĩ ra những quan điểm chính đáng để hỗ trợ cho đối cực này, và đó là lúc con thấy không một quan điểm nào trong số đó là thực tại tối hậu.

15.5. Lựa bỏ nỗi nghi ngờ hiện sinh

Con có hiểu chăng, con yêu dấu? Sa nhân chỉ có thể hoạt động trong nhị nguyên. Nhị nguyên luôn luôn là một đối cực. Làm sao sa nhân có thể khoác vào bất kỳ dáng vẻ thẩm quyền nào? Làm sao chúng khiến người ta tin rằng đây có một quan điểm, một quan điểm nhị nguyên, và đó là chân lý tuyệt đối? À, chúng chỉ làm được vậy bằng cách phớt lờ đối cực nhị nguyên ngược lại, bằng cách giảm giá trị của nó, che giấu nó và khiến cho mọi người làm ngơ hay nghi ngờ nó. Và như vậy, chúng tâng một đối cực lên thành chân lý tuyệt đối. Đôi khi chúng cũng gán cho đối cực ngược lại là xấu ác, và tất nhiên, con có thể thấy sự thể này khắp thế giới khi người ta khêu lên: đúng và sai, sự thật và dối trá, tư bản và cộng sản, Cơ đốc giáo và mọi tôn giáo khác, vân vân và vân vân. Quá nhiều đối cực nhị nguyên với một bên hoàn toàn tốt và bên kia hoàn toàn xấu.

Khi con nhìn thấy điều này ở mức cá nhân trong chính chấn thương nhập đời của mình, nhìn thấy làm thế nào con đã khoác vào một tin tưởng nhất định đã khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây – và sau đó con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống hoài hoài – thì con có thể lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể của tôi.” Điều quan trọng nhất con có thể lựa bỏ ở những tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng là cái chúng ta có thể gọi là sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt nơi đây.

Con yêu dấu, một trong những mô thức thông thường do sa nhân tạo ra (là một mô thức mà sứ giả này chưa nhận ra một cách ý thức cho đến khi thày ban lời dạy này) là khiến con nghĩ rằng, vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu (trong cảnh huống đã gây ra chấn thương nhập đời), cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Nói cách khác, con nghĩ là mình phải toàn hảo, và nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng. Nhiều người trong các con có thể nhận diện ra nét này.

Sứ giả này đã có một trải nghiệm lý thú khi lái xe đến hội nghị này. Trong cuộc trò chuyện và không suy nghĩ gì trước, ông nói: “Bạn biết đấy, thật ra tôi chưa bao giờ phát hiện ra điều gì xấu ác trong con người tôi.” Xong ông ngừng lại, giật mình bởi câu nói của mình, vì ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó trước đây. Sự thật là tuy ông đã sẵn lòng quan sát bản thân, đã nhìn sâu vào tâm lý mình, ông chưa bao giờ khám phá một yếu tố xấu ác nào trong bản thể của ông. Điều này cũng đúng cho hầu hết các con và hầu hết những ai sẽ đọc bài giảng này. Con yêu dấu, điều này cũng đúng cho mỗi avatar. Trong bản thể của con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã kinh qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Vì vậy, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? À, có nghĩa con không phải là một sinh thể sa ngã. Con không giống như các sinh thể sa ngã. Cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế nào đó, con có quyền thách thức sa nhân.

15.6. Làm thế nào thách thức sa nhân

Con có quyền, không nhất thiết là đứng lên buộc tội chúng sai trái, vì sa nhân rất thích tạo ra một trận chiến nhị nguyên khi có một người bảo: “Bạn sai rồi!” và một người khác lập tức có phản ứng bênh vực, cãi lại: “Không, chính bạn mới sai chứ!” Thế là nổ ra một tranh chấp dai dẳng sẽ không bao giờ ngừng lại.

Thật ra đây không phải là chuyện thách thức sa nhân bằng cách bảo chúng sai. Cách thực sự để thách sa nhân là nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức mà bạn đang có.” Vậy đâu là giải pháp thay thế? Nói cho cùng và theo nghĩa phổ quát nhất, đó chính là Ki-tô, tâm thức Ki-tô là giải pháp thay thế cho tâm thức sa ngã.

Đương nhiên, điều này có thể được diễn đạt nhiều cách khác nhau. Con có thể bước vào bất kỳ lãnh vực nào của cuộc sống, và một khi con lên những tầng cao hơn đó của Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phát triển được sự phân biện Ki-tô giúp con bước vào – và nhiều người trong các con sẽ thấy là kỳ thực mình có khả năng làm vậy. Nó khởi sự với một khả năng đọc được rung động. Trong các cuộc bàn luận tại đây, nhiều người đã bày tỏ là ở một thời điểm nào đó, con đã tìm được một giáo lý tâm linh hay một đạo sư hay một ý tưởng nào đó, và con chỉ cảm nhận: “Ồ, tôi không mặn mà cái này. Tôi sẽ không bước vào cái này.” Đây là khởi đầu của phân biện khi con có khả năng đọc được độ rung.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nói ra bằng lời tại sao con cảm thấy như vậy hay cảm giác đó là gì, nhưng khi con bước lên cao hơn trong quả vị Ki-tô, con sẽ bắt đầu có khả năng diễn tả điều đó qua lời nói. Con bắt đầu có thể bước vào gần như mọi khía cạnh cuộc sống, hay ít ra những lãnh vực mà con hiểu biết thành thạo, và con có thể nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Con không cần phải công khai lên án cái đó là xấu ác hay sa ngã hay bất cứ gì khác. Con tìm được cách dùng ngôn từ mà mọi người có thể liên hệ và chấp nhận. Con có thể bày tỏ đó không phải là quan điểm cao nhất mà có một giải pháp thay thế. Đây là một cách thách thức tâm thức sa ngã.

15.7. Ứng phó với những tấn công cá nhân

Đối với một số các con, điều cũng có thể xảy ra ở một mức cá nhân hơn là con gặp những người hoặc là sa nhân, hoặc có tâm thức sa ngã, và con thách thức họ trực tiếp. Một số các con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của mình. Con yêu dấu, không cần phải thách thức sa nhân bằng cách nhảy vào xung đột nhị nguyên với họ. Kỳ thực, cách xây dựng hơn, ít ra trong một thời gian, có thể là khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, vì sẽ dễ dàng hơn nếu con giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân (impersonal). Con thấy đó, con yêu dấu, khi sa nhân cảm thấy họ bị thách thức, họ sẽ làm gì chứ? Luôn luôn họ sẽ buộc tội ngược lại. Con có thể nói với họ: “Tôi không đồng ý với những ý tưởng bạn đưa ra,” nhưng bản năng của sa nhân sẽ khiến họ tấn công con một cách cá nhân.

Làm thế nào ứng phó với một cuộc tấn công cá nhân mà con có thể gặp, như chẳng hạn sứ giả này chắc chắn đã từng gặp rất nhiều lần? À, chừng nào con còn mang ngờ vực đó trong bản thể của con thì việc ứng phó sẽ rất khó khăn. Là người với tâm cởi mở, tự nhận biết và tự xem xét, khi có ai nói gì đó về con thì con luôn luôn cân nhắc: “Có thể nào họ đúng chăng? Tôi có cần thay đổi hay không? Tôi có quá hung hãn hay không? Tôi có như thế này, tôi có như thế kia?” Một lần nữa, làm thế nào con loại bỏ được ngờ vực chứ? À, chỉ bằng mỗi một cách là nhìn vào chấn thương nhập đời của con.

Khi con đạt tới điểm nhận ra là mình có quyền được ở đây và trong bản thể con không có gì xấu ác, thì con không thách thức người khác để hạ thấp hay chỉ trích họ, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là. Thật ra con có thể đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đứng lên bới móc: “Đâu là những điều sai trái, những điều xấu xa, những ý tưởng sai lầm, đâu là những chuyện tôi có thể thách thức?” Con chỉ đơn giản là chính con. Con bắt đầu biểu đạt chính con, những gì con biết, những sáng ngộ mà con có, những kinh nghiệm mà con đã nhận được. Khi làm vậy tất nhiên, con sẽ thách thức tâm thức sa ngã, và đôi khi con sẽ gặp chính các sa nhân cảm thấy con đã tấn công cá nhân họ vì họ luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách duy nhất để thực sự ứng phó là con không xem cách phản ứng của họ nhắm vào cá nhân con, bởi vì một lần nữa, con không làm chuyện này do một thâm ý cá nhân – có đúng không con? Con có thể nhìn nhận khi con nhìn lại đời mình, là khi con nói ra điều gì hay bày tỏ một quan điểm, con muốn người khác đồng ý với con vì như vậy con sẽ cảm thấy mình được xác chứng. Nếu họ bất đồng với con thì vết thương mà con mang bên trong được khơi dậy, nỗi bất an, nỗi ngờ vực, rồi con sẽ đau lòng. Con mang thâm ý cá nhân mong muốn người khác đồng ý với con hầu con không phải cảm thấy đau lòng. Đó là ý thày muốn nói qua từ “thâm ý cá nhân” đối với một avatar.

Con yêu dấu, một avatar không có thâm ý cá nhân giống như sa nhân là hà hiếp người khác để được lợi lộc. Đây có thể gọi là thâm ý cá nhân tổn thương của một avatar, là khi con tìm cách thay đổi người khác để bù đắp cho vết thương của con. Tất nhiên, một khi con loại bỏ được vết thương này thì con không cần làm vậy nữa. Thậm chí con không làm vậy nữa với thái độ là mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Như các thày đã nói, con đạt tới điểm con chỉ đơn giản là chính mình, con tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, con đồng sáng tạo, và chính điều này sẽ thách thức sa nhân.

15.8. Thực hiện cuộc xoay chuyển Ki-tô

Tuy nhiên như các thày cũng đã nói, có thể sẽ tới những điểm một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con đã tiêu hủy năng lượng, con đã buông bỏ ngã tách biệt đó, có lẽ cả ngã gốc, nhưng vẫn có một cái ngã tách biệt khác cứ suy nghĩ rằng con không được thách thức, hay không được trực diện, hay không được nhẫn tâm, hay bất kỳ ý tưởng nào đại loại như vậy. Nói cách khác, con đã thật sự sẵn sàng để bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có cái ngã tách biệt kia ở bên trong đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy bởi một lý do nào đó.    

Có lẽ con nghĩ: “Tôi là một người tâm linh, tôi phải hiền từ hòa nhã với mọi người,” như nhiều người thiện tâm trong lãnh vực Thời Mới thường nghĩ vậy. Con cần sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?” Xong con nhìn ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm một cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng hay xúc phạm người khác.”

Con yêu dấu, các thày đã có nói, quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hoặc mình cảm thấy thoải mái. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu khắp các lối đường bụi bặm của đất Palestine, thỉnh thoảng thày có gặp những người cảm thấy vô cùng khó chịu chỉ do Hiện diện của thày, vì ánh sáng mà thày tỏa rạng đã khuấy động những con quỷ bên trong họ – nếu có thể nói như vậy – và bỗng nhiên những con quỷ này la lớn, hét vào mặt thày. Thày không bảo là điều này sẽ nhất thiết xảy ra cho con, nhưng con cần nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Con cần đạt tới điểm con không dùng phản ứng của người khác để mà nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Một lần nữa, con đạt tới điểm là con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là con người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng lại theo mức tâm thức của họ. Rồi một lần nữa, con có quyền tiếp tục là con người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì. Phản ứng của họ là gì chứ? Nói cho cùng, đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Có thể họ mang một khuôn nếp tâm lý, có thể họ mang một số phàm linh nội tại, có thể họ mang những con quỷ đang kiểm soát họ và khiến họ phản ứng như vậy cho nên họ không đang chọn lựa một cách ý thức. Nói cho cùng, khi con nhìn ngược trở lại quá trình của dòng sống đó, dòng sống của họ đã làm một số chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con yêu dấu, đó là quyền tự quyết của họ, không phải quyền tự quyết của con. Con không có thẩm quyền gì trên quyền tự quyết của họ. Khi con hoàn toàn công nhận là con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của một người khác thì con cũng công nhận là con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

15.9. Lý tưởng Bồ tát

Và đây là điểm con cần nhận ra là với tư cách một avatar, nhiều người trong các con đã đến đây vì con đã nhìn vào địa cầu, nhìn vào đau khổ trên trái đất và có lòng trắc ẩn đối với những ai đang bị khổ đau. Đây là một lý tưởng được diễn tả tại phương Đông, đặc biệt liên quan đến thày Quan Âm, qua lý tưởng Bồ tát. Truyện được kể ở phương Đông là Quan Âm đã đạt tới điểm thày hội đủ tư cách thăng thiên – hay Niết bàn theo cách gọi như vậy – và thày đã có thể rời khỏi địa cầu. Nhưng khi thày sẵn sàng bỏ lại địa cầu, thày đã ngoái nhìn lại một lần chót và nghe thấy tiếng than khóc của thế gian, của những người đang đau khổ, và thày quyết định ở lại với trái đất để cứu giúp loài người vượt qua khổ đau. Đó chính là lý tưởng Bồ tát của một người đã đủ tư cách thăng thiên nhưng vẫn chọn ở lại với địa cầu. Nhưng câu chuyện trên có thể dễ dàng được chuyển sang trường hợp của nhiều avatar cũng đã quyết định đến địa cầu vì đã nghe thấy tiếng than khóc và nhìn thấy đau khổ của thế gian.

Các thày đã trao cho con những gì? Sứ giả này đã ngộ ra điều gì khi suy nghiệm các giáo lý về chấn thương nhập đời? Đó là con, như một avatar, chưa ở trong trạng thái tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con có một mức tâm thức cao hơn ở đây, con đến từ một hành tinh tự nhiên. Một lần nữa, trong bản thể con không có xấu ác, nhưng con vẫn mang một điều gì đó chưa giải quyết, một điều gì đó mà con chưa học xong. Đâu là điều mà con chưa học? À, đó là bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách lớn nhất mà con có thể gặp.

Con yêu dấu, con có thể lập luận rằng vấn đề duy nhất của sa nhân là chúng đã không hoàn toàn trải nghiệm và chấp nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Chúng vẫn cố tìm những cách thức để khuynh đảo quyền tự quyết, quyền tự quyết của người khác, hay tìm cách căng rộng quyền tự quyết của chúng ra – sa nhân tưởng như vậy – để nó cho chúng nhiều tự do hơn, vì chúng không hiểu là chúng đã có tự do tuyệt đối rồi.

Con hiểu chứ con? Một số sa nhân sẽ không nhìn nhận là chúng đang có quyền tự quyết tuyệt đối. Chúng đã tạo ra trong tâm tấn tuồng cuồng đại cho rằng Thượng đế đang hạn chế quyền tự quyết của chúng, cho nên cách duy nhất để biểu lộ quyền tự quyết là nổi loạn chống lại ngài, bằng cách làm ngược lại những gì ngài muốn chúng làm. Chúng chỉ không chịu nhìn nhận là thượng đế đó – thượng đế muốn chúng làm cái gì đó – chính là sự tạo dựng của chúng chỉ hiện hữu cho tâm chúng. Trong khi đó thì Đấng Sáng tạo đích thực đã nói rằng: “Con có quyền tự quyết hoàn toàn.” Một trong những thử thách lớn nhất cho một sinh thể tự nhận biết, cho dù sa ngã hay không sa ngã, là nhìn nhận bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Là một avatar, con đã chưa nắm bắt được toàn bộ bản chất tuyệt đối của tự quyết. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy người ta đau khổ, con chỉ có thể lý luận là có gì đó đã bị lệch lạc, hư hỏng, do họ đã chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ của con, nhiệm vụ mà chính con đã tự giao phó, là con sẽ đi xuống giúp họ có những chọn lựa đúng hơn – không phải bằng cách thao túng họ mà qua nhiều cách khác. Nhiệm vụ của con như một avatar có phải là đến đây và làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của người khác hay không?

15.10. Sự khác biệt cơ bản của quyền tự quyết

Tuyệt đối là không! Theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Điều này có nghĩa chăng là con không thể giúp được ai? Không, không có nghĩa như vậy. Có một sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Đây là một khác biệt cơ yếu.   

Nó không có vẻ gì là một khác biệt lớn lắm, nhưng một khi con suy nghiệm ý tưởng này trong tâm và thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm, con có thể đạt tới điểm thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng mà Saint Germain nói đến. Bỗng nhiên con ngộ ra khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào. Điều đó, con yêu dấu, sẽ là thử thách lớn nhất của con như một avatar trên địa cầu. Con sẽ phải sẵn lòng làm những gì Saint Germain đã nói đến: Nhìn nhận là mình đã sai lầm. Không cứ là con đã sai trái – sai trái trong nghĩa xấu xa, tà ác – khi con đến địa cầu. Nhưng con phải nhìn nhận là thái độ mà con đã có, đã đưa con tới trái đất, cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con phải sẵn lòng nhìn nhận điều này vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó trong tư cách một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu, hay sự thành công của mình trên địa cầu, là để thay đổi một ai khác, thay đổi các chọn lựa tự quyết của họ, thì con không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ nào khác mà con phải làm, một vấn đề nào khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại nào khác mà con phải hoàn tất. Nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi, con yêu dấu. Đó là một trong những điều các thày muốn chỉ ra cho con thấy trong quyển sách Các kiếp của tôi, khi thày đã bỏ ra hai triệu năm trời để vượt qua cái ảo tưởng đã đưa thày tới đây. Nó có thể kéo dài lâu hơn thế nữa.

15.11. Trong Sứ vụ của con có việc thăng thiên hay không?

Con cần nhận diện là nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có khả năng con sẽ thăng thiên sau kiếp này, thì việc thăng thiên sẽ đòi hỏi ở con những gì? Đôi khi, và đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các đệ tử có một cái nhìn gần như máy móc về thăng thiên. Con nghĩ là nếu con làm việc này và làm việc kia, và nếu con hiểu điều này và hiểu điều kia thì đùng một cái, con sẽ thăng thiên! Một lần nữa, sẽ không bao giờ có chuyện “đùng một cái”. Thăng thiên sẽ cần gì? Sẽ cần (như sứ giả này đã nhìn thấy trong một ánh chớp trực giác cách đây nhiều năm) là con đạt tới điểm con đứng trước cánh cổng đó. Trước khi con có thể bước qua cổng, con phải ngoái nhìn lại trái đất. Thày cũng biết có những truyện kể rằng những ai ngoái nhìn lại sẽ biến thành cột muối, nhưng điều này sẽ không xảy ra khi con ở mức thăng thiên. Con phải nhìn lại. Con phải nghe thấy tiếng than khóc của thế gian. Xong con phải duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại?”

Chỉ khi nào con nhận ra là không còn gì trong bản thể mình đang níu kéo mình ở lại trái đất, chỉ khi đó con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!” Sau đó con có thể thăng thiên, nhưng đây là một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Bây giờ có một điểm nữa. Các thày công nhận là mỗi khi các thày ban ra một lời dạy, nó có thể khiến cho một số người diễn giải theo một cách hơi thiếu quân bình. Các thày đã ban ra rất nhiều lời dạy về thăng thiên, và suốt nhiều thập niên nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã mang ý tưởng là điều duy nhất thực sự quan trọng, điều duy nhất mà con thực sự phải làm như một đệ tử của chân sư, là nỗ lực đạt đến thăng thiên. Con cần thăng thiên càng nhanh càng tốt, chắc chắn sau kiếp này nếu có thể hay trong kiếp tới. Đây là trường hợp cho một số các con nhưng không phải cho tất cả các con.

Chúng ta đang sắp sửa đem lại được gì cho hành tinh này? Thời đại Hoàng kim của Saint Germain! Có những sinh thể đang đầu thai, kể cả các avatar, muốn góp phần trong công cuộc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra toàn bộ trước khi con mãn kiếp sống hiện thời, ngay cả nếu con vẫn còn trẻ tuổi vào lúc này. Có thể một số các con đã không thảo vào Sứ vụ của mình việc thăng thiên sau kiếp này vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim. Điều này, con chỉ có thể thấy được một khi con lên đến các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, và một lần nữa, con chỉ thấy được nó rõ ràng một khi con giải quyết chấn thương nhập đời.

Con hãy công nhận điều này, con yêu dấu: Nhiều avatar, do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì họ nghĩ họ sẽ tránh xa khỏi chấn thương nhập đời của họ. Tất nhiên là khi con thăng thiên, con sẽ rời xa khỏi chấn thương nhập đời, nhưng con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào nó và trực diện với nó. Có một cơ chế trốn chạy là khi người ta cảm thấy: “Ồ, đương đầu với chấn thương nhập đời thật quá sức của tôi, cho nên tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện thăng thiên, và tôi chắc chắn tôi có thể làm được mà không phải giáp mặt với chấn thương nhập đời.” Chuyện này không thể làm được, con ạ!

Một lần nữa, điều gì sẽ giúp con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain? Điều gì sẽ cho phép con trải nghiệm và thực sự vui hường nó được? Đó là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Không có nghĩa là khi con giải quyết chấn thương nhập đời thì con sẽ tự động thăng thiên hay con sẽ phải thăng thiên. Con ạ, con có thể chọn ở lại trái đất và nói: “Thày biết đó, con đã phải vật lộn với chấn thương nhập đời này suốt hai triệu năm qua, chắc chắn con sẽ muốn được kinh nghiệm hành tinh này mà không có nó.” Thật không có gì sai trái nếu con chọn như vậy, con yêu dấu – ngay cả nếu con có thể tùy chọn thăng thiên hay không.

Tất nhiên như các thày đã nói trong các đợt truyền pháp trước, cũng đúng là khi có ai thăng thiên thì điều này sẽ tác động tích cực đến địa cầu. Sự thăng thiên sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Chắc chắn khi có ai giải quyết được chấn thương nhập đời và bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình thì điều này cũng tác động tích cực nếu con ở lại trong hiện thân. Một lần nữa, đây không phải là một điều ép buộc cho con. Đã có những đệ tử của chân sư gần như cảm thấy mình bị buộc phải thăng thiên, hay phải nỗ lực thăng thiên vì họ phải làm vậy để giúp địa cầu. Nhưng con có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Con yêu dấu, nếu ngày mai tất cả các con đều thăng thiên hết thì sẽ còn ai nữa để đem lại Thời Hoàng kim đây? [Có người trong cử tọa trả lời “Chúng con!”] Không, vì con sẽ thăng thiên, và một khi con thăng thiên, con sẽ không thể đem nó vào thị hiện vật lý.

15.12. Thăng thiên hay không thăng thiên

Con yêu dấu, đã từng có những thời đại trước trên trái đất (các thày đã có giảng về các giống dân gốc và những điều tương tự), đã từng có những chu kỳ khi một nền văn minh dần dần vươn lên một trình độ rất cao và có một nhóm dòng sống đã đóng góp đắc lực để đưa nền văn minh lên mức đó. Lý do họ đã góp phần nâng cao nền văn minh là vì họ cũng đã nâng cao tâm thức của họ và bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên khi làm vậy, họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Họ có sự chọn lựa tự quyết: thăng thiên hay không thăng thiên. Đã xảy ra những trường hợp khi quá nhiều dòng sống già dặn đó chọn thăng thiên cùng một lúc, đến độ sau khi họ bước ra khỏi hiện thân thì nền văn minh đã rất nhanh chóng rơi vào một vòng xoáy hướng hạ và sụp đổ. Có thể nói là đã không có đủ số người đầu thai để cầm giữ sự cân bằng tâm linh và duy trì nền văn minh trong vòng xoáy hướng thượng. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là sa nhân đã có thể dọn tới, nắm giữ quyền bính và kéo nền văn minh đi xuống.    

Con phải thận trọng và nhìn nhận là luôn luôn có một thế quân bình cần tìm ra. Một lần nữa, các thày không đang nhìn trở ngược lại và trách cứ những người kia đã chọn thăng thiên. Họ có quyền chọn như vậy, và đó chính là sự thử thách cho những ai nhìn vào những ví dụ đó mà vẫn còn ở tầng thấp hơn. Liệu họ sẽ bước lên và lấp đầy khoảng trống, hay là họ sẽ cho phép sa nhân đi vào chiếm lấy khoảng trống? Đó đã là chọn lựa và thử thách cho những người đó. Sự việc đã trải bày ra thế nào thì cũng hoàn toàn tốt thôi.

Thày chỉ giản dị nói với con là trong tư cách một đệ tử chân sư thăng thiên, con không cần phải dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Chắc chắn con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và nhờ vậy cũng có nhiều khả năng hơn để là một cánh cửa mở.

15.13. Sứ vụ Thiêng liêng đã không bị ép buộc lên con

Quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Con thấy đó, thật quan trọng khi con đến được điểm này vì, con yêu dấu, để hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con phải khắc phục ý niệm là có gì đó ép buộc lên con. Thậm chí con có thể có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, đã học giáo lý của các thày, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con. Có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình! Đó là điều mà ngã này cảm nhận.

Con cần nhận diện liệu con có mang khuynh hướng này hay không, xong con cần xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.” Con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình cho tới khi con chấp nhận nó một cách trọn vẹn và tuyệt đối. Nói cách khác, con không thể cảm thấy là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ con ở đây và thấy rõ kiếp hiện thân vật lý và mọi chuyện trên địa cầu khó khăn đến chừng nào, thì con đâm ra nghi ngờ là con có thể làm tròn hay đương nổi các chọn lựa đó. Thậm chí, con còn không chắc chắn là mình sẵn lòng thực hiện các chọn lựa này, cho nên bên trong con cảm thấy một xung đột nào đó, gần như thể con là – như thày từng nói cách đây 2000 năm – “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Nếu bên trong con có phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ Thiêng liêng mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một ngã tách biệt với ý chí khác hơn, thì con cần xem xét nó. Con không thể làm tròn tiềm năng cao nhất của Sứ vụ chừng nào con còn kéo lê cái ngã này theo con.

Một lần nữa, con cần làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào nó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét nó, tôi sẵn sàng bước sâu vào trong đó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.” Rồi con nhìn ra tính không thực của lý do và con nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi nhìn thấy đây là chọn lựa của ngã tách biệt, vì bất kể những gì đã tạo ra ngã tách biệt – một chấn thương, một tin tưởng sai lầm, bất kể – thì bây giờ tôi đã thấy nó rồi và tôi chọn để cho nó chết. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.” Chỉ khi nào con buông ngã tách biệt này thì con mới có thể thực sự vươn đến đó. Và chỉ khi đó con mới có thể ôm lấy Sứ vụ của mình – ôm một cách trọn vẹn.

Con yêu dấu, khi con nhìn lại cuộc đời của thày cách đây 2000 năm, nếu con thực sự thành thật, con sẽ có thể thấy thày là Ki-tô Hằng sống, nhưng theo một cách nào đó, thày là Ki-tô Hằng sống bất đắc dĩ. Chẳng hạn con thấy trong tình thế trước các biến cố dẫn đến việc thày bị bắt và đóng đinh, thày ngồi trong Vườn Gethsemane. Có người bảo rằng những giọt mồ hôi thày đổ ra là máu và có người thì bảo là không, nhưng chuyện này không phải là vấn đề. Vấn đề là thày đã thốt lên: “Cha ơi, nếu đây là ý muốn của Cha, hãy cho chén này lìa khỏi con.” Tuy vậy, sau đó thày lại nói: “Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha.”

Điều này cho con thấy gì? Rằng ngay cả thày đây, ở mức quả vị Ki-tô mà thày đã chứng được, vẫn còn phân rẽ trong bản thể mình khi thày cảm thấy có một ý muốn của thày và có một ý muốn cao hơn. Phải chăng Thượng đế đang ép buộc lên thày? Không, chính thày đã chọn lựa như vậy khi thày lập ra Sứ vụ của mình. Thày đã chọn lựa, nhưng vẫn có một thành phần trong cái ta vỏ ngoài của thày, trong nhân cách vỏ ngoài của thày, một cái ngã tách biệt vẫn chưa hoàn toàn ôm lấy và chấp nhận chọn lựa đó. Ý thày muốn nói là thế này: Điều đó, tất nhiên, cũng hoàn toàn tốt thôi. Nó xảy ra 2000 năm về trước vào một thời tâm thức dày đặc hơn rất nhiều. Khi đó thày là một trong những người đi tiên phong chứng tỏ tâm thức Ki-tô. Điều đó tốt hoàn toàn vào thời buổi đó, nhưng trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng bước lên cao hơn nữa, tiềm năng khắc phục sự phân rẽ đó trong bản thân mình và ôm lấy trọn vẹn Sứ vụ của con.

Hiển nhiên đây là điều thày mong muốn nhìn thấy nơi con, con yêu dấu. Liệu điều này có nghĩa là con sẽ hiển thị một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày cách đây 2000 năm hay chăng? “Đúng vậy! Có thể nghĩa là vậy cho con đó!” Con không nghĩ đó là điều thày mong muốn cho con sao? Con yêu dấu, con có nghĩ là thày – chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – lại mang chút tham vọng của tự ngã bảo rằng: “Ta đã từng là người chứng tỏ quả vị Ki-tô trên trái đất và ta không muốn bao giờ có người qua mặt được ta” hay sao?

Thày muốn con hoàn thành những công việc lớn lao hơn thày thuở trước – thày đã nói vậy cách đây 2000 năm. Thật không phải là vấn đề của thày nếu con đã không tin thày! Thày an bình với chuyện đó, thày phó mặc cho quyền tự quyết của con, và thày chỉ muốn chỉ ra cho con thấy đây là cách nhìn của thày. Thật sẽ là niềm vui tột cùng cho thày được chứng kiến nhiều người – một vạn người – hiển thị một tầng của quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể hiển thị cách đây 2000 năm, cho dù như thày vừa nói, họ có biểu lộ quả vị Ki-tô đó qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Con yêu dấu, thật là niềm vui tột cùng cho thày được trao con bài giảng này và thật sự được thấy những xoay chuyển tâm thức nơi những ai đã hấp thụ được. Thày sẽ vui mừng biết mấy được thấy nó lan tỏa ra như những vòng tròn trên mặt nước, giúp cho ngày càng nhiều người hơn đạt tới mức chấp nhận hoàn toàn tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình – chấp nhận trọn vẹn các chọn lựa của chính mình.

17 | Tầm nhìn omega về sự phán xử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Con yêu dấu, khi con trải nghiệm một bài giảng như bài chúng ta vừa trải nghiệm của Giê-su, thày nhớ lại khi hiện thân cùng với Giê-su, thỉnh thoảng thày ngồi đó mà cảm thấy gần như kinh ngạc khi nghe Giê-su phát biểu. Trong Kinh thánh có kể lại, “không có một người nào nói chuyện giống như người này,” và chắc chắn Giê-su có một cách sử dụng ngôn ngữ thật độc đáo, đẹp tuyệt vời. Ngay cả khi là một chân sư thăng thiên, tất nhiên thày cũng có thể trải nghiệm một bài truyền đọc. Thày trải nghiệm nó một cách khác hơn vì không những thày trải nghiệm sinh thể thăng thiên đang phát biểu như vị đó đang ở cõi thăng thiên, mà thày cũng trải nghiệm những gì tuôn ra qua trung gian sứ giả này.

Khi con xét đến sự khó khăn, khoảng cách rung động, khoảng cách trong mức tâm thức, khi con xét đến địa cầu này dày đặc chừng nào, thì con thấy được nỗi khó khăn trong việc đem Bản thể của một chân sư thăng thiên vào cõi này qua trung gian những lời nói của thế gian. Con phải ngưỡng phục khả năng của Giê-su đã có thể bày tỏ Bản thể của thày nhiều đến như vậy trong cõi dày đặc này. Nhưng con cũng phải gần như kinh ngạc khi thấy làm thế nào nguyên tiến trình giao tiếp từ cõi thăng thiên thông qua một sứ giả chưa thăng thiên lại có thể thực hiện được.

Đôi khi các thày biết là các đệ tử của mình có thể xem việc này là đương nhiên, họ cảm thấy: “Vậy à, chuyện này xem có vẻ dễ quá – sứ giả chỉ việc đi lên đó, nhắm mắt lại rồi mọi chuyện bắt đầu tuôn chảy.” Khi con nhận thức độ dày đặc của cõi này, đó thật là một tiến trình độc đáo mà con không nên cảm thấy nó quá dễ đến độ xem đó là chuyện thường tình.

17.1. Mặt omega của sự phán xử

Điều thày mong làm hôm nay là đem lại cho con phần nào góc nhìn omega của bài giảng của Giê-su. Mỗi lần các thày đề cập đến việc đem lại phán xử Ki-tô và thách thức sa nhân, luôn luôn có một tỷ lệ trong số các con sẽ có một phản ứng cưỡng lại. Không phải là thày đang chỉ trích con có phản ứng như vậy. Thày sẽ chỉ ra cho con thấy là có hai khía cạnh trong lý do vì sao con lại có phản ứng, vì sao con có thể cảm thấy do dự ngần ngại, vì sao con có thể không thích công việc này: “Có thật đây là việc của tôi? Tôi nên làm gì đây? Tôi không xem mình là một người hướng ngoại, tự tin lắm,” cùng nhiều ý nghĩ khác mà con có thể có.  

Con yêu dấu, như Giê-su đã nói, vũ khí chủ yếu của sa nhân là lòng ngờ vực, và tất nhiên nhiều người trong các con mang lòng ngờ vực này. Thật ra, tất cả các con nếu chưa giải quyết chấn thương nhập đời đều sẽ ngờ vực, lòng ngờ vực của sa nhân. Một phần trong phản ứng mà con có thể có chỉ đơn giản phát xuất từ đó. Con chưa giải quyết xong ngã gốc của con cho nên con mới cảm thấy do dự như thế. Thày có thể cam đoan với con là một khi con giải quyết ngã gốc, con sẽ không còn do dự như vậy nữa, ít ra khi con làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su nói đến.

Dù sao thì điều thày muốn trình bày là như Giê-su có nói, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con sẽ thăng thiên sau kiếp này. Cũng vậy, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc xông ra thách thức sa nhân một cách công khai. Điều Giê-su nói đến là khía cạnh alpha của việc thách thức sa nhân, là khi con lên tiếng về các ý tưởng của chúng, thậm chí con có thể sẵn sàng chạm trán với chúng ở mức cá nhân và cho phép chúng tấn công con hầu chúng phải nhận phán xử Ki-tô. Đối với những con còn lại, việc này không nằm trong Sứ vụ của con, không phải là những gì con đã ghi vào Sứ vụ về cách biểu hiện quả vị Ki-tô của mình ra sao. Và tất nhiên như mọi thứ khác, quả vị Ki-tô cũng có một mặt alpha và một mặt omega.

Vậy đâu là cách omega để thách thức sa nhân và đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân? Con yêu dấu, đó là yêu thương sa nhân. Ở tầm mức cá nhân, đây có thể là khi con chọn có quan hệ với sa nhân, dù trong phạm vi gia đình hay một mối quan hệ nào khác. Con đã chọn có liên hệ mật thiết với một số sinh thể sa ngã nhất định. Nếu con hòa điệu với Sứ vụ và nhìn xem những gì được thảo vào đó, có thể con sẽ nhận ra là kỳ thực con sẽ hiểu lầm Sứ vụ của con nếu con quyết định bằng tâm vỏ ngoài, dựa trên các lời dạy đã được ban ra, rằng: “Bây giờ tôi cần phải thách thức những người đó.” Nếu con là người uy thế trong giới quen biết của con, con quyết định: “Tôi cần thách thức người này.” Hay nếu con cảm thấy ai đó có thể là sa nhân, con nghĩ con cần thách thức người đó.  

Thày yêu cầu con hãy hòa nhập và không vội bắt đầu thách thức bất cứ ai cho đến khi con biết trong Sứ vụ mình có gì, cho đến khi con cảm thấy điều này đến từ bên trong. Không phải là con cần có một ấn tượng tận mắt về Sứ vụ rồi con xông ra thách thức sa nhân. Không, con đi theo trực giác của con. Nếu con nhận được thúc giục của trực giác để thách thức ai đó thì con cứ việc làm, nhưng con không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con phải thách thức họ.

Đặc biệt đối với các con cảm thấy do dự, thày yêu cầu con hãy trước tiên làm việc với chấn thương nhập đời của mình. Ngay cả khi con đã khắc phục được chấn thương nhập đời, thày yêu cầu con hãy hoà nhập và nhìn xem: “Việc tôi xông ra thách thức người khác có thật là chọn lựa của tôi không? Hay thay vào đó, chọn lựa của tôi là thương yêu họ?” Sau đó con cần nhận ra là trong việc hoàn thành ý muốn và tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ của con, chúng ta không đang nói đến chuyện yêu thương sa nhân theo cách thế phàm. Chúng ta đang nói đến việc yêu thương sa nhân theo một cách mà các thày gọi là vô điều kiện, và bây giờ thày muốn trình bày sự khác biệt cho con thấy.

17.2. Tình yêu nhân thế và tình yêu vô điều kiện

Con thấy đó, con yêu dấu, cách vô điều kiện, tình yêu vô điều kiện chỉ có thể được trao khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời của mình – nếu con là một avatar. Nếu con không là avatar mà là một cư dân nguyên thủy của trái đất, con cần vươn lên một mức cao của quả vị Ki-tô trước khi con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện, vì tất nhiên, tình yêu có điều kiện xuất phát từ một tâm lý chưa giải quyết. Nhiều khi các thày đã gọi đó là tình yêu sở hữu khi con nghĩ mình yêu ai đó, nhưng con làm vậy là vì con cho rằng người kia có thể cho con điều gì đó sẽ giúp con trở nên trọn vẹn, hoặc sẽ che lấp vết thương của con để con không cảm được vết thương. Đó là tại sao khi người ta yêu, người ta thường ở trong một trạng thái hưng phấn không cảm thấy vết thương của mình, hay bay bổng lên chín tầng mây và mọi chuyện đều tuyệt vời.

Lý do đơn giản là vì ngay lúc này họ không nhìn thấy vết thương, họ không đang cố giải quyết nó. Nhưng rồi một khi tuần trăng mật kết thúc, họ bắt đầu lại cảm được vết thương. Và họ phóng chiếu: “Ồ, người này không phải là tình yêu đích thực mà tôi hằng khao khát, cho nên tôi cần tìm người khác.” Tất nhiên, chuyện này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần.

Chừng nào con còn mang những vết thương đó, đặc biệt là chấn thương nhập đời, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện. Lấy ví dụ tình huống được mô tả trong quyển Các kiếp của tôi là sự phán xử của Lucifer, khi nhân vật chính trong sách bày tỏ tình yêu vô điều kiện đối với Lucifer – và đó là cơ hội chót của Lucifer. Liệu y sẽ đáp lại tình yêu vô điều kiện được biểu lộ bởi một người y đã quen biết trong cõi đầu thai vật lý? Nếu sa nhân không đáp lại tình yêu vô điều kiện thì đó chính là sự phán xử đối với sa nhân, là sự phán xử của Ki-tô.

Có thể một số các con cảm thấy đây là điều con chủ tâm muốn làm. Có một ai đó trong phạm vi ảnh hưởng của con mà con cảm thấy không nên thách thức. Vai trò của con không phải là thay đổi họ mà chỉ đơn giản là giúp họ nhìn ra một cách khác, một trạng thái tâm thức khác, cho nên cuối cùng sẽ tới một điểm con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện. Có lẽ không nhất thiết họ là sa nhân, có lẽ họ là một người hay một cư dân nguyên thủy của trái đất, thậm chí còn có thể là một avatar. Họ có khả năng biến đổi khi trải nghiệm một dạng tình yêu khác hơn là loại tình yêu họ đã từng trải nghiệm trên địa cầu.

Chắc chắn đó là một cách để con chứng tỏ là có một trạng thái tâm thức khác. Nói cách khác, điều hoàn toàn chính đáng trong khía cạnh alpha của quả vị Ki-tô là con bày tỏ một số quan điểm cùng ý tưởng, hay ngay cả con thách thức ý tưởng của người kia và giải thích tại sao đó là những ý tưởng nhị nguyên và tại sao chúng không phải là cao nhất. Nhưng khía cạnh omega là khi con chứng tỏ một trạng thái tâm thức khác hơn qua tình yêu vô điều kiện, qua việc yêu thương người khác. Hiển nhiên, điều này cũng áp dụng cho các thành viên trong gia đình con dù họ có là sa nhân hay không. Tất nhiên, thày không bảo con hãy đi vòng quanh, điểm mặt từng người con gặp và cố xét đoán họ với tâm vỏ ngoài: “Người này có phải là sa nhân hay chăng?” Vì như vậy, con có thể đặt ra trong tâm mình đủ loại tiêu chuẩn bảo rằng khi có ai xử sự thế này thế kia thì bắt buộc họ phải là sa nhân.

Con yêu dấu, các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên nguyên cả tổ chức với hàng ngàn thành viên dựng lên một nếp văn hóa vô cùng xét đoán. Trong một số trường hợp, mọi người tin chắc những người kia đều là sa nhân, và các thày đã thấy hiện tượng này biến thành gần như một bộ môn thi đấu nơi người ta tranh nhau phơi bày người nào là sa nhân, người nào không. Họ chạy loanh quanh buộc tội lẫn nhau, và nói chung, họ nghĩ bất cứ ai bất đồng với mình đều phải là sa nhân. Hiển nhiên, đây không phải là một tâm thái cân bằng và cũng không phải là điều các thày khuyến khích.

Tương tự, các thày cũng không khuyến khích con rơi vào xu hướng được tìm thấy trên thế giới gọi là thiện cảm dành cho ác quỷ, khi con nghĩ rằng con phải yêu tất cả mọi người. Thày Giê-su đã có nói về những người trong cộng đồng Thời Mới không chịu thừa nhận bất kỳ sự xấu ác nào. Có một số người khác tuy thừa nhận có xấu ác trong thế gian nhưng lại cho rằng cách khắc phục xấu ác là qua tình thương. Đúng vậy, cách khắc phục xấu ác là qua tình yêu nhưng đó phải là tình yêu vô điều kiện. Nếu không, nếu đó là tình yêu sở hữu, thì sa nhân sẽ chỉ đơn giản sử dụng tình yêu đó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng.

17.3. Có quan hệ với sa nhân

Hẳn là có một số trong các con sẽ cần nhìn ra là để vươn lên tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con cần nhìn nhận là con từng ở trong mối quan hệ với một sa nhân nào đó trong nhiều kiếp sống. Con sẽ cần tới điểm nhận diện điều này, và khi đó, con cần nhìn xem các vết thương, các cơ chế đã buộc con vào sa nhân đó là gì. Con cần nhìn xem các tin tưởng đứng đằng sau là gì, và cuối cùng con sẽ lần lần nhận ra là ở một tầng cấp nào đó của bản thể con, con đã nghĩ là mình có khả năng thay đổi sa nhân đó qua việc quan hệ với họ. Bằng cách yêu thương họ, con có thể thay đổi họ.

Đây là khi con cần bước lên một bước và thể nhập những gì Giê-su đã nói về sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Con không ở đây để thay đổi bất cứ ai dù là sa nhân hay không. Có thể nói, con đặc biệt không ở đây để thay đổi sa nhân. Nếu con cố thay đổi một cư dân nguyên thủy của trái đất thì trong nhiều trường hợp, người đó sẽ làm ngơ con. Nhưng sa nhân sẽ không làm ngơ con nếu con cố thay đổi chúng, chúng sẽ sử dụng con, chúng sẽ dùng ý muốn thay đổi của con đối với chúng để buộc chặt con lại với chúng, và ít nhất, để bòn rút năng lượng, đánh cắp năng lượng của con. Trong những trường hợp khác, chúng sẽ khuynh đảo, hay ngay cả tìm cách tiêu diệt con qua mong muốn cải tạo sa nhân của con.

Là một avatar, con thực sự phải đạt tới điểm nhận diện xem con đã rơi vào khuôn nếp đó hay không, con có ý muốn thay đổi sa nhân hay không. Sau đó, con phải hoàn toàn buông bỏ cái đó, phải để cho ngã đó chết đi. Con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô nếu con ở trong tâm thái đó, mà trong cốt lõi là một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân. Mong muốn cải tạo sa nhân sẽ luôn luôn nảy sinh từ chấn thương nhập đời khi con phải gặp chúng lần đầu tiên. Con đã bị chấn động, rồi một cách nào đó con đã tạo ra – trong nhiều trường hợp – cái quá trình lập luận rất dài dẫn con từng bước đến kết luận là những gì sa nhân đã gây cho con cũng trưng bày những gì chúng gây cho hành tinh. Và cách tốt nhất để giúp thay đổi hành tinh là con lựa ra một sa nhân nào đó, con có quan hệ thân thiết và nỗ lực cải tạo sa nhân đó.

Thế là cái đó trở thành một phần ngã gốc của con. Có thể có nhiều thứ khác trong ngã gốc mà qua đó con nghĩ con phải đem lại một số thay đổi cho địa cầu. Trong số đó là ý muốn thay đổi một sa nhân. Con không thể thực sự giải quyết ngã gốc cho đến khi con nhìn vào ý muốn thay đổi sa nhân này trước tiên và con buông nó ra. Con từ bỏ ý muốn đó vì con nhìn nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết, con nhìn nhận đó không phải là lý do con ở đây.

Ý muốn thay đổi một sa nhân không phải là cốt lõi ngã gốc của con. Cốt lõi ngã gốc là phản ứng của con trước chấn thương hay sự tàn bạo, sự lừa dối con đã phải đối mặt bất kể đó là gì. Để đối phó với chấn thương, con đã tạo ra cái ngã muốn cải tạo một sa nhân. Có thể nói đó là một khía cạnh của ngã gốc, nhưng ngã gốc của con đã không khởi đầu theo cách như vậy. Đây là tại sao để đi sâu vào cốt lõi của ngã gốc, con phải trước hết buông bỏ mong muốn cải tạo một sa nhân.

17.4. Sa nhân có thể được cải tạo hay không?

Điều này tất nhiên dẫn đến đề tài: “Sa nhân có thể được cải tạo hay không?” Thày sẽ xin con xem xét một câu hỏi chính xác hơn: “Liệu tôi sẽ bao giờ cải tạo được một sa nhân không?” Câu trả lời là: “Không, hoàn toàn không.” Không có gì chính con có thể làm hay nói sẽ cải tạo được một sa nhân. Hơn vậy nữa, không có gì con có thể làm hay nói sẽ thay đổi được bất cứ người nào khác. Tại sao vậy? Vì quyền tự quyết. Tuy nhiên, có nghĩa chăng là con bất lực, có nghĩa chăng là sự có mặt của con ở đây là bằng thừa? Không!

Để một người thay đổi, sẽ cần gì? Để một sa nhân thay đổi rồi bước theo một con đường hướng thượng, sẽ cần gì? Cả hai sẽ cần làm một chọn lựa. Con không thể buộc người khác chọn lựa. Con có thể buộc họ hành xử theo một cách nào đó và đây chính là điều sa nhân đã cố làm. Sa nhân cũng đã cố khuynh đảo và lừa dối để con phải lấy một số chọn lựa.

Nhưng nói cho cùng, con không có quyền lực để buộc người khác chọn lựa. Con có thể, như sa nhân thường làm, lợi dụng tâm lý của người kia và nhờ vậy thúc ép chọn lựa của họ. Con hiểu thày nói chứ: Ngay cả nếu con thúc ép chọn lựa của người khác thì việc này sẽ không cải tạo được họ, nó sẽ không cải tạo được sa nhân, nó sẽ không thay đổi được người kia theo một chiều hướng tăng triển tích cực.

Con có thể thay đổi họ theo một chiều hướng tiêu cực bằng cách cưỡng ép chọn lựa của họ, nhưng con không thể ép buộc một chọn lựa tích cực. Chọn lựa tích cực phải đến từ bên trong dòng sống đó, và trong nhiều trường hợp, chọn lựa sẽ chỉ đến sau khi họ đã nếm đủ một số trải nghiệm. Tất nhiên, điều con có thể làm là con có thể tạo cảm hứng cho họ chọn lựa cao hơn bằng cách chỉ ra cho họ thấy một giải pháp thay thế trạng thái tâm thức của họ, một con đường cao hơn. Bằng cách tạo cảm hứng và chứng tỏ cho họ thấy, con có thể khiến họ làm một chọn lựa khác. Không phải con đã bước vào tâm họ và tạo ra thay đổi trong đó, mà chính họ đã tự nguyện chọn lấy một chọn lựa khác.

Hiển nhiên, nếu họ không thấy con chứng tỏ trạng thái tâm thức cao hơn đó – hay như Giê-su nói: nếu thày đã không chứng tỏ là con có khả năng bước trên trái đất trong Tâm thức Ki-tô – thì họ đã không có sự tùy chọn. Đó chính là điều con có thể làm. Con có thể cho họ sự tùy chọn nhưng con không thể cưỡng ép chọn lựa của họ. Tất nhiên là con có thể làm giống như sa nhân và cố buộc mọi người phải chọn theo chiều hướng hạ, nhưng con yêu dấu, đó chắc chắn không phải là lý do con ở đây như một avatar. Con hãy nhìn vào bãi chiến trường trên trái đất, và đâu là nguyên do chứ? Là vì sa nhân đã buộc con người phải lấy những chọn lựa đẩy họ vào một vòng xoắn ốc hướng hạ. Như thày vừa nói, con không thể ép buộc một ai làm những chọn lựa sẽ đưa họ vào xoắn ốc hướng thượng. Là một avatar, con cần hoàn toàn rũ bỏ ý muốn cải tạo hay thay đổi bất cứ ai. Chỉ khi đó, con mới có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện.

17.5. Con không thể có tình yêu vô điều kiện

Tại sao thày lại nói là con không thể tình yêu nhân thế nhưng con có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện? À, là vì tình yêu nhân thế là tình yêu sở hữu, có nghĩa là con có thể sở hữu nó, con có thể lấy nó làm của riêng. Trên thế giới có những người, thậm chí nhiều người, nghĩ họ là người tâm linh, là người Thời Mới, là người tràn đầy yêu thương. Họ yêu thương theo cách phàm phu, qua đó trong tiềm thức họ sử dụng tình yêu để được một cái gì đó từ người kia.

Trong một số trường hợp, họ không có ý định xấu ác, họ không thực sự trực tiếp lợi dụng người khác, nhưng bên trong, họ thầm mong người ta xem mình là tràn đầy tình thương. Khi họ bày tỏ tình yêu với ai đó, họ muốn khiến người kia chứng thực mong muốn của họ được xem là một người đầy tình thương. “Ồ, sao bạn là người hết lòng đến thế,” và như vậy họ cảm thấy mình được tán thành, tự ngã cảm thấy nó được tán thành.

Con không thể sở hữu tình yêu vô điều kiện, con không thể sở hữu tình yêu không sở hữu, nhưng con có thể mở tâm ra với nó như con mở tâm ra với quả vị Ki-tô. Tình yêu vô điều kiện là gì? À, đó chính là khía cạnh omega của tâm thức Ki-tô. Con không thể sở hữu tâm thức Ki-tô, con không thể cưỡng ép tâm thức Ki-tô. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài – tâm nhị nguyên, tâm phân tích – để cưỡng ép. Con có thể mơ tưởng mình là Ki-tô nhưng làm vậy sẽ không biến con thành Ki-tô. Con có thể cố tạo ra những hiện tượng có vẻ cho thấy là tâm con có quyền năng to lớn trên vật chất, như ngay cả Lucifer cũng đã làm được trong sách. Đó không phải là quả vị Ki-tô. Con có thể có tình yêu nhân thế và khiến người ta nghĩ con có nhiều tình thương đến thế, nhưng đó không phải là tình yêu Ki-tô. Như các thày đã nói, Thánh linh thổi nơi đâu nó muốn, thì tình yêu Ki-tô cũng chảy như vậy, nhưng nó chảy vào bất cứ nơi nào có một lối mở. Phải có một lối mở, và nếu con mong muốn thay đổi người khác thì trong bản thể con sẽ không có khe hở để tình yêu vô điều kiện có thể chảy vào.

Rất, rất có thể là nếu con biểu lộ tình yêu vô điều kiện với một sa nhân thì y sẽ chối bỏ nó. Y sẽ bị bối rối bởi tình yêu đó, thậm chí y còn có thể buộc tội con, hay lánh xa và không muốn liên hệ với con nữa. Điều này con cần chấp nhận. Các thày đã có giảng về những cuộc xoay chuyển cách mạng. Các thày có nói là có thể đến một điểm khi con đã giải quyết tâm lý của mình, đã giải quyết ngã gốc và chấn thương nhập đời của mình, đã tiêu hủy hết năng lượng, đã để cho ngã chết đí, nhưng lại có một ngã tách biệt khác vẫn còn một sự gắn buộc nào đó.

Chẳng hạn con cảm thấy là nếu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện thì con không thể bị chối bỏ, người khác không được chối bỏ con. Đã có những người đạt tới mức quả vị Ki-tô để có thể trở thành cánh cửa mở cho việc biểu lộ tình yêu vô điều kiện đối với một người khác, thế rồi tình yêu đó bị bác bỏ, và bởi vì họ mang cái ngã tách biệt đó cho nên đôi khi họ có thể rơi xuống một vòng xoáy hướng hạ. Họ bị dao động quá đỗi khi tình yêu đó bị từ chối đến độ nó kéo họ xuống một mức tâm thức thấp hơn. Thậm chí họ còn có thể quyết định sẽ không bao giờ tỏ lộ tình yêu vô điều kiện nữa.

Con cần nhìn nhận là ngay cả khi con có khả năng làm cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện, con vẫn có thể còn cái ngã tách biệt đó cầm giữ một loại hình ảnh nào đó về những gì phải xảy ra khi con biểu lộ tình yêu vô điều kiện. Ví dụ, con có thể mang một cái ngã cầm giữ một hình ảnh về những gì phải xảy ra khi con nói lên sự thật của con và thách thức sa nhân hay khi con thể hiện bản thể cao của con.

17.6. Tránh cảm thấy bị chối bỏ

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa quả vị Ki-tô – khi con là Ki-tô Hằng Sống, khi con thể hiện quả vị Ki-tô – không có nghĩa là con tuyệt đối hoàn hảo, là con đã giải quyết xong mọi khía cạnh của tâm lý mình và con đã lên tới tầng 144. Con có thể, ngay khi con bước cao hơn tầng 48, có được những thoáng hiện khi con biểu hiện quả vị Ki-tô hay thậm chí một dạng cao hơn của tình thương. Khi con lên cao hơn tầng 96, con có thể có những thoáng hiện – ngày càng thường xuyên hơn, trong khoảng thời gian dài hơn – ngụ trong tâm thức Ki-tô. Con đang biểu lộ tình yêu vô điều kiện nhưng tất nhiên, con vẫn phải bước tiếp lên cho tới tầng 144. Có nghĩa là vẫn còn những ảo tưởng mà con chưa khắc phục, và một số ảo tưởng này có thể liên hệ tới việc con nghĩ rằng người khác phải hồi đáp con một cách trong sáng khi con tiếp cận họ trong sự trong sáng.

Con thấy đó con yêu dấu, các avatar đều đến từ những hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, con quen với tình trạng khi con làm gì đó cho một ai với ý định trong sáng, thì người đó sẽ không trở mặt mà kết tội là con xấu. Khi con làm điều gì cho một sa nhân, hay ngay cả cho những con người trên địa cầu, có thể họ sẽ chối bỏ con một cách vô cùng hung hãn, hiểm độc, tàn nhẫn, cáo buộc. Ngay cả khi con đạt tới điểm có thể biểu hiện quả vị Ki-tô, cho dù là khía cạnh alpha hay omega, con vẫn cần lưu ý có thể còn một cái ngã, một ảo tưởng mà con chưa buông bỏ, và ngã này khiến con cảm thấy bị gạt bỏ, hay khiến con rơi vào những loại phản ứng tiêu cực khác khi người ta không phản hồi theo cách con chờ đợi.    

Vậy trong những trường hợp đó, con cần sẵn lòng nhìn vào chính mình và nắm lấy đó như một cơ hội khắc phục thêm một ảo tưởng, buông bỏ thêm một ngã tách biệt, hầu vươn lên tầng kế tiếp nơi con có thể biểu hiện tình yêu vô điều kiện nhiều hơn, ít dính mắc hơn với cách người ta tiếp nhận tình yêu đó. Nói cho cùng, để biểu hiện trọn vẹn tình yêu vô điều kiện, con cần phải hoàn toàn không dính mắc với cách phản hồi của người khác vì con không có bất kỳ ý định nào khi hành xử như vậy. Đóa hoa hồng nở ra trong vườn không hề có ý định lôi kéo người đi dạo phải dí mũi vào bông hoa. Nó không hề cảm thấy bị bỏ bê khi ai nấy đều rảo bước đi qua, bận rộn với chiếc điện thoại cầm tay vì họ nhất định phải trả lời cái SMS mới nhất cho bằng được.    

17.7. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô có thể đau đớn

Đây là những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Thày cũng hiểu đây không phải là những tầng thấp của quả vị Ki-tô. Con không cần tự trách mình khi con phản ứng như vậy. Một lần nữa, con không phải hoàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp hơn, con sẽ gặp một số tình huống, một số thời điểm, khi con là cánh cửa mở và có cái gì tuôn chảy qua con, có thể là một ý tưởng cao hơn, có thể là tình yêu vô điều kiện. Thế rồi bỗng chốc, giây phút huyền diệu đó bị phá vỡ, nếu có thể nói như vậy. Bây giờ con bước ra ngoài, trở về với mức tâm thức bình thường của mình, có nghĩa là con lại sử dụng mức tâm thức bình thường của con để phản ứng lại các hậu quả của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Nói cách khác, con phản ứng lại phản ứng của người khác, không ở mức quả vị Ki-tô con vừa biểu hiện trước đó mà với tâm thức bình thường của con.

Con yêu dấu, điều này không thể tránh khỏi, đó là một phần của con đường quả vị Ki-tô. Con có thể nghĩ chuyện này đã không xảy ra cho Giê-su nhưng hiển nhiên là nó đã xảy ra cho thày. Giê-su đã trải qua một giai đọan vô cùng do dự  biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thày thật nhạy cảm trước phản ứng của mọi người. Con thấy đó con yêu dấu, tất cả các thày đều đã kinh qua giai đọan này và các thày hoàn toàn không muốn khiến con nản lòng. Điều các thày muốn con nhận ra là sự kiện này không thể tránh khỏi. Con phải kinh qua giai đọan tạm thời này khi con xoay vào rồi lại xoay ra khỏi tâm thức Ki-tô, khiến con không thể tránh phản ứng lại trong tâm thức bình thường của mình những hậu quả của việc bày tỏ quả vị Ki-tô.

Điều này có nghĩa là nó có thể đau đớn, và nó có thể khó khăn. Thậm chí con còn có thể cảm thấy mình đã làm gì sai. Con đã quá mạnh mẽ, con đã quá cương nghị, hay con đã quá trìu mến, quá tốt bụng hay bất cứ gì khác. Con cần học cách nhìn xuyên thấu qua điều đó và nhận ra là phản ứng này trong con là một cơ hội để bước lên tầng tâm thức kế tiếp, để vượt qua ảo tưởng gắn liền với tầng tâm thức hiện thời và bước lên một tầng cao hơn nơi con có khả năng thể hiện nhiều quả vị Ki-tô hơn. Và khi con trở nên ý thức về quá trình này, con có thể mau chóng thực hiện cuộc xoay chuyển qua đó con không còn tự trách mình nữa, con không còn tự mắng mỏ, con không còn cảm thấy mình bất toàn. Con chỉ đơn giản nhận rõ sự thật tuyệt đối mà thật ra các thày đã cố truyền đạt cho con qua bộ sách về con đường tự điều ngự.

17.8. Phản ứng ở mức tâm thức của con

Trong quyển sách thứ sáu [Những Khai ngộ Thần bí về An bình], thày Nada đã nỗ lực hết sức giúp con nhìn ra là trên đường tu sẽ tới một điểm khi con nhìn nhận là con chưa đạt đến tầng tâm thức cao nhất. Con sẽ nhìn nhận là con đang ở tầng 87 chứ không phải tầng 144. Không ai đòi hỏi con phải có khả năng đối phó với cuộc sống trên địa cầu như con có thể làm ở tầng 144. Việc con phản ứng lại cuộc sống với tâm thức của tầng 87 – hay bất kỳ tầng nào khác ở chỗ con đang đứng – cũng hoàn toàn tốt thôi, hoàn toàn chấp nhận được từ các thày là chân sư thăng thiên.

Các thày không bao giờ đòi hỏi hay chờ đợi con phải phản ứng với một tầng cao hơn. Các thày không bao giờ lên án con vì con không phản ứng ở tầng cao hơn. Thày thừa biết đã từng có một số lời dạy và tổ chức của chân sư thăng thiên tạo ra một nếp văn hóa trách móc mọi người là không toàn hảo. Một lần nữa, các thày phải khởi đầu ở một điểm nào chứ.

Nhưng con có tiềm năng bước lên một mức nơi con có thể, theo một nghĩa nào đó, làm hòa với chính con người mà con đang là ngay bây giờ. Điều này không có nghĩa là con ngừng tăng triển và đi vào tâm thái nghĩ rằng: “À thế là tôi vô ngã rồi, tôi toàn hảo rồi, tôi không cần tăng triển nữa, tôi không cần xem xét bản thân nữa.” Con có thể làm hòa với sự kiện con đang đứng ở tầng tâm thức này, thay vì tự trách móc hay cảm thấy mình bị chậm trễ và đúng lý mình phải ở tầng cao hơn.

Các thày không muốn con sống hết kiếp đầu thai này mà cứ không ngừng cảm thấy mình còn tụt hậu, mình chưa đủ tốt. Con đang tốt đủ ở tầng tâm thức mà con đang đứng, và con không có lý do gì để lên án chính mình đã phản ứng ở tầng tâm thức này, thậm chí phản ứng lại việc mình đã biểu lộ quả vị Ki-tô cùng cách phản ứng của người khác.

Phản ứng của con, khi con sẵn lòng xem xét nó, là cơ hội để con nhìn ra ảo tưởng ở tầng hiện thời của con rồi vươn lên tầng kế tiếp. Đường tu luôn luôn đã từng là như vậy và sẽ luôn luôn là như vậy. Cũng y như vậy 2000 năm về trước khi Giê-su tiến gần đến tầng 144. Và cũng sẽ là như vậy cho tất cả chúng ta là những người đã từng hiện thân. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào địa cầu chưa là một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên là có thể có một sự chuyển đổi khi tầng tâm thức thấp nhất hiện thời không còn được phép có mặt trên địa cầu nữa.

17.9. Không có gì không ổn với vật chất

Cơ chế căn bản của đường tu là con đang ở một tầng nào đó. Con phản ứng theo cách như vậy. Bằng việc xem xét phản ứng, con có thể nhìn thấy cái ảo tưởng ở tầng đó hầu con vươn lên tầng kế tiếp. Đó là cơ học căn bản của đường tu tâm linh. Có thể nó có vẻ không hào nhoáng như một số người tưởng tượng, nhưng thày tin tưởng nhiều người trong các con đã tới được điểm nói rằng: “Tôi đã chán chê ảo tưởng rồi, tôi đã chán chê những mơ tưởng hoành tráng, tôi chỉ muốn biết đường tu vận hành như thế nào để tôi có thể tiến bước nhanh nhất, và tôi có thể vượt lên trên những cách phản ứng mất quân bình, tiêu cực, tự trách đó, và cảm thấy an bình khi ở đây.”

Nói cho cùng, con yêu dấu, làm thế nào con có thể an bình khi ở đây? À, con cần giải quyết chấn thương nhập đời vì chính đó là điều đã bứng con ra khỏi sự an bình con có trước đó khi con vừa đến đây như một avatar. Một phần trong tiến trình này, ngay cả khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, là sẽ vẫn còn một ngã tách biệt mà con cần xem xét. Ngã này tùy theo mỗi cá nhân, nhưng đó là ngã tách biệt con đã tạo ra khi con phản ứng lại cõi vật chất, cõi của vật chất, cõi của Mẹ, trong tình trạng nó hiện hữu trên trái đất. Con nhận thấy là trong tư cách một avatar, con đến từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất không dày đặc như thế này. Vật chất ít dày đặc thể hiện qua nhiều cách, nhưng một cách thể hiện là con không gặp phải những loại hậu quả con thấy trên trái đất. Trên một hành tinh tự nhiên, tâm con có quyền năng lớn hơn rất nhiều để thay đổi vật chất, và vật chất cũng sẵn sàng đáp ứng nhiều hơn với tâm con.

Con đã quen với việc mình có thể phạm vào cái con gọi là lỗi lầm. Nó có tạo ra một hậu quả vật lý nhưng khi con sẵn lòng đứng lui lại và thay đổi tâm thức, thì con có khả năng tháo gỡ và hoàn nguyên hậu quả vật lý đó. Nhưng khi con bước xuống trái đất và nhận ra là mình có thể làm một chọn lựa tạo ra một hậu quả vật lý và con không thể khắc phục hậu quả đó cho đến mãn kiếp đầu thai này – và thậm chí nó có thể đeo đuổi con trong cả những kiếp sau – thì con bị cú sốc. Con bị chấn động thấy vật chất dày đặc đến như vậy.    

Con hãy lưu ý là điều này không liên quan gì đến sa nhân cùng chấn thương nhập đời mà chúng đã áp đặt lên con. Đó chỉ đơn giản là phản ứng của con trước độ dày đặc quá đỗi của vật chất trên địa cầu, đến độ con có thể gây ra hậu quả mà con không thể dễ dàng tháo gỡ và nó sẽ dây dưa rất lâu. Điều này tạo ra một cái ngã tách biệt phản ứng, qua đó con thường xuyên rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với cõi Mẹ. Con thường cảm thấy là con không thể thoải mái, con không thể an bình trong cõi Mẹ, rằng có một cái gì không ổn với cõi Mẹ, rằng cõi Mẹ không được như vậy.

Con cần bước tới cuộc xoay chuyển cách mạng là con sẵn lòng nhìn vào vấn đề đó và thực sự chấp nhận hành tinh địa cầu như một công cụ giáo huấn cho một bực thang tâm thức nhất định. Cho nên để cung cấp cho con người những bài học mà họ cần học, vật chất cần phải dày đặc như nó vốn dày đặc. Vật chất cần phải ù lì đối với tâm con người như nó vốn ù lì. Bởi vì nếu không, tuyệt đại đa số loài người trên trái đất sẽ không học được bài học của mình.  

Tuy nhiên, là một avatar, con không phải học cùng những bài học mà hầu hết mọi người khác trên địa cầu phải học. Do đó con có khả năng khắc phục, nhưng con sẽ chỉ có thể khắc phục nếu con sẵn lòng nhìn vào vấn đề, nếu con sẵn lòng bước tới điểm con chấp nhận chẳng có gì là không ổn với vật chất.

17.10. Phản ứng của con đối với vật chất

Chính phản ứng của con đối với vật chất đã khiến con nghĩ vật chất có gì đó không ổn. Cho nên việc giải quyết ngã tách biệt này là trách nhiệm của con. Chỉ khi nào con làm vậy thì con mới có thể tự do đón nhận sự hiện thân của mình trong cõi vật lý.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải an bình với sự kiện mình ở trong hiện thân vật lý. Vào thời của Giê-su, việc này khó thực hiện hơn rất nhiều, và đó là vì sao ngay cả Giê-su cũng không làm được hoàn toàn. Trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng đó. Đối với những ai trong số các con muốn ở lại trong hiện thân để đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, điều vô cùng quan trọng là con đạt tới điểm khắc phục được mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Con khắc phục cảm giác là có gì không ổn khi vật chất đang là cái nó là. Con chấp nhận có mặt ở đây, con chấp nhận vật chất như nó vốn là.

Tất nhiên, làm sao con có thể chấp nhận vật chất như nó là nếu con không chấp nhận chính con một cách trọn vẹn, và làm sao con có thể chấp nhận mình trọn vẹn nếu con không vượt qua chấn thương nhập đời? Con thấy tất cả đều ăn khớp với nhau như thế nào. Con thấy tại sao các thày đã không ban ra giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đưa ra giáo lý về chấn thương nhập đời. Khi con là một avatar, tất cả mọi thứ, con yêu dấu, đều xoay quanh chấn thương nhập đời. Như trong thành ngữ thông dụng, đó là con voi to tổ bố nằm chình ình ở đó mà không ai muốn nhắc tới. Có điều, tất nhiên, ngã gốc của con không phải là một con voi và nó cũng không to tổ bố. Nó chỉ là một cái ngã gần như không thực, không đến nỗi khó giải quyết như con tưởng. Đây chỉ là vấn đề sử dụng các dụng cụ, sử dụng các bài tập mà thày đã cho con, để con bước xuống thật sâu qua các khu vườn, rồi bước vào rạp hát và đơn giản nhìn thấy nó [Bài tập này có trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. 

Một khi con xoay chuyển khỏi ngã gốc, con sẽ ngạc nhiên sao chuyện này có vẻ dễ đến thế. Dĩ nhiên, các thày hiểu rõ là con không thể cưỡng ép bằng tâm vỏ ngoài. Con không thể dùng ngã gốc để xoay chuyển ra khỏi ngã gốc.

17.11. Tiếp tục dùng các dụng cụ

Cách con nhìn mọi thứ trên địa cầu, cách con nhìn giáo lý, là xuyên qua phin lọc của ngã gốc. Đó là tại sao các thày đã ban cho con những lời dạy có dụng ý đánh gạt tâm vỏ ngoài của con. Đó là tại sao các thày đã cho con những bài tập có khả năng lần hồi dẫn con tới điểm con có thể thực hiện xoay chuyển đó và nó xảy ra một cách tự nhiên. Con phải sẵn lòng áp dụng các dụng cụ, đi qua nguyên tiến trình. Con phải sẵn lòng mở tâm ra để nhìn thấy một điều gì mà con chưa thấy trước đây, thậm chí thấy cả ngã gốc. Con cần nhận thức là trong cương vị cái Ta Biết, con có khả năng tách mình ra khỏi ngã gốc, và đó là cách duy nhất con có thể thấy nó từ bên ngoài. Đó là cách duy nhất để con thấy nó. Con có các dụng cụ rồi nhé.  

Một lần nữa, con yêu dấu, đừng rơi vào phản ứng bảo rằng: “Ồ, Mẹ Mary nói chúng ta có tất cả dụng cụ nhưng tôi vẫn không thể nhìn thấy ngã gốc. Tôi đang làm gì sai đây?” Đó chính là ngã gốc đang nói chuyện đấy. Một lần nữa, hãy tiếp tục dùng các dụng cụ. Con yêu dấu, nếu con đã mang ngã gốc trong hai triệu năm qua, con không phải tự trách oán nếu con không thể giải tỏa nó trong vòng một tuần sau khi nhận được lời dạy. Có thể con sẽ tốn thời gian, nhưng lâu hay chậm sẽ chẳng quan trọng gì miễn là nó xảy ra. Miễn là nó xảy ra trong kiếp này thì con đã đột phá và hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con như một avatar. 

Với lời này, con yêu dấu, thày muốn tỏ lòng biết ơn đến tất cả các con đã đến tham dự hội nghị này. Không có nghĩa là thày sẽ niêm hội nghị vì đức Phật sẽ làm việc đó, nhưng thày muốn bày tỏ lòng biết ơn của Mẹ đối với sự sẵn lòng của các con, không những đã đến tham dự mà còn sẵn lòng áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền qua bộ sách về ngã gốc, vân vân.

Chắc chắn nếu không có một túc số tới hạn những đệ tử – cả những người có mặt ở đây lẫn những người không có mặt – đã tu tập những lời dạy này, thì các thày đã không thể đưa ra những gì vừa được đưa ra. Thày tin tưởng các con sẽ nhận diện đây là một bước cao hơn. Chắc chắn đây là một bước cao hơn tất cả những lời dạy khác mà con có thể tìm thấy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng. Nó sẽ tạo uy lực cho nhiều người đột phá lên tầng cao hơn rồi nhờ vậy hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình. Các thày rất biết ơn đã có thể ban truyền các dụng cụ này. Tất nhiên là các thày đã luôn luôn có thể làm vậy, nhưng các con cũng bắt đầu nhận ra – phải vậy không? – là các thày không thể đưa ra hết những gì mình có. Phải có một tiến trình tương tác qua lại, qua đó chỉ khi nào con người chấp nhận và áp dụng một lời dạy thì các chân sư mới có thể đưa ra lời dạy cao hơn.

Đối với những ai đã có, thì nhiều hơn sẽ được trao cho họ. Đó chính là nguyên tắc của việc nhân ta-lăng lên gấp bội. Các thày biết ơn các con đã nhân ta-lăng để các thày cũng có thể nhân nỗ lực đem lại nhiều hơn. Chẳng phải đây là một điệu vũ tuyệt vời hay chăng?  

7 | Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày mong muốn nói chuyện với con về đề tài quả vị Ki-tô và mối liên hệ với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày đã giảng dạy cho con về điều mà chúng ta có thể gọi là “giai đoạn công phu” (work phase) trong Sứ vụ của con. Khi con bước vào kiếp đầu thai – nếu con là một học trò tâm linh già dặn – con biết là con có một số công việc cần làm liên quan đến việc cân bằng nghiệp quả, thu nhận sáng ngộ và kinh qua những trải nghiệm sẽ xoay chuyển tâm thức của con. Là một học trò tâm linh chín chắn hơn, thường khi con sẽ dự định hoàn tất sớm sủa giai đoạn công phu này trong đời mình hầu con có thể tiến bước tương đối nhanh chóng và chuyển sang các giai đọan khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

7.1. Làm cho xong giai đoạn công phu

Điều xảy ra khá thường là trong những thập niên đầu trong đời, các con thường rất bận rộn, miệt mài trong các mối quan hệ, trong việc nuôi con, kiến tạo sự nghiệp, bỏ sức ra làm việc… tất cả những thứ đó. Như thể đó là một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) mà qua đó con cảm thấy mình phải làm tất cả những thứ đó và phải làm ngay lập tức. Thật ra đó cũng không đến nỗi là ám ảnh vì đơn giản con chỉ mong muốn làm cho xong hầu con có được tâm trí minh mẫn, có lẽ một cơ hội trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, để con tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn sau.

Đối với đa số các con, một cách để cân bằng nghiệp quả là qua các mối quan hệ. Đó là tại sao con thường thấy người ta lập gia đình khá sớm và cũng có con khá sớm. Có thể con sẽ có nhiều hơn một mối quan hệ. Đó có thể là những quan hệ rất nồng nàn mãnh liệt. Đây là một trải nghiệm con muốn kinh qua nhanh chóng. Con rất muốn bước qua nhanh chóng mặc dù con không hiểu điều này một cách ý thức.

Đối với nhiều người, một giai đoạn khác sẽ đến, thường là khi con tìm ra một giáo lý tâm linh. Con nhận ra là có một con đường tâm linh và con cất bước trên con đường đó. Rất nhiều người cũng trở nên vô cùng nhiệt tình và chuyên tâm khi bước đi trên con đường này. Cho dù giáo lý tâm linh là gì, họ cũng học tập một cách háo hức, thực hành bất kỳ dụng cụ hay kỹ thuật nào được ban truyền. Gần như có thể nói là họ làm vậy một cách ám ảnh cưỡng chế, bởi vì đây là điều họ cần làm để vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

7.2. Không cần tiếc nuối

Một kết luận con có thể rút tỉa từ hiểu biết trên là tất cả các con tuyệt đối không có lý do gì để cảm thấy bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều mình đã kinh qua trong đời mình. Con có thể nhìn lại đời con và con có thể xét đoán với tâm vỏ ngoài là rất nhiều chuyện con đã kinh qua không hẳn là tâm linh. Những chuyện đó không mấy hài hòa mà lại quá sôi nổi, nồng nhiệt. Con có thể nhìn lại rồi tiếc nuối: “Ước gì tôi đã không làm điều đó.”

Con yêu dấu, tại sao con làm những việc con đã làm? Con đã kinh qua trải nghiệm đó vì đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho dù nó mang ý nghĩa gì đối với cá nhân con, con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất cái mà các thày gọi là giai đoạn công phu trong Sứ vụ Thiêng liêng. Các thày cũng có thể gọi đó là giai đoạn chuẩn bị, vì con đang chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ của con. Như các thày đã nói, con đơn giản nhận ra là con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó trong kiếp này nhưng con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn. Cho nên con muốn xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt để có thể vươn lên những tầng cao hơn. Chỉ khi nào con đến được những tầng cao hơn đó thì con mới bắt đầu nhìn thấy những khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ của con.

Điều các thày đã nói là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức của mình một cách lý thuyết và trí thức. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức. Tại sao con làm những việc con đã làm? Vì trong tiềm thức, con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để con có thể dời chuyển tâm thức của con.

Con yêu dấu, cho dù các trải nghiệm đó là gì thì một cách nào đó, chúng cũng đã chuyển dời tâm thức của con. Thày biết là hầu hết các con sẽ nhìn lại đời mình và nói: “Nhưng cũng đã có một số trải nghiệm khó khăn đến độ tôi bị rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, và trong nhiều năm trời, nó đã khiến tôi bị trầm cảm hay bị xáo trộn hay bị khổ tâm.”

7.3. Dời chuyển ra khỏi tiếc nuối

Vâng, con yêu dấu, nhưng khi con sẵn lòng nhìn ngược lại và sử dụng các dụng cụ thày đã ban cho con, thì con sẽ có thể khắc phục nó và thực hiện cuộc xoay chuyển mà con đã trù liệu cần xảy ra qua trải nghiệm đó. Và một khi con xoay chuyển, con yêu dấu, trải nghiệm sẽ không quan trọng nữa. Thày cũng biết là một trải nghiệm đau thương có thể tích tụ năng lượng trong bốn thể phàm của con. Tuy nhiên, con đã có các dụng cụ để chuyển hóa nó và nhờ vậy để cho nó ra đi. Nhiều lần, con yêu dấu, con không nhận ra là khi con có trải nghiệm như vậy, con đã phản ứng ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây khi con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại quá khứ với đôi chút hối tiếc. Có thể là từ cảm nhận của người học trò tâm linh mà con muốn trở thành, con đã không nên làm điều đó. Con yêu dấu, cảm giác nuối tiếc đó – khi con tự trách móc hay xấu hổ – xuất phát từ một cái ngã nội tại thường là một thành phần của tập hợp ngã gốc.

Nếu con có thể nhận diện là con đang nhìn lại quá khứ với lòng nuối tiếc hay cảm giác tiêu cực, thì con cần biết đó là một cái ngã nội tại. Đó là một ngã tách biệt và thật ra nó có thể phần nào được tạo ra bởi một giáo lý tâm linh mà con đã tiếp nhận. Vì một lý do nào đó, con đã diễn giải giáo lý đó và con đã tạo ra cái ngã đang trách móc ngã, đang cảm thấy xấu hổ như thể mình không đủ tốt, và cảm thấy (như nhiều các con có thể cảm thấy) rằng một người tâm linh đích thực đã không thể nào làm chuyện đó – nhưng chính con lại làm chuyện đó. Con cho rằng sự kiện con hành xử như vậy có nghĩa là bây giờ con đã vĩnh viễn đánh mất cơ hội, con sẽ không bao giờ chuộc lỗi được trong kiếp này và do đó kiếp này bị lãng phí. Con không thể làm gì khác hơn là ngồi đó trong buồng tối mà khóc cho đến mãn kiếp.

Con yêu dấu, thày có vẻ đang nói đùa, nhưng những ai cảm thấy mình đã làm chuyện gì tồi tệ đến độ mình không thể là người tâm linh chân chính, thường nghĩ là mình không thể nào đến gần các chân sư thăng thiên, bởi vì chắc chắn các thày sẽ lên án con y như con đang lên án chính mình. Biết bao nhiêu lần các thày đã nói với con là các thày không nhìn con như con nhìn chính con? Các thày không trách móc con như con đang tự trách mình.

Điều thày muốn nói với con ở đây là như sau: “Con yêu dấu, đừng bao giờ cho rằng một chân sư thăng thiên sẽ lên án con về bất cứ điều gì con đã làm.” Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất – là giải thoát con. Các thày sẵn sàng giúp con giải thoát khỏi bất cứ gì từ quá khứ của con.

7.4. Quả vị Ki-tô và tha thứ

Đây là một trong những khía cạnh của quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu có khả năng mà các thày gọi là phân biện Ki-tô, con sẽ đạt tới điểm trải nghiệm là mình có thể được tha thứ, được cứu chuộc. Con có khả năng khắc phục, vươn lên cao hơn bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này. Thật ra thày có thể nói với con là có nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, thậm chí cả những người đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist), đã hiểu rõ điều này hơn cả nhiều người trong phong trào Thời Mới hay học trò của chân sư thăng thiên. Phần nào, đó là vì những người Cơ đốc đó không mang khái niệm là do họ bước trên đường tu cho nên họ cần nắm trách nhiệm xem xét tâm lý của mình và buông bỏ những gì cần buông. Dù vậy, họ vẫn trải nghiệm được thực tại là Ki-tô có khả năng cứu chuộc họ khỏi mọi tội lỗi, và họ chấp nhận như thế.

Nhưng các con thì khác, các con có một mức độ trách nhiệm cao hơn về bản thân. Điều này rất tốt, nhưng con cần nhận ra là trong con có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo. Con nghĩ có một số chuyện đáng lẽ con đã không được làm và con sẽ không thể được tha thứ hay cứu chuộc. Nói cách khác, con sẽ không bao giờ vượt lên cao hơn cái đó.

Tất nhiên, ngã đó dựa trên sự kiện là ngay từ khi sa nhân bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã phóng chiếu vào tâm thức tập thể ý tưởng là có một số chọn lựa tự quyết của con sẽ không thể được khắc phục qua những chọn lựa khác hơn. Một lần nữa như các thày đã giảng nhiều lần, quyền tự quyết cho phép con chọn lựa bất cứ gì con muốn bất cứ lúc nào – có nghĩa là bất cứ lúc nào, con cũng có thể lấy một chọn lựa sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ. Không bao giờ con lấy một chọn lựa mà không có khả năng tránh khỏi hậu quả của nó qua một chọn lựa mới. Đấy, thày biết rất rõ là ngay lập tức sẽ có một phần trong bản thể con phản bác lại là trong bát cung vật lý, có thể vào thời trẻ con đã có những chọn lựa mang lại hậu quả mà con không thể thay đổi chỉ qua một chọn lựa mới.

7.5. Điều kiện vật chất không thể ngăn cản tâm thức xoay chuyển

Phải, con yêu dấu, điều đó đúng. Tuy nhiên, bao nhiêu lần các thày đã nói với con là không có một điều kiện vật chất nào mà con có thể đem theo con lên cõi thăng thiên? Do đó, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên. Cũng vậy, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con cứ tiến lên tới tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng, vì thật sự không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức của con. Chính sự chuyển đổi tâm thức sẽ đưa con tới mức có thể thăng thiên.

Điều này dẫn con tới điểm con có thể bước vào các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng. Tất cả chỉ là vấn đề dời chuyển tâm thức. Con nhìn nhận là một mặt, do độ dày đặc của cõi vật chất, một số nguyên tắc cơ học sẽ vận hành ở đây. Có một số việc con làm mang hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt phần đời còn lại của con – điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Đây là điều mà con khởi sự trải nghiệm khi con bắt đầu có phân biện Ki-tô, và con mở tâm ra để thực sự nắm bắt, trải nghiệm, khía cạnh này của Ki-tô – là Ki-tô đấng Cứu chuộc theo cách gọi của người Cơ đốc giáo. Con có thể gọi một tên khác. Con có thể gọi đó là Ki-tô với khả năng nâng con lên cao hơn bất cứ gì của quá khứ, hay Ki-tô với khả năng biến con thành mới, như ngay cả Paul cũng bảo: con trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng mà con có thể thực hiện khi con nhận ra có sa nhân hiện diện trên hành tinh. Chúng ngăn chặn con một cách rất hung hãn để con không đạt tới các giai đoạn cao trong Sứ vụ Thiêng liêng, đặc biệt là việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Công cụ chính của chúng là phong chiếu ý tưởng là con có thể có một số chọn lựa mà con sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đây là một lời gian dối tuyệt đối, hoàn toàn đi ngược lại khái niệm tự quyết. Vì thế con cần có phân biện này. Và đến đây, con yêu dấu, chúng ta chuyển sang một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô, hay phân biện Ki-tô, mà nhiều người trên thế giới vẫn chưa thực sự nhìn thấy.

7.6. Con không cần một vị cứu tinh từ ngoài

Một lần nữa, đây là vì các sa nhân đã làm đủ mọi cách để phá hỏng sứ mạng mà thày đã khởi xướng cách đây 2000 năm. Chúng đã làm mọi cách để khiến mọi người hiểu lầm khái niệm Ki-tô. Với việc thành lập Giáo hội Công giáo và kể từ đó, chúng đã phóng chiếu hình ảnh Ki-tô là một đấng cứu tinh sẽ đến cứu con trong tư cách một lực bên ngoài. Và do đó con không có uy lực bên trong, hay khả năng ở bên trong, để nâng cao tâm thức mình cho tới mức có thể thăng thiên.

Đây là một sự lật ngược toàn diện thông điệp mà thày đã ban truyền. Một lời xuyên tạc hoàn toàn. Cho nên như thày có nói, hầu hết các giáo hội Cơ đốc ngày nay rõ ràng đều dựa trên những lời gian dối của phản Ki-tô – ngay từ thời thành lập, nhưng đây là một vấn đề bên lề.

Điều thày muốn đưa ra là như sau: Không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục khi con nhận ra rằng Ki-tô không phải là một cứu tinh bên ngoài. Ki-tô không ở ngoài con; Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Nếu con muốn thấy Ki-tô như một cứu tinh thì Ki-tô là vị cứu tinh nội tại. Do đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận là con có khả năng thực sự vượt qua tất cả mọi sự việc của quá khứ, nếu con sẵn lòng nhìn vào bản thân và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Chẳng hạn, nhiều người trong các con đang bước trên đường tâm linh và đã nhận trách nhiệm về bản thân mình, các con có một cái ngã nội tại bảo rằng con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con yêu dấu, có một tâm thức rất, rất hung hãn trên thế giới – một lần nữa, do sa nhân tạo ra cách đây hàng ngàn năm và trước đó nữa – muốn quy định những lằn ranh, những cách xét đoán, những chuẩn mực về cách hành xử của con người. Một phần của quả vị Ki-tô là đạt đến nhận thức là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho bản thân mình.

Các thày đã nói đến những tiêu chuẩn vỏ ngoài mà xã hội áp đặt lên con, nhưng bây giờ thày đang nói về những tiêu chuẩn nội tại mà chính con đã tạo ra, rất có thể suốt nhiều kiếp sống như một người tâm linh. Con cần xem xét điều này và con cần nhìn xem nó ăn khớp thế nào với những lời dạy mà các thày đã ban ra về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi con hứng chịu chấn thương nhập đời. Có một điều gì khiến con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Do đó, con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng có một điều gì đó con làm đã khiến cho sa nhân hành hạ mình, và nếu con không bao giờ tái phạm thì có thể con sẽ không bao giờ bị hành hạ như vậy nữa.

7.7. Các chuẩn mực nội tại của con

Và điều này dẫn đến việc con tạo ra một chuẩn mực rằng con phải là người như thế nào. Kể từ đó, con yêu dấu, ở trong con đã có một cái ngã – trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi con đầu thai trên địa cầu, trong tuổi thơ ấu lẫn tuổi thanh niên – cứ năng động rà xét xã hội nơi con sống, đánh giá xã hội để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn, những phép tắc. Xong nó định ra một khuôn khổ, một mô thức, một chuẩn mực quy định những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ an toàn, con sẽ yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Đây là điều mà hầu hết các con – thật ra thày phải nói tất cả các con – đã làm ở một điểm nào đó. Mặc dù một số các con đã bắt đầu khắc phục được, tất cả các con đã chụp lấy nó và chuyển nó vào đường tu tâm linh khi con tìm ra đường tu. Nhìn lại các đợt truyền pháp trước, các thày có thể thấy nhiều học trò đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì họ phải làm hay không được làm.

Con yêu dấu, con sẽ nhìn nhận ở đây, đó là một chuẩn mực phản ứng – con đang phản ứng lại các điều kiện trong thế giới vật chất. Điều này có thể hiểu được, nhưng đâu là mục đích của việc Giê-su hiện thân chứ? Có phải là để phục tùng các điều kiện của thế gian như sa nhân muốn Ki-tô làm? Hay là để trao cho mọi người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất? Đương nhiên là câu trả lời thứ hai. Tuy vậy, đây là một sự cân nhắc và phân biện con phải tinh tế lắm mới nhìn ra được, vì như Kinh thánh cũng nói, khi Ki-tô bước vào hiện thân thì Ki-tô cũng bước vào thế giới vật chất.

7.8. Sự hiện thân của Ki-tô

Bây giờ thày muốn đưa ra một vài nhận xét về khái niệm Ki-tô hiện thân. Hiển nhiên, các tín đồ Cơ đốc giáo đã một lần nữa làm cho chuyện này rối beng khi bảo rằng cách đây 2000 năm, thày đã là hiện thân duy nhất của Ki-tô – trên thiên đàng có một đấng Ki-tô tuyệt đối, hoàn vũ nào đó đã chọn hiện thân trong hình dạng nhân thế của thày. Sự thật mà các thày đã trao cho con, cả trong cuốn sách chót về Những kiếp của tôi lẫn các giáo lý khác, là quả thật có một tâm thức Ki-tô hoàn vũ nhưng không phải vì vậy mà tâm thức Ki-tô hoàn vũ có thể hiện thân bất cứ lúc nào cũng được. Nó đòi hỏi phải có một con người trong hiện thân đã nâng cao tâm thức của mình lên tới mức bỗng nhiên tâm Ki-tô hoàn vũ có thể khởi sự tỏa rạng qua người đó.

Con cũng có tiềm năng cho Ki-tô hiện thân trong con khi con đạt đến mức tâm thức đó. Điều này quan trọng vì mấy lý do. Quan trọng hơn cả là vì nó chứng tỏ rằng khi Ki-tô hiện thân – nếu có thể nói như vậy – hay bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian này, thì Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Khi thày xuất hiện cách đây 2000 năm tại Israel, thày đã hóa thân là một đứa trẻ trong kiếp hiện thân đó. Thày đã lớn lên trong môi trường đó, đã hấp thụ phần lớn môi trường đó, và tất nhiên rất nhiều điều thày nói ra được thích ứng với tín ngưỡng và thế giới quan của con người thời đó. Một thế cân bằng cần được tìm thấy, qua đó Ki-tô không đi vào thế gian để cho mọi người một giáo lý tuyệt đối vì họ sẽ không thể liên hệ với nó. Ki-tô phải thích nghi, như con thấy trong câu chuyện người đàn ông khát nước, khi thay vì cho ông ta một bài thuyết giảng tâm linh thì thày đã cho ông một ly nước lạnh.

Như các thày đã giảng, đây là nguyên tắc Ki-tô đến gặp gỡ con người ở ngay điểm tâm thức của họ và trao cho họ một cái gì có khả năng nâng họ lên bước kế tiếp, và – mong thay – cái đó sẽ dẫn họ vào con đường sẽ tiếp nối mãi cho tới điểm thăng thiên. Một mặt con có thể thấy là Ki-tô tự biểu hiện (tức hiện thân) trong thế gian, và ở một mức nào đó, Ki-tô cũng thích nghi với các điều kiện trong thế gian.

Câu hỏi mà tất cả các con cần giải quyết về mặt cá nhân là: “Tôi sẽ thích nghi tới đâu và tôi sẽ vượt xa hơn bao nhiêu?” Khi con bắt đầu đạt đến những tầng của Sứ vụ Thiêng liêng nơi con sẵn sàng (con bắt đầu) thể hiện quả vị Ki-tô của mình, thì việc thể hiện quả vị Ki-tô không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian. Đó là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Con hiểu điều thày đang nói chứ? Làm thế nào con có thể chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức nào đó là khả dĩ? À, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Đó là tại sao con đã đầu thai trong một gia đình, một quốc gia, một nền văn hóa nào đó. Con trầm mình vào đó một thời gian. Xong khi con sẵn sàng khởi sự biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, con vượt khỏi mức đó. Không phải việc biểu hiện quả vị Ki-tô là sự trầm mình vào nền văn hóa đó đâu, mà là vượt ra khỏi nó. Một lần nữa tất nhiên, con không ở đây để vượt quá cao đến độ người ta không thể kết nối với con, mà con ở đây để chứng tỏ rằng việc vượt ra khỏi là điều khả dĩ, rằng có một cái gì đó vượt ra khỏi.

7.9. Quả vị Ki-tô là một cái gì cá nhân

Quả vị Ki-tô là gì? Nó rất cá nhân. Đó là tại sao một trong những điều tệ nhất mà con có thể làm cho bản thân mình là nhìn vào cuộc đời của thày rồi sử dụng để tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Nhiều người đã làm điều này. Các tín đồ Cơ đốc hiển nhiên đã làm điều này, nhưng nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng đã làm một chuyện tương tự. Con thấy đã có những tổ chức của chân sư thăng thiên mà trong đó mọi người đều chú tâm vào việc tự phán xét lẫn phán xét người khác để xem ai nấy có tuân thủ chuẩn mực đó hay không – một chuẩn mực mà họ nghĩ các chân sư đã quy định.

Trong quả vị Ki-tô không hề có chuẩn mực. Đây là điều con cần nắm bắt trước khi con có thể thực sự bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Tất cả tùy vào mỗi cá nhân. Con đã đầu thai trong một hoản cảnh đặc thù, đã khoác vào một số điều kiện, một tâm thức tập thể nào đó từ gia đình, quốc gia, vân vân. Biểu hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó. Lúc đầu, nó sẽ không cao hơn nhiều lắm, mà nó sẽ cao hơn một chút để ai nấy vẫn có thể liên hệ với con.

Khi con tiến hơn, có thể con sẽ lên cao hơn và cao hơn nữa. Có thể con sẽ tới một điểm khi những ai đã từng lớn lên cùng với con không còn liên hệ được với những gì con biết và hiểu về cuộc sống, và đây là một chuyện khác. Điều thày đang cố chỉ cho con thấy ở đây là nhiều người trong các con có một cái nhìn lý tưởng, lãng mạn, xa vời về thế nào là biểu hiện quả vị Ki-tô. Kỳ thực ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện trong môi trường hàng ngày. Có thể đó chỉ là một cách làm tốt hơn, một cách nhìn khác hơn về một số chuyện, là không quá coi trọng một số sự việc, không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng. Chẳng hạn con có thể vui sống hơn người khác, hay con không đến nỗi bị ám ảnh cưỡng chế về một số khía cạnh trong văn hóa của mình, như con không ghét bỏ những ai sống bên kia biên giới, hay bên kia đường, hay bên kia bất cứ gì khác.

Con có thể chứng tỏ một phương cách khác, một cách nhìn khác, và đó là một khía cạnh trong quả vị Ki-tô của con ở khởi đầu. Nhiều người trong các con có thể nhìn lại đời mình và nhận thấy: “Nhưng trong phần lớn đời tôi, tôi đã chẳng làm vậy hay sao?” Và con nói đúng – con đã làm vậy. Nhiều người trong các con đã làm vậy. Thày chỉ mong giúp con nhận biết về điều đó và nhìn nhận rằng đó là một biểu hiện của quả vị Ki-tô của con. Khi con công nhận là con đã có biểu hiện quả vị Ki-tô thì con sẽ dễ dàng hơn chấp nhận là mình thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu và đó không nhất thiết là một điều gì xa vời, như cách nhìn lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã dựng lên về cuộc đời của thày.

Bây giờ nếu con lấy cuốn sách Những kiếp của tôi cùng với những gì thày đã giảng trong các bài truyền đọc và vấn đáp khác, con sẽ thấy cuộc đời của thày không có gì giống như cái lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã tạo ra. Thày có nói trước đây là con đã rất có thể suy luận rằng điểm kết liễu đời thày đã là một thất bại toàn diện. Thật sự thày đã hoàn thành được việc gì trong đời sống vỏ ngoài chứ? Thậm chí thày đã không thu hút được cả những môn đệ có khả năng nắm bắt thông điệp mà thày đã đến để ban truyền.

Thày không đang cố hạ thấp những gì đã xảy ra, mà thày đang cố khép lại khoảng cách mà nhiều người trong các con đang có trong tâm mình. Con có cái ngã nội tại đó mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình, đến độ con sẵn sàng tin vào sự phóng chiếu rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được. Thày đang cố chỉ cho con thấy rằng làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó có thể ngày càng lớn hơn. Con cần công nhận là nó không thể xảy ra đùng một cái. Nó chỉ có thể xảy ra bằng cách con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

7.10. Sứ vụ Thiêng liêng và tự quyết

Con yêu dấu, vậy thì làm Ki-tô có nghĩa là gì? Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình có nghĩa là gì? Một lần nữa, trên thế giới có một tâm thức do sa nhân tạo ra muốn chụp lấy mỗi ý tưởng, mỗi khái niệm, và thu hẹp nó xuống một chuẩn mực đường thẳng hầu tâm phân tích có thể phân loại và dán nhãn.

Có một vị trong số các con vừa chia sẻ là khi anh ấy đến dự hội nghị này thì có người đã hỏi anh: “Giáo lý mà bạn đang tu tập là gì chứ?” Anh đã không thể tìm ra một cái tên vì các thày đã cố tình không đặt tên. Đó là một ví dụ người ta bị tâm thức của sa nhân ảnh hưởng mà không hay biết, và tâm thức này khiến họ luôn luôn muốn gắn nhãn cho mọi sự. Họ luôn luôn muốn gọi tên để họ có thể phân loại, và thế là cái đó giờ đây phải đi vào khuôn mẫu. Tất nhiên, đây chính là điều mà sa nhân đã toan tính làm với Ki-tô, nhưng thực tế của Ki-tô là Ki-tô không bao giờ tuân theo một mẫu mực nào.

Vậy có tiêu chuẩn nào quy định cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào trong hoàn cảnh đặc thù của con hay không? Không, không có. Tuy nhiên, điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có điều gì được quy định về quả vị Ki-tô không? Liệu Sứ vụ Thiêng liêng giống như một chuẩn mực về cách con phải cư xử trong kiếp này và do đó cũng về cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của mình?

Quyền tự quyết có vai trò gì trong Sứ vụ Thiêng liêng? Liệu Sứ vụ của con có giống như một chiếc áo tù bó tay bó chân hay không? Trong những năm đầu của đời con, con không nhận thức về Sứ vụ của mình cho nên con khá rộng tay làm bất cứ gì con muốn. Rồi tới một điểm có sự chờ đợi là con sẽ bước vào nhận thức về Sứ vụ của mình, và khi đó có vẻ chọn lựa duy nhất còn lại cho con là: “Liệu tôi sẽ mặc vào chiếc áo tù này hay tôi không mặc vào?” Nếu con quyết định mặc vào chiếc áo bó tay của Sứ vụ Thiêng liêng thì phần đời còn lại của con sẽ đi theo một đường rày máy móc vì giờ đây con sẽ chỉ biết tuân theo Sứ vụ đã được vạch ra cho con. Chuyện đó, tất nhiên, không phải là ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đầu tiên các thày đã nói rằng chính con là người chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con. Rồi sau mấy thập niên giảng dạy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, các thày đã thấy nhiều học trò diễn giải theo nghĩa Sứ vụ là do một đấng thần thánh nào đó thảo ra, và bây giờ đấng này đang cố áp đặt nó lên con để biến con thành một con múa rối. Đây chính là tại sao một số sa nhân đã tạo ra ý tưởng là con chỉ có thể giành được quyền tự quyết bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế. Có những sa nhân cả quyết rằng chỉ khi chúng nổi loạn và từ chối thăng thiên thì chúng mới thực sự có được quyền tự quyết. Hiển nhiên đây là một ảo tưởng, vì thử hỏi ý chí tự do của con sẽ tự do tới đâu nếu con đang phản ứng lại một cái gì khác? Ý chí đó sẽ tự do y hệt như khi con tìm cách tuân theo cái khác đó. Ý chí của con sẽ chỉ tự do một khi con chọn lựa từ bên trong.

Không cần đi sâu hơn vào một cuộc thảo luận triết lý, thực tế ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con không hề vạch ra cách con phải sống cả đời mình như thế nào trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Các thày đã nói là kỳ thực, con sẽ không bao giờ có được một tầm nhìn rõ ràng về toàn bộ Sứ vụ của mình, mà con sẽ chỉ nhìn thấy từng giai đoạn một – tại sao như vậy? À, bởi vì nếu có một Sứ vụ thật chi tiết và nếu con thấy được nó toàn bộ, thì nó sẽ giống như một con đường máy móc. Con sẽ chỉ giản dị bước hết bước này tới bước khác và đi theo đúng như vậy. Sự thật là Sứ vụ của con được lập ra, như các thày đã giảng, để trên hết nâng cao tâm thức của con, và làm thế nào con nâng cao tâm thức chứ? Bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con chọn lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định. Khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về vấn đề, đó là khi con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con xác định hoàn cảnh mà con cần bước vào để trải nghiệm một điều kiện nhất định, nhưng nó không xác định con phải phản ứng lại điều kiện đó như thế nào. Cái đó là chọn lựa của con.

7.11. Thăng vượt nhận thức của con

Con yêu dấu, con cần thận trọng ở đây. Nhiều người trong các con đã tưởng tượng là Sứ vụ Thiêng liêng định rõ một số điều kiện vỏ ngoài. Ví dụ, con sẽ phải gặp gỡ và kết hôn một người nào đó và có X đứa con. Dựa theo đó thì nhiều người trong các con nghĩ rằng nếu con không gặp người đó – hay nếu con gặp nhưng lại quyết định không kết hôn – thì con không làm tròn Sứ vụ của mình. Sứ vụ Thiêng liêng không như vậy, nó không rõ ràng, đặc thù như vậy. Sứ vụ Thiêng liêng là để con xoay chuyển tâm thức của con.

Đối với mọi điều kiện vỏ ngoài, con có rất nhiều chọn lựa. Phải, ở những giai đoạn đầu, trong giai đoạn công phu của Sứ vụ Thiêng liêng, nhiều khi con mang nghiệp với một người nào đó và cách nhanh nhất để giải quyết nghiệp quả là có mối quan hệ với người đó. Cho nên con có thể nói: “Được, thật ra tôi đã quyết định là tôi muốn ở trong quan hệ này, cho nên khi tôi xuống đây đầu thai, đó chính là điều tôi phải làm.” Tuy vậy, con có một phạm vi chọn lựa rộng lớn trong cách đáp ứng với tình huống đó: Con sẽ ở lại bao lâu trong quan hệ, con sẽ phản ứng thế nào với mối quan hệ, vân vân. Một khi con tiến xa hơn giai đoạn công phu này và không còn phải đương đầu quá nhiều với các điều kiện nghiệp quả nữa, thì con bắt đầu bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ của con.

Đột nhiên, con có rất nhiều chọn lựa khác hơn. Có nghĩa là, ví dụ, không chỉ có một nghề nghiệp, một loại việc làm hay sự nghiệp mà con có thể có. Ngay cả khi con chọn một nghề nghiệp nhất định thì con cũng không chỉ có một cách đeo đuổi duy nhất. Đời con không giống như một đường rày. Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một con đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa, nhiều phương thức trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Con yêu dấu, điều thày nói ở đây áp dụng cho các học trò tâm linh ở những tầng cao hơn. Lẽ tự nhiên, rất nhiều người ở những mức tâm thức thấp hơn bị chi phối nhiều hơn bởi các tình huống nghiệp tạo, cho nên những chọn lựa trong tiền kiếp đã tạo ra các hậu quả đang giới hạn chọn lựa của họ trong kiếp này. Con có thể đi xuống một tầng tâm thức nơi con gặp những người có rất ít chọn lựa ý thức mở ra cho họ. Phải chăng đó là điều kiện vỏ ngoài đang giới hạn họ, hay là tâm thức của họ bị giới hạn đến độ họ không sẵn lòng vượt ra khỏi cách nhận thức cố hữu của họ về thế giới?

Điều thày nói với con ở đây là con cũng có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có được nhiều tự do hơn, nhiều chọn lựa hơn. Đâu là cái đang giữ con lại? Cái gì khiến con đôi khi có cảm tưởng Sứ vụ Thiêng liêng là một chiếc áo tù bó tay, hay đời con hoàn toàn bị ngoại cảnh định đoạt? Đó là vì con mang một cái ngã nhất định đang có một nhận thức nhất định, và nhận thức này xoay quanh việc con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Đâu là một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô? Là khi con nhận ra là con không ở đây để làm nô lệ cho những tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt chúng, và điều này không có nghĩa là, chẳng hạn, nếu con có con cái, con sẽ bỏ rơi chúng, đào tẩu lên núi Himalaya và ngồi trong hang đá. Không, nó có nghĩa là con vượt thăng cách nhìn, cách tiếp cận, cách phản ứng của mình đối với việc có con, hầu con tìm ra một cách nhìn cao hơn không bị quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

7.12. Làm thế nào thực sự thay đổi đời mình

Điểm này khơi lên một đề tài khác mà nhiều người trong các con thắc mắc: “Làm thế nào con có thể thực sự thay đổi đời mình? Làm thế nào con có thể có được những điều kiện tốt đẹp hơn? Con muốn làm chuyện này, con muốn làm chuyện kia. Con muốn nhiều tiền hơn hay việc làm tốt hơn vì con rất muốn được tự do đi du lịch đây đó, gặp gỡ người ta, thăm nhiều nền văn hoá khác nhau, cái này cái nọ” (đây thật sự là ước muốn của nhiều người).

Thế là bây giờ chúng ta đến với chủ đề là làm thế nào thay đổi tình huống vỏ ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho viễn quan hay mong muốn của mình. Đây là một chủ đề rất phức tạp mà thày sẽ không đưa ra một lời giảng chung cuộc, vì thày Saint Germain cũng có một vài điều muốn nói, và cả các chân sư khác nữa. Điều thày muốn cho con là phân biện Ki-tô đi theo hai đường.

Trước hết, phân biện Ki-tô có thể cho con một viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng là con có khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn. Đây là một viễn quan về những gì có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng có khía cạnh omega về điểm này: Phân biện Ki-tô cũng có thể cho con viễn quan là đôi khi kỳ thực, mong muốn hay viễn quan của con dựa trên ngã gốc. Như chân sư MORE đã nói, ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù, và cơ chế này đôi khi đem lại cho người tâm linh một ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Thật ra phản ứng này đến từ ngã gốc. Một khía cạnh của điều này là khi con đến hành tinh này như một avatar, con đến với một thái độ tích cực mong muốn đem lại một thay đổi tích cực. Rồi con cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ, trấn áp. Thế rồi con tạo ra ngã gốc và kể từ đó con đã cảm thấy: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, sẽ nói gì, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Con vẫn có mong muốn tự biểu đạt nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Điều mà phân biện Ki-tô có thể giúp con là khiến con nhìn ra cảm nhận đó đến từ ngã gốc – cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên địa cầu. Lý do là vì ngã gốc giống như một chiếc máy tính. Nó không có khả năng tự nhận biết. Nó không thể nghĩ cái gì là đúng hay sai. Ngã gốc dựa trên nhận thức rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con biểu đạt chính con. Kỳ thực, một khi con có phân biện Ki-tô, con sẽ thấy rõ không phải các điều kiện vỏ ngoài đang ngăn cản mình là chính mình, mà ngã gốc.

Khi con đến trái đất lần đầu tiên, có lẽ cách đây rất lâu, con đã có sẵn một mức nhận biết nào đó. Mặc dù mức đó có thể cao hơn đa số cư dân trên địa cầu vào thời ấy, đó vẫn chưa phải là mức tối hậu. Ngay cả nếu con đến từ một hành tinh tự nhiên, đó cũng chưa phải là mức tối hậu. Kể từ đó, con đã tăng triển về mặt tâm thức cho dù con có thể không hay biết một cách ý thức. Nhưng con đã có tăng triển, và đó là tại sao các thày đã nói là con có khả năng đi ngược dòng thời gian và tái trải nghiệm chấn thương nhập đời của mình với một phản ứng khác hơn trước. Đó là cách con có thể gạt bỏ ngã gốc, và các thày đã cho con dụng cụ để làm việc này.

Khi con làm vậy, điều thật sự bắt đầu xảy ra là giờ đây con lần lần khởi sự chất vấn tất cả những rào cản đó (mà con mang trong bốn thể phàm) đang bảo con là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Sau đó con có thể bắt đầu xem xét và hòa điệu với: “Tôi thực sự là ai? Đâu là cá thể tâm linh của tôi trong Hiện diện TA LÀ? Đâu là ý nghĩa của việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất?” Bỗng nhiên, con yêu dấu, một khi con bắt đầu chấp nhận và trải nghiệm rằng con có khả năng là chính mình trên địa cầu, con sẽ khắc phục được mong muốn trốn chạy nói trên, luôn luôn muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Đó là cái mong muốn cứ nghĩ rằng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

7.13. Không có điều kiện lý tưởng cho quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, các thày đã có nói là có một tâm thức khiến con nghĩ là khi nào con hội được điều kiện vỏ ngoài lý tưởng thì khi đó con mới có thể là Ki-tô. Nhưng Ki-tô không cần điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không hề có điều kiện lý tưởng để biểu hiện quả vị Ki-tô. Nếu con cứ ngồi đó chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô hay là chính mình, thì con sẽ phải chờ đến mãn kiếp – và nhiều kiếp kế tiếp nữa – trước khi con chợt hiểu ra: “Ồ, đáng lý ra tôi đã phải bắt đầu ngay ở nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Và đó cũng chính là cách mà các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu thay đổi khi con quyết định là con sẽ khởi sự ngay nơi con đang đứng và cả gan biểu hiện một sắc thái đó của cái ta cao hơn ngay ở đây, ngay lúc này. Đó là điều mà vị sứ giả này đã quyết định năm 2002. Đó là tại sao, một cách lần hồi, các điều kiện vỏ ngoài của ông đã thay đổi đến mức ông đã có thời gian lẫn sự tự do để tập trung vào công việc ông đang làm, thay vì phải đi làm kiếm sống, vân vân.

Những điều tương tự có thể xảy ra cho nhiều người trong số các con. Không nhất thiết theo cùng một cách nhưng chắc chắn theo cách là các điều kiện vỏ ngoài sẽ lần hồi thay đổi để con có thể cảm thấy chúng không đang hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt. Nó có thể xảy ra như vậy khi con đạt tới những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng để đạt đến mức đó sẽ đòi hỏi những gì?  

Nó đòi hỏi con xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu. Như lời thày đã dạy cách đây 2000 năm, con nhìn nhận: “Con không thể làm gì được một mình, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều khả dĩ.” Đó là cách thày đã diễn tả vào thời đó, nên con hãy để thày diễn đạt lại dựa theo giáo lý các thày đã cho con: “Với ngã vỏ ngoài và quyền năng của ngã vỏ ngoài, con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, bằng cách nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.”

Để nối kết lại với Ki-tô trong con và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, điều này sẽ đòi hỏi những gì? Con yêu dấu, nó đòi hỏi nơi con một quyết định có ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ biểu đạt chính mình cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.” Sau đó, một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, lần hồi điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Có thể một số các con cũng sẽ nhận thấy là thật ra, có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi vì công dụng của chúng là để con bày tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây không chỉ là chuyện thoát ra khỏi một số điều kiện mà con không ưa, vì chúng có thể là một phần của quả vị Ki-tô của con. Thật ra, có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con biểu hiện quả vị Ki-tô trong những điều kiện đó hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Một lần nữa, đây là một điểm phân biện tinh tế. Con yêu dấu, đây cũng là sự kiện khi con vươn lên cao hơn và khắc phục cơ chế đền bù – các dính mắc, như các thày cũng gọi như vậy – thì con có nhiều chọn lựa hơn. Chẳng hạn, ở một điểm nào đó con có thể chọn: “Không, tôi không muốn gặp điều kiện này nữa, tôi đã trải nghiệm nó đủ rồi,” hoặc “Tôi không muốn ứng phó với loại người này nữa. Tôi đã chứng tỏ có một tâm thức khác hơn trạng thái tâm thức của họ và tôi không muốn cứ làm mãi chuyện này cho đến hết kiếp này. Tôi muốn bước sang một cái gì khác.”

Con yêu dấu, con có rất, rất nhiều chọn lựa khác nhau. Không chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành Sứ vụ của con và cũng không phải là nếu con không làm theo cách đó thì con sẽ không làm tròn Sứ vụ của mình. Đây không phải là chuyện “tất cả hay không có gì”. Nó không đen trắng.

7.14. Con không thể thất bại trong Sứ vụ

Miễn là con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu, con không thể không làm tròn Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể. Không có gì bất di bất dịch. Trước khi con đầu thai và lập ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã lượng định – dựa trên tâm thức con mang trong kiếp trước – những gì con có thể vươn tới trong kiếp này một cách thực tế nhất. Nhưng nếu con sẵn lòng, nếu con thật sự chuyên tâm và áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền, thì con còn có thể vươn lên cao hơn nữa. Nhiều các con có khả năng vươn lên cao hơn mức được định ra trong Sứ vụ của mình.

Một số các con đã không định ra trong Sứ vụ là mình sẽ có thể vươn tới tầng 144 trong kiếp này, nhưng một số các con có khả năng làm được điều này nếu con thực sự chuyên tâm và bước xa hơn, bởi vì việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi gì chứ? Nó chỉ đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là con sẽ không bị giam hãm trong mức tâm thức này, sẵn lòng bước ra ngoài. Con sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.” Không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển.

Tuy nhiên sẽ có một giới hạn, là con cần một cảm giác liên tục, cho nên con không thể tự dưng chuyển vọt lên một mức quá cao so với mức hiện tại của con. Con không thể nhảy bước. Một số học trò tâm linh trở nên rất nóng lòng và muốn giác ngộ ngay bây giờ, trong vòng năm phút, nhưng điều này không thể làm được ngay lập tức. Con phải đi qua tất cả 144 tầng tâm thức. Con không thể nhảy từ tầng 120 lên tầng 133. Không thể được. Con sẽ đánh mất ý niệm bản sắc, ý niệm liên tục của con, và thật ra nó có thể dẫn đến bệnh tâm thần và chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều con cần nhìn nhận ở đây là con cần đi qua tất cả mọi bước, vì thật sự nếu con sẵn lòng thì không có gì sẽ giới hạn tốc độ tiến bước của con.

Con yêu dấu, lẽ tự nhiên thày có thể tiếp tục nói mãi và giảng thêm nữa về đề tài này. Các thày đã cho con nhiều giáo lý mà con có thể tu học và áp dụng trong nhãn quan mà thày vừa trao cho con về Sứ vụ Thiêng liêng và quả vị Ki-tô. Bí quyết thực sự ở đây là con đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh.” Cái Ta Biết là tên gọi mà các thày đã dùng cho sự nhận biết thuần khiết để chỉ rõ là con không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Đó là lý do tại sao con có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của con. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà con hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.

9 | Khía cạnh cách mạng trong Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Điều thày mong muốn giảng cho con là khái niệm tiến hóa (evolution) hay tiệm tiến, so với cách mạng (revolution). Các chân sư khác đã cố trao cho con ý tưởng là Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là một mục tiêu xa vời, vượt ngoài tầm tay và không thể nào đạt được. Chắc chắn đây là một ý tưởng rất quan trọng để con thể nhập.

9.1. Giai đoạn tiến hóa và giai đoạn cách mạng

Con cần nhận diện có một khía cạnh tiến hóa trong Sứ vụ của con và một giai đoạn cách mạng trong Sứ vụ của con. Các thày đã trình bày về giai đoạn công phu trong Sứ vụ, và các thày có nói là có một giai đoạn khi con khởi sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình nhưng con làm vậy ngay trong hoàn cảnh mình đang gặp, và con làm từng chút một, từng bước nhỏ một. Đây là giai đoạn các thày gọi là giai đoạn tiến hóa trong Sứ vụ của con. Theo một nghĩa nào đó, giai đoạn tiến hóa này sẽ tiếp tục cho đến hết kiếp này của con. Trong Sứ vụ Thiêng liêng luôn luôn sẽ có một yếu tố tiến hóa.

Tuy nhiên, điều con cần nhận diện là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, các giai đoạn cao hơn của đường tu. Có một số điểm, một số thời điểm then chốt trong đời con khi con không thể bước lên mức kế tiếp một cách tiệm tiến bằng những bước nhỏ. Thậm chí con không thể đi lên mức kế tiếp bằng cách ở trong trạng thái tâm thức tiệm tiến.   

Con cần biết điều này ở những tầng mức đó – không phải ở những tầng mức thấp hơn nơi con không cần quan tâm đến chuyện này. Con hãy cho phép thày bước lui lại một chút để nói rằng đối với nhiều người – nhiều người trong số các con tìm thấy lời dạy này – con vẫn còn trong giai đoạn tiệm tiến. Điều thày trao cho con ở đây sẽ không áp dụng cho con ngay bây giờ, hay có thể sẽ không áp dụng một số năm nữa, nhưng nếu con là một dòng sống tiên tiến có tiềm năng biểu hiện một mức tâm thức cao hơn trong kiếp này, thì sẽ tới một điểm con không thể tiến hơn nữa qua những bước nhỏ kia.

Theo một nghĩa nào đó, có một sự mâu thuẫn trong những gì thày đang nói với con, vì lẽ tự nhiên, các thày đã cho con khái niệm về 144 tầng tâm thức. Các thày có nói là con không thể nhảy bước, cho nên ngay cả khi con ở tầng 123, tầng kế tiếp của con là 124, và theo một cách nhìn, cái bước từ 123 lên 124 không đến nỗi to lớn lắm – đó không thật sự là một thay đổi “cách mạng”.

Ý thày muốn cho con ở đây là con vẫn bước trên đường tu qua các tầng tâm thức khác nhau, nhưng con yêu dấu, song song với con đường tiến hóa lần hồi đó có tiềm năng là con kinh qua một sự xoay chuyển trong tâm thức, một xoay chuyển trong thái độ, một xoay chuyển trong cách nhìn cuộc sống. Điều này có thể dẫn con từ mức của con trước đây lên một mức sẽ dứt khoát cao hơn, đến độ con phải thật sự xem đó là một bước cách mạng.

Nhiều người trong các con đã trải nghiệm những sự chuyển vọt tâm thức như vậy. Nhiều các con có thể nhìn lại một thời điểm khi con chưa có giáo lý tâm linh nào, rồi tới khi con tìm ra giáo lý tâm linh đầu tiên của con, đó đã là một chuyển vọt ngoạn mục nâng con lên cao hơn và thay đổi cách con nhìn cuộc sống. Con cũng có thể thấy là con đã từng có những bước khác giống như vậy khi đột nhiên con có một sáng ngộ, đột nhiên con trải nghiệm một cái gì đó và cái đó là một xoay chuyển tâm thức cách mạng, ấn tượng hơn, sâu xa hơn.

9.2. Giữ cân bằng khi chuyển vọt cách mạng

Điều thày muốn nói với con ở đây là ở những tầng cao hơn, tới một điểm con sẽ cần nhận ra là song song với sự thay đổi tiệm tiến, có thể con còn có nhu cầu kinh qua một sự chuyển vọt sâu đậm hơn, cách mạng hơn trong tâm thức. Nó chỉ có thể xảy đến nếu con sẵn lòng làm cuộc chuyển vọt đó, nếu con quyết định là mình sẽ mở tâm ra để nhận lấy cái sáng ngộ mà giờ đây con đã sẵn sàng tiếp nhận.

Con không thể làm được điều này cho đến khi con sẵn sàng. Đó là tại sao một lần nữa, thày cần nhìn lại các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên và chỉ ra cho con là đã từng có rất, rất nhiều học trò có thể bảo là mình đã kinh qua một sự chuyển đổi cách mạng trong tâm thức lẫn trong nhãn quan của mình. Rồi họ trở thành những người mà chân sư MORE mô tả là “vô cùng quả quyết, vô cùng lửa xanh và tia sáng xanh, không cho phép bất cứ gì cản đường mình, dẹp tan đối lập cũng như bất cứ ai chắn đường mình, và trực chỉ tiến tới mục tiêu.”

Tất nhiên cũng có câu chuyện vui mà người ta hay kể trong các đợt truyền pháp trước, là một ngày kia El Morya và Kuthumi được giao cho phận sự đi lên núi nhận thông điệp từ một vị thày tâm linh. El Morya xông thẳng lên núi, nhận thông điệp rồi bước thẳng xuống. Còn Kuthumi thì thong thả hơn, dành thì giờ ngắm chim chóc và thưởng ngoạn hoa đẹp, nhưng khi cả hai xuống núi thì El Morya đã quên bẵng mất thông điệp là gì, còn Kuthumi thì nhớ rất rõ. Chuyện tương tự cũng xảy ra cho nhiều học trò tâm linh, con yêu dấu, vì con có thể kinh qua một sự chuyển vọt cách mạng trong tâm thức nhưng con vẫn còn mang quá nhiều thứ của ngã gốc, con còn sót lại quá nhiều ngã tách biệt đến độ con không hiểu đúng về trải nghiệm của con.  

Điều thày đang nói là trong các đợt truyền pháp trước có nhiều đệ tử kinh qua một trải nghiệm thần bí, tâm linh chân chính, họ ngộ được một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng thế rồi tâm vỏ ngoài của họ lại diễn giải nó một cách mất cân bằng. Họ khoác vào phản ứng rất thiếu cân bằng đó và bây giờ họ trở thành những người mà họ gọi là “quyết tâm” nhưng thật ra là “mù quáng”. Họ đeo vào một miếng da che hai bên mắt khiến họ chỉ chú mục vào đúng một mục tiêu đó. Một cách nào đó, thật ra họ đang bảo với trực giác của họ, bảo tâm Ki-tô của họ, bảo cả các chân sư thăng thiên: “Đừng làm phiền tôi nữa, tôi đã có viễn quan về nơi tôi cần đến. Đừng làm tôi rối trí và cho tôi bất kỳ sáng ngộ nào khác. Tôi sẽ không cần bạn cho đến khi tôi đạt tới đích.” Đương nhiên là họ không thể đạt tới đích mà không nhận được sáng ngộ, nhưng họ lại gạt chuyện này ra khỏi tâm trí.

9.3. Nhìn thấy tiềm năng cao hơn

Điều thày cần con nhìn nhận ở đây là khi thày nói đến một sự “xoay chuyển cách mạng”, nó không thể xảy ra cho tới khi con đã sử dụng giáo lý về ngã gốc cũng như nhiều giáo lý khác mà các thày đã ban truyền về tự ngã, về các chấn thương, và con cũng đã chữa lành tâm lý mình đến một độ nào đó. Một khi con đã nhận được sự chữa lành này, con cần nhận ra là con đã đạt đến một mức nơi sự thay đổi tiệm tiến không còn là bước đi thích hợp nữa, mà có thể con sẽ phải thực hiện một cuộc xoay chuyển dứt khoát trong cách mình nhìn cuộc sống. Đương nhiên điều này áp dụng cho nhiều vấn đề. Đặc biệt nó có thể áp dụng cho câu hỏi: Là Ki-tô trong hành động có nghĩa gì đối với con? Đâu là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con mà con có thể hiển thị?

Để lấy một ví dụ thực tế ở đây, vị sứ giả này đã nghe nói về giáo lý của chân sư thăng thiên lần đầu tiên năm 1984. Ông đã theo học một đợt truyền pháp trước của các chân sư, đã tìm hiểu giáo lý, đã thực hành giáo lý, đã tham dự đủ loại khóa tu tập, đi khám tâm lý gia, nỗ lực cải sửa tâm lý mình. Thế rồi vào năm 2002, ông ngộ ra là ông đã cất bước trên đường tu phần nào là do niềm tham vọng phàm phu muốn hoàn thành một việc gì quan trọng, đem lại một thay đổi quyết định và cảm thấy đời mình đã đáng sống. Trong cốt lõi, những thứ đó đều là một thành phần của ngã gốc của ông, một thành phần của chấn thương nhập đời của ông, tuy không phải là tất cả.

Đó cũng là một thành phần của cảm giác mà tất cả các con đều có, vì con đến địa cầu là để đem lại một sự khác biệt tích cực, và vì con không thể tạo ra sự khác biệt đó cho nên con mới mang nỗi thất vọng này bên trong. Ông ấy đã nhìn thấy điều này, rồi ông cũng có khả năng nhận ra là ông cần thực hiện một sự xoay chuyển dứt khoát, mạnh mẽ, hầu buông bỏ cái đó, buông bỏ tham vọng đó, rũ bỏ nó hoàn toàn. Ông đã làm được điều này, và đó cũng là lúc ông cảm thấy Hiện diện của Giê-su đề nghị ông có muốn khởi xướng một trang web nơi mọi người có thể đặt câu hỏi và nhận được trả lời của Giê-su hay không.

Nếu con nhìn vào quá trình của sứ giả này, từ năm 1984 cho đến 2002, ông đã tăng triển một cách tiệm tiến. Lần hồi, từng bước một, ông đã có chút tinh tấn trong suốt những năm tháng đó, tuy nhiên sự tinh tấn này vẫn tuần tự qua từng bước nhỏ một. Trong thế giới quan của ông và cho tới thời điểm đó, ông đã không hề nghĩ rằng mình mang tiềm năng trở thành một vị sứ giả cho chân sư thăng thiên. Ông chưa từng bất mãn với vị sứ giả trước, chưa từng ganh tị với vị đó, chưa từng có bất kỳ ý nghĩ nào là mình sẽ làm giỏi hơn hay vị đó có làm gì sai trái. Ông chỉ tận dụng giáo lý được ban truyền. Ông tự xem mình là một học trò của chân sư thăng thiên và ông sẽ cứ tiếp tục tăng triển chầm chậm từng bước như vậy bằng cách sử dụng các lời dạy của chân sư mà ông có.

Điều thày nói ở đây là bước tiến của ông từ việc là học trò của chân sư để trở thành sứ giả của chân sư không phải là một bước tiệm tiến. Nó đòi hỏi một chuyển vọt cách mạng trong tâm thức. Điều này không có nghĩa là bây giờ tất cả các con cũng sẽ nghĩ là mình phải làm giống như vậy và trở thành sứ giả cho chân sư. Điều thày muốn nói là đối với nhiều người trong các con, con có tiềm năng – ở một thời điểm nào đó trong đời mình, có lẽ không ngay bây giờ mà sau này – nhưng con có tiềm năng, như một thành phần của Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bước lên một tầm nhìn cao hơn về cuộc sống, một cách nhìn cao hơn về bản thân, và chấp nhận tiềm năng cao hơn mà con có thể đem lại. Con không thể làm điều này theo cách tiến hóa.

Con yêu dấu, không cứ là tất cả mọi học trò của chân sư đều sẽ tiến hóa lần lần cho đến khi họ trở thành sứ giả của chân sư thăng thiên. Một học trò của chân sư có thể tiến hóa tuần tự cho đến khi sẵn sàng thăng thiên, mặc dù thày sẽ nói là để thực sự sẵn sàng thăng thiên, con cũng sẽ phải kinh qua một số chuyển vọt cách mạng trong tâm thức. Không có một con đường tiệm tiến nào sẽ dẫn con từng chút một từ điểm làm học trò tới điểm làm sứ giả – nó đòi hỏi một sự xoay chuyển cách mạng. Tương tự như vậy, nhiều người trong các con sẽ cần đạt tới điểm khi con cảm nhận: “Có một cái gì hơn nữa. Tôi chưa thể nhìn thấy nó ngay bây giờ – tại sao tôi lại chưa thể nhìn thấy?”

Lý do là vì con chưa lấy quyết định là con sẵn lòng nhìn thấy nó cho dù nó là gì và nó sẽ đòi hỏi ở con những thay đổi gì. Một khi con làm cuộc xoay chuyển cách mạng này, một số chuyện có thể sẽ phải thay đổi. Luôn luôn sẽ có tự ngã lo sợ sự thay đổi, luôn luôn sẽ có các thế lực bóng tối muốn giữ con lại trong một số ranh giới, và con sẽ phải khắc phục lực lôi kéo trọng trược này. Rồi cũng sẽ có ngã gốc không muốn con bước ra ngoài những lằn ranh nơi nó cảm thấy con được an toàn.

9.4. Sẵn lòng từ bỏ sự an toàn

Con phải đạt tới điểm con sẵn sàng không còn cảm thấy an toàn. Con yêu dấu, con có thể bước đi trên đường tu tâm linh với khái niệm là có một con đường dẫn con từ những mức tâm thức thấp lên những mức cao hơn. Con có thể tăng triển một cách tiệm tiến cho tới khi con có khả năng biểu hiện một khía cạnh nào đó của quả vị Ki-tô của con. Nếu con lấy cuốn sách Các kiếp của tôi, nó mô tả làm thế nào Giê-su, trước khi thày khởi sự sứ mạng công ích của thày tại Palestine, đã trải qua một tiến trình tiệm tiến nhằm chuẩn bị thày cho sứ mạng sau đó. Nhưng khi con nhìn vào tiến trình này, có một điểm được kể lại trong Kinh thánh (tất nhiên một cuộc xoay chuyển tâm lý phức tạp hơn đã diễn ra) qua câu chuyện tiệc cưới tại Cana. Giê-su ngồi trong tiệc cưới và nhận ra đã đến lúc thày phải bước lên bước cao hơn, nhưng thày cứ kháng cự lại và Mẹ Mary đã phải can thiệp, trao cho thày cái xung lực chót khiến thày nhìn ra là thời điểm đã đến.

Đó là lúc Giê-su kinh qua cuộc xoay chuyển cách mạng khi thày chấp nhận mình là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Một số các con cũng có thể đến được điểm đó khi con chấp nhận điều này. Thày có thể cam đoan với con, đây là một sự chuyển vọt cách mạng. Không chỉ là thêm một bước nhỏ đi lên mà là một bước nhảy vọt, như người ta gọi là một bước nhảy vọt lượng tử. Con yêu dấu, con cũng hiểu là đã có một thời các nhà khoa học tin rằng thế giới là một tổng thể liên tục nơi các mức năng lượng trong hạt hạ nguyên tử thay đổi một cách lần hồi. Thế rồi Max Planck nhận được một sáng ngộ trực giác và ông nhìn ra là các mức năng lượng đó không thay đổi theo từng bước li ti cực nhỏ. Có một bước nhảy tối thiểu mà chúng phải băng qua – gọi là bước nhảy lượng tử. Trường hợp ở đây cũng giống như vậy, con đường quả vị Ki-tô có một khía cạnh tiến hóa tuần tự, nhưng con không thể mãi mãi tiến gần lại với mục tiêu, như các thày đã có giải thích qua chuyện ngụ ngôn về nghịch lý của Zeno, qua đó con luôn luôn phải đạt đến trung điểm của hành trình, rồi lại trung điểm của phần hành trình còn lại, và cứ như thế đến độ con không bao giờ tới đích.

Con không thể trở thành Ki-tô Hằng sống bằng cách bước tới dần dần, càng ngày càng đến gần hơn. Có một điểm con sẽ phải lấy quyết định và chấp nhận là mình đã thể hiện được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô, con đã đạt tới mức quả vị Ki-tô. Và kể từ lúc đó trở đi, con sẽ nhìn bản thân cũng như vai trò của mình trong thế giới một cách khác hơn. Có thể đây không là sự thay đổi lãng mạn mà người ta thường phóng chiếu.

Đây chính là điểm mà học trò trong các đợt truyền pháp trước không hiểu. Đôi khi họ nghĩ là một khi họ đã có một trải nghiệm mãnh liệt thì bỗng nhiên họ trở thành Ki-tô trong hành động, rồi từ đó vai trò của họ sẽ là đi vòng quanh để chỉ ra cách sai trái của mọi người và kỷ luật mọi người. Đây không phải là điều thày muốn nói, mà thày muốn nói đến một sự xoay chuyển vi tế hơn không khởi lên từ một niềm tham vọng vỏ ngoài. Các học trò kia trong các đợt truyền pháp trước thường mang một niềm tham vọng vỏ ngoài, một tham vọng thế phàm muốn trở thành một người quan trọng, một người có vai trò quan trọng, có địa vị quan trọng. Họ tìm cầu địa vị vỏ ngoài đó, sự công nhận vỏ ngoài đó, nhưng Ki-tô Hằng sống đâu đi tìm cái đó.

9.5. Xoay chuyển cách con nhìn thế giới vật chất

Sẽ tới điểm đó khi con cần nhận diện là mình mang tiềm năng làm cánh cửa mở để đem lại một cái gì mới, một cái gì mới một cách quyết định, có thể là trong lãnh vực chuyên môn của con, hay thậm chí trong một lãnh vực hoàn toàn khác mà con không có chuyên môn hay kinh nghiệm trước đó. Khi điều này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con cần hòa điệu vào đó. Nếu con ở trong số những người có tiềm năng đạt đến những mức tâm thức cao hơn, một trong những xoay chuyển mà con cần thực hiện là trong cách con nhìn thế giới vật chất, cách con nhìn bát cung vật lý.

Con yêu dấu, các thày có giải thích là trong chấn thương nhập đời, con đã hoàn toàn bước vào một khuôn nếp phản ứng như thế nào. Điều này có nghĩa – ngoài các vấn đề khác ra – là con nhìn vật chất như một thứ gì rắn đặc mà tâm không có khả năng thay đổi. Con yêu dấu, làm thế nào Giê-su đã biến nước thành rượu chứ? À, không phải là do Giê-su, con người vỏ ngoài của Giê-su, mà do thày đã trở thành một cánh cửa mở cho năng lượng của Thượng đế. Ý ở đây là như sau: Năng lượng của Thượng đế có khả năng thay đổi vật chất. Khi con đạt tới một mức quả vị Ki-tô nào đó, con trở thành cánh cửa mở cho những năng lượng này – nếu con có thể thực hiện cuộc xoay chuyển cách mạng đó và chấp nhận rằng vật chất có thể được tâm thay đổi! Tất cả các sa nhân, tất cả ma quỷ và rất nhiều người sẽ la hoảng lên đây là một lời nói dối, rằng chuyện này không thể nào làm được. Nhưng một trong những vòng đai cố thủ cuối cùng của sa nhân là khiến cho ai nấy nghĩ rằng trong vật chất có nhiều điều kiện mà con người không có quyền năng thay đổi.

Đây là một bước cách mạng, và bước này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của một số các con, cho dù nó có nghĩa thế nào đối với cá nhân con. Một lần nữa, thày không muốn khơi lên một tham vọng mà tự ngã của con có thể chụp lấy rồi thổi phồng lên. Chắc chắn một số các con có tiềm năng đem lại những sáng kiến mới, những công nghệ mới vượt cao hơn hẳn những gì nhân loại đang có, là những công nghệ mà thày đã gọi là “không dựa trên sức mạnh”. Những loại công nghệ này sẽ có vẻ như là ảo thuật so với những gì hiện có. Nó có vẻ như là khoa học viễn tưởng, như không thể nào xảy ra, vì nó vượt khỏi những gì hiện nay con xem là các định luật tự nhiên. Một số khác trong các con có tiềm năng trở thành những nhà chữa bệnh. Một số khác nữa có tiềm năng đem lại ý tưởng cách mạng trong từng lãnh vực của đời sống.

Con không thể hiển thị một ý tưởng cách mạng nếu con cứ ở trong một tâm thái tiến hóa tiệm tiến. Con cần làm cuộc xoay chuyển đó và mở tâm ra để thực sự làm cánh cửa rộng mở cho một số sáng ngộ cách mạng – công nghệ, tư tưởng, thậm chí cả thái độ, niềm tin hay cách nhìn cách mạng về cuộc sống. Nếu con thành thật, một số các con có thể cảm thấy sự kháng cự bên trong con đối với ý tưởng này. Nó đến từ ngã gốc hay một cái ngã tách biệt, bảo con rằng chuyện này nguy hiểm, chuyển này viển vông, chuyện này không thể nào xảy ra, rằng con không được làm theo vì con sẽ trở nên kiêu ngạo, hay bất kỳ ý tưởng nào khác mà nó sẽ phóng chiếu vào tâm con.

Mỗi cá nhân các con cần xem xét điều này và tự hỏi: “Đâu là cái cơ chế đứng đằng sau? Đâu là niềm tin đứng đằng sau? Đâu là sự giới hạn mà niềm tin này dựa trên?” Sau đó con cần dùng phân biện Ki-tô của mình, con cần làm công việc nội tâm giải quyết ngã đó, tách mình ra khỏi nó. Con cũng cần dùng phân biện Ki-tô để mở tâm ra hầu thật sự trải nghiệm thực tế của những gì con có thể hiển thị. Thày vừa lấy sứ giả này làm ví dụ để nói rằng việc ông khởi xướng trang web cùng với Giê-su không phải là một thay đổi tiệm tiến đối với ông, mà nó dựa trên một trải nghiệm có thật. Con phải trước hết sẵn lòng có trải nghiệm đó bằng cách sẵn lòng buông bỏ những niềm tin, thái độ, cách nhìn của mình về chính mình, cách nhìn của mình về thế giới. Xong con phải sẵn lòng thực hành cái nhìn mới, và phải làm vậy trong một tinh thần vừa không kiêu mạn, vừa không rơi vào đối nghịch của kiêu mạn là tự bài bác.

9.6. Tìm sự cân bằng vượt khỏi kiêu mạn và khiêm tốn giả dối 

Con phải tìm thấy một thế cân bằng vô cùng tinh tế nơi không có chỗ cho lòng tham vọng phàm phu khiến con kiêu mạn, như các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước. Đồng thời cũng không có sự chối bỏ bản thân khiến con hạ thấp chính mình, như các thày cũng đã thấy trong các đợt truyền pháp trước. Nói cách khác, có một số học trò đã tự cản trở mình trong việc biểu hiện quả vị Ki-tô. Và cũng có một số học trò đã sốt sắng thái quá, và thay vì biểu hiện quả vị Ki-tô thì họ lại biểu lộ các tham vọng của tự ngã rồi nghĩ đó là quả vị Ki-tô.

Con cần tìm thấy thế cân bằng đó vì đó chính là điều các thày đã chỉ dạy con một cách lần hồi, rất lần hồi. Các thày đã dẫn con tới khả năng phân biện đó và bước chân thăng bằng trên sợi dây đó, trên con đường hẹp đó thay vì con đường rộng toang. Điều này thật sự nằm trong tầm tay các con nếu con đã ghi nó như một tiềm năng vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nhiều người trong các con chưa đến được mức đó nhưng tất cả các con đều có thể hưởng lợi bằng cách ít ra giữ khái niệm này trong tâm. Một số các con sẽ tìm ra là khi con cảm thấy mình đạt tới điểm đó, điều có thể rất hữu ích là con nghe lại bài truyền đọc này, vượt ra khỏi từ ngữ để theo dõi sự rung động của từ ngữ, rồi bước theo đó cho tới Bản thể mà TA LÀ, Saint Germain, cũng như tình thương mà thày dành cho con.

Rồi khi con gắn chặt vào đó và trải nghiệm tình thương đó, con sẽ có thể trải nghiệm thực tại của tình thương mà thày cống hiến, là tình thương có khả năng làm cho vật chất ca hát. Đó là khi con cũng có thể bắt đầu trải nghiệm ánh sáng của Thượng đế, tình thương của Thượng đế, có khả năng xoay chuyển vật chất, vì nó làm cho vật chất ca hát trong một giai điệu khác hơn là giai điệu của sa nhân!

Khi đến được mức đó, một số các con sẽ có thể nhận ra là kỳ thực mình đang ở đây để biểu đạt một khía cạnh của quả vị Ki-tô của mình, qua đó con là cánh cửa mở đang gửi ra ngoài một rung động làm cho vật chất ca hát! Nó làm cho các phân tử cùng các hạt nguyên tử của vật chất vật lý khởi sự gia tốc ở một tầng cao hơn. Và như vậy, con có thể đóng một vai trò hoàn toàn mới trong công cuộc nâng cao tâm thức tập thể và đem lại Thời đại Hoàng kim.

9.7. Sứ vụ Thiêng liêng và Thời Hoàng kim

Thời Hoàng kim không thể được ép uổng lên nhân loại, cho nên phải có những người hiện đang đầu thai làm vai trò cực điện để đem lại một sự xoay chuyển trong tập thể, qua đó mọi người có thể dần dần chấp nhận trong ý thức sự hiện hữu của một cái gì cao hơn. Vào thuở khi những con người đầu tiên bắt đầu mơ tưởng sáng chế ra một cái máy biết bay, tuyệt đại đa số nhân loại vẫn chưa thể chấp nhận giấc mơ này là khả thi. Rồi khi những chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo và trình làng, rất nhanh chóng một sự xoay chuyển cách mạng đã xảy ra trong tâm thức tập thể. Bỗng nhiên càng ngày càng có nhiều người bắt đầu chấp nhận việc bay trên không trung là chuyện có thể.

Khi chúng ta bước vào Thời Hoàng kim, nhiều cuộc xoay chuyển giống như vậy cần xảy ra trước khi thày có thể thực sự truyền rải các ý tưởng và công nghệ sẽ khiến cho Thời Hoàng kim trở thành hiện thực vật lý. Tiên khởi phải có sự nhận thức và chấp nhận trước khi sự thị hiện vật lý có thể xảy ra. Phải có một túc số tới hạn những con người chấp nhận tiềm năng cao hơn trước khi tiềm năng này có thể thị hiện. Nhiều người trong số các con có mang trong Sứ vụ của mình ý muốn trở thành những cực điện cho công cuộc này. Đó là tại sao những bài thỉnh mà con đang đọc nói đến việc góp phần đem lại sự thay đổi qua hành động trực tiếp hay qua những lời kêu gọi. “Lời kêu gọi” của con trong bài thỉnh tượng trưng cho những gì thày đang trình bày ở đây, tức là con công nhận mình có thể làm cực điện để truyền rải năng lượng có khả năng nâng cao tâm thức tập thể, làm cho vật chất ca hát, và kích hoạt cuộc xoay chuyển.

Một số các con có thể thấy là có lẽ mình không ở độ tuổi, hay có lẽ mình không đủ học hành để bước vào một lãnh vực khoa học và khởi xướng một nền công nghệ mới qua hành động trực tiếp. Điều này không thực tế đối với con trong kiếp này, nhưng nếu con cảm hứng mạnh mẽ về một dạng công nghệ mới, hay một hình thức giáo dục mới, hay một hình thức văn hóa nghệ thuật mới, thì nếu con không thể hành động trực tiếp trong vật lý, con vẫn có thể hành động trực tiếp trong tâm linh bằng cách đưa ra lời thỉnh gọi. Con có thể mở tâm ra để trở thành cực điện cho năng lượng đó, và nó có thể xoay chuyển tâm thức tập thể, thậm chí xoay chuyển cả vật chất vật lý. Chắc chắn, nó sẽ đem lại xoay chuyển trong cõi cảm xúc, cõi lý trí, cõi bản sắc, hầu mọi người chuyển đổi tâm thức mình và bắt đầu chấp nhận rằng tiềm năng không chỉ là tiềm năng mà là một cái gì có thể xảy ra thực sự. Đây không phải là chuyện khoa học giả tưởng, không phải là một giấc mơ xa vời hão huyền nào đó may ra sẽ biểu lộ trong một tương lai xa lắc. Nó thật sự có thể thị hiện ngay bây giờ, và khi nào có một túc số tới hạn những con người chấp nhận thì nền công nghệ mới sẽ được thị hiện rất nhanh chóng như con đã từng chứng kiến rất nhiều lần xuyên qua lịch sử.

9.8. Chúng ta luôn luôn có thể bước lên cao hơn

Cuộc xoay chuyển mà thày muốn con làm ở đây, tất cả các con – tất cả mọi học trò tâm linh cho dù con đang ở trình độ nào – là con nhìn nhận bất cứ lúc nào cũng có một tâm thức tập thể đang nghĩ rằng: “Ồ, chúng ta đã đạt tới mức cao nhất rồi, chúng ta không thể nào lên cao hơn được.” Con thấy đó, ngay bây giờ đang có một tâm thức tập thể bảo rằng: “Chúng ta đã đạt được một trình độ tối ưu nào đó, và mặc dù có thể sẽ có những giải pháp công nghệ mới, nhưng chúng sẽ đều nằm trong cùng một khuôn khổ như những gì đang có hiện nay. Chúng sẽ chỉ là sự cải tiến, là những cải tiến nho nhỏ, tiệm tiến, của những gì chúng ta đang có.”

Các con là học trò tâm linh, các con yêu thương Thời Hoàng kim của thày, vậy thày yêu cầu các con hãy làm một cuộc xoay chuyển cách mạng trong tâm thức, qua đó con nhận ra là những gì con đang có ngay bây giờ không đặt giới hạn cho những gì có thể được hiển thị trong tương lai! Chúng ta không thể thị hiện Thời hoàng kim mà thày hình dung bằng cách thay đổi hiện trạng một cách tiệm tiến. Chúng ta cần một số xoay chuyển cách mạng, và các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển tâm thức này, các con chấp nhận là nó hoàn toàn khả thi, là thày cũng có khả năng, và thày đã có những sáng kiến đó rồi. Khi có đủ số người chấp nhận điều này thì nó sẽ có thể biến thành vật lý, và con cũng biến chính con thành người chấp nhận điều này. Cho nên con sẽ không để ý tới những kẻ bi quan yếm thế, những kẻ chỉ tiên tri ngày tận thế và những kẻ cho rằng không gì có thể thay đổi.

Con sẽ chấp nhận rằng sự thay đổi là trào lưu của ngày nay, của thập niên này, của thiên niên kỷ và của thời đại này, vì thày, Saint Germain, đang tuyên bố điều đó và con cũng chấp nhận lời tuyên bố của thày! Qua sự tương tác giữa thày nơi cõi thăng thiên và con nơi cõi hiện thân vật lý, tức là dòng chảy alpha và omega, dòng chảy hình số tám, thì lời tuyên bố này sẽ không thể nào không thị hiện! Chỉ là một vấn đề thời gian trước khi một túc số tới hạn con ngừơi sẽ có thể chấp nhận được điều này.

Thày đang yêu cầu con xoay chuyển để ít ra con cũng chấp nhận và đóng góp hầu biểu lộ nó thành hiện thực. Liệu con sẽ làm được cuộc xoay chuyển này hay không? Nếu được thì thày cảm ơn con đã sẵn lòng bước theo thày, đã cho phép Lời này, sự ban truyền này, khiến cho vật chất của con ca hát! Con hãy hòa điệu vào đó ngay bây giờ và cảm nhận vật chất trong bốn thể phàm của con đang hát lên một giai điệu mới.

11 | Chọn lựa ý thức và chọn lựa tiềm thức

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Đại Chỉ đạo Thiêng liêng – hoặc như dạo sau này thày ưa tên gọi này hơn, Chỉ đạo Thiêng liêng – vì thật sự “Chỉ đạo Thiêng liêng” vượt khỏi mọi sự phân rẽ, mọi đối cực nhị nguyên. Phân biệt giữa lớn với không lớn liệu có ý nghĩa gì chăng?

11.1. Các giai đọan ý thức và tiềm thức của Sứ vụ Thiêng liêng

Con yêu dấu, cho tới điểm này các thày đã cho con những bài truyền đọc bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vừa rồi con đã nghe giảng là có những thời điểm con cần có một số quyết định để bước lên một tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Hầu mở tâm ra cho một sự thay đổi cách mạng, con cần lấy một số quyết định.

Theo một nghĩa nào đó, ít nhất ở những giai đoạn cao hơn, Sứ vụ Thiêng liêng của con hoàn toàn là những quyết định mà con lấy. Các thày đã giảng là có một giai đoạn công phu trong Sứ vụ, có một giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ, có một giai đoạn tiến hóa hay tiệm tiến trong Sứ vụ, và có một giai đoạn cách mạng. Để khiến con bối rối hơn nữa và đưa con – hy vọng như vậy – vào một trạng thái hoang mang huy hoàng, thày muốn đưa ra khái niệm là có một giai đoạn ý thức trong Sứ vụ và một giai đoạn tiềm thức.   

Qua khái niệm này thày muốn nói là nếu con nhìn lại đời mình, con có thể thấy con thường bị đẩy vào những tình huống mà con có thể nói là con đã không chọn bước vào một cách ý thức. Nó như tự dưng xảy ra trong hoàn cảnh như vậy, và con không ý thức được tại sao con cần làm vậy và chuyện đó nằm trong Sứ vụ của con như thế nào. Dù sao thì nó vẫn nằm trọn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con đã cần đến trải nghiệm đó. Con có thể nói: “Đúng, trong giai đoạn đó của Sứ vụ, tôi không chọn một cách ý thức những gì mình làm và tôi không cố tình chọn như vậy. Tôi không biết rõ những chọn lựa khác là gì và hậu quả sẽ ra sao.” Con có thể tự hỏi: “Ở giai đoạn đó, tôi đã thật sự chọn lựa hay không?” Thực tế dĩ nhiên là , con luôn luôn đang chọn lựa. Mọi người trên địa cầu đều không ngừng chọn lựa.

Con có thể nhìn những người ở trạng thái tâm thức rất thấp và cuộc đời của họ dường như chìm trong một tình trạng xáo trộn liên tục. Luôn luôn có những điều kiện vỏ ngoài có vẻ như ép buộc họ làm chuyện này chuyện nọ, hay ép buộc họ cứ luôn bị tê liệt như thể bị tước mất hết khả năng. Con có thể nói: “Đấy, họ đang chọn lựa ở chỗ nào?” Họ có thể không đang chọn lựa trong tình huống trước mắt, nhưng tình huống của họ vẫn là hệ quả của những chọn lựa mà họ đã lấy trong quá khứ. Ngay cả trong tình huống trước mắt, mặc dù họ không đang chọn thị hiện một hoàn cảnh cụ thể, nhưng họ vẫn chọn cách phản ứng hay không phản ứng lại hoàn cảnh.

Khi con chuyển từ giai đoạn tiềm thức vào giai đoạn ý thức, không phải đột nhiên con bắt đầu chọn lựa, mà thật ra con kinh nghiệm là đột nhiên con bắt đầu chọn lựa. Lý do là vì con bắt đầu ý thức nhiều hơn về những chọn lựa mà con đang lấy liên tục. Khi con theo học và thực hành giáo lý của các thày, lúc đầu con trở nên ý thức hơn về phản ứng của mình. Con bắt đầu nhận biết là khi con ở trong một hoàn cảnh nào đó, hoàn cảnh này kích hoạt nơi con một khuôn nếp phản ứng nhất định. Sau đó con bắt đầu nhận xét điều này, và con nhận thức rõ hơn là trong một số hoàn cảnh – hay khi con ở gần một số người – con luôn luôn phản ứng theo cách đó. Và tất nhiên, các thày đã cho con những dụng cụ để đặt câu hỏi: “À, chẳng phải điều này đang chỉ ra là mình có mang một khuôn nếp phản ứng, và khuôn nếp phản ứng này đến từ một loại phàm linh nội tại hay một loại ngã nào đó, có thể là nó còn đi ngược về tuốt ngã gốc, là điểm tôi đã khởi sự giai đoạn phản ứng lại các điều kiện trên trái đất?” Như vậy con có thể dùng các dụng cụ để gia tăng sự nhận biết về cái đứng đằng sau khuôn nếp phản ứng đó. Một khi con thấy cái đứng đằng sau, con có thể thoát ra khỏi nó, thế là con không còn phản ứng cách đó nữa.

Tất nhiên, mỗi lần con khắc phục một khuôn nếp phản ứng như vậy, con sẽ mở rộng tầm nhận thức, con sẽ có thể nhìn thấy một khía cạnh khác nữa, một diện khác nữa trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và bỗng nhiên con có khả năng làm nhiều chọn lựa ý thức hơn, vì thay vì bị một khuôn nếp tiềm thức kích hoạt phản ứng nơi mình, con không còn mang khuôn nếp đó nữa. Và do đó con có thể chọn: “Tôi muốn phản ứng thế nào trong hoàn cảnh này, tôi muốn phản ứng thế nào đối với những người này? Liệu tôi có thật muốn phản ứng lại một loại người nào đó hay tôi muốn lựa bỏ họ ra khỏi đời tôi?”

11.2. Sự sáng tạo dựa trên các chọn lựa

Điều con nhận ra ở đây là khi con chuyển sang giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ Thiêng liêng, khả năng sáng tạo dựa trên gì? Nó dựa trên việc chọn lựa! Con yêu dấu, đã có một cuộc tranh luận rất lâu đời giữa các triết gia và các nghệ sĩ về đề tài “Sáng tạo bắt nguồn từ đâu?” Con yêu dấu, con có thể nói – và nhiều nghệ sĩ, nhà văn, họa sĩ cũng sẽ nói như vậy – rằng họ nhận được một nguồn cảm hứng. Ngày xưa, người ta hay nói đến các nàng thơ, được xem là những sinh thể phi vật chất gần giống như tiên nữ hay thiên thần, đến đậu trên vai nhà thơ để tạo cảm hứng sáng tác. Hiển nhiên, một số văn sĩ đã cảm được một luồng cảm hứng đích thực chảy qua bản thân mình, thậm chí cả một dòng chảy từ Tánh linh. Trong một số trường hợp, đó quả là một dòng Tánh linh cao, y như con đang trải nghiệm một dòng Tánh linh cao đang chảy qua tâm thức sứ giả này không do chính ông tạo ra bằng tâm thức của ông.

Con có thể nói là nếu con sáng tạo, chẳng phải là có một dòng chảy năng lượng đang đi qua Bản thể con và là cội nguồn của sự sáng tạo đó hay sao? Tất nhiên là có – đây là điều các thày đã gọi là sự đồng sáng tạo. Con nhận diện là con đang thực sự sáng tạo không chỉ bằng cách sử dùng những năng lượng sẵn có trong cõi vật chất và những khả năng sẵn có trong tâm phàm của mình, mà con đang thực sự sáng tạo bằng cách kết nối với một cái gì cao hơn ngã của mình, bằng cách làm cánh cửa mở cho cái đó, và như vậy con cho dòng năng lượng chảy vào bốn thể phàm của con hầu nó biểu lộ ra trong bát cung vật lý. Tất nhiên, dòng chảy này của Tánh linh nếu con muốn gọi như thế, hay luồng cảm hứng này, là một phần không thể thiếu của mọi sáng tạo.

Dù sao thì điểm mà nhiều nghệ sĩ hay triết gia không hiểu hoàn toàn về sáng tạo là họ nghĩ đó là một cái gì xảy ra hoặc không xảy ra, và con không thể làm gì để thay đổi nó được. Trong giới nhà văn, người ta có khái niệm gọi là “tắc ý” (writers block) khi nhà văn bị tắc nghẽn không làm sao viết nổi suốt nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm trời. Con ngồi trước tờ giấy trắng, đang say sưa viết xuống lưu loát thì bỗng nhiên tâm con rơi vào trạng thái tê liệt không thể viết được bất cứ gì.

Điều thày mong con lưu ý là sự sáng tạo đòi hỏi một số quyết định nơi con. Đó không phải là một kinh nghiệm thụ động nơi con thụ động ngồi chờ cảm hứng từ trên trời rơi xuống. Con có thể làm rất nhiều để mở tâm ra đón nhận dòng chảy Tánh linh. Có câu nói rằng: “Thánh linh thổi đâu thì thổi” (John 3:8) để diễn tả là con không thể dùng tâm vỏ ngoài để kiểm soát dòng chảy của Tánh linh. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài và một tham vọng phàm phu để cưỡng ép dòng chảy của Tánh linh. Con yêu dấu, nếu con tìm cách ép buộc dòng chảy thì con sẽ không hòa điệu được với Tánh linh, với Thánh linh, với cõi tâm linh, với các chân sư thăng thiên. Con sẽ hòa điệu với các linh thể thấp hơn nơi cõi bản sắc thấp, cõi lý trí hay ngay cả cõi cảm xúc.

Suốt dòng lịch sử, một số nhà văn và nghệ sĩ đã hòa điệu với những cõi thấp đó và đã nhận được một luồng chảy từ các linh thể thấp đó xuyên qua họ, cho phép họ sản xuất – trong một số trường hợp – một lượng văn chương và thông tin to lớn khủng khiếp, hay một lượng họa phẩm, nhạc phẩm hay bất kỳ loại tác phẩm nào khác to lớn khủng khiếp. Đây không phải là những gì các thày gọi là sáng tạo chân chính vì đó không phải là đồng sáng tạo. Nó không đồng sáng tạo với cõi tâm linh mà đồng sáng tạo với một cõi thấp hơn vẫn thuộc về thế gian này.

Con không thể ép buộc Thánh linh, tuy nhiên con cũng không thể nhận được Thánh linh bằng cách ngồi chờ. Con tìm ra con đường trung đạo, con đường thẳng và hẹp nơi con giải quyết các chấn thương riêng của mình, khắc phục các phàm linh nội tại, những cái ngã nội tại, và nhờ vậy độ cởi mở trong tâm con được gia tăng. Con cũng cần trở nên ý thức hơn là con phải chọn trở thành cánh cửa mở, con phải chọn “làm” cánh cửa mở trong một số hoàn cảnh đặc thù. Nó đòi hỏi con lấy quyết định ý thức đó. Đó có thể là nhiều quyết định ý thức khác nhau, và như các chân sư khác có đề cập sáng nay, con sẵn lòng là Ki-tô trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Con sẵn sàng nhìn nhận là con có khả năng đó, con sẵn sàng với lên một ý tưởng cách mạng nào đó, hay ngay cả chỉ là một ý tưởng cao hơn mức tâm thức hiện thời của con một bực, hay cao hơn tâm thức những người chung quanh con một bực.

Con phải lấy quyết định này để mở tâm con ra. Sau đó, một khi con đã thông sạch tâm trí cùng bốn thể phàm hầu tạo khoảng trống cho ý tưởng thâm nhập vào, một khi con đã lấy quyết định ý thức là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, thì khi đó Thánh linh sẽ chảy xuyên qua con. “Thánh linh thổi đâu thì thôi” có nghĩa là bất cứ khi nào có một khe mở, Thánh linh sẽ chảy qua đó vì các thày có quá nhiều điều muốn biểu đạt từ cõi tâm linh đến độ các thày không thể khó tính kén chọn: “À, người này không xứng đáng làm cánh cửa mở.” Ngay khi có một cánh cửa mở ra, các thày sẽ lập tức biểu đạt qua người đó một điều gì thích hợp với hoàn cảnh, thích hợp với mức tâm thức của người đó, vân vân.

Con thấy đó, con yêu dấu, trái với một ý tưởng đôi khi được truyền tụng trong giới học trò của chân sư thăng thiên, không cứ là có một số người sẽ xứng đáng làm công cụ cho Thánh linh và một số người khác thì không. Một số có thể không cởi mở, một số có thể không sẵn lòng một cách ý thức, nhưng tất cả mọi người đều xứng đáng một khi họ nỗ lực chuyên tâm. Đây không phải là một câu lạc bộ chỉ dành riêng cho hội viên.

11.3. Khai ngộ trong Thời đại Song ngư

Thường có một tâm thức rất lâu đời ngay cả trong giới đệ tử tâm linh, trở ngược lại từ thử thách của Thời đại Song ngư, là những gì con thấy đã xảy ra cho Giê-su. Thày Giê-su đã đến đây để nêu gương là mọi người đều có khả năng khoác vào tâm thức Ki-tô. Thế rồi sa nhân đã thành lập Giáo hội Công giáo, tạo ra hình ảnh Giê-su là hiện thân độc nhất của Ki-tô, ngụ ý rằng không ai khác có thể làm được vậy. Làm sao người ta tin được chuyện này? Tại sao biết bao người đã ở lại trong Giáo hội Công giáo, nhiều khi còn tái đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác trong Giáo hội Công giáo? Tại sao biết bao người Công giáo vẫn tin vào chuyện đó?

Tất nhiên đó là vì họ đã không hội đủ điều kiện và đã không vượt qua được khai ngộ của Thời đại Song ngư, là khắc phục sự sùng bái thần tượng do sa nhân tạo ra khi bảo rằng chỉ có một số người mới xứng đáng. Con cần dần dần nhìn ra quyền tự quyết là quyền tự quyết, và tự nhận biết là tự nhận biết. Mọi sinh thể tự nhận biết – tức là tất cả mọi người đầu thai trên địa cầu – đều có một đốm sáng của tâm thức Đấng Sáng tạo. Không có một đốm sáng nào của tâm thức Đấng Sáng tạo có thể xứng đáng hơn một đốm khác. Tất cả các con tự thân đều xứng đáng bởi con có tự nhận biết. Câu hỏi có thể đặt ra là: “Con đã chứng đạt đến đâu, con đến từ đâu, bốn thể phàm của con cởi mở và được chữa lành đến đâu?” Đây không phải là vấn đề xứng đáng, mà là vấn đề rộng mở để đón nhận Tánh linh.

Trong Thời đại Song ngư có thử thách phải khắc phục hình ảnh giả trá do sa nhân tạo ra là có sự phân chia giữa người có và người không có, giữa người xứng đáng và người bất xứng, giữa giai cấp quý tộc và giai cấp dân giã cùng tất cả mọi người dân khác – quá nhiều những phân chia như vậy. Hiển nhiên con cũng thấy sự thể này trong các phong trào tâm linh, thường hay sùng bái vị đạo sư của mình, cho rằng đạo sư là một người thật đặc biệt với một cái gì không ai khác có được – vì nếu không thì làm sao họ thành đạo sư hay sứ giả chứ? Họ là đạo sư hay sứ giả – một đạo sư hay một sứ giả chân chính – là vì chính họ đã bước trên đường đạo và đã chữa lành bốn thể phàm đến mức họ có thể nhận được một cái gì từ trên, nhưng điều này vẫn không biến họ thành một người xứng đáng hơn mà chỉ có nghĩa là họ đã tiến xa hơn trên đường tu. Tất cả các con đều xứng đáng như nhau, tất cả đều có một tiềm năng đồng đều để nâng cao tâm thức, chữa lành bốn thể phàm của mình và trở thành cánh cửa mở.

11.4. Tôn trọng quyền tự quyết của chính mình

Khi con làm vậy, con sẽ cảm thấy Tánh linh tuôn chảy xuyên qua con, như quả thật nhiều người trong các con đã cảm nhận được ở một mức độ nào đó. Điểm thày muốn nhấn mạnh ở giai đoạn này là con phải lấy một quyết định, đúng hơn nhiều quyết định, nhưng con phải lấy quyết định là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, con sẵn lòng nhận được một điều gì và sẵn lòng biểu đạt điều đó – bất kể phản ứng của người khác là gì. Thày hiểu rất rõ, các thày đều hiểu rất rõ, là trước khi con đến được điểm có thể nói: “Tôi sẽ biểu đạt điều này cho dù chuyện gì xảy ra,” thì con cần chữa lành tâm lý con phần nào. Chắc chắn con cần xem xét và tách ra khỏi ngã gốc, là ngã được tạo ra khi con bị sa nhân trấn áp tàn bạo trong kiếp đầu thai đầu tiên và quyết định là mình sẽ không bao giờ nhận chịu rủi ro này nữa. Có thể sẽ có một giai đoạn khi con phải khắc phục nỗi sợ hãi này để con sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

Con yêu dấu, khi con bắt đầu nhìn vào ngã gốc và tách mình ra khỏi nó, con sẽ cảm nhận là lòng sợ hãi hậu quả, ý niệm rủi ro, tan biến mất. Con có thể đạt tới điểm nhận ra là mình không còn cơ chế đền bù, không còn mong muốn trừng phạt sa nhân. Con cũng không có mong muốn được người khác chấp nhận hay công nhận, vì con không còn sự bất an trong bản thân khiến con muốn được người khác chấp nhận. Con có thể đạt tới điểm con nhìn nhận là mình hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết. Khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, điều này có nghĩa là lúc con phát biểu để thể hiện một ý tưởng cao hơn, thì con cũng để cho mọi người tự do phản hồi hay không phản hồi theo bất cứ cách nào họ muốn.

Con cũng có thể nhận ra là trong khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác (và hầu hết các con đều tôn trọng) thì con cũng cần có một sự tôn trọng bình đẳng đối với quyền tự quyết của chính con, và điều này có nghĩa là con phải quyết định là các chọn lựa của con sẽ độc lập với chọn lựa của người khác. Con sẽ không rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với hành động của mình chỉ vì có ai đó không chấp nhận hay bác bỏ con. Con sẽ không bảo: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ nói lên gì nữa.” Con không phải có phản ứng tiêu cực nào hết, và con không cần cảm thấy bị người khác chối bỏ nếu họ không chấp nhận những gì con nói.

Con có thể đạt tới điểm, con yêu dấu, khi vấn đề không còn đặt ra là con có ở trong tâm thái nhị nguyên nghĩ rằng mỗi khi con phát biểu thì người khác phải có phản ứng, và phản ứng này sẽ tích cực hay tiêu cực. Con có thể đạt tới điểm thậm chí con không nghĩ cả tới phản ứng có thể như thế nào. Ngay từ đầu, con đã để cho người khác tự do muốn phản ứng thế nào cũng được vì con biết chính con đã tự do không phản ứng tiêu cực lại phản ứng của họ.

Con có thể đạt tới điểm con không tự biểu đạt vì con muốn cứu nguy thế giới, thay đổi người khác hay được người khác chứng thực. Con chỉ tự biểu đạt vì đây là sự biểu đạt con người mà con là, Bản thể cao hơn của con, và đó chính là điều đem lại cho con niềm vui tột bực trên trái đất.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là khi con đến được điểm này, khi con nhận biết một cách ý thức là con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, sẽ có một dòng chảy từ Hiện diện TA LÀ và những gì chảy xuyên qua con là một biểu hiện của cá thể tâm linh của con. Tuy nó được lọc qua cá thể mà con mang ở dưới này, nhưng nó vẫn giữ được một yếu tố tinh khiết nào đó biểu hiện cá tính đích thực của con. Rồi thì con sẽ trải nghiệm một niềm vui lớn hơn mọi niềm vui con đã từng trải nghiệm khi con chỉ hành động qua ngã phàm phu. Thật sự không có hoạt động nào con làm dựa trên ngã phàm phu có thể đem lại cho con một niềm vui như thế, cũng như cảm nhận tràn đầy mà con có khi con cảm được dòng chảy của Tánh linh và biết rằng con đang đồng sáng tạo.

11.5. Tự thân đó đã là phần thưởng

Đó là tại sao khi con đến được điểm này, việc biểu đạt Bản thể cao hơn của con tự thân nó đã là một phần thưởng. Cho nên Giê-su mới nói: “Con có muốn phần thưởng trên thiên đàng hay phần thưởng dưới trái đất?” Con nhận ra đây là phần thưởng trên thiên đàng và nó cao hơn tất cả mọi phần thưởng con có thể nhận được trên trái đất. Do đó con có khả năng giải thoát người khác. Con có khả năng giải thoát chính mình, và cuối cùng con có thể trụ trong trạng thái liên tục mở rộng với Tánh linh. Con không đang phán xét, đánh giá hay phân tích, mà con chỉ đang biểu đạt bất cứ gì đến với con.  

Thày vẫn biết một số người sẽ nói ngay lập tức: “Ủa, có nghĩa chăng là những người như vậy sẽ làm bất cứ gì họ muốn?” Đúng vậy, có nghĩa là họ sẽ làm bất cứ gì “họ” muốn, nhưng không phải bất cứ gì mà tự ngã của họ muốn. Khi người ta bảo: “Ồ, anh kia có thể làm bất cứ gì anh ấy muốn,” người ta thường ngụ ý anh đó là một người tuân theo tự ngã, anh có thể làm bất cứ gì mà tự ngã muốn cho dù hậu quả có là gì đối với người khác. Lẽ tự nhiên khi con hành xử từ cái ta cao hơn của con và cái ta cao đó trụ trong sự hợp nhất, nó sẽ không làm gì gây tổn thương cho người khác. Nó sẽ làm điều gì khiến cho người khác bị xốn xang hay khích động, bởi vì đó có thể là cách duy nhất có hy vọng đánh thức được họ.

Tất nhiên, một lần nữa con có thể nói, liệu Hiện diện TA LÀ của con sẽ ngồi dậy và bảo: “À há, tôi biết chính xác cách nào tôi có thể bấm trúng cái nút mà người đó nhạy cảm.” Không, Hiện diện TA LÀ của con không làm vậy. Nó chỉ tự biểu đạt chính nó, và sự biểu đạt này khác xa mức tâm thức của người kia đến độ người kia trải nghiệm như một sự khích động. Hiện diện TA LÀ không tìm cách cố tình khích động, mà nó chỉ tự biểu lộ như nó là. Đó là vì sao con có thể đạt tới điểm, ngay cả khi người kia bị khiêu khích và nổi giận hay chối bỏ con, thì con vẫn không bị dao động. Con cho phép họ có phản ứng mà họ đang có, nhưng con không cho phép phản ứng này khiến lần sau con không muốn làm cánh cửa mở nữa.

Vậy thì con cần những gì để đạt tới điểm làm cánh cửa mở và biểu hiện một yếu tố của bản thể cao hơn của con, do đó cũng biểu lộ những khía cạnh sáng tạo hơn, tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con? Một lần nữa, đây là vấn đề chọn lựa và ngày càng làm thêm nhiều chọn lựa có ý thức. Điều thày muốn trình bày với con là con đạt tới điểm con cần kinh qua một giai đoạn ngày càng ý thức hơn về sự kiện con đang lựa bỏ, con đang chọn ra những gì mình không cần nữa.

11.6. Lựa bỏ khỏi đời mình

Nhiều người trong các con đã làm việc đó để bước chân trên đường tu nhưng con có thể ý thức hơn về tiến trình này. Con cảm nhận là một hoạt động mình đã từng tham gia hay một số người mình đã từng dành thời gian với họ, quả thật khiến con bị xao lãng. Thày cũng biết là con có thể đáp lại với tâm vỏ ngoài: “Nhưng chẳng phải Giê-su đã dạy là chúng con cần đạt tới điểm mình nhìn lại đời mình mà không có tiếc nuối nào hay sao? Bởi vì bất cứ gì chúng con sống qua đều là trải nghiệm chúng con cần có.” Phải, con yêu dấu, điều đó đúng – khi con nhìn lại quá khứ. Nhưng con yêu dấu, điều đó không có nghĩa là bởi vì con không cần nuối tiếc những việc mình đã làm trước đây thì con cũng cần tiếp tục làm cùng những việc đó cho tới mãn kiếp này.

Điều thày muốn nói là khi con bước vào giai đoạn ý thức hơn này, con cần nhận thức hành tinh này là một hành tinh rất đa dạng. Trên hành tinh có rất, rất nhiều sinh hoạt khác nhau. Một số sinh hoạt có thể rất hào hứng, nhưng một số khác là do sa nhân cố tình lập ra trong mục đích duy nhất là đánh lạc hướng mọi người khỏi con đường tăng triển tâm linh hay Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Có rất, rất nhiều sinh hoạt trên địa cầu mà hầu hết mọi người đều xem là những trải nghiệm hay hoạt động bình thường, chính đáng, thậm chí còn là sáng tạo, nhưng mục đích duy nhất của chúng, thực sự, là khiến con bị phân tâm, xao lãng – chúng hút năng lượng cùng sự chú ý của con vào những chuyện có thể vui nhộn, có thể bổ ích hay ngay cả có vẻ lợi lạc và vị tha. Nhưng đối với con, đó là một sự phân tâm lôi kéo sự tập trung của con ra khỏi Sứ vụ Thiêng liêng cùng các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Lẽ tự nhiên, tất cả các con đều đã lựa bỏ nhiều thứ ra khỏi đời mình vì con cảm thấy chúng không giúp ích gì cho sự tăng triển tâm linh. Còn có nhiều hoạt động và nhiều thái độ hơn nữa mà con có thể lựa bỏ khi con trở nên ngày càng ý thức và càng làm thêm nhiều chọn lựa ý thức. Các thày có nói là con sẽ không bao giờ nhìn thấy toàn bộ Sứ vụ Thiêng liêng của con vì thật ra nó được định đoạt mỗi khi con có chọn lựa. Dù sao thì khi con mở tâm ra tiến trình này – ngay cả khi con chỉ đào sâu cái gì làm cho mình xao lãng, cái gì không – thì con sẽ bắt đầu đạt được một tư thế tập trung hơn.

Lần hồi con sẽ càng chú tâm và nhìn thấy rõ hơn vai trò đặc trưng mà con muốn cống hiến trong kiếp này là gì. Xong con sẽ cảm nhận rõ hơn: “Ồ, hoạt động này thật ra không hỗ trợ việc làm mà tôi đến đây để làm. Kỳ thực nó đang tước mất sự tỉnh thức cùng năng lượng của tôi ra khỏi việc làm.” Bỗng nhiên tự dưng con nhận ra: “Bây giờ là lúc tôi cần lựa bỏ cái này đi.” Nhận thức tự phát này sẽ không đến với con cho tới khi con quyết định một cách ý thức là con sẵn lòng xét xem hoạt động nào chỉ là một xao lãng và hoạt động nào thật sự nằm trong Sứ vụ của con.

Điều này mang nhiều hệ quả, và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là cho hết phần còn lại của đời con và cho tới khi con thăng thiên, con sẽ lựa bỏ đi một số thứ không còn phù hợp với mức tâm thức con đã vươn tới. Thày chỉ đơn giản muốn con nhận biết nhu cầu mở tâm ra để thỉnh thoảng con lui lại một bước, nhìn cuộc đời và tự hỏi: “Tôi thực sự đang ở đây để làm gì?”

11.7. Lựa bỏ những sinh hoạt tâm linh

Đối với nhiều người trong các con, một phần của đường tu tâm linh là tham gia vào một số hoạt động mà con có thể xem là tâm linh, bổ ích, vân vân. Thày không hề trách cứ con đã tham gia, nhưng nhiều các con sẽ thấy là tới một điểm con sẽ nhận ra là con không cần đến chúng nữa. Chúng không thực sự là lý do tại sao con có mặt ở đây, không phải là những gì con tới đây để đem lại.

Con thấy đó, khi con nhìn vào lãnh vực tâm linh hay phong trào Thời Mới, nhiều người chỉ ham tò mò. Như các chân sư khác có đề cập, họ nhảy vào đủ loại sinh hoạt từ việc đọc hào quang, bói toán, chiêm tinh học, bói bài tarot, cái này cái nọ cho tới việc đọc tiền kiếp, thần thông, bất kỳ… Có hẳn một hiện tượng gồm những sinh hoạt được người ta trình bày là tâm linh nhưng mục đích chủ yếu của hầu hết đơn giản chỉ là khiến cho người tâm linh bị lạc đường khỏi mục tiêu tâm linh và Sứ vụ của mình. Một lần nữa, có thể là một số các con đã có nhận thức về một số tiền kiếp hay con tò mò muốn biết tiền kiếp của mình là gì, nhưng liệu điều này – việc bỏ thời gian và năng lượng để cố tìm hiểu mình là ai trong một kiếp trước – có thật thiết yếu cho Sứ vụ Thiêng liêng của con hay không?

Câu hỏi này cũng có thể đặt ra cho nhiều sinh hoạt khác. Nhiều người tâm linh đã trải qua một thời kỳ đeo đuổi những thứ như chiêm tinh học, số học, hay bất kể chuyện gì khác, nhưng cuối cùng thì con có thể đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không cần cái này nữa, tôi không cần nó nữa ở mức tâm thức hiện thời của tôi.” Và khi đó, con có thể chú tâm ngày càng nhiều hơn vào những chuyện thiết yếu.

11.8. Ý định thay đổi người khác

Thế rồi tất nhiên, còn có một cám dỗ khác cũng phổ biến, vì nếu con đã đến đây như một avatar, con cũng đến với một mong muốn cải thiện địa cầu. Như sứ giả này đã ngộ ra sau khi ông nhận được các lời dạy mới nhất về ngã gốc, chính mong muốn cải thiện địa cầu này kỳ thực đã là điều ông cần khắc phục bằng cách đến địa cầu. Ông đã không khắc phục được nó trên một hành tinh tự nhiên cho nên ông đã chọn xuống trái đất, một hành tinh khó thay đổi quá đỗi, hầu tạo cho mình một cơ hội cùng cực để vượt qua mong muốn thay đổi người khác – và nói cho cùng, để thay đổi bất cứ gì.  

Con yêu dấu, con nhận thấy đó, có một sự khác biệt cơ bản giữa ý định thay đổi người khác và việc làm cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ tự biểu đạt xuyên qua con. Phải thật tinh tế thì mới hiểu được điều này, vì lẽ tự nhiên, các chân sư thăng thiên mong muốn nhìn thấy thay đổi trên địa cầu, nhìn thấy hành tinh này vươn lên tới mức con người không còn khổ đau mà lại tăng triển tâm linh một cách ý thức. Các thày đã vượt quá mức tâm thức nhị nguyên cho nên không còn ý định nhị nguyên dựa trên tư duy cuồng đại muốn đem lại một thay đổi lớn lao nào đó. Sự khác biệt ở chỗ là các thày hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết.

Nếu con đã đến địa cầu với ý định thấp hơn kia, con có thể bảo đó là một ý định nhân từ và thày sẽ không bác bỏ điều này. Đúng là một ý định nhân từ, nhưng không theo nghĩa tối hậu vì con vẫn dính mắc. Con đến đây với ý định đó, và một cách vi tế, nó vẫn nằm trong tư duy cuồng đại. Nó không cuồng đại theo cách cực đoan mà con thấy nơi sa nhân khi chúng sẵn sàng giết hại người khác để đeo đuổi đại nghĩa tối hậu của chúng. Không như sa nhân, con không tin rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng dầu sao thì con vẫn cho rằng việc nhẹ nhàng thúc ép người khác để khiến họ khắc phục khổ đau của họ là một việc tốt. Đây chính là điều con cần vượt qua ở đây trên trái đất.

Con thấy đó, có rất, rất nhiều đại nghĩa khắp thế giới được miêu tả theo một cách để thu hút chú ý của người tâm linh. Khi con nhận biết là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, có một con đường tâm linh và có tiềm năng thị hiện một thời đại hoàng kim thì, một lần nữa, con đã buộc cái đó vào ý muốn đã đưa con xuống hành tinh này. Cho nên con lý luận với tâm vỏ ngoài: “Chắc chắn tôi ở đây để thay đổi địa cầu. Tôi ở đây để đem lại một thay đổi tích cực. Tôi có thể làm gì đây? À, có đại nghĩa này, có đại nghĩa kia, và có thêm đại nghĩa kế tiếp nữa kìa.”

Nhiều người trong các con đã kinh qua một giai đoạn với quá nhiều thứ mình muốn làm để cải thiện tình trạng trái đất đến độ con bị kiệt sức. Chú ý của con bị phân tán mỏng vì có quá nhiều đại nghĩa con muốn giúp quảng bá. Con yêu dấu, con có nhận ra đây không phải là điều sẽ có thể đưa con lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng hay không, bởi vì không một người nào trong các con đang ở đây để giải quyết tất cả mọi vấn đề trên trái đất? Không một người nào trong các con có thể làm được chuyện này! Khi con hiện thân trong cõi vật lý, con bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 tiếng đồng hồ, và con cần ngủ một số giờ trong số đó. Con chỉ có một số giờ nhất định để thức, một lượng chú ý nhất định, một lượng năng lượng nhất định để bỏ vào một công việc nào đó.

Điều thày muốn nói là ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu, điều này hoàn toàn tốt thôi – con vô cùng nhiệt tình, con muốn giúp chuyện này chuyện nọ rồi chuyện kia nữa, rồi cứ thế con ôm quá tải. Một khi con bắt đầu chuyển sang giai đoạn ý thức hơn của Sứ vụ, giai đoạn sáng tạo hơn, con cần xem xét ngay cả những đại nghĩa đang thịnh hành ở ngoài kia. Con có thể phản bác: “Đó không phải là những trò giải trí do sa nhân dựng lên mà là những công cuộc đáng làm.” Có lẽ có người đã ghi vào Sứ vụ của họ ý định đeo đuổi những công cuộc như vậy, nhưng con cần cân nhắc: “Liệu những tầng cao của Sứ vụ đang bảo tôi cống hiến năng lượng của mình cho những công cuộc này chăng?” Một khi con bắt đầu thành thật xem xét và sẵn sàng lựa bỏ những việc nào không thuộc vào Sứ vụ cao hơn của con, thì con sẽ bắt đầu có một viễn quan minh mẫn hơn về trọng tâm của mình, về chuyên môn của mình, về lãnh vực nơi con có khả năng tạo được thay đổi.

Thế rồi con có thể lần hồi lựa bỏ tất cả những hoạt động không còn góp phần vào đó. Và con sẽ thấy là tâm con sẽ ngày càng hòa điệu, càng tập trung, càng đứng thẳng hàng, càng hài hòa với Hiện diện TA LÀ của con. Và do đó con sẽ cảm thấy một niềm vui và một quyết tâm ngày càng lớn hơn. Đây không thực sự là một ý chí vỏ ngoài mà đơn giản là một mong muốn tự phát để tập trung vào lãnh vực đó hầu đem nó vào hiện thực.

11.9. Tập trung nhưng không mất quân bình

Điều vừa rồi, con yêu dấu, không nên được diễn giải là con trở thành loại người giống như hình ảnh nhà bác học ngông cuồng, một người không bao giờ rời phòng thí nghiệm, mê mải viết công thức trên bảng đen để giải phương trình, quên hết mọi sự và không biết làm công việc gì khác. Như các thày đã nói, con vẫn có thể sống một cuộc đời tương đối bình thường, năng động trong xã hội. Con vẫn làm những gì con cần làm, có lẽ kiếm sống, nuôi con, bất kỳ công việc gì khác.

Chỉ có điều là trong tâm con, con biết có một hoạt động là trọng điểm chính yếu. Cũng có thể con biết là việc nuôi dạy con cái là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cũng có thể có một lãnh vực mà con cần học hỏi nghiên cứu vì con có tiềm năng đưa ra một số ý tưởng mới. Những thứ đó không xung khắc với nhau. Con chỉ nhận ra đó là một phần của Sứ vụ, có thể việc làm và sự nghiệp của con cũng nằm trong Sứ vụ. Gia đình, con cái của con là một phần của Sứ vụ và cả lãnh vực học hỏi nữa. Con yêu dấu, tham dự khóa học này hay tham dự khóa học kia, hay chạy đôn chạy đáo có thể không nằm trong Sứ vụ của con, cho nên con có thể lựa bỏ những thứ này đi.

Một lần nữa, một sự cân bằng cần được tìm thấy. Con không thể cứ tập trung hoài hoài vào một thứ thôi. Khi con tăng triển tâm thức ngày càng cao hơn, con có thể trở nên ngày càng tập trung hơn, nhưng con vẫn cần chút thời gian để thư giãn, để làm gì khác hơn.

Như sứ giả này được nhắc nhở sáng nay, sau khi đức Phật đạt đến giai đoạn giác ngộ và nhập niết bàn, thày đã bước trở ra khỏi niết bàn, đi vào xã hội và thiết lập một đạo tràng nơi thày khởi sự giảng dạy. Có nhiều đệ tử gia nhập và thày đã giảng dạy. Đây là vị Phật đã chứng quả giác ngộ nhưng dẫu vậy, mỗi năm thày chỉ dạy chín tháng mà thôi, còn ba tháng kia thày sống ẩn dật và thiền định. Nói cách khác, thày làm một việc gì khác hơn, thày nghỉ ngơi và thư giãn khỏi việc giảng dạy. Một lần nữa, con cần thực tế và nhìn nhận là cho dù con có chú tâm đến đâu thì để có được một cuộc sống tương đối năng động, bình thường, con cũng cần dành ra thời gian để làm gì đó chỉ giản dị là thư giãn. Con đưa tâm mình ra khỏi các hoạt động kia của cuộc sống bởi vì, ít ra cho tới khi con đạt đến những tầng nhận biết cao nhất, tâm con cần được xả hơi.

Thật ra thày có thể nói là ngay cả ở tầng tâm thức thứ 144, tâm con không thể cứ chú tâm vào cùng một chuyện hoài hoài. Con cần bước ra ngoài, con cần xả hơi. Một ví dụ là các nhà khoa học, suốt nhiều tuần lễ họ có thể tập trung vào một vấn đề nhất định để cố giải một bài toán vật lý, họ không ngừng viết công thức và này kia nọ. Thế rồi tâm họ mệt mỏi đến độ họ chịu thua, họ đi câu cá, và trong khi họ đứng đó với cần câu trong tay thì đùng một cái, lời giải đến với họ trong một tia chớp trực giác.

Con cần cả alpha lẫn omega, qua đó con chú tâm trong một thời gian, rồi con cần bước vào omega là khi con thư giãn và làm việc gì khác. Một số các con có thể tìm được thế quân bình này khi có lúc con sẽ tập trung vào công việc của mình, và có lúc khác con sẽ thư giãn với gia đình để nó trở thành một phần trong việc nuôi dạy con cái. Một số người khác có thể cần những loại sinh hoạt khác hơn, như đi vào thiên nhiên, làm gì đó khác lạ sẽ đơn giản kéo tâm họ ra khỏi tập trung. Con hãy lựa bỏ những hoạt động nào không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng con đừng trở nên cứng nhắc hay cuồng tín đến độ bỗng nhiên, như một số học trò của chân sư thăng thiên đã làm, con cho rằng bất cứ lúc nào trong ngày con cũng phải đang học tập giáo lý, hoặc nếu không thì con phải đang đọc chú đọc thỉnh.

11.10. Sống năng động trong xã hội

Con thấy đó, nhiều người tìm thấy đường tu tâm linh và bỗng nhiên họ quyết định tham gia một khóa nhập thất và họ sẽ khoanh chân thiền định càng nhiều giờ càng tốt. Một số người tại Ấn Độ cũng có khái niệm đi lên hang đá trên núi Himalaya để ngồi đó một mình trong một thời gian rất dài. Đối với một số người, đây có thể là một việc chính đáng, nhưng con đừng dùng ví dụ này để diễn giải là nó cũng chính đáng cho mọi người.

Như các thày có nói, nhiều người trong số các con trong kiếp đầu thai này đã tình nguyện, và đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình, là con sẽ chứng tỏ cách làm thế nào người ta có thể bước chân trên đường tu tâm linh mà vẫn sống một cuộc đời năng động trong xã hội. Ở đây các thày không bàn đến chuyện con rút lui khỏi xã hội, rút lui khỏi gia đình hay rút lui khỏi các sinh hoạt khác, mà các thày chỉ muốn nói là trong thế giới cũng như trong đời con, có nhiều hoạt động trên cơ bản là chuyện xao lãng, phân tâm. Chúng có thể là những công cuộc đáng thực hiện nhưng con không ở đây để đặt trọng tâm vào đó.  

Khi con bước lên cao hơn, con cần ghi nhớ trong tâm là càng ngày con sẽ càng bắt đầu thu hoạch một viễn quan chọn lọc hơn về những gì con cần tập trung trong kiếp này, những gì mà chính con đã chọn chú tâm vào. Xong con chỉ lựa bỏ đi những hoạt động nào không phù hợp với viễn quan đó, nhưng con vẫn duy trì một cách sống bình thường như con vẫn sống, hoặc có lẽ con sẽ thay đổi cách sống đôi chút để nhổ đi những loại sinh hoạt đang làm tiêu hao năng lượng cùng sự chú ý của con.

Con yêu dấu, con nhìn vào thế giới và thấy có rất nhiều cách để đo đạc sở hữu của con người. Chẳng hạn: “Thế nào là một người giàu có? Có phải là một người có rất nhiều tiền, rất nhiều tài sản vật lý? Có phải là một người có nhiều tài năng? Có phải là một người có nhiều thì giờ?” Ấy, thày sẽ nói đó là một người có sự chú ý, sự chú ý còn sót lại để tập trung vào những điều quan trọng mà người đó muốn cống hiến. Con cần lưu ý đến sự kiện là trong thế gian có rất nhiều hoạt động đang lôi kéo sự chú ý của con, nhưng con hãy giữ cho sự chú ý của mình được tập trung vào điểm trọng tâm của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. 

Và như vậy, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong bài giảng này, và thày cảm ơn con đã trao sự chú ý của con cho thày.

13 | Phần thưởng cho phụng sự là tự do

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Sáng nay các con vừa lắng nghe một bài giảng tuyệt vời của thày Giê-su khi thày nói là con cần có khả năng nhìn lại đời mình mà không tiếc nuối, và con lý giải tất cả những gì mình đã sống qua đều là những trải nghiệm mà mình cần có. Này con yêu dấu, như con đã bắt đầu nhận ra, thỉnh thoảng các thày ưa đưa cho con một số điều có vẻ mâu thuẫn, bí ẩn. Vậy thày sẽ đưa cho con thêm một điều nữa đây.

13.1. Khả năng nhìn nhận mình đã sai lầm

Con vừa nghe Giê-su nói rằng con cần có khả năng nhìn lại đời mình mà không hối tiếc. Thế thì thày sẽ đề nghị con suy ngẫm điều này: Đâu là đặc tính hay khả năng quan trọng nhất của một đệ tử ở các tầng cao của đường tu tâm linh khi người đó bắt đầu nhìn thấy, hay sẵn lòng nhìn thấy, những khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Con yêu dấu, đó chính là khả năng nhìn nhận mình đã sai lầm.

Làm thế nào con có thể dung hòa hai chuyện đó được đây, khả năng nhìn lại đời mình không hối tiếc và nhìn nhận là mình đã sai lầm? À, tự ngã sẽ chụp lấy lời dạy của Giê-su và bảo: “Có nghĩa là tôi phải nhìn lại đời mình và không bao giờ được thấy mình đã sai lầm. Tôi chưa từng sai lầm bao giờ. Tôi chưa từng làm gì sai trái bao giờ. Tôi đã cần trải nghiệm đó, và vì vậy không bao giờ tôi cần cảm thấy mình sai lầm, thế mà giờ đây Saint Germain lại bảo tôi phải có khả năng nhìn nhận mình sai lầm.”

Con hãy để thày cho con thêm một chút lời giảng, một nhãn quan hơi khác về điểm này. Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả vấn đề ở đây là những gì con bỏ vào chữ “tôi”. “Tôi” phải có khả năng nhìn nhận là “tôi” đã sai lầm. Có phải cùng cái tôi mà thày đang nói tới? Đâu là cái tôi có thể sai lầm? Là ngã tách biệt. Liệu ngã tách biệt có bao giờ nhìn nhận nó sai lầm hay chăng? Không – nó không có khả năng đó. Vậy cái gì có thể nhìn nhận mình sai lầm? Cái Ta Biết – khi nào nó ý thức. Cái Ta Biết, cùng khi nó nhìn nhận nó đã sai lầm, cũng có khả năng thấy được cái đã sai lầm là ngã vỏ ngoài, là ngã tách biệt. Khi nó nhìn ra điều này, nó có thể tách mình ra khỏi ngã đó. Và do đó con nhận ra là trong khi con nhìn nhận không phải mọi chuyện mình từng làm trong đời đều hoàn hảo, thì đồng thời con cũng tách mình ra khỏi cái ngã đã khiến con hành xử như vậy.

Đây là tại sao con có thể nhìn lại đời mình mà không hối tiếc. Con thật sự có khả năng nhìn thấy một số chuyện mình từng làm là sai lầm. Giê-su hoàn toàn không hàm ý rằng mọi chuyện con từng làm đều tốt, đều đúng hay có thể chấp nhận được theo bất kỳ chuẩn mực nào của lẽ thường tình. Thày không ngụ ý là con phải nhìn lại đời mình và nói: “Ồ, tôi chỉ làm chuyện đó vì tôi cần trải nghiệm đó, cho nên tôi không cần học hỏi gì từ đó.” Hiển nhiên là con cần học hỏi từ đó, con cần xem xét tâm lý của ngã tách biệt đã khiến con làm điều đó là gì. Cho nên khi con phát hiện ra tâm lý đó, con có thể nhìn thấy cái quyết định nằm ẩn đằng sau, con có thể thay đổi quyết định đó một cách ý thức, và đó là khi con có thể để cho ngã tách biệt chết đi. Tất nhiên ở điểm này, con không phải hối tiếc gì hết vì con đã bước lên cao hơn, và đây chính là mục đích của cuộc sống.

13.2. Sử dụng và lạm dụng ngọn lửa tím

Rất nhiều năm trước đây trong một đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, thày đã công khai hóa và ban truyền những dụng cụ để thỉnh cầu năng lượng của lửa tím – là cái tên mà thày đã chọn. Trong đợt truyền pháp này, các thày đã không nhất nhiết nhấn mạnh điều này, một phần vì rất nhiều lời dạy đã được ban ra trước đây rồi, nhưng tất nhiên các thày cũng đã giải thích ngọn lửa tím là gì. Theo một cách nào đó, lửa tím là dụng cụ tẩy xóa của hoàn vũ. Đó là một năng lượng ở một độ rung động có thể được dùng để tẩy xóa mọi năng lượng thấp kém, mọi năng lượng dựa trên sợ hãi trong bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Khi con làm một việc gì thì việc đó sản xuất ra một khối năng lượng, có khi được gọi là “nghiệp”, và trước khi con được giải thoát hoàn toàn khỏi nó thì con cần tiêu hủy nghiệp này đi. Một phương thức rất hiệu quả để làm điều này là thỉnh cầu ngọn lửa tím và sử dụng để tiêu hủy năng lượng đó. Vấn đề là như thày có nói, một số đệ tử trong các đợt truyền pháp trước đã lạm dụng sự ban phát lửa tím. Bất cứ khi nào họ làm điều gì tạo năng lượng tha hóa thì họ lại dùng lửa tím để tiêu hủy, nhưng họ không sẵn lòng xem xét cái tâm lý đằng sau việc làm của họ. Và một tuần sau họ lại lặp lại cùng cách hành xử đó rồi lại dùng lửa tím để tẩy xóa, nhưng làm vậy không thực sự giúp họ tăng triển tâm linh. Cũng giống như một số tín hữu đạo Cơ đốc, họ có thể phạm tội xong họ đi xưng tội, thế là họ cảm thấy mình đã được tha tội, và họ lại thoải mái phạm tội một lần nữa và thêm một lần nữa. Họ biết là họ luôn luôn có thể trở về xưng tội và các linh mục sẽ chỉ cần tha mọi tội cho họ.

Hiển nhiên, đó không phải là điều các thày muốn chứng kiến vì nó sẽ buộc chặt con vào một cái máy chạy bộ là khuôn nếp tâm lý mà con chưa giải quyết và không thể nào thoát ra. Kỳ thực trong trường hợp đó, ngọn lửa tím sẽ không giúp cho con thoát ra, vì thay vì bị năng lượng ngày càng đè nặng nhiều hơn thì con lại có thể tránh né không cảm thấy gánh nặng và cứ tiếp tục y như con đang làm. Điều này, hiển nhiên, không phải là điều các thày muốn thấy. Đó là tại sao trong đợt truyền pháp này, các thày đã trao cho con rất nhiều dụng cụ về tâm lý, về cách giải quyết các vấn đề đó hầu con có thể thoát ra khỏi.

13.3. Tầm quan trọng của việc sai lầm

Dẫu sao thì điều thày muốn trao cho con ở đây là mặc dù sẽ tới điểm con bắt đầu đạt được sự minh mẫn ngày càng lớn hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng vẫn có thể có một điều gì đó đang cầm chân con lại khiến con không thấy được mức kế tiếp. Cái cầm chân con lại chính là sự kiện con không thể hay không muốn nói: “Việc đó là sai.”

Hiển nhiên các thày đã trao cho con nhiều lời dạy về nhị nguyên. Khi thày bảo là con phải sẵn lòng nhìn nhận mình “sai lầm”, thày chỉ đang dùng khái niệm cùng ngôn ngữ thường được con người thời nay sử dụng. Thày có thể nói chính xác hơn rằng điều con cần sẵn lòng nhìn thấy và công nhận là con đã có một cái nhìn về cuộc sống, một cái nhìn về bản thân, một cái nhìn và một cách hiểu về giáo lý tâm linh không là cao nhất.

Con có hiểu chăng, con yêu dấu, là con có thể nhìn vào rất nhiều lãnh vực trên thế giới, chẳng hạn chúng ta có thể dùng lãnh vực tôn giáo – một người đã lớn lên trong đức tin Cơ đốc, trong giáo hội Công giáo ví dụ. Người đó đã được dạy dỗ rằng giáo hội Công giáo là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi, là giáo hội chân chính duy nhất. Y đã chấp nhận niềm tin đó và đặt tin tưởng vào đó. Rồi đến một thời điểm trong đời, y bắt đầu nhìn ra học thuyết Công giáo có một số nghịch lý, một số điều không thể được giải thích, một số điều vô lý, một số sự kiện trong lịch sử giáo hội không thể nào đồng thuận với Ki-tô – nhưng y cưỡng lại, không chịu nhìn nhận ở mức ý thức. Đâu là cơ chế tâm lý ở đây? Con có thể bảo đó là tự ngã, con có thể bảo đó là bất cứ gì, nhưng nếu con thực sự nhìn sâu vào cơ chế tâm lý thì điều nhiều người cảm thấy là như sau: Nếu họ nhìn nhận các niềm tin mà họ đã có hay đã khoác vào ở một thời điểm nào đó trong quá khứ, nếu họ công nhận các niềm tin đó không phải là cao nhất, thì có nghĩa là họ đã sai lầm, và họ không sẵn lòng nhìn nhận mình đã sai lầm. Trong nhiều trường hợp, đây có thể là lòng kiêu hãnh mà thôi. Nhưng đối với con là đệ tử tâm linh và đối với đa số các con, kiêu hãnh không là đặc tính chủ yếu trong tâm thức con. Vậy đâu là cái cơ chế ứng dụng cho rất nhiều đệ tử tâm linh?

13.4. Nghi ngờ trực giác của mình

Sứ giả này đã sống qua điều đó khi ông còn trẻ. Ông có chân trong một phong trào thiền quán, và ông cảm thấy mình đã được trực giác dẫn dắt gia nhập phong trào đó. Vì vậy ông cho rằng một khi trực giác đã bảo ông bước vào một giáo lý thì giáo lý đó và phong trào đó phải là chân chính. Sau một vài năm, ông bắt đầu nghi ngờ về sự chính đáng của phong trào. Lúc đầu ông không chịu nhìn nhận điều này vì ông sợ phải thừa nhận là phong trào này không chân chính, không là cao nhất. Lý do ông sợ nhìn nhận như vậy là vì ông sẽ cảm thấy trực giác của ông đã sai lầm khi nó bảo ông gia nhập phong trào.

Nếu trực giác của ông sai lầm và ông không thể tin vào trực giác thì liệu ông còn có thể tin vào gì nữa đây? Trong tiềm thức, ông lo sợ bị ném vào một tâm trạng ngờ vực, một vùng hoang địa nơi ông cảm thấy mình không thể tin vào bất cứ gì nữa. Rồi đến một điểm ông đã thừa nhận là phong trào đó không chính đáng hay cao nhất, và ông bỏ đi. Trong khoảng hai năm trời, ông trải qua một tâm trạng oán giận, ông cảm thấy như mình bị trực giác lừa dối, thậm chí ông còn quyết định sẽ không bao giờ tham gia một phong trào tâm linh nào khác. Đấy, như hẳn con cũng biết qua chính bản thân con, bất cứ khi nào con lấy những quyết định kiểu này: “Tôi sẽ không bao giờ làm chuyện này nữa,” thì gần như chắc chắn con sẽ phải làm chuyện đó. Rất may, sứ giả này đạt tới điểm ông lại sẵn sàng tin vào trực giác khi nó bảo ông gia nhập phong trào tâm linh tiếp theo, là một giáo lý của chân sư thăng thiên và một tổ chức được bảo trợ chân chính. Dù vậy, sự kiện này đã tốn ông nhiều năm trời để ông trả lời câu hỏi trong tâm là tại sao trực giác lại bảo ông bước vào phong trào thiền quán kia. Câu hỏi đã đòi hỏi ông hiểu ra là trên con đường tâm linh, vấn đề không phải là mình có lý theo cách nhìn của tự ngã, mà là mình có được một số trải nghiệm xoay chuyển tâm thức mình. Sau một thời gian khá dài, ông ngộ ra là trực giác của ông đã chính đáng khi nó bảo ông tham gia phong trào thiền quán kia, vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông có việc kinh qua trải nghiệm đó, và ở đó có một bài học mà ông cần học. Nhưng tâm đường thẳng lại diễn giải sáng ngộ trực giác đó theo nghĩa là một khi nó đã bảo ông gia nhập phong trào thì nhất định phong trào đó phải là chân chính.

Có lẽ con có thể nhận diện cùng khuôn nếp này trong chính con khi con cảm thấy mình phải làm một việc gì đó, con được trực giác thúc giục làm việc gì đó. Con hí hửng bước theo con đường do trực giác chỉ ra, thế rồi bỗng chốc con bị té xuống đống bùn cho đến ngập cổ, và con trách: “Tại sao mi lại bảo ta làm chuyện này?”

Một lần nữa, con cần nhìn nhận là con đã cần trải nghiệm đó, và sau đó tất nhiên, con có thể đi muốt tiến trình suy luận mà thày vừa mô tả và ngộ ra lý do là con cần học một bài học nào đó. Con cần phải xoay chuyển tâm thức và con chỉ có thể xoay chuyển qua trải nghiệm đó thôi.

13.5. Làm thế nào khắc phục các giới hạn

Con cũng có thể đưa tiến trình này xa hơn một bước và nhận ra là thái độ cùng các tin tưởng mà con đã có về những việc mình làm, theo một nghĩa thế phàm nào đó, có thể gọi là “sai lầm” vì chúng không đồng thuận với một thực tại cao hơn. Điều thày muốn nói là thế này: Khi con nhìn vào lãnh vực tôn giáo chẳng hạn, con có thể hỏi: “Tại sao có biết bao người vẫn trung thành với giáo hội Công giáo trong cách thức vỏ ngoài? Tại sao họ vẫn đi nhà thờ cho dù họ không đi mỗi chủ nhật? Tại sao họ vẫn có chân trong hội thánh khi họ không bao giờ đến nhà thờ?”

Con yêu dấu, phần lớn là vì họ không sẵn lòng nhìn nhận các niềm tin Công giáo hay niềm tin vào giáo hội Công giáo của họ là sai lầm. Thày cũng hiểu là có một vết nhơ, có một chấn thương gắn liền với sự sai lầm, vì sa nhân đã tạo ra một tâm thức ăn rất sâu vào thế giới, bảo rằng nếu con sai lầm thì điều này thật “xấu xa”, nó sẽ dẫn đến những hậu quả tàn khốc, con sẽ bị trừng phạt, bị đày xuống địa ngục và điều này điều nọ. Các con là đệ tử của chân sư thăng thiên và các thày đã ban cho con những dụng cụ để con có thể tự kéo mình lên khỏi tâm thức sa ngã đó. Con nhận ra là khi con sai lầm, con sẽ không hề bị kết tội đày xuống địa ngục, vì như các thày đã dạy, không có điều gì mà con không thể vượt qua. Vấn đề là làm sao con sẽ vượt qua được một điều gì nếu con không xem xét nó và không thành thật nhìn nhận là mình cần buông nó thay vì cứ nắm chặt lấy nó.

Con hãy nhìn vào thế giới tôn giáo một lần nữa, nhìn vào khái niệm xưa cổ của hệ biện giải (apologetics) Cơ đốc giáo, là một phong trào nhằm biện minh và giải thích đức tin Cơ đốc. Những niềm tin Cơ đốc đó dựa trên gì? Dựa trên những sai lạc mà giáo hội Công giáo đã cài đặt cách đây 17 thế kỷ! Liệu họ sẽ đạt được gì khi họ tìm cách giải thích cho qua những điều đã sai lạc ngay từ đầu? Tất nhiên là không đạt được gì! Họ sẽ chỉ tự đặt mình vào tâm trạng phủ nhận, và trong sự phủ nhận con sẽ không thể nào nhìn ra các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Sự sẵn lòng nhìn nhận: “Các niềm tin của tôi giới hạn cho nên tôi cần buông chúng ra, tôi cần mở tâm ra một ngộ đạt cao hơn, một trải nghiệm cao hơn”, đó chính là nguyên liệu cốt yếu cho một đệ tử đang bước trên đường tu muốn nhìn thấy các tầng cao hơn của Sứ vụ mình. Quá nhiều lần con đã chứng kiến, ngay cả trong số các đệ tử của chân sư thăng thiên, sự kiện họ mang vào một niềm tin, một quan điểm nào đó, chẳng hạn quan điểm về chân sư thăng thiên, nhưng quan điểm này không khế hợp với thực tại, nó sẽ cầm chân họ lại ở một tầng tâm thức thấp hơn, và họ không thể tiến xa hơn tầng đó. Nếu họ không sẵn sàng nhìn nhận niềm tin của họ không phải là cao nhất, không đồng điệu với sự thật và họ đã “sai lầm”, thì làm thế nào họ sẽ tiến lên được đây? Làm thế nào họ thoát ra được đây?

Bây giờ, trong tổ chức của chân sư thăng thiên mà vị sứ giả này từng là một thành viên, có một khái niệm phổ biến bảo rằng bất cứ khi nào con gặp một vấn đề trong tâm lý và con chia sẻ vấn đề này với một thành viên khác: “Tôi phải làm gì trong chuyện này?” thì người kia sẽ nói: “Ồ, chỉ cần bỏ nó vào ngọn lửa tím.” Ai nấy đều nghĩ là bất cứ gì, bất cứ điều gì khó chịu, bất cứ gì khởi lên trong tâm lý thì họ chỉ cần bỏ vào lửa tím. Có một lần sứ giả này nghe thấy một thành viên trẻ tuổi trong phong trào đó nói: “Người ta luôn luôn bảo em chỉ cần bỏ nó vào lửa tím. Em làm theo nhưng nó cứ trở lại hoài!” Dĩ nhiên rồi, quá đúng. Nếu con không giải quyết cái tâm lý tiềm ẩn bên dưới thì nó sẽ trở lại hoài hoài. Con có thể thỉnh lửa tím hết lần này tới lần nọ và nó có thể giải thể năng lượng tha hóa khiến con cảm thấy nhẹ nhõm hơn, bớt gánh nặng hơn. Nhưng ngọn lửa tím không thể giải quyết tâm lý của con vì con chỉ có thể giải quyết tâm lý bằng cách lấy một quyết định có ý thức.

13.6. Giải thích tại sao mình đã không sai lầm

Con thấy được ở đây điều các thày muốn nói, khi con đi lên những tầng cao hơn của đường tu, con có tiềm năng thấy được những tầng mức cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Các thày đã nói con điều gì? Con bước vào hiện thân ở một tầng tâm thức nào đó. Sứ vụ của con được thảo ra từ một tầng tâm thức cao hơn. Làm thế nào con sẽ thấy được các tầng cao hơn của Sứ vụ? Chỉ bằng cách vươn tới tầng tâm thức đó. Làm thế nào con sẽ vươn tới tầng tâm thức đó? Chỉ bằng cách nhìn vào những niềm tin mà con đã có ở tầng tâm thức thấp hơn và nhìn nhận, thừa nhận một cách ý thức, là chúng không phải là cao nhất. Một số niềm tin đó có thể hoàn toàn không ăn khớp với thực tại, và do đó chúng sai lạc hay sai lầm. Nếu con không thể thừa nhận là mình đã sai lầm, con sẽ không thể tiến lên cao hơn một mức nào đó.

Tất nhiên các thày đã chứng kiến trong lãnh vực tôn giáo, trong lãnh vực chính trị, trong lãnh vực khoa học và ngay cả trong số các đệ tử của chân sư thăng thiên, là người ta có thể chui vào những ngõ cụt gần như không lối thoát khi cố biện giải tại sao niềm tin của mình không sai lầm, hay tại sao mình đã không sai lầm khi khoác vào niềm tin đó. Thẳng thắn mà nói, thật đáng kinh ngạc nhìn thấy trí tưởng tượng mà người ta có thể dùng để giải thích tại sao niềm tin của mình không sai, hay tại sao mình đã không sai khi tin như vậy. Điều duy nhất con thật sự cần làm là nói: “Tôi đã có những niềm tin đó vì vào thời đó, đó là những gì tôi có thể nhìn thấy. Giờ đây tôi đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn và tôi có thể thấy nhiều hơn, nhưng để thực sự thực hiện những gì tôi thấy, tôi phải buông bỏ các niềm tin cũ. Khi tôi là trẻ nhỏ, tôi nói chuyện như một trẻ nhỏ. Bây giờ trưởng thành, tôi nên nói chuyện như một người trưởng thành thay vì cứ bám vào niềm tin của thời thơ ấu.”

Con yêu dấu, các thày chứng kiến chuyện này hoài hoài. Người tầm đạo suốt đời mong mỏi tìm được một cái gì đó. Họ tìm thấy một giáo lý tâm linh, bất kể là giáo lý nào. Tâm vỏ ngoài của họ sẽ lý luận: “Đây chắc chắn phải là giáo lý tâm linh tối hậu, là vị đạo sư tối hậu.” Họ quyết định trong tâm vỏ ngoài, có lẽ nửa chừng trong tiềm thức: “Tôi sẽ ở trong phong trào này cho hết phần đời còn lại rồi sau đó tôi sẽ thăng thiên” (hay sẽ giác ngộ, hay bất kỳ tên gọi nào khác). Rồi đến khi họ đạt mức tăng triển tối đa mà họ có thể đạt được trong phong trào này thì tâm họ đóng lại. Họ không sẵn sàng lắng nghe trực giác của họ đang hướng dẫn họ đến một giáo lý khác hơn hay một cách tiếp cận giáo lý khác hơn. Tâm họ trở nên cứng nhắc, đông đặc lại xung quanh niềm tin rằng những gì họ đang làm, những gì họ đang có, là đủ rồi.

Niềm tin này sai lầm. Nó luôn luôn sai lầm vì sự tăng triển là một tiến trình không ngừng. Tất cả các con đều đã hành xử như vậy – và không có gì đáng hổ thẹn trong việc đó. Thày không đang khiển trách con mà chỉ đơn giản chỉ ra sự việc. Tất cả các con đều đã kinh qua những điểm đó khi con nghĩ là giờ đây mình đã đạt được một tầm hiểu biết tối thượng, một niềm tin tối hậu nào đó, rằng đây chính là việc mình phải làm, vì tất cả các con vẫn đều mang một số yếu tố của tự ngã, và tự ngã muốn gì chứ? Nó muốn cảm thấy an toàn.

Con không cần hổ thẹn nhìn nhận chuyện này, đây chỉ là những gì tất cả chúng ta đều kinh qua khi hiện thân, là một phần của thân phận làm người. Có điều, người tiến bước trên đường tâm linh là người sẵn sàng xem xét chính mình và nhìn ra: “Tự ngã của tôi, những cái ngã tách biệt của tôi, chúng đều mang xu hướng này. Không thật là tôi tin rằng tôi không cần tìm kiếm một giáo lý khác hơn, mà một cái ngã tách biệt nằm trong tự ngã, và tôi thì không phải là ngã tách biệt đó. Tôi là nhiều hơn thế! Cho nên ‘cái ta’ mà tôi thực sự là đang sẵn sàng nhìn vào ngã đó và thấy rằng các niềm tin của ngã đó đã sai lầm! Chúng đã lỗi thời, chúng giới hạn, và tôi đang rũ bỏ chúng đây! Tôi đang mở tâm để thấy một cái gì tôi đã không thể thấy qua phin lọc các niềm tin giới hạn đó! Tôi đang làm cho tâm mình lỏng ra để nó không đông đặc lại xung quanh một điểm nào đó, một niềm tin nào đó.”

Con yêu đấu, đấy chính là sự khác biệt giữa những ai tiến lên các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng để thị hiện tiềm năng cao nhất của Sứ vụ, và những ai ngừng chân lại ở một điểm nào đó trước khi đến được tiềm năng cao nhất của mình. Tất nhiên, các thày không muốn thấy con ngừng chân lại trước khi con đạt mục tiêu mà chính con đã định ra cho kiếp này. Mục tiêu đó không được áp đặt lên con mà là những gì chính con đã muốn. Đó không là điều thày muốn cho con, mà là điều con muốn cho con. Thày chỉ nhắc nhở con thôi. Thày không đang ép buộc con mà thày chỉ nhắc nhở con những gì con đã quyết định muốn làm trước khi con đầu thai. Và thày nhắc nhở làm thế nào con có thể đạt đến đó.

13.7. Quên đi các lỗi lầm của mình

Trong câu chuyện này, chỗ đứng của ngọn lửa tím là gì? À, lấy ví dụ con nhìn lại đời mình và nói: “Những gì tôi đã làm, đã tin, không phải là cao nhất.” Thậm chí có lẽ con đã làm cả những chuyện rõ ràng đã đẩy con vào một tâm trạng dựa trên sợ hãi và tạo ra năng lượng tha hóa. Sau đó con làm hai chuyện. Con sử dụng ngọn lửa tím để trùm lên toàn bộ tình huống đó và tiêu hủy năng lượng. Xong con dùng các dụng cụ và giáo lý mà các thày đã ban truyền về phàm linh nội tại, ngã tách biệt, ngã gốc, để phơi bày niềm tin nằm ẩn đằng sau và thay đổi niềm tin đó – và như vậy con để cho ngã tách biệt đó chết đi. Rồi con chấp nhận, con yêu dấu, là bây giờ con đã làm xong công việc – nó đã xong xuôi, đến độ nó không còn hiện hữu nữa!  

Trong Kinh thánh có một câu Thượng đế phán: “Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi của họ nữa.” À, con yêu dấu, có thể là Thượng đế có khả năng quên đi tội lỗi của con, nhưng liệu con có làm được vậy không? Liệu con có thể quên đi những cái gọi là “lỗi lầm” mà con đã phạm? Điều thày muốn nói ở đây là như sau: Con có thể dùng ngọn lửa tím để tiêu hủy năng lượng, sau đó năng lượng biến mất. Nó không còn ở đó nữa như thể nó chưa bao giờ hiện hữu. Con có thể để cho ngã tách biệt đó chết đi và ngã tách biệt không còn đó nữa, như thể ngã tách biệt chưa bao giờ tồn tại. Nhưng! Có thể vẫn còn một yếu tố trong tâm thức con, và đây không phải là cái Ta Biết mà là một ngã tách biệt khác. Có thể trong tâm thức con vẫn còn một yếu tố ghi nhớ lại việc con đã làm và đang phóng chiếu là con cần tiếp tục ghi nhớ nó. Rằng con cần cảm thấy hối hận về nó, hay con cần tìm cách đền bù cho nó – hay bất cứ gì khác để con vẫn chú ý đến nó. Điều thày đang nói là một khi con đã làm xong công việc dọn dẹp, con cần bước lui lại và nhìn xem có ngã tách biệt đó đang phóng chiếu lên con – hoặc thậm chí có cả sa nhân hay người khác đang phóng chiếu cái đó lên con. Và con cần nói: “Mi không phải là ta. Ta không muốn mi trong đời ta nữa! Ta đang để cho mi chết đây!” Sau đó con cần chấp nhận là con không cần nhớ lại điều đó nữa. Con hoàn toàn không cần dành cho nó bất kỳ sự chú ý nào.

13.8. Buông bỏ những người không chịu buông bỏ

Thật ra rất nhiều các con sẽ gặp thử thách này hết lần này đến lần nọ, vì sa nhân sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con và nhắc nhở con điều này. Có thể trong gia đình hay các mối quan hệ của con sẽ có người cứ luôn nhắc nhở con về “những chuyện con đã gây cho họ nhiều năm về trước” và tại sao con vẫn phải hối tiếc việc làm đó vì chính họ cảm thấy tổn thương. Họ đã không giải quyết được cái tâm lý đã khiến họ phản ứng lại. Họ đã không giải quyết, không buông bỏ được năng lượng. Thế thì một lần nữa, con cần nói: “Được rồi, tôi tôn trọng quyền tự quyết và tôi tôn trọng bạn có quyền tự quyết của bạn. Nếu bạn muốn ôm giữ những gì đã xảy ra trong quá khứ, tôi sẽ tôn trọng quyền bạn làm như vậy. Nhưng tôi cũng tôn trọng quyền tự quyết của tôi y như thế, tức là tôi có quyền bỏ lại chuyện này đằng sau. Nếu bạn không sẵn sàng bỏ nó lại như tôi thì cũng tốt thôi, nhưng tôi sẽ bỏ nó ra khỏi đời tôi. Tôi sẽ đứng ra ngoài nỗi khổ tâm của tôi.”

Con yêu dấu, trong một số trường hợp, con sẽ có chọn lựa là nếu có ai trong gia đình hay quan hệ của con không buông được quá khứ thì con có thể đạt tới điểm: “Tôi chỉ cần buông bạn ra. Tôi chỉ cần để bạn ra khỏi đời tôi, lựa bỏ bạn ra khỏi đời tôi, vì thật không xây dựng chút nào nếu tôi liên hệ với một người cứ mãi mãi xoay quanh dĩ vãng và không sẵn lòng vượt qua dĩ vãng.” Đây là một quyền mà con có, con yêu dấu, cho dù họ có thể trách móc và bảo con: “Bạn không thể bỏ tôi như thế này, bạn không thể tự dưng bước ra đi như thế này.” Con yêu dấu, con có quyền làm điều này nếu con cảm thấy đây là việc phải đối với con. Thày không bảo con làm gì, mà thày chỉ nói là con có quyền làm sự chọn lựa đó cho dù người kia không chịu buông quá khứ.

13.9. Nhìn ra những niềm tin vi tế hơn

Con yêu dấu, nói thật, con không thể khắc phục một niềm tin giới hạn mà không thấy là nó giới hạn. Nhưng làm thế nào con thấy được niềm tin đó giới hạn? Ít ra ở một mức nào đó, con thấy là nó giới hạn so với một niềm tin cao hơn, rộng hơn, bao quát hơn. Và điều này dẫn chúng ta nói đến một thế bí lưỡng nan mà nhiều người có thể rơi vào.

Nhiều người có một niềm tin giới hạn. Một lần nữa, hãy lấy ví dụ nhiều tín hữu Công giáo. Nếu con đã từng thử thuyết phục một số người Công giáo về các giới hạn của học thuyết và giáo hội Công giáo, con có thể cảm thấy như thể họ không nghe thấy con nói gì. Đó là vì họ ở trong một thế bí lưỡng nan. Một mặt, họ không thể thấy được niềm tin của họ giới hạn vì họ không có khung tham chiếu nào để so sánh. Mặt khác, lý do họ không có khung tham chiếu chính là vì tâm họ bị khóa chặt vào niềm tin của họ đến độ họ không thể thấy có một tầm hiểu rộng hơn.

Lẽ tự nhiên, các con là học trò tâm linh, các con đã sẵn sàng mở tâm ra một tầm hiểu cao hơn về bao nhiêu lãnh vực, bao nhiêu sự việc. Nhưng một số các con sẽ nghiệm thấy là mặc dù con mở tâm ra một cách hiểu cao hơn trong nhiều lãnh vực, vẫn có một số điều cấm kỵ, một số con “bò thiêng” đang lang thang trong cánh đồng của tâm thức con – hay chúng đang nằm nhai lại thức ăn chưa tiêu hóa, chúng nhai, nhai, nhai, hoàn toàn bằng lòng nhai đi nhai lại và nhai thêm nữa. Rồi thỉnh thoảng chúng đưa các niềm tin của con trở lên miệng và nhai, nhai, nhai thêm lần nữa! Đó là một cái ngã tách biệt đang vận hành như vậy. Con có thể gặp tình trạng là con đã khắc phục xong một số ngã tách biệt và biết rõ tiến trình này, nhưng vẫn có điều gì mà con chưa thấy. Đây chính là điểm thày muốn trình bày với con: Có thể một cách để phơi bày các niềm tin giới hạn đó, những điều cấm kỵ, những con bò thiêng đó, là khi con bị khiêu khích bởi một lời dạy của các thày, hay bị dao động bởi một sự việc nào đó – khi có chuyện gì thực sự khiến con điên tiết, thực sự xáo trộn sự thoải mái của con. Không nhất thiết là con sẽ nhìn thấy ngay lập tức niềm tin giới hạn ẩn đằng sau, và có thể con sẽ phải đào sâu hơn một chút. Con cần nhìn: “Tại sao tôi bị xáo trộn? Tại sao nó lại khiêu khích tôi?” Sau đó con cần theo dõi nó, đi xa hơn nỗi cảm xúc và cố nhìn ra cái niềm tin đã khiến con thoải mái – và ngay đó, có một con bò thiêng đang nằm, đang nhai đi nhai lại. Xong con hãy nhìn vào tầm hiểu cao hơn mà các thày đang cố truyền đạt cho con. Một khi con mở tâm ra, con sẽ có thể nắm bắt tầm hiểu cao hơn này, vì các thày đã nói với con là khi con ở tầng tâm thức 56, con có khả năng nắm bắt giáo lý ở tầng 57 hay sự nhận biết liên hệ với tầng 57. Nhưng con cần phải mở tâm ra, con không thể khóa chặt tâm con vào một niềm tin nhất định.

Một khi con mở tâm, con sẽ nhìn thấy nó. Nếu con sẵn lòng nhìn nhận là niềm tin cũ của mình là giới hạn hay “sai lầm”, con sẽ có thể bước tới. Thày chỉ đơn giản nói rằng một số các con là đệ tử cao cấp đã bước trên đường tu, đã áp dụng giáo lý, và các con đã loại bỏ được rất nhiều điều cấm kỵ, nhiều con bò thiêng đó rồi. Một số các con sẽ ngồi đó và tự hỏi: “Ủa, liệu tôi còn gì sót lại hay chăng, tôi còn bị kẹt vào những niềm tin nào chứ?” Và thật con không tìm thấy gì hết. Một số các con không còn sót lại nhiều niềm tin như vậy, nhưng thày xin nói là tất cả các con sẽ được lợi lạc nếu ít nhất con rà xét bản thân và hỏi: “Liệu có còn gì vẫn khiến tôi bị dao động không?” Chẳng hạn khi con đọc cuốn sách Những kiếp của tôi, liệu có điều gì khiêu khích con không? Có điều gì làm con bất an? Nếu có thì con hãy dõi bước theo nó, đi xa hơn cảm xúc, và đâu là niềm tin ẩn đằng sau chứ? Con sẽ tìm thấy một con bò thiêng đang nằm đó… nó đang nhai, nhai, nhai. Khi con thấy nó rồi, con sẽ có thể thốt lên: “À há! Đây chính là điều mà Saint Germain đã nói đến – mi hãy cút khỏi đây!”

13.10. Không có mức tối hậu nào trên địa cầu

Con yêu dấu, thật là một niềm vui cho các thày được nhìn thấy các con đi qua tiến trình này. Con có hiểu chăng? Các thày không đang khiển trách con, các thày không đang nói: “Con không đủ tốt.” Niềm vui của các thày là thấy con chọc thủng một niềm tin giới hạn và bỗng nhiên gánh nặng rơi khỏi vai con. Như sứ giả này đã mô tả, tất cả những giáo lý, tất cả những nỗ lực tu sửa tâm lý của ông sau 40 năm bước trên đường tu đã chưa bao giờ thực sự chạm đến cốt tủy của ngã gốc của ông. Chỉ khi ông nhận được lời dạy của Giê-su về ngã gốc hồi tháng 12 vừa rồi – chỉ cách đây mấy tháng – thì ông mới thực sự đột phá và có thể nhìn thấy một cái gì đó, có thể buông bỏ cái đó và cảm thấy một gánh nặng vĩ đại được trút khỏi chính mình.

Ông còn không dám bảo là ông đã làm xong xuôi công việc – vì sau từng nấy năm trời, ông đã học được là ông không thể tuyên bố kiểu đó. Điều thày muốn nói là như sau: Nếu một người đã bước trên đường tu lâu đến vậy mà vẫn còn những con bò đang nhai đi nhai lại thức ăn chưa tiêu hóa, thì có lẽ điều khôn ngoan là tất cả các con cũng nên nói: “Tôi có còn sót lại gì chăng? Có điều gì tôi chưa nhìn thấy? Làm thế nào để tôi nhìn ra, bởi vì thực sự tôi muốn bước lên viễn quan cao hơn của Sứ vụ của tôi. Tôi rất muốn tiến bước tối đa. Tôi rất muốn đạt đến mức tâm thức nơi tôi có thể là chính mình.”

Một cách khác để phát hiện xem con có bò thiêng, có điều gì cấm kỵ hay không, đơn giản là như sau: Con có cảm thấy mình là chính mình hay chăng? Con có cảm thấy mình tự do biểu lộ chính mình mà không sợ phản ứng của người khác? Một cách khác nữa là: Thái độ của con đối với cõi vật chất, đối với địa cầu này là thế nào? Con có thoải mái khi ở đây, con có cảm thấy mình có thể tự biểu đạt ở đây, hay liệu con cảm thấy một loại bực bội, oán giận hay hạn chế khi mình ở đây? Nếu vậy thì một lần nữa, con có một con bò thiêng đang cầm giữ con lại vì nó không chịu nhúc nhích. Con hãy dõi theo nó, xem xét nó và thừa nhận đó là một niềm tin giới hạn.

Nếu con không thể nhìn nhận mình có một niềm tin giới hạn, con yêu dấu, làm thế nào con có thể vươn lên tầng tâm thức kế tiếp đây? Các thày đã nói điều gì? Có 144 tầng tâm thức, và gắn liền với mỗi tầng có một ảo tưởng. Đến bao giờ con sẽ giải thoát khỏi mọi ảo tưởng? Đúng, đến khi con vươn tới tầng 144 và giải quyết bí ẩn này hầu con sẵn sàng thăng thiên.

Con có thể hỏi: Đâu là một đặc tính rất phổ biến trong các phong trào tâm linh, Thời Mới? Đó là niềm tin cho rằng con có thể đạt tới một giai đoạn tối hậu nào đó khi con vẫn hiện thân trên địa cầu. Con giác ngộ, con là một chân sư thăng thiên chưa thăng thiên, con vô ngã, con đã giải quyết xong tâm lý của mình, con đã tới đích! Quá nhiều người, kể cả sứ giả này trong nhiều năm trời, nghĩ rằng họ phải có khả năng đạt tới điểm đã cải sửa xong tâm lý của mình và giờ đây họ giải thoát khỏi mọi chuyện.    

Họ đeo đuổi mục tiêu đó, nhưng ai là người có thể thỉnh thoảng cảm thấy mình đã tới đích rồi chứ? Con thấy ở ngoài kia có nhiều người đưa ra tuyên bố đủ loại, chẳng hạn họ đã khắc phục được tự ngã, đã giác ngộ, đã thế này thế kia. Ai là người đã tới đích chứ? À, đó là tự ngã của họ, vì giờ đây họ nghĩ họ không còn phải tìm kiếm tự ngã nữa vì họ đã khắc phục nó xong rồi. Đó chính là lúc tự ngã thực sự có thể ngả lưng xuống và nói: “À, bây giờ ta có thể thư giãn được rồi, và ta sẽ nhai, nhai, nhai vì y sẽ không bao giờ phát hiện được ta. Thậm chí nếu ta cắn vào đùi y thì y cũng không biết là ta cắn.”

Sẽ khôn ngoan biết mấy nếu con nhận ra đây là một ảo tưởng do sa nhân phóng chiếu, được khuếch đại bởi nhiều người có thiện ý nhưng không đủ hiểu biết về đường tu. Như thày có nói, thật sự con có khả năng có một quyết định sẽ đem lại một sự xoay chuyển cách mạng, qua đó con không còn mong mỏi trạng thái “tới đích” đó trong khi con còn hiện thân. Con sẽ đạt tới đích khi con thăng thiên. Cho tới khi đó, con đừng bận tâm đeo đuổi nó. Hãy đi tìm cái ảo tưởng kế tiếp sẽ đưa con lên tầng tâm thức kế tiếp. Con yêu dấu, đó chính là sự xoay chuyển cách mạng trong nhận biết mà những người thực sự thành công trên đường tu sẽ tìm được cách thực hiện. Họ không còn chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Họ luôn luôn dõi tìm ảo tưởng kế tiếp, bước tiến kế tiếp. Khi họ tìm ra, họ sẵn sàng nhìn nhận: “À, hóa ra cái đó là giới hạn, tôi đã sai lầm.” Không phải là “tôi” đã sai lầm, mà con tìm ra một cách nhìn khác để con không nghĩ đến cả chuyện đúng hay sai, và con nói: “Được rồi, cái này phải ra đi.” Con làm vậy tự nhiên như thể đó là bản chất thứ hai của mình và con không phải vật lộn với nó.

13.11. Vật lộn để nhìn nhận mình sai lầm

Nhiều các con, trong đó có sứ giả này khi ông còn trẻ, đã phải phấn đấu mãnh liệt, có khi nhiều năm trời, để thừa nhận là mình đã sai lầm ở một điểm nào đó. Ông có thể nhìn lại, mỉm cười và công nhận chuyện này vì ông đã vượt xa hơn, cho nên chính con cũng có thể vượt xa hơn tuy con sẽ cần một chút nỗ lực. Lúc đầu, tự ngã sẽ cưỡng chống lại con với tất cả sức bình sinh của nó. Con cũng biết – nếu con từng là một nông gia trong tiền kiếp – khi một con bò đã quyết định không chịu nhúc nhích thì không một thế lực nào trên trời hay dưới đất sẽ có thể xê nó đi.

Con yêu dấu, con hãy sẵn sàng suy ngẫm điểm này vì con sẽ trải nghiệm một niềm tự do to lớn nếu con đạt tới điểm vượt ra khỏi lực cưỡng chống đó. Con chỉ nhìn nhận đó là một niềm tin giới hạn, xong con bước lên tiếp. Tất nhiên, con sẽ phải hy sinh điều gì ở đây chứ? Một lần nữa, con phải hy sinh niềm tin ở một giáo lý tối hậu, một chân lý tối hậu, một cách hiểu tối hậu nào đó mà con có thể có được. Con yêu dấu, con hãy nhận ra điều các thày đã dạy: Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như địa cầu thì con sẽ không có được một hiểu biết tối thượng về cách vận hành của vũ trụ. Điều này không thể làm được!

Con hãy xoay chuyển và nói rằng con đang có tầm hiểu biết cao nhất mà con có thể có ngay bây giờ, nhưng có một tầm hiểu biết cao hơn ở tầng tâm thức kế tiếp, rồi ở tầng kế tiếp nữa cho đến tầng 144. Con hãy nỗ lực đạt được cái đó. Luôn luôn giữ tâm mình cho thật lỏng, cởi mở để nhìn ra tầm hiểu biết cao hơn đó. Con yêu dấu, khi tâm con mở rộng và sẵn lòng, đó là lúc các thày có thể thực sự làm việc với con. Con có thể đạt tới điểm, như sứ giả này đôi khi ngồi tự hỏi, làm sao có thể tin được là quá nhiều sáng ngộ có thể đến với mình trong một thời gian rất ngắn ngủi như vậy. Nhiều người trong số các con đã có cùng trải nghiệm như thế.

Có những giai đoạn trong đời con như thể mỗi ngày hay mấy lần mỗi ngày, con nhận được một sáng ngộ cách mạng nào đó, con có được một trải nghiệm bất chợt nhìn ra một viễn cảnh hoàn toàn mới. Đây có thể là trải nghiệm thường nhật của con, và nó có thể là một trải nghiệm vô cùng hỉ lạc, vì ở các tầng thấp hơn khi tự ngã vẫn phần nào nắm giữ con thì tự ngã phóng chiếu ra là con sẽ bị mất mát gì đó nếu con từ bỏ một niềm tin đang có. Đó quả là một cuộc chiến đấu, nhưng một khi con thực hiện xoay chuyển này thì con ngộ ra: “Ừ nhỉ, buông bỏ một niềm tin cố hữu, một niềm tin giới hạn, chỉ có thể là một sự giải thoát, và đó là một niềm vui, một sự trút bỏ nhẹ nhõm, là đạt được một tầng cấp tự do mới. Nó đã chứa sẵn phần thưởng của nó rồi.

13.12. Con sẽ được gì qua đó?

Đôi khi tự ngã sẽ tìm cách mặc cả. Thậm chí, tự ngã của một số đệ tử sẽ nói với chân sư thăng thiên: “Thày Saint Germain, vậy thày muốn con từ bỏ niềm tin này à? Trong đó có gì cho con? Con sẽ được gì qua đó?” Có những học trò của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày, thậm chí còn nói rằng: “Nếu con làm điều này cho thày thì con sẽ nhận được gì đây?”

Con yêu dấu, một khi con vượt quá tâm thức đó, phần thưởng của con nằm ngay trong trải nghiệm. Nó đã gắn sẵn trong đó khi con trải nghiệm nhiều tự do hơn. Cái đó là phần thưởng của chính nó. Con cần phần thưởng nào khác nữa? Thày là chân sư của tự do cho địa cầu. Thày không cần phần thưởng nào khác hơn là trải nghiệm Ngọn lửa Tự do và biểu lộ Ngọn lửa Tự do bất cứ khi nào thày có dịp.

Tại sao thày lại tình nguyện ở lại với địa cầu và làm việc để thị hiện một thời đại hoàng kim? Có gì cho thày trong đó? Liệu thày hy vọng được thăng chức lên một cấp chân sư thăng thiên cao hơn chăng? Liệu thày nghĩ có một sinh thể vũ trụ sẽ giáng xuống đây và một buổi lễ hoành tráng sẽ được tổ chức để đeo lên cổ thày một loại huy chương gì đó? Không đâu con, phần thưởng chính là sự cảm nhận dòng chảy tự do đang xối qua Bản thể của thày.

Đúng, dĩ nhiên còn có khía cạnh omega nữa. Phần thưởng cũng là khi thày nhìn thấy mọi người được tự do. Nhưng phần thưởng hàng đầu chỉ đơn giản là cảm thấy dòng chảy của tự do, và đó là tại sao khi con tới điểm này, phần thưởng cho việc phụng sự của con chính là phụng sự! Giản dị đó là trải nghiệm cảm thấy dòng chảy. Dòng chảy, con yêu dấu. Dòng chảy – đó là tất cả. Tự ngã chỉ biết đứng yên, đó là sự chết. Nhưng dòng chảy chính là sự sống. Cho nên để phỏng theo một câu nói của người xưa: “Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Hãy chọn Sự Sống. Sự Sống mà TA LÀ.”

5 | Con không ở trên địa cầu để giải quyết các vấn đề

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE và thật là niềm vui cho thày được nói chuyện với các con và trao cho con một lời dạy sẽ có vẻ hơi khó và hơi nặng nề đối với con. Tuy nhiên, lời giảng này thật quan trọng để con nắm bắt Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì và làm thế nào con có thể thực hiện được Sứ vụ.

5.1. Một cách tiếp cận Sứ vụ Thiêng liêng mất cân bằng

Con yêu dấu, Mẹ Mary có đặt câu hỏi là tại sao các thày đã không ban ra các giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn. Hiển nhiên Mẹ Mary đã trả lời câu đó một phần, nhưng thày muốn nêu lên một khía cạnh khác nữa. Trong một đợt truyền pháp trước, các thày đã ban ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng và cũng đã đặt nhiều trọng tâm hơn vào đó. Các thày có nói là con người cần cân bằng nghiệp quả của mình và có một phần vụ thần thánh mà mình phải hoàn thành. Các thày nhận thấy là khi ai nấy nghe giảng về khái niệm này thì trong nhiều trường hợp, họ rơi vào một phản ứng rất thiếu cân bằng. Thày không nói điều này để chỉ trích một ai. Điều thày muốn chỉ ra ở đây là nhiều học trò, đặc biệt trong các thập niên trước, khi họ nghe nói đến khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng thì họ trở nên vô cùng nhiệt tình, háo hức muốn thực hiện.

Tất nhiên là tự thân nó, lòng nhiệt tình không có gì sai trái. Trên đường tu tâm linh, con cần một độ nhiệt tình nào đó. Nhưng mặt khác, người xưa có câu ngạn ngữ: “Đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt.” Thày cũng có thể nói là chiếc xe đưa con xuống địa ngục chạy bằng nhiên liệu là những ý định nhiệt tình thái quá.

Rất, rất nhiều người đã tiếp nhận giáo lý của các thày một cách mất cân bằng. Họ dùng giáo lý để đưa họ vào một trạng thái mà họ cảm nhận là lạc quan tích cực chỉ vì họ háo hức, nóng lòng, cả quyết, “tia sáng xanh và lửa cũng xanh”, và họ không để cho bất cứ gì cản bước họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Theo một nghĩa nào đó, nó giống như thể họ đang tham dự một cuộc đua xe băng đồng chạy khắp vùng nông thôn để đến được một mức đến. Các học trò đó náo nức đến độ họ nhảy liền lên xe, đạp ga phóng thật nhanh trên đường, khiến đá sỏi văng tung tóe tứ phía, nhưng họ lại không đem theo tấm bản đồ sẽ dẫn họ tới đích. Họ quá chú tâm vào việc chạy càng nhanh càng tốt đến nỗi họ không xét xem họ đang chạy về đâu và làm thế nào họ sẽ tới đó.

Các thày đã từng nói trước đây là một trong những vấn đề lớn với học trò của chân sư thăng thiên là các con có một viễn quan đúng đắn về những gì cần xảy ra – hay ít nhất con thấy được là một sự thay đổi cần phải xảy ra – nhưng con không có viễn quan đúng đắn về cách làm thế nào, làm thế nào để điều đó hiện thực. Một trong những lý do khiến các thày đã không đưa ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng trong đợt truyền pháp này là vì các thày thận trọng hơn, dành ra nhiều thời gian hơn để dần dần vun xới cho tới điểm con có đủ hiểu biết cùng các dụng cụ thực tiễn dưới hình thức các bài thỉnh và sách sẽ giúp con thực sự đương đầu với thế lực đối lập. Tất nhiên con cũng có những dụng cụ thực tiễn để đối phó với các yếu tố trong tâm lý con đã tạo ra phản ứng mất cân bằng. Thày không chỉ nói với các con đang ngồi đây mà với cả nhiều người khác có thể đã tìm ra lời dạy này hay thậm chí nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu tiên.

5.2. Ngã gốc và sự mất cân bằng

Điều quan trọng là con cần biết, khi con tìm thấy một lời dạy của chân sư thăng thiên lần đầu, và đặc biệt khi con nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng (và cả về khái niệm Thời đại Hoàng kim lẫn cách làm thế nào thay đổi địa cầu), là không hiếm khi người ta tiếp nhận những lời dạy đó một cách mất cân bằng. Mất cân bằng chính xác là gì? Phần lớn đây là một vấn đề cá nhân cho nên nó tùy thuộc vào tâm lý của con. Điều nó thật sự tùy thuộc là cái ngã gốc mà con đã tạo ra để đáp ứng với chấn thương nhập đời nguyên thủy mà con trải nghiệm, rất có thể trong kiếp hiện thân đầu tiên của con (có khi không là kiếp đầu tiên nhưng một trong những kiếp sau đó).

Khi con phải kinh qua chấn thương đó, hiển nhiên con đã có một số cảm xúc, một số ý nghĩ. Điều này thường khiến con tạo ra một cái ngã tìm cầu một phương cách, có thể nói là để phục thù, bù đắp, đền bồi, chỉnh sửa chấn thương nhập đời mà con đã gánh chịu. Nói cách khác, ngã đó bảo rằng: “Sa nhân đã làm chuyện đó với tôi, tôi muốn trả đũa lại, tôi muốn… [bất cứ điều gì tùy theo mỗi cá nhân].” Con muốn làm gì đó với chúng hay con muốn một điều gì đó xảy ra cho chúng và – nếu có thể nói như vậy – điều này sẽ “gỡ huề tỷ số” để con cảm thấy như chúng nhận được hình phạt xứng đáng. Sự thể này sẽ khiến cho một số các con trở nên, như thày vừa nói, quá nhiệt tình muốn thay đổi thế giới. Trong nhiều trường hợp, nó cũng đã khiến cho một số học trò bước vào một giai đoạn nơi họ tập trung vào những thứ vỏ ngoài.    

Tất nhiên, một trong những thứ mà nhiều người đã làm là trở nên vô cùng háo hức muốn đọc các bài chú, hết giờ này sang giờ nọ – như trong đợt truyền pháp trước, họ sẽ dự lễ mấy lần mỗi tuần để đọc chú hàng giờ đồng hồ. Họ nghĩ họ phải làm điều đó để thay đổi thế giới, để trói chặt sa nhân, để cân bằng nghiệp quả và chuyển đổi địa cầu cho thày Saint Germain. Cho nên họ không có nhu cầu và thời gian hay sự chú ý để tu sửa tâm lý của họ. Tất nhiên, con có thể nhìn lại và nói: “Nhưng họ làm vậy là do những gì đã được ban ra qua các bài truyền đọc, hay ít ra do cách thức mà các bài truyền đọc được diễn giải trong văn hóa của tổ chức đó.”

Đúng vậy, nhưng một lần nữa như các thày đã trình bày mấy lần, các thày phải nhìn vào một nhóm người nhất định ở một thời điểm nhất định, xét xem họ sẵn sàng nhận được những gì, rồi trao cho họ cái đó, thỉnh thoảng còn trao cho họ một cái gì cùng cực đến độ họ sẽ chán ngán và bắt đầu phải nhìn xa hơn. Vào thời đó có một số học trò chưa sẵn sàng, nhưng một số cũng không sẵn lòng nhìn vào tâm lý của mình. Các thày đã cho họ môi trường vỏ ngoài đó nơi họ có cái cớ toàn hảo để không xem đến tâm lý của họ khi họ phải đọc tất cả những bài chú đó.

Mặt khác, họ còn nhận được nhiều lời chỉ dẫn phải đọc những bài chú nào, đến độ nếu họ theo đó mà đọc hết thì 24 tiếng một ngày cũng không đủ vào đâu. Đó là một toan tính từ phía các thày nhằm nói lên: “Đây, các thày không thể chạm được các con, các thày không thể khiến con nhìn ra những gì con cần nhìn thấy, cho nên các thày sẽ cho con nhiều đến độ cuối cùng nó sẽ quá tải, và mong thay, ít nhất có một số các con sẽ đứng lui lại và tìm ra một cách tiếp cận cân bằng hơn.” Quả vậy, một số đã nhìn ra và một số vẫn không nhìn ra – và tiếc thay, đó là sự thể các thày phải chấp nhận. Dù với lời dạy nào đi nữa, các thày cũng không thể chạm được mọi người.

5.3. Một cảm nhận cao hơn về cân xứng

Điểm thày muốn nói ở đây là trong thời đại hôm nay và trong đợt truyền pháp của các con, các con đang có một mức giảng dạy khác hơn. Điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự tăng triển của mỗi cá nhân, việc giải quyết và chữa lành tâm lý cùng những chấn thương trong quá khứ mà các thày đã đề cập với con gần đây.

Có nghĩa là con có tiềm năng tiếp cận một cách cân bằng hơn, y như những gì Mẹ Mary đã nói. Thày muốn đi vào vấn đề này sâu hơn một chút. Mục đích thực sự của các chân sư thăng thiên không phải là để chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài nhất định trên địa cầu. Con có thể hỏi: “Nhưng chẳng phải là điều này đi ngược lại những lời dạy về Thời Hoàng kim của Saint Germain khi thày muốn cải thiện mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất và đem lại một trình độ văn minh cao hơn hay sao?” À, không, con yêu dấu. Từ một nhãn quan vỏ ngoài đường thẳng thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng ngay cả Saint Germain cũng từng nói rằng mục đích chính yếu của Thời Hoàng kim thật ra là để nâng cao tâm thức loài người, chứ không để thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù đó. Thày Saint Germain sử dụng những thứ vỏ ngoài đó như một dụng cụ để nâng cao tâm thức con người, chứ tự thân chúng không phải là mục tiêu.

Ở đây con phải nhìn nhận là các thày đã cho con khái niệm rằng địa cầu không là một hành tinh tự nhiên. Các thày đã nói với con là có hàng tỷ hành tinh khác trong vũ trụ ở mức hành tinh tự nhiên và do đó cũng không có tất cả những biểu hiện dựa trên sợ hãi mà con thấy trên trái đất. Như Mẹ Mary có gợi ý, kỳ thực có hàng tỷ hành tinh đã gia tốc, và các cư dân ở đó đã gia tốc hành tinh của họ tới một trình độ vượt xa địa cầu đến nỗi hầu hết loài người khó lòng nào hiểu nổi.

Con phải nhìn nhận là tất nhiên, nói chung như một nhóm, các chân sư thăng thiên biết rất rõ là hầu hết mọi hành tinh đều ở một trình độ rất cao. Hiển nhiên các chân sư đã chọn ở lại làm việc với địa cầu thì không quá tập trung vào các hành tinh cao đó, nhưng các thày biết là họ hiện hữu. Các thày có tương tác với các chân sư đang làm việc với các hành tinh đó, thậm chí cả với các chân sư mang viễn quan tổng thể về toàn bộ vũ trụ vật chất lẫn con đường tiến hóa của vũ trụ. Điều này có nghĩa là các thày có một ý niệm về sự cân xứng mà thường thường các con không có được trên địa cầu khi con là người đầu thai.

Nhiều người trên địa cầu rất chú tâm vào địa cầu và, tất nhiên, nhiều người cho rằng đây là hành tinh duy nhất có người ta sinh sống. Nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng đây phải là một hành tinh thật quan trọng đối với Thượng đế, nhiều người theo phong trào Thời Mới và người tâm linh cũng xem địa cầu là quan trọng vì nó khiến cho họ cảm thấy chính họ quan trọng do họ đang sống ở đây, vân vân và vân vân.

Điều thày muốn cho con là một chút cảm nhận cân xứng của các chân sư thăng thiên. Khi con đứng lui lại một bước và ngắm nhìn toàn bộ vũ trụ vật chất, con biết qua khoa học là có hàng tỷ dải thiên hà, hàng tỷ mặt trời, hàng tỷ thái dương hệ, hàng tỷ hành tinh với tiềm năng mang sự sống. Thày nói với con, những hành tinh gọi là “tương tự như trái đất” mà khoa học đã khám phá chỉ là một phần rất nhỏ trong số những hành tinh có sự sống. Các con chỉ đang cố tìm những hành tinh có cùng một loại dạng sống như trên địa cầu. Dĩ nhiên là còn rất nhiều loại dạng sống khác không dựa trên cacbon – nếu có thể nói như vậy – mà dựa trên các nguyên tố hóa học khác và do đó không thể phát hiện được bằng giác quan vật lý cũng như bằng các loại dụng cụ khoa học dựa trên giác quan mà con có trên trái đất. Đó là tại sao con không thể nhìn thấy sự sống trên Kim tinh mặc dù các thày đã nói với con là Kim tinh có sự sống. Điều này cũng áp dụng cho rất nhiều hành tinh khác khắp vũ trụ.

Khi con bước lui lại và nhìn từ tầm nhìn rộng mở đó, con thấy rõ là tuyệt đại đa số các hành tinh đều đang gia tốc rất nhanh chóng. Cư dân ở đó đã đi vào một vòng xoắn ốc tích cực, một xoắn ốc tích cực đang tự củng cố. Khi họ tương tác với chân sư thăng thiên, khi họ nâng cao tâm thức của họ, các chân sư có khả năng trao cho họ nhiều ánh sáng hơn, thế rồi họ lại gia tốc thêm nữa và tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng thượng tích cực. Tương đối chỉ có một số ít hành tinh giống như địa cầu. Vậy thì trong viễn quan rộng lớn đó, các thày sẽ nhìn địa cầu ra sao? Hiển nhiên, các thày thấy địa cầu rõ ràng không nằm trong số các hành tinh đã bước vào một vòng xoáy tự củng cố và đang gia tốc. Trên địa cầu có một vòng xoáy hướng thượng, nhưng nó chưa bắt đầu tự củng cố do chưa đủ túc số tới hạn (critical mass) là những cư dân hiện đầu thai đã bước vào tiến trình nâng cao tâm thức của mình. Về cơ bản, địa cầu đang phần lớn được kéo lên bởi phần còn lại của vũ trụ, bởi các chân sư thăng thiên và bởi một số ít người đầu thai đang nâng cao tâm thức của mình.

5.4. Địa cầu là một dụng cụ giáo huấn

Loại hành tinh như thế này là một hành tinh mà các thày phần lớn xem là một dụng cụ giáo huấn cho những sinh thể không thể học hỏi trực tiếp từ bên trong nội tâm. Do đó họ cần một hành tinh nơi họ có thể nhìn thấy trạng thái tâm thức của họ trải bày ra trong vật lý. Đồng ý, hầu hết mọi người không nhận thức được điều này và thậm chí cũng không sẵn sàng đón nhận ý tưởng này. Nếu con nói cho họ biết, họ sẽ chỉ lắc đầu và nghĩ con điên rồi. Dù sao thì thực tế là địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người ra bên ngoài.

Khi con biết điều này, con cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “Nếu địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người lên chính nó, thì liệu có bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu là thực một cách tối hậu, bất kỳ điều kiện nào là bền lâu, có tuổi thọ và có giá trị trường cửu liên tục hay không?” Thực tế là trên địa cầu thật sự không có gì cần được bảo tồn, không có gì mà các chân sư thăng thiên muốn thấy được bảo tồn trong dài hạn.

Tất cả mọi thứ ở đây là một thị hiện tạm thời mà các thày thấy rõ là cần được thăng vượt trước khi trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn địa cầu và nói: “Không hiểu nếu địa cầu chuyển đổi và trở thành một hành tinh tự nhiên, liệu sẽ có bất kỳ điều kiện hiện hữu nào sẽ tồn tại hay không?” Câu trả lời sẽ gây sốc cho rất nhiều người: “Không hẳn”. Hầu như không có bất cứ gì ở đây sẽ tồn tại trong hình dạng hiện hữu khi địa cầu trở về trạng thái hành tinh tự nhiên. Con yêu dấu, điều chủ yếu sẽ thay đổi khi địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên là độ dày đặc của vật chất sẽ giảm xuống và độ rung động của vật chất sẽ tăng lên. Có nghĩa là hầu hết mọi điều kiện vật lý, kể cả những gì các nhà khoa học gọi là định luật tự nhiên đang vận hành ngay bây giờ, sẽ được vượt thăng. Địa cầu sẽ gia tốc vượt ra khỏi các điều kiện đó.

Với ý tưởng này trong tâm, con có thể đạt viễn quan là đối với các chân sư thăng thiên, thật không có gì quan trọng một cách tối hậu nếu một điều kiện nào đó, một điều kiện vật lý nào đó có thay đổi hay không. Có nghĩa là khi đó, con sẽ có thể xoay chuyển – như Mẹ Mary đã nói tới – và bảo rằng: “À, vậy thì tôi cần phải làm gì đây qua Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Nếu tôi đã lập ra Sứ vụ ở một mức nhận thức cao hơn bây giờ, thì vào lúc đó tôi đã ghi vào Sứ vụ những việc gì tôi có ý định thực hiện trong cõi vật lý? Tôi đang ở đây để đóng góp đem lại những thay đổi nào?”

Tất nhiên đây là một câu hỏi mang tính chất rất cá nhân. Mặc dù thày có nói là các điều kiện vật lý không quan trọng một cách tối hậu (chúng là một phần của toàn bộ phương trình của địa cầu), con sẽ không thể chuyển sang Thời đại Hoàng kim hay chuyển cả địa cầu vào một trạng thái tự nhiên mà không đem lại nhiều thay đổi vật lý. Những thay đổi đó bao gồm những ý tưởng mới, những khám phá mới, những công nghệ mới, những hình thức chính quyền mới, những hình thức giáo dục mới, những hình thức văn hóa nghệ thuật mới, vân vân và vân vân. Quả thật sẽ có rất nhiều thay đổi vật lý cần xảy ra, nhưng viễn quan vô cùng quan trọng mà thày thấy cần cho con là sự kiện những thay đổi đó không là tối hậu, không là chung cuộc. Chúng chỉ là những bước đi trên một con đường, là những giai đoạn trong tiến trình chuyển tiếp.    

5.5. Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý

Điều này chủ yếu nhằm giúp con tránh rơi vào cái phản ứng khi con cho rằng một số thay đổi vật lý và một số điều kiện nhất định có tầm quan trọng tối hậu. Sự xoay chuyển mà các thày đang cố giúp con thực hiện là con thực sự thể nhập, thực sự nắm bắt, thực sự trải nghiệm sự thật mà các thày đã bày tỏ bằng nhiều cách trong suốt mấy năm qua, đó là tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Nói cách khác, có một niềm tin được người ta ưa chuộng đang bay phất phơ trong tâm thức tập thể – một phần do đạo Cơ đốc – cho rằng có một loại phép lạ nào đó từ trên sẽ có thể thay đổi địa cầu. Niềm tin này cũng một phần đến từ khoa học duy vật cho rằng chỉ một thay đổi vật lý dựa trên các định luật tự nhiên mới có thể đem lại những điều kiện mới.

Điều các thày cố giúp con thể nhập và trải nghiệm là thực tại rằng tất cả mọi thứ đều là sự trải bày ra bên ngoài của trạng thái tâm thức của nhân loại trên địa cầu. Trước khi có thể có thay đổi đích thực, thật ra trước khi có bất kỳ thay đổi nào, phải có trước tiên sự thay đổi trong tâm thức. Con có thể nhìn ngược dòng lịch sử của công nghệ chẳng hạn và con có thể nói: “Nhưng rõ ràng là có một tiến trình vật lý đã tuần tự dẫn từ khám phá này đến khám phá sau rồi khám phá sau nữa. Một nhà khoa học xây dựng trên nền tảng những gì các nhà khoa học trước đó đã tìm ra, và bỗng nhiên chúng ta có các phương trình của Einstein và thuyết tương đối, và chính cái này đã dẫn đến sự phát triển bom nguyên tử.”

Con yêu dấu, điều các nhà duy vật không nhìn thấy – vì họ không muốn nhìn vào – là trước khi tiến trình vật lý có thể xảy ra thì đã có một sự thay đổi trong tâm thức tập thể. Nếu con xem xét tất cả mọi biến cố lịch sử đã diễn ra, con sẽ thấy được – nếu con có khả năng nhìn thấy ba thể cao của tâm thức tập thể – một sự xoay chuyển, một biến đổi nào đó đã có mặt. Cho dù đó là một thay đổi gọi là tích cực hay một thay đổi tiêu cực, thì con cũng thấy được là nó đã xảy đến. Không có gì xảy ra trong cõi vật lý đã từng được quyết định hay được khởi phát duy ở tầng vật lý mà thôi. Luôn luôn có một thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc trước khi một thay đổi vật lý có thể xảy đến. Suốt lịch sử đã diễn ra như vậy và trong tương lai cũng sẽ như vậy.

5.6. Con đã xoay chuyển tâm thức hay chưa?

Thế thì con có thể dùng điểm trên để nhìn vào chính mình cùng cách con tiếp cận đối với đường tu tâm linh, đối với khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, và con có thể nói: “À, điều quan trọng thật sự không phải là những thay đổi vật lý mà tôi đã đến đây để đem lại. Điều quan trọng không thật sự là nhìn xem những gì tôi cần làm trong cõi vật lý.” Như thày đã nói, nhiều đệ tử trở nên nóng lòng muốn thay đổi thế giới hay thay đổi người khác đến độ họ quên không nhìn vào bản thân. Nhiều học trò khác thì không đến nỗi tập trung vào việc thay đổi người khác hay thế giới, nhưng họ lại tập trung vào câu hỏi: “Tôi cần phải làm gì trong cõi vật lý?” Như Mẹ Mary một lần nữa đã gợi ý, họ nghĩ nếu phải chi có một vị đạo sư đến bảo họ: “Con phải đem lại khám phá mới này trong lãnh vực này,” thì đó là lời duy nhất mà họ cần biết. Họ sẽ cố tìm hiểu lãnh vực đó một cách phân tích đường thẳng rồi họ sẽ đem lại khám phá mới đó. Nhưng như Mẹ Mary đã nói, con không thể thật sự làm được chuyện đó nếu con chưa xoay chuyển tâm thức của con cho tới điểm con nhận được nó từ bên trong. Và để làm điều này, có thể con sẽ phải khắc phục một số chấn thương, một số tin tưởng sai lầm, một cách phản ứng mất cân bằng nào đó, rồi khi đó con mới có thể nhận được nó từ bên trong. Con không thể nào nhận được nó từ bên ngoài.

Một lần nữa, con có thể nhìn vào chính mình, con có thể nhìn vào phản ứng của con đối với toàn bộ ý tưởng Sứ vụ Thiêng liêng, và một khi con trung thực với chính con, con có thể nhìn vào bất kỳ sự mất cân bằng nào: “Liệu tôi có nhiệt tình thái quá hay không? Liệu tôi có tập trung bên ngoài bản thân mình, tôi có tập trung vào nhu cầu xét xử các sa nhân và loại trừ chúng ra khỏi hành tinh, vào nhu cầu sáng chế và khởi xướng công nghệ mới, nhu cầu cải tổ lãnh vực chính trị, nhu cầu thay đổi người khác để khiến họ nhìn ra cách hành xử sai trái của họ, khiến họ nhìn ra giáo lý của chân sư thăng thiên cùng chân lý duy nhất hay không?” Một lần nữa, thày không hề trách cứ con khi con có những phản ứng đó. Có thể nói đó là cách phản ứng tự nhiên trên hành tinh phi tự nhiên này. Dù sao thì phản ứng như vậy sẽ không giúp con khám phá những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, mà kỳ thực nó sẽ ngăn chặn con khám phá.

5.7. Khắc phục cảm nhận bất công

Nếu con nhận diện con đang có một sự mất cân bằng, con có thể lấy giáo lý về chấn thương nhập đời, về ngã gốc, và con xét xem sự mất cân bằng đó có thật sự khởi lên từ mong muốn trả đũa, từ mong muốn đền bù phần nào sự bất công sai trái mà con cảm thấy người ta đã gây cho con khi con hứng chịu chấn thương nguyên thủy. Thày không phủ nhận là con đã nhận chịu một điều sai trái và đó là một sự bất công. Thày chỉ đang nói là con phải tra vấn (như mọi người đều làm khi cảm thấy mình bị người khác đối xử bất công) và câu hỏi thật giản dị: “Liệu tôi có muốn trừng phạt những kẻ đã hại tôi, hay tôi muốn được giải thoát khỏi những kẻ đã hại tôi và bước đi tiếp trên đường tu tâm linh?”

Nếu con muốn bước đi tiếp thì hiển nhiên con cần nhìn vào đó và nhận ra: “Đây chỉ đơn giản là chấn thương nhập đời của tôi đang tạo ra một phản ứng. Nó đã tạo ra một cái ngã tách biệt là một thành phần của ngã gốc của tôi, và tôi không muốn vác nó theo cho đến mãn kiếp, vì tôi biết rõ tôi không thể đem nó theo tôi vào cõi thăng thiên. Tôi sẵn lòng nhìn nó và tách mình ra khỏi nó, tôi sử dụng những dụng cụ mà chân sư đã cho tôi cho đến khi tôi đạt tới điểm tôi có khả năng buông ngã ra một cách tự nhiên và để cho ngã chết.”

Con yêu dấu, với một cái ngã khởi lên từ một cảm nhận bất công, một cảm nhận có gì sai trái, một mong muốn đền bù, thì ngã đó không bao giờ thỏa mãn được. Con có thể nói: “Nhưng một số sa nhân đã khiến tôi phải chịu chấn thương nhập đời đó, và nếu chúng bị phán xử và đưa vào cái chết thứ nhì, thì cái ngã khởi lên từ chấn thương sẽ được thỏa nguyện và nó sẽ phải giải thể chứ.”

Như các thày đã nói với con nhiều lần, cho dù điều kiện gì xảy ra đi nữa, ngã sẽ không đơn giản chịu nằm xuống mà chờ chết. Nó sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Nó sẽ nhìn quanh hành tinh này tìm xem có nỗi bất công nào khác hay không, rồi nó sẽ phóng chiếu ra là cái đó cũng phải được đền bù hay được giải quyết, hay một người nào đó phải bị trừng phạt – vì đó là công việc mà nó vốn làm. Nó máy móc y như một chiếc máy tính vậy, và nó sẽ dằng dai, máy móc thi hành những gì nó đã bị lập trình để thi hành, tức là tìm kiếm một điều kiện vỏ ngoài nào đó để lấy cớ làm công việc của nó.

Con sẽ không giải thoát khỏi nó bất kể những điều kiện vỏ ngoài mà con có thể đem lại. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó khi con nhìn nhận là vấn đề mà ngã đó đã phóng chiếu ra sẽ không bao giờ có thể được giải quyết. Con không cần giải quyết nó. Đơn giản con chỉ cần nhìn ra nó là không thực, xong con cần buông nó ra, con cần từ bỏ nó, con từ bỏ mong muốn giải quyết vấn đề – vì vấn đề không có giải pháp.

Cũng gíống như khi thày cho con tầm nhìn về địa cầu. Con có thể nhìn vào rất nhiều vấn đề, vô số vấn đề gần như vô tận đang hiện diện trên trái đất. Con có thể chú tâm vào: “Tôi phải giải quyết vấn đề này, tôi phải đọc chú để mang lại giải pháp cho vấn đề này, tôi phải làm việc này, tôi phải làm việc kia.” Con có thể tiếp tục làm vậy cho tới hết kiếp này và dồn chú ý của con ra bên ngoài để giải quyết tất cả những vấn đề đó.

Thày không phủ nhận là các vấn đề có một sự tồn tại tạm thời. Thày không phủ nhận là chúng có tác động trên con người trên địa cầu. Nhưng con sẽ không giúp cho hành tình tiến bộ bằng cách giải quyết chúng. Con sẽ giúp cho hành tinh tiến bộ bằng cách cá nhân con thăng vượt tâm thức đã phóng chiếu ra các vấn đề đó, và như vậy con kéo tâm thức tập thể đi lên, hầu mọi người lần lần nhìn ra là mình không cần tiếp tục đánh nhau với người Do Thái hay người Ả Rập hay người Palestine hay người Serbia hay người Croatia hay người Pháp hay người Anh hay người Đức hay điều này điều nọ. Chúng ta có thể giản dị bước xa khỏi những thứ đó, vì chúng ta sẽ cảm thấy vui hơn, cảm thấy hạnh phúc hơn khi chúng ta bước xa khỏi vấn đề mặc dù nó chưa được giải quyết.

5.8. Không có vấn đề nào phải giải quyết

Con thấy đó, con yêu dấu, châu Âu đã từng có một thời khi các quốc gia rơi vào tình trạng binh lửa triền miên. Rất thường khi người ta phóng chiếu ra một nỗi bất công nào đó vì có nước kia đã làm gì sai trái. Con thấy là sau Thế chiến thứ Nhất, Hiệp ước Versailles do người Pháp và người Anh chủ xướng quy cho nước Đức hành xử sai trái cho nên cần bị trừng phạt. Điều này tạo ra tiền đề cho Thế chiến thứ Hai, và cứ như vậy.

Giờ đây sau Thế chiến thứ Hai, có một nhận thức mới đã lan rộng khắp Âu châu, dẫn đến sự kiện là không một cuộc chiến lớn rộng nào đã xảy ra kể từ đó, ít nhất trong phần lớn Âu châu. Con yêu dấu, khi con nhìn vào Thế chiến thứ Hai với nước Đức bị bại trận rồi châu Âu bị chia đôi thành Đông và Tây, liệu Thế chiến thứ Hai đã giải quyết được vấn đề gì hay chăng? Không, chẳng giải quyết được vấn đề nào cả.

Nhưng tại sao đã không có chiến tranh kể từ đó? Bởi vì một túc số tới hạn trong dân chúng đã nhìn ra tính chất phi lý của tâm thức hiếu chiến đã kết đọng hai cuộc thế chiến, và mỗi người ở mức cá nhân của mình đã thăng vượt nó – rồi rốt cuộc cả tập thể cũng đạt được khối lượng tới hạn. Người dân châu Âu đã không chọn con đường dễ dàng nhất, vì tình hình đã bị đẩy tới mức cùng cực với sự diệt chủng người đạo Do Thái cùng những vụ giết người hàng loạt xảy ra trong chiến tranh – nhưng họ đã thành công. Sự xoay chuyển tâm thức chính là lý do tại sao đã không có chiến tranh, chứ không phải việc giải quyết vấn đề đặc thù đã gây ra hai cuộc thế chiến – bởi vì, một cách tối hậu, vấn đề đó không có giải pháp nào hết.

Con hãy nhìn vào các biến cố và tự hỏi: “Làm thế nào vấn đề đó có thể được giải quyết đây?” Nó không thể – vì giải pháp không hề có. Đó chính là vì sao mà cuối cùng thế chiến đã bùng nổ, vì vấn đề đã được sa nhân cố tình tạo ra để không có giải pháp và nó bắt buộc dẫn đến chiến tranh. Vấn đề chỉ được giải quyết khi có đủ túc số những người dân, cho dù có ý thức hay không, nhận ra rằng: “Không có gì ở đây có thể được giải quyết. Chúng ta chỉ có thể nhìn về phía trước mặt và quyết định thăng vượt tâm thức đó và không lại bước vào các khuôn nếp đã dẫn đến chiến tranh.”

5.9. Không có vấn đề nào phải giải quyết trong gia đình

Ở mức cá nhân cũng vậy, và trong gia đình cũng vậy. Trong mọi lãnh vực, sự thể cũng y như vậy. Hồi nãy các con có đề cập đến gia đình các con và chuyện thường xảy ra là có một khuôn nếp nghiệp quả, một khuôn nếp tâm lý đã hiện hữu từ mấy kiếp trước do các thành viên trong gia đình đã tái đầu thai với nhau hết kiếp này tới kiếp khác. Trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, có lẽ con có tiềm năng đạt tới điểm là con có thể giúp cho thân nhân mình nhìn ra rằng vấn đề này không có giải pháp, rằng việc thay đổi người khác trong gia đình không thể giải quyết được chuyện gì. Đây chỉ đơn giản là chuyện nhìn thấy những gì đang diễn ra trong gia đình, động cơ đang vận hành trong gia đình, là sự biểu lộ của một trạng thái tâm thức. Cách duy nhất để thay đổi sự thể, cách duy nhất cho con được tự do, giản dị là con rời bỏ tâm thức đó, thăng vượt tâm thức đó bằng cách giải quyết nó bên trong chính con.

Đối với nhiều người trong số các con, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con liên quan đến gia đình. Đó là con giúp cho người thân thấy được là không có vấn đề gì phải giải quyết. Chỉ có chuyện thăng vượt tâm thức, tìm ra một cách khác để nhìn nhau, để tương tác với nhau và cho phép mỗi người là con người mà mình là. Điều này đòi hỏi con tự thay đổi chính con cho tới mức con chấp nhận bản thân và cho phép mình là con người mà mình là. Chỉ khi nào con cho phép con là người con là, thì con mới có thể cho phép người khác là con người mà họ là, mà không cảm thấy mình bị đe dọa và cũng không muốn thay đổi người khác hầu con tránh né phải đương đầu với chính tâm lý của con. Con đạt tới điểm con cảm thấy thoải mái, vì người kia không còn “nhấn nút” để con cảm thấy mình không phải tự thay đổi chính mình.

Một số các con sẽ có khả năng giải thích những khái niệm này cho người thân một cách chung chung mà không đề cập đến chân sư thăng thiên, và con giúp họ nhìn ra rằng tất cả chỉ là chuyện lấy một quyết định: “Chúng ta sẽ thôi không đối xử với nhau cách đó nữa, chúng ta sẽ thôi không đổ lỗi cho nhau nữa, chúng ta sẽ thôi không tìm cách thay đổi nhau nữa, chúng ta sẽ chỉ đơn giản cho phép mỗi người là con người mà mình là, vui hưởng thời gian bên nhau khi chúng ta đang sống với nhau – hoặc nếu không, khi mỗi người bước theo đường riêng của mình.”

5.10. Không còn gì để bù đắp

Con yêu dấu, lòng nhiệt tình mất cân bằng đó đến từ đâu? Nó đến từ niềm tin cho rằng có một vấn đề nào đó tuyệt đối phải được giải quyết. Việc giải quyết vấn đề đó là chuyện nhất thiết, là quan trọng tối hậu. Đâu là cái tâm lý sâu xa nằm đằng sau? Đó là sự kiện con, như một con người, cảm thấy mình bị bế tắc do có gì đó bên trong mà con không biết làm thế nào thay đổi. Hoặc con sẽ cố không chú ý đến nó, hoặc con tìm cách phóng chiếu ra ngoài (ngã tiềm thức phóng chiếu ra ngoài) là nếu vấn đề vỏ ngoài kia được giải quyết, nếu những người kia thay đổi, thì vấn đề bên trong sẽ không còn nữa. Tại sao con đã không giải quyết được vấn đề đó chứ? À, là vì con chưa nhận được lời dạy về nguyên nhân của vấn đề, một nguyên nhân mà đối với đa số các con đi trở ngược về ngã gốc. Con thường hay cảm thấy mình bị bế tắc vì con trải nghiệm có sự mất cân bằng trong con nhưng con không biết làm thế nào giải quyết. Cho nên con cố giải quyết bằng cách thay đổi tất cả những thứ kia bên ngoài con, vì con không biết cách thay đổi bên trong con. Làm sao con biết cách thay đổi ngã gốc nếu con không biết mình có ngã gốc và ngã gốc đến từ đâu?

Đó là tại sao thày nói với con – vì con là một thành viên của đợt truyền pháp này, con cởi mở với những lời dạy này, và giờ đây con có những dụng cụ này – là con có khả năng, nếu con muốn, vượt qua rất nhanh chóng bất kỳ trạng thái mất cân bằng nào. Con yêu dấu, con có khả năng đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi thế giới hay thay đổi người khác như một cách bù đắp cho một điều kiện bên trong tâm lý con. Con đã nhìn vào điều kiện đó, con đã giải quyết điều kiện đó – rồi điều gì xảy ra chứ? Một khi con đã giải quyết điều kiện đó, giải quyết xu hướng tập trung vào việc thay đổi những thứ vỏ ngoài, thì đột nhiên giờ đây con có thể bắt đầu nối kết với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Giờ đây con có thể bỗng nhiên nhìn thấy những gì con đã hoạch định thay đổi hay đem lại trên địa cầu.

Sự khác biệt là con sẽ không làm điều này từ một mong muốn bù đắp cái gì. Con sẽ làm vì một lý do hoàn toàn tích cực. Con làm như vậy vì đó là sự biểu lộ con người mà con là. Nói cho cùng, điều sẽ đem lại cho con sự an bình và niềm vui được hiện thân trên một hành tinh như thế này chính là việc biểu lộ con người mà con là. Con không dính mắc vào những kết quả vỏ ngoài, vào quả trái của việc làm, vì con tìm thấy niềm vui khi con thể hiện bản thể cao hơn của mình. Đó là tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.11. Giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ Thiêng liêng

Tất nhiên là có một giai đoạn “lao động” khi có thể con phải làm một số công việc, có quan hệ với một số người, thực hiện một số việc vỏ ngoài, kinh qua một số trải nghiệm. Nhiều người trong các con đã cảm thấy qua trực giác là con đã làm những thứ đó rồi. Điều các thày cố giúp con đạt tới là con bước vào giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng: giai đoạn sáng tạo. Đây là điểm con có thể bắt đầu trao tặng món quà của mình và biểu đạt cái Ta của con, cái tiềm năng cao nhất mà con muốn biểu đạt trước khi con đi vào hiện thân, dựa trên trạng thái tâm thức cao hơn mà con có tiềm năng đạt tới.

Đây có thể trở thành một vòng xoáy tích cực nơi con có sự an bình khi làm người đầu thai. Con không còn thái độ khiếm khuyết cho rằng mình luôn luôn bị chậm trễ ở đằng sau và mình luôn luôn phải ở một nơi nào khác. Luôn luôn có một điều gì đó mà đáng lý mình đã phải làm nhưng lại chưa làm, và có nhiều điều hơn mà mình đã có thể làm. Thay vào đó, con an bình làm người mà con là, biết rằng con sẽ tiếp tục tiến cao hơn từng bước một cho hết phần còn lại của kiếp này. Con sẽ ngày càng cảm thấy thoải mái hơn, ngày càng sáng tạo hơn khi thể hiện sự sáng tạo của mình, và ngày càng an bình hơn khi tận hưởng tiến trình dõi nhìn đời mình trải bày ra. Đây là trạng thái mà các thày muốn con đạt được vì đó là khi con có thể thực sự vui hưởng việc mình hiện diện trên hành tinh. Con yêu dấu, liệu có lý do gì mà các thày lại không muốn con tận hưởng sự hiện thân của con?

5.12. Dành thời gian để tận hưởng cuộc sống trên địa cầu

Thày sẽ nói với con là có một số đáng kể các chân sư từng thăng thiên từ địa cầu đã nhìn lại tiến trình đầu thai của mình, từ lúc mình rơi vào những vòng xoáy hướng hạ rồi lần lần, từ từ, leo ra khỏi để đạt tới điểm hội đủ tư cách thăng thiên. Các thày nhìn lại tiến trình đó và thấy ước gì mình đã dành ra nhiều thời gian hơn trong hiện thân để thực sự vui hưởng việc đầu thai trên hành tinh. Nhưng các thày cũng thực tế và biết rằng thời buổi đó có khác, và tâm thức tập thể cũng có dày đặc hơn. Cho nên trong một số trường hợp đã có một đòi hỏi cấp bách là các thày cần thăng thiên ở một thời điểm nhất định bởi nhiều lý do khác nhau. Đơn giản là khi đó đã không phải là lúc vui hưởng.

Con có thể thấy như trong trường hợp Giê-su, thày đã thăng thiên trong vật lý ngay sau khi hoàn tất sứ vụ công ích của mình. Thế rồi thày nhận được sự đặc miễn để có thể vật chất hóa một xác thân mới và sinh sống trong xác thân này cho đến tuổi 81 khi thày thực hiện cuộc thăng thiên tâm linh chung cuộc. Trong những năm tháng sống tại vùng Kashmir, thày đã vui hưởng sự đầu thai của mình mặc dù độ dày đặc của hành tinh vào thời đó. Con cũng thấy chính thày đây trong kiếp đầu thai chót, cùng với thày Kuthumi, hai thày cũng đã có thêm thời gian. Hai thày đã có một mức chứng đạt và không dính mắc nào đó cho nên đã có thể vui hưởng sự đầu thai của mình khi đó. Sự kiện này đã không được nhấn mạnh trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, nhưng nó đã thật xảy ra – các thày đã có được một thời gian như vậy. Với một thời gian như vậy, kết quả là con có thể thực sự đạt tới điểm hoàn toàn an bình với sự có mặt của mình ở đây, nhưng con cũng an bình với việc thăng thiên. Trong khi đó, nếu con có một lịch trình gấp rút hơn thì thường khi con sẽ không đạt tới điểm an bình khi sống trên địa cầu.

Cho nên con gần như có thể tới mức hội đủ tư cách thăng thiên nhưng con chưa hẳn an bình với việc thăng thiên. Kỳ thực, con phải bỏ thêm thời gian để giải quyết cảm nhận phi-an-bình cuối cùng đó trước khi con thực sự đạt tới điểm có thể hoàn toàn bỏ lại địa cầu ở đằng sau và bước vào trạng thái thăng thiên. Lẽ tự nhiên, các thày mong muốn những ai trong số các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này có thể chứng được mức đó, là mức con an bình và tận hưởng cuộc sống ở đây. Làm như vậy, con sẽ nêu gương là người tâm linh có thể an bình và có thể tận hưởng cuộc sống. Họ không cần rút khỏi cuộc đời để sống trong hang đá, họ không cần sống một cuộc đời khắc khổ với kỷ luật nghiêm ngặt. Thật ra họ có thể vui hưởng cuộc sống và biểu lộ niềm vui đó, và rồi họ cũng có thể an bình khi đi bước kế tiếp. Đối với các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, đây là những trình độ cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đối với một số các con, điều này có thể đòi hỏi con xoay chuyển nhận biết một cách ý thức để mà thực sự thấy được điều này.

Để thấy được điều này, có thể con sẽ phải sẵn lòng xem xét một số thái độ cố hữu của mình về thế nào là một người tâm linh, thế nào là một học trò của chân sư thăng thiên, thế nào là đạt được một mức tâm thức cao hơn, thế nào là tỏ lộ quả vị Ki-tô của mình hay thị hiện quả vị Phật. Con cần bỏ lại một số hình ảnh đã được tạo ra trong quá khứ về cách hành xử mà một người tâm linh phải có.

5.13. Cả gan là con người mà con là

Con cần nhận ra ở đây như Mẹ Mary đã nói, rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con là hoàn toàn cá nhân. Không có cách nào con có thể nhìn vào quá khứ và cách phản ứng của những người tâm linh khác trong quá khứ rồi bảo: “Ồ, đây là cái khuôn mẫu mà tất cả chúng ta phải làm theo trong tương lai.” Thày Giê-su đã kinh qua những gì thày đã kinh qua 2000 năm về trước vào khởi điểm của Thời đại Song ngư. Bây giờ con đang đứng ở khởi điểm của Thời đại Bảo bình. Con sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên bằng cách làm giống hệt như Giê-su vì tâm thức đã chuyển đổi và các yêu cầu cũng khác hơn.

Tất cả những thứ đó được bao gồm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con đã nhìn vào thời điểm mình sẽ đầu thai, nhìn vào tâm thức của mình và con đã vạch ra một đường đi. Nếu con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, con cũng sẽ có tiềm năng nhìn ra lần lần Sứ vụ Thiêng liêng và cách biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào. Thày chỉ giản dị nói là để làm được điều đó, con sẽ phải ngừng đặt ra bất kỳ chuẩn mực nào cho cách hành xử mà con nghĩ con phải có, cũng như những gì con nghĩ con phải làm hay không được làm.

Một lần nữa, đây không phải là chuyện bảo rằng con muốn làm gì cũng được, rằng không có gì sai trái hay không có gì phản tâm linh, mà là nói rằng: “Tôi sẽ không đi theo các tiêu chuẩn trong thế gian, các tiêu chuẩn của sa nhân, các tiêu chuẩn của tâm thức tập thể, hay ngay cả các tiêu chuẩn mà cho tới giờ tôi đã tạo ra trong kiếp đầu thai này. Thay vào đó tôi sẽ xem xét: Điều gì tôi đã ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, là những điều tôi đã chọn từ một mức nhận biết cao hơn. Tôi sẽ kéo những điều đó vào nhận thức có ý thức của mình, và tôi sẽ cả gan là con người như vậy, con người mà tôi đã muốn là trước khi tôi đầu thai – chứ không phải con người mà người khác hay sa nhân muốn tôi là, không phải con người mà các ngã tách biệt của tôi muốn tôi là.”       

Theo một nghĩa nào đó, đây không nhất thiết là một mục đích mà con có thể thị hiện trong một khoảng thời gian ngắn. Đó là một tiến trình lần hồi, như Mẹ Mary có nói là một tiến trình từng bước đạt tới sự nhận biết cao hơn đó. Đối với nhiều người trong các con, nó sẽ không đến với con cho tới phần sau của đời con. Điều quan trọng là con không hốt hoảng mà rơi vào cái khuôn mẫu tự đặt ra cho mình một thời gian biểu. Nói thật, con yêu dấu, khi con bước vào những trạng thái cao hơn của tâm thức để tiến tới tầng 144, khi con tới điểm bắt đầu làm hòa, thì thời gian không còn đường thẳng nữa. Bỗng nhiên, như Phật có nói, thời gian không hiện hữu. Ngay cả nếu con tới mức hoàn toàn an bình trong hiện thân chỉ một tuần trước khi con bỏ lại thân xác và thăng thiên, thì trong tuần lễ đó con vẫn có thể tỏa